"
Lịch sử Trần Khánh Dư - Lưu Sơn Minh PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch sử Trần Khánh Dư - Lưu Sơn Minh PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
TRẦN KHÁNH DƯ
Tiểu thuyết lịch sử
Tác giả: Lưu Sơn Minh
NXB Văn học & Đông A phát hành
TVE-4u.org
PDF: Nga Hoang
Text & Ebook: Bọ Cạp
Để tưởng nhớ thầy tôi Nhà văn Hà Ân
KHÚC VỌNG THỨ NHẤT
Lũ sử quan quý chữ như vàng sẽ chép những dòng dửng dưng về ta và rồi thế nào cũng còn bình thêm những lời khắc nghiệt. Anh em trong họ dè bỉu ta. Hậu nhân sẽ truyền nhau những chuyện xấu về ta.
Mà chuyện xấu về ta thì không thiếu. Ta sống như mình muốn. Yêu ghét phân minh.
Ai được ta yêu thương, sẽ không thể nào quên lòng ta, dẫu những yêu thương rồi thì cũng đến ngày tan rã cùng bụi đất.
Ai bị ta khinh ghét, sẽ không thể nào nguôi căm uất ta, vì trong lòng chúng, hình ảnh ta luôn là nỗi ám ảnh hằn sâu đến rỏ máu. Ta sẽ không ngừng giày vò tâm tưởng chúng, không ngừng mạ lị chúng.
Việc nào cần làm, và ta cho là tốt, ta sẽ làm. Ta bất chấp những đàm tiếu thị phi nhạt nhẽo của người đời.
Dẫu phải chịu bất công, ta cương quyết không làm kẻ đê hèn. Đừng đọc về ta, đừng nhắc chuyện ta, nếu trong lòng ngươi khư khư những tín điều vô vị và bất di bất dịch. Ta là kẻ đạp lên tín điều và giật đổ những bất di bất dịch.
Ta là kẻ sinh lạc nhà, sống lạc thời, và yêu lạc người. Ông nội ta là Thống quốc Thái sư.
Cha ta là Thượng tướng quân.
Ta đã từng là Thiên tử nghĩa nam con nuôi vua, rồi đi bán than và buôn lậu, rồi lại làm Phó Đô tướng quân.
Có gì đâu!
Giữa những dòng chữ của hậu thế, tên ta sẽ đi cùng với những nỗi cô đơn thăm thẳm.
Từ lúc sinh ra cho tới mãi sau này, khi danh tính ta chỉ còn lạc lõng trên các trang giấy, ta vẫn là kẻ độc hành. Tên ta là Dư...
CHƯƠNG I
Một ngày cuối tháng Chạp năm Trùng Hưng thứ nhất, đúng giờ Dậu gà lên chuồng, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư sai gia nô bày bàn tiệc. Cách đây ba hôm, Đức ông truyền rằng tiệc không cần lớn, nhưng các món phải ngon và thanh. Mấy ngày liền, gia nô phủ Nhân Huệ chạy cuống lên trong thái ấp Chí Linh. Đã lâu lắm rồi, họ không còn thấy Đức ông Nhân Huệ mời khách. Ngày trước, hồi sau khi Đức ông Thượng tướng Nhân Thành hầu mất, vị vương trẻ Nhân Huệ vẫn thường tụ tập khách khứa bạn bè náo động cả Chí Linh. Nhưng rồi, một câu chuyện chẳng hay ho gì xảy ra. Mối tình vụng trộm giữa Nhân Huệ vương với phu nhân của Hưng Vũ vương đột nhiên vỡ lở. Bao nhiêu tai họa đổ ập xuống vị vương đang lúc phong vân nhẹ bước ấy. Và thái ấp Chí Linh sau đận đó lúc nào cũng đóng cửa im ỉm. Không khách khứa, không tiệc tùng, không chè chén. Có vẻ như gia nô phủ Nhân Huệ và gia nô thái ấp đã dần quên mất cung cách thết khách của vị vương gia tính tình thất thường này. Mà kể, cũng phải nói cho rõ ràng mọi sự: Nếu giặc Nguyên không kéo sang, không có cuộc đại hội vương hầu ở bến Bình Than mà đích thân Hưng Đạo vương xin với Quan gia triệu vời rồi trọng dụng Nhân Huệ vương thì có nhẽ tới giờ, Trần Khánh Dư vẫn chỉ là một ông trùm bán than phiêu bạt giữa giang hồ.
Được phục chức, rồi trao binh quyền, Nhân Huệ vương bước vào cuộc chiến với vị thế người đang tìm lại những gì đã mất.
Rồi ông đi qua binh lửa và ra khỏi cuộc chiến với vị thế Phó Đô tướng quyền cao chức trọng. Phủ Nhân Huệ ở kinh thành bị quân
Nguyên đốt phá tan tành liền được ban cho mở lại và trong khi các gia nô đều về ngụ tạm thái ấp Chí Linh. Kẻ ăn người làm ở Chí Linh đều chắc mẩm phen này vị vương thừa kế sẽ tiếp tục tiệc tùng ngày này qua tháng khác. Thế nhưng, mọi chuyện không xảy ra như thế. Chẳng thấy vị khách nào được mời tới. Chẳng tiệc tùng nào diễn ra. Kể ra việc ấy cũng là lẽ thường. Vì Nhân Huệ vương được Quan gia giao phó gánh nặng trấn nhậm Vân Đồn, một trọng trách quá lớn. Mãi năm cùng tháng tận, Chí Linh mới lại sắp có tiệc. Mà tiệc ít người chứ không ầm ĩ như thuở trước.
Tiệc bày lên nhà ngang đã xong mà khách chưa tới. Đức ông Nhân Huệ loẹt quẹt đi ra ngắm nghía các món rồi gật đầu bảo quản gia Vũ Khắc:
– Được, nhà ngươi cũng tinh đấy! Rét mướt thế này, tất cả các món chốc nữa đều đem hâm nóng được cả.
Vũ Khắc cúi đầu:
– Dạ bẩm, đấy là A Lý đã dự liệu trước, trình Đức ông! Nhân Huệ vương khoát tay:
– Thưởng cho A Lý, rồi gọi nó lên ta bảo.
A Lý rón rén đi lên, khép nép chờ lệnh. Nhân Huệ vương bảo:
– Nhà ngươi thực đã cố gắng, tiền thưởng lần này mang về nhà, không được đánh bạc nữa nghe chưa!
A Lý còn đương lập cập chưa biết đáp lại ra sao thì gia nô lên trình: "Khách đã đến”. Gã đầu bếp mới chạy từ Tống sang Đại Việt liền mừng rỡ lỉnh xuống sân ngay khi Đức ông Nhân Huệ chạy ra
đón khách. Cả lũ gia nô nấp nỏm sau gốc cây, cố rình xem khách là ai mà được đón tiếp cầu kỳ đến thế.
Khách chỉ có ba. Một nhà sư, một chàng trai và một cô gái trẻ. Nhà sư đi trước, gương mặt già nua ngời lên vẻ phúc hậu. Chàng thanh niên, vóc dáng văn nhã thư sinh nhưng đôi mắt thì sáng và sắc. Cô gái dáng vẻ chân chất, vẻ mặt thông minh và đôi mắt thoáng nét buồn ẩn vào sau chiếc khăn màu nâu non. Họ chắp tay vái chào Đức ông chủ thái ấp. Đám gia nô vô cùng ngạc nhiên thấy những người khách có vẻ tầm thường đó được Nhân Huệ vương hớn hở nắm tay khoác vai kéo xềnh xệch lên thềm.
Gia nô phủ Nhân Huệ không biết, gia nô thái ấp không biết, chỉ có quản gia Vũ Khắc là rõ mặt ba vị khách. Chàng thanh niên là phó tướng dưới cờ Hoài Văn vương Trần Quốc Toản. Cô gái là đội trưởng nữ dân binh đã cùng đoàn quân với lá cờ sáu chữ đánh giặc nhiều phen. Giữa cô gái và Hoài Văn vương (hồi đó mới chỉ là Hoài Văn hầu) cũng có thoáng chút tơ vương nhưng chưa kịp thổ lộ vì chiến tranh. Bây giờ giặc đã tan, Hoài Văn hầu ngã xuống bên bờ Như Nguyệt và được truy phong vương tước. Đội quân trẻ trung ngày nào nay đã sung vào quân của Chiêu Văn vương Nhật Duật. Người khách thứ ba là sư ông chùa La. Nhà chùa có một chú tiểu hy sinh trong quân của Hoài Văn và sau đó, chính nhà chùa cũng vác giáo theo quân...
Cuộc chiến giữ nước vừa rồi, có lẽ cái chết của Hoài Văn vương Trần Quốc Toản là để lại trong lòng Nhân Huệ vương nhiều xót xa nhất. Sau mấy lần gặp gỡ chuyện trò, Trần Khánh Dư rất vừa ý với đứa cháu trẻ tuổi tài hoa này. Cứ như đánh giá của Trần Khánh Dư, Quốc Toản sẽ là một viên dũng tướng mà triều đình có thể trông cậy
lâu dài. Nhân Huệ vương từng mong muốn khi binh lửa đã tan, ông sẽ xin Quan gia và Quốc công cho phép dìu dắt Quốc Toản thành một tướng tài kiêm văn võ. Tiếc rằng chàng dũng tướng trẻ tuổi ấy đã ngã xuống trong trận đánh bi tráng bên bờ Như Nguyệt. Đó là một trận đánh nhỏ, xét về diễn biến. Không có một chữ nào trong quốc sử dành để chép về trận ấy. Nhưng xét về ý nghĩa đối với toàn cục, thì trận Như Nguyệt lại vô cùng quan trọng. Trần Quốc Toản đã nhận một mệnh lệnh quyết tử từ chính Quốc công Tiết chế. Đội quân trẻ trung với lá cờ sáu chữ phải đánh đến cùng để khi Thoát Hoan vượt qua được Như Nguyệt, hắn sẽ tin rằng vừa thoát khỏi chốt chặn cuối cùng của quân Trần. Đội quân đang trên đường rút chạy đó sẽ buông lỏng cảnh giác, và sa vào trận mai phục Vạn Kiếp mà Quốc công bày sẵn. Trần Quốc Toản hoàn thành xuất sắc tướng mệnh, và chàng nằm lại bên bờ Như Nguyệt. Trận Vạn Kiếp đại thắng, hầu như toàn bộ sinh lực của quân Nguyên đã bị diệt. Nếu muốn phục hận, Nguyên chúa Hốt Tất Liệt chắc cũng phải mất một thời gian để xây dựng lại đội quân Nam chinh mới trên những khiếp sợ kinh hoàng mà Thoát Hoan mang về từ Đại Việt... Giặc tan, nhưng lòng Trần Khánh Dư vẫn còn chưa nguôi được mỗi khi nhớ về Trần Quốc Toản. Ông luôn cảm thấy, cuộc đời và cả triều đình, quá bất công với chàng hầu tước trẻ anh hùng. Triều đình đã bỏ quên Hoài Văn hầu suốt bao năm. Tới khi giặc sang, ngay tại Bình Than, Quốc Toản cũng không được cho ra trận. Nếu như chàng trai ấy không đủ bản lĩnh mà tự dựng lên ngọn cờ sáu chữ, thì viên ngọc sáng hẳn vẫn còn đang khuất lấp trong bụi cát. Kịp tới lúc tung hoành thỏa chí, hiển hiện tài năng, thì Hoài Văn lại mất đi khi còn quá trẻ. Người anh hùng ấy đã được truy phong vương tước, nhưng vương hay công thì nào có nghĩa gì đâu. Cũng chỉ là một ngọn gió lạc trong mênh mông mà thôi...
Đức ông Nhân Huệ hất hàm ra ý hỏi, và quản gia Vũ Khắc vội vã chắp tay trình: "Bẩm Đức ông, tướng quân Đỗ Niêm vẫn chưa về tới”. Đúng lúc ấy, phía ngoài vẳng lại tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần. Nhân Huệ vương bật cười: "Nó về đến nơi rồi đấy”. Chỉ một chốc sân thái ấp đã vang tiếng oang oang của viên tiểu tướng một thời từng theo Hoài Văn hầu xông pha khắp chốn. Thoáng nghe giọng nói, những vị khách cũng có thể biết ngay người quen. Đúng, người vừa đến vốn tên là Trê. Trê hỏi người này, trêu người kia, không quên bỡn cợt mấy ả thị nữ vốn quen với sự im lặng của thái ấp. Rồi anh ta nhảy lên thềm, bước vào gian chính và vòng tay cung kính chào Nhân Huệ vương nhưng mắt thì vẫn hấp háy cười. Trần Khánh Dư khoát tay: "Bỏ lễ nghĩa đi thôi!” Đoạn, ông quay sang ba người khách: "Các vị thấy thằng này theo ta chưa lâu mà khác hẳn ngày trước không?” Trần Khánh Dư chẳng cần hỏi thì tất thảy đám khách đều đã chung một ý như thế. Hồi còn theo Hoài Văn hầu, Trê là một gã nhút nhát, đặc biệt là nhát gái. Điều ấy bắt nguồn từ xuất thân. Trê là con nhà thuyền chài nghèo đói lang bạt trên sông. Chỉ từ khi đi theo Hoài Văn hầu, anh ta mới thực được làm người tự do, thực được tôn trọng. Xông pha chiến trận, Trê là một chiến tướng oai hùng. Nhưng khi về trại, Trê vẫn nguyên là một cậu chàng khép nép và giữ ý. Vậy mà, từ khi theo Nhân Huệ vương về trấn Vân Đồn, Trê thay đổi đến mức làm người ta phải ngạc nhiên. Ăn nói bạo tợn, dáng đi khuềnh khoàng, nhìn đã rõ ra là một anh "giặc biển”. Trê toe toét chắp tay chào phó tướng cũ Hoàng Chí Hiển, chào sư ông chùa La và cô Thoan đội trưởng dân binh. Thật ra, khi chào đến Thoan thì nụ cười của Trê đã nhạt đi nhiều. Ai đi theo lá cờ sáu chữ mà chẳng biết cô đội trưởng dân binh này đã dành trọn tấm lòng cho Hoài Văn hầu. Ngày khâm sai mang cờ biển về Võ Ninh truy phong vương
tước cho Trần Quốc Toản, Thoan đã khóc ngất lên ngất xuống trong vòng tay mấy nữ dân binh thân tín. Mãi đến khi lễ tất, phu nhân ôm lấy và cất lời an ủi thì Thoan mới nguôi được đôi phần. Hôm ấy, nước mắt phu nhân chảy ròng rồi nhỏ xuống mái tóc mây đang gục ở trong lòng bà. Trê không dám nhìn lâu cảnh đó, phải lặng lẽ bỏ ra ngoài trông lên trời nhìn mây cuối chiều u uẩn trôi. Bây giờ, trông thấy Thoan, Trê lại chạnh lòng nhớ về chủ tướng cũ, nhớ những ngày đi theo lá cờ sáu chữ tung hoành khắp chốn khiến giặc khiếp kinh...
Nhân Huệ vương hiểu nỗi lòng của ba vị khách và viên tiểu tướng được gọi về giúp ông đãi khách. Trần Khánh Dư đã hai phen đánh Nguyên. Ông đã chứng kiến biết bao nhiêu cái chết của binh lính dưới quyền. Nhưng chỉ riêng cái chết của Trần Quốc Toản cứ làm ông trăn trở. Ông thương chàng trai trẻ ấy. Thương cả cô đội trưởng dân binh đem lòng thương thầm nhớ trộm chàng hầu tước mà chẳng dám thổ lộ lấy một lời. Thương cả viên phó tướng dưới ngọn cờ sáu chữ giờ phiêu dạt trong nhân gian... Thật lạ, Nhân Huệ vương vẫn mang tiếng là người không nệ tình, chỉ quan tâm tới cái lý của riêng ông. Thế mà bữa tiệc cuối năm này lại nặng trĩu những thương và xót... Dẫu rằng bữa tiệc hôm nay, ông đặt ra như một cách giúp chính ông và những người đang còn sống xóa nhòa đi những khắc khoải trong lòng trước khi bước vào năm mới.
Ngay chính Quan gia cũng còn đổi niên hiệu từ Thiệu Bảo sang Trùng Hưng, thì tại sao quân tướng không mượn chén rượu mà khép lại một mùa chinh chiến tàn khốc và thương đau? Nhân Huệ vương lớn giọng: "Nào, các vị, ta mời các vị hôm nay là để khoe một vật và bàn một việc. Vậy thì nên làm gì trước nhỉ?” Hỏi thì hỏi tất cả, nhưng Nhân Huệ vương nhìn chằm chằm vào mặt Hoàng Chí Hiển.
Rồi không đợi Hoàng Chí Hiển trả lời, Trần Khánh Dư tiếp luôn: "Ta hẵng nói trước việc này. Hôm truy phong Hoài Văn vương, ta có kể cho chị dâu ta[1] nghe chuyện về thằng Trê. Ta cũng nói sẽ giao cho nó một chân tùy tướng. Chị dâu đã nhắc ta nên định lại tên cho nó, chớ để cái nôm na làm mất uy phong của một viên tướng. Ta nhân tên cũ mà gọi nó là Đỗ Niêm””. Trê – tức Đỗ Niêm[2] – cười bâng quơ cứ như chuyện đang nói về một người nào khác. Mà giọng của Nhân Huệ vương cũng đều đều và lơ đãng rõ như người ngủ gật hát ru.
Đám khách chẳng mấy cũng nhận ra, câu chuyện bâng quơ vừa rồi là cách Trần Khánh Dư kéo dài thời gian. Vẻ như vị vương gia tính tình cổ quái này đang còn mong ngóng thêm một, hai người khách nữa. Nhưng chuyện đổi tên cho Trê thì đã hết, mà khách thì chưa tới. Nhân Huệ vương đột ngột đứng dậy. Ông lẹt xẹt kéo đôi dép da trâu ra thềm, ngóng lên nhìn trời. Đêm cuối năm tối sẫm. Cơn gió bấc thổi ào ạt qua những rặng cây. Tiếng mõ trâu về muộn cũng đã bặt. Trần Khánh Dư quay vào bảo khách: "Ta vốn muốn đợi thêm một người, nhưng người đó chưa tới, vậy thôi, ta đành nói vậy”. Ông ngồi xuống ghế và khoát tay ra hiệu khách cũng ngồi xuống. Trần Khánh Dư cất lời: "Nhân có sư ông ở đây, ta cũng hỏi ý sư ông luôn thể. Ta mới nhận được thư Võ Ninh. Chị dâu ta có ướm hỏi ta, ý chị muốn nhận con Thoan làm con nuôi. Mà, ta cũng lại đương muốn nhận con Thoan làm nghĩa nữ. Hai đường thực khó nghĩ quá, ta có nhắn cả tướng quân Nguyễn Khoái đến, nhưng giờ này vẫn chưa thấy anh ta đâu...”
Vậy là Trần Khánh Dư chưa khoe vật đã bàn việc. Có lẽ bữa tiệc cuối năm này là để dành cho bàn việc, còn khoe vật cũng chỉ góp thêm một chút vui. Tuy ông không nói ra, nhưng Hoàng Chí Hiển cũng hiểu chỗ éo le của câu chuyện. Cứ như tình nghĩa mà Thoan
dành cho Hoài Văn vương ngày trước, thì phu nhân nhận cô là con nuôi thực đúng. Nhưng nếu thế, thực đã là giam hãm cả một đời cô gái vừa đẹp vừa tài ấy. Nhược bằng Thoan được Đức ông Nhân Huệ thu làm nghĩa nữ, cô sẽ trở thành quận chúa. Kiểu gì mà Trần Khánh Dư chẳng tìm được một mối con nhà quyền quý cho cô con gái nuôi. Chỉ có điều, khi ấy, ngần này người đang có mặt ở đây, thật khó ai mà an lòng cho được... Dường như, một nỗi canh cánh vẫn còn nguyên trong lòng mỗi người. Mọi điều định làm, đều cảm giác như thực chẳng phải với Hoài Văn vương đã khuất.
Khách và chủ đều thả mình trong im lặng. Mùi khói bếp bay từ mé vườn sau thoảng vào. Quản gia Vũ Khắc rón rén ghé tới bên thềm, tay bê một chiếc lư nhỏ bằng bạch ngọc. Ông ta đợi cái gật đầu của Trần Khánh Dư mới bước vào, thận trọng đặt lư lên kỷ cạnh bàn nước. Hương trầm nhè nhẹ mơ hồ. Thấy chủ nhân đưa mắt ra ý hỏi, Vũ Khắc khoanh tay trình: "Dạ, trầm của thương lái Chiêm Thành vừa cập Vân Đồn”. Trần Khánh Dư gật đầu rồi làm hiệu cho Vũ Khắc. Viên quản gia đi giật lùi ra ngoài và khép cửa lại.
Hồi lâu, Thoan cúi đầu: "Bẩm vương gia, việc là của người lớn nhưng lại có quan hệ đến con. Vậy con xin lui xuống. Đợi vương gia thương nghị xong, con chỉ xin được trình lên một đôi câu trước khi người quyết ý...” Trần Khánh Dư ngả người ra sau, ông chần chừ một chút rồi mới đáp: "Lẽ ra việc này ta đợi tàn tiệc mới nói, nhưng e rằng không nói, thì cả ta và các người cũng đều không yên mà dự tiệc cho được. Thôi thì, nay ta đã nói được ra, vậy các người cứ nghĩ cho chín. Ta hẹn đến giờ Thìn sáng mai, ý ai ra sao thì nói, rồi tự ta khắc quyết”. Đoạn, Nhân Huệ vương lớn tiếng truyền bày tiệc. Ấy là, ông làm theo thói quen, vì tiệc vốn đã bày xong, các món cũng vừa hâm lại cho nóng sốt. Dĩ nhiên, chẳng một ai dám bẩm bạch gì với vị
vương khó tính này. Rượu vừa được thong thả rót ra thì quản gia Vũ Khắc lại vào trình: Nguyễn Khoái đã đến, và còn dắt theo một người bị trói. Trần Khánh Dư bước vội ra sân, miệng vẫn còn lẩm bẩm: "Chẳng nhẽ ngần ấy con người ở đây, không ai nghe thấy tiếng vó ngựa của nó?”...
Nguyễn Khoái đang đợi trước sân, phía sau viên dũng tướng cao như Ông Trọng[3] này là người lính đang giữ một kẻ bị trói giật cánh khuỷu. Trần Khánh Dư nheo mắt nhìn, dẫu người kia mặc áo lính nhưng ông vẫn nhận ra đó là gái giả trai. Nhân Huệ vương cười: "Vợ chồng nhà ngươi đi ăn tiệc mà còn không quên trói người à? Bắt được ai thế hử?" Thoan reo lên, bây giờ cô mới nhận ra người kia là Thu, chị họ của cô. Thoan quay sang nói với Nhân Huệ vương: "Dạ, Đức ông thực là thần nhãn. Con còn chưa kịp nhận ra chị mình mà Đức ông đã...” Câu nói của Thoan bị bỏ lửng và Nhân Huệ vương cũng chưa kịp đáp lời thì Nguyễn Khoái đã chen vào: "Trình Đức ông, vợ chồng tiểu tướng theo dõi hắn từ trưa, thấy hắn tìm hỏi đường về đây, rồi rình rập ngoài thái ấp suốt từ khi chiều xuống. Tiểu tướng phải buộc ngựa ngoài mãi xa để hắn không thấy động mà trốn mất”.
Trần Khánh Dư không đáp, ông quay bước đi về phía thư phòng. Hiểu ý, Nguyễn Khoái cũng bước sau ông. Viên tướng lôi xềnh xệch kẻ bị trói đi theo. Đám khách đều đứng cả lại dưới sân. Chỉ đến khi cánh cửa thư phòng khép chặt và hai người lính hộ vệ tuốt kiếm sáng lòa đứng chắn trên bậc thềm, Thoan mới ngã vào vòng tay của chị. Thu vừa ôm em vừa cúi đầu chào sư ông, Hoàng Chí Hiển và Đỗ Niêm. Sư ông thở dài nhìn trời và bảo Hoàng Chí Hiển: "Sao hôm nay nhiều biến cố đến thế nhỉ? Bần tăng e rằng từ đây tới giờ Hợi, thái ấp Chí Linh sẽ chẳng được yên”. Hoàng Chí Hiển quay ra nhìn
Thoan rồi buột miệng: "Bạch sư ông, kể ra thì quyết định của cô Thoan đây cũng sẽ là một biến cố”. Nghe thế, Thu chạnh lòng và bật khóc. Trên đường đi, Nguyễn Khoái đã kể cho vợ về ý định của phu nhân - thân mẫu Hoài Văn vương và của Đức ông Nhân Huệ. Hai vợ chồng cũng ngược ý nhau. Thu nghĩ em cô nên hầu hạ dưới gối phu nhân và chuyên tâm lo thờ cúng người anh hùng vừa ngã xuống. Nguyễn Khoái lại nhất quyết bảo rằng anh muốn Thoan sẽ trở thành Thanh Tâm quận chúa. Chẳng phải tướng quân Phạm Ngũ Lão đã được Đức ông Hưng Đạo gả cho cô con gái nuôi đấy ư? Cứ như ý Nguyễn Khoái thì chắc chắn Đức ông Nhân Huệ cũng sẽ tìm cho nghĩa nữ một đám ra trò. Khi ấy, cả hai vợ chồng họ sẽ cùng về Võ Ninh hầu hạ phu nhân cũng chẳng muộn. Thu càng nghĩ càng quẩn. Cô thương em, và càng hiểu tấm lòng Thoan với Hoài Văn vương. Họ còn quá trẻ. Chiến tranh và cả tuổi trẻ đã ngăn họ ngỏ được lòng mình. Thực ra, chỉ có Thoan là biết chắc tình cảm của cô với viên dũng tướng mặt đẹp như ngọc, bào đỏ giáp trắng xông pha tung hoành trong trận giặc. Còn về Hoài Văn vương, có lẽ chàng trai chưa tròn mười bảy ấy vẫn chưa định rõ được cái "khang khác” trong tâm trí mỗi khi nghĩ và nhớ về cô đội trưởng dân binh lớn hơn một tuổi. Danh phận chưa định, và ngay cả một lời cũng còn chưa kịp ngỏ... Ngẫm mà xem, cuộc chiến vừa rồi đã tác thành nên không ít đôi vợ chồng: từ bậc vương giả như Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và cô Mơ hương Hoằng đến cung thủ "Nhất tiễn lập công”[4] Hoa Xuân Hùng[5] và cô Vi Hồng đội trưởng dân binh làng Ngọ. Nhưng số cặp thành đôi thì ít, mà lẻ một thật nhiều...
Khi Trần Khánh Dư và Nguyễn Khoái bước ra khỏi thư phòng thì đám khách vẫn đang đứng ngồi lặng lẽ ngoài sân. Chẳng ai vào nhà ngang ngồi quanh bàn tiệc cả. Mỗi người đều đang đuổi theo những
ý nghĩ của riêng mình. Đã là cuối giờ Tuất. Trong kia, chắc tiệc đã kịp nguội thêm lần nữa. Người ở ngoài sân đã nặng dần vai áo vì mưa bụi. Trần Khánh Dư cố ngắm nhìn vẻ trầm tư trên gương mặt từng người nhập nhòa trong ánh đèn đuốc. Phía xa, quản gia Vũ Khắc chắc cũng đã đứng chờ thật lâu. Ông ta rất muốn mời khách vào nhà nhưng lại sợ phá tan suy tư của họ. Viên quản gia này hẳn quá quen với những vị khách kỳ lạ của Đức ông Nhân Huệ. Cuối cùng, người phá vỡ không gian im ắng là Nguyễn Khoái: "Bẩm Đức ông, tiểu tướng bạo gan xin chén rượu cho ấm bụng. Quả thực là tiểu tướng vừa đói vừa rét”..
Trần Khánh Dư bật cười. Ông gọi khách cùng vào tiệc. Vũ Khắc cuống cuồng giục gia nhân đun nóng các món. Rượu cũng đã được đem hâm. Trần Khánh Dư bảo: "Đây là rượu của cánh lái buôn Bắc quốc”. Vũ Khắc thưa: "Trình Đức ông, con thấy Hoàng Phủ Tín gọi thứ rượu này là Biên tái tửu”. Trần Khánh Dư hất hàm: "Gọi con chó sói ấy lên đây”...
Trong lúc chờ đợi, Trần Khánh Dư kể cho khách nghe về Hoàng Phủ Tín. Đây là một kẻ dòng dõi Trung Nguyên. Tổ tiên anh ta từng đi theo Phương Lạp dấy loạn và sau đó phải trốn ra vùng biên hoang để lẩn tránh. Dấu chân của người họ Hoàng Phủ đã lưu khắp vùng phụ cận Nhạn Môn quan. Dòng họ Hoàng Phủ đã tham gia vào mọi cuộc chiến Tống-Liêu, Tống-Kim. Dẫu rằng họ Hoàng Phủ chống Tống nhưng vẫn có mặt mỗi khi đất nước lâm nguy. Nhưng sức của dân chúng không thể bù đắp nổi sự ngu muội của triều đình nhà Tống. Tống nhận lời liên kết với Mông để đánh Kim. Và khi Kim mất nước, Kim Ai Tông tự ải, thì đoàn quân Tống kéo đến nhận thành theo như thỏa ước đã bị người Mông tháo nước sông Hoàng Hà dìm chết. Thấy cơ mất nước đã đến, cụ bốn đời của Hoàng Phủ Tín dẫn
cả nhà lặng lẽ tìm lối xuống Giang Đông, chuyển sang nghề buôn đường biển. Ông cụ dặn lại con cháu: "Hễ thấy động là giương buồm mà đi, đi càng xa càng tốt”. Ông nội của Hoàng Phủ Tín hỏi cha xem nếu đi thì đi về phương nào. Ông cụ trả lời: "Cao Ly khó đi, Đại Việt dễ đến”.
Hoàng Phủ Tín đã bước vào. Anh ta vái Nhân Huệ vương và cúi đầu chào khách. Trần Khánh Dư trỏ anh ta ngồi vào một chiếc đôn nhỏ và truyền ban rượu. Ông hỏi: "Này, ngươi có biết cái thứ rượu này không?” Hơi rượu nóng thơm lâng lâng. Hoàng Phủ Tín cung kính bái tạ Nhân Huệ vương rồi đưa chén lên mũi ngửi, nhấp một rồi hai lần, và ngửa cổ uống khà một tiếng. Cách cung tay dốc rượu vào miệng đúng như một thảo mãng giang hồ. Hoàng Phủ Tín thưa: "Trình Đức ông, đây chính là Biên tái tửu. Rượu này dành cho những kẻ săn thú dữ và binh lính đồn trú ở nơi biên ải. Rượu có tính ôn, chống rét, và càng uống tay càng vững”. Rồi, dường như hơi rượu đánh thức một góc tối nào trong lòng, anh ta ngửa mặt ngâm oang oang mấy câu thơ:
"Đãi đáo thu lai cửu nguyệt bát,
Ngã hoa khai hậu bách hoa sát.
Xung thiên hương trận thấu Trường An,
Mãn thành tận đới hoàng kim giáp”.
Trần Khánh Dư cả cười. Cái anh chàng này có chút rượu đã ngâm thơ làm loạn. Ông hất hàm hỏi Hoàng Chí Hiển: "Nhà ngươi có biết bài thơ này không?” Hoàng Chí Hiển thưa: "Dạ, đây là bài Bất đệ hậu phú cúc của Hoàng Sào[6]!” Trần Khánh Dư gật gù: "Vậy ngươi
mau dịch ra cho mấy vị này hiểu bài thơ đó đi”. Hoàng Chí Hiển vâng dạ rồi cất giọng:
"Đợi thu tháng Chín ngày mồng tám,
Hoa ta liền nở, giết trăm hoa.
Hương trận tung trời, Trường An ngập,
Giáp vàng đầy khắp chốn thành đô”.
Trần Khánh Dư mắt vẫn nhìn Hoàng Phủ Tín nhưng lại hướng giọng về phía khách: "Gã Hoàng Sào này cũng lạ. Thơ cũng ngập sát khí”. Ông nhìn Hoàng Phủ Tín, gật gù hồi lâu rồi cho anh ta xuống nhà dưới và quay qua Nguyễn Khoái: "Tết này ngươi ăn Tết ở đâu?” Viên tướng kềnh càng cố nuốt trôi một miếng rõ to rồi mới thưa được: "Tiểu tướng tính ngày mai sẽ vào Diễn Châu thăm Đức ông Tĩnh Quốc rồi sát Tết thì về Khoái Châu”.
Trần Khánh Dư tủm tỉm cười:
– Phải nhẽ quá! Tết là phải đi chào ông mối. Không có ông Tĩnh Quốc mát tay thì nhà ngươi chắc gì đã được vợ! Lễ nhất quyết là phải thật hậu đấy!
Mọi người cùng cười. Hơi rượu đang nặng nề cũng phai một chút. Nhắc lại chuyện lấy vợ của Nguyễn Khoái cũng rõ là trắc trở. Ông Trưởng Thụ, bố của cô Thu nhất quyết không nhận con rể biết võ. Vì thế, Nguyễn Khoái vốn là học trò yêu của ông lại bị cấm kết duyên với Thu. Tĩnh Quốc đại vương biết chuyện và đích thân đứng ra dàn xếp. Ông Trưởng đành bằng lòng. Hôm đám cưới, Trần Quốc Khang đứng danh nhà trai khiến bên nhà gái mở mày mở mặt với họ hàng làng nước. Ơn nghĩa ấy, Nguyễn Khoái không quên được. Dĩ nhiên,
Trần Khánh Dư còn hiểu tâm ý Nguyễn Khoái. Cái Tết năm nay sẽ rất buồn đối với nhiều người, trong đó có Đức ông Tĩnh Quốc. Nếu bên Võ Ninh, phu nhân ăn cái Tết buồn vắng con nhưng lại còn được an ủi bởi niềm tự hào thì Trần Quốc Khang đâu được như thế. Ông cũng mất con, nhưng đứa con ấy chết vì phản quốc và bị trúng tên độc trên đường đào tẩu. Bởi thế, Nguyễn Khoái cũng muốn vào Diễn Châu mong làm Đức ông Tĩnh Quốc nguôi ngoại đôi chút...
Trần Khánh Dư không định khơi mãi vào những mất mát trong bữa tiệc này. Ông gật đầu và bảo Thu: "Ta sẽ gửi biếu ông cụ bên nhà ít quà Tết”. Vị vương gia nổi tiếng tai quái nheo mắt cười: "Mai nhớ nhắc kẻo ta quên”. Nguyễn Khoái đang dở chén rượu liền cố nuốt trôi rồi quả quyết: "Tiểu tướng nhất định sẽ nhắc Đức ông”. Đám khách còn lại cũng ồn lên đòi quà. Cả sư ông cũng chắp tay: "Đức ông chắc không quên nhà chùa. Vậy nhà chùa xin tạ ơn trước đi là vừa”. Không khí của bữa rượu cuối năm đến giờ đã thành rôm rả. Mãi đến qua giờ Tý, gia nhân nhà dưới vẫn nghe thấy giọng chủ nhân gọi rượu và oang oang ke loại rượu vừa bê ra.
○ ○ ○
Có vẻ như chỉ những người khách trong đội quân của lá cờ sáu chữ mới làm cho Trần Khánh Dư hớn hở cười nói. Ấy thế nhưng càng khuya, khách càng nhấp nhổm không yên dạ. Mà chủ thì cũng chẳng còn tâm trí nâng chén. Đôi lúc khuôn mặt Nhân Huệ vương đã thoáng nét âu lo dẫu ông cố giấu. Qua giờ Sửu, Trần Khánh Dư truyền triệt tiệc và sai gia nhân đưa khách đi nghỉ. Nhưng khách không chịu ở lại. Họ nhất quyết lên đường ngay trong đêm. Việc ông hỏi, Thoan xin khất với Đức ông Nhân Huệ cho gác lại trả lời sau.
Trần Khánh Dư ngần ngừ một chút rồi khẽ gật đầu... Trần Khánh Dư tiễn khách ra tận cửa thái ấp dù mọi người đều can ngăn bởi sương đêm lạnh buốt. Nhưng vị vương ngang ngược vẫn cương quyết không nghe. Ông đứng nhìn từng người khách nhận quà từ tay gia nô, lại chờ họ buộc quà vào yên ngựa thật kỹ càng rồi mới cất lời dặn dò thấu đáo. Khách vái chào bái biệt Nhân Huệ vương và đồng loạt tung mình lên ngựa. Lũ ngựa hí vang trong đêm vắng. Tiếng vó ngựa khuất dần. Nhân Huệ vương đứng trông theo tới khi cả bóng người và tiếng vó ngựa đều mất dạng thì mới lặng lẽ quay vào. Xa xa phía sau ông, là quản gia Vũ Khắc, trên mặt hằn lên những khuất khúc gì không rõ. Đột nhiên, trong lòng Trần Khánh Dư trào lên một sự cô đơn khôn tả. Những cuộc chia tay trong dịp năm cùng tháng tận này luôn mang lại nỗi niềm như thế.
Đám gia nhân không biết tâm trạng Đức ông Nhân Huệ. Họ chỉ thấy, khách vừa rời đi, chủ nhân đã mang một nét mặt khắc bạc. Nhân Huệ vương đi lên đi xuống mấy bậc thềm gian chính thái ấp. Ông trách móc Vũ Khắc, quát mắng A Lý và đá đổ mấy gốc cây mới đặt trước sân. Một hồi lâu sau, Trần Khánh Dư truyền lính lập thêm trạm canh phía xa ngoài thái ấp. A Lý, Hoàng Phủ Tín, Vũ Khắc và tất cả quân Vân Đồn đều được lệnh quay về ngay hòn đảo chính trong rất nhiều đảo của trấn Vân Đồn. Riêng một mình Đỗ Niêm - tức Trê - là được ở lại. Thái ấp sắp Tết mà im ắng như đang trong một giấc ngủ đông dài. Bếp không đỏ lửa. Nhân Huệ vương đã truyền lính hầu và gia nô trong thái ấp ăn luôn bánh chưng và cá kho vốn được làm để dành cho ba ngày Tết. Đám gia nô đi ra đi vào trong sân thái ấp hệt những chiếc bóng mờ. Gió bấc thổi ào ạt. Cây cảnh và hoa đang sắp trồng nay vứt chỏng chơ, héo dần trên những lối đi.
Hai ngày liền, thái ấp Chí Linh chìm trong giá lạnh và lặng im. Mờ sáng ngày thứ ba, có hai kỵ sĩ trùm áo tơi bị lính tuần chặn từ trạm canh ngoài xa. Một kỵ sĩ hé nón và làm lộ ra một mảnh phù lấp loáng vàng ẩn trong ngực áo. Kỵ sĩ ra hiệu ngăn lính canh thi lễ và phi thẳng về phía thái ấp. Như đã chờ sẵn từ lâu, cửa thái ấp mở toang để hai người phóng thẳng ngựa vào tới trước sân. Trên bậc thềm, chủ nhân đã đợi sẵn. Hai kỵ sĩ để nguyên áo tơi nón lá đi thẳng vào trong, đợi cánh cửa khép kín rồi mới buông áo nón và chắp tay thi lễ: "Lạy chú". Bên ngoài, chỉ có Đỗ Niêm đứng gác sừng sững như một pho tượng đồng đen. Sau cơn xáo động vừa rồi, thái ấp Chí Linh lại chìm trong im lặng. Trời vẫn chưa sáng, nhưng tiếng gà xao xác cuối giờ Dần đã bắt đầu vang lên đây đó trong những khu nhà của gia nô...
Hai người mới đến chính là Hưng Vũ vương và Hưng Nhượng vương. Hai ông tướng con trai cả và con trai thứ ba Đức ông Hưng Đạo. Giá như có người ngoài nhìn thấy cuộc hội ngộ này, chắc sẽ không khỏi ngạc nhiên vì sự oái oăm của nó. Hưng Vũ vương và Nhân Huệ vương đã từng có không ít hiềm khích trong quá khứ. Cuộc đời trớ trêu và mệnh lệnh cử tướng cũng trớ trêu đã khiến cho Hưng Vũ vương thì coi quản đất An Bang lo việc trên bờ mà Nhân Huệ vương làm tướng cai quản đất Vân Đồn lo toàn mặt bể. Tướng dưới bể và tướng trên bờ không thể bất hòa, bằng không cả hai cùng chết. Vì vậy hai ông tướng đành phải tỏ ra bằng mặt dẫu chưa thể bằng lòng để quân lính vững dạ. Hưng Vũ vương thuần tính nhưng cục, đã nóng lên thì chẳng nể mấy người. Nhân Huệ vương thì ngang tàng, nhưng chịu cái ơn Đức ông Hưng Đạo xin cho phục chức và lại tin mà giao quyền lớn nên vẫn có chút nhún. Tuy vậy, nếu không có đại sự thì thật khó bắt họ ngồi được với nhau như lúc này.
Việc chuyến này thì rõ là đại sự. Vừa ngồi xuống, chưa kịp tháo thanh kiếm nhẹ ngang hông, Hưng Nhượng vương đã cất lời:
– Thưa chú, tin của chú vừa đến là cha cháu sai hai anh em cháu tới đây. Cha cháu truyền rằng gian tế giặc chắc chắn sẽ làm bậy nên thúc anh em cháu đi thật nhanh. Còn giờ này hẳn là lính của Khoái hầu cũng đã vây kín thái ấp rồi đấy ạ!
– Nguyễn Chế Nghĩa đích thân cầm quân à? Lính của nó có cả lính viễn thám Hành trung doanh đúng không?
– Bẩm chú, Nguyễn Chế Nghĩa tướng quân vẫn đang ở lộ Khoái, anh em cháu chỉ lặng lẽ lấy đội lính viễn thám cũ theo thôi!
– Ai chỉ huy lính viễn thám thế? Hoàng Đỗ về kinh rồi đúng không?
– Dạ, Hoàng Đỗ đã về kinh. Tướng chỉ huy lính viễn thám giờ là Hoa Xuân Hùng. Giờ Hoa Xuân Hùng là phó tướng của Nguyễn Chế Nghĩa.
– À, ta đã nghe Hoàng Đỗ kể về tay cung Nhất tiễn lập công này. Thực ra Trần Khánh Dư biết thừa Hoa Xuân Hùng. Ông đã cùng Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa và Hoa Xuân Hùng truy đuổi và gọi hàng đám dân bất hảo trên các đảo của Hạ Long và Bái Tử Long. Ông cũng biết từ cuối năm ngoái, Hoa Xuân Hùng và vợ là Vi Hồng nhận mệnh của Hưng Đạo vương lặng lẽ lập trại đóng thuyền để phòng khi cần thủy chiến ở vùng sông chằng chịt sau cửa Lục.
Câu chuyện về cuộc đời và lần gặp gỡ của Hoàng Đỗ[7] và Hoa Xuân Hùng vẫn được lan truyền trong quân gia nô Vạn Kiếp như một huyền thoại về hai viên tướng trẻ. Hoàng Đỗ là con ông già Màn Trò, do cha thiếu nợ người ta không trả được nên Đỗ bị bán làm nô rồi trở thành lính trong quân Thánh Dực của Trần Bình Trọng. Trước trận
đánh quyết tử trên bờ Thiên Mạc, Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đã xóa bỏ thân phận gia nô cho Hoàng Đỗ và nhận cậu làm em nuôi. Trận Thiên Mạc, Trần Bình Trọng và ông già Màn Trò đều sa vào tay giặc để chặn đường tiến binh của giặc truy bắt hai vua. Họ đã hiên ngang mắng vào mặt tướng giặc Lý Hằng và anh dũng tử tiết. Hoàng Đỗ hoàn thành nhiệm vụ Quốc công giao cho mang bản mật lệnh vào trao tận tay Thái sư Trần Quang Khải, và khi trở về cậu đã trở thành chỉ huy đội lính viễn thám trong Hành trung doanh của Quốc công. Hoàng Đỗ gặp anh chàng Hoa Xuân Hùng rất tình cờ và sau một cuộc trò chuyện họ lôi nhau ra thi bắn cung. Thi mãi vẫn bất phân thắng bại, Hoàng Đỗ moi một củ khoai chiêm để lên đầu và thách Hoa Xuân Hùng bắn trúng. Cung thủ "Nhất tiễn lập công” đã dùng phép bắn "bạt gió" găm mũi tên đúng vào củ khoai. Lối thi bắn "bia sống” này sau đó bị Quốc công cấm vì nó quá nguy hiểm; nhưng danh tiếng gan lì của chính "bia sống" Hoàng Đỗ và tài bắn của Hoa Xuân Hùng đã thành niềm tự hào không thể che giấu của lính viễn thám Hành trung doanh.
Biết thì biết vậy, nhưng vẫn hỏi, vẫn giả bộ bất ngờ để cho có chuyện. Ông không muốn tỏ vẻ quá khẩn trương trước mặt đám vương hàng cháu, mà một trong hai người lại có nhiều ân oán riêng với ông...
Trần Khánh Dư vừa nói đến đó thì chợt nghe tiếng gió vút qua mái nhà. Một thứ gì đó tròn và nặng lăn uỵch theo mái ngói xuống bậc thềm. Bên ngoài có tiếng Đỗ Niêm quát: "Ai” và tiếp theo liền nghe rõ tiếng rên rỉ.
Ba vị vương gia cùng chạy ra ngoài xem. Dưới sân, Đỗ Niêm đang gỡ mảnh vải che mặt của một kẻ bị trúng tên ngập bả vai. Nhân
Huệ vương bước tới nhìn mũi tên rồi ngẩng đầu trông quanh quẩn. Ông nói nhỏ qua kẽ răng với Trần Quốc Nghiễn và Trần Quốc Tảng:
– Thằng Hoa Xuân Hùng bắn khá quá. Nó cố tình không đoạt mệnh tên gian tế nên mới bắn vào vai. Mà nó nấp đâu ta cũng không nhận ra nhỉ?
Đoạn, Trần Khánh Dư bảo Đỗ Niêm:
– Lôi kẻ kia vào nhà, trói cho chặt và rịt thuốc dấu! Khám kỹ người nó cho ta!
Trần Khánh Dư quay vào gian chính, cửa lại đóng kín. Trời bên ngoài đã rõ mặt người.
Hưng Nhượng vương nói tiếp:
– Cha cháu đoán thế nào chú cũng cho quân Vân Đồn triệt thoái... Trần Khánh Dư cười:
– Anh Trưởng hiểu ta quá. Nếu không cho chúng rút, e rằng chúng và lính viễn thám đánh nhau tơi bời. Thế thì làm gì có chuyện mà bọn Hoa Xuân Hùng áp sát thái ấp ta lại chẳng biết! Phải liều mà tạo ra một cái bẫy giương lên chờ gian tế chứ. Chỉ có điều, ta không ngờ Quốc công lại quá quý trọng cái mệnh của Dư này rồi bắt cả hai vương điệt cùng xuất mã.
Trần Khánh Dư nói như thế cũng là khéo. Dù gì chăng nữa, ân oán xưa vẫn còn nguyên. Thế mà hôm nay, chính Hưng Vũ vương lại thân cầm quân tới đây bắt gian tế bảo vệ thái ấp Chí Linh. Đành rằng Trần Khánh Dư là Phó Đô tướng quân, nhưng cả nhị vị vương gia cùng xuất mã thì thực là quá coi trọng việc này rồi.
Hưng Vũ vương bây giờ mới cất lời:
– Trình Vương thúc, cha cháu truyền "toàn bộ tang vật trong người gian tế đưa thẳng về Thăng Long, mang vào phủ Chiêu Minh để chú Ba tra xét”.
Trần Khánh Dư đang ngả ra sau liền ngồi bật thẳng người lên:
– Sao, sao không trình thẳng lên hai vua mà lại mang qua phủ Thái sư?
Hưng Nhượng vương rành rẽ nói:
– Cha cháu dặn, nếu chú có hỏi thì thưa rằng: "Ấy cũng như kế triệt quân Vân Đồn”...
Trần Khánh Dư im lặng suy nghĩ. Không ai hiểu được bụng con người đa mưu và khó lường như ông bằng Đức ông Hưng Đạo. Vị tướng già mang trọng trách trưởng họ Trần đã từng khiến ông kính phục và giờ khiến ông kinh ngạc. Trần Khánh Dư triệt quân Vân Đồn vì trong số đó có nhiều kẻ gốc bên xứ Bắc. Ông chỉ dùng gia nô và lính hầu Chí Linh bởi họ đã hầu hạ và đi theo cha của ông - Nhân Thành hầu Trần Phó Duyệt - suốt bao năm. Bây giờ trình một âm mưu lên hai vua, e rằng tai vách mạch rừng khó mà giữ kín. Chi bằng lẳng lặng mang đến phủ Chiêu Minh. Đức ông Hoàng Ba trị quân nghiêm và kỹ, tin tức chắc chắn không lọt ra ngoài. Nhưng gửi tang vật đến phủ Chiêu Minh, coi như Đức ông Hưng Đạo đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác sinh mệnh bao nhiêu nhà vào tay Trần Quang Khải. Bởi xem ra chắc chắn tang vật đó là những thứ người Nguyên mang vào để toan phao tin "Hưng Đạo vương đồng mưu Nhân Huệ vương tính chuyện làm phản cướp ngôi!” Một sự vu hãm tày trời mà Nguyễn Khoái vô tình khám phá ra được... Thôi, giờ thì cứ để mọi
việc theo tính toán của Hưng Đạo vương và sự công bằng minh bạch của Chiêu Minh vương.
Nhân Huệ vương hỏi:
– Vậy, mọi việc cứ theo ý của anh Trưởng. Giờ hai cháu có cần gì không?
Trần Quốc Tảng tủm tỉm cười:
– Dạ có, xin chú cho anh em cháu bữa chén!
Trần Khánh Dư thở phào. Thật ra, ông vẫn có chút ngại ngùng khi đối diện Trần Quốc Nghiễn. Chuyện xưa qua đã lâu nhưng vừa nãy, qua cách xưng hô có thể thấy Hưng Vũ vương vẫn giữ một khoảng cách với ông chú khó chơi này. Việc chính đã xong, nay một bữa rượu nhỏ cũng họa chăng xóa bớt đi cái khoảng cách giữa ông và Quốc Nghiễn. Trần Khánh Dư toan đứng dậy gọi người thì có tiếng gõ nhẹ vào cánh cửa. Đó là Đỗ Niêm. Mặt anh ta còn xanh lè vì mũi tên Nhất tiễn lập công cắm ngập vào búi tóc. Hoa Xuân Hùng vừa từ đâu đó bắn tên báo tin: "Có hơn bốn chục kẻ bịt mặt đang tiến về phía thái ấp”.
Trần Khánh Dư gọi Đỗ Niêm vào. Ông giao cho anh ta ngồi lại trong một góc khuất của gian chính canh chừng. Sau đó Trần Khánh Dư lôi Quốc Nghiễn, Quốc Tảng đi ra sau bàn thờ Phật. Hai ông tướng này lại sùm sụp áo tơi nón lá. Nhân Huệ vương mở một cánh cửa nhỏ. Cánh cửa hé ra lối đi nửa chìm nửa nổi nép vào bên cạnh những chum nước mưa phía sau vườn. Ba người theo lối đó xuyên sang mấy gian bếp cỏ của gia nô. Tới đây, Trần Khánh Dư mở một chiếc hòm, lấy áo và nón choàng vội lên người. Ba người lại theo một lối bí mật khác xuyên vào khu nhà đọc sách của thái ấp. Trong
đó, hai tên gian tế đang bị trói và nhét giẻ vào mồm vẫn đang kêu ư ử. Trần Khánh Dư quờ xuống gầm phản lôi ra một thanh gươm, cây cung và mấy mũi tên. Ông buộc mồi, đánh lửa, châm lên đầu tên và hé cửa phóng mũi tên lửa lên mái cỏ của mấy gian bếp. Trần Khánh Dư luồn tay vào sau một chiếc tủ lôi ra hai bọc vải thâm rồi ra hiệu Quốc Nghiễn, Quốc Tảng vác hai tên gian tế lên vai. Giờ thì họ luồn vào một lối đi ẩm ướt tối tăm chìm hẳn trong lòng đất. Nóc của lối đi rất thấp nên hai tên gian tế mấy lần bị va đầu vào nóc, nếu không bị nhét giẻ thì chắc chúng đã kêu đau thấu trời. Lối đi mở ra ngách vào chuồng ngựa. Ba người lấy ngựa rồi im lặng ra hiệu cho nhau bằng mắt. Trần Khánh Dư vắt hai bọc tang chứng vào phía trước yên ngựa rồi nhanh chóng tung mình lên yên trong khi hai ông tướng kia cũng làm theo như thế, chỉ khác ở chỗ thay cho bọc tang chứng là hai tên gian tế. Ba con ngựa nối nhau phi xuyên qua cánh đồng tít tắp dưới trời mưa giăng mù mịt. Phía sau họ, khu bếp gia nhân đang cháy ngùn ngụt. Cả thái ấp chắc giờ đang rối loạn vì không thấy chủ nhân đâu...
Trong mưa, Trần Quốc Tảng gọi với sang ông chú:
– Chúng ta sẽ tới bến Bình Than. Nguyễn Khoái đã vâng mệnh cha cháu chuẩn bị thuyền về Thăng Long.
Ra thế, mọi sự không ngoài sự xếp sắp của Đức ông Tiết chế. Trần Khánh Dư càng thêm vững dạ. Thực ra, tới lúc này, ông vẫn chưa yên tâm. Nào ai biết được lòng người. Nhỡ Chiêu Minh vương lại tin vào những chứng cử mà người Nguyên tạo ra thì sao. Bản tính đa nghi đã có trong máu của Trần Khánh Dư từ khi còn nhỏ. Mà có lẽ bản tính ấy đã ẩn đi ở Nhân Thành hầu chứ thật ra nó luôn có ở Đức ông Thái sư Trần Thủ Độ. Chính sự đa nghi đã khiến cho Trần Khánh
Dư tạo ra con đường bí mật ở thái ấp Chí Linh trong những ngày ông bị cuộc đời vùi dập. Những ngày đó, con đường hầm vô dụng; nhưng vừa rồi, nó mới đắc dụng làm sao. Nhờ con đường ấy mà tung tích của ông cùng hai vị vương gia đều hoàn toàn bí mật. Còn những gã bịt mặt vốn tưởng rằng sắp đột kích được vào thái ấp Chí Linh thì chắc giờ đây đã sa vào bẫy của lính viễn thám và bỏ mạng không ít dưới tên của cung thủ Nhất tiễn lập công!
Vũ Khắc và đám lính Vân Đồn cập đảo khi trời đã khuya. Ra đón họ là ba tướng Phạm Chính, Phạm Quý và Phạm Thuần Dụng. Ba người này là anh em ruột, theo Nhân Huệ vương từ hồi ông còn đang cầm đầu đội thuyền bán than. Chính ba anh em đã khuyên Trần Khánh Dư chèo thuyền lướt qua mũi thuyền ngự trên bến Bình Than khiến hai vua để ý. Hôm đó, Trần Khánh Dư toan đợi buổi hội vương hầu tan thì mới lên thuyền ngự xin hai vua cho theo đánh giặc. Phạm Chính quả quyết quỳ xuống: "Xin Đức ông mạo muội mà làm, nếu cứ câu nệ lễ tiết e hỏng cả việc lớn”. Trần Khánh Dư được Quan gia cùng Quốc công tin dùng, và ba anh em họ Phạm từ đó trở thành kẻ tâm phúc trong quân Nhân Huệ vương. Giờ thì cả ba tướng đều ra bến thuyền đón sẵn, sau lưng họ, lấp ló một người mới vừa làm khách ở thái ấp Chí Linh. Quản gia Vũ Khắc bước lên bờ liền xẵng giọng: "Ba vị ra cả đây đón ta, thực là hân hạnh. Nhưng binh lính không người coi mà sinh biến, ta không đương nổi tội đâu”. Chỉ thấy ba tướng họ Phạm cùng binh lính sau lưng họ nhất loạt tuốt kiếm, rồi Phạm Chính lớn tiếng:
– Vũ Khắc, ông chớ nhiều lời. Mau bó tay chịu trói, chờ Đức ông về hỏi tội.
Lời vừa nói thì kiếm đã trỏ vào cổ họng Vũ Khắc. Vũ Khắc kêu ầm lên:
– Anh em binh lính trên thuyền, bọn này làm loạn rồi, mau giết chúng nó đi...
Đám lính trên thuyền của Vũ Khắc ngơ ngác chưa biết tin ai thì đã thấy Phạm Chính giơ cao một vật trong ánh lửa bập bùng:
– Có tín phù Nhân Huệ ở đây, kẻ nào dám bảo ta làm loạn?
Nhân lúc đó, Vũ Khắc tung mình bỏ chạy. Nhưng mới được một bước, Vũ Khắc đã khựng lại trước một mũi dao sáng quắc. Vũ Khắc kêu lên:
– Hoàng Phủ Tín, ngươi là người Bắc quốc, sao lại cản ta? Hoàng Phủ Tín cười gần:
– Ta là người Bắc, nhưng quyết không giúp bọn rợ Thát cướp nước người! Ngươi là chó săn của chúng, ta không tha cho ngươi đâu...
Chỉ thấy một ngọn thiết lĩnh từ sau Hoàng Phủ Tín đánh vút tới. Vũ Khắc sụm xuống. Hai đầu gối của hắn liền bị điểm trúng. Hắn đã trở thành phế nhân rồi. Vũ Khắc cố nhỏm lên toan gọi một ai đó, nhưng hắn dừng lại. Phạm Quý bật cười:
– Ngươi toan gọi mấy gã mà ngươi lén đưa vào trong quân hử? – Chúng bị vị cư sĩ họ Hoàng đây bắn ngã sạch rồi!
Vũ Khắc ngẩng lên, trừng trừng nhìn Hoàng Chí Hiển: – Sao ngươi lại đến đây, phá kế của ta?
Hoàng Chí Hiển mắng:
– Ta vâng mệnh Đức ông Phó Đô tướng cầm tín phù Nhân Huệ về Vân Đồn là để giúp ba vị tướng quân họ Phạm dẹp phản loạn. Vừa hay tra hỏi thì lộ ra thằng phản tặc là ngươi.
A Lý lại gần, định xốc nách Vũ Khắc lên. Nhưng chỉ một chớp mắt, Hoàng Phủ Tín lại tung chân đá bay mũi châm nhọn mà A Lý toan đâm vào yếu huyệt của Vũ Khắc. Mũi châm cắm vào búi tóc một người lính khiến anh ta mặt như chàm đổ, run cầm cập. Phạm Chính nhìn A Lý thở dài:
– Ta không mong ngươi vọng động, ai ngờ nhà ngươi lộ mặt sớm thế!
Phạm Chính quát lính trói giật hai tên phản loạn và truyền giam vào ngục, canh giữ cẩn thận. Rồi viên tùy tướng quay qua Hoàng Chí Hiển:
– Giờ thì xin mời cư sĩ về qua nhà chú em tôi. Chúng ta sẽ uống rượu chờ tin các Đức ông!
Có lẽ đến tận khi bị tống ngục, Vũ Khắc cũng không bao giờ biết, chính bài thơ lời lẽ ngông ngạo của Hoàng Sào là ám hiệu để Hoàng Phủ Tín báo với Nhân Huệ vương rằng có kẻ bội phản. Vũ Khắc làm sao mà ngờ rằng, bài thơ thì thật là ngông, nhưng lại chẳng chứa một dấu hiệu nào cả. Chỉ cái tên người làm ra bài thơ đó mới nói lên điều Hoàng Phủ Tín cần mật báo. Nếu biết, hẳn Vũ Khắc sẽ uất hộc máu vì bao nhiêu công rình mò nghe trộm của hắn đã đổ xuống biển chỉ vì hắn dốt thơ. Bởi nếu nhận ra Trần Khánh Dư đã biết về âm mưu của hắn, Vũ Khắc nhất định sẽ để A Lý hạ độc vào bữa tiệc chứ không đời nào hắn chịu thất bại đớn đau đến thế này...
CHƯƠNG II
Mấy đêm ngủ trong phủ Chiêu Quốc cũ, lòng Nhân Huệ vương không an. Dẫu cuối cùng, lính truyền tin mang mật thư báo bắt được Vũ Khắc và lính viễn thám cũng đem mật thư của Hoa Xuân Hùng báo tin diệt gọn đám thích khách bịt mặt thì ông vẫn chưa vững dạ. Thật ra, mối lo lớn nhất của Nhân Huệ vương lại là ông Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Kể từ hôm Trần Khánh Dư và hai vương Hưng Vũ, Hưng Nhượng mang vật chứng cùng gian tế lên phủ Chiêu Minh, Đức ông Thái sư liền truyền giam gian tế và cất vật chứng. Sau đó nửa đêm Đức ông truyền Nhân Huệ vương ẩn sang phủ Chiêu Quốc - vốn bỏ trống từ khi Trần Ích Tắc hàng Nguyên. Còn hai vương Hưng Vũ - Hưng Nhượng phải quay về Vạn Kiếp để thỉnh ý Đức ông Hưng Đạo. Tết đã cận ngày, vậy mà các vị vương gia không có một lúc nào ngơi nghỉ. Chỉ có Nhân Huệ vương như kẻ bị an trí ở phủ của gã phản vương Trần Ích Tắc.
Trần Khánh Dư thấy cuộc đời lại thêm một lần trớ trêu với ông. Ông rất ghét Trần Ích Tắc, và bây giờ lại ẩn vào phủ của gã. Phủ Chiêu Quốc là nơi duy nhất mà quân Nguyên không phá phách. Các phủ đệ khác, kể cả phủ Nhân Huệ, bị đốt phá tan hoang giờ mới đang dựng lại. Đến cung điện cũng còn bị giặc đốt tơi bời. Lúc này, ở trong phủ Chiêu Quốc là sung sướng nhất. Nhưng cũng vì thế mà tâm trạng Trần Khánh Dư cứ rối bời. Ông không hiểu ý tứ Trần Quang Khải ra sao mà lại để ông ẩn sang bên này rồi truyền tướng quân Phạm Ngũ Lão cử một đô Thánh Dực tới gác bên ngoài phủ. Còn bên trong, người được Thượng tướng Thái sư giao cho nhiệm
vụ hầu Trần Khánh Dư chính là Hoàng Mãnh[8], hổ tướng dũng thủ kinh thành, em nuôi của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Hoàng Mãnh là anh em đồng nhũ với Trần Nhật Duật. Anh em đồng nhũ mà thân thiết có khi hơn ruột thịt. Thân tới mức, đám cưới Hoàng Mãnh và cô con gái của Trịnh Giốc Mật - tù trưởng Đà Giang, đích thân Chiêu Văn vương chỉ huy một cuộc cướp dâu hoàn hảo náo động châu Mai! Vì thế, tiếng là hầu; nhưng mà theo ý Trần Khánh Dư, chắc hẳn cái tay Hoàng Mãnh con rể tù trưởng Đà Giang này ở đây chỉ để canh chừng không cho ông vọng động. Giá như ngày trước rơi vào tình cảnh thế này, chắc ông đã nổi khùng lên mà phá phách cho hả. Nhưng năm tháng và binh lửa đã tôi luyện Trần Khánh Dư thành một con người chịu đựng thực tốt. Ông vẫn thanh thản bày rượu uống với Hoàng Mãnh. Rượu Đà Giang của Hoàng Mãnh nặng và thơm mùi lá, ngược hẳn với rượu Vân Đồn. Uống xong, Trần Khánh Dư lại nằm khểnh mà hát tràn mọi thứ làn điệu ông học được trên đời.
Thế rồi, khi ông đang hát thì đột nhiên có tiếng người nói: – Hai vị này vui vẻ quá!
Trần Khánh Dư ngẩng lên thì đã thấy Hoàng Mãnh quỳ mọp xuống. Cả Thượng hoàng và Quan gia cùng Thái sư Trần Quang Khải vừa mới bước vào căn gác tràn hương rượu châu Mai. Xưa, đây là chốn ngâm thơ thưởng nguyệt của Trần Ích Tắc. Giờ Trần Khánh Dư "trưng dụng" để uống rượu với Hoàng Mãnh.
Ông tướng đánh biển lồm cồm bò dậy làm lễ với hai vua. Nhân Tông xoa tay:
– Chú Nhân Huệ không cần đa lễ.
Rồi nhà vua cho Hoàng Mãnh lui và truyền Điện tiền hiệu úy Hoàng Đỗ ra canh cửa. Bây giờ Trần Khánh Dư mới nhìn rõ viên tướng lấp ló bên ngoài chính là cậu đội trưởng lính viễn thám Hành trung doanh ngày trước. Xem ra anh chàng đã cao nhớn lên nhiều.
Thượng tướng Thái sư quay qua Nhân Huệ vương:
– Ta vừa mới tâu lên hai vua mấy chuyện vừa rồi. May mà anh Hưng Đạo và ngươi làm khéo nên không kinh động đến ai. Quả là chuyện tày trời...
Quản gia Vũ Khắc bị đưa về kinh đã khai tuốt tuồn tuột. Chính A Lý trá hàng Đại Việt để trà trộn vào mua chuộc Vũ Khắc. Chúng thực tinh quái vì kẻ này vốn xuất thân từ thái ấp Chí Linh, được Trần Khánh Dư tin cẩn. Chuyến này, chúng tính kế vu hãm hai vị trọng thần đại tướng của Đại Việt mưu phản để triệt bỏ trung lương cột trụ Đại Việt. Trò li gián này đã được người phương Bắc sử dụng với nhau và cũng đã thành công không ít. Chẳng đâu xa, Tống tướng Nhạc Phi đã bị vua giết chỉ vì kế li gián của người Kim. Giờ thì, chúng lại toan giở trò này với Đại Việt.
Nhân Tông không giấu được vẻ tức tối. Vị vua trẻ vẫn còn chưa nguôi cơn giận khi nghĩ lại sự phản bội của Trần Ích Tắc và Trần Kiện. Giờ lại đến một viên quản gia tưởng chừng mấy đời trung thành cũng rắp tâm theo giặc mưu cầu chút lợi danh. Nhà vua hỏi:
– Chú Nhân Huệ biết Vũ Khắc phản từ bao giờ mà kịp truyền Hoàng Chí Hiển mang tín phù về Vân Đồn dẹp loạn?
Nhân Huệ vương còn đang lúc lắc đầu cố gạt cơn say thì Chiêu Minh vương đã đỡ lời:
– Tâu Quan gia, khi giao cho Nhân Huệ quản Vân Đồn, Đức ông Hưng Đạo đã nói với thần: "Nhân Huệ ra Vân Đồn, vừa phải làm tướng lo chuyện công - thủ, vừa phải lo chuyện quan thuế của thương cảng, vừa phải lo phòng gian. Phi Nhân Huệ ra, không ai làm được ngần ấy việc, nhất là việc phòng gian”.
Thượng hoàng Thánh Tông chen vào:
– Xem tướng, cắt binh, đặt trấn không ai bằng anh Hưng Đạo. Dám tin người, dám dụng người, không ai bằng Chiêu Minh... Trần Quang Khải vội chắp tay:
– Thượng hoàng quá khen, thần đệ thực phải nhờ anh em giúp rập mới nên việc, lẽ nào lại không tin!
Thượng hoàng cười xòa:
– Giờ thì Quan gia truyền chỉ rồi cho Nhân Huệ còn về. Việc Vân Đồn đang đợi Nhân Huệ khu xử đấy!
Nhân Tông phán:
– Việc giặc dụng kế li gián đã rõ, công bắt giặc là của nhiều người, ngày sau trẫm sẽ theo công ban thưởng. Trước mắt, Nhân Huệ vương mau quay lại Vân Đồn cho an lòng binh lính. Trẫm truyền, Nhân Huệ vương phụng chiếu mang quà Tết của triều đình qua Vạn Kiếp rồi hẵng trở lại Vân Đồn. Nhân Huệ vương nhớ thưa cùng Trọng phụ cố giữ gìn sức khỏe.
Trần Quang Khải nói thêm:
– Phạm Ngũ Lão sắp về Vạn Kiếp. Vậy ta sẽ giao quân Thánh Dực hộ vệ Nhân Huệ cho thêm phần trọng thể. Nào, mau đi kẻo không kịp đón Tết ở Vân Đồn!
Trần Khánh Dư chắp tay bái tạ hai vua và Thái sư Chiêu Minh vương Quang Khải. Ông ngập ngừng toan nói thêm nhưng rồi lại thôi. Có lẽ, cũng không cần phải hỏi xem ý tứ Trần Quang Khải ra sao khi giấu ông ở phủ Chiêu Quốc mà không phải là nơi đền miếu nào đó. Đúng lúc đó, vừa khéo Trần Quang Khải cất lời tâu Thượng hoàng:
– Thần đệ mời Thượng hoàng và Quan gia qua đây gặp Nhân Huệ cũng là để nhìn cái phủ này lần cuối. Tết xong, nơi đây sẽ bị phá bỏ, lấy chỗ xây một ngôi chùa với tháp chuông thực cao. Thần đệ muốn nhờ phép Phật xóa đi cái tù hãm của đất này!
Thuyền của quân Thánh Dực lướt trên mặt sông Cái. Mấy ngày biến động đã ở cả phía sau nhưng Trần Khánh Dư vẫn chưa thôi trầm tư. Ông nghĩ mãi về vẻ mặt Thượng hoàng Thánh Tông khi nhấc từng thứ đồ bày biện trong phủ Chiêu Quốc lên ngắm nghía. Một chút gì nửa xót xa nửa thương hại hằn trên gương mặt vị Hoàng đế đã trải qua bao nhiêu thăng trầm biến cố. Trong số những người em của Thượng hoàng, Chiêu Quốc vương là kẻ đa tài nhất, độc đáo nhất. Ngựa phủ ông ta tuyệt giỏi, con hát phủ ông ta tuyệt hay, mà tân khách trong phủ ông ta cũng phải là những thi sĩ trứ danh hay là kiếm sĩ đại tài. Báu vật ở phủ Chiêu Quốc, đến trong nội cung cũng không sánh được. Những thứ quý báu, khi chạy về Nguyên hắn ta đã mang theo. Mấy món mà Thượng hoàng cầm xem chỉ là đồ lặt vặt bày chơi. Vài bức tượng của người Chàm. Chiếc nghiên mực bằng ngọc trắng. Ống đựng bút mã não. Một thân san hô đỏ như máu. Nhưng có lẽ vật làm Thượng hoàng tần ngần nhất là bài thơ Trần Ích Tắc đang viết dở theo lối "Sấu kim thư” do Huy Tông hoàng đế nhà Tống chế ra. Nét chữ thanh mảnh và vặn xoắn như những sợi vàng
đầy vẻ lãng tử của vị vua đã có "công” phá tan nhà Bắc Tống. Tống Huy Tông giỏi thơ, giỏi vẽ, giỏi đàn, giỏi thư pháp, giỏi luận trà nhưng lại thực sự là một hôn quân. Ông ta trọng dụng gian thần và để cho quân Kim nhiều phen tàn phá Biện Kinh. Tống Huy Tông nhường ngôi cho con là Tống Khâm Tông rồi cả hai cha con bị quân Kim bắt được đem giam ở miền Bắc Mãn Châu xa xôi và chết rục ở đó trong đói rét. Vẻ như Trần Ích Tắc cũng muốn học đòi theo những tài hoa và cả những xa hoa của Tống Huy Tông. Cũng may mà vận nước còn bền, hai vua còn sáng, chứ nếu Trần Ích Tắc chiếm được ngôi đại bảo thì muôn dân ắt phải lầm than không biết bao giờ thoát nổi. Bất giác, Trần Khánh Dư ngả người ra sau và ngửa mặt nhìn trời. Ngày giáp Tết trời xầm xì và gió Bắc cuồn cuộn. Chưa có một cái Tết nào lại khiến cho lòng người bộn bề như Tết năm nay. Buồn, vui, nhớ, thương, ghét, giận... đang ào về cùng cái Tết dở dang. Trần Khánh Dư quên mất dòng suy nghĩ về câu chuyện trong phủ Chiêu Quốc. Lẽ ra, ông nên nghĩ tiếp về vẻ sững sờ của Quan gia khi nhìn thấy sự xót thương trên gương mặt Thượng hoàng. Nhà vua thực sự ngạc nhiên khi thấy vua cha vẫn còn đau đáu vì tên phản nghịch Ích Tắc, dẫu hắn suýt làm nát tan xã tắc và sẵn sàng bày gian kế để đẩy cả Hưng Đạo vương lẫn Chiêu Văn vương vào tội đại nghịch tiếp tay cho giặc. Trần Khánh Dư không biết rằng, Tết này là một cái Tết đầy trăn trở của Quan gia Nhân Tông.
○ ○ ○
Thái ấp Vạn Kiếp đang tưng bừng đón năm mới. Trần Khánh Dư truyền dẹp cờ im trống và bước chậm rãi trên con đường ngang qua khu nhà của gia nô. Tiếng lợn kêu, tiếng người hát, thỉnh thoảng một
vài đứa trẻ hớn hở chạy quanh đuổi theo nhau. Đột nhiên Trần Khánh Dư chợt thấy nao nao. Bao nhiêu năm nay rồi, ông không đón Tết. Đối với một con người luôn nghĩ rằng mình phải chịu những bạc đãi của cuộc đời, năm mới hay năm cũ chỉ là những gì được ty Khâm thiên giám quy ước. Quân tướng và gia nô dưới quyền Trần Khánh Dư đã quen lệ, mỗi năm sát Tết là chủ của họ lại lặng lẽ biến mất đi đâu đó, gần hết tháng Giêng mới thấy trở về. Tết năm ngoái, nước có giặc, Nhân Huệ vương không bỏ được đi đâu nên quân lính mới có dịp lần đầu nghe chủ nhân chúc Tết. Thực ra họ cũng hiểu, trông thái độ chủ nhân hững hờ thế kia thì mấy câu chúc sáo mòn cũng thật là vô vị. Giờ, đi trong thái ấp Vạn Kiếp, lắng nghe tiếng bao người xôn xao chờ đón Tết, Trần Khánh Dư như chợt hiểu thêm về tấm lòng của vị vương đứng vai Trưởng họ Trần. Nhân Huệ vương đứng tần ngần trông một nồi bánh chưng muộn đang cuồn cuộn tỏa khói. Phạm Ngũ Lão từ này giờ vẫn lặng lẽ phía sau bỗng cất lời:
– Nhà này có lệ đun bánh chưng chiều 29 Tết. Tiểu tướng nghe đâu cha ông họ một lần đun bánh chưng muộn vì mải theo hầu Đức ông An Sinh[9]. Việc đó sau thành nếp nhà...
Trần Khánh Dư gật gù và bước tiếp. Phạm Ngũ Lão lại lên tiếng: – Dạ, trình Đức ông, vương phụ của tiểu tướng kia thì phải.
Trần Khánh Dư nheo mắt nhìn. Từ phía xa, lẫn giữa những hàng cây đã thấy thấp thoáng bóng Đức ông Hưng Đạo cùng các vương tử tiến ra. Trần Khánh Dư giật mình. Ông suýt quên mất mình hôm nay là vai Khâm sai thừa mệnh vua mang quà tới ban cho vị tướng vừa đánh tan quân giặc. Nhân Huệ vương ngoái lại ra hiệu, lính Thánh Dực liền giương cao cờ, nổi trống. Biển Khâm sai được Phạm Ngũ Lão trịnh trọng trương ra. Đức ông Hưng Đạo vội vã cùng bốn vị
vương tử rảo bước. Trần Khánh Dư tự trách mình, lẽ ra ông phải sai người vào trình Đức ông Hưng Đạo rằng hai vua ân tử Hưng Đạo vương tuổi cao không cần ra đón Khâm sai, nhận mệnh không cần lạy. Giờ thì không kịp nữa rồi. Hưng Đạo vương bước qua khỏi rặng cây liền cùng các vương tử sụp xuống cất tiếng tung hô. Trần Khánh Dư chạy tới. Ông vừa đỡ Trần Quốc Tuấn vừa phàn nàn:
– Vương huynh giữ lễ quá. Thánh chỉ truyền Vương huynh tuổi cao không cần lạy. Mà nào em có bao giờ được làm Khâm sai truyền chỉ nên không dự trước việc này.
Vị tướng soái tối cao nắm giữ cả sinh mệnh Đại Việt cười xòa:
– Vương đệ sai rồi. Lễ phải nghiêm thì mới bảo được con cháu. Bốn vị vương tử chắp tay vái Trần Khánh Dư rồi theo hầu cha và chú. Tự nhiên khi cất bước khoan thai cùng Trần Quốc Tuấn, Trần Khánh Dư chợt thấy những thứ lễ nghĩa vừa rồi thực là kệch cỡm. Tại sao anh em gặp nhau lại phải thủ lễ. Tại sao không thể tay bắt mặt mừng hớn hở hàn huyên chỉ vì một cái biển Khâm sai và mấy thứ cờ quạt trống chiêng? Trần Khánh Dư buột miệng:
– Anh Trưởng, nhiều lúc em chỉ muốn vứt bỏ quách mấy cái lễ nghĩa này cho nhẹ thân!
Trần Quốc Tuấn chậm bước. Ông quay sang nhìn thẳng vào mặt Trần Khánh Dư và thong thả trả lời:
– Ta thấy nhiều lúc em thật giống cha ta. Nghĩ kỹ thì anh Hưng Ninh[10], ta, và cả... - Trần Quốc Tuấn hơi ngần ngừ rồi nói tiếp - cả kẻ Doãn[11]; thảy đều không giống cha. Cái tính ưa phá bỏ luật lệ của cha ta chỉ thấy ở em... - Hưng Đạo vương bỏ lửng câu nói.
Trần Khánh Dư nói thật nhỏ:
– Sao anh Trưởng không nói nốt? Cả ở Quốc Tảng nữa phải không?
Hưng Đạo vương không trả lời. Ông kéo tay Trần Khánh Dư và trỏ cây mai trước sân hoa nở trắng:
– Em trông kìa, hoa mai nở đúng tiết xuân, thực là hợp... Thì đúng thật, hoa mai là cứ phải nở đúng xuân. Mai nở sớm thì lạc lõng giữa đông, mà nở muộn thì hao mòn vì tiết trời nóng nực. Trần Khánh Dư biết Đức ông Hưng Đạo không muốn tranh luận với mình. Đức ông chỉ nhắc, điều gì hay tới đâu cũng cần phải đúng lúc đúng chỗ. Vốn là cùng một vai nhưng tuổi tác hai người có phần chênh lệch. Kiến văn khác, suy nghĩ khác, cả những cách hành xử cũng thật khác nhau. Nhưng dẫu sao, Trần Khánh Dư luôn nể trọng vị vương trưởng họ Trần cả về tài, về đức và về cách dùng người.
○ ○ ○
Bữa chiều, Trần Quốc Tuấn đãi Trần Khánh Dư vài món thôn dã đồng quê. Rượu cũng là thứ rượu quê đựng trong bóng trâu. Ngồi hầu rượu cha và chú chỉ có Quốc Tảng. Trần Khánh Dư kể lại cho Trần Quốc Tuấn nghe diễn biến mọi chuyện xảy ra ở Vân Đồn và Thăng Long bằng giọng đều đều như ngái ngủ. Đức ông Hưng Đạo kiên nhẫn ngồi nghe từ đầu chí cuối rồi vuốt râu hỏi:
– Ông Phó Đô tướng thấy ông Thượng tướng Thái sư làm việc thế nào?
– Dạ, trình anh Trưởng, em thấy anh Chiêu Minh quyết việc thực kín đáo và quả đoán.
– Phải, đó là cách mà bậc rường cột quốc gia cần làm.
– Dạ, duy có một điều em không hiểu! - ngần ngừ một chút rồi Trần Khánh Dư nói tiếp - em vẫn nghĩ về cách khu xử với anh Tĩnh Quốc của hai vua và anh Thượng tướng...
Dường như câu hỏi của Trần Khánh Dư chạm đến chốn thầm kín trong lòng Trần Quốc Tuấn. Ông suy nghĩ rất lâu. Mới chỉ từ lúc tới Vạn Kiếp đến giờ, Trần Khánh Dư đã vài phen đẩy vị vương trưởng họ vào thế khó xử. Có những điều nên nói và có thể nói; lại có những điều thật khó nói khi ở vào vị thế của Trần Quốc Tuấn. Cả xã tắc đang trông vào ông khi giặc vẫn còn đương lăm le ngoài cõi. Nhưng việc trong nội tộc, xử không khéo lại thành ra hỏng mất khối đại thống của họ Đông A. Thực lòng, Trần Quốc Tuấn rất thương Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang. Nếu theo lẽ, giờ thì Tĩnh Quốc đại vương phải ngồi ở một trong hai vai lớn: Trưởng họ Trần, hoặc hơn nhiều - ngồi ở ngôi đại bảo. Thái Tông biết Trần Quốc Khang không phải con mình, nên mới truyền ngôi cho Thượng hoàng Thánh Tông. Người nào trong họ cũng hiểu điều ấy, nhưng Trần Quốc Khang là người trong cuộc. Danh là con trưởng Thái Tông, nhưng không được kế ngôi. Thực cũng là con trưởng An Sinh vương, nhưng không được lập trưởng...
Nghĩ lâu mà chẳng nói cũng không tiện, Trần Quốc Tuấn hỏi lại Trần Khánh Dư:
– Vậy theo ông Phó Đô tướng, làm thế nào thì là phải lẽ nhất? Thế là Trần Khánh Dư lại bị dồn vào chỗ bí. Có những điều, kẻ phiêu bạt và bất cần như ông có thể nói văng mạng bên chiếu rượu. Nhưng trước vị vương đàn anh, nghiêm cẩn và đúng mực, thật khó mà nói
được vài lời phạm thượng. Trần Khánh Dư cười giả lả, nâng chén rượu lên:
– Đệ mời anh Trưởng, đệ mà trả lời được chuyện này, chẳng hóa là đệ làm thay việc cho Đức ông Chiêu Minh à?
Hưng Đạo vương không nói thêm, ông quay ra hỏi Trần Khánh Dư về dân tình Vân Đồn. Trần Khánh Dư tỉ mẩn kể từng chuyện nhỏ. Không ở đâu tình hình lại phức tạp như ở Vân Đồn. Thám báo tìm cách đội lốt đủ thứ sắc dân. Một ông già bán bánh có thằng con nuôi ngày ngày lén lút đào hầm giấu binh khí toan làm loạn. Một nhà ngư dân vớt được cô gái đắm thuyền rồi nhận làm con dâu, hóa ra cô ta ngày nào cũng đi vẽ sơ đồ bố phòng trên đảo. Trần Quốc Tảng hỏi:
– Vậy chú phải có cách nào để phân biệt dân gốc và đám nhập cư chứ?
Trần Khánh Dư tủm tỉm cười:
– Trình anh Trưởng, đệ cũng đang sắp xử trí việc này. Làm ắt xong, lại còn được một mối lợi. Duy một điều...
Hưng Đạo vương tự tay cầm bầu rót thêm rượu vào chén cho Trần Khánh Dư rồi mới khoan thai hỏi:
– Chẳng lẽ vì điều khó nói mà em không làm ư? Trần Quốc Tảng tủm tỉm cười:
– Trình cha, trình chú, nếu được việc có lợi cho nước, sá gì một hai điều tiếng..
Trần Khánh Dư nâng chén rượu lên, ngửa cổ uống rồi cảm khái:
– Được anh Trưởng hiểu là đủ, Dư này sá gì cái tiếng "tham bỉ”. Mà..., đã thế lại còn được một món lợi nào có nhỏ đâu!
Hưng Đạo vương nhìn thật kỹ ông em và nói sang chuyện khác:
– Chú Nhân Huệ không biết giữ sức. Dạo này chú gầy đi nhiều hơn cả hồi trận mạc. Thượng hoàng mới hỏi ta về chú...
Trần Khánh Dư cười khà khà:
– Vậy là chắc lại muốn bắt thằng Dư này lấy vợ rồi. Xin lỗi anh Trưởng, em nhìn mâm rượu chỉ có cháu Tảng em đoán ngay mà!
Hai cha con Hưng Đạo vương, Hưng Nhượng vương cùng phá lên cười. Trần Khánh Dư là người thâm sâu nhưng lại có vẻ ngoài cực kỳ bậm trợn. Ông nổi tiếng là thích nói toẹt ra điều mà người đối thoại còn đang loay hoay chưa cất thành lời.
Trần Quốc Tảng nói:
– Cháu thấy chú cứ mải lo việc cho người mãi. Vậy để cháu xin tính giúp chú một đám.
Trần Khánh Dư trợn mắt:
– À, thằng này ghê nhỉ! Anh những là tính cả việc cho tôi nữa cơ đấy! Đám nào thế, có hời không, chú chỉ thích đám nào thực giàu!
Trần Quốc Tảng quả quyết:
– Giàu là cái chắc. Giàu chẳng kém Thạch Sùng chú ơi! Trần Khánh Dư tủm tỉm:
– Chắc anh xui tôi lấy công chúa Cao Ly!
Trần Quốc Tảng cười ầm lên:
– Không, cháu đương muốn khuyên chú lấy bà góa nhà cự phú Lôi Thạch ở bên Đại Đô[12]. Thấy bảo bà ta đẹp lắm nhé!
Giá người khác đùa thế, chắc Nhân Huệ vương quở cho đến chết. Nhưng Quốc Tảng đùa thì Nhân Huệ vương lại phá ra cười và nâng lên uống liền ba chén. Câu chuyện bên mâm rượu đã thực vui cho đến lúc tàn. Trần Khánh Dư cáo xin về lo Tết cho Chí Linh và Vân Đồn. Trần Quốc Tuấn gọi người biện mấy thứ quà gửi cho lính ngoài Vân Đồn. Trần Quốc Tảng chắp tay thưa:
– Dạ, trình cha, mọi thứ đã cắt đặt xong từ nãy.
Trần Khánh Dư gật gù:
– Thái ấp của anh Trưởng thực là quy củ. Đệ không sao theo được. Giờ lại mất thằng quản gia, việc cứ là rối lên cho mà xem.
Tiễn Trần Khánh Dư có Đức ông Hưng Đạo cùng ba vương tử và Phạm Ngũ Lão. Bây giờ viên tướng Thánh Dực đã lấy lại đúng dáng vẻ một chàng rể mẫn cán lo Tết bên nhà vợ. Trần Khánh Dư quay ra hỏi Đức ông Hưng Đạo:
– Trình anh, cháu Quốc Tảng đâu rồi?
Hưng Vũ vương đỡ lời:
– Dạ, thưa chú, Quốc Tảng đang đợi chú ngoài cổng thái ấp. Nó sẽ tiễn chú về Chí Linh rồi xuống An Bang thay cháu ăn Tết với dân.
Trần Khánh Dư tiến nhanh một bước rồi quay lại vái chào Trần Quốc Tuấn:
– Anh Trưởng tuổi đã cao, xin đừng tiễn xa. Em xin phép lên ngựa để còn về cho kịp. Năm mới sắp về, chúc anh Trưởng tuổi càng cao sức càng khỏe cho họ Đông A và con dân Đại Việt nương nhờ.
Đức ông Hưng Đạo gật đầu:
– Ta chúc ông Phó Đô tướng đủ sức đạp sóng rẽ gió Vân Đồn. Cho ta gửi lời chúc đội lính canh đêm Giao thừa nhé. Em hãy thay ta uống với họ chén rượu mừng xuân. Nói là xã tắc trông mong vào họ...
Trần Quốc Tảng đợi Trần Khánh Dư phía ngoài xa. Hai vị vương nổi tiếng phiêu bạt giang hồ chạy ngựa song song trong làn mưa bụi. Đằng sau, đội lính kỵ thái ấp Vạn Kiếp cũng sóng ngựa hàng đôi. Vẫn còn thấy một hai đám tụ tập đốt đuốc quanh khung nhà đang kéo lên. Chắc ngôi nhà đó bị giặc phá và người chủ mãi tới hôm nay mới đủ lực dựng lại nhà. Thế là dân làng đổ xô đến làm giúp, vui như hội. Có tiếng lợn kêu eng éc. Phen này sắp có cỗ lớn đây!
Mưa bụi vẫn bay dày đặc. Trời càng ngày càng rét. Trần Khánh Dư ngoái nhìn những người lính vẫn im lặng phi ngựa phía sau. Giờ này, vợ con họ đang ngóng ở nhà. Nhưng họ còn phải làm việc quan. Họ sẽ cùng Trần Quốc Tảng tiễn ông về Chí Linh rồi lại tiếp tục theo Trần Quốc Tảng xuống An Bang ăn một cái Tết xa nhà. Trần Khánh Dư tự nhủ, về đến Chí Linh, ông sẽ thưởng cho họ một vò rượu thật to để mà ăn Tết ở An Bang. Chưa năm nào trong đời, Trần Khánh Dư cảm thấy việc chờ đón năm mới lại có cảm giác lạ như thế này...
KHÚC VỌNG THỨ NHÌ
Ta chỉ làm những việc không ai làm. Ai can ngăn ta, ta càng làm.
Giữa lúc Bắc quốc lăm le xâm phạm, thì ta lại dùng cận tướng là người phương Bắc. Quan trong triều lời ra tiếng vào, rồi anh em dòng tộc đàm tiếu.
Ngay cả Hoàng Phủ Tín cũng phải lên tiếng can ngăn ta. Hắn bảo: "Xin Đức ông cẩn trọng. Việc dùng mạt tướng sẽ là cớ để người ta vu cho Đức ông tư thông Bắc quốc”.
Ta mà sợ những lời vu hãm ư? Không, ta sẽ đạp lên chúng.
Việc Vân Đồn quá ư phức tạp, nếu không tin dùng một kẻ như Tín, liệu ta có thể lường hết được nguy cơ bốn mặt hay không? Nào lũ gian thương lậu thuế, nào phường đạo tặc ẩn thân, nào thám báo Nguyên và cả thám báo Chiêm Thành, nào bọn cướp bể... Bao nhiêu điều ta phải trông vào kiến văn và xét đoán của Tín.
Này hỡi những kẻ xúc xiểm kia, nếu các người có giỏi, cứ ra mà trấn thủ Vân Đồn. Để xem các ngươi có sống nổi qua tháng đầu được không?
Lũ chim trong lồng các ngươi, có khi nào hiểu nổi niềm kiêu hãnh của chim ưng khi sải cánh trên trời cao không?
Hùng ưng xé gió, việc gì phải chấp nhặt loài ri sẻ...
CHƯƠNG III
Lại một năm đi qua. Hoàng Phủ Tín cô quạnh đứng trông ra biển. Biển đen thẫm đến tột cùng. Những lúc thế này, hắn thường nhớ tới cảm giác một mình đứng trong thảo nguyên đêm. Thảo nguyên đêm cũng tối thẫm, nhưng bầu trời còn có vài ánh sao và hương gió đồng cỏ giữa những ngày băng giá nhất vẫn có gì thân quen, gần gũi.
Cũng một đêm cuối năm như thế này, Hoàng Phủ Tín đã gặp Triệu Ngọc Đường. Trải qua cuộc tỉ thí võ nghệ, cả hai đều như cảm thấy vừa tìm được tri âm tri kỷ. Quán khuya vắng người. Chủ quán vô sự gảy lên một bản đàn. Tình cờ, ấy lại là khúc Cao sơn lưu thủy. Khúc đàn mà thiên hạ vẫn đồn rằng danh cầm Bá Nha vẫn gảy với người tri âm tên là Tử Kỳ. Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn, vĩnh viễn không bao giờ để một ai trên đời còn được nghe ông ta đàn khúc Cao sơn lưu thủy nữa. Chuyện cũ là thế. Chẳng ai còn sống mà làm chứng xem tại sao đàn hủy, nhạc phổ đã đốt nhưng khúc Cao sơn lưu thủy vẫn lưu truyền mãi trong nhân gian như một biểu tượng của tình bạn cao cao như núi và miên man như nước. Chén rượu đêm trường. Hai thanh kiếm tựa vào vách quán. Triệu Ngọc Đường thốt lên: "Có người hỏi đệ, phải chăng bản Cao sơn lưu thủy này là người sau tự làm ra nhân chuyện cũ Bá Nha - Tử Kỳ? Lại có người đoán, phải chăng cầm phổ kia đã bị cao thủ nào ra tay sao chép lại mà Bá Nha không biết”. Hoàng Phủ Tín ngà say bật cười: "Huynh chẳng khi nào suy nghĩ sâu xa về những việc đó. Này Ngọc Đường đệ, hãy cứ coi chuyện cũ chỉ là một đoạn cố sự xa vời. Đàn người, người gảy.
Rượu ta, ta uống. Biết nay mai trên đường lang bạt, ta có còn khi nào gặp lại được nhau...”
Rượu say, họ gục vào nhau mà ngủ. Phía trước mặt họ, ngoài cửa quán là thảo nguyên lạnh ngắt ngập tràn băng tuyết. Nhưng trong mơ, Hoàng Phủ Tín cứ như lạc vào giữa thảo nguyên đương mùa xuân. Hương cây cỏ nồng nàn. Tỉnh giấc, Triệu Ngọc Đường đã đi từ bao giờ. Chủ quán là một lão già nheo mắt nhìn Hoàng Phủ Tín mà hỏi:
– Khách tại sao lại để người hữu ý ra đi như thế?
Hoàng Phủ Tín cười ngạo nghễ:
– Bình thủy tương phùng[13], sao biết là hữu ý?
Lão chủ quán bảo:
– Khách kể cũng vô tâm. Cả đêm ngồi với nhau mà vẫn cho là duyên bèo nước ư?
Tín sững sờ. Bất chợt nhớ lại hương thảo nguyên nồng ấm trong giấc mộng rồi bừng tỉnh. Trông ra ngoài, thảo nguyên vẫn ngút ngàn tuyết trắng. Bóng người đêm qua đã vắng.
Từ độ ấy. Hoàng Phủ Tín sợ những đêm cuối năm, sợ cả mùa xuân. Hắn thường trốn khỏi những bữa tiệc đón tân niên và tìm mọi cách uống say để ngủ vùi từ chập tối. Nhưng đêm nay hắn tỉnh. Và một mình ra đứng trước biển để đối mặt với mùa xuân đang đến.
Nào có mấy ai hiểu được nỗi lòng của hắn bây giờ!
○ ○ ○
Đã quá giao thừa của năm Trùng Hưng thứ hai được hai canh giờ. Trần Quốc Tảng im lặng ngồi trên một mỏm đá trông ra biển. Tiếng reo hò của quân lính mừng tuổi hai vua, mừng tuổi Quốc công Tiết chế, mừng tuổi tứ vị vương gia bên vò rượu cũng đã ngưng. Đột nhiên, Hưng Nhượng vương chạnh lòng nhớ tới người anh em Đỗ Vĩ[14]. Bậc tài hoa ấy giờ đã là người cõi khác. Hai người đã quen nhau trong một đêm trăng sáng ở Vân Đồn. Trần Quốc Tảng đã một mình một kiếm đấu với lũ buôn lậu Lôi Châu và được Đỗ Vĩ trợ chiến đúng vào lúc nguy nan nhất. "Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Một con hổ có dũng mãnh đến đâu cũng khó địch được cả bầy cáo. Vậy mà cuối cùng, chính Đỗ Vĩ đã đơn thương độc mã lần vào hang của lũ lang sói để chuyển về những đạo tin mật giúp Quốc công Tiết chế có được quyết sách thật chắc chắn. Sau lần gặp gỡ ở Vạn Kiếp, hai người không còn cơ hội để tái ngộ nữa. Họ chỉ nhớ tới nhau trong trí tưởng theo cái cách của những kẻ tri âm thường dùng tới khi xa cách.
Bây giờ, Đỗ Vĩ đã khuất núi. Con người tài hoa ấy bị giặc phát hiện và đầu độc. Nhưng những tin tức quan trọng đều đã được Đỗ Vĩ chuyển về vừa kịp để Quốc công tính toán việc binh. Công lao của Đỗ Vĩ thực không nhỏ. Nhưng ngày khải hoàn, Trần Quốc Tảng như thấy Thăng Long thật chông chênh vì thiếu bóng người anh em Đỗ Vĩ.
Sau buổi đại yến mừng công, Trần Quốc Tảng có ghé vào chùa Nghi Tàm thắp hương ở ban thờ Đỗ Vĩ. Ông ngồi thật lâu trên chiếc chiếu trải trước ban thờ mới lập. Nén hương im lặng thả một sợi khói từ từ bay thẳng. Vị vương có máu giang hồ vào loại nhất nhì trong họ Đông A cứ ngồi im như thế suốt từ giờ Thân qua giờ Dậu. Ánh tà
dương bên ngoài tắt rồi mà dường như ông cũng không hay. Sư bà dặn ni cô Tuệ Liên[15] không thỉnh chuông chiều để tránh kinh động Đức ông Hưng Nhượng. Phật đường khép cửa. Cổng chùa đóng lại. Chùa tạ khách. Sư bà nói với ni cô Tuệ Liên: "Con nhắc các già các vãi ra vào bằng lối cổng sau và bước thật nhẹ chân. Lâu lắm rồi "họ" mới được gặp nhau”...
Trong cái lúc ngày đêm chẳng rõ ấy, Trần Quốc Tảng có những khi cảm thấy chiếc quạt Hới đặt trên ban thờ thoáng chút lắc lư. Phật đường khép cửa, và bên ngoài gió cũng lặng. Những đồ thờ trên ban, vốn được sắp đặt theo chủ ý của Đức ông Chiêu Văn, thoảng cũng có khi lóe sáng. Trần Quốc Tảng những mong người bạn tri âm tri kỷ có thể hiển linh trong khoảnh khắc để ông có thể nhìn thoáng lại vóc hình Đỗ Vĩ một lần cuối. Nhưng tất cả ảo ảnh dường như chỉ sinh ra bởi sự mong muốn đến vô vọng của lòng người. Sau hết, Trần Quốc Tảng chống gối đứng dậy. Ông vái ba vái và khấn thầm: "Thôi hiền huynh yên lòng, đệ còn phải làm tiếp những việc còn dang dở”. Đoạn, ông chậm rãi đẩy cửa bước ra sân và ghé xuống nhà ngang hỏi han sư bà cùng ni cô Tuệ Liên. Sư bà biết ý chỉ trả lời dăm ba câu rồi nói thác có việc và tránh đi để Trần Quốc Tảng dễ bề nói chuyện với ni cô.
Tuệ Liên chắp hai tay lại: "Bẩm Đức ông, tiên sinh vẫn thường nhắc lại câu chuyện trên đảo Vân Đồn cho bần ni nghe”. Trần Quốc Tảng xót xa nhìn người ni cô còn quá trẻ trước mặt. Nếu Đỗ Vĩ không chết, biết đâu cô gái này sẽ se duyên với người anh kết nghĩa của Trần Quốc Tảng. Không chính thất thì cũng là trắc thất. Và như thế, ông sẽ phải gọi người này là chị dâu. Những ngày cuối đời trên đất giặc, Đỗ Vĩ và cô hầu gái của An Tư công chúa này như đã bén duyên nhau. Nhưng giờ, Đỗ Vĩ đã chết vì nước, còn cô hầu gái đã ẩn
chốn cửa thiền và một mình ôm nỗi niềm riêng. Trần Quốc Tảng gật đầu: "Ta cũng vẫn thường nhớ đến ngày đó. Ta muốn hỏi cô câu này: lệnh bà An Tư...”. Hỏi tới đó, giọng Trần Quốc Tảng như nghẹn lại. Thân phận An Tư có khi còn khổ hơn Đỗ Vĩ, khổ hơn cả Tuệ Liên. Nàng công chúa yêu của Thượng hoàng vẫn phải chịu thân phận làm tì thiếp cho thằng Hoàng tử Thoát Hoan... Tuệ Liên khẽ thở dài: "Dạ bẩm, lệnh bà vẫn khỏe. Chính lệnh bà sai người tâm phúc truyền bần ni phải tìm mọi cách về được Đại Việt. Lệnh bà dặn rằng người Nguyên chưa bỏ ý xâm lăng”. Nói tới đây, Tuệ Liên nghẹn ngào: "Dạ... lệnh bà dặn nhớ phải trả thù cho lệnh bà, cho em Thúy và cho Đỗ Vĩ tiên sinh”. Trần Quốc Tảng ứa nước mắt. Ông đã được biết lời dặn này qua câu chuyện của Đức ông Chiêu Văn, nhưng giữa lúc này đây, nghe qua giọng nghèn nghẹn của ni cô Tuệ Liên, ông vẫn không cầm lòng được. Biết rằng binh lửa chưa yên, nghĩa là còn bao nhiêu thân phận phải hy sinh vì đại cuộc, nhưng lòng ông vẫn chua xót khi nghĩ về những thân phận ấy.
Bữa đó, Trần Quốc Tảng ra về, từ chối lời mời ăn bữa cơm dưa muối của nhà chùa. Ông dặn sư bà chăm sóc cho Tuệ Liên và rồi lên ngựa đi suốt đêm về Vạn Kiếp. Trong lòng ông, trĩu nặng những nỗi niềm.
Giờ thì Trần Quốc Tảng đang ngồi ở An Bang, cách không xa Vân Đồn. Biển đêm trước mặt ông mênh mông. Trời bắt đầu nhờ nhờ sáng. Trần Quốc Tảng đứng dậy. Ông truyền đám lính gia nô đang ngồi chờ ở phía xa chuẩn bị thuyền. Trông vẻ ngơ ngác của lính, Hưng Nhượng vương nhẹ giọng:
– Đừng có đoán già đoán non, ta ra Vân Đồn mừng tuổi Đức ông Nhân Huệ
Mấy khắc cuối cùng của năm, Trần Khánh Dư đã bắt đầu say. Rượu đã chảy tràn trong các bát lớn. Tiếng quân sĩ reo hò tung hô Quan gia muôn tuổi và Quốc công Tiết chế muôn tuổi vang vang. Đỗ Niêm nhắc người mang lên một bát thang giải rượu nhưng Trần Khánh Dư gạt đi. Đã uống là phải say, mà còn gì vui hơn là say trong những khắc chuyển từ năm cũ qua năm mới. Còn gì vui hơn là say để quên đi mình vừa già thêm một tuổi. Binh lửa vừa yên, giặc giã đã chạy, mà kế li gián của chúng cũng bị phá tan tành. "Nào chư tướng, uống đi chứ, uống và truyền cho binh lính cùng uống, trừ những ai đang phiên gác và sắp vào phiên gác”. Vị vương có số phận long đong vào bậc nhất trong hoàng tộc cười kha kha, bá cổ Hoàng Chí Hiển và hát nhăng mấy câu bỡn cợt. Câu hát huê tình.
Đã biết Nhân Huệ vương từ lâu, nhưng Hoàng Chí Hiển và Đỗ Niêm chưa bao giờ nghe ông nhắc đến một người đàn bà nào. Người ta thấy ông lúc hào hứng lúc dửng dưng với những trò hội hè kiểu "Tiệc rượu mo nang” hay những nơi hát xướng. Những thương khách buôn hàng lậu bày trò đưa gái đẹp đến dinh gặp ông tướng cai quản Vân Đồn là coi như hỏng việc, thế nào cũng bị tống cổ ra. Đừng tưởng ông tướng trấn thủ Vân Đồn này là người "thương hoa tiếc ngọc” mà cứ thế dẫn gái đẹp tới là làm ông vừa lòng. Trần Khánh Dư luôn thích mọi sự đều theo ý mình, không thể để kẻ khác ép uổng được. Chỉ có cực ít người biết sở thích của Nhân Huệ vương. Ông thích chơi những đồ lạ trong thiên hạ. Kỳ hoa dị thạch từ những miền đất xa. Vũ khí quái dị của những môn phái võ, kể cả thất truyền. Và đặc biệt là sách. Trần Khánh Dư có một chiếc tủ quý bày hàng trăm cuốn sách mà đến Trần Ích Tắc cũng phải thèm khát. Năm xưa, khi Trần Khánh Dư bị cách tuột quan chức, Trần Ích Tắc đã mò đến gạ gẫm ông nhượng lại cho tủ sách này. Chắc Ích Tắc nghĩ phen này
Trần Khánh Dư sạt nghiệp, chỉ còn nước mang đồ quý và gia sản cha ông ra bán để sống. Hắn nhầm to. Trần Khánh Dư đã lặng lẽ có trong tay một đội thuyền buôn than từ lâu rồi. Đội thuyền đó, tiếng là buôn than, nhưng còn buôn nhiều thứ khác nữa. Họ buôn muối ngược lên ngàn, buôn ngà voi sừng tê và thuốc quý xuống biển bán cho thương lái nước ngoài. Những thứ đó, đều được giấu vào lẫn trong thuyền than. Người bán than thì nghèo, nhưng buôn than như đội thuyền của Trần Khánh Dư thì giàu nứt đố đổ vách. Mà đội thuyền còn giàu, thì ông chủ của đội thuyền còn giàu đến đâu! Giá lúc đó, Trần Khánh Dư cứ xem có cô quận chúa, hay công chúa nào rồi xin Thượng hoàng Thái Tông và Quan gia Thánh Tông cho cưới thì bây giờ chắc ông cũng êm ấm lắm rồi. Giời xui đất khiến thế nào ông lại gặp phu nhân của Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn ở tiệc rượu mo nang. Một đằng là lãng tử đốt tiền không tiếc, một đằng là người mộng mơ vớ phải ông chồng hiền lành tốt tính nhưng chẳng biết chiều vợ... Chuyện vỡ lở, Trần Khánh Dư mất sạch. Rồi chẳng ngờ một ngày ông lại được Quan gia Nhân Tông trao quyền nhờ mấy câu của Đức ông Hưng Đạo. Từ bấy đến nay, đã kịp qua một phen binh lửa. Chiến tranh làm con người ta thay đổi thực nhiều. Mà phải nói thế này mới đúng, chiến tranh làm lộ ra bộ mặt thực của con người. Có những kẻ khi thường thì nói toàn lời hay ho, coi thiên hạ như cỏ rác. Tới khi gặp giặc thì cuống quýt ra hàng, quên hết những hoa ngôn lộng ngữ ngày trước. Có những kẻ khi thường tưởng là bạn, cùng gác chân mà nói chuyện tri âm. Tới khi vào trận thì đó lại chính là kẻ dẫn đường cho giặc. Có những lúc, Trần Khánh Dư tự nghĩ rằng giá như mình đừng lớn lên, cứ mãi là thằng bé bảy, tám tuổi chạy loanh quanh trong vườn thái ấp Chí Linh thì thực là hay. Hoặc giả, có khi được hóa làm cánh chim bằng sải cánh trên tít mấy
từng trời lại còn vui hơn làm Phó Đô tướng chỉ huy thủy quân kiêm quản trấn thủ Vân Đồn!...
Lúc Hưng Nhượng vương tới nơi thì Trần Khánh Dư đã say lướt khướt rồi. Ông đang lảo đảo khoác vai Đỗ Niêm và Hoàng Chí Hiển, miệng hát váng lên một bài ca của bọn giặc biển nào đó. Một bài ca thường được bọn giặc biển gào lên trong phong ba bão tố qua giọng say của Đức ông Nhân Huệ mang vẻ hoạt kê rất lạ. Nhưng lính hầu đố dám cười. Lúc này mà trêu vào ông Phó Đô tướng có mà ăn đòn như chơi. Trần Khánh Dư hát xong lại ngồi bệt xuống chiếu, và tự rũ ra cười vì giọng hát của mình. Ông mắng Hoàng Chí Hiển và Đỗ Niêm: "Hai cái thằng đần này sao không cười hở? Ta hát vớ vẩn như vậy mà không cười, rõ phí”. Rồi, nhìn mặt của "hai thằng đần" cứ nghệt ra vì không biết đáp lại thế nào, Trần Khánh Dư càng sằng sặc. Đúng khi ấy, lính canh vào trình "Đức ông Hưng Nhượng tới”. Trần Khánh Dư cứ thế chạy chân đất ra đón Trần Quốc Tảng. Ông luôn mồm kêu: "thằng cháu quý hóa ra đây uống rượu với ta" "thằng cháu quý hóa ra đây xem ta hát nào”...
Bữa rượu năm mới kéo tới giờ Thìn mới dừng. Dừng nghĩa là tất cả ngần ấy người trên chiếu rượu đều đã say gục xuống. Nhưng thực ra tới đầu giờ Mão thì đã ai nói nấy tự nghe, còn lính hầu thì trốn biệt ra xa vì sợ "vạ lây cháy thành”. Vốn trong quân thủy vẫn lưu truyền một câu chuyện về những kẻ mang họa vì trót ở gần Nhân Huệ vương khi ông đang say! Ấy thế mà mới qua giờ Tỵ, Trần Khánh Dư đã ngồi bật lên khi bị lay dậy. Phạm Chính vừa thân chinh đến trình Đức ông một tin quan trọng: Một chiếc thuyền nhỏ vừa bị lính tuần chặn lại. Đám người trên thuyền kháng lệnh và bị bắn chết gần hết. Chỉ có hai người nằm úp mặt xuống sàn thuyền giả chết, đợi lũ kia bị bắn gục mới ngóc lên xin hàng là được tha. Tất thuyền đều
mặc trang phục Tống. Khám trong người một xác chết, tìm thấy một bức mật thư của Trần Ích Tắc gửi Đức ông Tĩnh Quốc. Theo lời khai của hai kẻ còn sống, họ là đạo sĩ thuê người đưa đường sang Đại Việt tìm bắt một phản đồ. Họ không biết gì về bức thư mà gã kia mang theo... Phạm Chính thì thầm:
– Bẩm Đức ông, tiểu tướng đang cho nhốt họ riêng để tránh thông cung.
Trần Khánh Dư gật gù:
– Cho họ ăn no. Đợi ta tới gặp họ xem sao. Bảo Hoàng Phủ Tín chờ lệnh ta.
Phạm Chính ngần ngừ một chút rồi thì thào:
– Bẩm Đức ông, trên thuyền có khoai...
Trần Khánh Dư giật mình:
– Khoai trắng hay khoai vàng?
Phạm Chính càng nói nhỏ hơn:
– Bẩm, khoai vàng.
Rồi Phạm Chính xòe mười ngón tay ra trước mặt và gật gật đầu với Trần Khánh Dư. Nhân Huệ vương càng khẩn trương:
– Thằng chèo hả, nó tự xử hay lính tuần bắt? nói:
Phạm Chính ngoảnh nhìn trước sau rồi mới
– Tiểu tướng trông sắc mặt nó nên tự tra soát.
Trần Khánh Dư thở nhẹ ra
– À, ngươi làm khéo đấy!
Trần Khánh Dư khoát tay cho Phạm Chính lui ra và quay vào căn lều nhỏ vốn dành cho lính canh được ông chọn ngồi uống rượu Trần Quốc Tảng đã trở dậy. Vị vương tử thứ ba của Đức ông Tiết chế đang ngồi khoanh chân nhắm mắt như nhập định. Trước mặt ông là một bát nước trong. Trần Khánh Dư toan quay ra thì Quốc Tảng mở mắt và cười:
– Chú lại có món phát tài đầu năm hay sao mà sắc diện hồng hào thế?
Trần Khánh Dư hừ một tiếng, không ra phản đối cũng chẳng ra đồng tình. Ông hỏi sang chuyện khác:
– Cháu có nghĩ năm nay có nhiều sự biến không?
Hưng Nhượng vương tủm tỉm, quyết không bỏ cuộc: – Món hời này xem ra hơi khó xơi!
Trần Khánh Dư phát cáu:
– Bỏ cái kiểu khôn quá đầu thiên hạ đi, ông Hưng Nhượng! Trần Quốc Tảng phá ra cười:
– Đấy nhé, chú không giấu được cháu đâu! Có món gì vậy chú, khó thì cháu giúp, hưởng thì cháu xin một phần...
Trần Khánh Dư trợn mắt nhìn Quốc Tảng:
– Tài nhỉ? Giờ ta mới hiểu vì sao trong thiên hạ đồn rằng Hưng Nhượng vương có tài "ngồi trong màn trướng mà nghe được việc ngoài trăm dặm[16]”...
Những câu đối đáp ông chẳng bà chuộc giữa hai vị vương gia cứ như không hề ăn nhập vào câu chuyện đang nói dở. Ấy vậy mà
người trong cuộc lại nhờ đó mà thêm hiểu được nhau. Rồi Trần Khánh Dư nghiêm mặt:
– Lính tuần vừa tóm được thư của Ả Trần[17] gửi Tĩnh Quốc đại vương trên một con thuyền nhỏ.
Trần Quốc Tảng hơi giật mình:
– Cháu nhìn sắc mặt chú rồi đoán bừa mấy câu, hóa ra có chuyện lớn quá. Ý chú thế nào?
– Ta định lại về Vạn Kiếp một chuyến để hỏi ý cha cháu. Dù gì, trong thì ông ấy là trưởng tộc, ngoài là Quốc công Tiết chế. Trần Quốc Tảng lắc đầu:
– Theo cháu, không nên thế chú ạ.
Trần Khánh Dư cướp lời:
– Anh lại định xui ta về gặp ông Chiêu Minh chứ gì. Ta không thích ông ấy. Ông ấy không có khí độ như anh Trưởng. Trần Quốc Tảng nheo mắt:
– Chú đừng nhắc lại mấy cái chuyện tranh chấp làm gì. Việc nước là trọng.
– Thì đành là trọng. Ta cũng chẳng ưa gì cái cách ông anh đại vương ngồi một chỗ nuông hư thằng con thứ của ông ta[18]. Nhưng bức thư này lọt vào tay ông Chiêu Minh, chưa biết ông Tĩnh Quốc có yên ổn nổi mà ngồi một chỗ nữa không.
– Thưa chú, Đức ông Thái sư là quan đầu triều, dẫu thế nào cũng...
Trần Quốc Tảng bỏ lửng câu nói, ngoảnh nhìn ra phía ngọn núi xa. Trần Khánh Dư cũng trông theo:
– Thôi thì, theo lời của cháu vậy. Mong rằng hai vua và ông Chiêu Minh sẽ chờ ý cha cháu rồi mới định đoạt...
Trần Quốc Tảng ngoảnh lại, chậm rãi nói từng chữ:
– Chú đừng nóng, còn phải xem nội dung bức thư thế nào đã chứ...
Trần Khánh Dư kéo tay Trần Quốc Tảng:
– Nào, đi xem thằng bán nước ấy viết gì nào. Mà... công nhận thằng Ích Tắc viết chữ đẹp lắm nhé!
Hai vị vương gia cùng bước, người trước, người sau. Phía ngoài, Phạm Thuần Dụng và Hoàng Chí Hiển đang đứng đợi. Phạm Thuần Dụng chắp tay lạy hai vương rồi cất lời:
– Bẩm, anh của tiểu tướng nhận mệnh xong là phóng ngựa đi ngay, chỉ dặn tiểu tướng và cư sĩ Hoàng Chí Hiển đợi ở đây.
Trần Khánh Dư thì đã biết, nhưng Trần Quốc Tảng hơi sững lại. Ông vẫy Hoàng Chí Hiển lại gần, nhìn thật kỹ vẻ thanh thản trên gương mặt còn trẻ nhưng đầy từng trải rồi hỏi:
– Ngươi là phó tướng của Hoài Văn đúng không? Hoàng Chí Hiển cúi đầu:
– Trình Đức ông, chúng tôi là anh em kết nghĩa đồng sinh đồng tử.
Trần Quốc Tảng lặng người đi. Ông thấu hiểu điều đau xót.
– Ta hiểu, ta cũng mất một huynh đệ kết nghĩa đồng sinh đồng tử khi chiến trận đã tàn.
Hoàng Chí Hiển không nói gì nữa. Ngày đầu tiên của năm mới mà chỉ ôn lại những chuyện mất mát thì không nên, nhất là khi nói với một vương gia. Thế nhưng, chàng trai trẻ ngỡ ngàng khi thấy vị vương gia vốn được coi là khó hiểu nhất trong số tứ vị vương tử của Hưng Đạo vương lại đưa tay nắm lấy tay mình. Hưng Nhượng vương dắt Hoàng Chí Hiển đi ra phía biển. Và, trong một phút bâng khuâng. Trần Quốc Tảng kể cho Hoàng Chí Hiển nghe về buổi chiều trong chùa Kim Liên và phút gặp gỡ ni cô Tuệ Liên - người con gái cuối cùng có cơ hội gần gũi với Đỗ Vĩ.
Câu chuyện ấy, Hưng Nhượng vương chưa từng kể với ai. Câu chuyện ấy động đến góc thẳm sâu trong lòng Hoàng Chí Hiển.
Thân mẫu của Hoài Văn vương đã từng ướm hỏi Hoàng Chí Hiển. Bà muốn nhận Thoan làm nghĩa nữ và đứng ra gả cô cho Hoàng Chí Hiển. Nhưng Hoàng Chí Hiển không nhận lời. Viên phó tướng dưới lá cờ sáu chữ rất thương Thoan. Thương theo kiểu một viên tướng thương những cô nhi quả phụ của những người lính đã ngã xuống trong đội quân mà mình nắm giữ. Còn gá nghĩa ư? Có thật nhiều những lý do mà Hoàng Chí Hiển không muốn đối mặt. Chủ tướng vừa nằm xuống, và trong lòng người con gái kia biết đến bao giờ mới nguôi được hình ảnh chàng dũng tướng mặt đẹp như ngọc tung hoành giết giặc...
Trông sắc diện thay đổi không ngừng trên mặt chàng trai trẻ, Hưng Nhượng vương chợt chạnh lòng. Binh lửa thật tàn nhẫn. Lẽ ra, chàng trai này đang ở tuổi của những khát khao, mơ ước. Công danh là một, êm ấm là hai... Thế mà trên gương mặt kia hằn những dấu vết của biến động và mất mát. Và bộ quần áo là thuần một màu nâu sồng, màu của nhà Phật. Trần Quốc Tảng cũng có nghe sơ qua
câu chuyện về cuộc đời Hoàng Chí Hiển. Tất cả người nhà họ Hoàng đã bị giặc sát hại. Thân thích bây giờ chỉ còn những người từng theo Hoài Văn vương xông trận. Ông chưa hiểu rõ ý khi Hoàng Chí Hiển chọn trở thành một cư sĩ[19]. Để né tránh một mối duyên? Để chuyên tâm thấu hiểu cõi Bồ đề? Để thông tay xa cõi tục?... Trần Quốc Tảng nửa muốn hỏi thẳng, nửa lại ngần ngừ. Kiến văn của ông, sở học của ông, đủ để tranh luận và chia sẻ với chàng trai. Vậy mà Hưng Nhượng vương thấy khó nói làm sao.
Hai người, một vị vương gia và một chàng trai trẻ cứ thế đứng nhìn trân trân ra phía biển. Cho tới khi Phạm Thuần Dụng hắng giọng mấy lần, họ mới giật mình trông lại.
Phạm Thuần Dụng chắp tay:
– Bẩm, Đức ông Nhân Huệ dặn tiểu tướng đưa vương gia và cư sĩ đây tới chỗ Đức ông.
Phạm Thuần Dụng phóng ngựa đi trước dẫn lối, Trần Quốc Tảng và Hoàng Chí Hiển cùng giục ngựa theo sau. Binh lửa mới yên nhưng năm mới lại thực bôn ba làm sao. Trên đường, Hoàng Chí Hiển bất ngờ quay sang nói với trong tiếng gió:
– Bẩm Đức ông, sáng nay cháu có ngắm mây gió ngoài biển. Xem ra vẫn còn thấy sặc mùi binh đạo...
Trần Quốc Tảng lại thêm chút ngỡ ngàng. Con người trẻ trung này đã rèn tập để thấu được lẽ huyền vi hay có cơ duyên mà thông linh cùng trời đất? Sao anh ta có thể nói ra những điều liên quan đến vận nước mà nhẹ nhàng đến vậy? Nhẹ nhàng đến nỗi một người như ông - vốn được vài vị ẩn tăng chân truyền phép xem thiên tượng - cũng phải giật mình. Con người này mà không tận dụng thì thật là
uổng phí. Bất giác, Trần Quốc Tảng trông sang Hoàng Chí Hiển. Ông sẽ tiến cử anh ta với Hưng Ninh vương Trần Tung. Mà cũng có thể là tiến cử với Phạm Ngũ Lão. Nếu tu đạo, Hoàng Chí Hiển có thể là bậc chân tu. Nếu giúp nước, Hoàng Chí Hiển sẽ là trang hào kiệt vang danh thiên hạ. Hoài Văn vương Quốc Toản thực là biết nhìn người, biết dùng người. Tiếc là Quốc Toản mất sớm quá...
Miên man suy nghĩ, Trần Quốc Tảng mang cả một vẻ mặt bâng khuâng khi tiến vào trạm chính của lính tuần biển. Hoàng Chí Hiển theo sau ông, trông cũng trĩu những nỗi niềm. Đón họ là một Nhân Huệ vương đang ha hả cười như đang đóng trò gì đó:
–Năm mới được đón vương điệt tới đây, thực là vạn hạnh quá! Trần Quốc Tảng lập tức hiểu ý và hưởng ứng liền:
– Tiểu điệt vâng mệnh phụ thân ra đây, trước thăm Vương thúc, sau là ủy lạo quân sĩ Vân Đồn.
Trần Khánh Dư càng ra vẻ hào hứng hơn:
– Người đâu, mau mang rượu ra để Đức ông Hưng Nhượng chuyển mệnh của Quốc công Tiết chế...
Hai vị vương lại phải diễn trò giao đãi để tránh tai mắt giặc. Giữa những lúc thế này, thực khó đặt trọn lòng tin vào ai. Trong đám sĩ tốt xung quanh, biết đâu có kẻ hai lòng...
Trông bên ngoài, khó ai ngờ rằng trong ngực áo Nhân Huệ vương là bức mật thư của Trần Ích Tắc gửi Tĩnh Quốc đại vương, để khuyên Trần Quốc Khang khởi binh đòi ngôi đại bảo và trả thù cho đứa con trai Trần Kiện bị gia tướng của Hưng Đạo vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết.
Cũng khó ai ngờ rằng, ngoài biển kia, vẫn còn ba con thuyền nữa đều mang những mật thư như vậy. Một thuyền bị cướp biển giết sạch, một thuyền bị sóng gió đánh chìm. Hai bức thư sẽ tan trong biển. Nhưng một bức, chỉ vài ngày nữa sẽ tới tay Tĩnh Quốc đại vương, người đang vâng mệnh vua "ngồi yên” mà giữ Diễn Châu...
CHƯƠNG IV
Trần Ích Tắc ngồi không yên trước đôi mắt vằn lên những tia máu của Thoát Hoan. Gã hoàng tử gằn từng tiếng:
– Ta không cần những kẻ vô sỉ và vô dụng như Trần Kiện. Ta cần những kẻ có thực tài...
Mặc dù phải đợi để gã quan hầu dịch trọn vẹn mấy câu đó, nhưng chỉ nghe ngữ khí của Thoát Hoan, Trần Ích Tắc đã biết phải trả lời ra sao:
– Bẩm Nguyên soái, Trần Kiện chưa kịp có thời gian để thi thố. Hắn là kẻ rất làu thông binh pháp.
Thoát Hoan càng tức. Một kẻ vong quốc như Trần Ích Tắc không được quyền trả lời hỗn hào theo kiểu "độp” vào mặt kiểu này với người như Thoát Hoan. Nên nhớ, gã là hoàng tử của Nguyên triều, và từng là Nguyên soái Trấn Nam vương mang trên mình trọng trách bình định phương Nam. Nhưng chinh chiến nơi sa trường và cả những âm mưu thoán đạt trong cung cấm đã khiến Thoát Hoan thêm chín chắn. Gã lạnh lùng:
– Bây giờ ta không phải là Nguyên soái. Hiện nay ta không cầm quân. Chẳng phải ngươi và lũ người do ngươi tiến cử đã giúp cho ta phá tan đạo quân của chính ta đó sao?
Ích Tắc chột dạ. Đây là lối nói của người Hán. Trong người gã hoàng tử này còn nguyên dòng máu của những dũng sĩ đuổi mặt trời trên thảo nguyên nhưng lại hưởng một nền giáo dục thuần Hán.
Những viên quan Tống về hàng đã được giao trọng trách biến Hoàng tử Thoát Hoan trở thành một con người nắm chắc kho tàng kiến thức của Tống triều. Những ông thầy bất đắc dĩ đó đã cật lực nhồi nhét mọi thứ mà họ biết vào đầu Thoát Hoan, từ những thứ hay họ nhất tới những thứ hủ lậu nhất.
Ích Tắc vội vã lấp liếm, y vừa hiểu rằng càng để Thoát Hoan thể hiện con người bị nhồi nhét ra thì càng dở:
– Bẩm, chắc chắn Nguyên soái sẽ lại cầm đại binh chinh Nam. Ích Tắc này nguyện cầm roi ngựa theo hầu Nguyên soái.
Thoát Hoan nheo mắt nhìn tên phản thần của nước Đại Việt. Ở bên đó, hắn là Chiêu Quốc vương em ruột của Thượng hoàng Thánh Tông, là chú ruột của Quan gia Nhân Tông. Sang đây, hắn là gì? Không là gì cả. Một kẻ tha hương. Sao hắn sốt sắng mời người ngoài về giày xéo đất nước của hắn như thế nhỉ?
Thoát Hoan biết thừa, sự phản bội của Ích Tắc là chỉ vì cái miếng mồi béo bở An Nam quốc vương. Ngôi vua Đại Việt mới là đích mà tên phản thần này nhắm đến. Những lời khua môi múa mép nào là mở rộng cương thổ thiên triều, nào là cúc cung tận tụy không màng danh lợi để tìm đường giáo hóa cho con dân Nam man... nghe chẳng hề lọt tai Thoát Hoan. Gã hoàng tử tin rằng ngày nào Đại Việt mất nước, ngày ấy vua cha Hốt Tất Liệt sẽ xuống lệnh giết Ích Tắc. Mà e là, dù không có lệnh, Thoát Hoan cũng giết. Gã khinh những kẻ bán nước. Nhưng bây giờ, Ích Tắc vẫn còn hữu dụng. Thoát Hoan đột nhiên nói:
– Ta muốn nhờ ông một việc. Là người đồng tộc, ngươi thỉnh thoảng ghé qua thăm và khuyên bảo An Tư đôi lời.
Trần Ích Tắc giật mình. Về thế thứ, Ích Tắc là hàng chú của An Tư. Chính hắn xui Thượng hoàng Thánh Tông gả An Tư cho Thoát Hoan để cầu hòa. Điều ấy, về sau Thượng hoàng trăn trở mãi. Khi An Tư theo Thoát Hoan về Nguyên, Ích Tắc cũng từng vài phen tìm đến. Và người thị nữ đã dằn từng lời của An Tư vào mặt Ích Tắc:
– Lệnh bà nói rằng, lệnh bà không quen biết gì lũ tôi mọi bán chúa cầu vinh, phản dân hại nước.
Dĩ nhiên, Ích Tắc không biết những ngày đó An Tư vẫn còn chưa nguôi ngoai tiếc thương Đỗ Vĩ. Lệnh bà chưa thể quên được cảm giác bất lực nhìn một người tài hoa của nước Việt bị đầu độc cứ thế chết dần trước mắt mà không sao cứu được. Nhưng Thoát Hoan thì lại biết điều đó và cố tránh không làm tổn thương đến An Tư. Gã có một thói xấu mà A Lý Hải Nha rất ghét: cưng chiều đàn bà. A Lý Hải Nha cũng biết thói này được tiêm nhiễm từ đâu: mấy lão quan chuyên khua môi múa mép trong triều đình Tống ngày trước!
Lại thêm lần nữa, Ích Tắc phải nói lảng sang chuyện khác:
– Bẩm Nguyên soái, hôm trước Bình chương A Lý Hải Nha vừa ghé qua đây hỏi han và dặn việc. Chắc hẳn ấy là theo chủ ý của Nguyên soái?
Thoát Hoan gật đầu. Gã và thầy gã - A Lý Hải Nha - đã tranh luận nhiều về kế li gián mà Ích Tắc dâng lên triều đình. Lúc đầu, Thoát Hoan không thích và A Lý Hải Nha phải mượn cả tả thừa Đường Ngột Đải cùng đến thuyết phục thì gã hoàng tử mới chịu nghe. Nhưng đến khi ấy, chính A Lý Hải Nha lại bất đồng ý kiến với Thoát Hoan và Đường Ngột Đải. Viên lão tướng suốt đời sống trên lưng ngựa không tin rằng liên hoàn kế li gián sẽ làm tan vỡ mối nhất thống
trong họ Trần. Tông tộc Đông A đã vượt qua những ngày tháng mâu thuẫn tưởng chừng không sao gắn kết nổi để mà dựng lên mối nhất thống bây giờ. Thoát Hoan thì tin. Một kế vu cho Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư đồng mưu làm phản. Một kế vừa xúi giục vừa tung tin Trần Quốc Khang hưng binh trả thù cho con và đòi ngôi đại bảo. Một loạt những gián điệp tung vào Đại Việt. Thoát Hoan hể hả cười với A Lý Hải Nha: "Chúng có một thằng Đỗ Vĩ, ta sẽ ném một ngàn thằng Đỗ Vĩ vào An Nam”.
Nhìn cái gật đầu của Thoát Hoan, Ích Tắc thở phào. Hắn không biết rằng Thoát Hoan đang hết sức lo lắng về mấy lời của A Lý Hải Nha:
– Lòng tôi không yên về chuyện chinh Nam. Vài kế hèn của Trần Ích Tắc chẳng qua cũng chỉ khuấy thêm chút rắc rối cho họ Trần nhưng không đủ khiến chúng quay ra đánh nhau đâu. E rằng ta càng khuấy, chúng càng thêm cảnh giác. Vương tử vẫn nên cân nhắc kỹ.
Điều này Thoát Hoan nửa tin nửa ngờ. Nhưng kế thì đã thi hành. Gián điệp đã tung vào Đại Việt. Và bây giờ Trần Ích Tắc đang bắt đầu khấp khởi thấy được Thoát Hoan và A Lý Hải Nha tin tưởng. Nhìn vẻ hí hửng của tên phản thần, Thoát Hoan chợt nghĩ rằng quẳng thêm cho con chó phản chủ một khúc xương thì cũng chẳng sao:
– Ông xem việc sắp xếp ngôi thứ cho bọn Tú Hoãn, Văn Lộng sao cho đúng. Chẳng phải chúng cũng cúc cung theo ông suốt rồi ư?
Rồi gã bỏ đi, để lại sau lưng một tên phản quốc đứng bâng khuâng với giấc mộng An Nam quốc vương đang sắp thành sự thật.
Trần Ích Tắc nheo mắt nhìn Trần Văn Lộng. Kẻ bạc nhược này mà cũng xứng là cháu nội của ông Thái sư "trời không sợ, đất không sợ”
Trần Thủ Độ ư? Thật khó để hình dung đây chính là em trai của con người ngông ngạo Trần Khánh Dư. Có lẽ vì tính cách bạc nhược nên Trần Văn Lộng không được lòng cha. Nhân Thành hầu Trần Phó Duyệt rất ghét Trần Văn Lộng và cả người thiếp - mẹ đẻ của Trần Văn Lộng. Ông không cho Trần Văn Lộng nối chữ Nhân trong tước hiệu mà đổi thành Văn Chiêu hầu. Ông bỏ mặc gã con trai yếu đuối mà chỉ chuyên về rèn cặp Trần Khánh Dư. Văn Lộng lặng lẽ ôm mối hận và miệt mài đọc sách. Nhưng thứ hủ nho như gã không sao vừa mắt Chiêu Minh vương nên chẳng có lấy một lối lập thân. Trong khi Trần Khánh Dư đường đường được nhận là Thiên tử nghĩa nam, phong vương lập ấp, thì gã chỉ loanh quanh như con gà què ăn quẩn cối xay. Mà ông anh Khánh Dư rõ là khinh em ra mặt, hễ gặp liền quát mắng chửi rủa. Chỉ có Ích Tắc - lúc đó vẫn đương là "ông” Chiêu Quốc vương oai vọng - còn chìa tay ra với gã. Ích Tắc khuyến khích lối làm thơ ủ dột mê đắm của Trần Văn Lộng. Ích Tắc thường khen ngợi những lời phẩm bình chê bai chính sự của Văn Lộng, nhất là những câu xỏ xiên hai vị vương vốn không ưa nhau: Chiêu Minh và Hưng Đạo. Nhưng sau hết, sự tiến cử không ngơi của Ích Tắc cũng làm Thượng hoàng Thánh Tông mềm lòng và Trần Văn Lộng bắt đầu được tin dùng. Dù sao gã cũng là cháu nội Thái sư Trần Thủ Độ, em trai Phó Đô tướng Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng được giao quản Tam Đái Giang. Việc này khiến cho Quan gia Nhân Tông rất không vừa ý. Nhân Tông muốn trao thêm quyền chính cho em trai là Tá Thiên vương Đức Việp. Quan gia tâu bày rất lâu với Thượng hoàng, nhưng Thánh Tông và cả Trần Quang Khải vẫn nghe lời Ích Tắc. Hai vị bảo rằng Đức Việp còn quá trẻ, chưa thể cho nắm trọng quyền. Chuyện căng thẳng tới mức Ích Tắc phàn nàn với Thượng hoàng rằng Quan gia hành xử
như thể người chi Trưởng chứ không phải người chi Thứ, chỉ nhăm nhăm nghe lời Đức ông Hưng Đạo mà soi xét các vị Vương thúc bá là anh em ruột của Thượng hoàng. Khi ấy, Thượng hoàng đành đứng ra cấm vụ tranh cãi tiếp diễn.
Khi quân Nguyên kéo sang và thấy âm mưu của mình nhằm xúc xiểm để Thượng hoàng trị tội Hưng Đạo vương đã thất bại, Ích Tắc liền cùng Trần Văn Lộng gom góp lương thảo ra hàng. Hai cánh quân Đà Giang của Ích Tắc và Tam Đái Giang của Văn Lộng được Hưng Đạo vương trao cho mệnh lệnh xuyên vào đánh thẳng sau lưng cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh. Ích Tắc và Văn Lộng đã "lập đại công" với Thoát Hoan: hóa giải đòn đánh sâu vào tận sào huyệt để quấy rối sau lưng đội quân mé tây bắc, mở rộng đường cho Nạp Tốc Lạt Đinh vây chặt và có cơ bắt sạch đạo quân của Chiêu Văn vương Nhật Duật. Tiếc rằng Nạp Tốc Lạt Đinh lại để sổng Chiêu Văn vương, nếu không công lao phong thưởng của Ích Tắc và Văn Lộng còn cao nữa.
Có điều, bây giờ thì Trần Văn Lộng không dám theo lời Ích Tắc mà thảo một bức thư khuyên anh trai Trần Khánh Dư cùng theo về để được nhận tước phong chính thống của thiên triều. Ích Tắc phải sai Lê Trắc, tay chân của Trần Kiện, thảo sẵn thư rồi sai người mạo chữ Văn Lộng chép thành ba bản. Những bức thư ấy sẽ chuyển về Đại Việt như là đòn thứ ba trong liên hoàn kế li gián mà Trần Ích Tắc dâng lên. Thư gửi đi, Trần Văn Lộng đột nhiên lo sợ. Sợ Trần Khánh Dư. Gã nghĩ đến cái cảnh ông anh về hàng Nguyên. Khi đó, một tướng tài như Khánh Dư ắt sẽ lại được trọng dụng. Còn gã thì vô dụng, chẳng qua có mỗi công lao bám đuôi Ích Tắc lúc "tòng vong”[20]. Nỗi sợ hãi ấy Văn Lộng không nói ra. Và Ích Tắc hiểu nhầm Văn Lộng đang ân hận vì trót hàng Nguyên. Thế là Văn Lộng bị Ích Tắc mắng chửi cho tối tăm mặt mũi.
Văn Lộng không dám thanh minh. Gã cúi gằm mặt đứng trước Ích Tắc nghe trọn những lời sỉ vả. Ích Tắc vẫn không thôi xối xả:
– Ngươi mới thấy quân ta thua đã khiếp vía đến thế ư? Ngươi có biết Thái Tổ[21] ta phải trải qua bao nhiêu gian khổ uống nước bùn mà đánh giặc dựng nên đế nghiệp không? Ngươi có biết chỉ một phen trông theo ngọn giáo Trấn Nam vương trỏ về phương Nam, ta lại thành chủ một cõi, ngươi cũng được hưởng vinh hoa tột bậc không?
Văn Lộng thở dài:
– Em nghĩ anh Nhân Huệ không hàng đâu, tính anh ấy em biết...
Chọn cách xưng hô nhắc lại quan hệ dòng tộc, Văn Lộng cố lựa lời để nói với Ích Tắc, nhưng cũng là một cách tự trán an mình.
Ích Tắc càng thêm cáu. Kẻ bạc nhược này lại không chịu nghe hay cố tình không chịu hiểu bài học "uống nước bùn” của Thái Tổ Nguyên triều Thành Cát Tư Hãn. Mùa xuân năm đó, Thành Cát Tư Hãn vẫn còn mới chỉ là người anh hùng của đại mạc Thiết Mộc Chân thủ lĩnh bộ lạc Khất Nhan. Ông ta bị cha nuôi Đại Hãn vương bội ước tấn công. Thiết Mộc Chân thua chạy, thủ hạ chỉ còn mười chín người phải trốn đến sông Ban Chu Nê. Đói khát, cả quân đến tướng phải uống nước bùn rồi lần mò tìm cách tập hợp kỵ binh báo thù. Qua mùa thu, Thiết Mộc Chân mang kỵ binh đánh tan Đại Hãn vương. Câu chuyện về dòng sông Ban Chu Nê lầy lội như cái ao bùn vẫn được các thế hệ sau nhắc lại mỗi khi kể sự tích Đại Hãn thiêng liêng.
Ích Tắc thở dài, việc lớn không thể trông vào kẻ bạc nhược. Hắn khoát tay bảo Trần Văn Lộng:
– Ngươi về đi, về mà làm thơ!
Trần Văn Lộng im lặng vái chào rồi bỏ đi, vai rũ xuống. Trần Ích Tắc trông theo, buông một tiếng thở dài.
Y sẽ phải trông vào những kẻ này khi bước lên ngôi báu của Đại Việt sao? Y phải trông vào những kẻ này để thoát khỏi tấm lưới mà quân tướng Nguyên triều chắc chắn sẽ chăng ra khi chiếm xong Đại Việt ư? Trần Ích Tắc đủ thông minh để hiểu, Thoát Hoan sẽ hại y nếu lấy xong Đại Việt, trừ phi y lại phải có một miếng mồi mới thật thơm để tiếp tục dụ dỗ gã Trấn Nam vương này!
Và Trần Ích Tắc lại đắm chìm vào những toan tính xa vời...
CHƯƠNG V
Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang ngồi chết lặng hồi lâu trông xuống bức thư của Trần Ích Tắc. Những lời của Ích Tắc ong ong trong đầu ông: "Vương huynh chẳng thấy những huynh đệ không tình máu mủ bỏ quên Vương huynh chốn xa xôi ư?[22] Vương huynh chẳng thấy chính huynh đệ ruột già nhẫn tâm sai gia nô xạ tiễn chết đứa con trai yêu quý của Vương huynh ư?[23] Vương huynh chẳng thấy đứa cháu ngông ngạo ngồi trên ngai cao chỉ vì bênh em là thằng Đức Việp[24] mà bỏ quên tài trí của Chương Hiến[25] ư? Lẽ nào Vương huynh chịu ngồi yên mãi như vậy”. Và Ích Tắc còn nhắn nhủ: "Nay em chẳng quên tình huynh đệ, lại vì ân nghĩa với Chương Hiến nên không nỡ nhìn Vương huynh u mê mãi. Em giờ đã được thiên tử[26] đoái trông, được Nguyên soái Trấn Nam vương tin tưởng, sẽ đi trước mở đường cho đại quân. Nếu khi ấy Vương huynh ứng lên một ngọn cờ quy thuận, chẳng phải công lao không nhỏ ư? Đến phen luận công ban thưởng, ân đức truy phong của thiên tử chẳng cũng khiến cho Chương Hiến được ngậm cười ư?”...
Bức thư thật dài, lời lời đều như từ tâm can phế phủ. Nó chạm đúng vào nỗi đau Trần Quốc Khang vẫn giấu trong lòng. Tết Bính Tuất vừa rồi, thực là một Tết buồn trong cuộc đời Trần Quốc Khang. Đứa con giỏi giang nhất đã chết trong chiến trận. Mà chết khi đã là tên phản quốc. Nhưng dẫu gì, nó vẫn là con ông. Không có người cha nào không đau lòng nhìn con mình chết. Giá như nó có được tấm áo giáp tốt hơn... Giá như nó chạy sớm một ngày... Giá như Nguyễn Địa Lô nương tay cho hoàng thất...
Hoàng thất... Ý nghĩ ấy lại càng làm Trần Quốc Khang thêm ngao ngán. Thượng hoàng Thái Tông không yêu mà chỉ thương xót ông. Cha đích của ông là An Sinh vương Trần Liễu thì không muốn nhìn thấy ông. Ấy là vì ông luôn gợi lại nỗi đau bị em cướp cả vợ lẫn con vẫn canh cánh trong lòng Trần Liễu. Rồi khi Thánh Tông lên ngôi, ông lại phải tránh sang một bên, nín nhịn. Khi mâu thuẫn chi Vạn Kiếp và chi Tức Mặc lên cao, ông càng phải ngồi yên kẻo mang vạ. Đến bậc thâm sâu chữ nghĩa như Hưng Ninh vương Trần Tung còn lánh vào cõi Thiền để tránh thị phi nữa là ông... Tết vừa rồi, chừng như để an ủi, hai vua tặng ông nhiều quà và ban khen cho công lao "giữ Diễn Châu, cản lối Toa Đô”. Ông chẳng lấy thế làm vui. Công chặn Toa Đô là của Chiêu Văn vương, của Hoài Văn vương - khi đó mới chỉ là chàng hầu tước vừa quen trận mạc, của sĩ tốt... chứ chẳng phải công của ông. Chẳng thế mà ngày ban sư mừng đại thắng, ông cáo mệt không về kinh. Hai vua cũng nể mặt ông chỉ gửi lời thăm hỏi chứ không thúc giục hay sai thầy thuốc vào Diễn Châu. Ai chẳng biết, Tĩnh Quốc đại vương mệt trong lòng chứ không phải chuyện ốm đau thường tình. Đó là cách xử sự rất khéo léo của hai vua: cử ngự y vào thăm hỏi chẳng khác gì chứng tỏ triều đình đang nghi ngờ cái tâm bệnh của Trần Quốc Khang.
Trước Tết, Trần Quốc Khang có được một ngày vui. Hôm đó Nguyễn Khoái dắt vợ vào lạy mừng công tác thành của Đức ông Tĩnh Quốc. Bữa rượu với cá nướng Diễn Châu làm Nguyễn Khoái say nghiêng ngả. Viên tướng Thánh Dực thực tâm uống để lấy vui cho Đức ông Tĩnh Quốc còn vị đại vương thì uống cho quên sự đời mà cũng để mừng Nguyễn Khoái... Nhưng ngày vui tàn nhanh, dẫu rất thương Trần Quốc Khang nhưng vợ chồng Nguyễn Khoái cũng không thể ở lâu. Họ phải về quê, tranh thủ mấy ngày Tết thăm hỏi họ
hàng. Ông Trưởng Thụ, cha của Thu, đã hẹn rằng Tết này sẽ đưa con gái yêu và chàng rể quý đi chào làng trên xóm dưới. Trước khi Nguyễn Khoái bái tạ ra về, Trần Quốc Khang đã sai người biện đủ thứ quà. Quà gửi ông Trưởng, quà biếu họ hàng. Chuyến thăm hỏi thành ra rất rầm rĩ vì kèm theo có quà Diễn Châu của Đức ông Tĩnh Quốc...
Nguyễn Khoái đi rồi, Trần Quốc Khang lại ngồi buồn. Mấy bà phu nhân người Diễn Châu đều xin phép về thăm nhà để tránh những cơn bực bội của vị đại vương đang hồi khó tính. Những ngày chán nản cứ kéo dài mãi. Và bao nhiêu ẩn ức chợt òa ra cùng với bức thư của Trần Ích Tắc. Dù đó là thư của một thằng em luôn hỗn xược với ông từ bé. Một kẻ luôn chặn ngang lời ông mỗi khi Thượng hoàng Thái Tông hỏi chuyện. Một kẻ mà ông khinh ghét, vì tham vọng và âm mưu. Nhưng giờ đây, chính kẻ đó đang sống sượng gọi ra những gì còn mơ hồ trong lòng ông, những nỗi đau vốn bị lòng trung quân ái quốc che khuất. Chính kẻ đó khiến ông thấy thương chính mình. Giờ biết nghĩ sao đây, biết làm sao đây.
Sau lưng ông, chiếc khiên vẽ tướng huy nửa mặt trời màu chu sa, nửa mặt trăng màu nguyệt bạch nằm im lìm kể từ lần được trương lên trong buổi hội vương hầu ở Bình Than.
○ ○ ○
Sau mấy ngày Tết, Hưng Nhượng vương cáo từ để về Vạn Kiếp, không quên nói một lời với Trần Khánh Dư:
– Chuyện bức thư, Vương thúc tùy ý khu xử. Cháu sẽ không trình cha cháu. Riêng ý cháu, việc chưa dừng ở đây đâu..
Chẳng phải Trần Khánh Dư không nghĩ đến điều đó. Ngần ấy năm lang bạt và bao nhiêu lần đối phó với đủ thứ gian thương gián điệp ở đất Vân Đồn này, ông chẳng lạ trò nào. Con người Trần Ích Tắc ra sao, ông càng biết. Đó là một kẻ có tài "giậu đổ bìm leo” vào bậc nhất. Chỉ là ông thêm phần kính nể Hưng Nhượng vương. Màn diễn của ông và Quốc Tảng trước mặt quân lính là ông đã tính trước, còn Quốc Tảng thì chưa hề biết. Vậy mà Hưng Nhượng vương thản nhiên nhập trò như quá thành thục. Giờ lại đến lời nhận xét này. Chà, quả là hổ phụ sinh hổ tử!
Hoàng Chí Hiển cũng đã đi. Giờ con người ấy như mây ngàn hạc nội, nay đây mai đó, chẳng ai biết được hành tung. Trần Khánh Dư tặng Hoàng Chí Hiển một cây tiêu ngọc nhưng chàng cư sĩ chối từ: "Bẩm Đức ông, kẻ lang bạt không nên mang theo bảo vật trong người”.
Vài ngày sau, quả nhiên lại có một bức thư khác được chuyển đến tay Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Thư của em trai ông, Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng. "...Đại huynh nhã giám. Đệ từ buổi xa lìa cố hương, vẫn thường trông vọng về Chí Linh mà lòng xót ruột đau. Tết xa nhà, đành vun đất thắp hương để tưởng cha nhớ mẹ. Đệ vẫn mong một ngày lại được hồi cố hương, quỳ lạy xin ông cha tha tội cho đứa con bất hiếu. Từ buổi đệ theo Nguyên soái Trấn Nam vương nhập Nguyên, may cũng được phen mở mặt. Nay đã được quan cao lộc hậu, thường trông yến tiệc ứa nước mắt nhớ đại huynh. Em chỉ những mong chúng ta cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, vui vầy huynh đệ. Đệ phen này nhất nhất xin cầm roi theo Nguyên soái chinh Nam. Nếu ngày ấy mà huynh ra đón thì dẫu chỉ một người một ngựa hay cả đoàn quân, chắc Nguyên soái cũng tính công đầu. Cứ nghĩ tới ngày
anh em ta sóng ngựa trống dong cờ mở về Chí Linh, em lại thấy lòng dạ xốn xang. Vậy xin đại huynh xét đến lời của đứa em phương xa này mà tính liệu việc lớn. Hẹn ngày đại nghiệp thành, em xin về chịu lỗi bất mục với anh”.
Trần Khánh Dư đọc thư xong liền cười sặc sụa. Thằng em hèn nhát của ông còn lâu mới viết được cái bức thư này. Đây chắc là đám thư sinh theo hầu Trần Ích Tắc hoặc đám tân khách bên phủ Trần Kiện viết theo ý của Trần Ích Tắc mà thôi. Nhưng xem ra cánh đào vong này cũng được chút bổng lộc ngọt ngào nên khua mép trơn tru lắm. Mang cả công đầu ra dụ dỗ người bất cần vào bậc nhất như Nhân Huệ vương!
Đột nhiên, Trần Khánh Dư nhớ đến Trần Bình Trọng. Bả vinh hoa mà Lý Hằng mang ra đã không dụ nổi con người ấy. Và Bảo Nghĩa vương đã nằm lại đâu đó trên bờ Thiên Mạc. Ngày trước, Trần Khánh Dư không ưa Trần Bình Trọng. Ông nghĩ rằng người con cả của Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần tìm cách lấy cho được Công chúa Thụy Bà để mong tìm lối phong vương. Trần Bình Trọng có vẻ ngoài khó gần, ít nói, và luôn khiến người ta nghĩ rằng ông ra vẻ là con cháu Lê Đại Hành hoàng đế. Trần Khánh Dư quý Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần vì lối bỗ bã của ông bao nhiêu thì ghét Trần Bình Trọng bấy nhiêu. Nhưng dẫu thế, Trần Khánh Dư không thể không khâm phục Trần Bình Trọng. Con người ấy đã bảo thẳng vào mặt Lý Hằng: "Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Không ít lần Trần Khánh Dư nghĩ về khí phách của Bảo Nghĩa vương và câu trả lời này. Nếu là ông, ông có làm như Trần Bình Trọng không? Hay ông sẽ trá hàng và tìm lối vượt thoát về với đại quân, bất chấp danh tiếng bị giặc rêu rao, bản thân bị nghi kị, nhưng vẫn bảo toàn sinh mạng? Tính cách của Trần Bình Trọng là vậy, và chắc chắn Bảo Nghĩa
vương chọn cái chết để toàn danh tiết mà không mảy may suy nghĩ. Liệu chết như vậy có vội vã và đáng tiếc lắm không?
Mỗi lúc thế này, Trần Khánh Dư mới bất chợt cảm thấy mình đơn độc. Ông không có ai để cùng chia sẻ những nỗi niềm và cả những mưu toan thầm kín. Không có "hồng nhan tri kỷ”, không có "gia tướng tâm phúc”. Đến ngay cả gã quản gia bao nhiêu năm như Vũ Khắc mà còn có lúc phản ông thì thử hỏi ông tin ai làm sao được?
Trần Khánh Dư bước ra sân. Buổi trưa mùa xuân vắng lặng. Một loài hoa gì đó thơm thoang thoảng trong gió. Trần Khánh Dư gọi gia nhân lấy ngựa. Con ngựa nâu lúc lắc bờm hí vang như chào chủ. Trần Khánh Dư thúc ngựa đi chầm chậm. Dân hai bên đường cung kính vái chào ông. Ông đáp lễ mấy cụ già, còn những người khác thì coi như không thấy. Trần Khánh Dư rê cương ngựa vào một lối nhỏ rồi phóng lên mỏm đá trông ra biển. Biển trưa cũng thật yên ả. Tiếng rì rào mơ hồ của cây cối, tiếng rì rào của biển như khúc hát ru. Trần Khánh Dư thấy lòng nhẹ bớt. Ông buộc ngựa rồi tới ngồi tựa lưng vào một gốc cây lớn và nhắm mắt. Ông cố nghĩ tới những điều tốt đẹp trên đời, và thiếp đi lúc nào không rõ.
Khi Trần Khánh Dư tỉnh lại, nắng đã nhạt. Phía xa, Hoàng Phủ Tín đang khoanh tay đứng sừng sững như tượng. Con sói của miền biên tái năm nào đã cùng ông tra vấn những kẻ trên chiếc thuyền mang mật thư suốt mấy ngày trời. Hoàng Phủ Tín nói:
– Tôi theo vương gia bao lâu nay, chưa thấy vương gia mệt mỏi và bất cẩn thế này!
Trần Khánh Dư chống tay xuống đất và đứng lên:
– Ta cũng không ngờ mình lại có phen sơ ý đến thế.
Đoạn, ông khoát tay bảo Hoàng Phủ Tín:
– Về thôi...
Con ngựa nâu tung vó phi về trại quân. Trên lưng ngựa, Trần Khánh Dư nheo mắt mấy phen vì gió cuốn bụi tung. Con tuấn mã này đưa ra đảo thực là cuồng vó. Nó vốn là dòng ngựa quý được một thương gia Tống kỳ công mang sang biếu Trần Khánh Dư để đổi lại việc được buôn trầm hương về Bắc quốc. Kèm theo, gã thương gia còn tặng Trần Khánh Dư một đôi kiếm quý và một khối ngọc. Chất ngọc đã già, qua bàn tay người thợ chạm tinh tế trở thành một tác phẩm tuyệt vời. Cả khối ngọc nhìn thoáng qua như một ngọn núi lớn với nhiều hang động ẩn khuất mơ hồ đâu đó sau những cành tùng cổ thụ và mây giăng hàng. Đôi kiếm hiện đang treo ở thái ấp Chí Linh. Khối ngọc, ông đã cất kỹ trong rương cùng rất nhiều đồ quý khác. Trần Khánh Dư chợt nghĩ đến mười thoi vàng vừa tìm thấy trên chiếc thuyền bị bắt hôm trước. Ông cho anh em họ Phạm một thoi, cất lấy năm thoi, sung vào công quỹ ba thoi. Còn một thoi, chia một phần cho đám lính tuần bắt được thuyền gian, một phần làm một bữa chén túy lúy cho lính Vân Đồn. Chuyện đó, ngoài ông và ba anh em họ Phạm không ai được biết. Ở đất này, ai cũng biết quyền sinh quyền sát nằm trong tay ông Phó Đô tướng. Ông cho thuyền nào được vào thuyền nào được ra, tha kẻ này bắt kẻ kia. Ông ra uy ban ân chẳng thiếu gì. Trần Khánh Dư bất giác bật cười khi nghĩ đến Trần Ích Tắc. Ả Trần quả là ngờ nghệch mà cứ tự tưởng là khôn ngoan. Ngày ông lỡ bước, y cứ tưởng ông chết đói đến nơi. Ha ha, ai chết đói chết nghèo không biết, chứ ông thì đừng hòng.
Trần Khánh Dư ngoảnh lại hỏi Hoàng Phủ Tín:
– Ngươi tìm ta có việc gì chăng?
Hoàng Phủ Tín nhìn quanh rồi khẽ đáp:
– Dạ bẩm, thuyền gấm vừa sang. Tôi và tướng quân Phạm Chính đã soát kỹ, không có gì khả nghi...
Trần Khánh Dư gật:
– Vậy cứ theo lệ mà làm. Ngươi về trước lo việc đi.
Hoàng Phủ Tín vái chào rồi thúc ngựa vọt lên. Giờ thì Trần Khánh Dư chỉ cho ngựa đi nước kiệu. Với ông, mọi thứ luôn thật rạch ròi. Hoàng Phủ Tín trung thành với ông nên người nhà anh ta gần như độc quyền buôn gấm. Nhưng mỗi lần soát thuyền, vẫn phải có Hoàng Phủ Tín và một trong ba anh em họ Phạm để tránh những vụ kiểu thám báo trà trộn hoặc thư dụ hàng. Đổi lại, nhà họ Phạm cũng được chia phần trong mỗi chuyến hàng gấm. Bất cứ ai đã đi theo Nhân Huệ vương thì phải được no đủ. Kẻ nào lập công là phải khá giả, kẻ nào tận trung là phải được giàu sang. Ấy là cách dùng người, cũng là cách giữ người của Trần Khánh Dư. Nếu cứ mải chuyên tâm lo phú quý mà bị ngăn cản, ai lại chẳng tuốt gươm chĩa giáo ra đánh. Bổng lộc cỏn con của Nguyên triều ban cho Trần Ích Tắc có khi chẳng bằng những gì mà mấy viên cận tướng của Nhân Huệ vương kiếm được ấy chứ. Ả Trần ơi là ả Trần, ngươi có nghĩ đến cái điều ấy được không mà dám gửi thư chiêu hàng ta, lại còn mượn giọng thằng em đớn hèn của ta? Sao chẳng dụ dỗ những kẻ không được mấy bổng lộc gì họa chăng còn có được chút cơ may?...
Cứ nghĩ miên man thế rồi Trần Khánh Dư chợt giật mình. Nhỡ bức thư dụ hàng kia lọt đến tay Trần Quốc Khang thì sẽ ra sao? Còn nếu bức thư của Trần Văn Lộng lại cũng lọt vào tay một vị vương gia khác thì sao? Hỏng, thế thì hỏng to...
Trần Khánh Dư thúc ngựa về trại quân. Ông thảo hai bức thư, một sai tướng Phạm Quý dẫn một ngũ lính thiện chiến mang đến Thăng Long; một sai Đỗ Niêm mang vào Diễn Châu. Thư vào Diễn Châu báo tin về bức thư của Trần Ích Tắc. Thư tới Thăng Long thực là một tờ cáo dâng lên hai vua, kèm theo là thư của Trần Ích Tắc gửi Đức ông Tĩnh Quốc và thư của Trần Văn Lộng gửi ông. Phạm Quý được lệnh phải bảo vệ hai bức thư dụ hàng và tờ cáo hơn cả tính mạng của mình. Để tránh chú ý, cả Phạm Quý và Đỗ Niêm đều đi đường thủy.
Phân phó cắt đặt xong xuôi, Trần Khánh Dư mới ngả người xuống sập. Ông định đêm nay sẽ nghỉ sớm cho thoải mái. Nhưng Phạm Chính lại vừa vào bẩm "đại phú gia Tào Kỷ mời Đức ông tới Nguyệt Hương lâu uống rượu”. Và Trần Khánh Dư vặn người răng rắc ngồi dậy. Lại một kẻ muốn nhờ vả ông đây....
CHƯƠNG VI
Trần Khánh Dư tỉnh dậy khi tang tảng sáng. Tiếng gà gáy eo óc hòa lẫn với tiếng khóc trẻ con xa văng vẳng, tiếng chó sủa dồn canh. Ông vẫn nằm trong một gian phòng của Nguyệt Hương lâu. Bên cạnh ông, cô ca kỹ người Đại Lý đang nhoẻn miệng cười giữa cơn mơ. Trần Khánh Dư bò dậy trông ra cửa. Đêm thanh vẳng cả tiếng gió và tiếng biển rì rào. Phía ngoài có tiếng bước chân rậm rịch và giọng lè nhè say của một tay lái buôn người Trảo Oa bị ai đó xô đẩy lôi kéo thì phải.
Bữa rượu đêm qua ông uống khá say. Gã đại phú gia Tào Kỷ mang sang biếu ông một danh kỹ người Đại Lý cùng mấy nhạc công. Để tránh tiếng, gã ra ý sẽ để cả cô danh kỹ lẫn đám nhạc công lưu trú ở Nguyệt Hương lâu. Khi nào ông cho gọi, họ mới đến nơi ông cần. Suốt bữa, Tào Kỷ không hề đề cập tới điều gã muốn. Vì thế, Trần Khánh Dư cũng không vội vã gì tỏ ra định thu nhận hay không món quà đặc biệt của Tào Kỷ. Ông mải miết uống thứ rượu Ngọc Giới mà Tào Kỷ giới thiệu là dòng họ hắn mua lại của gia nhân Tần Cối[27] khi Tần phủ sắp bị kê biên. Lúc đó, âm mưu ám hại Nhạc Phi của Tần Cối bị bại lộ. Tần Cối cũng đã chết từ lâu,nhưng đám con cháu ngông nghênh giờ mới bị tống giam theo lệnh của Tống Hiếu Tông. Gia nhân mạnh ai nấy trốn. Những vò rượu đã được ba người gia nhân bí mật chuyển cho nhà họ Tào để đổi lấy một thứ: tính mạng. Nhà họ Tào chuẩn bị ngựa xe, người hộ tống để ba gia nhân đó trốn sang Kim. Tào Kỷ thở dài nheo mắt kể mấy câu cuối chuyện: "Khi xe của chúng gần đến Châu Tiên trấn thì người nhà tôi đã mật báo với
tướng Tống là Âu Dương Tùng Thiện. Chúng vừa tới nơi là đã sa vào tay Âu Dương tướng quân”. Trần Khánh Dư hỏi:
– Vậy là các người "xuất hồ, phản hồ[28] ư?
Tào Kỷ lúc lắc đầu:
– Tổ phụ chúng tôi đã làm đúng thỏa thuận bán mua: cấp đủ ngựa xe và đưa đến Châu Tiên trấn, không ai trách được chúng tôi thất tín. Nhưng để lũ phản quốc, phản chủ đó trốn sang Kim, chẳng hóa là dung dưỡng phản loạn ư?
Trần Khánh Dư liếc nhìn vẻ mặt của gã đại phú gia. Cái mặt múp míp đầy mồ hôi đang câng câng lên khi nói mấy câu đạo nghĩa của gã trông thật hoạt kê. Nhưng điều gã nói đâu có sai. Không thể dung dưỡng bọn phản quốc được. Trần Khánh Dư lại uống tràn cung mây Ngọc Giới tửu và gật gù:
– Rượu tốt!
Tào Kỷ đắc ý khoe:
– Thưa Đức ông, Ngọc Giới là "Tùy Dượng Đế cung trung danh tửu”.[29]
Trần Khánh Dư thủng thẳng đọc:
– Lăng Lộc thắng Lan Sinh[30], Thúy Đào qua Ngọc Giới...
Tào Kỷ há hốc mồm nhìn vị vương gia nước Việt đang ngồi trước mặt. Gã thầm kính phục mức độ sành sỏi của ông, điều này thực lòng hắn không ngờ đến. Ai mà dự liệu nổi rằng ông tướng cai quản hết thảy ở đất Vân Đồn này lại biết quá kỹ về các loại rượu của Trung Nguyên. Câu mà ông vừa nhắc chính là lời ngợi khen của Đường Thái Tông dành cho hai loại rượu Lăng Lộc và Thúy Đào mà Thừa
"""