"
Lịch Sử Trung Đông 2000 Năm Trở Lại Đây PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Trung Đông 2000 Năm Trở Lại Đây PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Lịch sử Trung Đông 2000 năm trở lại đây Tác giả: Bernard Lewis | Người dịch: Nguyễn Thọ Nhân Nhà xuất bản Tri thức | 10/2008
Tạo ebook: tudonald78 - tve4u
Ngày hoàn thành: 10/06/2020
Chúc các bạn đọc sách vui vẻ!
LỜI GIỚI THIỆU
Những sự kiện nóng bỏng xảy ra trong những năm gần đây ở Trung Đông đã lôi cuốn sự quan tâm của rất nhiều người trên thế giới, kể cả ở Việt Nam chúng ta. Sự quan tâm ấy thể hiện qua việc tích cực tìm hiểu những nhân tố cấu thành của lịch sử và văn minh các dân tộc sinh sống trong vùng Trung Đông và đặc biệt là những thông tin về mối liên kết chặt chẽ giữa các dân tộc ấy: đạo Hồi. Cuốn sách “Đạo Hồi và Thế giới A-rập - Văn minh - Lịch sử”1, xuất bản năm 2004 đã nhận được sự chú ý của độc giả gần xa mặc dù nó chỉ trình bày một cách ngắn gọn lịch sử vùng Trung Đông nói riêng và thế giới Hồi giáo nói chung. Để đi sâu hơn nữa vào lịch sử và nền văn minh của vùng đất ấy nhằm giải thích và phân tích những sự kiện hiện đang xảy ra, không gì bằng tham khảo một tài liệu hàng đầu của thế giới viết về vấn đề này: đó là cuốn sách mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu ở đây. Tác giả của sách là Giáo sư Bernard Lewis, nhà Đông phương học nổi tiếng của thế giới phương Tây, hay như tờ Thời báo New York đã gọi, “vị niên trưởng của ngành nghiên cứu về Trung Đông” ở Mỹ. Sách được xuất bản ở New York năm 1995 và nhanh chóng trở thành một trong những ấn bản bán chạy nhất trong các nước nói tiếng Anh, nhất là sau sự kiện ngày 11 tháng Chín năm 2001 Ở New York. Đây là một công trình nghiên cứu công phu về lịch sử Trung Đông, được trình bày một cách đơn giản, không chỉ dành riêng cho các nhà chuyên môn. Dù cố gắng hết sức, nhà sử học cũng không thể nào che giấu được quan điểm của
mình toát ra từ các phân tích chủ quan về các sự kiện lịch sử và ảnh hưởng của chúng lên các vấn đề hiện tại. Đó cũng là nhận định của nhiều nhà nghiên cứu về Trung Đông ở các nước phương Tây sau khi cuốn sách này ra đời. Quan điểm của Bernard Lewis về Trung Đông có một tầm quan trọng rất lớn vì nó đang là kim chỉ nam cho một số nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ, đặc biệt là trong giới chính trị gia theo xu hướng Tân Bảo thủ đang nắm quyền ở Mỹ. Năm 2002, Paul Wolfowitz, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ trong giai đoạn mà màn cuộc chiến tranh Iraq, sau đó là Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, có nói: “Bernard Lewis đã dạy cho (chúng tôi) phải hiểu như thế nào về lịch sử phức tạp và quan trọng của vùng Trung Đông và dùng nó để dẫn dắt chúng tôi trên con đường xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cho cấc thế hệ mai sau”. Michael Hirsh, biên tập viên kỳ cựu của tạp chí Newsweek đã viết tháng Mười một năm 2004: “các điều bất hạnh của chúng ta (Mỹ) hiện nay ở Iraq có lẽ đã thật sự bắt đầu vào năm 1950khi một nghiên cứu sinh trẻ tuổi của trường Đại học London tên là Bernard Lewis đến Trung Đông” để tìm tài liệu cho luận văn Tiến sĩ của mình về đề tài Lịch sử Hồi giáo. Trong hơn một nửa thế kỷ giảng dạy môn Lịch sử Trung Đông tại các trường Đại học London và Princeton (Mỹ), Bernard Lewis đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu về đạo Hồi và Thế giới A-rập, những tài liệu kinh điển của ngành Trung Đông học ở Anh và Mỹ. Ta có thể kể: The Arabs in History, London 1950; The Political Language of Islam, Chicago 1988; Islam and the West, New York 1993; Islam in History, Chicago 1993; Cultures in Conflict, New York 1994 và nhiều tác phẩm khác. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Bernard Lewis đã viết nhiều tác phẩm mang tính thời sự và
chính trị hơn, trong đó ông không ngần ngại sử dụng uy tín khoa học của mình để thuyết phục độc giả về sự đúng đắn của những luận điểm đề ra. Các tài liệu ấy như From Babel to Dragomans: Interpreting the Middle East (2004), The Crisis of Islam (2003), What went wrong? The Clash between Islam and Modernity in the Middle East (2003) hay bài báo của ông Nguồn gốc cơn thịnh nộ của người Hồi giáo (The Roots of Muslim Rage) trên tờ The Atlantic năm 1990 mà tạp chí The New Yorker đăng lại vào năm 2002 dưới tiêu đề Cuộc nổi dậy của Hồi giáo (The Revolt of Islam), sau khi sự kiện 11/9/2001 xảy ra. Trong bài báo này, Bernard Lewis lần đầu tiên sử dụng cụm từ “sự đụng đầu của các nền văn minh” (The clash of civilizations) để mô tả cuộc xung đột, theo ông vẫn còn tiếp diễn, giữa Hồi giáo và phương Tây. Năm 1995, Samuel P. Huntington đã đưa cụm từ này vào tiêu đề cho bài báo nổi tiếng và gây nhiều tranh luận của mình trên tờ Foreign Affairs, Chính do lời tiên đoán về sự bùng nổ của các căm thù ấp ủ trong lòng người Hồi giáo đối với phương Tây nói chung và Hoa Kỳ nói riêng mà sau sự kiện ngày 11 tháng Chín ở New York, Bernard Lewis được đông đảo quần chúng biết đến. Tiếng tăm nổi lên như cồn của Bernard Lewis làm im hơi trong một thời gian những học giả đã từng chỉ trích các luận điểm của ông, đặc biệt là các nhà nghiên cứu gốc A-rập như cố giáo sư Edward Said của Đại học Columbia hay Shahid Alam của Đại học Northwestern, những người này thường dựa trên nguồn gốc Do Thái của Bernard Lewis để nói rằng ông là người chống Hồi giáo một cách quyết liệt.
Ngay trong cuốn sách về lịch sử Trung Đông này, Bernard Lewis cũng đã cho ta thấy cách nhìn của ông đối với đạo Hồi và thế giới A rập. Theo ông, từ khi quân Hồi giáo của đế quốc Ottoman bị thất bại trong việc bao vây thành Vienna và phải rút về nước năm 1683 rồi ký hiệp định Carlowitz năm 1699 thì trên tất cả các mặt, Hồi giáo bị thụt lùi nghiêm trọng. Trong cuộc xung đột kéo dài hàng nghìn năm
giữa Hồi giáo và phương Tây (mà Bernard Lewis gọi là Thế giới Cơ đốc giáo — Christendom) thì nay là lúc mà phương Tây nắm được thế thượng phong tuyệt đối, có thể loại trừ hiểm họa xuất phát từ sự căm phẫn của người Hồi giáo, nguồn gốc của những hành động liều lĩnh có hại cho phương Tây. Theo Bernard Lewis, giải pháp thuận lợi nhất là phương Tây nên dùng vũ lực tấn công vào thế giới Hồi giáo rồi xây dựng một nền dân chủ ở đây đồng thời mang đến những cải cách thật sự trong nền văn minh Hồi giáo của họ. Cách nhìn này của Bernard Lewis không nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà nghiên cứu Âu châu, nhất là ở các nước Pháp và Đức. Nhiều nhà Trung Đông học như giáo sư Alain Ducellier của trường Đại học Toulouse ở Pháp không đồng quan điểm với Bernard Lewis về việc bản thân đạo Hồi là nguyên nhân của sự trì trệ trong các nước vùng Trung Đông và trong thế giới A-rập và về sự căm phẫn của người Hồi giáo chỉ có nguồn gốc từ các đối kháng trong thời Trung cổ mà không để ý đến những chính sách của các cường quốc thực dân Anh, Pháp và của Hoa Kỳ trong thế kỷ 20. Tuy nhiên, trong cuộc chiến tranh Iraq, Mỹ đã và đang thử nghiệm học thuyết Bernard Lewis mà sự đúng đắn của nó phải chờ thời gian phán xét.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Bernard Lewis đã nhìn Hồi giáo dưới một góc khá hẹp, các công trình của ông tập trung vào đạo Hồi của thời Trung cổ và thế giới Hồi giáo qua đế quốc Ottoman của người Thổ. Năm 1950, anh sinh viên Bernard Lewis gốc Do Thái đã không được phép vào các nước A-rập Hồi giáo mà chỉ đến được Istanbul để khai thác các tài liệu lưu trữ của đế quốc Ottoman. Tại đây, Bernard Lewis đã hết sức khâm phục Kemal Ataturk, người sáng lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đã áp đặt những cải cách và những cấm đoán tích cực đối với đạo Hồi, tách Hồi giáo ra khỏi đời sống chính trị của đất nước. Theo Bernard Lewis thì những gì Kemal Ataturk đã làm được ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ cũng có thể thực hiện ở Iraq để tiến tới mục tiêu là loại bỏ sự chống đối của người-Hồi giáo đối với phương Tây. Mặc dù những nhân vật được Bernard Lewis đề cử để nắm quyền lãnh đạo ở Iraq như Ahmad Chalabi, một người đã sống lưu vong nhiều năm trên đất Mỹ, hay hoàng thân Hassan mà ông tích cực giới thiệu trong một bài báo viết chung với cựu giám đốc Cục Tình báo Trung ương là R. James Woolsey, đều không đáp ứng được yêu cầu để trở thành những Kemal Ataturk của thời đại mới, nhưng tân hiến pháp của Iraq thảo ra giữa năm 2005 đang là những bước đầu tiến đến việc thế tục hoá nền chính trị của đất nước này. Cũng nên biết rằng, sự ngưỡng mộ của Bernard Lewis đối với nước Thổ Nhĩ Kỳ của Kemal Ataturk đã làm cho ông, trong một bài phỏng vấn của báo Le Monde (Pháp), phủ nhận cuộc thảm sát có tính diệt chủng đối với dân Armenia sinh sống trên đất Thổ năm 1915, vì lý do này, ông bị kiện trước toà án và phải trả một franc đền bù danh dự.
Trong cuốn Lịch sử Trung Đông này, tác giả Bernard Lewis không đi theo thứ tự thời gian mà giới thiệu nền văn minh và lịch sử theo từng đề tài, thí dụ như có một chương nói về nhà nước, một chương nói về kinh tế v.v… hay những chương nói về những thay đổi, những thách thức, những cuộc chiến mà vùng Trung Đông đã chứng kiến. Do đó, thật không vô ích nếu người đọc đã có được một bản tổng hợp có hệ thống về lịch sử và văn minh Hồi giáo. Các dẫn chứng hay các giai thoại mà tác giả rút ra từ các tài liệu cổ thật vô cùng sinh động. Tác giả cũng mô tả một cách tỉ mỉ sự thâm nhập của nền văn minh Tây phương vào xã hội Hồi giáo trong tất cả mọi lĩnh vực, từ cách ăn mặc cho đến cách suy nghĩ hay các phương tiện thông tin đại chúng. Khác với các dân tộc vùng Đông Á đã tiếp thu cấc thành quả khoa học kỹ thuật của phương Tây để tiến lên hiện đại hóa, các dân tộc theo Hồi giáo, do lòng nghi kỵ đối với tất cả những gì đến từ thế giới Cơ đốc, đã loại bỏ phần lớn các tiến bộ kỹ thuật và các tư tưởng được du nhập, do đó khó lòng cải cách xã hội của họ. Càng bị thụt lùi, họ càng căm giận thế giới phương Tây, cho đó là nguyên nhân của mọi thất bại của mình. Lịch sử cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành các tư tưởng. Người Hồi giáo, trong giai đoạn hiện tại, rất quan tâm đến lịch sử vì muốn tìm nguồn cảm hứng để trở lại thời đại huy hoàng của họ ở thời Trung cổ, trong khi ấy thì người phương Tây lại không quan tâm nhiều đến quá khứ; trong tiếng Anh, thành ngữ “that’s history” (đấy là chuyện cũ) lại tương đương với một việc gì cần phải quên đi. Do đó, theo Bernard Lewis, tìm hiểu lịch sử vùng Trung Đông chính là tìm cách giải mã những sư kiện xảy ra ở đó hiện nay. Tuỳ theo quan
điểm của người đọc mà ta có thể đi đến những giải thích khác nhau. Cũng không nên quên rằng tài liêu này ra đời năm 1995, khi sự can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ vào Trung Đông, nhất là ở Iraq, chưa sâu rộng như ngày nay.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9-2005
TS NGUYỄN THỌ NHÂN
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay có rất nhiều sách (một tập) viết về lịch sử vùng Trung Đồng. Phần lớn các sách ấy hoặc dừng lại ở thời điểm xuất hiện đạo Cơ Đốc hoặc bắt đầu ở thời điểm đạo Hồi ra đời. Khi lấy xuất phát điểm của cuốn lịch sử này vào giai đoạn mở màn của kỷ nguyên Cơ Đốc, tôi nhằm vào hai mục tiêu. Một là để đưa hai đế quốc hùng mạnh của Ba Tư và By-dăng thoát khỏi vị trí khiêm tốn mà người ta thường đặt chúng vào, cùng với vùng A- rập Tiền Hồi giáo, vì chỉ cốt làm tấm màn phông cho việc kể lại sự nghiệp của Đấng Tiên tri Mu-ha-mát hay việc ra đời của Quốc gia Hồi giáo. Hai đế quốc đối nghịch nhau ấy đã cùng nhau thống trị hay chia cắt vùng Trung Đông trong nhiều thế kỷ, xứng đáng được nói đến nhiều hơn là vài lời giới thiệu hời hợt.
Mục tiêu thứ hai của tôi là xây dựng được một mối liên hệ nào đó giữa vùng Trung Đông như ta biết đến hiện nay và những nền văn minh cổ xưa đã có mặt ở đấy mà nay ta biết được qua các văn bản hay các đền đài miếu mạo còn để lại. Trong những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Cơ Đốc, nghĩa là trong khoảng thời gian giữa Jesus và Mu-ha-mát, vùng đất nằm phía Tây đế quốc Ba Tư đã liên tục trải qua nhiều quá trình Hy Lạp hoá, Latin hoá và Cơ Đốc hoá cho nên các ký ức (chứ không phải là toàn bộ các dấu vết) của các nền văn minh cổ xưa ấy đã bị xoá nhoà. Chỉ trong giai đoạn gần đây, các ký ức ấy mới được khôi phục lại nhờ công sức của các nhà khảo cổ và các nhà Đông phương học. Dù sao thì người ta cũng nên quan tâm
đến mối liên hệ trực tiếp và liên tục giữa vùng Trung Đông xưa kia và ngày nay qua các thời kỳ Cận Cổ đại và Trung cổ. Các lịch sử đầu tiên viết trong thời nay về vùng Trung Đông bắt buộc phải tập trung vào các sự kiện chính trị và quân sự nếu không thì thật khó lòng, hay có thể nói là sẽ bất lực khi muốn tìm hiểu những biến động sâu xa của lịch sử. Nhờ có các công trình của những người đi trước, tôi đươc tư do hơn họ để giảm đến mức tối đa trong việc đề cập đến các vấn đề chính trị mà chú ý nhiều hơn về những đổi thay trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế và nhất là văn hoá. Trên tinh thần ấy, tôi đã thường xuyên dẫn chứng trực tiếp từ các nguồn tư liệu đương thời như các sách sử biên niên, các chuyện kể về những chuyến đi, các tư liệu và bản ghi trên bia đá, đôi khi tôi còn dẫn chứng cả thơ ca và giai thoại. Khi có được những bản dịch sang tiếng Anh, tôi không ngần ngại sử dụng và trích dẫn chúng. Khi không có, tôi phải tự dịch lấy. Các hình ảnh cũng phục vụ cho cùng mục đích. Qua hình ảnh, người ta có thể hy vọng là đi sâu vào vấn đề mà chuyện kể hay ngay cả phân tích cũng khó lòng đạt đến. Cố gắng trình bày hai nghìn năm lịch sử của một vùng đất giàu có, muôn màu muôn vẻ và sống động như thế trong khuôn khổ một cuốn sách thì bắt buộc phải bỏ qua nhiều khía cạnh quan trọng. Những ai quan tâm đến vùng đất này phải có một sự lựa chọn, về phần mình, tôi đã lựa và lẽ tất nhiên là sự lựa chọn ấy có tính cá nhân của tôi. Tôi đã cố gắng dành ưu tiên cho những nhân vật, sự kiện, xu hướng và thành tựu mang tính đặc thù và có nhiều thông tin nhất. Độc giả sẽ đánh giá là tôi đã thành công đến chừng mực nào.
Cuối cùng, tôi phải gửi lời cám ơn đến bốn nhà nghiên cứu trẻ của trường Đại học Princeton là David Mariner, Michael Doran, Kate Elliott và Jane Baun. Họ đã bằng cách này hay cách khác giúp tôi biên soạn và in ấn cuốn sách này. Đặc biệt là tôi mang ơn Jane Baun rất nhiều vì qua kiến thức sâu rộng và các lời nhận xét xác đáng của mình, cô đã luôn luôn có những đóng góp quý giá. Tôi cũng phải ngỏ lời cám ơn Annamarie Cerminaro, phụ tá của tôi, đã rất cẩn thận và kiên nhẫn xử lý các bản thảo của cuốn sách, từ bản đầu tiên cho đến bản cuối, về việc in ấn, trang trí và xuất bản sách, tôi đã dựa nhiều trên tài nghệ và lòng kiên nhẫn của Benjamin Buchan, Tom Graves và người phụ trách phần danh mục là Douglas Matthews. Nhờ họ mà quá trình xuất bản được đẩy nhanh và chất lượng sách được nâng cao.
Với mọi người, tôi xin cám ơn về những gợi ý mà tôi đã tiếp thu và cũng xin thứ lỗi về những đề xuất mà tôi không chịu chấp nhận. Đương nhiên là nhưng sai sót gì còn lại hoàn toàn do lỗi ở tôi. BERNARD LEWIS
Princeton, tháng Tư, 1995
Phiên âm.
Các tên A-rập và Ba Tư được phiên âm theo hệ thống phiên âm sử dụng cho tiếng Anh. Các tên Thổ Nhĩ Kỳ thì dùng ngay chính tả thông dụng của Thổ có biên cải chút ít. Còn những tên hay được nhắc đến thì viết như trên báo chí thường dùng.
Phần 1
DẪN NHẬP
Trong các thành phố Trung Đông người ta thường thấy các quán cà-phê, hay đôi khi là các quán trà, mà bất kỳ giờ nào trong ngày cũng có nhiều người đàn ông — ít khi có phụ nữ - ngồi uống một ly cà-phê hay một tách trà, có thể hút một điếu thuốc lá, đọc báo hay chơi cờ, tai thì lơ đễnh nghe các tin tức phát ra từ một máy thu thanh hay một máy thu hình đặt ở góc phòng.
Nhìn bề ngoài thì người khách của quán cà-phê Trung Đông này cũng chẳng khác gì nhân vật tương tự trong một quán cà-phê Âu châu, đặc biệt là ở vùng gần Địa Trung Hải. Nhưng người này thật sự khác hẳn người khách cũng ngồi ở đó năm mươi năm về trước và lại càng khác người ngồi cách đây một trăm năm. Lẽ tất nhiên là đối với người uống cà-phê ở châu Âu cũng vậy nhưng hai trường hợp này thật chẳng giống gì nhau. Những đổi thay nơi vẻ bề ngoài, dáng điệu, y phục hay cách đối xử của người châu Âu trong khoảng thời gian ấy hầu như hoàn toàn xuất phát từ châu Âu. Trừ một ít ngoại lệ, đấy là những đổi thay phát sinh từ bên trong xã hội của họ hay như gần đây thì ít ra cũng từ xã hội Mỹ, một xã hội vốn rất gần với họ.
Trái lại, ở vùng Trung Đông thì phần lớn các đổi thay lại từ bên ngoài đưa đến, từ những xã hội và những nền văn hoá rất xa lạ đối với các truyền thống cố hữu của dân bản xứ. Người đàn ông nọ
trong quán cà-phê ngồi trên chiếc ghế, tì tay vào bàn và đang lẩm nhẩm đọc báo thật đã mang nặng trong mình những đổi thay đã tác động đến đời sống của anh ta và của cả cha mẹ anh - từ dáng vẻ bề ngoài, cách xử sự, cách ăn mặc, ngay cả bản thân mình, anh ta là biểu tượng của những biến cải rộng lớn từ phương Tây đến đang làm rung chuyển vùng Trung Đông thời nay.
Điểm nổi bật trước tiên là những thay đổi trong y phục. Có thể là anh vẫn còn mang chiếc áo cổ truyền nhưng trong các đô thị thì nó càng ngày càng hiếm thấy. Có nhiều khả năng là anh ta mặc Âu phục, gồm áo sơ mi va quần tây hay theo kiểu hiện nay là áo phông và quần bò. Lẽ tất nhiên là y phục có một tầm quan trọng vô cùng lớn, không chỉ đơn thuần che mưa che nắng và để duy trì lễ nghi phép tắc, mà đặc biệt trong vùng này nó còn là một hình thức để nói lên cá tính của con người, để khẳng định nguồn gốc của mình và cũng là một dấu hiệu nhận dạng cho những ai cùng chủng tộc với mình. Trước đây, vào thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, nhà tiên tri Zephaniah (Sophonie) cũng đã nói: “Trong ngày hy sinh của Thượng đế, Người sẽ trừng phạt những ai mang trên mình trang phục ngoại lai” (1:8). Các kinh sách Do Thái và Hồi giáo sau đó cũng khuyên các tín đồ không nên ăn mặc như những kẻ ngoại đạo mà phải duy trì trang phục đặc trưng của họ. Một câu khuyên nhủ thường được nhắc đến là “Đừng ăn mặc như bọn ngoại đạo nếu không muốn trở thành như chúng”. Theo một lời truyền tụng được xem là xuất phát từ Đấng Tiên tri thì “Khăn quấn đầu biểu thị khoảng cách giữa tính ngoại đạo và Đức tin”. Còn theo một lời truyền tụng khác thì “Ai tìm cách bắt chước kẻ khác thì sẽ trở thành như kẻ ấy.” Cho đến gần
đây và ngay cả hiện nay ở một số vùng, mỗi sắc tộc, mỗi cộng đồng tôn giáo, mỗi bộ lạc, mỗi địa phương và đôi khi mỗi nghề nghiệp đều có cách ăn mặc riêng của mình.
Có lẽ người đàn ông ngồi ở quán cà-phê kia vẫn đội trên đầu một loại mũ vải hay, trừ trường hợp ở Thổ Nhĩ Kỳ, một loại khăn có tính truyền thống hơn. Ai đã có dịp đi thăm một nghĩa trang thời Ottoman cũng đều thấy trên bia mộ có khắc hình chiếc mũ mà người quá cố từng đội lúc sinh thời. Nếu người này là một vị quan toà qadi thì hình khắc là chiếc mũ quan tòa, nếu là một anh lính janissary thì lại là hình chiếc mũ đặc biệt giống như ống tay áo gập lại mà lính janissary thường đội. Lúc sinh thời làm nghề gì thì khi chết, chiếc mũ đặc trưng biểu tượng của nghề nghiệp người nằm trong mộ sẽ được khắc trên bia đá. Một biểu tượng mà đặc trưng đến nỗi nó theo người đã khuất xuống mồ thì rõ ràng là lúc sinh thời nó phải quan trọng biết bao. Trong tiếng Thổ, cho đến một ngày gần đây, thành ngữ Sapka giymek co nghĩa là đội mũ trên đầu cũng có cùng một ý như câu nói của người phương Tây lật ngược áo đang mặc”, nghĩa là trở mặt như trở bàn tay, là một tên phản bội, đầu thú theo địch. Ngày nay, lẽ tất nhiên là phần đông người Thổ nếu đội gì trên đầu thì cũng là một chiếc mũ, một mũ lưỡi trai hay với những người ngoan đạo một cái mũ nồi (bê-rê) và thành ngữ trên đã mất hết ý nghĩa, không ai dùng nữa. Tuy nhiên, loại mũ phương Tây vẫn còn ít thông dụng ở các nước A-rập và ở Iran lại còn hiếm hơn nữa. Có một cách để đánh giá quá trình hiện đại hoá ở Trung Đông là theo dõi việc Tây hoá trong y phục và đặc biệt là trong loại hình mũ nón đội trên đầu.
Những thay đổi trong y phục, cũng như đối với các mặt đổi mới khác, đều bắt đầu trong giới quân nhân. Các bộ quân phục phương Tây đều có một ma lực quyến rũ nào đó. Trước việc các đạo quân Hồi giáo không ngừng bị quân ngoại đạo đánh cho tan tác, các thủ lĩnh Hồi giáo không những chuyển sang dùng các khí tài của đối phương mà họ còn bắt chước cách tổ chức và hậu cần của địch kể cả các bộ quân phục kiểu Tây phương. Khi quân đội Ottoman bắt đầu được cải tổ vào cuối thế kỷ 18, họ phải sử dụng cách huấn luyện và các vũ khí châu Âu nhưng họ không bắt buộc phải chuyển sang quân phục phương Tây. Đây là một lựa chọn có tính chất xã hội chứ không phải là quân sự mà hầu hết quân đội hiện nay ở các nước Hồi giáo đều noi theo, kể cả ở Libya và ở nước Cộng hoà Hồi giáo Iran. Họ phải sử dụng các khí tài và chiến thuật của phương Tây vì hữu hiệu hơn; không có gì bắt họ phải mặc áo lính bó chẽn hay đội mũ có lưỡi trai nhưng họ đã làm. Sự thay đổi trang phục này luôn luôn là bằng chứng của uy lực hấp dẫn của nền văn hoá Tây phương, ngay cả đối với những ai đang lớn tiếng chống đối nó.
Ngay cả trong quân phục thì mũ đội trên đầu là thứ phải thay đổi cuối cùng, và hiện nay có lẽ trong hầu hết các nước A-rập, người khách đang ngồi trong quán cà-phê còn đội trên đầu một loại mũ truyền thống, có lẽ là một cái khăn kefiya mà hình dáng và màu sắc nói lên bộ lạc hay địa phương của anh ta. Như vậy, người ta thấy rõ đầu và những gì đội trên đầu mang một ý nghĩa tượng trưng quan trọng. Đối với người Hồi giáo, còn có một điểm nữa là phần lớn các loại mũ châu Âu có lưỡi trai và vành rộng sẽ làm cản trở việc cúng bái của họ. Nam giới Hồi giáo cũng như nam giới Do Thái giáo, khi
cầu kinh đều đội mũ trên đầu để tỏ lòng thành kính (khác với người theo đạo Cơ Đốc). Khi phải lạy, trán chạm đất thì đội mũ có lưỡi trai hay có vành quả là bất tiện. Ngay cả trong một khoảng thời gian dài khi quân lính các nước vùng Trung Đông mặc quân phục gần giống kiểu phương Tây, họ vẫn đội trên đầu một loại mũ truyền thống. Hoàng đế Mahmud II (trị vì 1808-1839), một trong những nhà cải cách lớn của thế kỷ XIX, đã cho sử dụng một loại mũ mới, mũ fez có tên A-rập là tarbush. Ban đầu, kiểu mũ này không được ưa thích và bị ruồng bỏ nhưng về sau nó được chấp nhận và còn được xem là một biểu tượng của Hồi giáo. Khi vị Tổng thống đầu tiên của nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ, Kemal Ataturk ra lệnh cấm đội mũ này vào năm 1925, thì sự chống đối cũng mãnh liệt chẳng khác gì khi nó được đưa vào sử dụng, và cũng cùng một lý do. Ataturk, nhà vô địch của việc thay đổi các biểu tượng xã hội, khi cấm đội mũ fez hay các loại mũ truyền thống khác và bắt buộc thay vào đấy là y phục Âu châu, đã không làm một việc vô bổ của một kẻ chuyên chế độc tài. Đây thật sự là một quyết định có tính xã hội lớn, ông và các cộng sự của mình biết rõ họ đang làm gì. Và đương nhiên là những kẻ chống đối ông cũng vậy.
Trước đây thì cũng đã có những đổi thay tương tự. Vào thế kỷ XIII, khi người Mông Cổ chiếm đóng vùng Trung Đông của người Hồi giáo và lần đầu tiên kể từ thời Đấng Tiên tri Mu-ha-mát, vùng đất này bị đặt dưới quyền quân ngoại đạo thì chính những giáo dân Hồi giáo cũng học theo cách sống của người Mông cổ, ít ra là trong lĩnh vực quân sự. Các tiểu vương Hồi giáo, ngay cả ở Ai Cập lúc ấy không bị Mông Cổ chiếm đóng, cũng bắt đầu ăn mặc theo kiểu
Mông cổ, thắng ngựa dùng yên cương Mông Cổ và để tóc dài như người Mông cổ thay vì cắt ngắn theo kiểu Hồi giáo. Quân đội các quốc gia Hồi giáo cũng mặc quân phục, sử dụng quân trang và yên cương Mông cổ chẳng khác gì ngày nay họ mặc áo lính bó chẽn, đội mũ lưỡi trai vì đó là quân phục của người chiến thắng, mang dáng điệu và uy phong của lực lượng quân sự mạnh nhất thời bấy giờ. Theo các truyện kể thì họ tiếp tục để tóc và mặc quần áo Mông Cổ cho đến năm 1315, khi các vua chúa Mông Cổ vùng Trung Đông đã quy theo Hồi giáo và đồng hoá với dân bản xứ, vua Ai Cập ra lệnh cho các sĩ quan phải cắt gọn mớ tóc dài, từ bỏ kiểu dáng Mông cổ cho người và ngựa, trở lại dùng y phục và vải phủ yên cương Hồi giáo như trước kia. Trong các quân đội Hồi giáo hiện nay, một sự trở về lề lối cũ như vậy chưa hề xảy ra.
Tiếp theo sau giới quân sự là đến lượt triều đình. Hoàng đế có hôm thăng triều trong một bộ đồ Tây phương, có cải biên đi chút ít để không giống hệt Âu phục. Trong điện Topkapi ở Istanbul hiện nay có hai bức họa của Hoàng đế Mahmud II trước và sau khi có đổi mới về trang phục. Hai bức họa ấy, rõ ràng là do cùng một bàn tay họa sĩ, vẽ Hoàng đế trên lưng cùng một con ngựa nhìn dưới cùng một góc độ. Trên một bức họa, Hoàng đế mặc trang phục Ottoman truyền thống còn trên bức kia, ông mặc quần và áo choàng có tua theo kiểu nhà binh châu Âu. Ngựa ông cưỡi cũng có nhưng thay đổi tương tự về yên cương. Ataturk, người không hề biết nói quanh co là gì, đã đi thẳng vào vấn đề. Ông nói: “Chúng ta muốn ăn mặc cho văn minh. Như thế có nghĩa là thế nào? Tại sao y phục của một nền
văn minh cổ xưa hơn lại được xem là kém văn minh? Theo ông, “văn minh” chỉ có nghĩa là hiện đại, là theo kiểu Tây phương. Sau Hoàng đế là đến lượt triều thần bắt đầu ăn mặc theo kiểu phương Tây. Triều đình chính là nơi mà nhà vua dễ dàng ra lệnh cho đám dân sự thay đổi cách ăn mặc và cũng dễ dàng theo dõi việc thực thi sắc lệnh ấy. Các triều thần bắt đầu mặc áo choàng và quần dài. Từ triều đình, kiểu quần áo mới lan rộng ra các quan chức bên ngoài và vào cuối thế kỷ XIX, mọi quan chức trong đế quốc Ottoman đều mặc áo choàng và quần dài kiểu dáng khác nhau, tượng trưng cho những đổi thay rộng lớn về các giá trị xã hội. Từ các công chức, một bộ phận quan trọng của xã hội, kiểu quần áo mới được truyền bá đến đông đảo quần chúng và sau cùng đến tầng lớp dân thường, ít ra là trong các thành thị. Sau đấy thì đến lượt Iran, cả trong thế giới Ottoman và ở Iran, việc Âu hoá y phục trong giới lao động và ở nông thôn thì phải một thời gian lâu hơn, cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Cả sau cuộc cách mạng Hồi giáo ở Iran năm 1979, các nhà ngoại giao nước này vẫn tiếp tục mặc Âu phục, chỉ không thắt cà-vạt như để tỏ ra là không chịu theo các thể thức và các ép buộc của phương Tây.
Việc Tây hoá hay hiện đại hoá áo quần phụ nữ (dù sao họ cũng chiếm đến một nửa dân số), thì gặp nhiều chống đối hơn. Phong trào này khởi động khá chậm và cũng không đều khắp như đối với nam giới, ngay cả thời nay. Các quy định Hồi giáo về cách ăn mặc kín đáo và vẻ thuỳ mị của phụ nữ làm cho vấn đề này khá nhạy cảm và không ngừng gây ra tranh cãi. Ngay cả Ataturk, nếu ông có cấm đàn ông đội mũ fez hay các loại mũ không phải của phương Tây, thì
ông không bao giờ cấm phụ nữ đeo mạng che mặt; ở một vài nơi trong nước Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ, các chính quyền địa phương có đưa ra những luật lệ về việc này nhưng cũng là số ít. Việc xoá bỏ mạng che mặt đã được thực hiện nhờ áp lực xã hội hay qua một hình thức thẩm thấu chứ không phải nhờ chế tài của pháp luật như trong trường hợp xoá bỏ các loại mũ truyền thống cho nam giới. Cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, việc thay đổi y phục đã phản ánh tính trọng nam khinh nữ. Trong các quán cà-phê hay quán trà, rất hiếm khi gặp phụ nữ, mà nếu họ có đến thì thường trùm khăn kín mít từ đầu đến chân. Tuy nhiên, ở một vài nước, người ta có thể gặp trong các khách sạn hay quán cà-phê đắt tiền dành cho giới thượng lưu những phụ nữ ăn mặc sang trọng, nghĩa là theo kiểu phương Tây.
Sự thay đổi trong y phục còn tượng trưng cho một sự thay đổi sâu rộng hơn, ngay cả ở các nước đang quyết liệt chống đối phương Tây. Cũng như người dân vẫn còn mặc một bộ Âu phục cải biên thì Nhà nước ỏ đây lại thắng một bộ mã bề ngoải có dáng dấp Tây phương, đó là cho lưu hành một hiến pháp, cho thiết lập một quốc hội lập pháp và cho tổ chức một loại hình bầu cử nào đó. Trên đất nước Cộng hoà Hồi giáo Iran, các cơ cấu này vẫn được duy trì mặc dù là nước Iran ngày xưa hay giáo quốc Hồi giáo trước đây không có chúng.
Trở lại quán cà-phê với người khách ngồi trên chiếc ghế kê sát chiếc bàn nhỏ. Hai thứ đồ đạc này cũng do các sáng kiến có chịu ảnh hưởng Tây phương mang lại. Trong thời cổ đại và ngay cả khi bị người La Mã chiếm đóng, vùng Trung Đông có sử dụng bàn ghế
nhưng chúng đã biến mất sau cuộc chinh phục của người A-rập. Người A-rập đến từ một vùng đất ít cây cối cho nên gỗ thật là quý hiếm. Họ có nhiều len và da thú nên họ sử dụng các vật liệu này để may quần áo và cũng để chế tạo vật dụng trong nhà và ở nơi công cộng. Người ta thường ngửa lưng hay ngồi tựa vào nệm và gối đủ mọi chủng loại, hoặc trên các đi-văng và ôt-tô-man (hai tên gọi xuất xứ từ vùng Trung Đông) có trải thảm đan hay thảm dệt, đồ ăn thức uống thì đựng trong những cái khay kim loại chạm trổ tinh vi. Nhiều bức đồ họa tí hon của người Ottoman vào đầu thế kỷ XVIII mô tả cảnh những người khách Âu châu đến dự các buổi yến tiệc của triều đình. Họ được phân biệt rõ ràng qua cách ăn mặc, trên là áo chẽn, dưới là quần bó đến đầu gối, đầu thì đội mũ và họ là những người duy nhất ngồi trên ghế. Với lòng mến khách, những người chủ nhà Ottoman đã bắc ghế mời những người châu Âu ngồi, còn họ thì không ngồi ghế.
Ông bạn chúng ta trong quán cà-phê chắc cũng đang phì phèo một điếu thuốc lá — đây lại là một sản phẩm của phương Tây hay nói đúng hơn là của Mỹ châu. Người ta được biết có lẽ thuốc lá do các thương nhân Anh quốc đưa vào Trung Đông vào đầu thế kỷ XVII và rất nhanh chóng được nhân dân ưa chuộng. Cà-phê thì được du nhập sớm hơn, vào thế kỷ XVI. Có nguồn gốc từ Ethiopia, nó được đưa vào miền Nam Arabia và sau đấy đến Ai Cập, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Theo sử sách Thổ Nhĩ Kỳ, cà-phê được hai người dân Syria đưa đến Istanbul dưới thời Hoàng đế Suleyman, mệnh danh Nhà vua Kỳ diệu (1520-1566); một người từ Aleppo, người kia từ Damascus đến để mở các quán cà-phê đầu tiên ở thủ đô Thổ. Loại nước uống này
rất được ưa thích nên chỉ ba năm sau người chủ quán từ Aleppo đến đã về lại quê nhà trong túi xủng xẻng năm nghìn đồng tiền vàng lợi nhuận. Việc phát triển một xã hội cà-phê làm cho cả chính quyền lẫn chức sắc tôn giáo lo ngại, chính quyền thì không biết họ có âm mưu phản loạn nào không, còn giáo hội thì quan tâm đến việc loại nước kích thích này có vi phạm gì đến giới luật Hồi giáo hay không? Năm 1633, Hoàng đế Murad IV ra lệnh cấm cả cà-phê lẫn thuốc lá, và còn kết án tử hình một số người uống cà-phê và hút thuốc lá. Cuối cùng, sau nhiều tranh luận giữa các phe chống đối và ủng hộ, thuốc lá được xem là hợp pháp theo một quyết định fatwa của vị Đại Giáp trưởng Giới luật Mufti Mehmed Bahai Efendi, một người nghiện thuốc lá nặng mà năm 1634 đã bị cách chức và đi đày cũng vì nghiện ngập. Theo một tác giả, Ottoman đương thời có tên Katib Chelebi, quyết định của giáo trưởng công nhận tính hợp pháp của thuốc lá không xuất phát từ việc chính ông cũng là con nghiện mà từ nguyên tắc pháp lý là những gì không cấm thì được cho phép và cũng từ lòng mong muốn “cho dân chúng được hưởng những gì họ ưa thích nhất”.2
Tương tự như vậy, người khách ngồi trong quán cà-phê đang đọc báo hay có lẽ đang cùng một nhóm nhỏ lắng nghe người ta đọc báo giùm cho. Đây chắc chắn là một trong những đổi thay mãnh liệt và sâu đậm nhất có ảnh hưởng đến cả cá nhân và xã hội. Tại nhiều nơi trong vùng, chữ in trên báo là chữ A-rập, ngôn ngữ thịnh hành nhất ở Trung Đông. Trong vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu, ở Ai Cập và Bắc Phi, các ngôn ngữ sử dụng trong thời Cổ đại đã biến mất, nếu còn tồn tại chăng nữa thì cũng chỉ trong các nghi thức tế lễ hay trong
số các dân tộc ít người. Ngoại lệ duy nhất là tiếng Do Thái vì đã được người Do Thái gìn giữ trong tôn giáo và văn học và gần đây được hồi sinh như một ngôn ngữ chính trị và dùng trong sinh hoạt thường ngày ở đất nước Israel hiện đại. Tại Ba Tư, ngôn ngữ cổ xưa không bị tiếng A-rập thay thế nhưng cũng bị biến đổi nhiều. Sau Thời đại Hồi giáo, ngôn ngữ ấy được viết bằng chữ cái A-rập và có thêm vào rất nhiều từ A-rập. Tiếng Thổ cũng đã chịu chung số phận với tiếng Ba Tư, nhưng ở Thổ Nhĩ Kỳ, vị Tổng thống có đầu óc đổi mới Kemal Ataturk đã đưa ra một cải cách văn hoá sâu rộng bằng cách loại bỏ chữ cái A-rập mà cho đến thời buổi ấy người ta dùng để viết tiếng Thổ, để thay vào đây bằng chữ cái Latin. Về sau nhiều nước Cộng hoà nói tiếng Thổ trước đây nằm trong Liên bang Xô Viết cũng đã bắt chước theo Thổ Nhĩ Kỳ.
Chữ viết đã được biết đến ở Trung Đông từ thời Cổ đại. Chữ cái chính là một phát minh của vùng này, một tiến bộ to lớn so với các dấu hiệu hay hình vẽ sử dụng trước đây mà nay nhiều nơi trên thế giới còn dùng. Các chữ cái Latin, Hy Lạp, Do Thái và A-rập đều có nguồn gốc từ loại chữ cái đầu tiên do các dân tộc chuyên làm nghề buôn bán ở vùng biên Cận Đông phát minh ra. Nếu chữ cái đã đơn giản hoá rất nhiều việc soạn thảo và đọc các văn bản thì việc du nhập giấy viết từ Trung Quốc ở thế kỷ thứ VIII đã có công lớn trong việc sản xuất và phổ biến các văn bản ấy. Nhưng một phát minh khác của vùng Viễn Đông, nghệ thuật in ấn, lại đi tới phương Tây mà vì một lý do nào đó đã không dừng chân ở Trung Đông. Ngành in ấn thật ra không phải là hoàn toàn xa lạ ở đâỵ, người ta đã tìm thấy một vài dấu vết của nhưng bản khác gỗ thời Trung cổ. Vào cuối
thế kỷ XIII, các vua Chúa Mông Cổ trị vì trên đất Ba Tư cũng đã thử in giấy bạc, nhưng khi họ trả lương cho nhân viên của mình bằng tiền giấy mà cứ khăng khăng bắt dân đóng thuế bằng vàng thì chạng mấy chốc không còn ai tin vào đồng tiền của nhà nước nữa. Thấy chẳng thành công cho lắm, người Mông Cổ không buồn tiếp tục việc này làm gì. Cuối cùng, nghề in cũng đến được Trung Đông nhưng không phải từ Trung Quốc mà từ phương Tây, vi được biết là đã vào đất Thổ Nhĩ Kỳ. Các nhà viết sử Ottoman, thường chẳng bao giờ thèm đếm xỉa đến những gì xảy ra trên đất nước của bọn ngoại đạo, cũng đã viết về việc ra đời của ngành in và có ít dòng nói về Guttenberg và cái máy in đầu tiên của ông. Có lẽ ngành in đã được những người Do Thái Tây Ban Nha đưa đến Trung Đông khi họ bị trục xuất khỏi nước này năm 1492. Ngoài các vật dụng, tay nghề và tư tưởng của phương Tây, họ còn mang đến sách in và nghệ thuật in sách. Nhiều cộng đồng khác không phải Hồi giáo sau đó cũng có những đóng góp tương tự. Dù các hoạt động này không có một ảnh hưởng to lớn trên nền văn hoá của đa số, chúng cũng dọn đường cho ảnh hưởng ấy. Qua các bản kiểm kê tài sản thừa kế còn giữ tại Phòng Lưu trữ của đế quốc Ottoman, người ta thấy có nhiều sách viết bằng chữ A-rập in ở châu Âu và được người Hồi giáo nhập về. Khi nhà in Hồi giáo đầu tiên được lập ra ở Istanbul vào đầu thế kỷ XVIII, người ta đã sử dụng nhiều thợ in Do Thái và Cơ Đốc vì cần phải có lao động tay nghề cao.
Báo chí chỉ xuất hiện về sau, mặc dù các giới trí thức đã rất sớm nhận ra các khả năng - và cả các hiểm họa - mà báo chí có thể mang lại. Từ năm 1690, đại sứ Maroc tại Tây Ban Nha Muhammad
ibn “Abd al-Wahhab” còn được gọi la al-Wazir al-Ghassani đã nói đến trong báo cáo của mình về các nhà máy viết lách cho ra đời những bài viết đáng lẽ phải chứa tin tức thì lại chứa đầy tin giật gân xằng bậy”3. Trong thế kỷ XVIII, người Ottoman có biết đến báo chí châu Âu và đôi khi họ tỏ vẻ quan tâm đến những gì báo chí nói về họ nhưng cũng chỉ ở mức ấy mà thôi. Báo chí xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Đông là do ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng Pháp. Thật vậy, năm 1795, tờ Gazette Francaise de Constantinople do Đại sứ quán Pháp ấn hành có lẽ là tờ báo đầu tiên ra đời trong vùng này. Báo này cốt để phục vụ kiều dân Pháp nhưng chắc hẳn được nhiều người khác đọc. Sau đấy, khi Cách mạng Pháp mà hiện thân là Tướng Bonaparte đến Ai Cập thì có nhiều nhật trình và công báo được in ra ở Cairo. Người Pháp cũng có ý định cho ra một tờ báo bằng tiếng A-rập ở Cairo nhưng đến nay chưa ai tìm ra được một số báo ấy, có lẽ kế hoạch đã không thực hiện được.
Trong các xã hội Hồi giáo cổ truyền, vua chúa có nhiều cách để thông báo cho dân chúng các tín tức quan trọng. Có hai cách thường được xem là những đặc quyền của nhà vua, đó là khắc trên đồng tiền và loan tin trong buổi giảng đạo ngày thứ sáu tại Thánh Đường, ở cả hai nơi tên hiệu của nhà vua, hay của cả vị bá chủ mà nhà vua thần phục đều được nêu lên. Thêm hay bớt một tên trong lời cầu nguyện có nghĩa là đã có sự đổi ngôi do kế vị hay do bạo loạn hoặc có việc chuyển triều thần phục. Phần còn lại trong bài giảng đạo có thể là phần công bố các pháp lệnh và chính sách mới. Khi có lệnh bãi bỏ thuế- chứ không phải là khi ra lệnh thu thuế mới - nhà nước thường thông báo bằng bảng ghi đặt tại các nơi công
cộng. Những lời tán tụng nhà vua thường được các nhà thơ chính thức của triều đình hát lên, lời thơ dễ nhớ và dễ truyền bá rộng rãi cũng chỉ là một hình thức tiếp thị mà thôi. Các bài viết của những nhà viết sử chính thức thường được phân phát để loan các tin tức về những sự kiện quan trọng. Thí dụ như các bản fathname tức là các bản tin chiến thắng mà các hoàng đế Ottoman dùng để báo cho thần dân biết những thắng lợi quân sự. Vua chúa Hồi giáo đã quen sử dụng chữ viết và lời nói như một công cụ để cai trị cho nên họ biết ngay cách khai thác phương tiện mới từ bên ngoài du nhập: báo chí.
Việc sáng lập ngành báo chí dùng tiếng dân dã địa phương ở Trung Đông lại là công trình của hai nhà vua có đầu óc cải cách lớn, vừa cùng thời với nhau vừa là kình địch của nhau, đó là vua Muhammad Ali Pasha (Mehmet Ali) của Ai Cập và Hoàng đế Mahmud II của Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lĩnh vực này cũng như trong nhiều vấn đề khác, Muhammad Ali đi tiên phong và Hoàng đế Mahmud nối bước theo sau, vì ông quan niệm rằng tất cả những gì nhà vua làm được thì Hoàng đế có thể làm tốt hơn. Nhà vua Ai Cập bắt đầu với một tờ công báo tiếng Pháp rồi sau thêm cả tiếng A-rập, hoàng đế Thổ thì bắt đầu bằng tờ báo in tiếng Pháp và tiếng Thổ. Trong môt thời gian dài, báo chí xuất bản ở Trung Đông chỉ là những tờ báo của chính phủ mà mục tiêu được nói rõ trong một bài xã luận thời ấy ở Thổ Nhĩ Kỳ là để “cho thần dân biết được các ý đồ và các quyết định của chính phủ”. Quan niệm này về bản chất và chức năng của báo chí cho đến nay vẫn còn tồn tại trong vùng.
Thật khó lòng viết được lịch sử báo chí ở Trung Đông. Nhiều tờ báo lại mang kiếp phù du sớm nở tối tàn, ra được vài số rồi đóng cửa, các sưu tầm toàn bộ hiện nay không có, thảng hoặc đây đó chỉ còn lại vài số lẻ loi. Theo những thông tin có thể thu thập được thì tờ báo đầu tiên của tư nhân là tờ Jeride-iHavadis (Thời báo các Sự kiện) ra đời năm 1840 ở Istanbul. Chủ báo là một người Anh tên là William Churchill không biết bằng cách nào đã có được một giấy phép ferman cho ra báo. Báo được in ra bữa đực bữa cái nhưng dù sao cũng không bị chết yểu.
Bước ngoặt quyết định đến không riêng gì cho sự tồn tại của tờ báo này mà cho cả ngành báo chí ở Trung Đông là khi xảy ra cuộc chiến ở Crimea, vì lần đầu tiên người ta sử dụng điện tín, một phương tiện thông tín vô cùng hiện đại. Nhiều phóng viên chiến tranh Anh và Pháp theo dõi cuộc chiến này và ông Churchill đã hợp đồng với một phóng viên mặt trận để anh ta cung cấp cho ông bản sao của những bài viết anh gửi về London, nhờ đó mà tờ báo của ông Churchill ra đến 5 số mỗi tuần, thật là một kỳ công vào thời buổi ấy. Vì vậy mà người Thổ Nhĩ Kỳ rồi cả dân chúng vùng Trung Đông bắt đầu nghiện một loại ma túy có phần mạnh hơn, cũng có người cho là độc hại hơn là cà-phê và thuốc lá: hằng ngày họ phải có đủ liều tin tức mới chịu nổi. Ít lâu sau, một tờ báo cùng loại bằng tiếng A-rập ra đời để phục vụ độc giả nói tiếng A-rập trong đế quốc Ottoman, tờ báo này ngừng in khi cuộc chiến Crimea kết thúc trong khi tờ báo tiếng Thổ vẫn tiếp tục và kéo theo nhiều tờ khác nữa.
Vào năm 1860, chính quyền Ottoman đỡ đầu cho một tờ báo tiếng A-rập ở Istanbul, nó không phải chỉ để đăng các nghị định của
chính phủ hay các loại thông tín tương tự mà thật sự là một tờ báo có tin trong và ngoài nước, có xã luận, có bài viết của ban biên tập đàng hoàng. Cũng vào thời điểm ấy, các cha dòng Tên ở Beirut cho ra đời một tờ báo, hầu như chắc chắn là tờ nhật báo đầu tiên ở các nước A-rập. Khi người Hồi giáo tố cáo các hiểm họa của đế quốc và của truyền giáo thì có lẽ họ đã đúng ở một điểm, chính bọn đế quốc và bọn truyền giáo đã mang đến cho họ loại nhật báo. Ngành báo chí càng mở rộng thì cả các biên tập viên, phóng viên và độc giả lại phải đối đầu với hai vấn đề lớn là tuyên truyền và kiểm duyệt.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, ngành báo chí phát triển rất nhanh, các nhật báo và nguyệt san xuất hiện rất nhiều, đặc biệt là ở Ai Cập, cuộc đô hộ của người Anh đã tạo khá nhiều thuận lợi. Báo chí Ai Cập ược phát hành rộng rãi trong các nước nói tiếng A-rập, dần dần các nước này cũng có báo và tạp chí riêng của mình; ảnh hưởng của việc phát triển báo chí thật là to lớn. Người dân biết đọc báo hay được nghe người ta đọc cho thì thường xuyên nhận được tín tức trong và ngoài nước, do đó có được những hiểu biết về thế giới, về thành phố, về đất nước, về châu lục mình đang sống, điều mà trước đấy không ai dám nghĩ đến. Báo chí lại dẫn đến một hình thức xã hội hoá và chính trị hoá. Ngoài báo chí, cuộc chiến ở Crimea đã mang lại hai điều mới lạ mà báo chí có nói đến, đó là việc thành lập các làng xã theo kiểu phương Tây và việc xây dựng cơ cấu tài chính quốc gia hiện đại, đặc biệt là sự xuất hiện của công trái.
Một đổi thay khác có tầm quan trọng cơ bản là trong lĩnh vực ngôn ngữ. Trong tiếng Thổ và tiếng A-rập, sau đấy là cả tiếng Ba Tư, loại hành văn nặng nề của các tờ báo ban đầu mà khi đọc cứ
tưởng như đọc các nhật ký trong triều hay các quyết định của chính phủ thì nay được thay thế bằng một văn phong đầy khí lực được tôi luyện qua năm tháng và còn tồn tại mãi đến ngày nay. Các nhà báo Trung Đông đã phải tạo ra một phương tiện thông tin mới để thảo luân về các vấn đề của thế giới mới. Báo chí ở thế kỷ XIX đã phải viết và bình luận những sự việc như cuộc nổi dậy của người Ba Lan chống lại nước Nga, nội chiến ở Mỹ, diễn văn của Nữ Hoàng Victoria đọc tại kỳ khai mạc Quốc hội ở London hay nhiều vấn đề hóc búa không kém. Nhu cầu viết và giải thích các vấn đề như vậy đã là động lực thúc đẩy việc tạo nên một ngôn ngữ báo chí và chính trị hiện đại ở Trung Đông.
Có một phát triển khác có lẽ còn kỳ lạ hơn ngôn ngữ báo chí, đó là chính các nhà báo, một đội ngũ mới trong xã hội Trung Đông với một nghề nghiệp trước kia không ai biết đến nhưng đã trở thành vô cùng quan trọng.
Ngày nay báo chí không phải là phương tiện thông tin đại chúng độc nhất có mặt trong quán cà-phê. Chắc chắn là còn một máy thu thanh và có lẽ thêm vào một máy thu hình. Ngành phát thanh ở Trung Đông được khai trương năm 1925, chỉ ba năm sau London. Tuy nhiên, trong nhiều nước còn dưới quyền đô hộ của ngoại bang thì lâu hơn mới có hệ thống phát thanh. Mãi đến năm 1934 Ai Cập mới có đài phát thanh và sau cuộc cách mạng năm 1952 thì ngành phát thanh thật sự phát triển mạnh. Thổ Nhĩ Kỳ lại một lần nữa đi đầu trong việc thành lập vào năm 1964 một cơ quan phát thanh độc lập không bị nhà nước kiểm soát. Nhìn chung thì mức độ độc lập của ngành phát thanh trong một nước tuỳ thuộc vào chế độ chính trị
của nước ấy. Các buổi phát thanh tuyên truyền từ nước ngoài đến có lẽ xuất hiện lần đầu tiên qua chương trình tiếng A-rập do chính quyền phát-xít Italia phát đi từ thành phố Bari năm 1935. Cuộc chiến tranh tuyên truyền trên sóng điện này khởi đầu như vậy, về sau có sự tham gia của Anh và Đức rồi đến Pháp và cuối cùng là Mỹ và Liên Xô. Các nước Trung Đông cũng bắt đầu phát sóng rộng rãi ra khắp vùng, mang đến cho nhau các thông tin, hướng dẫn và đôi khi cả những lời kêu gọi lật đổ chính quyền của nhau. Du nhập hệ thống truyền hình thì có khó khăn hơn vì tốn kém, nhưng hiện nay ở Trung Đông đâu đâu cũng có truyền hình.
Trong một vùng đất mà số dân mù chữ còn nhiều thì việc đưa lời nói trực tiếp đến người dân có một ảnh hưởng mang tính đổi đời. Trong cuộc cách mạng Iran năm 1979, các bài phát biểu của Giáo chủ ayatollah Khomeini được ghi trên băng cát-xét để phân phát rộng rãi, các mệnh lệnh của ông được truyền qua điện thoại; đây chắc hẳn là cuộc cách mạng đầu tiên trên thế giới thành công nhờ các phương tiện điện tử. Các phương tiện này làm cho lời nói có một tiếng vang lớn và các bài phát biểu đến được tai đông đảo người nghe, điều mà trước đấy không ai tưởng tượng nổi.
Những gì máy thu thanh hay thu hình phát ra đều do chế độ cầm quyền trong nước quyết định. Có lẽ trên tường quán cà-phê có treo ảnh của vị đứng đầu chế độ ấy, hoặc là nguyên thủ hoặc là thủ tướng. Trong một số rất ít nước trong vùng, nền dân chủ Tây phương đã có mặt và đang hoạt động tốt thì người lãnh đạo, bây giờ cũng có thể là một phụ nữ, đã được bầu lên một cách dân chủ và ngành truyền thông đại chúng phản ánh cả lập trường của chính phủ
lẫn của phe đối lập. Phần lớn các nước trong vùng đều có những chế độ chính trị mang ít nhiều nét chuyên chế. Trong một số nước có cách cai trị hơi mang tính chất độc đoán thì người ta tự biết kiềm chế nhưng trong một chừng mực nào đó dư luận cũng được phát biểu tự do. Trong các nước khác dưới chế độ độc tài quân sự hay của một đảng phái, báo chí, phát thanh và truyền hình đều răm rắp đi theo một hướng.
Dù hình thức chế độ chính trị hay quyền lực của vị lãnh tụ ra sao đi nữa thì việc treo ảnh lãnh tụ trên tường cũng đã là một đổi mới khác xưa. Một vị đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ tại Pháp vào năm 1721 đã báo cáo về nước là theo tập tục, các vua nước Pháp hay ban tặng các đai sứ bức chân dung của chính mình. Tuy nhiên “vì người Hồi giáo không có quyền giữ chân dung”, ông đã tâu lại điều này với đức vua và được ban cho một tặng phẩm khác4. Nhưng không phải vì thế mà nghệ thuật họa chân dung lại không được biết đến. Hoàng đế Mehmed II, mệnh danh Người Chinh phục, đã cho phép danh họa người Italia là Bellini vẽ mình và lại còn sưu tập các chân dung do những danh họa Âu châu sáng tác. Con ông vì sùng đạo hơn cha nên khi lên kê vị đã cho dẹp bỏ hết, nhưng nhờ có các vị Hoàng đế về sau ít câu nệ hơn mà lâu đài Topkapi ở Istanbul có được một bộ sưu tập lớn chân dung các Hoàng đế và các nhân vật khác. Ngày nay, có một loại hình tranh thờ Hồi giáo được phát triển, các tranh giáo chủ Ali và Husayn có tính cách thần bí được vẽ ở các nước theo giáo phái Si-i và tranh các vị khác, ít phổ biến hơn ở các nước theo giáo phái Sun-ni. Hình tượng trên đồng tiền theo kiểu thịnh hành ở châu Âu từ thời cổ Hy Lạp hay cổ La Mã thì hiếm thấy. Có
một đồng tiền khắc hình một người có lẽ là một giáo chủ dòng Áp bát nhưng nó thật tình có tính chất khiêu khích vì trên đấy người ta thấy vị giáo chủ đang nâng cốc uống rượu. Một vài đồng tiền thời đại Seljuk được phát hành ở các tiểu vương quốc vùng Anatolia có khắc hình tiểu vương nhưng chúng chỉ có tính địa phương và bắt chước cách làm của các hoàng đế By-dăng mà thôi.
Có lẽ trên tường quán cà-phê không còn treo hình nào khác, nhưng hầu như chắc chắn là có một bức thư họa đóng khung viết một câu Kinh Cô-ran hay một lời dạy của Đấng Tiên tri. Trong mười bốn thế kỷ, đạo Hồi là tôn giáo thịnh hành nhất và cũng là tôn giáo thống trị trong vùng. Nghi lễ trong các đền thờ Hồi giáo thật đơn giản và mộc mạc, người ta chỉ cần tụng niệm vài câu trong Kinh Cô-ran. Cầu kinh tập thể chỉ là một hành động có kỷ luật nói lên sự thần phục Đấng Tạo hoá, một Thượng đế xa xăm và vô hình. Hồi giáo không chấp nhận kịch tính hay tính thần bí. Do đó sẽ không có nhạc và thơ trong tế lễ, lại càng không có tranh và tượng mà truyền thống Hồi giáo cho là có tính chất tôn sùng. Thay vào đấy, các nghệ nhân Hồi giáo tạo ra những bức vẽ hình học trừu tượng và sử dụng rất nhiều các bản chữ khắc trong nghệ thuật trang trí của mình. Tường và trần nhà của các đền thờ cũng như trong nhà ở hay tại các nơi công cộng đều được trang trí bằng những câu, thậm chí bằng cả những chương Kinh Cô-ran.
Có lẽ trong nghệ thuật người ta mới thây rõ các dấu hiệu đầu tiên về sự thâm nhập của văn hoá Tây phương. Ngay cả ở Iran, nơi cách xa và ít bị ảnh hưởng nhất của phương Tây, người ta cũng đã thấy ảnh hưởng này trong hội họa ngay từ thế kỷ XVI qua cách vẽ
bóng hay vẽ phối cảnh cũng như qua việc thay đổi cách vẽ người. Không chịu phục tùng quy định cấm vẽ hình người của Hồi giáo, nghệ thuật Ba Tư và Ottoman đã từ lâu cho ra đời các hình người nhưng từ nay chúng trở nên riêng biệt, cá thể hơn và không rập khuôn như trước. Cũng có một ít tranh vẽ người mặc dù hình các lãnh tụ trên tiền, tem thư hay dán trên tường chỉ là một hiện tượng xảy ra gần đây, ở các nước bảo thủ thì đó là một hình thức phạm thánh gần như là tục tôn thờ thần tượng.
Kịch nói là một loại hình nghệ thuật ít gây ảnh hưởng trong các quốc gia Trung Đông, trái lại phim ảnh thì rất được ưa chuộng. Có bằng chứng là phim câm được nhập từ Italia vào Ai Cập từ năm 1897. Trong Thế chiến thứ I, các buổi chiếu phim dành cho binh lính Đồng minh là cơ hội để nhiều người dân Trung Đông làm quen với phương tiện thông tin mới mẻ này. Vào năm 1917, Ai Cập đã sản xuất những phim ngắn và đến năm 1927 mới có các phim truyện dài. Từ thời ấy phim ảnh đã trở thành một ngành công nghiệp lớn chủ yếu ở Ai Cập và cả ở nhiều nước. Công nghiệp phim ảnh Ai Cập ngày nay đứng hàng thứ ba, sau Mỹ và Ấn Độ.
Nhiều đổi mới khác cũng từ phương Tây đến nhưng ngày nay đã quá cũ và quá thông thường nên người ta không còn để ý đến xuất xứ của chúng nữa. Nếu người ngồi trong quán cà-phê thuộc tầng lớp có học thức và do đọc sách nhiều, mắt đã bị kém thì anh ta có thể đeo một cặp kính, đây cũng là một phát minh của phương Tây có bằng chứng là đã đến Trung Đông từ thế kỷ XV. Quán cà-phê có thể có một chiếc đồng hồ, người khách có thể đeo đồng hồ tay, cả hai đều được phát minh từ châu Âu và có lẽ đến nay vẫn còn được
chế tạo bởi một công ty Âu châu hay Đông Á. Đo được thời gian một cách chính xác đang và còn tiếp tục làm đảo lộn các tập quán xã hội trong vùng.
Nếu người khách uống cà-phê lại có bạn bè cùng tiêu khiển thời gian mà không cần đo đếm giờ giấc gì cả thì có lẽ anh ta chơi cờ, một thú vui đã có một lịch sử lâu đời trong vùng. Hai trò được ưa chuộng nhất: một thứ thò lò biến thể và chơi cờ vua - trò chơi của dân có học thức, cả hai đều đi qua Trung Đông rồi mới đến phương Tây, cờ vua có lẽ có nguồn gốc từ Ấn Độ. Có dấu hiệu cho thấy cả hai loại cờ này đã có mặt trong nước Ba Tư Tiền Hồi giáo. Trong cuộc tranh luận lớn giữa các nhà thần học Hồi giáo thời Trung cổ về tiền định và tự do ý chí, người ta hay lấy hai loại cờ này ra làm tượng trưng và minh họa. Đời sống phải chăng là một ván cờ vua, trong đó người chơi có quyền lựa chọn mỗi nước cờ sẽ đi, thành công sẽ do mưu lược và tài tiên đoán mang lại? Hay nó chỉ như một trận thò lò mà chút tài mọn có thể làm nhanh hay chậm kết cục nhưng chính việc gieo nhiều lần con súc sắc mới dẫn đến kết quả. Có người cho đây là vận may mù quáng trong khi những người khác thì lại nói là định mệnh đã được Thượng đế an bài. Hai trò chơi này đã là những ẩn dụ nổi bật trong một cuộc tranh luận nổi tiếng về giáo lý đạo Hồi, và cuối cùng thuyết định mệnh — thò lò chứ không phải cờ vua - đã thắng.
Xen kẽ vào các bản tin và các bài diễn văn là âm nhạc. Trong phần lớn các quán cà-phê, khách hàng được nghe nhạc cổ truyền hay nhạc dân gian vùng Trung Đông mặc dù có thể có một ít nhạc Pop đã được ít nhiều Đông phương hoá. Chắc là sẽ không có nhạc
cổ điển phương Tây. Ngay cả đối với những thành phần Âu hoá nhất trên các mặt xã hội và văn hoá thì có rất ít người thích nhạc cổ điển Tây phương, đây là điều khác biệt rất rõ nét so với Nhật Bản và ngay cả Trung Quốc, những xã hội không phải Tây phương mà ở đó nhạc cổ điển Tây phương lại được ưa chuộng, được biểu diễn và thậm chí được sáng tác. Trong số các dân tộc đã Tây hoá như dân Cơ Đốc Liban hay dân Do Thái Israel, có nhiều người hâm mộ nhạc cổ điển Tây phương, cả ở Thổ Nhĩ Kỳ nữa, thế giới âm nhạc đã được Tây hoá và ngày nay ở đây có các dàn nhạc, có kịch nhạc và các nhà soạn nhạc Tây phương. Âm nhạc, ít ra là nhạc không lời thì cũng độc lập đối với ngôn ngữ giông như nghệ thuật cho nên có thể cảm hoá được những người trong các nền văn hoá khác. Nhưng trong phần lớn vùng Trung Đông, có lẽ vì nhạc có lời chiếm một vị trí trung tâm nên điều nói trên sẽ không đúng và có ít người hâm mộ nhạc cổ điển phương Tây. Các loại hình nghệ thuật khác thì lại hoàn toàn trái ngược, hội họa và kiến trúc đã biến đổi xong ngay từ những ngày đầu khi tiếp xúc với phương Tây, trong văn học thì không còn các thể loại nghệ thuật truyền thống và giờ đây tiểu thuyết, kịch viết và cả thơ ca cũng đi theo trào lưu chung của thế giới. Trong quá trình Tây phương hoá, các nghệ thuật tạo hình đã xung phong đi đầu và biến đổi triệt để trong khi âm nhạc lại thụt lùi khá xa. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì trong số các loại hình nghệ thuật của một nền văn minh thì âm nhạc là thứ mà người mới đến khó tiếp thu, hấp thụ và biểu diễn nhất.
Đối với khách phương Tây, điều đáng chú ý nhất khi bước vào quán cà- phê ở bất kỳ nơi nào trong vùng Trung Đông là không thấy
hoặc thấy rất ít phụ nữ, nếu có thì cũng chỉ là người nước ngoài. Chỉ có nam giới hoặc lẻ loi hoặc tụ tập nhau ngồi ở bàn uống nước; chiều đến, từng đoàn thanh niên đi rảo quanh các phố tìm trò giải trí. Việc giải phóng phụ nữ đã đi chậm hơn nhiều so với việc tăng tiến địa vị của nam giới và ở nhiều nơi trong vùng ngày nay lại còn thụt lùi nữa.
Ngày nay, ta có cảm tưởng đây là vùng đất có một nền văn hóa và những truyền thống cổ xưa đã ăn sâu vào tâm thức con người. Đây có lúc đã là nơi tỏa ra mọi hướng các tư tưởng, hàng hoá và đôi khi cả những đội quân chinh phục. Vào những thời điểm khác thì đây đã như một nam châm thu hút khách phương xa, khi thì là kẻ hành hương hay dân học đạo, khi thì là đám tù binh hay bầy nô lệ, đôi khi lại là người chinh phục hay vị chủ nhân. Vùng này đã là một ngã tư đường và một thương điếm mà tri thức và hàng hoá đến từ những đất nước cổ xưa và xa xăm rồi lại được tiếp tục chuyến đi, đôi khi còn được người dân ở đây cải tiến nhiều trong thời gian quá cảnh.
Trong thời hiện đại, phần lớn dân chúng vùng Trung Đông đang cảm nhận được đòn tác động mạnh của châu Âu rồi của phương Tây nói chung, cùng những đổi thay - hay nói theo kiểu của nhiều người - những xáo trộn mà nó mang tới. Lịch sử hiện đại của vùng này là một chuỗi biến hoá nhanh chóng và bắt buộc do bên ngoài áp đặt với những giai đoạn và hình thức phản ứng, ruồng bỏ và chấp nhận. Trên vài phương diện, các đổi thay ấy thật là toàn diện và có lẽ không đảo ngược được, thế mà có người vẫn còn muốn đi xa hơn nữa. Trên vài phương diện khác, các đổi thay chỉ hời hợt và hạn
chế, ở một số nơi trong vùng, chúng đang bị đảo ngược lại. Có nhiều người trong giới quá khích và bảo thủ muốn tiếp tục và khuếch đại xu thế đảo ngược ấy, họ cho rằng ảnh hưởng của nền văn minh Tây phương là một thảm họa rơi xuống vùng đất của họ, một tai ương còn có sức tàn phá mãnh liệt hơn các cuộc xâm lăng của người Mông cổ vào thế kỷ XIII. Có lúc người ta dùng từ “chủ nghĩa đế quốc” để mô tả ảnh hưởng Tây phương, nhưng từ này ngày nay trở nên vô nghĩa khi giai đoạn thống trị trực tiếp của châu Âu đã lùi vào dĩ vãng và nước Mỹ thì ở xa và ít can thiệp đến. Một từ ngữ có lẽ chính xác hơn để những người chống đối mô tả ảnh hưởng của phương Tây đã được giáo chủ Khomeini đưa ra khi ông gán cho Hoa Kỳ danh hiệu “tên Đại Quỷ Satan”. Quỷ Satan không phải là một tên đế quốc nhưng nó quyến rũ biết bao. Nó không đi chinh phục, nó chỉ cám dỗ người ta. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn giữa những người ghét và sợ quyền lực cám dỗ — hay theo họ là quyền lực huỷ hoại — của cách sống Tây phương và những người xem đó như là một cơ hội và một bước tiến mới trong quá trình trao đổi liên tục đầy triển vọng giữa các nền văn hoá và văn minh.
Cuộc đấu tranh này vẫn chưa đi đến phần kết thúc. Các nguồn gốc, quá trình và hậu quả sẽ được thấy rõ hơn nếu ta đặt nó trên bức tranh lịch sử và văn minh của vùng Trung Đông.
Phần 2
TRƯỚC ĐẤY…
Chương 1
TRƯỚC KHI CƠ ĐỐC GIÁO RA ĐỜI
Trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên Cơ Đốc giáo, vùng đất mà ngày nay được gọi là Trung Đông đã bị hai đế quốc hùng mạnh tranh giành. Đây không phải là lần đầu cũng chẳng phải lần cuối trong hàng nghìn năm lịch sử của nó. Phần phía Tây gồm những nước quanh Địa Trung Hải, từ eo biển Bosphorus đến đồng bằng sông Nil, thuộc về Đế quốc La Mã. Các nền văn minh cổ ở đây đã suy tàn, các thành thị nay đặt dưới quyền những viên thông đốc La Mã hay các vua chúa thần phục Roma. Phần phía Đông là đất của một đế quốc rộng lớn khác, đế quốc mà người Hy Lạp và sau đó người La Mã gọi là Ba Tư, còn dân bản xứ gọi là Iran.
Bản đồ chính trị của vùng này cả về hình thức bên ngoài lẫn tình hình thực tế đều rất khác với thời hiện tại. Tên nước cũng như biên giới của chúng đều rất khác. Dân chúng cũng không dùng các ngôn ngữ hay theo các tôn giáo như ngày nay. Có một vài ngoại lệ nhưng thật ra chỉ có vẻ bề ngoài chứ không là thực chất vì chúng chỉ biểu hiện một ý chí làm sống lại quá khứ mới phát hiện ra chứ không phải là một sự tồn tại liên tục của những truyền thống cổ xưa.
Bộ mặt vùng Tây Nam Á châu và Đông Bắc Phi châu trong giai đoạn Ba Tư và La Mã tranh giành và thống trị cũng rất khác các đế quốc và các nền văn hoá cổ ở Trung Đông mà phần lớn đã bị các nước láng giềng hùng mạnh hơn chiếm đóng và đồng hoá trước khi bị các đạo quân Macedonia, La Mã hay Ba Tư chinh phục. Trong số
các nền văn hoá cổ xưa còn sót lại lúc kỷ nguyên Cơ Đốc bắt đầu và còn duy trì được bản sắc và ngôn ngữ của mình, thì chắc chắn nền văn hoá Ai Cập là lâu đời nhất. Ai Cập được định hình rõ ràng qua địa dư và lịch sử của mình, gồm lưu vực và châu thổ hạ nguồn sông Nil, có các sa mạc ở hai phía Đông Tây và biển phía Bắc. Nền văn minh Ai Cập đã có hàng nghìn năm trước khi bị xâm lược và những người chinh phục dù là Ba Tư hay sau đó là Hy Lạp và La Mã không bao giờ xoá bỏ hoàn toàn được các đặc điểm của nó.
Trong nhiều thiên niên kỷ, tiếng nói và chữ viết Ai Cập đã có nhiều đổi thay nhưng vẫn giữ được một tính liên tục lạ kỳ. Cả hai loại chữ viết tượng hình và sau đó là loại chữ dáng cong gọi nôm na là chữ thông dụng đều còn tồn tại trong thời đại Cơ Đốc. Về sau xuất hiện chữ Cốp-tơ (Copt), loại chữ cổ Ai Cập cuối cùng, có sử dụng những chữ cái Hy Lạp cải biên và có thêm 7 chữ cái thông dụng. Chữ Cốp-tơ ra đời vào thế kỷ thứ II trước Công nguyên (TCN) và trở nên ổn định ở thế kỷ thứ I sau Công nguyên (CN). Khi người Ai Cập quy theo đạo Cơ Đốc, nó trở thành ngôn ngữ văn hoá quốc gia của nước Ai Cập Cơ Đốc dưới thời La Mã và By-dăng thống trị. Khi bị người A-rập Hồi giáo chinh phục và sau đó bị Hồi giáo hoá và A-rập hoá, ngay những người Ai Cập Cơ Đốc cũng dùng tiếng A rập. Họ vẫn còn được gọi là người Côp-tơ, nhưng tiếng Côp-tơ đã dần dần bị mất đi, ngày nay chỉ còn tồn tại trong các nghi thức tụng niệm của giáo hội Cơ Đốc Cốp- tơ. Ai Cập đã có một bản sắc mới.
Đất nước này cũng đã có rất nhiều tên gọi. Tên thường dùng bởi người Hy Lạp, người La Mã và trên thế giới hiện nay, mặc dù chính người Ai Cập lại không dùng nó, đó là Ai Cập, tên do người Hy Lạp
phiên âm từ một cách gọi cũ. Chữ Cập trong tên ấy có lẽ cùng một gốc như chữ Cốp trong Cốp-tơ. Người Ai Cập thì gọi là Misr, tên do người A-rập mang đến và ngày nay vẫn còn dùng. Tên này cũng na ná như các tên chỉ Ai Cập của dân Xê-mít được tìm thấy trong các bản kinh Do Thái và trong các bản viết cổ.
Một nền văn minh cổ khác ở Trung Đông là nền văn minh Lưỡi liềm Phì nhiêu, nằm trong lưu vực của hai sông Tigris và Euphrates. Nó có thể cổ hơn cả nền văn minh Ai Cập nhưng nó không mang tính thống nhất và liên tục như trong xã hội và nhà nước Ai Cập. Miền Nam, miền Trung và miền Bắc vùng này là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, có tiếng nói khác nhau và được biết dưới những tên khác nhau: Sumer và Akkad, Assyria và Babylonia. Trong kinh sách của người Do Thái, vùng này có tên là Aram Naharayim, Aram giữa Hai Dòng sông. Trong thế giới Hy-La (Hy Lạp và La Mã), tên của nó cũng có cùng ý nghĩa, Mesopotamia hay Lưỡng Hà. Trong những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Cơ Đốc, vùng trung tâm và vùng Nam nằm trong tay người Ba Tư với thủ đô đặt ở Ctesiphon, không xa thành phố Baghdad ngày nay cho lắm. Baghdad là một tên Ba Tư có nghĩa là “Thượng đế đã ban cho”, đó là tên một ngôi làng mà nhiều thế kỷ về sau, người A-rập xây dựng ở đấy thủ đô mới của đế quốc. Tên Iraq là một tên A-rập vào thời Trung cổ chỉ phần phía Nam của nước Iraq hiện nay, từ Takrit ra đến biển, đôi khi còn được gọi là Iraq Arabi để phân biệt với vùng Iraq Ajami nằm ở phía Tây Nam Iran.
Bắc Lưỡng Hà là một vùng tranh chấp, khi thì do La Mã cai trị, khi thi chịu sự quản lý của Ba Tư, đôi lúc lại dưới quyền các triều đại
vua chúa địa phương. Có những giai đoạn vùng này là một bộ phận của Syria, tên không chính xác lắm của một đất nước bao bọc bởi dãy núi Taurus ở phía Bắc, sa mạc Sinai ở phía Nam, sa mạc Arabia ở phía Đông và Địa Trung Hải ở phía Tây. Tên Syria cũng không có nguồn gốc rõ rệt, Herodotus cho rằng đấy là tên Assyria gọi tắt. Các nhà nghiên cứu hiện nay gắn nó với một số địa danh trong vùng. Lần đầu tiên tên này xuất hiện trong một bài viết Hy Lạp và trước đấy chưa ai nhắc đến tên này và cũng không ai sử dụng nó trong các bản viết thời Tiền Hy Lạp. Dưới thời La Mã và By-dăng tên Syria bằng tiếng Hy Lạp được sử dụng chính thức nhưng khi người A-rập đến chinh phục vào thế kỷ thứ VII thì nó biến mất. Tại châu Âu, tên này đôi khi được dùng đến, nhất là vào thời Trung cổ khi ngành nghiên cứu cổ điển được phục hồi kéo theo việc sử dụng rộng rãi các từ ngữ Hy-La. Trong thế giới A-rập nói riêng và Hồi giáo nói chung, vùng đất trước kia được gọi là Syria thì mang tên Sham, đó cũng là tên gọi của Damascus, thành phố lớn nhất tại đây. Còn tên gọi Syria - tiếng A-rập là Suriya - đôi khi được dùng trong các bài viết về địa dư, ngoài ra không ai biết đến cho đến tận cuối thế kỷ XIX khi người châu Âu thống trị ở đây thì nó xuất hiện trở lại. Tên này chính thức dùng để chỉ một tỉnh - vilayet Damascus — vào năm 1865 dưới chính quyền Ottoman, và sau Thế Chiến thứ I khi người Pháp nhận quyền uỷ trị ở đây nó mới là tên một nước. Trong số các tên địa phương cổ xưa của đất nước này mà người ta phát hiện được, thì thường thấy tên Aram, phỏng theo tên dân tộc Aramean đã sinh sống ở cả Syria và vùng Lưỡng Hà. Vùng Lưỡng Hà được gọi là “Aram giữa Hai Dòng Sông” còn Nam Syria mang tên “Aram Damascus” và Bắc Syria mang tên “Aram Zoba” (Zoba tức là
Aleppo, xem trong Thánh Kinh tập II Samuel, các chương 8:6 và 10:8).
Tuy nhiên, theo thông lệ, các nước nằm trên phần phía Tây của vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu đều mang tên các vương quốc sở tại hay các dân tộc sinh, sống ở đây. Trong số đó, đất nước được biết đến nhiều nhất hay ít ra cũng có nhiều tài liệu nhắc đến nhất là vùng đất phía Nam mà các kinh sách Do Thái và các bài viết cổ gọi là Canaan. Sau khi người Do Thái đến chiếm và định cư ở đây, đất này được gọi là “đất nước của con cháu Israel” (Joshua 11:22) hay đơn giản hơn là “đất nước Israel” (I Samuel 13:19). Sau khi vương quốc của David và Solomon tan rã vào thế kỷ thứ X (TCN) thì phần phía Nam với Jerusalem làm thủ đô được gọi là Judah còn phần phía Bắc mang tên Israel, sau đó đổi là Samaria. Các vùng bờ biển phía Bắc và phía Nam mang tên các dân tộc cư trú ở đó như Phoenicia, Philistia. Người Philistin đã biến mất vào thời có cuộc chinh phục của Babylon. Người Phoenician còn tồn tại mãi đến thời La Mã và trong giai đoạn sơ khởi của kỷ nguyên Cơ Đốc trên vùng đồng bằng ven biển mà nay là Bắc Israel và Nam Liban. Đến thế kỷ thứ 6 (TCN) khi bị người Ba Tư chinh phục, vùng đất này được gọi là Yehud và có những người di cư trở về sinh sống (xem bản tiếng Aramaic trong Daniel 2:25, 5:13: Ezra 5:1, 5:8). Kinh Tân Ước phỏng theo cách gọi của người La Mã đặt tên cho các miền Nam, Trung và Bắc của vùng này là Judaea, Samaria và Galilee. Ta cũng nên biết thêm những tên đặt cho sa mạc phía Nam mà người La Mã gọi là Idumea, phỏng theo tên Edom trong Thánh Kinh - nay là sa mạc Negev — và tên của vùng bờ Tây sông Jordan là Peraera.
Ngôn ngữ chính của cả vùng Lưỡng Hà và Syria là tiếng Xê-mít (Semitic) được chia thành nhiều nhóm. Nhóm lâu đời nhất là nhóm Akkadian bao gồm tiếng Assyrian và tiếng Babylonian dùng trong vùng Lưỡng Hà. Một nhóm khác là nhóm ngôn ngữ Canaanite bao gồm tiếng Do Thái của Thánh Kinh, tiếng Phoenician cùng một ngôn ngữ từ nó phát sinh ra và dùng ở Bắc Phi là tiếng Carthaginian và một số ngôn ngữ khác cùng dòng họ mà người ta đọc được trên các bản khắc ở cả hai miền Nam và Bắc Syria. Vào buổi đầu của kỷ nguyên Cơ Đốc, những ngôn ngữ trên hầu như đã biến mất và thay vào đấy là một nhóm ngôn ngữ rất gần nhau thuộc một dòng ngôn ngữ Xê-mít khác gọi là ngôn ngữ Aramaic. Trong số các ngôn ngữ Canaanite, tiếng Phoenician vẫn được dùng trong các cảng biển vùng Cận Đông và các thuộc địa Bắc Phi, tiếng Do Thái cổ mặc dù không còn thông dụng nhưng vẫn là ngôn ngữ của tôn giáo, văn học và bác học. Tiếng Assyrian và tiếng Babylonian có vẻ đã hoàn toàn biến mất. Tiếng Aramaic lại trở thành một ngôn ngữ quốc tế cho thương mại và ngoại giao và được sử dụng rộng rãi không chỉ trong vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu mà cả Ba Tư, Ai Cập và miền Nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
Lúc kỷ nguyên Cơ Đốc mới bắt đầu, tiếng A-rập, ngôn ngữ Xê mít cuối cùng vào được trong vùng, chủ yếu chỉ được dung ở miền Trung và miền Bắc bán đảo Arabia. Các thành phố phát triển hơn ở miền Tây Nam trên đất nước Yemen ngày nay lại nói một thứ tiếng Xê-mít khác gọi là tiếng A- rập miền Nam nó rất gần tiếng Ethiopia vì chính tiếng này là do các di dân từ Nam Arabia đến vùng Sừng (Horn) châu Phi du nhập vào. Trên miền Bắc, có nhiều bằng chứng
cho thấy những người nói tiếng A-rập đã đến lập nghiệp ở vùng biên giới giữa Syria và Iraq từ trước khi có cuộc chinh phục A-rập vào thế kỷ thứ VII, lẽ tất nhiên là sau đó tiếng A-rập được thịnh hành khắp vùng. Trong vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu, tiếng A-rập đã thay thế tiếng Aramaic, thứ tiếng này ngày nay chỉ còn tồn tại trong các nghi thức tế lễ của một số Nhà thờ Phương đông và ở một số ngôi làng hẻo lánh.
Đất nước ngày nay mang tên Thổ Nhĩ Kỳ - tên này chỉ dung ở Âu châu - chỉ được gọi như thế vào thời Trung cổ khi người Thổ từ phương Đông di cư đến. Trong những thế kỷ đầu của Công nguyên, người ta thường gọi vùng này là Á, Tiểu Á hay Anatolia. Tên này dùng để chỉ những vùng đất nằm trên bờ Đông biển Aegean và dần dần mở sâu vào đất liền một cách không rõ rệt và lộn xộn. Vùng này thường được gọi theo tên các tỉnh, thành phố hay các vương quốc có mặt ở đó. Tại đây, tiếng Hy Lạp chiếm địa vị độc tôn và là tiếng phổ thông nhất.
“Anatolia” theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “phía Mặt Trời mọc” cũng như trong tiếng Latin “Orient” (phía Đông) và tiếng Italia “Levant” (Mặt Trời mọc). Những tên ấy biểu thị quan niệm của những người mà đối với họ vùng Đông Địa Trung Hải đã là tận cùng thế giới. Chính những người dân vùng Địa Trung Hải vì dần dần biết được còn có một châu Á rộng lớn ở phương Đông nên đã gọi vùng đất mà họ biết đến là Tiểu Á. Cũng tương tự như vậy, khi một phương Đông xa xăm xuất hiện trước mắt người phương Tây thì địa danh “phương Đông” cổ xưa có từ bao đời trước được thay thế bằng từ “Cận” hay “Trung” Đông. Trong số các đất nước xa xăm ấy
thì vùng quan trọng nhất và mang trong mình nhiều hiểm nguy nhất cho Trung Đông chính là Iran, còn được gọi là Ba Tư. Theo đúng nghĩa của nó, Ba Tư, Persia hay Persis không phải là tên một nước hay một quốc gia mà là tên một tỉnh, Pars hay Fars ở miền Tây Nam Iran, trên bờ đông của một vịnh biển mang tên nó, vịnh Péc-xích (vịnh Ba Tư). Người Ba Tư không bao giờ dùng tên này để chỉ toàn bộ đất nước họ mặc dù họ dùng từ Ba Tư để gọi tiếng nước họ vì tiếng địa phương của vùng Pars trở thành ngôn ngữ văn hoá và chính trị của cả nước chẳng khác gì tiếng vùng Tuscany ở Italia, tiếng vùng Castile ở Tây Ban Nha và tiếng vùng London ở Anh. Người Ba Tư luôn luôn gọi tên nước mình là Iran, năm 1935 họ bắt cả thế giới cũng phải dùng tên này. Tên này xuất xứ từ chữ Ba Tư cổ aryanam, một từ theo sở hữu cách có nghĩa là “(đất nước) của người Aryan”, đã có từ giai đoạn di cư đầu tiên của dân Indo-Aryan đến đây.
Bản đồ tôn giáo của Trung Đông lại còn phức tạp và rối rắm hơn cả bản đồ chủng tộc và ngôn ngữ. Vài vị thần thánh xưa đã biến mất và rơi vào quên lãng nhưng nhiều vị còn tồn tại dù dưới những hình thù kỳ quặc và đã biến cải. Bao nhiêu cuộc chinh phục và di dân đã xảy ra trong vùng này, sau đó lại có ảnh hưởng mạnh mẽ của Hy Lạp và cuộc đô hộ La Mã cho nên nhiều tôn giáo hổ lốn đã ra đời. Một vài tôn giáo Đông phương này cũng có người La Mã theo, đôi khi cả những người ở thủ đô La Mã. Thần Isis của Ai Cập, thần Adonis của Syria, nữ thần Cybele ở Phrygia trong vùng Tiểu Á, tất cả đều có người thờ phụng trong số các vị chủ La Mã mới của Trung Đông.
Trong một khoảng thời gian ngắn, vài thế kỷ chứ không đến vài thiên niên kỷ, các tôn giáo và thánh thần ấy đã bị phế bỏ, thay vào đó là hai tôn giáo đơn thần mới lần lượt xuất hiện và cạnh tranh nhau: đó là đạo Cơ Đốc và đạo Hồi. Hồi giáo xuất hiện và lớn mạnh trong thế kỷ thứ VII. Về một ý nghĩa nào đó, nhờ việc đã có sự hình thành và phát triển của Cơ Đốc giáo, tôn giáo này chính nó cũng chịu ảnh hưởng của các trào lưu tôn giáo và triết học đi trước. Cả hai nền văn minh Cơ Đốc và Hồi giáo đều bắt nguồn từ sự gặp gỡ và tương tác trên vùng đất Trung Đông cổ xưa của ba truyền thống phổ biến, đó là các nền văn minh Do Thái, Ba Tư và Hy Lạp.
Khái niệm về tính đơn thần thật ra không phải hoàn toàn mới lạ. Nó đã xuất hiện chẳng hạn trong Bài ca tán dương Akhenaton, vua Ai Cập ở thế kỷ XIV (TCN). Nhưng những ý tưởng ấy chỉ xuất hiện một cách lẻ tẻ và đơn độc, chỉ có tiếng vang nhất thời và cục bộ. Người Do Thái là những người lần đầu tiên đưa đạo lý đơn thần thành chủ thuyết của tồn giáo mình, và các kinh sách Do Thái cho thấy có sự chuyển biến từ một hiện tượng thờ cúng trong bộ lạc thành một thuyết đơn thần phố biến. Các kinh sách ấy cũng phản ánh việc người Do Thái ý thức được là lòng tin mới này cũng làm cho họ tách rời khỏi các dân tộc láng giềng vẫn còn thờ thần tượng và theo thuyết đa thần. Trong thời hiện tại, nhưng ai cho là mình nắm được sự thật thường hay tin sự thật ấy do chính mình phát hiện ra. Ngày xưa, tính tự phụ ấy chắc là không có được. Đứng trước việc kỳ lạ là họ là những người độc nhất phát hiện ra rằng chỉ có một Thượng đế duy nhất, những người Do Thái cổ không thể tin là họ đã lựa chọn Thượng đế nên có một thái độ khiêm tốn hơn: chính
Thượng đế đã lựa chọn họ. Việc lựa chọn này mang đến cho họ nhiều quyền lợi nhưng cũng kéo theo nhiều trách nhiệm mà đôi khi đè nặng lên vai họ. “Ta đã lựa các người trong số các gia tộc trên quả đất, do đó ta sẽ nghiêm trị tất cả các lỗi lầm của các người” (Amos 3:2, Kinh Cựu Ước).
Tuy nhiên, không chỉ người Do Thái mới công nhận và thờ phụng một Thượng đế đạo đức và toàn năng. Đi quá về phía Đông, trên cao nguyên Iran, hai dân tộc anh em, người Medes và người Ba Tư cũng dần dần chuyển từ tục thờ cúng nhiều thần thánh sang lòng tin vào một vị Chúa tối thượng, biểu hiện cuối cùng của điều Thiện luôn luôn đấu tranh chống lại điều Ác. Sự xuất hiện của tôn giáo này gắn liền với tên tuổi nhà Tiên tri Zoroaster mà các lời dạy còn được giữ lại trong các văn bản cổ viết bằng chữ Ba Tư nguyên thuỷ. Người ta không biết được niên đại của thời nhà Tiên tri này sinh sống và giảng dạy, các phỏng đoán do các nhà nghiên cứu đưa ra sai nhau đến hàng nghìn năm hay hơn nữa. Nhưng có vẻ rõ ràng là các hoạt động tôn giáo của chủ thuyết Zoroaster mạnh nhất vào các thế kỷ thứ VI và thứ V (TCN). Trong nhiều thế kỷ, hình như hai dân tộc Medes và Ba Tư đi tìm Thượng đế theo hai con đường khác nhau và không biết đến nhau. Những sự kiện làm đảo lộn thế giới ở thế kỷ thứ 6 (TCN) mới làm cho họ xích lại gần nhau. Các sự kiện ấy còn để lại nhiều hậu quả khắp nơi trong nhiều thế kỷ.
Năm 586 TCN, vua Babylon là Nebuchadnezzar đưa quân đi chinh phục khắp nơi và chiếm được Jerusalem, tiêu diệt vương quốc Judah và phá tan đền thờ của người Do Thái rồi theo tục lệ thời bây giờ, lưu đày dân Do Thái đi Babylonia. Chỉ vài thập kỷ sau,
người Babylonia lại bị vua Cyrus của người Medes đánh bại. Cyrus là người sáng lập ra một đế quốc Ba Tư mới có biên giới đến tận Syria và xa hơn nữa. Có vẻ như những người chiến thắng và một bộ phận trong số các dân tộc bị trị trên đất nước rộng mênh mông và đa ngôn ngữ của họ, người Do Thái, đã có những niềm tin và thế giới quan khá gần nhau. Cyrus cho phép người Do Thái từ Babylonia về lại đất Israel và dùng công quỹ để tái tạo ngôi đền ở Jerusalem. Trong Thánh Kinh Do Thái Cyrus được tôn sùng ở một mức độ mà không một vị vua nào không phải người Do Thái và ngay cả chỉ một số ít vua Do Thái mới đạt được. Các chương cuối của kinh văn Isaiah được viết sau vụ lưu đày ở Babylon đã nói lên với những lời lẽ đầy kịch tính: “Người (Cyrus) là kẻ dẫn dắt chúng ta; Người thỏa mãn mọi yêu cầu của chúng ta: Người nói với Jerusalem: Xây dựng lại đi! Người nói với Ngôi đền: Hãy đổ móng đi!” (Isaiah 44:28). Chương tiếp theo lại còn đi xa hơn nữa: “Rồi Thượng đế nói với Cyrus, người mà Thượng đế đã cho xức dầu Thánh: Ta cầm tay con để mọi dân tộc phải quỳ gối trước con…” (Isaiah 45:1). Giữa những tập Kinh Do Thái đầu tiên và cuối cùng viết trước và sau cuộc giam cầm dân chúng ở Babylon, người ta thấy có những khác biệt về lòng tin và nhãn quan phần nào có thế do ảnh hưởng của các tư tưởng tôn giáo của Iran. Đặc biệt là ý niệm về một cuộc đấu tranh trong vũ trụ giữa Thiện và Ác, giữa Thượng đế và Ma Quỷ, cuộc đấu tranh này có sự góp sức của con người; ý niệm rõ rệt hơn về Phán xử sau cái chết, về những thưởng phạt trên Thiên đường và dưới Địa ngục; ý tưởng về một vị Cứu thế từ những hạt giống thần thánh sinh ra, đã được xức dầu Thánh và khi thời gian bước vào giai đoạn cuối cùng sẽ xuất hiện để bảo đảm cho cái
Thiện thắng cái Ác. Người ta thấy rõ ảnh hưởng của các tư tưởng ấy lên đạo Do Thái ở giai đoạn muộn và đạo Cơ Đốc ở giai đoạn sớm.
Mối liên hệ Do Thái-Ba Tư còn có những hậu quả về mặt chính trị. Người Do Thái được Cyrus ưu ái nên cũng đền đáp lại bằng cách trung thành phục vụ nhà vua. Nhiều thế kỷ sau, trong đất nước họ hay ở các vùng do La Mã chiếm đóng, người Do Thái bị nghi ngờ, đôi khi không phải vô cớ, là có cảm tình hay thậm chí cộng tác với người Ba Tư là kẻ thù của La Mã.
Triết gia và cũng là sử gia người Đức, Karl Jaspers cho rằng giai đoạn giữa năm 600 và năm 300 (TCN) là một giai đoạn “mấu chốt” trong lịch sử loài người, khi các dân tộc ở cách xa nhau và không hề có quan hệ gì với nhau đồng thời có những đột phá quan trọng trên các mặt tinh thần và trí tuệ. Đó là thời của Khổng Tử và Lão Tử ở Trung Quốc, Thích Ca ở Ấn Độ, Zoroaster hay các môn đồ chính của ông ở Iran, các nhà tiên tri ở Israel, các triết gia ở Hy Lạp. Tất cả hầu như không biết đến nhau. Có thế có một chút hoạt động của các nhà truyền giáo Phật học người Ấn Độ ở Trung Đông nhưng ít ai biết đến và không mang lại kết qua nào. Các quan hệ tốt đẹp giữa người Do Thái và người Ba Tư được xây dựng dưới thời Cyrus và những người nối nghiệp ông. Những người nối nghiệp Cyrus cũng đã mở rộng bờ cõi về phía Tây đến tận biển Aegean rồi có những đụng độ với người Hy Lạp, do đó tạo ra mối thông thương giữa các dân tộc Ba Tư và nền văn minh Hy Lạp lúc ấy mới nổi lên. Thiên tài của người Hy Lạp là trong các lĩnh vực triết học và khoa học hơn là trong tôn giáo nhưng những khám phá của các triết gia và các nhà
khoa học Hy Lạp sẽ có ảnh hưởng lớn đến các nền văn minh tôn giáo của Trung Đông và đương nhiên là của thế giới. Các thương nhân Hy Lạp đã rất sớm khám phá ra vùng Trung Đông và những thông tin về các vùng đất kỳ lạ ấy họ mang về cũng đủ khơi dậy tính tò mò ngày càng lớn mạnh của các triết gia và khoa học gia Hy Lạp. Đế quốc Ba Tư bành trướng lại càng làm cho việc thông thương đi lại dễ dàng hơn, ngôn ngữ thành thạo hơn và các chuyên gia Hy Lạp dễ dàng tìm được việc làm ở tất cả các cấp của chính quyền để chế Ba Tư. Cuộc chinh phục phương Đông của Alexander Đại đế (356-323 TCN) xứ Macedonia mở đầu cho một thời đại mới: quyền thống trị của người Macedonia và ảnh hưởng văn hoá của Hy Lạp tràn qua Iran vào Trung Á đến tận biên giới Ấn Độ, về phía Nam thì vượt quá Syria vào Ai Cập. Sau khi Alexander qua đời, đất đai ông chiếm được đều chia cho những người thừa kế và lập nên ba vương quốc ở Iran, Syria và Ai Cập.
Trước cuộc chinh phục của Alexander Đại đế, người Hy Lạp đã biết sơ qua về Ba Tư, nay họ trở nên quen thuộc với các vùng đất bí hiểm là Lưỡng Hà, Syria và Ai Cập. Họ nắm quyền thống trị ở đây rồi sau đó bị người La Mã thay thế nhưng văn hoá của họ vẫn tiếp tục ngự trị trên vùng này ngay cả dưới thời đô hộ của La Mã. Năm 64 (TCN), vị tướng La Mã là Pompey chiếm được Syria rồi lấn qua Judaea. Năm 31 (TCN) sau khi Antony và Cleopatra bị thất trận ở Actium, dòng vua Ai Cập Ptolemy của người Macedonia và Hy Lạp lập nên cũng phải thần phục La Mã. Trước chiến thắng toàn diện của nền văn hoá Hy Lạp và sự thông trị của La Mã, chỉ có hai dân
tộc dám đứng lên chống trả: đó là người Ba Tư và người Do Thái với những kết quả khác nhau.
Khoảng năm 247 TCN, một nhân vật tên là Arshak lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống người Hy Lạp và sáng lập một triều đại độc lập còn ghi trong lịch sử dưới tên gọi triều đại Parthia phỏng theo tên của bộ lạc và địa phương gốc. Mặc dù người Macedonia tìm đủ mọi cách để lập lại quyền cai trị, song người Parthia vẫn duy trì và còn mở rộng được nền độc lập của mình để trở thành một quốc gia hùng mạnh cạnh tranh được cả với đế quốc La Mã. Tuy nhiên họ vẫn mở rộng cửa để đón nền văn hoá Hy Lạp mà ảnh hưởng không phải là không lớn. Sau khi triều đại Parthia bị Ardashir (226-240 CN) lật đổ để lập nên triều đại Sasanid và trở lại tín ngưỡng theo Zoroaster thì mọi việc đều thay đổi. Đạo Zoroastrianism nay trở thành quốc giáo của Iran và là một bộ phận của bộ máy quyền lực, của xã hội và của chính phủ. Có lẽ đây là thí dụ đầu tiên của một quốc giáo với một tính chính thống do nhà nước áp đặt và một hàng giáo phẩm chỉ lo việc phát hiện và đàn áp mọi chống đối. Cách làm này của triều đại Sasanid thật khác hẳn tính độ lượng và chủ nghĩa chiết trung của người Parthia trước đây và của đế quốc La Mã. Đạo Zoroastrianism và hàng giáo phẩm của nó dựa vào mối quan hệ này với chính quyền để tăng cường thế lực, nhưng một khi chính quyền bị đổ thì cũng bị vạ lây. Hàng giáo phẩm bị tan rã khi đế quốc Ba Tư không còn nữa. Sau cuộc chinh phục của người A-rập và sự sụp đổ của đế quốc Ba Tư, đạo Zoroastrianism cũng tàn lụi và không hề hồi sinh, ngay cả khi đời sống chính trị và văn hoá ở Iran trỗi dậy trong giai đoạn Hồi giáo thịnh hành thì nó cũng chẳng có bất kỳ một đóng góp
nào. Cuộc kháng cự về mặt tôn giáo chống lại sự thâm nhập của Hồi giáo vào Iran không phải phát sinh từ hàng giáo phẩm chính thống của Zoroastrianism quen nắm quyền bính mà lại từ đám dị giáo của nó, tức là từ những người dày dạn với chống đối và quen chịu đựng đàn áp.
Một số dị giáo của Zoroastrianism lại đóng những vai trò rất quan trọng trong lịch sử Trung Đông nói riêng và trong lịch sử nhân loại nói chung. Thuyết Mithraism được biết đến nhiều đã có vô số môn đệ trong đế quốc La Mã đặc biệt là trong giới quân sự và ngay cả trên nước Anh, ở đây ngày nay người ta còn tìm được dấu vết của một ngôi đền Mithraistic. Một dị giáo khác được biết đến nhiều hơn, đó là giáo thuyết Manicheism hay là tôn giáo của Mani, người đã sống từ năm 216 đến 277 và sáng lập nên một tôn giáo kết hợp các tư tưởng Cơ Đốc và Zoroastrianism. Vào năm 277, Mani bị đem ra hành quyết nhưng đạo của ông tỏ ra có sức sống mãnh liệt và đã tồn tại mặc dù ở Trung Đông bị người Hồi giáo và ở châu Âu bị người Cơ Đôc đàn áp dã man. Một dị giáo thứ ba, mặc dù có tính chất địa phương nhưng lại rất quan trọng, đó là giáo thuyết của Mazdak, phát triển vào đầu thế kỷ thứ VI tại Iran và đã xây dựng nên một loại chủ nghĩa cộng sản tôn giáo. Thuyết này về sau là nguồn cảm hứng cho các phong trào ly khai Hồi giáo Si-i ở Iran.
Đạo Zoroastrianism là tôn giáo đầu tiên có tính chính thống và độc quyền của một đế quốc. Tuy nhiên đấy là một tôn giáo của Iran và ngoài thế giới văn hoá của đế quốc Iran, nó không truyền ra các dân tộc khác. Đây không phải là một trường hợp đặc biệt vì hầu hết các tôn giáo cổ đều có tính dân tộc, trở thành đạo đức của công dân
và có mang màu sắc chính trị; sau một thời gian, chúng sẽ biến mất cùng với cơ chế chính trị đã nâng đỡ chúng. Chỉ có một ngoại lệ, một tôn giáo thời cổ đại đã sống sót sau khi cơ sở chính trị và địa bàn hoạt động của nó đã bị huỷ diệt; nó đã tồn tại mà không cần đến các cơ sở này nhờ một quá trình tự biến đổi tích cực. Quá trình ấy cũng là cơ chế biến con cháu Israel thành dân Judaea rồi thành người Do Thái.
Người Do Thái đã thất bại trong cuộc đương đầu chính trị chống lại Hy Lạp và La Mã. Ban đầu, dưới sự lãnh đạo của gia đình họ Maccabee, họ đã khẳng định được nền độc lập của mình đối với vị vua Seleucid nước Syria và sau đấy phục hồi nền độc lập của vương quốc Judaea. Nhưng sau nhiều cuộc nổi dậy chống lại người La Mã, một số lần do người Ba Tư xúi giục và giúp đỡ, họ đã bị đánh tan và bị bắt làm nô lệ. Nhà vua và các Trưởng giáo của họ trở thành bù nhìn của người La Mã và đất nước Judaea bị đặt dưới quyền cai trị của một vị khâm sai La Mã. Lần nổi dậy lớn nhất bắt đầu vào năm 66. Sau một cuộc chiến đâu lâu dài và gian khổ, những người nổi dậy bị thất bại và vào năm 70, người La Mã chiếm được Jerusalem rồi phá tan ngôi đền thứ hai mà những người Do Thái bị lưu đày ở Babylon khi trở về đã xây dưng. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến của dân Do Thái vẫn còn tiếp diễn và sau khi dẹp tan cuộc nổi dậy Bar-Kokhba năm 135, người La Mã quyết định có một giải pháp dứt điểm đối với đám dân cứng đầu này. Cũng như người Babylonian trước đấy, họ bắt cầm tù và lưu đày đại bộ phận dân Do Thái, lần này thì không có vua Cyrus đến cứu nữa. Họ còn xoá bỏ mọi tên tuổi, địa danh Do Thái. Thành phố Jerusalem được gọi là
Aelia Capitolina, trên khoảnh đất cũ của ngôi đền Do Thái, họ cho xây một thánh đường thờ cúng thần Jupiter. Các tên nước như Judaea và Samaria cũng bị cấm và thay vào đấy là tên Palestine, phỏng theo tên dân tộc Philistine đã từ lâu rơi vào quên lãng.
Có một đoạn trong kinh Talmud của người Do Thái minh họa một cách sống động những quyền lợi và những hình phạt mà cuộc đô hộ của người La Mã mang đến cho người dân Do Thái và có lẽ cho mọi tầng lớp dân chúng ở Trung Đông. Đoạn văn kể lại cuộc đối thoại giữa ba thầy tu Do Thái vào thế kỷ thứ II:5
Thầy cả Judah mở đầu câu chuyện: “Những người này (người La Mã) đã thực hiện nhiều thứ lắm, họ mở chợ búa, xây cầu cống, dựng nhà tắm.” Thầy cả Jose lặng thinh và thầy cả Simeon Bar-Yohai trả lời: “Họ chỉ xây những gì phục vụ cho nhu cầu của họ mà thôi. Họ xây chợ cho gái điếm ở, họ xây nhà tắm để họ tắm rửa, họ xây cầu để thu phí giao thông”. Judah, con một gia đình mới vào đạo, đem chuyện này trình nhà chức trách. Nhà chức trách nói: “Judah khen chúng ta thì sẽ được thưởng, Jose không nói gì thì bị đày đi Sepphoris còn Simeon dám phê bình chúng ta thì sẽ bị tử hình.”
Trên một phương diện quan trọng, cả người Do Thái, Hy Lạp và La Mã đều giống nhau và điểm này làm họ khác hẳn các cổ dân khác, điểm đồng nhất và khác biệt này làm cho cả ba dân tộc giữ những vai trò then chốt trong các nền văn minh sẽ đến. Trong vùng Trung Đông cũng như ở các nơi khác trên thế giới, các nhóm người thường có thói quen vạch rõ đường ranh giới giữa họ và các nhóm
khác - như vậy để xác định mình và loại trừ kẻ khác. Bản năng này đã có từ buổi bình minh của nhân loại và xa hơn nữa vì nó có trong mọi hình thức của đời sống sinh vật. Nó luôn luôn được xác định bởi huyết thống, bởi dòng họ, bởi cái mà ngày nay người ta gọi là mối liên hệ sắc tộc. Người Hy Lạp và người Do Thái, hai dân tộc rành rọt nhất trong vùng Địa Trung Hải cổ xưa đã để lại hai định nghĩa cổ điển về Kẻ khác: những ai không phải Hy Lạp đều là dân man rợ, còn những ai không phải Do Thái đều là dân lành. Các hố ngăn cách theo hai định nghĩa ấy rất sâu rộng nhưng — đây lại có một điều mới lạ vô cùng quan trọng — chúng không phải là không vượt qua được. Trên điểm này, chúng khác các định nghĩa ban sơ và phổ thông về các khác biệt dựa trên huyết thống. Các hố sâu ngăn cách ấy có thể vượt qua và lấp bằng nếu ngôn ngữ và văn hoá của người Hy Lạp được noi theo trong trường hợp đầu hay tôn giáo và luật pháp của người Do Thái được chấp nhận trong trường hợp thứ hai. Cả hai nhóm đều không muốn tìm thêm thành viên mới nhưng cả hai sẵn sàng đón tiếp họ; vào giai đoạn đầu của kỷ nguyên Cơ Đốc, trong các thành phố Trung Đông người ta thường gặp những dân man rợ đã Hy Lạp hoá và những dân lành đã Do Thái hoá.
Trên một mặt khác, người Hy Lạp và người Do Thái tỏ ra rất đặc biệt trong thế giới cổ, đó là vì họ có lòng trắc ẩn đối với kẻ thù. Không có gì so sánh được với những lời nhà viết kịch Hy Lạp Aeschylus, một cựu chiến binh trong các cuộc chiến tranh chống Ba Tư, đã dùng để mô tả những khổ ải mà người Ba Tư thất trận phải chịu đựng hay những mối quan tâm về số phận của dân chúng
Assyrian ở thành phố Nineveh được diễn trong sách Jonah của Kinh Cựu Ước.
Người La Mã còn đi xa hơn nữa trên nguyên tắc hội nhập bằng cách dần dần xây dựng nên một quy chế chung cho người công dân trong đế quốc. Người Hy Lạp trước đó đã phát minh ra ý niệm về người công dân, đó là một thành viên của xã hội có quyền tham gia xây dựng và điều hành chính phủ. Nhưng trong các thành phố Hy Lạp, quyền ấy chỉ dành riêng cho các cư dân gốc và con cháu của họ, người ngoài đến chỉ được hưởng quy chế kiều dân. Quyền công dân La Mã lúc đầu cũng tương tự như vậy, nhưng về sau các quyền lợi và nghĩa vụ công dân được mở rộng cho mọi người sống trong các tỉnh của đế quốc.
Khả năng tiếp thu nền văn hoá Hy Lạp, lý thuyết tôn giáo Do Thái và tổ chức xã hội La Mã đều là những tiền đề để Cơ Đốc giáo sinh sôi và phát triển, một tôn giáo có tính lan truyền mà mỗi giáo dân cho rằng mình đã nhận được lời thần khải cuối cùng của Thượng đế và mình có nhiệm vụ thiêng liêng là mang những lời ấy đến toàn nhân loại. Vài thế kỷ sau, một tôn giáo lớn thứ hai xuất hiện, đó là đạo Hồi. Nó cũng cho giáo dân của mình có cùng một ý niệm về chân lý và trách nhiệm của mình mặc dù nội dung và phương thức hành động có khác đi. Với hai tôn giáo như vậy, có cùng một đức tin, do cùng một tham vọng làm động cơ thúc đẩy, phát triển sát cánh nhau trên cùng một địa bàn nên không chóng thì chầy điều không tránh khỏi là sẽ có những đụng độ.
Chương 2
TRƯỚC KHI HỒI GIÁO RA ĐỜI
Trong giai đoạn giữa khi Cơ Đốc giáo ra đời và Hồi giáo xuất hiện nghĩa là trong khoảng sáu thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, một loạt sự kiện lớn đã xảy ra trong quá trình phát triển của các nền văn minh.
Sự kiện đầu tiên và trên nhiều mặt có tính quan trọng hàng đầu là sự ra đời của chính Cơ Đốc giáo, tôn giáo này phát triển dần và được hoan nghênh làm cho các tôn giáo Tiền Cơ Đốc trừ đạo Do Thái và các tôn giáo của người Ba Tư bị xoá bỏ hoàn toàn hay ít ra cũng bị nhấn chìm. Trong một khoảng thời gian, các tôn giáo đa thần truyền thống Hy-La còn ngoi ngóp duy trì và dưới triều hoàng đế Julian (361-363), người được biết trong sử sách Cơ Đốc như Julian Kẻ Bỏ đạo, cũng đã có một tia lửa hồi sinh cuối cùng. Trong nửa đầu của giai đoạn này, cho đến thế kỷ thứ IV, Cơ Đốc giáo lớn mạnh và lan rộng như một hình thức chống đối lại chính quyền La Mã. Đôi khi được cho phép nhưng phần lớn thời gian bị truy hại, Cơ Đốc giáo, tất nhiên là tách rời khỏi chính quyền, đã xây dựng thế chế riêng của mình là Giáo hội, có cơ cấu và tổ chức riêng, có ban lãnh đạo và cấp bậc riêng, có luật pháp và toà án riêng để rồi dần dần lan ra khắp thế giới La Mã.
Khi Hoàng đế Constantine (311-337) quy theo Cơ Đốc giáo thì đạo này đã chiếm lĩnh được đế quốc La Mã hay nói một cách khác, bị đế quốc La Mã cầm giữ. Hoàng đế quy theo tôn giáo mới thì dần
dần Nhà nước La Mã bị Cơ Đốc hoá. Lúc ấy chính quyền ra sức quảng bá cho tôn giáo mới và dưới triều Đại Hoàng đế Cơ Đốc Justinian (527-569), người ta đã dùng đủ mọi quyền uy không những chỉ để nâng đạo Cơ Đốc lên trên mọi tôn giáo mà còn để áp đặt ưu thế của giáo lý đã được nhà nước lựa chọn đối với mọi luồng tư tưởng khác. Từ lúc ấy trở đi, không chỉ có một mà có nhiều Giáo hội chủ yếu không thống nhất được với nhau về các vấn đề giáo lý và thường bị phân hoá do các xu hướng cá nhân, pháp lý, địa phương và ngay cả các cá tính quốc gia khác nhau.
Sự kiện lớn thứ hai là việc dời trọng tâm của đế quốc La Mã từ Tây sang Đông, từ thành phố Roma (La Mã) sang Constantinople, thành phố mà Constantine lập ra để làm kinh đô của mình. Sau khi Hoàng đế Theodosius qua đời, đế quốc lại tách làm hai phần do hai người con của ông trị vì, một đế quốc Tây phương thủ đô là Roma và một đế quốc Đông phương có thủ đô ở Constantinople. Trong khoảng thời gian tương đối ngắn, đế quốc Tây phương chịu nhiều cuộc xâm lăng của quân man di và bị tiêu diệt. Đế quốc Đông phương khắc phục được mọi khó khăn và tồn tại thêm khoảng 1.000 năm nữa.
Tên gọi By-dăng mà người ta gán cho đế quốc Đông phương là do các học giả thời nay đặt cho, nó chỉ là tên một khu định cư Byzantium mà thành phố Constantinople được xây chồng lên. Người By-dăng (tức Byzantines) không bao giờ tự gọi mình như thế. Họ xem mình là người La Mã dưới quyền cai trị của vua La Mã theo pháp luật La Mã. Thật ra cũng có một số khác biệt. Hoàng đế và thần dân đều là người Cơ Đốc và dù cho người dân By-dăng tự
nhận là người La Mã nhưng họ lại dùng từ Hy Lạp chứ không phải Latin để gọi tên mình — họ là người rhomaioi (từ Hy Lạp) chứ không phải là romani (từ Latin). Ngay các địa phương cũng chịu ảnh hưởng như vậy. Tại nhiều nơi, trên các bia khắc bằng tiếng Hy Lạp người ta hay nói đến việc cầu nguyện cho “bá quyền của người La Mã” — hegemonia ton Rhomaion — và một vị vua chư hầu ở công quốc ngoại biên Edessa, sau khi bị người Ba Tư truất quyền rồi được người La Mã đặt lên ngôi trơ lại đã tự nhận mình — bằng tiếng Hy Lạp — là philorhomaios, “thân La Mã”. Ngay cả ở đỉnh cao của quyền uy La Mã, tiếng Hy Lạp đươc xem là ngôn ngữ thứ hai của đế quốc. Trong Đế quốc La Mã Đông phương, nó lại là ngôn ngữ chính. Tiếng Latin còn chống đỡ được một thời gian nữa, có nhiều từ Latin được tìm thấy trong tiếng Hy Lạp của By-dăng và nhiều thế kỷ sau, cả trong tiếng A-rập của các giáo quốc Hồi giáo. Nhưng tiếng Hy Lạp đã chiếm lĩnh và duy trì được rất lâu về sau vị trí ngôn ngữ của chính quyền và của văn hoá. Ngay cả các ngôn ngữ và các nền văn học không phải Hy Lạp còn tồn tại được trong các tỉnh phía đông như tiếng Coptic, tiếng Aramaic và ngay cả về sau tiếng A-rập cũng chịu ảnh hưởng sâu xa của truyền thống triết học và khoa học Hy Lạp.
Sự kiện nổi bật thứ ba là công cuộc Hy Lạp hoá vùng Trung Đông, một quá trình đã xảy ra từ nhiều thế kỷ trước trong các đế quốc của Alexander Đại đế và dưới các triều đại Seleucid và Ptolemy, những đế quốc kế tục của Alexander ở Syria và Ai Cập. Cả nhà nước La Mã và các Giáo hội Cơ Đốc đều chịu ảnh hưởng sâu xa của nền văn hoá Hy Lạp. Cả hai cũng đóng góp nhiều cho việc
truyền bá văn hoá ấy. Các cơ cấu chính trị của nhà nước La Mã Đông phương đều mang dấu ấn của các truyền thống Hy Lạp do các đế chế của Alexander và những người kế tục để lại, với một khái niệm về vương quyền, trên nhiều mặt, rất khác với ý tưởng của các Hoàng đế Ceasar La Mã. Cả về mặt tôn giáo, những người Cơ Đốc nguyên thuỷ rất quan tâm đến những điểm tế nhị về triết học mà trước đây người Hy Lạp cũng có đề cập đến nhưng cả người La Mã và người Do Thái đều chẳng ai thèm nhòm ngó tới. Kinh sách Cơ Đốc, Kinh Tân Ước, được viết bằng một thứ tiếng rõ ràng là tiếng Hy Lạp mặc dù không phải là văn chương của các nhà soạn kịch hay các triết gia thành Athens. Ngay cả Kinh Cựu Ước cũng có một bản dịch ra tiếng Hy Lạp do cộng đồng người Do Thái nói tiếng Hy Lạp của thành phố Alexandria biên soạn từ nhiều thế kỷ trước.
Một thay đổi quan trọng khác, có thế phần nào do ảnh hưởng của các yêu tố có từ trước, là sự tăng cường tuần tự của cái mà ngày nay người ta gọi là một nền kinh tế chỉ huy — dùng quyền lực của Nhà nước để lập kế hoạch và điều khiển nền kinh tế. Trong các xã hội phát triển dọc những lưu vực sông, một chính sách như thế là điều tự nhiên, đặc biệt ở Ai Cập mà nền kinh tế có điều khiển đã đạt đến một mức độ cao dưới triều đại Ptolemy do một tướng lĩnh của Alexander sáng lập. Trong những thế kỷ đầu của Công nguyên, nhất là từ thế kỷ thứ III trở về sau, nhà nước can thiệp ngày càng nhiều vào công nghiệp, thương mại và ngành chế biến, ngay cả vào nông nghiệp. Chính quyền ngày càng kiểm soát các hoạt động kinh tế của những nhà kinh doanh tư nhân còn sót lại và tìm cách xây dựng rồi áp đặt một chính sách kinh tế quốc doanh. Trong nhiều lĩnh vực,
chính quyền còn tổ chức các doanh nghiệp nhà nước để thay thế các doanh nghiệp tư nhân. Chẳng hạn như quân đội thì hầu như chỉ dựa vào các doanh nghiệp nhà nước để được cung cấp vũ khí, thiết bị và đôi lúc cả quân trang nữa. Để nuôi quân, nhà nước thu thuế bằng tiền rồi phát các khẩu phần cho lính. Các hoạt động kinh tế quốc doanh càng phát triển thì các thành phần khác như các doanh nhân, các nhà thầu, nhà cung ứng… bị bóp nghẹt.
Nhà nước cũng còn can thiệp mạnh vào nông nghiệp. Nhiều bằng chứng cho thấy đất đai canh tác càng ngày càng bị thu hẹp. Pháp luật thời ấy, mà ngày nay còn tồn tại một phần quan trọng, thường cho thấy có mối quan tâm lo lắng của nhà nước khi thấy đất đai bị bỏ hoang ngày càng nhiều và qua nhiều ưu đãi về thuế khoá hay qua các biện pháp khác, nhà nước muốn khuyến khích nông dân và địa chủ trở lại khai thác đất hoang. Có vẻ đây là một vấn đề quan trọng, đặc biệt là từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI, nghĩa là từ thời Hoàng đế Diocletian (284-305), một người tích cực theo chủ nghĩa kinh tế chỉ huy, cho đến cuộc chinh phục của Hồi giáo mà hậu quả là một cải tổ cơ cấu quyền lực và chức năng kinh tế.
Cả hai đế quốc By-dăng và Ba Tư đều bị tràn ngập bởi làn sóng tấn công của Hồi giáo vào các thập kỷ đầu tiên của thế kỷ thứ VII nhưng số phận chung cuộc của họ rất khác nhau. Quân đội By-dăng bị thua nhiều trận lớn, nhiều đất đai bị rơi vào tay người A-rập nhưng vùng đất trung tâm là vùng Tiểu Á vẫn còn là Hy Lạp và Cơ Đốc; còn thủ đô Constantinople, mặc dù chịu nhiều cuộc tấn công, vẫn đứng vững sau các thành cao và đê biển của nó. Đế quốc By dăng dù có yếu đi chăng nữa thì vẫn tồn tại được thêm 700 năm;
còn ngôn ngữ, văn hoá và các định chế của nó cứ tiếp tục phát triển theo nhịp độ bình thường. Cuối cùng thì mảnh đất còn lại của Đế quốc Cơ Đốc Hy Lạp cũng bị tràn ngập vào năm 1453, nhưng By dăng đã truyền lại được cho một thế giới Cơ Đốc khác những lịch sử và ký ức của truyền thống xa xưa của mình.
Số phận của Ba Tư thì lại hoàn toàn khác. Không những chỉ các tỉnh thành ngoại vi mà cả thủ đô và toàn bộ đất đai đều bị thôn tính và sáp nhập vào lãnh thổ của đế quốc A-rập Hồi giáo mới mọc lên. Những người By-dăng giàu có sống ở Syria và Ai Cập đều chạy về Byzantium, những giáo dân Zoroastrian ở Ba Tư không có cách nào khác là ở lại sống dưới chính quyền Hồi giáo hay di tản sang một đất nước còn mở cửa tiếp đón họ là Ấn Độ. Trong những thế kỷ đầu của cuộc đô hộ Hồi giáo ở Iran, ngôn ngữ cổ và chữ viết của dân bản địa dần dần bị quên lãng, chỉ có một thiểu số càng ngày càng ít đi là còn sử dụng chúng. Ngay cả ngôn ngữ cũng bị cuộc chinh phục làm biến đổi chẳng khác gì khi tiếng Anglo-Saxon trở thành tiếng Anh. Chỉ tương đối gần đây, các nhà sử học mới phục hồi và giải mã các bài viết và bia khắc bằng tiếng Ba Tư cổ, do đó cuộc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Tiền Hồi giáo của Iran mới bắt đầu.
Trong sáu thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Cơ Đốc, lịch sử đế quốc Iran được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu của người Parthia và giai đoạn thứ hai của người Sasanid. Vị hoàng đế đầu tiên thuộc dòng Sasanid la Ardashir (226-240) đã tung ra một loạt các cuộc chiến chống La Mã. Vị hoàng đế kế tục là Shapur I (240-271) còn bắt được cả hoàng đế La Mã Valerian trong một trận đánh, đây là một kỳ tích mà ông hãnh diện đến nỗi cho khắc hình trên nhiều ngọn
núi ở Iran, đến nay còn giữ được. Trên các hình này, ta thấy hoàng đế Iran ngồi trên mình ngựa, một chân đạp lên cổ hoàng đế La Mã khúm núm đứng phía dưới. Hoàng đế Valerian về sau chết trong tù.
Cuộc đối đầu giữ Ba Tư và La Mã, về sau là giữa Ba Tư và By dăng là sự kiện chính trị nổi bật nhất trong lịch sử Trung Đông cho đến khi Hồi giáo nổi lên diệt tan một trong hai đối thủ và làm yếu đi khá nhiều đối thủ kia. Các cuộc chiến tranh liên miên vô tận xen kẽ là những giai đoạn hoà bình ngắn ngủi chắc chắn đã góp phần đưa đến kết cục nêu trên.
Cũng có một ngoại lệ, đó là giai đoạn Hoà bình Lâu dài kéo dài trên một thế kỷ. Năm 384, Hoàng đế Shapur III (383-388 CN) ký một hiệp ước ngưng chiến với La Mã. Ngoài mấy trận đánh lẻ tẻ trên biên giới vào năm 421-422, chiến tranh chấm dứt han cho đến đầu thế kỷ thứ VI thì lại nổ ra gần như liên tục mãi đến năm 628. Lúc ấy, một thế lực mới bắt đầu nổi lên và chẳng mấy chốc đánh bạt cả hai đối thủ.
Đối với các sử gia hiện đại và Trung cổ, mục đích chính của những cuộc chiến tranh ấy, như ai cũng đoán biết, là tranh cướp đất đai. Người La Mã đòi chủ quyền trên Armenia và Lưỡng Hà mà Ba Tư đang cai quản phần lớn thời gian ấy. Lý do là trước đấy, hoàng đế Trajan đã chinh phục được những vùng này vì vậy họ có quyền thiết lập một chủ quyền vĩnh viễn ở đây theo đúng một luận thuyết mà cả người La Mã, người Ba Tư và sau đó người Hồi giáo đều chấp nhận. Đế quốc By-dăng lại có thêm một lập luận nữa là đa số dân chúng các vùng Armenia và Lưỡng Hà theo Cơ Đốc giáo do đó phải thần phục vị hoàng để Cơ Đốc. Người Ba Tư thì đòi Syria,
Palestine, và ngay cả Ai Cập là những vùng mà Cambyses, con trai của Cyrus đã chinh phục vào năm 525 TCN. Trong suốt cuộc chiến tranh, thỉnh thoảng họ xâm chiếm và tàn phá vùng đất này và đôi khi cũng giữ được chúng trong thời gian ngắn. Tại đây mặc dù không có người Ba Tư hay người theo đạo Zoroastrianism nhưng lại có những nhóm dân cư không theo Cơ Đốc giáo và có thiện cảm với người Ba Tư.
Các sử gia hiện đại cũng đã có thể phát hiện và dẫn chứng về những mục tiêu khác của chiến tranh ngoài việc tranh cướp đất đai. Trong số những mục tiêu quan trọng nhất có việc kiểm soát con đường thông thương Đông Tây. Có hai mặt hàng nhập từ phương Đông và có tầm quan trọng đặc biệt đối với thế giới Địa Trung Hải: đó là lụa tơ tằm nhập từ Trung Quốc và đồ gia vị nhập từ Ấn Độ và Đông Nam Á. Sự trao đổi, buôn bán của các mặt hàng ấy phát triển rất mạnh và luật pháp La Mã có những điều khoản nhằm bảo vệ chúng khỏi bị gây trở ngại. Nhờ có các hoạt động mậu dịch này mà thế giới La Mã và By-dăng có tiếp xúc vơi các nền văn minh Á châu xa xôi, với Trung Quốc và Ấn Độ. Các trao đổi ấy không thường xuyên và sử chép rất ít việc thông thương hành khách. Người La Mã và sau đó là người By-dăng thường thanh toán bằng tiền vàng vì thế giới Địa Trung Hải hầu như không có mặt hàng gì để đổi lấy lụa Trung Quốc và gia vị Ấn Đô. Tuy nhiên, vàng là thứ mà người ta luôn luôn chấp nhận và một lượng lớn tiền vàng đã được chuyển đến Đông Á để trả tiền nhập hàng vào vùng Địa Trung Hải. Tiền vàng còn được đưa đến vùng Viễn Đông vì người Ba Tư đã kiếm được khá nhiều lời lãi khi làm trung gian buôn bán tơ lụa với Trung
Quốc, nhất là ở những giai đoạn họ lấn quân sang miền Đông chiếm được vùng Trung Á, do đó khống chế được mậu dịch tơ lụa ngay từ điểm xuất phát. Đôi khi cũng có ta thán về việc vàng chảy qua phương Đông quá nhiều nhưng nhìn chung có vẻ như thế giới La Mã chịu đựng khá tốt tình trạng này.
Con đường ngắn nhất đi từ Địa Trung Hải sang phương Đông chạy qua các vùng đất do người Ba Tư cai quản hay chiếm đóng và lẽ tất nhiên là trên cả mặt kinh tế lẫn chiến lược, cần phải có một con đường khác nằm ngoài phạm vi không chế của quân đội Ba Tư. Có thể lựa chọn hoặc đường bộ từ Trung Quốc xuyên qua các thảo nguyên Á Âu nơi có người Thổ sinh sống đến tận Biển Đen và lãnh thổ By-dăng hoặc đường biển ở phía Nam qua Ấn Độ Dương. Đường này dẫn đến vịnh Ba Tư và bán đảo A-rập rồi nối vào đường bộ qua Ai Cập và eo đất Suez hay có thể theo các đường lạc đà từ miền Tây Bán đảo A-rập và Yemen đến biên giới Syria. Mối quan tâm cua người La Mã và sau đó của người By-dăng là xây dựng và gìn giữ được các con đường thông thương ngoại vi ấy với Trung Quốc và Ấn Độ để có thế đi vượt tránh các trung tâm do Ba Tư kiểm soát. Còn đế quốc Ba Tư thì lại muốn lợi dụng vị trí nằm đè lên các con đường thông thương để khống chế nền mậu dịch By-dăng, khai thác nó trong thời bình và cắt đứt nó trong thời chiến. Kết quả là một cuộc tranh giành ảnh hưởng triền miên giữa hai đế quốc này trên những vùng đất nằm ngoài biên giới của họ. Hậu quả của những cuộc tranh hùng trên các mặt thương mại, ngoại giao và đôi khi quân sự giữa đôi bên thì thật là tai hại. Những người đầu tiên chịu các hậu qua ấy là các bộ lạc Thổ và các tiểu quốc trên miền Bắc,
các bộ lạc A-rập và các tiểu quốc dưới miền Nam. Cũng không có dấu vết gì cho thấy cả người Thổ lẫn người A-rập có đóng một vai trò gì quan trọng trong các nền văn minh cổ trong vùng. Nhưng về sau, qua các cuộc xâm lăng nối tiếp nhau, hai dân tộc ấy sẽ giữ những vị trí then chốt giữa lòng thế giới Hồi giáo vào thời Trung cổ.
Trong sáu thế kỷ đầu của Công nguyên, cả người Thổ lẫn người A-rập đều sinh sống ở ngoài biên giới của các đế quốc, trong các thảo nguyên của các dân tộc man rợ hay trong các sa mạc. Người Ba Tư cũng như người La Mã, ngay ca trong các thời kỳ bành trướng lãnh thổ đế quốc cũng đều không quan tâm đến các dân tộc sống trong thảo nguyên hay trên sa mạc và không muốn đụng chạm đến họ. Nhà viết sử La Mã của thế kỷ thứ IV, Ammianus Marcellinus, người gốc Syria, có viết về cả hai dân tộc này, về những người sống trong thảo nguyên, ông viết:6
Dân vùng này còn man rợ và thích chiến tranh, chết trong chiến đấu được họ xem là niềm hạnh phúc cao nhất, còn ai có cái chết tự nhiên thì bị nguyền rủa là suy đồi và hèn nhát (XXIII, 6.44).
Dân sống trong sa mạc được ông nói đến là “bọn Saracen … thì ta chẳng thèm kết bạn mà cũng chẳng muốn gây thù với chúng” (XIV, 4.1). Đưa quân đi chinh phục những dân tộc ấy thì tốn kém, khó khăn và nguy hiểm mà kết quả thu được thì vừa bấp bênh, vừa vô ích. Do đó, chính sách truyền thống của cả hai đế quốc là ve vãn các bộ lạc ấy bằng nhiều cách, nếu có thế thì lấy lòng họ bằng cách giúp đỡ về tài chính, quân sự, kỹ thuật, phong chức tước v.v… Ngay
từ đầu, các tù trưởng bộ lạc - tiếng Hy Lạp gọi là phylarch — cả ở miền Bắc và miền Nam đã biết cách lợi dụng tình hình này, khi theo bên này khi theo bên kia, có khi theo cả hai bên hoặc không theo bên nào cả. Tiền của kiếm được nhờ các đoàn lạc đà chở hàng buôn bán nhiều khi đủ cho họ xây dựng được những thành phố và vương quốc riêng của mình, có vai trò chính trị riêng biệt và chịu thần phục hay chỉ là đồng minh của hai đế quốc. Lắm lúc các đế quốc nói trên khi không thấy trở ngại gì thì xâm chiếm các vương quốc gần biên giới mình rồi áp đặt quyền cai trị trực tiếp. Nhưng thường thì họ hài lòng với một hình thức quản lý gián tiếp hay nhận các nước kia làm chư hầu.
Cách thức tiến hành này đã có từ xưa, có lẽ đã được áp dụng từ thời Cổ đại. Người La Mã bắt đầu chính sách ấy đối với các vương quốc trong sa mạc từ năm 65 TCN, khi hoàng đế Pompey đi thăm thủ đô Petra của người Nabatean, thành phố này ngày nay còn tồn tại trong vương quốc Jordan. Người Nabatean hình như thuộc giống A-rập mặc dù văn hoá và chữ viết của họ lại có nguồn gốc Aramaean. Họ xây dựng một thành phố giàu có làm nơi nghỉ chân cho các đoàn lạc đà trong ốc đảo Petra. Người La Mã thấy là nên có quan hệ thân thiện với họ và Petra trở thành một vùng đệm giữa các tỉnh biên giới của đế quốc La Mã và sa mạc, hơn nữa đây cũng là một vị trí phụ trên con đường đến miền Nam Arabia và đường buôn bán với Ấn Độ. Năm 25 TCN, hoàng đế Augustus áp dụng một chính sách khác bằng cách cho quân đi xâm chiếm vùng Yemen với mục đích là thiết lập một chỗ đứng ở vùng cực Nam Biển Đỏ và khống chế con đường đi qua Ấn Độ. Nhưng cuộc xâm lăng này bị thất bại
thảm hại và từ đấy người La Mã bỏ hẳn ý định ấy. Như vậy có nghĩa là họ không bao giờ dùng sức mạnh quân sự để thâm nhập vào Arabia nữa mà chỉ dựa vào các thành phố nơi dừng chân của các đoàn lạc đà hay các quốc gia trên biên giới với sa mạc để phục vụ việc buôn bán trao đổi trong thời bình và các nhu cầu chiến lược trong thời chiến.
Chính sách của La Mã đã giúp hình thành một loạt các tiểu vương quốc A-rập trên vùng biên giới mà Petra là quốc gia đầu tiên trong thời La Mã. Ngoài Petra còn có nhiều quốc gia khác, đặc biệt là Palmyra, nơi mà ngày nay gọi là Tadmur ở miền Đông Nam Syria. Palmyra được xây dựng xung quanh một suối nước trong sa mạc Syria. Đây là một ốc đảo cổ và có lẽ đã là một trung tâm định cư và thương mại có từ trước. Người dân ở đây đã mở một thương điếm ở Dura trên sông Euphrates và qua đó có thể tham gia vào việc trao đổi hàng hoá trên con đường xuyên sa mạc từ Địa Trung Hải đến Lưỡng Hà và vùng Vịnh. Nhờ vậy họ chiếm một vị trí quan trọng về thương mại và chiến lược.
Trên miền Bắc của hai đế quốc, tức là ở phía Bắc Biển Đen và biển Caspi nơi có con đường bộ nối liền Trung Á và Trung Quốc, tình hình cũng tương tự như vậy. Trong khoảng phần tư sau cùng của thế kỷ thứ I, hình như các bộ lạc trong vùng này đã nổi dậy chống Trung Quốc, quốc gia đang có một bá quyền khá lỏng lẻo ở đây. Dẫn đầu cuộc nổi dậy này là một dân tộc mà sử Trung Quốc gọi là rợ Hung Nô, có lẽ cùng một dòng giống với người Hung trong lịch sử châu Âu. Một vị tướng Trung Quốc tên là Ban Siêu (Pan Chao) đã đưa quân tiến vào Trung Á, phá tan quân phiến loạn và đánh bật
rợ Hung Nô khỏi con đường tơ lụa. Quân Trung Quốc tiếp tục tiến xa thêm và chiếm được vùng đất về sau gọi là Turkestan gồm lãnh thổ Uzbekistan và các nước láng giềng phía Tây. Nhờ vậy mà phần đường tơ lụa nằm trên châu Á thuộc về quyền kiểm soát của Trung Quốc. Đồng thời tướng quân Ban Siêu cử một phái bộ do một người tên là Khang Ưng (Kang Ying) dẫn đầu đi La Mã. Theo sách sử, phái bộ này đến được vịnh Ba Tư vào năm 97.
Những sự kiện này cùng các hoạt động quân sự và ngoại giao khác của Trung Quốc giúp ta hiểu vì sao hoàng đế La Mã Trajan lại triển khai một kế hoạch bành trướng tích cực và đầy tham vọng trong vùng Trung Đông. Năm 106, ông từ bỏ chính sách thân thiện có từ trước đối với Petra và đưa quân đi xâm chiếm thành phố này. Vương quốc của người Nabatean từ nay trở thành một tỉnh của La Mã tên là Provincia Arabia, đứng đầu là một vị khâm sai chỉ huy quân đoàn La Mã đóng ở Bosra. Hoàng để Trajan còn thiết lập một đường thuỷ nối liền Alexandria và Clysma bằng cách thông các kênh đào với các nhánh sông Nil để tàu thuyền La Mã có thế đi từ Địa Trung Hải qua Biển Đỏ. Năm 107, một phái bộ La Mã được gửi tới Ấn Độ và sau đó ít lâu người ta xây một con đường nối liền biên giới phía Tây của Syria và Biển Đỏ.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi các hoạt động trên làm cho người Parthia lo lắng và họ khởi động chiến tranh chống La Mã. Trong một chiến dịch bắt đầu từ năm 114, Hoàng để Trajan chiếm được Armenia, vùng đất tranh chấp chính giữa hai đế quốc, sau đấy ông ký một hiệp ước với nhà vua của vương quốc Cơ Đốc độc lập ở Edessa rồi vượt sông Tigris chiếm được một thành phố lớn của Ba
Tư là Ctesiphon, nằm gần Baghdad ngày nay, và thừa thắng kéo đến tận Vịnh Ba Tư. Chắc chắn là không phải chuyện ngẫu nhiên mà có một cuộc nổi dậy lớn xảy ra ở Judaea vào thời buổi ấy. Sau khi Hoàng để Trajan qua đời vào năm 117, người kế tục là Hadrian đã rút quân khỏi các vùng chiếm được ở phía Tây nhưng vẫn giữ lại Provincia Arabia (Tỉnh A-rập).
Vào khoảng năm 100, nghĩa là ngay trước khi Trajan bắt đầu mở rộng bờ cõi, tình hình bán đảo A-rập là như sau: Phần trong nội địa thì hoàn toàn không có một hình thức chính quyền nào cả, xung quanh là những quốc gia nhỏ, hay nói đúng hơn là những tiểu vương quốc có quan hệ nhiều mặt với các đế quốc của người Parthia ở phương Đông và người La Mã ở phương Tây. Dân ở đây sống nhờ con đường thông thương đi dọc ngang qua Arabia đến Yemen rồi từ đây theo đường biển đến Đông Phi châu và Ấn Độ.
Việc sáp nhập Petra vào đế quốc La Mã là một thay đổi lớn trong chính sách và làm sụp đổ sự cân bằng quyền lực có từ trước trong vùng, về sau người La Mã cũng có một chính sách tương tự đối với Palmyra và Palmyra cũng bị sáp nhập ở một thời điểm nào đó. Sử sách có ghi rằng vào thế kỷ thứ II, tại Palmyra có một đồn đóng quân của người La Mã.
Đến khi triều đại Sasanid được lập nên ở Ba Tư, nước này có một chế độ tập trung và hiếu chiến hơn trước và tình hình ở vùng Đông Bắc bán đảo A-rập có nhiều biến đổi; người Ba Tư chinh phục rồi sáp nhập luôn các tiểu vương quốc vùng biên giới. Đến khoảng giữa thế kỷ thứ III, họ phá huỷ Hatra, một trung tâm A-rập cổ và chiếm nhiều vùng dọc bờ vịnh Ba Tư.
Sử ký La Mã có ghi lại một giai đoạn khá thú vị vào nửa sau của thế kỷ thứ III khi một nữ tù trưởng mà người La Mã gọi là Zenobia (có lẽ tên A- rập là Zaynab) đứng lên để giành lại độc lập cho Palmyra. Bà bị quân La Mã do Hoàng đế Aurelian phái đến đánh bại và sau đó Palmyra lại bị đế quốc thôn tính.
Cũng vào thời gian ấy, nhiều thay đổi quan trọng đang xảy ra ở miền Nam bán đảo A-rập. Đây là một vùng đất có canh tác với các thành phố do những vương triều cai trị, khác hẳn với miền Bắc gần như hoang vắng. Nhưng các vương triều ấy về sau sụp đổ và được thay thế bằng một chính thế mới là vương quốc Himyar, địa bàn của nhiều cuộc tranh giành ảnh hưởng từ bên ngoài đến: người Ba Tư từ phương Đông và người Ethiopia từ phương Tây. Các vương triều Cơ Đốc hiếu chiến mới nổi lên ở Ethiopia lẽ tất nhiên rất quan tâm đến những sự kiện xảy ra trên bờ bên kia Biển Đỏ còn người Ba Tư thì luôn luôn tìm cách chống lại các ảnh hưởng của La Mã và Cơ Đốc mà đối với họ thì tuy hai mà một.
Ngay các tiền đồn xa xôi của nền văn minh Địa Trung Hải lúc ấy cũng chịu ảnh hưởng từ sự xuống dốc của nền kinh tế thế giới cổ và đặc biệt là sự đình đốn trong thương mại bắt đầu từ thế kỷ thứ III. Bằng chứng là số lượng tiền vàng La Mã của giai đoạn này do khảo cổ phát hiện càng ngày càng ít đi. Ở Ấn Độ người ta hầu như không tìm thấy tiền vàng từ niên hiệu Caracalla trở đi, Hoàng đế Caracalla qua đời năm 217. Giữa thế kỷ thứ IV và thứ VI, Arabia có vẻ như đã rơi vào một thời kỳ tăm tối, một gian đoạn nghèo đói mà đất đai trồng trọt thì thu hẹp lại, dân chúng rời bỏ các khu định cư và sống đời du mục. Nhiều ký ức sống động của giai đoạn này, giai đoạn
ngay trước khi đạo Hồi ra đời, vẫn còn ghi lại trong các truyện kể của người Hồi giáo.
Ít ra thì một phần nguyên nhân của tình trạng suy đồi này trên bán đảo A-rập cũng là vì hai đế quốc đang cạnh tranh nhau không còn quan tâm đến vùng đất ấy nữa. Trong một thời gian dài từ năm 384 đến năm 502, khi La Mã và Ba Tư không có chiến tranh với nhau thì chẳng còn ai để ý đến Arabia hay đến các con đường thông thương dài, tốn kém và nguy hiểm chạy qua các sa mạc và ốc đảo ở đây. Hàng hoá nay lại chuyên chở trên những đường khác thì thu nhập ở đây bị cạn kiệt, các đoàn lạc đà không còn qua lại thì các thành phố sẽ bị bỏ hoang. Ngay những dân định cư trong các ốc đảo cũng phải bỏ đi nơi khác hay trở lại đời sống du mục.
Không còn làm ăn buôn bán nữa và phải sống một đời sống du mục cho nên mức sống và trình độ văn hoá của người dân bị hạ thấp và trong một thời gian dài vùng Arabia bị tách rời khỏi thế giới văn minh như chưa từng thấy. Ngay cả miền Nam Arabia dù có mức phát triển cao hơn cũng phải chịu ảnh hưởng và nhiều bộ lạc du mục miền Nam chạy lên miền Bắc để mong có được nhiều đồng cỏ hơn cho súc vật. Cách sống du mục mà từ lâu đã chiếm một vị trí quan trọng trong xã hội A-rập đến nay trở thành rộng khắp. Giai đoạn lịch sử này về sau được người Hồi giáo gọi là Jahiliyya, Thời đại Mù quáng lẽ tất nhiên để đối lại với Thời đại Ánh sáng, thời đại của đạo Hồi. Đúng là một thời kỳ đen tối không phải chỉ so sánh với thời đại tiếp theo mà cả khi so sánh với thời trước đó. Và theo nghĩa ấy, sự ra đời của Hồi giáo có thể xem là một sự phục hồi, Kinh Cô-
ran lẽ tất nhiên cũng nói như vậy, đó là sự phục hồi của tôn giáo của Abraham.
Trong thế kỷ thứ VI, thế kỷ của Mu-ha-mát, tình hình lại đảo ngược. Sự kiện hàng đầu có tác động lên tất cả các sự kiện khác là cuộc chiến Ba Tư — By-dăng bùng nổ trở lại và kéo dài liên miên sau hơn một thế kỷ hoà bình. Và trong tình trạng chiến tranh và đối kháng giữa hai đế quốc mà Arabia một lần nữa trở thành đối tượng của sự tranh giành, dân chúng ở đây lại được ve vãn, tôn vinh và đôi khi được cả hai bên cung cấp tiền bạc. Trong thời bình, con đường thuận tiện nhất đi từ các nước Địa Trung Hải sang phương Đông là qua các triền sông vùng Vịnh Ba Tư. Trên lộ trình này, đường bộ tương đối ít và chủ yếu là đường thuỷ cho nên nó được xem là vừa rẻ vừa an toàn. Nhưng mọi việc đã thay đổi khi giữa Ba Tư và By-dăng lại có chiến tranh. Đối với người By-dăng, con đường qua Lưỡng Hà và vùng Vịnh trở nên quá mạo hiểm. Bất kỳ lúc nào, người Ba Tư cũng có thể cắt đường ấy, trong thời chiến bằng các hoạt động quân sự còn trong giai đoạn được xem là hoà bình giữa hai đế quốc thì họ có thể gây khó khăn nhờ các áp lực kinh tế. Do đó, lại một lần nữa, chính sách của By-dăng là tìm ra một con đường khác không bị Ba Tư chi phối.
Cũng như trước đây, có hai giải pháp chính: đường qua các thảo nguyên miền Bắc và đường qua các sa mạc và biển ở miền Nam. Việc nối lại con đường bộ xuyên Á là mục tiêu của hàng loạt thương lượng giữa Hoàng đế By-dăng và các Hãn vương của các quốc gia thảo nguyên vùng Trung Á. Nhiều đại sứ của các Hãn vương lần lượt đến Constantinople và sách sử By-dăng cũng nói đến một số
Hãn vương, khôn ngoan hơn các vị khác vì gửi sứ thần đến cả Ba Tư và By-dăng. Thường thì người By-dăng hay bị các Hãn vương chê trách là lừa lọc. Sử gia By-dăng là Menander có kể lại một sự cố ngoại giao xảy ra vào năm 576. Một phái bộ By-dăng, khi trình uỷ nhiệm thư lên một Hãn vương, bị khiển trách là bắt cá hai tay, vì có quan hệ cả với các kẻ thù của ông. Ông đưa cả mười ngón tay vào miệng và nói:7
Có phải các ngươi là những người La Mã có mười cái lưỡi và chuyên đi lừa dối không?… Cũng như ta hiện nay có mười ngón tay trong miệng, các ngươi có mười cái lưỡi, cái thì để lừa dối ta, cái thì để lừa dối [bọn Avars]… Các ngươi nịnh nọt và lừa dối mọi người, dùng lời xảo quyệt và các ý đồ phản phúc. Ai đang đâm đầu vào khổ ải thì các ngươi cũng mặc kệ miễn là các ngươi có lợi… Trời sinh ra người Thổ chúng ta là không hề biết nói dối.
Nhìn chung thì cả chủ và khách ở miền Nam cũng như trên miền Bắc có vẻ hiểu nhau rất rõ.
Vào thế kỷ thứ VI, đường phía Nam quan trọng hơn đường phía Bắc một phần vì có thế tránh xa Ba Tư, một phần vì nó có nhiều phương án. Qua các tài liệu, ta có thế hình dung được các chính sách và các hành động của ba bên có liên quan, phía By-dăng thì cố gắng mở và bảo vệ con đường thông thương đến Ấn Độ không để cho Ba Tư phá rối, phía Ba Tư thì muốn ngăn cản và cắt đứt con đường ấy, còn phía các dân tộc sống dọc đường này thì phải dựa vào tình hình trên để kiếm lợi, họ phải giúp mở đường nhưng không
cho By-dăng độc quyền khai thác và kiểm soát vì như thế sẽ làm giảm vai trò độc lập của họ.
Nhiều sự kiện xảy ra vào thời buổi ấy ăn khớp với kịch bản nêu trên. Thí dụ như sự xuất hiện trở lại của các quốc gia trên biên giới là chư hầu của cả phía By-dăng và phía Ba Tư. Về phía biên giới sa mạc của By-dăng thì có tiểu vương quốc A-rập Ghassan nằm trên vùng đất ngày nay là Jordan còn về phía Ba Tư thì có tiểu vương quốc Hira. Cả hai nước đều có dân gốc A- rập, cả hai có nền văn hoá Aramaic và cả hai đều theo Cơ Đốc giáo nhưng một nước thì thần phục By-dăng, nước kia theo Ba Tư.
Năm 527, Hoàng đế By-dăng là Justinian xúi giục Ghassan gây chiến với Hira. Hình thức chiến tranh của nước nhỏ đánh thay cho nước lớn sẽ trở nên cổ điển, hai nước lớn ở đây là By-dăng và Ba Tư. Nhà vua Ghassan được La Mã phong cho danh hiệu Quý tộc của đế quốc La Mã, được mời đến thăm Constantinople, được giúp đỡ về vũ khí và cố vấn và được viện trợ khá nhiều vàng. Về phía Ba Tư thì ít có sử sách ghi chép nhưng có lẽ tình hình cũng tương tự.
Một sự kiện thứ hai đáng chú ý là việc xuất hiện trên sân khấu lịch sử của hòn đảo Tiran nhỏ bé còn được gọi là Yotabe và nằm ở phía Nam bán đảo Sinai ngay chính giữa eo biển mang cùng tên Tiran. Trên đảo này hình như có một cộng đồng dân cư từ xưa đã theo nghề buôn bán vãng lai. Sử sách có chép rằng, năm 473 nhiều tù trưởng của đảo này đến thăm Constantinople, có người được xem là bạn, có người được xem là thù của đế quốc. Đôi khi dân cư đảo này được mô tả là người Do Thái nhưng người ta không biết đây là những người Do Thái đến định cư từ trước, những người mới
quy theo đạo Do Thái hay những người Do Thái mới đến từ Judaea. Dân trên đảo chuyên buôn bán với phương Nam, nghĩa là dọc theo Biển Đỏ, lúc đầu thì họ được độc lập và có xu hướng chống đế quốc By-dăng. Đến thế kỷ thứ VI, khi thương mại trong vùng Biển Đỏ trở nên quan trọng, đế quốc By-dăng giành quyền kiểm soát ở đây và giao cho một vị vua Ghassan quản lý cho thuận tiện.
Năm 525 cũng có một số sự kiện quan trọng. Mặc dù người Do Thái trên đảo Tiran-Yotabe bị chinh phục nhưng về phía Nam Biển Đỏ bắt đầu có người Do Thái sinh sống và vua Himyar cũng quy theo đạo Do Thái thành thử lần đầu tiên trên phần Tây Nam bán đảo A-rập đã có một vương quốc Do Thái. Chắc chắn phải có sự phối hợp nào đó mà trên hai đầu Biển Đỏ cùng một lúc bất ngờ xuất hiện hai cộng đồng Do Thái, cả hai cùng làm nghề buôn bán trên vùng Biển Đỏ, cả hai cùng theo một chính sách thân Ba Tư và chống By dăng.
Chính sách của By-dăng chủ yếu là trực tiếp chống Ba Tư. Các hành động của họ không những chỉ hướng về Ba Tư mà còn chống lại chính sách trung lập qua việc trừ khử hay khống chế các thế lực địa phương để giành bá quyền và chiếm lĩnh độc quyền buôn bán trên toàn bộ Biển Đỏ. Trên miền Bắc, người By-dăng tự đảm đương công việc này với ít nhiều trợ giúp của những thành phần A-rập đi theo họ. Ở miền Nam, nơi mà họ khó lòng vươn tới, người By-dăng đối đầu với thách thức đề ra bằng cách đưa vào sân chơi nước Ethiopia, một quốc gia Cơ Đốc giáo đồng minh của họ, để chống lại người Do Thái ở Yemen và để quốc Ba Tư đứng sau lưng người Do Thái. Lúc ấy, Ethiopia đã là một nước có nền mậu dịch quốc tế phát
triển, tàu bè của họ đưa hàng đến tân Ấn Độ và quân đội của họ có mặt trên lục địa Arabia. Người Ethiopia mới quy theo Cơ Đốc giáo nên rất sùng đạo và họ tích cực đáp ứng các yêu cầu của By-dăng.
Nhưng thật không may cho người Ethiopia vì họ không hoàn thành sứ mệnh đã được giao phó. Lúc đầu, họ tiêu diệt được quốc gia độc lập cuối cùng trên miền Nam Arabia để mở cửa cho những ảnh hưởng bên ngoài, chủ yếu là của Cơ Đốc giáo thâm nhập, nhưng lại không đủ mạnh để duy trì sự có mặt của mình ở đây. Từ Yemen, họ cũng cố gắng tiến lên miền Bắc, năm 507 họ tấn công Mecca, một thị trấn của Yemen nằm trên con đường mà các đoàn lạc đà phải qua. Nhưng họ đã thất bại và ít lâu sau phải rời khỏi Yemen nhường chỗ cho người Ba Tư.
Trong thời thơ ấu của Đấng Tiên tri, Yemen còn là một tỉnh của Ba Tư đặt dưới quyền cai trị của một tỉnh trưởng satrap. Việc Ba Tư chiếm đóng miền Nam Biển Đỏ là một thất bại lớn của chính sách By-dăng nhằm thiết lập một con đường thông thương riêng biệt và an toàn với phương Đông. Điều mỉa mai là cùng lúc ấy một phát triển mới làm toàn bộ vấn đề bị mất hết tầm quan trọng của nó. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc giấu nghề ươm tơ hết sức bí mật, ai đưa con tằm ra nước ngoài sẽ bị tử hình. Thế nhưng vào năm 552, hai thầy tu Cảnh giáo Nestorian lén lút đưa trứng tằm sang được By dăng và đến thế kỷ thứ VII ngành nuôi tằm dệt tơ đã khá thịnh hành trên vùng Tiểu Á. Tơ tằm Trung Quốc tuy vẫn được ưa chuộng vì độ bền và chất lượng của nó nhưng Trung Quốc không còn độc quyền trên thế giới về mặt hàng này nữa.
Cuối thế kỷ thứ VI, cả hai đối thủ phải rút lui hay bị suy yếu. Người Ethiopia bị đuổi khỏi Arabia và ngay trong nước họ, chính quyền cũng bị lung lay. Người Ba Tư thì còn cố giữ được một thời gian nhưng cũng bị suy yếu vì các vụ giành giật trong kế thừa ngôi báu và nhiều tranh chấp lớn trong nội bộ tôn giáo Zoroastrianism của họ. Người By-dăng cũng có những vấn đề lớn của chính mình sau khi hoàng để Justinian qua đời, chủ yếu là các cuộc đấu tranh trong nội bộ Giáo hội Cơ Đốc By-dăng xuất phát từ việc hoàng đế can thiệp quá nhiều vào các vấn đề tôn giáo. Còn các trung tâm quyền lực độc lập cuối cùng trên bán đảo A-rập, các tiểu vương triều ở phía Nam, cũng biến mất nhường chỗ cho những lực lượng từ bên ngoài đến đô hộ.
Tất cả những thay đổi ấy đã tác động mạnh lên đời sống ở bán đảo A-rập. Nhiều sắc dân từ bên ngoài đến Arabia như những người định cư, dân tị nạn cùng nhiều nhóm khác đến làm ăn sinh sống ở đây đã mang đển các cách sông mới, các vật dụng mới và các tư tưởng mới. Hậu quả của cuộc xung đột Ba Tư - By-dăng là có thêm đường thông thương đi qua vùng này, thương nhân và hàng hoá qua lại tấp nập. Ngay trên miền Bắc, các vương quốc dọc theo biên giới cũng nổi lên lại và mặc dù họ thần phục các đế quốc lớn, họ vẫn duy trì vị trí của mình trong gia đình các dân tộc A-rập.
Trong dân chúng A-rập, phản ứng trước các ảnh hưởng bên ngoài tất nhiên phải có. Trước hết là những thay đổi về mặt vật chất. Người A-rập học cách sử dụng các vũ khí, giáp trụ và chiến thuật quân sự đang thịnh hành — đây là một bài học đáng giá cho những sự kiện sẽ xảy ra về sau. Họ cũng bắt đầu có những thị hiếu của các
xã hội tiên tiến hơn vì các thương nhân đã mang đến cho họ những hàng hoá mà trước đó họ không hề biết đến nhưng nay thì họ làm quen rất nhanh chóng. Cũng có những phản ứng trên các mặt trí tuệ và ngay cả tinh thần khi người A-rập tiếp xúc với tôn giáo và văn hoá của những người láng giềng văn minh hơn họ. Họ biết đến chữ viết, tạo ra cách viết riêng cho ngôn ngữ của mình. Họ hấp thụ nhưng tư tưởng bên ngoài và quan trọng hơn cả là họ bắt đầu không hài lòng với tôn giáo đa thần mà phần lớn trong số họ cho đến thời điểm ấy vẫn trung thành nhưng nay lại muốn tìm một thứ gì hoàn mỹ hơn.
Họ có thể lựa chọn một trong số nhiều tôn giáo. Cơ Đốc giáo đã phát triển mạnh. Đa số những người A-rập trên vùng biên giới với cả By-dăng và Ba Tư đều theo đạo Cơ Đốc. Về phía Nam ở Najran và Yemen cũng có người định cư Cơ Đốc. Người Do Thái có mặt ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Yemen và trong khắp vùng Hejaz. Họ là con cháu những người tị nạn từ Judaea đến, một số là những người mới theo đạo ấy. Trong thế kỷ thứ VII, cả người Cơ Đốc và người Do Thái ở Arabia đều bị A-rập hoá hoàn toàn và trở thành thành viên của cộng đồng A-rập. Có rất ít hoặc không có người theo các tôn giáo của Ba Tư, cũng không lấy gì làm ngạc nhiên khi ta biết tôn giáo Ba Tư có tính dân tộc rất rõ ràng và ít hấp dẫn đối với những ai không phải dân Ba Tư.
Sử sách đạo Hồi có nhắc đến một nhóm người mang tên A-rập là Hanif, mặc dù đã từ bỏ đạo đa thần nhưng cũng không muốn chấp nhận một trong số các luận thuyết tôn giáo đang cạnh tranh
"""