"
Lê Vân - Yêu Và Sống - Bùi Mai Hạnh PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lê Vân - Yêu Và Sống - Bùi Mai Hạnh PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
Yêu Và Sống - Chương 1: Lời Mở Đầu
Yêu Và Sống - Chương 1+2: Vân Ơi, Vân Là Ai?
Yêu Và Sống - Chương 1+3
Yêu Và Sống - Chương 2: Bàn Tay Mẹ Thoăn Thoắt Đan Áo, Cơm… Yêu Và Sống - Chương 3: Diễn Với Đời
Yêu Và Sống - Chương 4: Từ Nhỏ, Tôi Đã Biết Cất Giữ Một Bí Mật Gia Đình… Yêu Và Sống - Chương 5: Khi Mà Mình Chỉ Là Dân Đen
Yêu Và Sống - Chương 6: Ôi Những Lát Sâm Thần Thánh… Yêu Và Sống - Chương 7: Sau Bữa Tiệc, Màn Con Hát Bắt Đầu Yêu Và Sống - Chương 8: Chỉ Tại Ông Trương Nghệ Mưu
Yêu Và Sống - Chương 9: Và Lòng Tôi Tràn Ngập Một Niềm Thương Cảm Lớn Yêu Và Sống - Chương 10: Lỡ Một Kiếp Vợ Chồng
Yêu Và Sống - Chương 11: Nơi Ấy Có Một Bờ Vai Rộng…
Yêu Và Sống - Chương 12: Và Có Tiếng Cười Đùa Của Các Thiên Thần Thức Dậy
Yêu Và Sống - Chương 13: Và Thượng Đế Sẽ Bù Trì Tất Cả
Yêu Và Sống - Chương 14: Tôi Là Tôi, Là Đàn Bà
Yêu Và Sống - Chương 15: Tôi Là Tôi, Là Đàn Bà 2
Yêu Và Sống - Chương 16: Vì Sao Tôi Chọn Lê Vân
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 1: Lời Mở Đầu
Vì sao tôi quyết định cho công bố cuốn sách này
Trước hết xin bạn đọc hãy bớt ra chút ít thời gian để đọc lá thư của một người từng hâm mộ tôi, (tôi nói như vậy vì không biết sau đây cô bé ngày ấy có còn hâm mộ tôi nữa không) bởi vì đằng nào thì cũng phải kể hết mọi chuyện cho có đầu có cuối.
Đà Nẵng ngày 15/1/86
Chị Lê Vân yêu mến!
Khi em viết thư này cho chị tức là lúc tình cảm của em đã lên tới tột đỉnh. Con người ta thường có những lúc không thể tự kìm chế được mình. Và giờ đây em đang lâm vào tình trạng đó. Em không thể yên lặng được nữa, em không thể cứ giữ kín mãi trong lòng tất cả những gì bấy lâu nay em đã dành cho chị, em đã nghĩ về chị.
Chị Vân ạ, chị có biết chị là như thế nào đối với em không? Giá như chị biết được rằng em đã quí mến chị đến chừng nào. Cuộc sống của em trong thời gian gần đây dường như không thể thiếu được bóng dáng thân thương của chị.
Mỗi một ngày em không thể không nghĩ đến chị. Có những đêm em nằm mơ thấy chị đang sống ngay trong gia đình em, em thấy được cả nỗi vui sướng của em khi được sống gần chị (nhưng tiếc thay những giấc mơ cũng chỉ là những giấc mơ).
Hình ảnh của chị đã theo em vào trong các giờ ăn, giấc ngủ và cả khi đến lớp. Có hôm, em đã bị cô giáo khiển trách vì cái tội không chú ý nghe giảng, hay nghĩ ngợi. Thế đấy! Mọi người nhìn em một cách khó hiểu, họ cho rằng em đang yêu. Vâng! Đúng vậy, em đang yêu, yêu một cách say đắm. Và người mà em yêu đó chính là chị.
Tất cả được bắt đầu từ cái ngày em xem bộ phim “Chị Dậu”, lần đầu tiên em đã khóc khi xem một phim Việt Nam.
Sau cái hôm đáng nhớ ấy, em đã đem lòng mến phục người diễn viên có tên Lê Vân, người em gặp lần đầu tiên trên màn ảnh, và em cứ tự hỏi: không biết chị ấy là ai? Sao chị ấy lại nhập vai một cách tuyệt vời vậy? Thế rồi không chịu được với những câu hỏi đó, em đã đến các quầy báo tìm mua tất cả các báo có nói về chị, bất kể là báo gì, số mới hay cũ. Chị biết không, em đã vồ lấy những bài báo đó cứ như là bắt được báu vật ấy. Thì ra, em là một đứa ngu ngốc, em đã bỏ lỡ những bộ phim trước đây chị đã đóng. Em cứ tiếc mãi và tự trách mình đáng lý ra phải biết về chị sớm hơn mới phải.
Nhờ những bài báo đó, em biết được chị hiện là một trong những diễn viên chính của Nhà hát nhạc vũ kịch Việt Nam, là con gái của nghệ sĩ ưu tú Trần Tiến, người mà em đã biết từ lâu qua các vở kịch nói Trung ương xem ở truyền hình. Em thật sự kinh ngạc và thầm thán phục khi biết chị là diễn viên balet. Thật không có gì sung sướng bằng được biết những điều tốt đẹp về một người mà mình đã sẵn lòng yêu mến. Từ đó em thường xuyên theo đõi báo chí để luôn được biết về chị, để không bỏ sót một hoạt động nghệ thuật nào của chị. Em hi vọng và chờ đợi đến một ngày được xem lại chị.
Cứ thế, hai năm trôi qua (1983-1985), một hôm em đọc được trong cuốn Điểm phim giới thiệu về bộ phim có cái tên “Bao giờ cho đến tháng Mười” và ở phần giới thiệu diễn viên, em nhìn thấy hai
chữ Lê Vân. Trời ơi! Chị không thể hình dung là em đã vui mừng đến chừng nào đâu. Khi bộ phim được chiếu ở Đà Nẵng, em đã có mặt vào buổi chiếu đầu tiên. Lần đó em đã khóc, khóc rất nhiều. Nhưng không phải chỉ một lần thôi, em đã xem bộ phim đến ba lần và đến lần thứ ba em vẫn không sao cầm được nước mắt. Làm sao có thể không khóc được ở những đoạn chị đứng sau vách cố nghiến răng, nén lòng, kìm những tiếng nấc khi nghe đọc bức thư để đến lúc nằm một mình chị lại trằn trọc vật vã với đau khổ; ở đoạn chị phải diễn chèo để cố quên đi nỗi đau đang vò xé trong lòng, rồi phải bỏ chạy khi quá bức xúc (ở đoạn này, tuy là diễn chèo nhưng em vẫn thấy ở chị có một cái gì đó rất “balet”). Và nhất là ở đoạn cuối, khi bố chồng mất, em đã khóc nức nở cùng chị, đây cũng là đỉnh điểm cảm xúc trong em. Chị Vân ơi, chị hãy nói cho em biết vì sao chị có thể diễn xuất một cách “xuất thần” đến vậy? Chị đã diễn chèo không kém gì một diễn viên chèo thực thụ. Lần đầu tiên xem phim này, em đã không ngần ngại đánh giá rằng, đây là bộ phim hay nhất trong những phim Việt Nam mà em đã xem. Đó là nhờ vào diễn xuất của chị và tất nhiên phải kể đến tài đạo diễn của chú Đặng Nhật Minh và sự “đều tay” của các diễn viên khác. Nhưng em bảo đảm là bộ phim này sẽ không thành công nếu như vai Duyên được giao cho một diễn viên khác (ở đây em nói hoàn toàn khách quan). Không ai có thể thay thế Lê Vân trong vai này được. Có lẽ khi viết kịch bản, chú Đặng Nhật Minh đã dành sẵn vai này cho chị thì phải. Hình ảnh của chị trong phim mà em thích nhất là lúc chị Duyên còn con gái, kẹp hai chùm tóc hai bên, cùng chạy chơi với anh Nam ngoài bờ sông và lúc chị Duyên cùng con trai thả diều trên đồi. Những lúc đó chị thật là đáng yêu làm sao!
Trước đây em đã mến phục chị qua phim “Chị Dậu” nhưng một cách âm thầm và kín đáo. Cũng sau này, với “Bao giờ cho đến tháng Mười” em không thể âm thầm được nữa.
Vậy là đi đâu em cũng “ca” chị, đến nỗi bạn bè và anh chị của em đã phai gọi đùa với em là “Lê Vân của mày”. Phải! Chị là của em. Em rất sung sướng mỗi khi nghe mọi người gọi như vậy. Và từ đó tình cảm của em đối với chị ngày càng thắm thiết hơn. Càng thương cho số phận của chị Dậu bao nhiêu, càng thông cảm cho nỗi đau của chị Duyên bao nhiêu, em càng yêu thương và quí mến chị bấy nhiêu. Em ôm ấp một ước muốn là một ngày nào đó sẽ được nhìn thấy chị ở ngoài đời, được nhìn thấy chị Lê Vân mà em đã đem lòng yêu mến.
Và rồi cái ngày dó đã đến.
Vào một ngày đầu tháng tư năm tám sáu, khi tình cờ đi ngang qua nhà hát Trưng Vương (nhà hát duy nhất của Đà Nẵng), em nhìn thấy một giải băng trắng giăng ngang, trên đó có dòng chữ “Nhà hát
nhạc vũ kịch Việt Nam” và xung quanh là những tấm biển quảng cáo, giới thiệu các vở balet.
Lúc đó em liền nghĩ ngay đến chị và vội dừng xe lại. Quả thật, em đã đoán không sai, trên tấm bảng giới thiệu các diễn viên, em đã tìm thấy tên Trần Lê Vân. Em mừng quá, đến nổi không biết nên quay xe về hướng nào. “Nhưng làm thế nào bây giờ? Chị ấy hiện đang ở đâu?”, em tự hỏi. Và thế là, đáng lý ra em phải đi công việc của em thì em lại xách xe chạy như điên như dại đến các khách sạn mà các đoàn nghệ thuật thường hay trọ. Nhưng em đã thất vọng, em không tìm ra đoàn balet, em không tìm ra chị đâu cả. Quay trở lại nhà hát, em hỏi người ta thì được biết: “Họ mới để bảng vậy chứ chưa diễn”. Em trở về với vẻ mặt tiu nghỉu.
Sáng hôm sau, em chở má đi chợ, cái chợ đó nằm trên đường Hải Phòng (gọi là chợ Tam Giác) cách không xa ga Đà Nẵng. Em dựng xe ở ngoài chợ đợi má em. Lúc này em lại nghĩ đến cách tìm
gặp chị, ngẩng lên, bất chợt em nhìn thấy có bốn chị có lẽ là vừa từ bên kia đường bước qua. Trong số bốn chị đó, em thấy có một chị tóc tha dài thẳng mượt, mặc chiếc áo may kiểu “sô” hình như là màu vàng nhạt, mắt mang một đôi kính râm. Nhưng em chỉ thấy thoáng qua trong nháy mắt thì các chị đó đã khuất vào trong chợ. “Họ là ai vậy nhỉ? Không có lẽ họ là những người mà mình đang tìm, bởi vì họ ăn mặc giản dị bình thường như mọi người. Và nếu là nghệ sĩ, họ đến các chợ lớn chứ vào cái chợ “dởm” này làm gì?”.
Sáng hôm sau nữa, em lại ra chợ để mua một ít trái cây. Chợ trái cây nằm đối diện với cái chợ hôm qua em đã đứng. Sau khi mua xong, chuẩn bị quay về, thì… “Trông kìa, đúng là bốn chị ngày hôm qua rồi!” Em tự nhủ. Họ đang từ chợ bên kia bước qua đường tiến về phía em. Lần này, em có dịp quan sát kỹ hơn. “Đúng là 4 chị ấy rồi. Họ vẫn ăn mặc như hôm qua. Và nhìn kìa! Cái chị hôm qua mang đôi kính râm, bây giờ đã bỏ kính ra, trông chị ấy rất quen”. Các chị đến gần em hơn. “Trời ơi! Chị Lê Vân”. Em đưa tay dụi hai mắt, cố nhìn cho kỹ. “Chẳng lẽ Lê Vân là chị mang kính hôm qua đấy sao? Sao chị ấy trẻ vậy? Sao chị ấy bình dị quá vậy? Không một chút phấn son, áo quần không màu mè, lòe loẹt Nhưng không thể lầm lẫn được khuôn mặt ấy, từ mắt mũi miệng cho đến thân hình. Đúng là một “thân hình balet”.
“Đúng là chị Lê Vân rồi!”. Các chị đi bộ về hướng ga Đà Nẵng, còn em thì “rà” xe đạp theo sau cho đến khi các chị rẽ vào khách sạn. Thì ra các chị trọ ở khách sạn đường sắt, một khách sạn bình dân mà chưa một đoàn nghệ thuật nào đến trọ cả. Bây giờ em mơi vỡ lẽ ra rằng các chị vào chợ Tam Giác để mua đường vì ở đây bán đường rẻ hơn các chợ khác, mà lại còn gần khách sạn nữa. Em trở về mà lòng vui như mở hội: “Thế là mình đã tìm ra chỗ ở của chị ấy!”. Về đến nhà, em kiền khoe với mọi người: “Em vừa nhìn thấy Lê
Vân. Vâng! Chính mắt em trông thấy chị ấy đi ngoài chợ Tam Giác, chị “Lê Vân của em” ấy mà!”. Ông anh trai em nói đùa: “Cứ như là vừa nhìn thấy tiên trên trời xuống vậy”. Em đốp lại: “Chứ sao, chị ấy còn hơn cả tiên nữa kia!”
Tối hôm đó, khi biết đoàn balet sẽ diễn đêm đầu tiên, em bèn mua bằng được hai cái vé… chợ đen, rủ chị của em cùng đi xem, bởi vì em quá nôn nóng muốn được xem chị diễn. Tối hôm sau, em lại được người ta cho 2 vé nữa nhưng ngồi tận trên lầu Vậy là trong hai đêm liền, em được xem chị diễn các trích đoạn “Spartacus”, “Giselle” và ở vở “Hồ Thiên Nga”, các chị đông quá và giống nhau quá, em thì ngồi tận trên lầu nên em không tìm ra chị. Cứ mỗi lần nghe giới thiệu tên chị, em lại nín thở hồi hộp chờ đợi, và lần xuất hiện đầu tiên của chị, em đã đứng bật lên khỏi ghế cứ như là theo bản năng vậy. Trong các đoạn trích đó, em vẫn thích nhất chị trong vai người yêu của Spartacus chị diễn cùng với anh Lê An. Trong vai này chị thật là tuyệt đẹp (vì lúc đó em ngồi gần nên nhìn được chị rất rõ). Đây là lần đầu tiên em được xem balet ngay sàn diễn.
Đối với em lâu nay, balet vẫn là thứ nghệ thuật cao nhất trong tất cả các loại hình nghệ thuật, là “nghệ thuật bay trên mười đầu ngón chân”. Nhưng cho đến khi được xem trực tiếp ở sàn diễn (chứ không phải qua truyền hình) mới thấy được cái “cao”, cái khó, cái công phu của nó gấp trăm lần em tưởng.
Lúc đó mới thấy, sự lao động nghệ thuật của các nghệ sĩ balet là cả một quá trình khổ luyện. Càng thấy được điều đó, em càng kính phục những nghệ sĩ balet, trong đó có chị. Những người cống hiến đời mình cho nghệ thuật balet, không còn nghi ngờ gì nữa, là những người yêu nghệ thuật thực sự, những người nghệ sĩ chân chính. Em không bao giờ quên được những động tác uyển chuyển, những
đường nét tuyệt vời của chị nói riêng và của tất cả các anh chị nói chung. Những động tác mà em nghĩ rằng, để có được các anh chị đã phải đổ biết bao công sức.
Về phần chị, chỉ riêng hoạt động nghệ thuật balet của chị cũng đủ làm cho em khâm phục rồi, vậy mà chị còn là một ngôi sao của điện ảnh nữa, thật là hết chỗ nói.
Kể từ sáng hôm sau cái đêm xem chị diễn ấy cho đến ngày chị rời Đã Nẵng về Hà Nội, suốt nửa tháng trời, sáng nào em cũng có mặt trước cổng Khách sạn đường sắt cả. Cứ mỗi buổi sáng, em lại đến đó, đợi đến lúc chị ra khỏi khách sạn là em đi theo chị. Em chỉ đi theo chị những lần chị đi bộ, còn bữa nào chị lên xe đi theo đoàn thì em chỉ còn biết đứng nhìn theo mà chịu chết. Cứ thế, em đã đi theo chị không rời một bước, chị đến đâu là em theo đó. Em đã theo chị vào các chợ khi chị mua quà để mang ra Hà Nội. Có một lần, chị dừng lại ở một hàng cá khô trong trung tâm thương nghiệp Đà Nẵng, lợi dụng lúc đông người, em tiến lại gần sát chị, em khẽ chạm vào người chị nhưng có lẽ chị không biết đâu.
Có khi chị đi cùng các chị kia, có khi chị đi một mình. Có hôm chị mặc chiếc áo sọc nhiều màu hình như là may kiểu bo ở lai, và tóc chị kẹp vén lên hai bên mang tai. Có hôm chị lại thả tóc và mang kính râm. Những ngày sau, em không để ý đến áo quần của chị nữa mà chỉ say sưa ngắm nhìn vẻ đẹp của chị. Một vẻ đẹp bình dị nhưng hết sức thánh thiện.
Có một buổi sáng, dù cho sự việc diễn ra cách đây đã 7 tháng, (kể từ ngày chị vào Đà Nẵng đến nay), em vẫn không sao quên được.Đó là buổi sáng của ngày 13 tháng 4, khoảng 7 giờ. Chị từ trong khách sạn đi ra cùng với một chị (hình như là chị Kiều Ngân hay chị Quý Ngân gì đó), không biết là các chị đã điểm tâm chưa?
Hôm đó, chị mặc chiếc áo thun lưới màu kem, chiếc quần thun màu đen, ống nhỏ, hai bên đùi mỗi bên có một đường nhỏ màu trắng chạy dài từ lưng quần xuống đến lai, giống kiểu quần thể thao vậy. Chân chị mang đôi dép da quai lưới, và tóc chị kẹp cao ngược lên, để lộ ra chiếc cổ “balet” trắng nõn. Chị kia chân mang dép nhựa Hà Nội, mặc chiếc quần Jeans xanh đã bạc màu, tóc cuộn hai cuộn hai bên và mặc áo gì thì em không nhớ. Trông hai chị có vẻ “chịu chơi “ lắm. Hai chị đi thẳng về phía chợ và rẽ vào chợ trái cây. Thì ra hai chị đi mua dưa hấu. Chị ngồi xuống chọn dưa. Vậy mà những người bán dưa đâu có biết rằng trước mặt họ là một chì Dậu, chị Duyên từng xuất hiện trên màn ảnh. Chỉ có một mình em biết điều đó. Lúc đó ước gì em là người bán dưa nhỉ, em sẽ biếu chị cả chục quả. Sau khi chọn xong, chị bảo bà bán dưa lấy dao xăm cho chị một miếng hình tam giác để chị xem thử. Cầm miếng dưa đỏ chót trên tay, chị từ từ đưa lên miệng nếm thử. Chị đâu biết rằng trong khi chị đang làm cái việc ấy thì có một kẻ đang nhìn chằm chằm vào chị. Phải, lúc đó em đang đứng cách chị 3 bước về phía bên phải. Em suýt bật cười khi nhìn thấy chị nếm dưa. Rồi chị đưa miếng dưa cho chị kia nếm thử nhưng chị kia lắc đầu và chị lắp miếng dưa vào chỗ cũ. Chị kia trả tiền, quả dưa khoảng 30, 35 đồng gì đó. Chị xách quả dưa lên phủi sạch cát rồi mang về. Chị đi rồi mà em cứ ngẩn người ra. Làm sao em có thể quên được cái động tác “nếm dưa hấu “ hết sức dễ thương ấy…
Đó cũng là ngày cuối cùng em “theo dõi” chị. Bởi vì bắt đầu từ ngày hôm sau em phải học ngày hai buổi để chuẩn bị ôn thi. Chiều hôm đó, em bỗng dưng có ý định đến phòng chị ở để gặp chị, để được nói với chị những điều lâu nay em đã ấp ủ, để được nghe giọng nói của chi, để thỏa mãn điều mà em đã mong muốn. Vậy là 3 giờ chiều ngày hôm ấy, em lại đến khách sạn. Nhưng khi đến nơi, em không thể bước tiếp được nữa, em bị lôi kéo lại bởi ý nghĩ. “Tại
sao mình lại làm việc này? Mình đã suy nghĩ kỹ chưa? Con người ta có một cái vốn tối thiểu đó và lòng tự trọng. Nếu mình làm việc này tức là mình không biết tự trọng, mình không còn sĩ diện”. Cuối cùng em đã quay về, em đã tự đấu tranh với chính mình rằng “Mình yêu thương, mình mến phục chị ấy thì việc mình đến gặp chị ấy có gì là xấu hổ, là mất sĩ diện đâu”. Nghĩ vậy em lại trở lại khách sạn nhưng đến nơi thì lại quay về. Cứ thế trong hai, ba ngày, đến ba, bốn lần em vẫn không lên được phòng chị.
Chị Vân ạ, em không dám tự sánh mình với chị đâu. Đối với chị, em chỉ là một hạt cát, còn chị là vầng thái dương.
Giá như chỉ có chị và em. Nhưng ở đây chị hãy thông cảm cho em vì còn có người xung quanh nữa. Họ sẽ nghĩ gì về em khi thấy em bước vào phòng chị và nghe thấy những điều mà em sẽ nói với chị.
Mãi cho đến hôm em cùng các bạn vào chợ trái cây để mua đồ về liên hoan lớp. Em ngạc nhiên khi nhìn thấy các cô các chị trong đoàn balet (mà em từng quen mặt mua dưa hấu rất nhiều. Có chị mua đến hai, ba quả. Em nghe một trong hai cô đứng gần đó nói với bà bán dưa rằng: “Năm, mười năm chúng tôi mới có dịp vào đây một lần. Chị bán cho tôi một quả rẻ rẻ để về làm quà cho chồng, cho con”. Nhìn các cô các chị trả giá mà em thấy tội nghiệp. Ra đường lại thấy các chú các anh mua rổ rá bằng nhựa cũng nhiều. Lúc đó em nhớ đến chị. “Không biết chị Vân đã mua dưa chưa nhỉ? Vậy là sáng mai chị ấy trở về Hà Nội. Chiều nay nhất định mình sẽ đến chỗ chị ấy rồi ra sao thì ra”. Như đã quyết định, chiều hôm đó em mua một bó hoa thật tươi, thật đẹp bỏ vào trong một cái giỏ bằng mây để không ai nhìn thấy và mang thẳng đến khách san. Nhưng đến nơi thì… hỡi ôi! Em nhận được một cái tin rất buồn: chị đã đi rồi, tất cả
đã đi hết rồi. Lúc đó, em tức đến gần khóc. Và đêm hôm đó, lần đầu tiên, em đã trằn trọc không ngủ được. Buổi chiều buồn đáng nhớ ấy là chiều ngày 18/4.
Em vốn là con trong một gia đình trí thức, mà trí thức thì chị biết rồi đấy. Rất nghèo. Bởi vậy em rất yêu những con người bình dị, nhất là nghệ sĩ bình dị. Và em cũng rất yêu nghệ thuật, vì vậy em rất tôn trọng những người làm nghệ thuật. Sau này càng nghĩ, em càng thấy thương đoàn balet của chị: người thì đông, phải trọ khách sạn bình dân, lao động thì khổ nhọc, tiền lương của mỗi anh chị cho mỗi đêm diễn, theo em biết, rất ít. Đến cả phương tiện vận chuyển cũng không có, cả đoàn chi có một chiếc xe du lịch, để các anh chị phải đi bằng tàu lửa. (Có những hôm ở khách sạn, em nhìn thấy trên chiếc xe du lịch đó, một số các anh chị thì ngồi còn một số phải đứng, chật ních). Đồ trang phục múa thì đã cũ. Và em biết bản thân mỗi nghệ sĩ trong đoàn cũng nghèo. Nhưng có một điều chắc chắn là tâm hồn của các anh chị rất “không nghèo”. Trong một hoàn cảnh như vậy mà các anh các chị đã đem hết công sức của mình để cống hiến cho nghệ thuật. Và kết quả là chất lượng nghệ thuật rất cao. Cho đến bây giờ em vẫn không quên được trình độ chơi nhạc tuyệt vời của dàn nhạc, sự tạo hình tuyệt đẹp trong các động tác balet.
Đối với em, một nghệ sĩ chân chính phải là một con người vừa có tài, vừa có đức. “Một người đi từ xa mà mọi người đều biết rằng đó là một nghệ sĩ thì người đó không phải là nghệ sĩ”.
Những thiên tài thường là những người không ai biết họ là ai cả. Có không ít những diễn viên, ca sĩ khi ra đường đã tập trung sự chú ý của mọi người bằng cách bôi son, trét phấn vào cho nhiều, ăn mặc thì lòe loẹt khác thường. Hôm nay thì người này đưa bằng loại xe này, ngày mai thì người kia rước bằng loại xe khác. Rồi họ vào các
nhà hàng ăn uống nhậu nhẹt… Đối với em, những người trác táng đó, xin lỗi chị, họ chỉ là loại “diễn viên ba xu” mà thôi. Chính họ là những con sâu mọt và gây nên những ấn tượng không tốt, những điều tiếng không hay mà quần chúng đã “dành” cho giới nghệ sĩ.
Còn với chị, em đã yêu chị ở cái vẻ bình dị chân chất của chị (chứ không phải của nhân vật) qua hai phim em đã xem. Chính sự bình dị đó cộng với tài diễn xuất độc đáo của chị đã cảm hóa được
em. Đã yêu mến và kính phục chị qua các hoạt động nghệ thuật của chị, em lại càng yêu mến chị hơn khi được nhìn thấy chị ngoài đời, chị vẫn mang cái vẻ bình dị đáng yêu ấy. Càng yêu chị, em càng muốn biết rõ về chị, về đời sống của chị và gia đình chị. Em đã tìm hiểu về chị rất cặn kẽ qua báo chí. Nhờ vậy em được biết chị sống trong một gia đình rất tuyệt vời. Em còn biết là trong các giờ rỗi, chị nhận đồ gia công về để làm thêm giúp đỡ gia đình.
Em biết, mỗi buổi sáng, chị điểm tâm bằng thức gì trước khi đến sàn múa, và ngoài ra, chị còn là một “tay đầu bếp” chính của gia đình nữa. Bấy nhiêu thôi cũng đủ để em biết rõ về đời sống giản dị bình thường của chị.
Chị Vân ạ, ngoài tình yêu và lòng mến phục dành cho chị, ở em còn có một sự kính trọng. Em kính trọng những phẩm chất mà chị mang trong người để đạt đến mức hoàn thiện của một người nghệ sĩ chân chính, những phẩm chất mà những “diễn viên ba xu” ấy không bao giờ có được. Chị là một con người bình thường nhưng chẳng tầm thường tí nao cả.
Chị biết không, vì quá yêu chị nên em đã đem lòng ghen tị với bạn bè, với những đồng nghiệp của chị, với những người làm phim, các đạo diễn, và thậm chí cả với những người thân, người ruột thịt của chị nữa kia. Bởi vì họ được gặp tiếp xúc với chị hàng ngày. Còn
em, tại sao em không có được cái diễm phúc như họ dù chỉ một lần để được nghe thấy tiếng nói của chị? Cũng vì yêu chị cho nên hiện giờ trong các ngăn tủ của em có không biết bao nhiêu là các bài báo nói về chị, phỏng vấn chị, từ các tạp chí “Tổ Quốc”, “Điện ảnh Việt Nam”, “Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh”, “Điểm phim” cho đến các loại báo tờ như “Văn hoá nghệ thuật”, “Tiền phong”, “Nhân dân”, “Quân đội”, “Hà Nội mới”, v.v…
Trong đó em thích nhất bài trả lời phỏng vấn rất sâu sắc và khiêm tốn của chị mang tựa đề “Hãy giữ lại những gì cần giữ lại ở tạp chí “Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh”.
Một hôm đi chợ, tình cờ em thấy một gói hàng của một bà bán hàng gói bằng tờ báo trên đó có hình của chị. Lập tức, em chạy đi mua một tờ báo cũ vào và xin bà ta đổi cho em tờ báo đó. Rồi em quay về ủi (là) thẳng cất vào ngăn tủ. Những tấm hình của chị em hiện đang có, em không thể nào đếm hết được Em chỉ nhớ một tấm
hình đáng yêu nhất là tấm hình chị chụp dưới tháp Eiffel, Paris, chị mặc chiếc áo có hai tay dài màu đen, thân màu trắng có chấm hột. Trước đấy, khi chưa biết chị em cũng rất thích nữ diễn viên balet kiêm điện anh của Liên Xô Galina Beliaieva, ai ngờ đó cũng là người mà chị yêu thích. Một sự trùng hợp hết sức thú vị. Yêu chị nên em yêu những gì chị lao động tạo nên, yêu những gì chị yêu thích. Em đã vui mừng đến tột đỉnh khi biết tin chị đạt được giải “Diễn viên nữ xuất sắc nhất” trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 7 và chị được các nhà điện ảnh nước ngoài khen ngợi khi họ xem bộ phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” (tại Pháp và Mỹ).
Cách đây 2 tuần, em xem phim “Toạ độ chết”, lại cũng cái vẻ bình dị ấy của chị. Sao chị đóng toàn những vai buồn quá vậy Vai nào cũng là một người vơ, một người mẹ đau khổ. Ở phim này, chị nói
rằng, chị đóng một vai phụ, chắc có lẽ là chị quá khiêm tốn đấy, chứ em thấy chẳng phụ tí nào cả.
Vì phim này không có nhân vật chính, nên về phía Việt Nam, chị là chính rồi chứ còn gì. À, chị cũng hay đóng chung với anh Đặng Việt Bảo nhỉ. Chị lại cùng kéo cờ khai mạc Liên hoan phim với anh ấy nữa.
Trong một bài báo viết về chị có đoạn: “Người ta đặt cho Lê Vân rất nhiều câu hỏi, vì sao một người nhỏ, lớn sống ở Hà Nội, chưa chồng con lại sống thật sinh động cuộc sống của phụ nữ vùng quê như vậy? Đó là do tài năng thu nhận cuộc sống của người diễn viên. Lê Vân rất thông minh trong việc nắm bắt những cái cơ bản cần thiết của nhân vật. Khả năng tư duy cộng với lòng yêu nghề chân thành trong sáng, đã giúp Lê Vân liên tiếp có được những thành đạt như vừa qua”. Đó cũng là ý kiến của em.
Bây giờ cho phép em được nói về những người thân của chị, những người mà đối với em cũng không kém phần yêu mến và kính trọng. Trước tiên, em xin nói về bác trai, bố của chị: em đã được xem bác đóng rất nhiều vai (qua truyền hình), có lẽ bắt đầu từ vở kịch “Hoàng Lang”. Hồi cuối năm 85 hoặc đầu năm 86 gì đó, bác đã cùng đoàn kịch nói Trung ương vào Đà Nẵng diễn vở “Nhân danh công lý”, bác đã làm em sửng sốt trong vai Tảo sẹo. Bác diễn vai này hay quá. Một diễn viên trẻ tuổi có tài đến mấy cũng không thể diễn như bác được sau đó mấy hôm, em nhìn thấy bác đứng ở ngã tư gần nhà hát, bác đang đợi ai đấy. Bác mặc quần Jeans xanh và áo sơ mi trắng. Em đi vòng ra phía sau để dễ dàng nhìn bác, em nhìn bác rất lâu. Trông bác vẫn còn “phong độ” lắm. Bất chợt bác quay lại, bắt gặp cái nhìn của em, bác mỉm cười với em và em cũng cười đáp lại nhưng hơi lúng túng. Lúc đó em chỉ muốn chạy lại hỏi
thăm bác về chị, nhưng không hiểu vì sao chân em cứ như là bị đóng đinh. Gần đây, vào cuối tháng bảy, đầu tháng tám, bác lại vào Đà Nẵng, cũng vẫn diễn vở “Nhân danh công lý”. và thêm vở “Người cha thô bạo”, nhưng trong thời gian này em đang ở Sài Gòn. Khi về biết tin này em rất tiếc. Khoảng một tháng sau, em được xem “Người cha thô bạo” ở truyền hình. Mỗi lần bác xuất hiện với điệu bộ hai tay đút túi quần, cổ rụt xuống, hai vai nhô lên, em không thể nhịn được cười. Và cách đây mẩy hôm, em lại xem bác trong một vở kịch ngắn về kế hoạch sinh đẻ, chị vợ đang trên bàn sinh kêu rên “chồng ơi là chồng”. Lúc đó liền chiếu qua cảnh anh chồng đang say rượu, rầu rĩ, buồn bã vì quá đông con (vai này do bác đóng, em lại một lần nữa cười đến vỡ bụng).
Bác gái cũng xuất hiện rất nhiều trong các vở kịch ngắn, nhưng trước đây em chưa biết bác là mẹ của chị. Gần đây em chỉ nhớ bác qua các vớ “Chập cheng” trong vai bà lên đồng, “Đường anh đã chọn” vai người mẹ… Còn chị Lê Khanh, em đã xem chị ấy đóng cùng bác gái trong vở “Nỗi đau ngọt ngào” của Ấn Độ (có chú Đức Trung đóng vai cha và anh Anh Dũng). Không biết có phải chị ấy đã xuất hiện trong vở “Ngày 10/10/54” không? Và không biết có phải chị ấy đã đóng vai Juliette cùng với chú Đức Trung (Romeo) khi mà đoàn kịch Nhà hát tuổi trẻ về Đà Nẵng cách đây hơn 1 năm không? Bởi vì lúc đó em chưa biết chị ấy là Lê Khanh.
Qua báo chí, em cũng biết chị Lê Khanh đã đóng trong các vở “Đỉnh cao mơ ước” và “Chim sơn ca”, nhưng em chưa được xem. Còn chị Lê Vi, em chỉ biết chị dang đi theo con đường của chị Vân, chứ em chưa được xem chị diễn, vì chị còn đang học. Và em biết cả cậu Lê Chúc của chị nữa đấy.
Vậy là hiện giờ, em đang giữ một tấm hình của bác trai (hình in trong báo), một tấm hình của cậu Lê Chúc, một tấm hình bác gái chụp chung với ba chị, trong này, cả ba chị đều giống mẹ như đúc. Và bốn tấm hình của chị Khanh, hai tấm hình chị Vi, mặc dầu ở hai tấm này, người ta đều ghi: học sinh trường múa Trung ương nhưng em vẫn nhận ra chị Vi ngay. Còn hình chị Vân thì nhiều quá em không đếm hết. Có một điều em nhận thấy ở chị Vân và chị Khanh là: Cả hai chị đều có một vẻ đẹp thánh thiện, cả hai chị đều giống Juliette. Có lẽ vì vậy mà đạo diễn đã chọn chị Khanh thể hiện nhân vật Juliette và Jand"A.
Gia đình chị thật là hạnh phúc, em rất muốn được sống trong một gia đình như vậy. Em đã đặt tên cho gia đình chị là một “Gia đình nghệ sĩ chân chính”, một “Tổ ấm tài năng và hạnh phúc”.
Chị Vân yêu mến!
Đối với chị, có thể đây chỉ là một bức thư “tỏ tình” hết sức vụng về của một cô gái 18 tuổi. Còn với em, toàn bộ bức thư này là một sự thật, là tất cả những tình cảm bấy lâu nay em cứ bị dồn nén mãi cho đến bây giờ mới được bộc lộ. Một sự thật em sẽ mang theo suốt cuộc đời mình. Chị biết không, các anh chị của em cũng rất mến mộ tài năng của chị và những người trong gia đình chị, nhưng họ không có “cuồng nhiệt” như em. Phải! Em cuồng nhiệt bởi vì ở em không chỉ có lòng mến mộ, mà em còn yêu chị nữa, em yêu chị một cách say đắm. Nói vậy chắc cũng đủ để chị hiểu lòng em. Bây giờ, cho phép em dừng bút. Em rất muốn biết nhà chị ở phố nào? Để khi nào có dịp ra Hà Nội em sẽ tìm đến. Hoặc khi nào chị vào Đà Nẵng, em cũng sẽ tìm đến chị. Lần này, em sẽ dẹp bỏ tất cả mặc cảm để tìm đến chị.
Nhất định em sẽ tìm đến chị! Chị có cho phép em làm điều đó không? Chị có sẵn sàng tiếp đón em không? Xin chị hãy nói với bác trai và chị Khanh rằng, em cũng sẽ tìm đến bác và chị Khanh nếu như một trong hai người có dịp vào Đà Nẵng.
Chị Vân ạ, không hiểu sao em bỗng có một linh tính và hi vọng là một ngày nào đó em sẽ nhận được thư của chị, em sẽ được đọc những dòng chữ thân yêu mà em đang khao khát. Đó cũng là niềm hạnh phúc lớn lao đối với em. Nếu như niềm hi vọng đó sẽ trở thành nỗi tuyệt vọng thì… chắc là em sẽ buồn lắm đấy! Nhưng không sao. Dù sao đi nữa chị cũng vẫn là “Lê Vân của em”, chị vẫn là thần tượng không bao giờ sụp đổ trong em. Dù sao đi nữa, em cũng vẫn giữ mãi những ấn tượng tốt về chị, em vẫn luôn dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho chị, em vẫn trân trọng chúng như trân trọng những gì thiêng liêng nhất của đời em. Chắc chị biết nữ nghệ sĩ Mireille Mathieu? Người ta gọi bà ấy là “Người phụ nữ tượng trưng cho nước Pháp”. Còn em, nếu sau này có ai hỏi em, thì em sẽ nói rằng: “Lê Vân, chị ấy là người phụ nữ tượng trưng cho nước Việt”
Cuối thư cho em gởi lời chúc đến hai bác và các chị.
Em chúc chị luôn đạt đến những đỉnh cao vinh quang của cả hai lãnh vực nghệ thuật mà chị đang cống hiến cả cuộc đời.
Hôn chị rất nhiều
Em, Tố Nguyệt
Em đã hôn lên những tấm hình của chị nhiều rồi. Và giờ đây em cũng đã hôn lên những trang giấy này, những nơi mà chị sẽ đặt tay lên cầm lấy bức thư.
***
Tôi nhận được lá thư trên cách đây vừa chẵn hai mươi năm, một bức thư đặc biệt. Trong thư, Nguyệt đã thật vô tư, hào phóng và chân tình trao cho tôi mối tình yêu thánh thiện, ngây thơ. Suốt chín trang đầu, tôi ngỡ đó là bức thư của một chàng trai trẻ đang yêu, mãi đến trang thứ mười, như Nguyệt tự nhận “… đây chỉ là bức thư “tỏ tình” hết sức vụng về của một cô gái mười tám tuổi đang yêu một cách đắm say cuồng nhiệt” tôi mới vỡ lẽ, thì ra em là gái.
Trong thời gian làm diễn viên, tôi đã nhận được rất nhiều thư của người hâm mộ, mà chưa một lần trả lời. Tôi tâm niệm rằng, tôi sẽ trả lời bằng những vai diễn. Bỗng một ngày, ngộ ra, hình như tôi chưa trả lời một ai, hình như tôi đang mắc nợ một ai… Bao nhiêu thư đã đến, đã thất lạc. Lạ lùng sao chỉ còn lại mỗi thư của Nguyệt. Bức thư dài hơn mười trang giấy đặc kín chữ. Nét chữ mực tím cứng cáp, nghiêm trang. Đọc lại, tôi phát hiện ra, tôi đã là một kẻ bạc bẽo làm sao!
Giờ cô bé ấy ở đâu, người đã cho tôi ngần ấy tình thương mến? Tôi chưa bao giờ gặp cô và có thể chẳng bao giờ gặp cả.
Tôi đã tự bỏ mất cơ hội đáp lại tình cảm của một người chân thành yêu quý mình vì những thứ khiến giờ đây tâm hồn tôi trở nên nặng trĩu. Hai mươi năm có thể chỉ là một khoảnh khắc với những người may mắn và hạnh phúc. Còn với tôi, hai mươi năm là một cuộc vật lộn với cuộc đời và với chính mình chỉ để không bị biến thành một người khác. Giờ đây đọc lại lá thư của cô bé ngày ấy, tôi bỗng thấy thương xót cho em vô cùng. Có biết bao nhiêu điều xảy ra với tôi mà em - một tâm hồn trong trắng vô ngần - không đáng phải bị nghe kể lại. Chính bản thân tôi cũng từng chôn chặt chúng xuống tận đáy lòng và hy vọng sẽ không bao giờ phải đối mặt với nó.
Nhưng càng ngày tôi càng bị đẩy đến trước một sự thật không thể lẩn tránh: có những điều sẽ đến lúc nào đó một mình tôi không đủ sức đem nổi. Và khi đó không biết điều khủng khiếp nào sẽ xảy ra với tôi.
Nhưng ngay cả điều khủng khiếp nhất là tôi gục ngã trong cảm giác bị trừng phạt thì cũng không kinh sợ bằng việc tôi dung túng cho sự dối trá. Có những sự thật, những uẩn khúc cần phải được nói ra. Chừng nào nó còn chưa được nói ra, chừng đó tôi còn sống trong cảm giác tội lỗi mà tôi thì không thể chịu nổi điều đó. Thế là tôi có nhu cầu phải kể hết đời mình, không giấu giếm bất cứ điều gì, ngay cả những điều mà người ta có quyền giữ im lặng, với một người nào đó. Ngay lập tức tôi nghĩ đến cô bé hâm mộ mình ngày xưa mà tôi đã đối xử thật tệ bạc.
Em xứng đáng được nghe tôi tự thú, thay cho một lời phúc đáp muộn màng, để rồi sau đó tùy em phán xét. Nhưng may thay có một người đã linh cảm thấy nỗi đau vò xé ấy trong tâm hồn tôi, kịp đến và đưa ra lời can ngăn thật đúng lúc. Những gi tôi sắp kể chỉ có thể gọi là những lời sám hối và người nghe nó không nên chỉ là một mình cô bé ngày xưa của tôi. Khi đưa ra lời khuyên như vậy có thể chị bạn tôi quên mất rằng giờ đây, sau hai mươi năm cô bé đã là một người trưởng thành. Nhưng tự trái tim tôi cũng thấy đó là lời mách bảo sáng suốt. Và để có chỗ cho tôi nương tựa về mặt tinh thần, chị ấy đã tự nguyện, một cách đầy kiên nhẫn và đồng cảm ngồi nghe tôi “thú tội”.
Những gì xảy ra sau đó - tôi muốn nói đến sự ra đời của cuốn sách này - hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Giờ đây tôi chỉ còn lại một ý nghĩ đủ sức an ủi mình: Thế là cuối cùng mình cũng đã có thể thanh thản mà sống tiếp. Tuy nhiên mọi việc diễn ra thì không phải
lúc nào cũng suôn sẻ. Thỉnh thoảng, tôi ngừng lại suy nghĩ, nói ra những điều này để: rồi người ta viết nên cuốn sách này, liệu có phải chỉ vì nhu cầu muốn mọi người hiểu đúng về cuộc đời mình hay vì tôi vẫn đang còn rất nhiều ham hố?
Hoặc ai đó sẽ đặt câu hỏi, người này còn tham vọng gì nữa đây mà bỗng nhiên lại tâm sự hết, bộc bạch hết cho người đời xem từ trong ra ngoài? Tôi tự hỏi, chẳng lẽ mình chưa đủ “tai tiếng” à? Tại sao mình lại bị cuốn vào việc này một cách rất say sưa?
Tỉnh táo nghĩ lại như thế. Và tự trả lời: không phải. Tôi đã sống một cuộc đời thường có cả điều đúng, có cả điều sai, có cả những đau khổ tự chuốc lấy trong khi đó tôi cũng trút đau khổ lên không ít người khác. Tôi có cả một tuổi thơ cay đắng mà không biết đổ lỗi cho ai. Tôi từng có thể muốn gì được nấy, những thứ mà bất cứ người bình thường nào cũng đều thèm khát. Và ngược lại, tôi cũng phải đối mặt với biết bao sự ê chề trong đó có cả do tôi, có cả do người khác gây cho tôi. Tóm lại tôi chẳng việc gì phải dựng nên những thứ mà tự nó đã chật kín trong cuộc đời mình rồi. Nhưng nếu vẫn có ai đó không tin mục đích của tôi khi chấp nhận có cuốn sách này, thì tôi cũng không hề vì thế mà thiếu tôn trọng họ. Chúng ta được đào luyện trong một môi trường mà lòng thành thật không phải lúc nào cũng được đặt ở những vị trí xứng đáng.
Đôi khi tôi lại nghĩ, hình như mình đang “vạch áo cho người xem lưng”. Những lúc ấy tôi chỉ muốn bảo thẳng với Bùi Mai Hạnh - người càng ngày càng tỏ ra hiểu tôi hơn tôi tưởng với một sự kiên nhẫn vô bờ bến - có lẽ dừng lại thôi, quẳng đi thôi. Tại sao tôi lại cứ phải làm cho những người thân của mình đau lòng? Nhưng hóa ra người đau lòng nhất lại chính là tôi.
Giờ đây thì mọi việc đã không thể nào dừng lại được. Thôi thì ai muốn nghĩ gì về tôi là quyền của họ. Tôi chấp nhận cả sự nguyền rủa. Bởi vì nếu cuốn sách này trở thành nguyên nhân của những hiểu lầm có thể xảy ra, thì nó cũng đồng thời là một cơ hội để tôi tự thanh tẩy tâm hồn mình. Mục đích lớn nhất của tôi là sám hối mặc dù tôi biết không phải mọi sự sám hối đều được tha thứ. Tôi muốn tự trừng phạt mình thay cho một sự trừng phạt từ trên cao sớm muộn rồi cũng giáng xuống…
Tôi chịu trách nhiệm trước lương tâm và luật pháp về tính chân xác của những sự kiện, những câu chuyện được viện dẫn trong cuốn sách này. Tôi không muốn vì sự sám hối của mình mà có thể làm tổn thương đến bất cứ ai. Những nhân vật được nhắc tới chỉ bởi vì họ đã góp làm nên một phần cuộc đời tôi, thuộc về cấu trúc tạo nên số phận tôi. Thiếu họ trong câu chuyện, tức là tôi không thể hoàn thành tâm nguyện là thành thật đến tận cùng về bản thân mình. Ngoài điều đó ra, bất cứ sự gây hiểu lầm nào cũng có thể coi là sơ xuất bất khả kháng, ngoài ý muốn của tôi. Và thể nào cũng xảy ra điều tương tự với người này người kia nên tôi xin được bày tỏ trước niềm hối tiếc và mong các vị rộng lòng lượng thứ.
Không hiểu sao cứ mỗi khi sắp kiệt sức, chẳng hạn như lúc này, lúc mà tôi phải nói những điều thật khó khăn, tôi lại nhớ bà ngoại. Bây giờ bà đã về Trời. Bà mất khi gần trăm tuổi. Lần cuối cùng về Hải Phòng thăm bà ốm, tôi được bà trăng trối: “Nếu như, sau khi chết đi mà bà biết rằng bà còn có thể phù hộ cho ai đấy, thì người đó sẽ là cháu. Bà phù hộ cho cháu luôn hạnh phúc”.
Tôi tin rằng chính bà ngoại đã thể hiện sự phù hộ, như bà hứa, khi mách bảo cho tôi những gì tôi cần phải làm trước khi lại được về làm đứa cháu gái tội nghiệp của bà.
LÊ VÂN
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 1+2: Vân Ơi, Vân Là Ai?
Không hiểu sao tôi luôn có cảm giác tuổi thơ của tôi thực là ngắn ngủi. Nghe có vẻ như vô lý, bởi đời người ai cũng được trời dành cho tuổi ấu thơ ngần ấy thời gian rồi mới bước vào tuổi hoa niên! Hay có lẽ bởi tuổi thơ tôi không được sống những phút giây êm đềm hạnh phúc trong một mái ấm gia đình, mà chỉ là nỗi khắc khoải, khát khao được yêu thương chiều chuộng, được nựng nịu vỗ về.
Bố mẹ sinh tôi khi họ chưa kịp thành người lớn. Mới mười tám đôi mươi, họ chẳng có chút kinh nghiệm nào trong việc làm bố, làm mẹ. Sau tôi, bố mẹ tiếp tục có thêm hai cô con gái nữa là Lê Khanh và Lê Vy. Đó là những năm tháng khó khăn của thời kỳ chiến tranh chống Mỹ. Cả miền Bắc thắt lưng buộc bụng. Mọi cố gắng chỉ để xoay cho đủ hai bữa ăn. Bố mẹ không có thời gian dành cho việc gần gũi dạy dỗ con cái. Như cây hoang cỏ dại, tôi cứ thế lớn lên, tự học mọi thứ ở đời…
Khi tôi mới được vài tuổi, không biết vì bố mẹ khó khăn hay vì sớm lục đục mà tôi được gửi về Hải Phòng cho bà ngoại trông nom. Mẹ có hai em trai mà tôi rất hay nhầm tên là cậu Chúc và cậu Chức.
Để khỏi gọi sai, tôi bèn nghĩ cách đặt biệt dành cho các cậu là cậu To và cậu Bé. Tôi không bao giờ quên khoảng thời gian vui vẻ ngắn ngủi được sống gần bà ngoại. Chỉ có chừng ấy thời gian thế thôi, vậy mà cũng đủ để bà xót xa cho tôi, dõi theo từng bước cuộc đời tôi. Bằng bản năng ruột thịt, bà có linh cảm đời tôi đang gặp bất hạnh (ấy là thời gian tôi rơi vào cuộc tình éo le thứ nhất).
Mỗi khi có dịp về Hải Phòng biểu diễn, tôi thường chạy về số nhà 64 B phố Cầu Đất thăm bà. Tôi biết bà muốn hỏi tôi nhiều thứ nhưng rồi lại im lặng, chỉ dịu dàng nắm lấy hai bàn tay gầy guộc của tôi vuốt ve, chia sẻ.
Từ nhà hộ sinh A, Hà Nội, tôi được đưa về ngôi nhà đầu tiên, nhà của ông bà nội ở số 136 phố Quán Thánh, một con phố cổ bắt đầu từ vườn hoa Hàng Đậu, nơi có tàu điện chạy qua. Cửa nhà tôi nhìn ra là bến tránh tàu. Tôi thường đứng đó chờ mẹ đi làm về. Nhiều hôm đã quá muộn vẫn chẳng thấy mẹ đâu, các chị họ con bác tôi, những người họ hàng sống cùng số nhà, gọi tôi vào ăn cơm nhưng tôi bướng bỉnh từ chối, gan lì chờ bằng được chuyến tàu sẽ đưa mẹ về với tôi. Bác dâu tôi bực mình bảo: “Kệ nó, con này bé mà đỏng đảnh”. Thậm chí, mẹ kể lại, có lúc tôi bị vấp, ngã kềnh ra giữa sân, có chị chạy đến định đỡ tôi dậy nhưng bị bác quát lại thôi. Có lẽ vì mẹ và bác là hai chị em dâu, họ sớm có mâu thuẫn khi cùng sống chung trong ngôi nhà ông nội để lại. Vì tôi cứ bướng bỉnh và “đỏng đảnh” nên đành chịu đói meo.
Trong lúc chờ mẹ về, tôi không biết làm gì để giết thời gian bèn… cậy dỉ mũi tự chơi với mình. Thậm chí, tôi còn “nếm thử” cái “món đặc biệt” ấy, nó hơi mằn mặn thì phải…
Rồi đến một ngày, không biết vì lý do gì, mẹ bế tôi ra khỏi căn nhà của ông bà nội. xa bố, xa tất cả họ hàng bên nội.
Mẹ mang tôi đến rạp Kim Môn, nơi mẹ làm việc. Khi mọi người đã ra về, hai mẹ con ngủ trên mặt bàn, giữa phòng tập.
Cái khoảnh khắc nằm trên mặt bàn trơ trọi mênh mông ấy cứ tự nhiên găm vào trí nhớ non nớt. Không biết mẹ và tôi đã qua bao nhiêu đêm trên cái mặt bàn ấy… Bên ngoại đã thật là xa, bên nội
cũng xa nốt, tôi chỉ có duy nhất một nơi bấu víu là mẹ. Tận trong sâu thẳm, tôi yêu mẹ, cần có mẹ và chỉ muốn mẹ là của riêng tôi. Những dịp được mẹ cho lên Bờ Hồ chơi, tôi đã rất khó chịu khi thấy bất kỳ ai ngồi cạnh mẹ trên tàu điện. Tôi không muốn họ chạm vào mẹ của mình, nên cố đẩy họ ra bằng được. Ích kỷ và bất lịch sự một cách hồn nhiên, cô bé con 3 tuổi cứ loay hoay bên nọ bên kia để giữ mẹ cho riêng mình. Ấy vậy mà có lần, chỉ vì thích một mẩu sắn luộc trắng bóc của một bà hàng rong, tôi đã cởi ngay cái áo choàng bằng dạ trắng mẹ mới mua cho ra để… đổi. Ngày bé, tôi tự nghĩ ra nhiều trò nghịch ngợm, ví dụ như tôi có thể nhắm một bên con mắt mà không bị nheo con mắt kia. Khi hai mẹ con ngồi trên xích lô giữa phố Hà Nội đông đúc, tôi giở mẹo vặt đó, và hồi hộp hỏi mẹ với một con mắt nhắm: “Mẹ ơi, mọi người có nhìn con không? Chắc họ nghĩ con bị chột một bên mắt đấy nhỉ?”. Và tôi có vẻ thích chí vì “đánh lừa” được người lớn.
Không thể cử cắp tôi vạ vật theo đoàn mãi được, mẹ gửi tôi vào một nhà trẻ ở ngoại thành Hà Nội. Đó là những ngày dài tăm tối tuyệt vọng trong nỗi nhớ mẹ vô cùng, là thời gian mà trái tim non nót của tôi cảm nhận được sự cô đơn trống vắng không bao giờ quên. Có một hình ảnh của chính mình, mỗi lần nghĩ lại, tôi vẫn muốn ứa nước mắt bởi thương cảm cho cái tâm hồn yếu ớt của đứa trẻ là tôi lúc đó.
Cứ chiều thứ bảy, chúng tôi lại được bố mẹ đón về. Ai mà chả háo hức những chiều thứ bảy. Sau một tuần dài dằng dặc, tôi thèm được ở bên mẹ biết bao. Vườn trẻ có một ô cửa sổ nhìn ra con ngõ
nhỏ, nơi mẹ đi đến đón tôi. Tôi thường bấu chặt vào song cửa sổ hóng mẹ. Lần ấy, loáng cái, các bạn đều được đón về hết. Trời tối đen lúc nào không biết.
Chỉ còn mình tôi. Thời gian sao mà dài như vô tận. Tôi bám cửa sổ đến mỏi chân. Mãi không thấy mẹ đâu. Các cô giáo an ủi: “Con ơi, xuống đi, muộn lắm rồi. Chắc mẹ Mai còn bận đi diễn, không vào đón con được đâu. Đêm nay ở lại đây vậy”. Lời cô giáo khoét sâu vào nỗi tuyệt vọng của đứa bé mới ba tuổi. Cổ họng nó tắc nghẹn. Trái tim đau đớn chỉ chực bật thành tiếng khóc, nhưng nó gan lì không khóc. Nó từ chối cả cánh tay cô giáo đưa ra đỡ xuống. Hai cánh tay bé bỏng nắm chặt song sắt gỉ lạnh, đôi mắt thơ dại khô khốc hi vọng nhìn vào đêm đen. Nó không thể tin rằng mẹ lại không vào đón nó. Nó cũng không chịu tin lời các cô giáo. Nó đã đợi mẹ cả tuần rồi. Nó tin chắc, mẹ không thể bỏ nó một mình ở lại trong khi tất cả các bố mẹ khác đều đến đón con cái họ về.
Thế rồi, sự kiên nhẫn của nó đã được đền đáp, trong đêm khuya thanh vắng, bỗng vọng vào tiếng người đi xe đạp lọc cọc trên con đường đầy đá sỏi. Âm thanh ấy càng lúc càng rõ rệt hơn. Tôi chồm tới gào lên: “Mẹ Mai ơi, đón con?”. Thì ra, đêm đó mẹ phải diễn đột xuất, nhưng biết là tôi sẽ chờ bằng được nên mẹ vẫn một mình đường xa vắng vẻ vào đón tôi về.
Tại sao tôi lại nhớ lâu, nhớ mãi khoảnh khắc này bởi tôi yêu mẹ và cần có mẹ biết bao. Đã 45 năm trôi qua rồi, mà tôi vẫn nhớ như in cái đêm đó. Bây giờ, trái tim tôi mềm yếu hơn nhiều. Tôi dễ xúc động, dễ rơi nước mắt hơn. Tôi không can đảm bằng tôi lúc mới lên ba.
Chính ở trại trẻ đó, tôi có những giấc mơ rất khủng khiếp. Sau này lớn lên, đọc sách, thấy có nhiều đứa trẻ cũng có giấc mơ giống mình. Nhiều đêm liền, tôi nằm ngủ trên cái giường hai tầng trong nhà trẻ, cứ thiếp ngủ là lại thấy những qụả bóng hình bầu dục mầu nhờ nhờ, bay qua bay lại trên trần nhà. Những quả bóng di chuyển
khắp phòng, đuổi theo tôi như dọa dẫm sẽ nổ tung bất cứ lúc nào. Nỗi sợ làm cả người tôi đông cứng. Không dám ngủ. Mở mắt ra chỉ thấy đêm đen kịt, đặc quánh, hãi hùng. Hình như, từ những đêm không dám ngủ đó, tôi biết thế nào là cô đơn buồn bã như một người lớn.
Đời sống ở trại trẻ và những năm tháng nội trú trường múa sau này đã dạy cho tôi biết suy nghĩ độc lập và tự mình lo toan tất cả.
***
Chiến tranh diễn ra ngày càng khốc liệt. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” giăng ở khắp nơi. Không ai nghĩ cho riêng mình. Càng không ai nghĩ đến lợi riêng khi mà “Tổ quốc lâm nguy”. Miền Bắc bị máy bay Mỹ bắn phá ngày đêm. Người già và trẻ em phải đi sơ tản, người còn sức lực phải ở lại Hà Nội bám trụ sản xuất. Một lần nữa, tôi lại phải xa mẹ, xa gia đình. Lần này tôi không đi một mình mà đi cùng cô em gái mới 2 tuổi. Hai chị em tôi đi theo một trại trẻ do đoàn kịch lập ra cùng rất nhiều trẻ con cũng xa bố mẹ như chúng tôi.
Trại trẻ cách Hà Nội vài chục cây số. Tất cả các ông bố bà mẹ đều gửi gắm con cái mình cho các cô nuôi trẻ. Tôi bước vào lớp vỡ lòng, tập nguệch ngoạc vẽ những nét chữ A, B, C, đầu tiên cùng trọng trách của một người chị thay mẹ trông em. Nhìn bọn trẻ con ở quê cầm củ khoai lang nóng hôi hổi hay bọn bạn xung quanh ăn bánh bít-cốt bố mẹ chúng tiếp tế, tôi thèm rỏ rãi. Hòm gỗ của chị em tôi thường trống rỗng.
Một lần, tôi đã cả gan cậy nắp hòm của một đứa, nhưng rồi cũng chỉ dám nhìn cái gói bánh bít-cốt vàng óng bên trong giống như ngắm nhìn cả một trời mơ ước, khát khao… Có lúc bắt gặp em gái đứng ngẩn mặt đầy thèm muốn nhìn bọn trẻ khác ăn quà, tôi uất ức
tủi thân lôi em ra góc khuất đầu hồi, củng vào đầu em một cái rõ đau, rồi cả hai chị em cùng oà lên nức nở.
Trại trẻ nơi sơ tán là một dãy dài những gian nhà lá đơn sơ với giường chiếu được ghép lại từ những miếng ván gỗ. Những miếng gỗ được kê lên hai đâu làm bằng tre ngâm bốc mùi thối hoắc. Đó là chiếc giường khổng lồ nối từ đầu này tới tận cùng của đầu kia lán trại. Những mảnh ván to nhỏ cong vênh dập dềnh dưới bàn chân chạy nhảy của lũ trẻ con.
Không phân biệt con trai con gái, chúng tôi cứ sống chung với nhau như vậy. Chỉ đến khi đi ngủ, ranh giới mới được phân định bằng những chiếc chiếu xộc xệch, những chiếc màn xô vàng khè nom như những cái vó tôm của các bác nhà quê. Và khi đêm xuống, ánh trăng khuya hắt vào qua khe cửa hở, soi bóng những chiếc lá tre lay động trên góc màn như những bàn tay gầy đang múa…
Lũ trẻ con chúng tôi ngủ rất say như không hề có bom đạn chiến tranh. Xa gia đình, chúng tôi tự tìm ra được một vài thú vui để khỏa lấp nỗi nhớ cha mẹ. Bọn con trai, dùng vỏ chăn căng thành phông màn dựng nên một sân khấu nhỏ là giường phản; những mảnh vỏ chăn bạc màu được vặt lên dây làm thành màn kéo. Bọn con gái đi thu thập đầu mẩu bút chì đỏ, nghiền ra, cho tí nước lã vào tạo thành một thứ bột sền sệt. Chúng tôi dùng thứ bột dó bôi quét cho nhau như khi bố mẹ hóa trang ra sân khấu. Nhìn nhau, đứa nào cũng nhoe nhoét nhòe nhoẹt chì đỏ trông thật ngộ nghĩnh, tức cười.
Chúng tôi thường diễn “vở kịch” phỏng theo câu chuyện cổ tích Thạch Sanh cứu công chúa Quỳnh Nga mà đứa nào cũng biết. Chẳng cần kịch bản, đạo diễn, với năng khiếu bẩm sinh của con cái các nghệ sĩ kịch, chúng tôi diễn theo kiểu tự phát, nghĩ tới đâu diễn tới đó, tự bịa ra những lời thoại cực kỳ thú vị. Tôi được vào vai công
chúa. Tới đoạn cứu được công chúa, chàng Thạch Sanh để nàng ngồi lên lưng ngựa vượt rừng lội suối. Đương nhiên, một cậu trai nhỏ phải đóng vai ngựa cho tôi cưỡi. “Chú ngựa” bò bằng hai tay và đầu gối, gặp phải phản gỗ mấp mô, đau quá, chú ngựa đổ sụm xuống khiến công chúa ngã nhào theo. Cả bọn được một phen cười thỏa thích… Có lẽ đó là một cách dàn dựng kịch theo trường phái hiện đại của Brếch sau này cũng nên, bởi lũ trẻ con chúng tôi vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên, lại vừa là khán giả nữa…
Cuối tuần, cả bọn lại ngong ngóng bố mẹ vào thăm. Vì phải đi diễn phục vụ khắp nơi nên không phải ai cũng đến được. Không phải tuần nào cũng có người đến. Nhưng tuần nào tôi cũng cứ hi vọng Tuần này mẹ không vào được thì gắng đợi đến tuần sau, tuần
sau nữa…
Có một thời kỳ chờ đợi như thế… Trời đã về chiều, nắng đã sắp tắt, bỗng nghe tiếng cô giáo gọi: “Vân, Khanh ơi, ra có người nhà đến thăm này”. Bàn chân líu ríu chạy chực ngã. Trái tim hồi hộp đập dồn. Tôi chạy ào ra đầu khu lán trại. Cảm động đến sững sờ. Tôi nhìn thấy bác tôi, bác Đoàn, chị ruột bố. Bác và người bạn gái, bác Lân, đèo nhau bằng chiếc xe đạp cà tàng vượt mấy chục cây số để vào thăm hai chị em tôi ư! Nét mặt hai bác nom phờ phạc vì đường xa bạt gió. Tôi đứng khựng lại, chẳng thốt được lời nào vì xót thương hai bác. Nếu tôi hé miệng, tiếng òa khóc sẽ buột ra, mà tôi không muốn để hai bác thấy mình khóc. Quà của bác là một nải chuối tây chín vàng và một cái bánh mỳ đổi bằng tem phiếu. Chẳng kịp nói gì nhiều, bác lại phải về ngay vì lo trời tối lạc đường. Tôi cứ đứng như trời trồng, không còn kịp hé răng nói lời cảm ơn. Nhìn hai bác vội vã quay xe, hai hàng nước mắt tôi lặng lẽ chảy dài trên má…
Tôi đâu biết rằng sau này, cuộc đời tôi còn rất nhiều lần âm thầm lặng lẽ khóc một mình như thế. Chỉ mới bắt đầu thôi, hỡi Vân bé bỏng. Cuộc đời này còn nhiều điều tủi phận hơn thế nữa đang chờ…
***
Dường như không chịu nổi cảnh xa con, mẹ lại đón chúng tôi về Hà Nội. Đoàn kịch diễn ở đâu, mẹ tha lôi chúng tôi theo đó. Hai chị em vạ vật bên cánh gà sân khấu lưu động. Không biết bao nhiêu vở kịch đã găm vào đầu tôi từ thủa ấy. Tôi thích nhất hình ảnh mẹ trong vai cô Diễm trong vở “Cái máy chém”. Bởi trong vai đó, mẹ luôn mặc tấm áo dài trắng, mái tóc phi dê thả dài, trông mẹ thật đẹp, một nét đẹp mảnh mai trẻ trung. Sau đó, đời diễn kịch của mẹ chỉ toàn đóng vai các bà già. Mẹ đóng vai già khi mẹ còn rất trẻ, chưa đầy ba mươi…
Khi cuộc chiến bị đẩy lên tới đỉnh điểm ác liệt, chính phủ huy động toàn quân toàn dân đóng góp sức người sức của cho tiền tuyến. Tất cả lao vào chiến trường, trong đó có các đoàn nghệ thuật. Bố cũng ở trong số những nghệ sĩ đi B thời kỳ đó. Ngày bố lên đường, mấy mẹ con tôi đến tiễn bố tại trụ sở đoàn kịch nói Trung ương. Các nghệ sĩ được trang bị như những chiến sĩ. Cũng ba lô con cóc mũ tai bèo, tăng nhựa, võng bạt, đèn pin, lương khô nén và dù ngụy trang.
Bao trùm lên là không khí ngậm ngùi tiễn đưa người ra trận giữa cha mẹ với con cái, giữa vợ với chồng, giữa những người đang yêu… Không ai nói nhưng đều hiểu một điều: có thể họ sẽ chia tay nhau mãi mãi. Cùng với vòng tay ôm ghì xiết chặt là những đôi môi mím lại để khỏi bật thành tiếng khóc. Và rồi chiếc xe tải chở họ đi mất. Mẹ và chúng tôi đứng nhìn theo bóng chiếc xe xa dần. Tôi thấy
bố cố nhoài người ra vẫy. Cánh tay bố lẫn vào mấy chục cánh tay khác huơ huơ lên tiễn biệt. Những bàn tay như những chiếc lá trắng lay động, run rẩy.
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 1+3
Vào thời điểm bố đi chiến trường, em út chưa tròn tuổi tôi Nhớ lần thấy mẹ nước mắt ngắn dài về nhà, túi xách nhỏ khoác vai, tay cầm một bơ gạo. Vì sao mẹ khóc? Tôi nghe lỏm bố gắt mẹ: “Có thế thôi mà cũng khóc. Quay lại bệnh viện đi”. Thì ra, bố bắt mẹ phải tự đi phá bỏ cái mầm thai đã 3 tháng tuổi. Mẹ bảo, đã ba lần mẹ đi bộ đến bệnh viện rồi nhưng cả ba lần đều không đủ can đảm. Cứ lên bàn nằm lại rên rỉ với bác sĩ… “hay là chị cho em về”. Bơ gạo cầm theo là để đóng cho bệnh viện nếu sau đó phải nằm lại.
Bà bác sĩ thương tình khuyên: “Chắc chồng em sợ sinh con gái nữa phải không? âu đó cũng là cái điềm. Số nó được làm người. Về đi em, về đi. Nếu sau này sinh được con trai, nhớ quay lại đây cho chị ăn mừng”.
Thế rồi lại con gái. Mẹ ngao ngán, nhưng tôi với em gái thì vui lắm, tranh nhau bế em. Em bé hay ăn chóng lớn, cực kỳ dễ nuôi và cả dễ tính. Thế nào cũng xong. Sáng ra, mẹ đặt em giữa sân với một chén sữa bột trộn đường. Ăn hết rồi mà em vẫn mút mát cái thìa thòm thèm, mặc cho ruồi bâu quanh mép. Như bù lại, em bụ bẫm dễ thương, ngay từ nhỏ đến khi lớn lên đều hợp mẹ nhất nhà.
Từ khi có thêm em bé, tôi lại càng bị đẩy lùi xa mẹ thêm chút nữa. Chỗ của tôi bên cạnh mẹ nay phải nhường em. Tôi ấm ức tranh giành vú mẹ với em gái thứ hai. Đêm nào cũng diễn ra cuộc ẩu đả trên ngực mẹ. Mà mẹ thì quá mệt vì những áp lực có tên và
không tên của cuộc sống rồi. Mẹ chỉ muốn được nghỉ ngơi, vậy mà cũng không được yên. Thế là mẹ rít lên: “Giời ơi, tao chỉ muốn giết bớt chúng mày đi. Thế này thì làm sao tao sống nổi”.
Cuộc chiến ngưng lặng. Lời mẹ làm tôi sợ hãi vô cùng. Tôi đinh ninh mẹ nói thật. Nghĩ rằng, một lúc nào đó, mẹ sẽ giết chết hết chúng tôi đi cho khỏi bị quấy rầy, tôi mếu máo van nài mẹ: “Mẹ ơi, nếu có giết thì mẹ giết em Khanh. Con lớn rồi, con còn trông em cho mẹ đi làm”. Ôi, sao tôi có thể ngố tầu đến thế? Sao tôi có thể tin rằng mẹ muốn giết chúng tôi thật? Gần mười tuổi mà tôi vẫn thật ngây thơ khi tin vào tất cả những điều người lớn nói, kể cả những điều phi lý…
Sau khi bố đi B một thời gian, đến lượt mẹ cũng đi vào tuyến lửa Vĩnh Linh. Thời đó, lên đường phục vụ chiến trường là điều đương nhiên phải thế. Không do dự đắn đo.
Không viện lý do khó khăn để ở lại Hà Nội. Mọi người đều cố gắng thu xếp cuộc sống riêng tư để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc. Tôi và Khanh được mẹ mang đến phố Sinh Từ gửi bác Đoàn trông nom. Vy bị gửi vào vườn trẻ, tuần bác Đoàn đón về một lần.
Tôi lúc đó đang học lớp bốn, trường cấp một Nghĩa Đô, ngôi trường rợp bóng mát của ba cây vú sữa. Sáng sáng, tôi đi bộ ra bến tàu điện Cửa Nam, lên tàu nhiều hôm trốn vé năm xu. Đến Bưởi, bến đỗ cuối cùng, tôi chẳng cần chờ cho tàu đỗ hẳn đã nhảy xuống rất thành thạo. Trước giờ vào lớp, tôi còn kịp ghé vào cửa hàng ăn uống mậu dịch làm một ly sữa đậu nành nóng hổi loãng toẹt và cái quẩy làm bằng bột mỳ viện trợ. Bữa sáng của tôi chỉ một hào rưỡi mà ngon thật là ngon. Hôm nào không trốn được vé tàu, tôi làm một bát mỳ không người lái giá một hào. Cái món “không người lái” rất
phổ biến thời chiến tranh vì nó không có thịt không có nhân. Nhưng chẳng sao cả, miễn là nọ được cái bụng để có sức mà học…
Thời điểm nhận trông nom ba chị em tôi, bác Đoàn vẫn chưa có chồng, và tất nhiên là chưa có con. Bác là một hình ảnh điển hình cho mẫu người con gái gia giáo, khép nép của Hà Nội cổ. Tôi không bao giờ quên ngày bác đạp xe vào thăm tôi nơi sơ tán, và những săn sóc ân tình của bác Đoàn khi sẵn lòng nhận nuôi nấng ba chị em chúng tôi. Bác hiền hậu thế, nề nếp thế mà tại sao đời bác sau này cũng chẳng sung sướng gì!
***
Nhà cỏ thêm Khanh, tôi hết được là trẻ con, có thêm Vy, tôi thực sự khoác lên mình trọng trách của một người chị cả. Tôi vẫn nhớ như in ngày Khanh ra đời. Không biết vì vất vả hay vì những cuộc cãi lộn triền miên với bố mà mẹ sinh Khanh khi em mới được có bảy tháng tuổi. Khanh ra đời chỉ nặng có một cân bảy, người vừa bằng cái chai nhỏ xíu. Tôi và bố vào thăm mẹ ở nhà hộ sinh phố Hàng Bún, vì không đúng giờ thăm nên hai bố con phải đứng ngoài gọi vọng vào. Mẹ ngó qua cửa sổ, bằng chỉ một cánh tay, mẹ nâng cao em bé lên cho tôi nhìn. Có em bé, mẹ không còn là mẹ của riêng tôi nữa. Rồi thì cái gì cũng phải nhường em. Nếu chẳng may hai chị em lỡ tranh giành nhau thì tất cả đều do lỗi ở tôi vì tôi là chị lớn rồi, dù tôi chỉ mới lên năm tuổi. Từ đó, như con mèo gầy gò tha con chuột, tôi phải thay mẹ trông em mỗi khi bố mẹ đi diễn đêm. Chúng tôi tha lôi nhau khắp các nhà trong xóm…
Là một đứa trẻ hiếu động ham chơi, tôi tham gia tất cả các trò chơi của bọn con trai thời ấy như đánh khăng, chơi bi, nhảy ngựa… Để em ngồi một chỗ, tôi say sưa chơi trò ú tim trốn tìm. Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đường, tôi úp mặt vào gốc cây sấu, miệng
đếm năm, mười, mười lăm, hai mươi… nhưng mắt thì ti hí nhìn. Đếm đến một trăm, cuộc kiếm tìm bắt đầu. Tôi thường tóm gọn lũ bạn vì con mắt không cưỡng được cứ hấp háy nhìn trộm qua kẽ ngón tay.
Thú vị nhất là trò chơi nhảy ngựa. Cả lũ con trai con gái nhảy chồm lên lưng nhau cho đến khi “bọn ngựa” nặng quá ngã lăn ra đất. Cứ thế say sưa cho đến lúc gà lên chuồng… Các ông bố bà mẹ í ới gọi con về đi ngủ, chỉ còn trơ trọi lại hai chị em tôi. Chìa khóa cửa cầm tay, nhưng tôi không dám lên căn gác nhỏ vì nó mới tối tăm làm sao? Tôi sợ ma. Bố mẹ diễn đêm mãi chưa về. Ngoài đường đã vắng tanh. Lang thang mãi, tôi tha em vào bất cứ nhà nào trong xóm ngủ nhờ. Mãi đêm khuya, bỗng nghe giọng mẹ thì thào như trong mơ: “Bà ơi, ông ơi, có các cháu ngủ đây không?”. Sáng ra, tôi thấy mình tỉnh dậy trên chiếc giường nhà mình. Hai chị em ngủ như chết, mẹ tha về nhà lúc nào không biết.
Phố tôi ở có vỉa hè rất rộng, hai bên đường trồng cả thảy ba hàng cây sấu. Hai hàng bên này và một hàng bên kia. Những gốc sấu sù sì, rễ trồi lên quằn quèo như lưng cá sấu. Mùa hè, lá sấu mơn mởn xanh mướt. Hoa sấu nhỏ li ti, gặp cơn gió, hoa rụng trắng xóa vỉa hè. Mùa thu, lá sấu vàng rơi phủ kín đường đi khiến cho con phố Phan Đình Phùng biến thành một tấm thảm vàng trải dài… Nhưng trưa hè trôn ngủ, tôi lang thang dọc vỉa hè nhặt sấu chín rụng. Vị sấu chín vừa ngọt vừa chua vừa thơm mùi sấu… Ngày ấy, hình như mưa bão nhiều hơn bây giờ. Những hàng sấu nghiêng ngả vặn mình chống đỡ cơn gió quật. Gió hun hút thổi và mưa như trút nước khiến những cành khô gãy răng rắc. Chờ cho mưa ngớt, lũ trẻ con chúng tôi ùa ra phố hò reo nhặt sấu rụng. Lắm hôm, chúng tôi nhặt được hàng rổ, hàng chậu sấu. Sấu xanh mang về để mẹ nấu canh chua hoặc dầm vào bát nước rau muống luộc. Trái sấu dầm biển
màu xanh của bát nước luộc rau thành một màu vàng trong vắt. Vài trái dầm vào bát nước mắm chấm rau. Thêm bát cà pháo giòn mặn, rất dễ trôi cơm vào mùa hè oi bức, thế là cả nhà có một bữa cơm giản dị đặc trưng của người Hà Nội. Có vậy thôi mà không thể nào quên…
Hà Nội tuổi thơ tôi không chỉ có mùi thơm của sấu chín mà còn phảng phất mùi xà phòng giặt hôi xì dùng thay kem đánh răng. Thời thiếu đói, sau nhiều ngày hết kem đánh răng, tôi tặc lưỡi, quẹt cái bàn chải nhỏ vào bánh xà phòng giặt 702 do Liên Xô viện trợ - thứ xà phòng chuyên dùng cho công nhân giặt rửa dầu mỡ trong xưởng máy. Đưa lên miệng, tôi cảm thấy rõ mùi xà phòng nhưng kệ, cứ chải răng, miễn là nó cũng tạo ra một thứ bọt giống như bọt kem đánh răng. Nó khiến tôi nhiều phen nôn ọe muốn ói mửa.
Thiếu lương thực, thiếu chất đốt, thành phố toàn một màu xám xịt. Không ai dám mặc quần áo màu sáng vì lấy xạ phòng đâu mà giặt! Nhiều lần hết dầu, không thể sang hàng xóm xin vài que củi đun dở về giúp mẹ thổi trước nồi cơm, tôi lẳng lặng vác bao tải rách và cái chổi xể ra đường.
Không còn thú vui nhênh nhang nhặt sấu chín rụng nữa, tôi đi bộ đến đường Hoàng Diệu, con đường có hai hàng cây xà cừ cổ thụ. Lá xà cừ dày và đanh. Cơn gió mùa hè bứt lá vàng khô ném dạt sang hai bên lề đường. Tôi nhỏ nhoi men theo gờ cống quét lá cho vào bao tải. Cứ lom khom, lụi cụi, mải mê quét, ngẩng lên mới biết đã đi hết con đường từ khi nào.
Đương Hoàng Diệu từ bấy đến nay vẫn không hề thay đổi Mỗi lần phóng xe máy qua đó, kỷ niệm đi quét lá khô lại ùa về cùng tiếng lá xà cừ lạo xạo đâu đây…
Thật là vui khi có thể đỡ đần mẹ đôi chút trong những trưa hè Hà Nội, còn mùa giông bão? Tôi chờ đợi mùa giông bão đến để kéo mẹ ra đường. Hai bóng người một lớn một bé đội nón khoác mảnh vải nhựa lao đi. Mặc mưa to gió lớn quất vào mặt đau rát, mặc các cành cây ngả nghiêng vặn vẹo chực gãy, tôi rủ mẹ ra đường kiếm củi về đun. Chẳng hiểu sao, cả mẹ và tôi đều không nghĩ đến nguy hiểm. Cành cây to đổ xuống có thể đè chết cả hai mẹ con. Chính cái nghèo đói thiếu thốn đã đẩy chúng tôi đi… Một vai mẹ gánh một đầu cành cây to, đầu kia ngả xuống vai tôi gầy gò, xương xẩu. Mẹ cao hơn nên hầu như sức nặng của cành cây trút cả vào tôi, một con bé mới bảy tuổi đầu. Nhưng tôi cảm thấy tôi còn hăng hái hơn cả mẹ. Tôi đi băng băng kéo mẹ lướt theo. Lá xà cừ dễ bén đun mau hết, cành cây ướt, chặt ra phơi khô cũng nấu được vài bữa cơm…
***
Tôi đã khát khao biết bao nhiêu những lời nói thương yêu nâng niu, những cử chỉ bảo ban dạy dỗ ân tình… Với thói quen một mình chịu đựng từ nhỏ, nên dù có ốm đau, bệnh tật thế nào, tôi cũng gắng gượng dậy. Tôi chỉ chịu nằm xuống khi không thể nào nhúc nhích được nữa. Vào những lúc ấy, nếu ai đó cho tôi một câu hỏi thăm, một chút ân tình, cũng đủ làm tôi òa vỡ. Như chạm vào nỗi đau. Như chạm vào niềm khao khát mong mỏi… Bất cứ ai, chỉ cần quan tâm đến tôi một chút thôi, cũng đủ để làm tôi trào nước mắt vì cảm động.
Tôi không quen được chăm sóc như vậy. Không thể chịu đựng nổi cái sự dịu dàng đến thế. Hóa ra tôi là kẻ yểu đuối vô cùng. Càng yếu đuối, tôi càng cố cất dấu cái sự yêu đuối của mình, cố tạo ra một cái vỏ bọc, rằng mình được yêu thương chiều chuộng, mình đầy đủ mạnh mẽ. Nhưng từ sâu thẳm trái tim, chỉ một câu nói trìu mến, chỉ một cái nhìn thương yêu của người đời cho nhau, cũng có thể
làm tôi bị tổn thương. Không mấy ai hiểu được tôi là một kẻ yếu đuối như thế nào.
Người đời thường nghĩ tôi may mắn sinh ra trong một gia đình có bố mẹ là nghệ sĩ, chắc hẳn tôi sẽ được truyền dạy về tình yêu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật diễn xuất. Nói ra có thể không ai hiểu tại sao, suốt cuộc đời mình, tôi lại chỉ ao ước có được một lời gọi “con ơi” trìu mến hay sự chăm sóc bảo ban của những người ruột thịt, mà không có. Và cũng bởi tôi không bao giờ bộc lộ ra với bất kỳ ai cái điều mình ao ước thèm khát nhất ấy, nên trong thâm tâm những người gần gũi tôi, họ không bao giờ hiểu được tại sao tôi cứ sống thu mình lại như thế. Dần dần trong tôi hình thành nên tính cách không thể chia sẻ. Cứ tự mình lo, tự mình nghĩ, tự mình sống theo một cách sống, cách nghĩ mà tôi biết là đôi khi rất trẻ con, rất lạ lùng… Đến bây giờ, nhìn lại một số những sự kiện đã xảy ra trong cuộc đời mình từ lúc ấu thơ, tôi đã hiểu vì sao, tôi lại có tính cách khép kín, bướng bỉnh như thế…
Năm tôi 12 tuổi, một chiều thứ bảy như bao chiều thứ bảy khác, tôi sung sướng được thoát khỏi cái trại tập trung được gọi là trường múa để về nhà. Vì phải tìm một thứ gì đó, tôi đã lục tung các ngăn kéo trong nhà. Tình cờ, tôi thấy một tờ giấy được giấu kín dưới đáy ngăn kéo. Tôi choáng váng khi đọc hàng chữ: giấy ly hôn. Bố mẹ đã li hôn rồi ư? Từ bao giờ vậy? Tại sao họ không nói gì với tôi nhỉ? Tại sao họ dám tự động làm cái việc tày trời như vậy mà không hề cho tôi biết. Dù sao tôi cũng là đứa con lớn nhất trong nhà. Họ nên cho tôi biết mới phải!
Trong tờ giấy ly hôn, phần làm tôi đau đớn nhất là mục chia con. Bố nhận nuôi Vi, mẹ nhận nuôi Khanh. Không có tên tôi ở đó. Không ai nhận nuôi tôi cả. Vậy tôi là ai? Tôi không thuộc về ai cả. Bàng
hoàng, ớn lạnh. Tôi muốn gào lên, nhưng không thể. Tôi còn có thể nói gì, khi mà tôi bỗng dưng bị hất ra ngoài. Tôi không là ai cả. Bố mẹ ơi, con là ai? Chỉ là một người dưng? Con muốn gào lên, thét lên đòi quyền làm con của mình, đòi quyền được thương yêu và chăm sóc, cũng sẽ vô nghĩa thôi! Mọi sự đã được định đoạt cả rồi.
Và cánh cửa lòng tôi khép lại.Vĩnh viễn. Sau một nỗi đau.
Cất tờ giấy về chỗ cũ, tôi không nói với ai một lời. Cho đến tận bây giờ, bố mẹ không hề biết rằng tôi đã biết chuyện chia con của họ. Vâng. Bố mẹ không thể nào biết rằng, họ đã làm trái tim tôi tan nát ra sao, với vết thương luôn rớm máu, tôi trở nên người yếu đuối thế nào. Bố mẹ không thể nào biết rằng, tôi đã cô tỏ ra mạnh mẽ để che dấu vết thương của mình, để bố mẹ yên tâm về tôi, một đứa con gái nghị lực, mạnh mẽ. Bố mẹ không thể nào biết rằng, họ đã vô tình đẩy tôi xa họ thêm, xa họ mãi… Tôi không thể nào bộc lộ cảm xúc của mình vì biết rằng, cái điều mình mong muốn sẽ không được đáp ứng. Vì sao? Vì cuộc sống quá ư là nghiệt ngã? Và còn vì, có lẽ, bố mẹ cũng đã hết lòng với tôi rồi nhưng chỉ được đến thế thôi.
***
Ôi những kỷ niệm khó phai của một thời nghèo khổ. Tôi không sợ nghèo. Nghèo mà yêu thương nhau chia sẻ cùng nhau. Tôi chỉ sợ lòng người độc ác, dẫm lên nhau mà sống.
Mỗi khi nhớ lại thời thơ ấu, tôi băn khoăn, phải chăng tôi đã quá nhậy cảm, để rồi tự mình làm mình đau đớn một cách không cần thiết? Phải chăng tôi đã quá ngốc nghếch khi cứ tự kỷ ám thị rằng, trong gia đình này, tôi chẳng là ai cả! Vậy thì tại sao tôi lại phải có mặt trên cõi đời này? Tại sao tôi phải hứng chịu những đau đớn này?
Đêm đêm, để dỗ giấc ngủ của mình, tôi thì thầm tự hỏi: Vân ơi, Vân là ai?
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 2: Bàn Tay Mẹ Thoăn Thoắt Đan Áo, Cơm…
Mới 19 tuổi mẹ đã đi lấy chồng. Sau này, có một bài báo viết về bố, mẹ đọc được và trách một cách bâng quơ: “Bố mày bộc tuệch bộc toạc quá, ai lại đi nói những chuyện ấy trên báo chí”. Chẳng là, khi nói về thời gian mẹ mang bầu tôi, bố đã dùng một câu dân gian tếu táo: “ăn cơm trước kẻng”. Như vậy, mẹ có tôi khi vừa hết tuổi thiếu nữ. Chẳng bao giờ tôi được biết, liệu tôi có phải là lý do khiến bố mẹ cưới nhau? Sau đó trở thành những ông bố bà mẹ trẻ con! Có lẽ, vì còn quá trẻ nên họ không có ý thức xây dựng và bảo vệ tổ ấm của mình. Những sai lầm trong đời sống vợ chồng dẫn đến hàng loạt đổ vỡ, bất hòa kéo theo cả một chuỗi những bất hạnh…
Khi sinh tôi, mẹ vào nhà hộ sinh A không một cắc bạc. Vì đau đẻ thì cứ phải đi. Vì sĩ diện nên cũng chẳng nói với ai. Giờ ăn trưa, đói lả. Chiều mới thấy bố chạy vào mang cho cặp bánh giầy giò. Nghe tin mẹ sinh, bà ngoại tức tốc từ Hải Phòng lên. Bà mang theo cậu út Lê Chúc, xách cái bị, chăm nuôi hai mẹ con suốt ba tháng trời.
Không may cho mẹ, thời gian đó có phong trào đánh nhóm Nhân văn giai phẩm. Ông ngoại tôi, nhà thơ Lê Đại Thanh, bị liệt vào hàng ngũ những người có cảm tình với nhóm đó. Và mẹ, con gái nhà thơ, đương nhiên bị ảnh hưởng.
Tại đoàn kịch nói Trung ương khi đó đã diễn ra sự kiện kiểm điểm phê bình mẹ, thực chất là đấu tố. Họ cố gắng “đào tận gốc trốc tận
rễ” để lấy thành tích, để chứng tỏ là những người tuyệt đối trung thành. Mặc dù là bạn bè văn nghệ sĩ với nhau, họ vẫn quay ra moi móc, tỉa tót những cái sâu xa về lý lịch.
Tất nhiên, mẹ chẳng bao giờ hé ra mình là con gái của một nhà thơ, nhưng rồi họ tìm thấy tập thơ ông ngoại tặng mẹ dấu dưới gối. Đó là cái cớ để họ đuổi việc mẹ.
Mẹ không thể nào quên cảnh bị trực tiếp đấu tố, phải trần mình ra cho đồng nghiệp moi móc, phải khai rằng mình là con của người dính líu đến nhóm Nhân văn Giai phẩm.
Cho dù sự thật không phải thể, mẹ bị ép buộc phải nhận. Họ lôi ra tập thơ của ông và kết tội mẹ giấu giếm tác phẩm phản động! Mãi đến năm ông 91 tuổi, Hội nhà văn mới mời ông lên, chính thức xin lỗi. Họ tuyên bố trước bàn dân thiên hạ rằng ông đã bị hàm oan! Bao nhiêu năm bị coi rẻ để nhận về hai tiếng hàm oan nhẹ bẫng! Suốt cuộc đời, ông viết bao nhiêu tác phẩm mà không được in. Cũng may, trước khi chết ông đã được thanh minh, được thanh thản, còn mẹ? Làm sao mẹ có thể nguôi ngoai nỗi oan mà vì nó, sự nghiệp của mẹ nửa đường đứt gánh!
Mẹ có lý khi cứ mở miệng là nói oán ghét chế độ. Cái chế độ là cha đẻ của những con người đã kết tội oan cho mẹ, đuổi mẹ ra khỏi đoàn kịch trong lúc con còn đỏ hỏn, không một lời xin lỗi! Đối với mẹ, đó là một đòn trời giáng, không chỉ mất nghề kiếm cơm, mà còn bị tách ra khỏi môi trường nghệ thuật mà mẹ vô cùng đam mê. Mất việc, đang nuôi con nhỏ, bà và cậu đã trở về Hải Phòng, chồng không giúp được gì, mẹ đơn thương độc mã lao vào cuộc chiến đấu kiếm sống.
Mẹ có nghề đan len từ đấy.
Trong đầu tôi luôn ghi nhớ hình ảnh mẹ đan len. Hai bàn tay thoăn thoắt không cần nhìn mũi kim đan. Mẹ đan len rất giỏi, đan mọi nơi mọi lúc, đan trong mọi hoàn cảnh. Đi họp cũng tranh thủ đan, mất tiền tiến thi đua cũng là vì đan. Không ai được phép làm việc riêng khi đang họp, nhưng vì nghèo nên tai vẫn giả vờ đang lắng nghe cấp trên, tay lại dấu dưới gầm bàn cặm cụi đan. Bao nhiêu cái áo len đã được đan ra một cách “chui lủi bất hợp pháp” như thế để biến thành gạo, dầu, mắm, muối đổ vào những cái dạ dày luôn rỗng của đàn con? Kể lại những ngày tháng gian khó ấy, mẹ không sao ngăn được nỗi buồn bã cay đắng. Mẹ để mặc cho sự tức giận trào dâng tuôn ra thành những lời xúc phạm. Tôi cho rằng, mẹ có lý do chính đáng cho nỗi giận dữ thường trực của mình.
Bị hất ra khỏi đoàn kịch Trung ương, sau một thời gian ở nhà, mẹ may mắn xin được về đoàn kịch Hà Nội. Lúc đó, mẹ là một người đàn bà mới 30 tuổi nhưng đã có ba mặt con, bên cạnh là ông chồng không mang về đồng nào, lại còn phải cung phụng nuôi nấng. Những ngày bom đạn, vừa phải đi làm, vừa phải chăm sóc chồng, lại vừa lo cho các con nơi sơ tán. Đến cuối tuần, với thân hình gầy gò, mẹ cứ đạp một cái xe trâu của nam giới, chở dầu, gạo, mắm, muối… lên nơi sơ tán. Giống như con kiến tha mồi, mẹ mải miết đi về trên những con đường thời chiến lầm bụi bởi những đoàn xe chở bộ đội đi ngang. Đôi khi, một bác tài nào đó động lòng trắc ẩn, dừng xe, bốc cả mẹ và xe tiếp phẩm lên cho đi nhờ.
Bươn chải đi về như con thoi lo việc cơ quan việc nhà nên thể lực của mẹ bị sa sút nghiêm trọng. Mẹ chỉ còn là một thân xác nặng ba tư cân. Còn gì là thanh sắc! Mẹ kể, có những lúc đang đứng tự nhiên ngã ngửa ra, xây xẩm mặt mày. Thì ra huyết áp yếu quá, lăn đùng ra ngất. Sau này, thấy tôi bị những cú ngất xỉu như thế khi đang trên sàn tập, mẹ bảo, đó là chuyện rất bình thường.
Trước tình trạng thảm hại của mẹ, người ta quyết định chuyển mẹ sang làm một việc khác, không cho lên sân khấu nữa. Với mẹ, đấy là cú trời giáng thứ hai. Đang là nghệ sĩ bị giáng xuống làm thủ quỹ! Mà mẹ nào có biết gì về tiền nong kế toán! Giữ tiền luộm thuộm. Phát lương nhầm lẫn lung tung. Thậm chí có lần suýt phải đi tù. Cứ thế này thì ăn cơm nhà đá lúc nào không biết. Mẹ sợ quá, đành xin nghỉ hưu mất sức, sự nghiệp biểu diễn coi như chấm dứt.
Năm đó, mẹ mới ngoài ba mươi.
***
Rất yêu chồng thì bị chồng phản bội. Rất yêu nghệ thuật thì bị nghệ thuật hắt hủi, hay nói cách khác, bị những hoàn cảnh, thời điểm khắc nghiệt của thời cuộc hất ra ngoài.
Trong chuỗi bất hạnh đời mẹ, bất hạnh nào cũng ghê gớm, nhưng là phận đàn bà thì không gì bất hạnh bằng tình duyên không thành. Chứng kiến những cuộc ghen tuông cãi lộn của bố mẹ với không thiếu những lời nói lăng mạ nhau, mạt sát nhau, tôi đi đến kết luận: cả hai đều có lỗi. Không thể bênh được ai. Và tôi cứ âm thầm đau đớn tự hỏi: tại sao đã không còn dành cho nhau một chút tôn trọng nào, không còn yêu nhau nữa mà bố mẹ không bỏ nhau đi lại cứ hành hạ nhau như thế? Nếu bỏ nhau sớm, sẽ bớt đi được một chút những tháng ngày chỉ tràn đây chửi rủa và lăng nhục, có phải hơn không!
Nghĩ về mẹ, tôi lại nhớ đến mẹ cô Merghi trong cuốn tiểu thuyết Tiếng chim hót trong bụi mận gai. Người đàn bà ấy cũng có bao nhiêu là nỗi niềm. Tại sao bà luôn giữ khoảng cách hận thù với con gái, không bao giờ tỏ ra hiền hòa dịu dàng với cô? Mãi đến cuối phim mới hiểu. Bà lấy chồng không phải do tình yêu. Bà lấy chồng vì
đã có mang với người tình bội bạc và cũng vì người đàn ông ấy quá yêu bà, sẵn sàng chấp nhận đứa con không phải của mình. Đó là một người đàn bà đã dấu kín, chôn chặt bi kịch của mình vào bên trong, chấp nhận cuộc sống vô hồn để vươn lên mạnh mẽ đầy nghị lực. Mẹ cũng vậy.
Mẹ vẫn luôn cố gắng gượng dậy sau mỗi đớn đau để làm việc, nuôi con. Nước mắt chảy xuôi. Người mẹ nào cũng mong làm tất cả những gì có thể cho con cái. Có lẽ vì thế, trời đã không lấy hết mà cho lại mẹ một niềm an ủi là ba đứa con gái. Ít nhất, trong chuỗi bất hạnh của cuộc đời, về già, mẹ cũng đã có được chút niềm vui. So với bạn bè cùng lứa, không phải người nào con cái cũng thành đạt cả, được người nọ hỏng người kia, mẹ được cả ba. Các con gái mẹ không chỉ thành người chứ không “thành ngợm”, lại còn thành một cái gì đó hơn người. Ba chị em tôi đã phần nào bù đắp được những thiệt thòi của mẹ. Chẳng làm được gì cho mẹ lúc tuổi trẻ, giờ đây, khi đã trưởng thành, chúng tôi đã không làm mẹ phải hổ thẹn.
Mẹ kể, đi đến đâu bạn bè cũng khen mẹ là người có phúc, có công sinh thành được ba cô con gái, từ học hành đến ra làm nghề đều suôn sẻ, đều là người thành đạt, tử tế. Đặc biệt, khi các con thành gia thất, sinh con đẻ cái, xây nhà xây cửa, bố mẹ cũng không phải lo lắng gì.
Mẹ không giấu niềm tự hào: “Tôi vẫn nói với bạn bè rằng tôi hơn hẳn họ, bởi ba đứa con gái của tôi, nó hoàn toàn đi lên bằng chính đôi chân của nó chứ không phải luồn cúi một ai, không phải đi bằng đôi chân của người khác”. Với kinh nghiệm của mình, mẹ quá hiểu, cái giá phải trả cho một “sự nghiệp thành công” của ai đấy nhiều khi nó là cái gì?
***
Mẹ có công sinh thành ra mình thì mẹ có quyền tự hào về mình, mặc dù, xét về mọi khía cạnh, tôi không hợp mẹ. Mẹ không thể nào hiểu được là mẹ đã sinh ra một đứa con bất hạnh, đứa con ấy cả đời thiếu hụt một lời xưng mẹ gọi con ngọt ngào như thế nào. Không biết là do đâu mà mối quan hệ mẹ con lại thành ra như thế. Đáng lẽ, con gái thì phải gần gũi mẹ, chia sẻ những đau buồn của mình với mẹ, nhưng với tôi, đó là điều không thể. Không dễ dàng để bộc lộ bất kỳ một điều yêu thương nào.
Mãi gần đây tôi mới được mẹ xưng là mẹ, gọi là con. Điều đó xảy ra khi tôi giải quyết được mối mâu thuẫn mà vì nó, mẹ từng tuyên bố “Không có mẹ con bà cháu gì hết”.
Ngay từ nhỏ, bằng bản án li hôn của bố mẹ mà tôi chẳng tìm thấy tên tôi trong ấy, (tôi chẳng thuộc về cha, cũng chẳng thuộc về mẹ), tôi đã bị đẩy ra bên lề cuộc sống gia đình rồi, khi mẹ tuyên bố như thế, khác nào đẩy tôi xa thêm! Có lẽ điều đó lý giải vì sao, trong trí nhớ tôi không đọng lại một chút ngọt ngào ân tình nào từ mẹ. Có thể mẹ đã từng vô cùng trìu mến với tôi, đứa con gái đầu lòng của mẹ, khi tôi mới được sinh ra. Ít nhiều gì mẹ cũng đã dành cho tôi những tình cảm dịu dàng chứ! Tiếc là khi đó tôi không thể cảm nhận nổi. Và ngay cả bây giờ nữa cũng không. Việc không cảm nhận được tình mẹ, phải khẳng định là do mặc cảm của tôi thôi. Tôi chỉ biết trách mình. Cuộc tình của bố mẹ ngắn ngủi quá, tan tác sớm quá, phải chăng vì thế, trí óc tôi chỉ lưu lại những khoảng tối của đời sống gia đình. Ký ức đau buồn ấy không qua được, khi lòng người chưa tha thứ được thì không thể giả dối làm như đã quên, đã tha thứ.
Bây giờ, có lẽ mẹ đã hiểu vì sao mẹ phải đứng chữ Mậu. Sô kiếp mẹ phải bị cô quả. Cô quả từ thủa đầu còn xanh, lấy một ông chồng trẻ con, có cũng như không, cô quả cho đến khi về già, khi cô út
theo chồng sang định cư ở Pháp, mẹ lại sống một mình. Một mình ra vào, một mình ăn ngủ. Về già mà phải một mình như thế chẳng phải là bất hạnh sao? Bên ngoài, mẹ vẫn tỏ ra yêu đời vui cười nhưng chắc rằng bên trong, mẹ tự cho mẹ là người bất hạnh nhất.
***
Trong những đêm tĩnh lặng một mình, nêu có âm thầm tự nhận định về đời mình, có lẽ mẹ đã nhận thấy sự cô đơn là có thật. Nói ra điều này, chí ít, tôi muốn chia sẻ nỗi bất hạnh của mẹ. Tiếc là vào những giai đoạn sóng gió nhất trong đời mẹ, tôi đã chẳng giúp được gì vì còn quá nhỏ. Giờ tôi đã hiểu và muốn được thông cảm với cuộc đời không nhiều niềm vui của mẹ…
Tôi sẽ giữ mãi trong tim hình ảnh bàn tay mẹ thoăn thoắt đan áo, cơm.
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 3: Diễn Với Đời
Một trong hai người đàn ông có ảnh hưởng nhiều nhất đến cuộc đời tôi là bố. Phải chăng đó cũng là lẽ tự nhiên. Bởi bố chính là người khác giới đầu tiên tôi được tiếp xúc. Nếu những hồi ức về mẹ cứ ào ạt tràn về với bao xót thương chia sẻ thì với bố, hầu như chẳng đọng lại điều gì ngoài một sự trách móc âm thầm.
Sinh ra trong một gia đình chính gốc Hà Nội, có sáu anh chị em, chỉ riêng bố được trời phú cho cái duyên sân khấu. Với khả năng thể hiện thành công sự đa dạng của các loại vai diễn từ hài kịch đến bi kịch, ông sớm nổi tiếng, tạo nên một cải tên được nhiều người nhớ và hâm mộ trong giới sân khấu Việt Nam. Với 50 năm lao động nghệ thuật, không thể phủ nhận bề dày những đóng góp của ông cho sân khấu kịch nói Việt Nam. Nhưng tiếc thay, ông chưa từng đóng tốt một vai không kém quan trọng trong đời một con người, đó là vai Người Chồng, Người Cha trong gia đình. Kiếp nghệ sĩ của ông đã khép lại, lạ thay, cũng giống như những gì ông mang đến cho đời, nghĩa là, một kết cục thật bi - hài!
Bố trong mắt tôi - bé gái, tôi - thiếu nữ và bây giờ, tôi - thiếu phụ… vẫn thế, vẫn không một ấn tượng tốt đẹp. Cả một đời nghệ sĩ, bố chưa hề mang về cho mẹ tôi được một tháng lương tượng trưng. Cứ đến cuối tháng, khi cái nghĩa vụ làm chồng làm cha ấy bị “sao lãng”, mẹ lại bảo khẽ các con: “Nhắc bố đưa tiền ăn cho mẹ”. Và những lúc túng quẫn quá, giận dữ bốc lên, mẹ gọi bố là “thằng hèn”.
Một thằng đàn ông mà không nuôi nổi vợ con thì chỉ là một thằng hèn!
Với đời, bố là người nổi tiếng, tài hoa. Đặc biệt, bố rất có duyên trong mắt phái đẹp, những con thiêu thân lao vào bố không cần tính toán, chỉ cần dâng hiến. Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác. Cứ thế, bố đắm chìm trong những cuộc tình triền miên từ trẻ cho đến tận bây giờ…
Nhiều năm dài, hình ảnh bố bôi đậm nét vào tâm trí tôi cái quan niệm rất méo mó một chiều về người khác giới. Không có người đàn ông nào tốt đẹp trên đời. Đàn ông chỉ là những kẻ sẵn sàng đuổi theo thú vui của mình mà quên vợ quên con. Càng lớn, tôi càng phát hiện ra: còn có rất nhiều người đàn ông như bố. Xin lỗi các đấng mày râu, đơn giản là, dù các vị có tài đến giời, có nổi tiếng đến giời thì ít nhất, đầu tiên, các vị cũng phải có trách nhiệm với gia đình đã, bằng không, xin đừng có gia đình nữa. Ừ thì anh có thể bạc tình với vợ, nhưng còn trách nhiệm với con? Nhiều người đàn bà giả mù, tặc lưỡi cho qua đời mình bằng một giao kèo nhiều tinh thần hi sinh nhưng cũng không ít ngu xuẩn rằng: miễn ông chu toàn nuôi con ăn học, tôi sẵn sàng chấp nhận sự ngoại tình của ông. Không hiểu từ đâu, từ bao giờ mà mà cái sự “ngậm bồ hòn làm ngọt”, biết chịu nhục, biết hi sinh lại trở thành những phẩm chất luôn được ca tụng ở đàn bà xứ Việt.
Nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra các cuộc cãi vã thường xuyên giữa bố mẹ chỉ vì tính trăng hoa bồ bịch và thói vô trách nhiệm của bố. Bố có bao giờ biết nỗi đau của đứa con gái nhỏ là tôi? Một nhân chứng bất đắc dĩ của những màn diễn bi - hài trên sân khấu cuộc đời của hai người. Tôi chỉ biết nhắm mắt, bịt chặt tai để khỏi nghe thấy những từ thóa mạ trong cuộc cãi nhau: “Đồ đểu,
đồ đểu, đồ đểu! Con người đểu và cuộc đời này cũng đểu. Đểu tuốt!”.
Đểu tuốt. Đểu tuốt. Đểu tuốt.
Với con mắt trẻ thơ, tôi luôn đứng về phía mẹ. Bây giờ, khi đã trưởng thành, tôi lại cảm nhận một nỗi đau khác lớn hơn, sâu thẳm hơn, đó là nỗi đau của bố, của một nghệ sĩ tài ba nhưng không nuôi
nổi bản thân mình đừng nói gì đến nuôi nổi vợ con.Đó là nỗi đau của kẻ bị đẩy ra khỏi ngôi nhà của mình để rồi trở thành kẻ đi thuê nhà suốt đời! Cả đời ông chẳng biết luồn cúi, xoay xở, xin xỏ ai ngoài việc đi làm trò cười mua vui cho thiên hạ cả trên sân khấu lẫn bên bàn nhậu. Cho quên đời. Tài năng của ông không mảy may mang lại no ấm cho vợ con gia đình. Và ông cảm thấy mình là người vô dụng trong nhà. Nỗi bất lực ấy, ông trút ra trong một câu tự giễu mình: “Ra đường thiên hạ quí tao như Vàng. Ở nhà chúng mày coi tao như Cứt”.
Bây giờ vẫn thế, bước chân ra khỏi nhà, ông vụt trở thành con người khác hẳn. Linh hoạt, trẻ trung, hào hoa và cả phóng khoáng nữa. Thiên hạ lúc nào cũng yêu chiều ông, quí mến ông, một nghệ sĩ duyên dáng tếu táo bên bàn nhậu.
Thiếu ông, cuộc nhậu dường như kém vui. Ở nhà chỉ xưng mày tao với con, nhưng khi có người ngoài, lập tức ông trở thành một người cha khả kính, bố bố con con cực kỳ ngọt ngào độ lượng, khiến chính tôi cũng cảm thấy một nỗi ngượng ngùng sâu thẳm. Sự biến cải đột ngột ấy ở ông khiến tôi đôi lúc tự hỏi: Có hai con người rất khác nhau trong một con người là bố mình ư? Đâu là con người thật, đâu là con người giả? Hay đấy vẫn chỉ là Diễn với Đời?
Có thể tôi đã thiển cận, đã có lỗi khi vẫn âm thầm trách móc bố mình, nhưng tôi không thể nào nói khác sự thật lòng mình được. Không hiểu từ đâu đó trong sâu thẳm, bằng sự nhậy cảm nào đó, bố có hiểu cho tôi một điều rằng tôi không thể nào buông một lời nói tình cảm với bố được. Nói ra như thế sẽ là giả tạo. Có một cái gì đó cứ ngăn tôi lại. Cho nên tốt nhất là tôi tránh đi. Tôi muốn mang lại cho bố một tuổi già không cô đơn, và ấm cúng bên con cháu. Tôi nói với bố: “Bố có tự do của bố. Bố muốn mời ai đến chơi tùy bố. Khi nào trái nắng trở trời, cần bất cứ điều gì đã có con bên cạnh”. Tất cả con cháu họ hàng, các anh chị con các bác đều công nhận: “Vân nó làm được như thế là đã xứng đáng với trách nhiệm của một người con cả trong gia đình rồi”. Chỉ riêng cái sự thực rằng tôi không yêu bố thì tôi giữ nguyên lại trong lòng mình. Sau đây, khi bố biết được tâm sự thật tình cảm của tôi như thế, chắc rằng bố cũng không thể trách con gái, bởi dù sao, tôi cũng đã nói thật. Tôi là vậy - không yêu thì không thể nói là yêu. Ngược lại, bố có yêu tôi không? Tôi chẳng bao giờ biết được bởi cũng chẳng bao giờ bố gần gũi, thổ lộ để tôi có thể hiểu được tận cùng. Nhưng chí ít, tôi cũng chia sẻ được với ông nỗi đau lớn lao hơn nhiều - nỗi đau đời.
Với phận làm con, tự đáy lòng mình, tôi muốn được xin lỗi bố vì tất cả những mặc cảm mẻo mó về bố trong tôi. Và tôi thầm nghĩ: Chắc gì mình đã hiểu về bố.
***
Thời gian giúp cải thiện mối quan hệ bố con, nhưng sâu thẳm bên trong tôi thấy càng ngày càng xa. Tôi không thể quên được lần vượt cạn thứ hai, có bố bên cạnh mà cũng như không, vẫn cứ một thân một mình. Bác sĩ tính ngày tháng nói tôi khoảng tháng nữa mới sinh. Anh ấy lên kế hoạch về trước một tuần để đưa tôi đi sinh, rồi ở
lại với ba mẹ con thêm một tuần nữa. Ngờ đâu, khoảng 8 giờ sáng hôm ấy, một ngày cuối tuần, tôi dắt con trai Avi cùng bác Dần ra ngõ ăn sáng. Tay vẫn cắp cái rá, tôi định tranh thủ ra chợ mua rau. Đang lưỡng lự nhìn quanh không biết ăn gì, bánh cuốn hay là bún ốc nhỉ? Bỗng thấy ục một cái. Một lượng nước ấm xối ra ở phía dưới. Linh cảm thấy điều bất thường, tôi bảo bác giúp việc cứ cho cháu ăn tiếp, tôi về nhà ngay xem có chuyện gì không. Về đến nhà, vào toilet, thấy bao nhiêu là nước. Vẫn kịp nghĩ phải hết sức bình tĩnh. Bằng mọi cách phải vào bệnh viện nhanh nhất. Tôi điện thoại báo cho bác sĩ là tôi cần được cấp cứu vì ối vỡ rồi. Xin bác sĩ hãy chờ. Quay ra, vơ vội áo quần tiền nong giấy tờ. Trời rét mướt. Mưa phùn lạnh. Chợt nhớ lần trước đi khám cấp cứu thằng bé lớn, họ giữ lại luôn khi chưa kịp ăn gì khiến tôi bị đói suốt cả một ngày đêm. Lần này, đến cổng bệnh viện, dứt khoát là tôi phải nhớ mua mấy hộp sữa và cái bánh mỳ để phòng thân vì tôi chẳng có ai cả.
Lại nghĩ gọi tắc xi thì phải đi bộ từ trong ngõ ra, rồi tắc xi không được phép đi ngược chiều, nó lại phải đi vòng lên đường Bưởi cũng rất mất thời gian. Có lẽ gọi bác xe ôm hàng xóm là tốt nhất, cứ việc ngồi lên xe từ trong ngõ đi ra. Con trai tôi ăn sáng về. Tôi nước mắt ngắn dài chia tay với thằng bé ba tuổi. Không biết đi có được về không? Có mệnh hệ gì không? Trời âm u ám xịt làm tình cảnh càng thê lương, cứ như thể là chia tay nhau để đi vào chỗ chết. Đúng lúc ấy bố tôi xuất hiện.
Bố vừa ngủ dậy. Ông dừng đứng lại ở bậc thềm nhà, nhìn tôi tay xách nách mang đứng cách đó vài bước chân. Thế mà, hình như bố không nhìn thấy gì. Bố cứ đứng giữa bậc thềm, nhìn mọi người bằng đôi mắt đục ngầu, vô cảm. Hoàn toàn vô cảm như một người dưng. Tôi thèm nghe bố hỏi một câu “Con ơi, con làm sao thế? Để bố chở con đi. Hay bố đi cùng, để nhỡ chẳng may có xảy ra chuyện
gì khẩn thiết, còn có người thân của gia đình ứng giúp”. Nhưng khốn khổ thay, bố đã không có một lời hỏi thăm nào chứ đừng nói đến chuyện chở đi. Bố chỉ đứng đấy nhìn trân trân với ánh mắt đục ngầu, ngái ngủ.
Tất cả rơi vào im lặng, tôi nghe lòng mình đau rát như xát muối. Đã thế, tôi sẵn sàng đi đẻ một mình! Tôi bảo bác xe ôm chở đi luôn, hai hàng nước mắt theo tôi suốt dọc đường từ nhà đến bệnh viện…
Sau khi một mình chiến đấu với cơn vượt cạn không người thân thích, lúc đã mẹ tròn con vuông, tôi báo về nhà cho bác Dần mang bé Avi vào. Chiều, cô Khanh vào thăm trách sao không báo, lỡ có chuyện gì thì còn có người nhà lo cho. Tôi cay đắng nghĩ đến bố, nên chỉ bảo: “Báo làm sao kịp, lúc ấy mà báo cho cô, rồi lại phải đợi cô đến mới đưa đi thì làm sao kịp. Cái nào là quan trọng hơn? Tốt nhất là vào viện càng nhanh càng tốt”. Tôi không nhắc gì đến thái độ của bố.
Có lẽ tôi là người cố chấp, nhưng cảm thấy khó có thể quên đi buổi sáng hôm đó. Tôi đâu phải là người không biết điều, vẫn phụng dưỡng bố, chăm sóc bố như thế, mà lúc mình lâm nguy, sao bố lại có thể vô cảm đến như vậy? Sau chuyện này, tôi thấy càng ngày càng xa cách hơn với bố. Phụng dưỡng là bổn phận, còn tình yêu chắc không có. Không thể có. Về phía bố, có thể bố có lý do nào dấy trong cách hành xử của mình, nhưng theo tôi, bố chẳng có lý do nào cả để bào chữa cho thói vô tình. Sau này tôi cử nghĩ mãi, không hiểu vào hoàn cảnh tương tự, những người cha khác sẽ hành động như thế nào? Bố là người gần mình nhất mà còn vô cảm như thế thì báo cho những người khác làm gì? Có khi lại phải đau đớn hơn, bẽ bàng hơn?
***
Là nghệ sĩ, là người trong giới nghệ thuật, nhưng quan trọng hơn, bố là một người chồng, một người cha. Bằng những quan sát tuy còn rất non nớt của một đứa con gái mới chục tuổi đầu, trong tôi đã hình thành nên một ý nghĩ, mới đầu mơ hồ nhưng ngày càng rõ
rệt, và đúc kết lại thành một lời thề: Không bao giờ yêu và lấy làm chồng một người “nghệ sĩ” kiểu như bố, thậm chỉ, không bao giờ lấy người làm nghệ thuật. Tôi ước mong người đàn ông của mình phải biết thương yêu tôi, cùng tôi chia xẻ ngọt bùi, đắng cay, cùng tôi nuôi dạy con cái và giữ gìn tổ ấm gia đình. Có quá không những ước mơ giản dị ấy? Có quá không những khao khát rất đỗi đời thường ấy? Chắc là không, có phải không hỡi những người vợ, người mẹ, người đàn bà trên thế gian này?
Sớm nổi tiếng, sớm được những người mến mộ tìm đến với mình, bố tôi hình như chỉ quen được tận hưởng và đón nhận. Ông đón nhận sự chiều chuộng của mọi người như điều đương nhiên phải thế. Nhưng trong cách cư xử của ông với bạn bè, với những người thân trong gia đình, tôi có cảm giác ở ông thiếu hẳn đi cái ân tình, sự chia sẻ. Ông không biết cho mà chỉ quen nhận. Ông không biết đến niềm vui hạnh phúc của người biết mang niềm vui hạnh phúc cho kẻ khác. Ông quen được quan tâm chăm sóc đến nỗi quên cả việc đôi khi cũng cần phải biết chăm sóc lại người khác. Sự ích kỷ chăng? Có thể. Sự vô cảm chăng? Nhiều phần đúng hơn. Lẽ nào ông Trời vì đã cho ông cái duyên tài mang đến cho đời niềm vui mà lại lấy đi của ông cái niềm hạnh phúc biết chia sẻ, ân cần với những người thân yêu ruột thịt?
***
Bố có thể rất nổi tiếng trong thiên hạ, tiếc là, bố chưa bao giờ “nổi” trong mắt tôi. Phải thành thật mà nói như thế cho dù bố có
giận. Cũng có thể vì tôi là đồng nghiệp của bố, nên tôi có cái nhìn khắt khe hơn. Hay bởi vì, những cái chưa được của bố là quá lớn?
Kết quả một đời làm nghệ thuật của bố là danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân và hai bàn tay trắng. Bố về hưu, cả đời mới chắt chiu dành dụm được một chút hòng lo cho phần hậu sự đời mình, ai ngờ lại bị kẻ trộm nẫng sạch.
Ngẫm lại cuộc đời của bố, phải chăng cái sự thật tay trắng lại hoàn trắng tay là kết cục tất yếu của một kiếp người mang nghiệp Diễn với Đời!
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 4: Từ Nhỏ, Tôi Đã Biết Cất Giữ Một Bí Mật Gia Đình…
Ngay từ hai, ba tuổi, tôi đã luôn phải chứng kiến sự xô sát, mối bất hòa, đúng hơn là sự cắn xé, hành hạ, đầy ải nhau giữa hai bố mẹ. Tôi cứ âm thầm một câu hỏi, họ sống khổ như vậy, bất hạnh như vậy mà sao không bỏ nhau, cứ phải sống với nhau để làm gì? Nhất là khi họ không còn yêu nhau nữa. Đó là một câu hỏi mà tôi không biết hỏi ai, càng không bao giờ dám hỏi bố mẹ.
Cho đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ lại thời thơ ấu, ấn tượng mạnh mẽ nhất, ám ảnh nhất trong tôi, tiếc thay, chỉ là hình ảnh bố mẹ cãi nhau. Không hiểu tại sao họ thường thích cãi nhau vào ban đêm. Có lẽ vì họ nghĩ rằng lúc đó con cái đã ngủ say và chẳng biết gì chăng? Một đêm, tôi tỉnh dậy trong tiếng gào thét của mẹ. Cái bóng mẹ trắng, rất gầy. Đó là bóng trắng của cái áo hay là thân thể mẹ tôi không rõ. Mẹ gầy lắm. Chỉ nặng có ba tư cân. Mẹ suy nhược cơ thể và tinh thần một cách trầm trọng. Không còn thanh sắc, mất việc làm. Mẹ không nhờ cậy được ở bố bất kì điều gì kể cả kiếm tiền lẫn nuôi dạy con cái. Hoàn toàn một tay mẹ gánh vác gia đình, đan len thuê hoặc làm bất kỳ việc gì có thể để kiếm sống nuôi con. Bố chỉ nhởn nhơ kéo bạn về nhậu nhẹt và bồ bịch.
Không hiểu sao mẹ có thể vượt qua được cái thời kỳ khủng hoảng ấy. Mẹ quả là đáng kính phục. Người khác vào hoàn cảnh đó chắc phải tự tử từ lâu rồi.
Đêm đó như rất nhiều đêm khác, tôi bị tỉnh dậy thấy cái bóng gầy mỏng của mẹ đang cố lao vào tường. Mẹ muốn đập đầu cho đến chết. Trong cơn điên loạn tuyệt vọng, mẹ muốn chết thật. Mẹ chẳng dọa đâu. Có thể lúc tỉnh táo, mẹ không dám chết. Nhưng trong cơn điên của sự ghen tuông, của nỗi đau đời, mẹ có thể làm liều lắm chứ. Bố cố ôm chặt mẹ ngăn chặn hành động điên rồ ấy. Bố sợ. Nếu mẹ liều chết thật, các con của bố sẽ mất mẹ và có thể bố còn sợ một điều gì đó sâu xa hơn nữa…
Sáng ra, áo mẹ rách toạc, trên người bố đầy những vết cào cấu cắn xé. Đó chỉ là kết quả của một đêm trong rất nhiều đêm trường địa ngục…
***
Không hiểu sao, ngay từ nhỏ, tôi đã đủ khôn để cất giữ một bí mật. Cái bí mật kinh hoàng tôi tình cờ nghe thấy bố mẹ bột phát ra vào một trong những đêm cãi nhau tăm tối. Cái sự thật làm tôi vô cùng sợ hãi và lo âu. Tôi đã gần như không ngủ cả đêm ấy để chỉ chờ đêm qua đi. Sáng ra, tôi khóc ôm lấy Khanh, thương Khanh vô cùng. Tôi bảo, lớn lên chị sẽ kể cho em nghe một sự thật…
Như tôi đã nói, nguyên nhân chủ yếu những lần cãi vã của bố mẹ là do ghen tuông. Không chỉ mẹ ghen bố mà cả bố ghen mẹ nữa. Họ ghen lẫn nhau. Mẹ không thể chịu đựng cảnh bố luôn có những người đàn bà khác, mẹ cũng cần phải có niềm an ủi cho mình chứ! Và trong một lân cãi nhau vì ghen tuông ấy, bố nói thẳng ra rằng: Khanh không phải là con của bố, mà là con của một người đàn ông khác, một người yêu nào đấy của mẹ. Tôi nghe thấy thế và suy diễn, thảo nào, trong bản án li hôn của bố mẹ, bố nhận nuôi Vi mẹ nhận nuôi Khanh! Theo lẽ thường, khi chia con, đứa con nhỏ hay được ở với mẹ chứ không phải là đứa con lớn.
Giờ tôi lại nghĩ khác. Tôi băn khoăn, liệu những gì tôi nghe đêm đó có phải là sự thật? Và như vậy, tôi có nên kể lại cho em gái nghe một câu chuyện mà chính mình còn đang đặt nhiều nghi vấn? Mặc dù nhiều lần Khanh gặng hỏi: “Bây giờ chúng mình lớn cả rồi, chị bảo sẽ nói với em chuyện gì đó thì nói được rồi đấy”.
Có thể, điều đó là vô căn cứ, trong lúc ghen tuông thì bố nói vậy thôi. Tất nhiên là mẹ phủ định. Nhưng lúc đó tôi tin là thật và hoảng sợ lắm. Thế rồi, thời gian vùn vụt trôi.
Khanh lớn lên ngoan ngoãn, hiếu thảo, yêu thương cả hai ngựời. Bây giờ, Khanh lại đang rất thành công, chẳng ai lại từ chối một người con như thế!
Có thể, bằng linh cảm của người mẹ, mẹ biết chắc chắn Khanh là con ai. Nhất định mẹ phải biết, nhưng chẳng ai đủ can đảm hỏi mẹ. Và có hỏi, chẳng bao giờ mẹ nói. Nếu như dấy là lỗi lầm của mẹ thời trẻ thì mẹ lại càng không dám cho con cái biết. Tâm lý người mẹ là thế. Muốn cho qua thì tốt hơn, cũng có thể, ngoài xã hội, họ đồn thổi chuyện này là thật. Và cũng có thể, Khanh đã biết câu chuyện mà tôi cứ tưởng là bí mật thời thơ ấu của riêng mình. Kể cũng lạ, có những bí mật, ngay cả những bí mật về bản thân mình, đôi khi ta cứ tưởng chỉ mình ta nắm giữ, hóa ra ai cũng biết. Lại có những bí mật về những người ngay cạnh ta, nhưng ta lại là người biết sau cùng. Có lẽ, điều ta biết về ta vẫn là chính xác nhất, cả công lẫn tội, cả cái được lẫn cái chưa được.
Nhưng tại sao bố mẹ tôi vẫn cứ sống với nhau để tiếp tục làm khổ nhau? Chính vì hoàn cảnh gia đình như vậy, nên khi nhìn những người nghệ sĩ, những bạn bè gia đình làm nghệ thuật, tôi thường chỉ
nhìn thấy cái mặt trái của nó. Cái nhìn của tôi trở nên rất một chiều trong suốt một thời gian dài.
***
Bố mẹ li dị. Căn phòng 24 mét vuông được chia làm đôi bởi một tấm vách tre mỏng manh. Làm gì có tiền mà xây ngăn cho kiên cố, cho riêng biệt. Bố ở bên trong, mẹ bên ngoài. Ba đứa con gái rúc cả vào với mẹ. Cơm nước hàng ngày, các con vẫn nấu rồi mang sang cho bố ăn. Đương nhiên là bố không thể nào tự nấu ăn cho mình. Thấy bố ăn một mình tội nghiệp, vả lại cũng lười mang sang, các con lại rủ bố về ăn cùng cho vui. Thế là lại vun vén hai người quay lại với nhau, trở lại cuộc sống lùng nhùng hơn, phức tạp hơn, địa ngục trần gian hơn.
Dù bỏ nhau về mặt pháp lý nhưng bố mẹ vẫn đi lại qua vách ngăn mỏng mảnh ấy, nghĩa là họ lại trở thành của nhau, nghĩa là họ vẫn có quyền ghen. Ghen tuông ngoài pháp luật. Giá một trong hai người có thêm một chỗ ở khác, tách hẳn nhau ra, biết đâu bố mẹ lại có điều kiện để tìm được một nửa thực sự của đời họ! Cuộc sống bùng nhùng như thế mãi làm mẹ không chịu đựng nổi. Nhà có một cái bếp 5 mét vuông, mẹ chuyển xuống đó ở, tách hẳn ra khỏi bố. Mẹ cơi thêm một tầng nữa. Mẹ ở bên trên bên dưới vẫn là cái bếp của cả nhà. Mẹ có một cái cầu thang nhỏ, chỉ cần leo lên trên để ngủ.
Họ thực sự tách nhau từ đấy. Từ đấy, mẹ cũng chẳng quan tâm đến việc bố có ai không. Không có chuyện ghen tuông nữa, có lẽ vì khi đó con cái đã lớn. Mẹ âm thầm chịu đựng, chẳng bao giờ tâm sự với con cái một điều gì. Hình như trong gia đình tôi, mỗi người là một thế giới. Không ai có nhu cầu tâm sự với ai cả. Có lẽ mọi người sợ chạm đến nỗi đau của nhau chăng?
Qua cuộc hôn nhân “tách nhập, nhập tách” của bố mẹ, tôi rút ra một bài học, rằng những đứa con không nên ích kỷ khi tham gia vào
chuyện của bố mẹ, cố tình vun vén vào cho họ. Về phía bố mẹ, một khi không còn tình yêu nữa, họ chẳng nên níu kéo làm gì. Nhiều người có thiện chí, để cho những đứa con khỏi bị chia lìa, họ đành hi sinh nốt quãng đời còn lại. Nhiều người sợ dư luận nhìn vào, họ tạo ra một cuộc sống gia đình êm ấm giả tạo và bảo đấy là vì con cái. Thật ra, đó là một cách sống rất không văn minh.
Bố mẹ nên nhìn thẳng vào sự thật, khi không còn tình yêu nữa, nghĩa là họ chẳng còn gì. Bố mẹ nên tỉnh táo nhận biết rằng, nếu tiếp tục sống như vậy, chính lại làm đau những đứa con. Chúng đủ thông minh nhạy cảm để hiểu rằng bố mẹ đang sống giả dối, đang cố tạo nên một cái gia đình giả. Toàn là diễn với nhau cả thôi. Như thế, họ vô tình dạy những đứa con sống giả dối. Rõ ràng là bố mẹ chẳng hạnh phúc gì, chỉ toàn là giả vờ thôi. Khi khách khứa về rồi, bạn bè về rồi, chỉ còn lại người trong gia đình với nhau mới thấy thật sượng sùng. Tốt hơn nên cắt đứt một lần, bản thân họ đỡ phải hành hạ nhau, lại đỡ khổ cho những đứa con. Sau này, khi con cái trưởng thành, chúng bảo thẳng, chúng con đâu cần cái sự hi sinh ẩy của bố mẹ! Tại sao bố mẹ lại khổ thế. Bọn con có cuộc sống của mình. Phải hiểu được đó là qui luật của cuộc sống. Ai sống đời của người ấy…
Phải chăng cũng vì quan niệm ai sống đời người nấy nên khi con gái lấy chồng, bố mẹ không có lấy một chỉ vàng cho con, cả ba đứa đều thế. Một chỉ vàng không phải mang giá trị vật chất, mà là một kỷ niệm. Không phải vì họ nghèo khó, mà vì họ không hề nghĩ đến. Không hiểu sao lại thế. Có lẽ bố mẹ không đủ sâu sắc để nghĩ rằng các con họ cần điều ấy thế nào. Họ không làm được cái điều giản dị hết sức tình cảm ấy, bởi từ đáy lòng, họ không nghĩ như thế. Rất đơn giản thôi, tôi cứ mơ ước rằng, mẹ sẽ nói: “Con ơi, nay các con đi lấy chồng, bố mẹ chẳng có gì cho con làm của hồi môn, thôi thì
nhận lấy cái nhẫn này làm kỷ niệm”. Nửa chỉ thôi cũng được, như là sự tượng trưng cho tình cảm giữa mẹ và con gái.
Cũng không thể có. Không thể nói như thế. Không thể làm được Mà đúng thật, cái điều thiêng liêng ấy, nó phải xuất phát từ tình cảm, chứ không ai dạy bảo, khuyên cho ai làm như thế được.
Và bố mẹ tôi chỉ việc tự hào rằng cuộc sống của họ có hậu hơn người khác, hơn bạn bè rất nhiều. Ngoảnh lại, thấy tất cả các con đều trưởng thành, có gia đình, có sự nghiệp vững vàng. Cứ thế học hành, đi làm, không phải xin xỏ ai, ra trường đã có những đoàn tốt nhất xin về. Cuối cùng, tự các con nỗ lực rồi cũng ổn hết. Cả ba chị em đều nhà cửa con cái đàng hoàng. Đương nhiên bố mẹ cảm thấy mình là người có phúc.
***
Từ nhà Hộ sinh, tôi được đón về căn nhà đầu tiên ở 136 phố Quan Thánh. Tôi muốn nhấn mạnh địa chỉ này vì đó chính là nhà của ông nội để lại cho con cháu. Ông nội ra đi đột ngột khi mới 52 tuổi. Bác Đoàn kể: ông đang ngồi đánh tổ tôm thì đổ vật xuống và ra đi mãi mãi không một lời trăng trối. Bố tôi lúc đó mới 15 hay 16 tuổi đời, là con út trong 6 anh chị em. Khi bố lấy mẹ, hai người được dành cho một phòng nhỏ trong ngôi nhà chung của ông để lại. Đó là lý do để mỗi khi cãi vã, bố lại đuổi mẹ đi…
Bỗng một ngày của năm 1962, không hiểu sao tất cả các bác và bố mẹ bị đẩy ra khỏi ngôi nhà ông nội để lại, bị phân tán đi đến nhiều địa chỉ khác nhau. Từ chỗ là chủ nhân, họ biến thành những kẻ đi thuê nhà của nhà nước để ở. Ngôi nhà của ông nội trở thành một trụ sở gì đó. Bố mẹ tôi chuyển về số nhà 20 Phan Đình Phùng. Khi đó tôi vừa tròn 4 tuổi.
Đó là một căn phòng rộng 24 mét vuông thuộc ngôi biệt thự Pháp cổ. Có mỗi một cái nhà vệ sinh công cộng lại luôn bị long cánh cửa. Cái cánh cửa thủng trên thủng dưới. Chẳng ai bận tâm. Cha chung không ai khóc. Không ai muốn góp tiền góp sức để sửa cái cánh cửa đó. Nó cứ tồn tại thế mà hình như chẳng ai lấy thế làm phiền. Nhà vệ sinh được thiết kế cho một gia đình, nay có cả thảy hơn 60 người thay phiên nhau sử dụng. Bao nhiêu chuyện bi hài. Mọi thứ cứ như thể là sống tạm bợ cho qua ngày, vậy mà, tôi cũng không thể ngờ rằng, cuộc đời mình lại “tạm bợ” gắn bó với nơi này đến gần ba chục năm trời!
Ba chục năm trời với bao nhiêu là kỷ niệm… bao nhiêu chuyện bi hài. Vào một dịp Tết nguyên đán, căn phòng nhỏ bé của chúng tôi đã được đón một vị khách đặc biệt. Người của bộ Văn hóa và Thông tin báo tin, vì là gia đình duy nhất có 5 người làm nghệ thuật dược “vua biết mặt chúa biết tên”, chúng tôi vinh dự được chọn cho vị lãnh đạo cao cấp đến chúc Tết, tặng quà. Rất lãng mạn, một ngọn lửa hi vọng leo lét thắp lên trong tâm hồn năm nghệ sĩ. Mù mờ ngây thơ… Biết đâu, nhờ cuộc thăm viếng này, người ta biết đến nỗi khổ ở nhà ổ chuột của các nghệ sĩ. Biết đâu… chúng tôi sẽ được phân cho một căn hộ lắp ghép nhỏ thôi nhưng riêng biệt.
Sáng mồng một Tết, dù đã được chuẩn bị tinh thần, chúng tôi vẫn bị bất ngờ. Một đoàn xe hộ tống vị lãnh đạo đến rộn rã cả một con phố lặng lẽ. Chúc Tết. Tặng quà. Cám ơn. Cười hạnh phúc. Vỗ tay. Đèn flash lóe lên liên hồi. Căng thẳng. Quay phim. Chụp ảnh… Năm phút trôi qua nhanh như một cơn gió mạnh thổi vào ngọn lửa chưa kịp bén… Ngọn lửa đã tắt lụi cùng với căn hộ lắp ghép lãng mạn trong mơ…
***
Năm 1990, nhờ tấm lòng giàu trắc ẩn của người tình thứ hai, “chàng lãng tử” phong trần, tôi mua được một miếng đất trên Thụy Khuê. Xây dựng xong là Tết, tôi mời cả nhà chuyển về đó ở. Vì lo rằng, có thể mọi người trong gia đình sẽ băn khoăn: đang có nhà sao lại phải đi ở nhờ, nên tôi đã phải rào trước đón sau, rất cân nhắc, rất tình cảm. Tôi trình bày rằng: bây giờ nhà đã xây xong, tôi rất muốn đón mọi người về ở cùng, vì tôi thấy cả nhà ở khổ quá. Đây hoàn toàn xuất phát từ cái tâm của tôi. Tôi tha thiết mong tất cả vẫn như xưa, vẫn quây quần với nhau như hồi ở Phan Đinh Phùng.
Mẹ vui vẻ nhận lời ngay, mẹ bảo với hai cô em rằng chị gái nói thế đúng là vì tâm chị muốn thế. Còn với bố, lúc ấy đang đi biểu diễn nước ngoài, mẹ nghĩ đơn giản, khi bố về thì cũng dọn lên nốt thôi. Con nó có lòng tại sao lại không hưởng? Nhưng mọi chuyện không hề đơn giản như mẹ nghĩ, như tôi nghĩ. Ngày bố về, ông phản đối ầm ầm. “Tại sao không ai hỏi ý kiến tao. Thế là tao phải đi ở nhờ à! Tao có nhà có cửa tại sao lại phải đi ở nhờ!”
Đúng là một gáo nước lạnh dội thẳng vào lòng khát khao tình cảm gia đình của tôi.
Nhưng dù sao, trong căn nhà mới, chúng tôi đã có những ngày vui vẻ. Đồ đạc chẳng có gì. Chỉ có một cái giường, một cái tù, một bộ bàn ghế và đống xoong nồi cáu đen vì ám khói dầu và củi. Căn nhà trở nên rỗng toác nhưng mẹ luôn lạc quan. Bà nói: “Có nằm mơ
cũng không nghĩ có ngày gia đình mình được sống riêng biệt như thế này. Cứ thế đã rồi từ từ có đâu sắm đó”. Tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi đã thật vô tư hồn nhiên. Gia tài của tôi chỉ là một cái đệm cỏ Tây Bắc mua từ đợt đi diễn biên giới về, một tấm chăn cũ kỹ bạc phếch, vài bộ quần áo không biết để vào đâu cùng một vật không thể thiếu là cái quạt nhựa tôi mua từ Liên xô về.
Tôi đã thật là hạnh phúc trong căn nhà cách biệt hẳn đường phố ồn ào bụi bặm, cách biệt hẳn mặt người…
Hàng ngày tôi nấu nướng, mời mọi người vào ăn, ăn xong lại rửa chén bát. Ai về ăn muộn thì để phần. Rồi dọn dẹp nhà cửa, kỳ cọ toilet, lất cả đều một tay tôi làm lụng. Tất cả cứ nghiễm nhiên như vậy. Tôi quá chân thành và đơn giản trong khi cuộc sống lại vô cùng phức tạp và muôn màu. Mỗi thành viên trong gia đình là một cuộc đời riêng biệt với những toan tính riêng biệt, nhất là khi cả ba chị em đều có gia đình riêng. Rồi thì những cãi cọ xích mích nảy sinh ở những mức độ mà tôi đã không tỉnh táo để lường trước. Không thể bắt mỗi thành viên trong gia đình suy nghĩ như nhau, hành xử như mình. Khi tôi thấm thía được câu người xưa nói “sống mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người mỗi mồ” thì đã muộn. Ruột thịt lại càng không nên sống với nhau, ngay cả cùng bố mẹ cũng vậy.
Tỉnh mộng. Tôi biết, mình sai thì mình phải tìm cách sửa Sự việc này là một vết thương lòng, một bài học. Tôi là người gây ra thì tôi phải gánh chịu.Những mâu thuẫn ấm ức chẳng được nói ra, cứ tích tụ thành những đám mây đen trong mối quan hệ mẹ con, cha con, chị em. Giá như chúng tôi có thể thẳng lòng đối thoại cùng nhau chắc mọi việc sẽ trở nên đơn giản hơn nhiều. Mâu thuẫn thường đến từ vật chất thì phải dùng vật chất để giải quyết. May là tôi cũng đã giải quyết ổn thỏa. Và sự bình an có vẻ như đang dần dần trở lại, nhưng có lẽ vết thương tình cảm trong lòng mỗi người không dễ lành ngay.
Rất vô hình thôi, chẳng là cái gì cụ thể cả, năm người sống chung trong một ngôi nhà nhưng tôi luôn cảm thấy mình bị lạc lõng. Đáng lẽ chị em gái thì hay gần gũi nhau tâm sự với nhau, vì cũng cách nhau không nhiêu tuổi. Và ở tuổi nào thì cũng rất dễ để nói với
nhau những chuyện thầm kín, tình cảm, những mối quan hệ, sẽ dễ hơn là nói với bố mẹ. Nhưng không hiểu sao, trời sinh ra thế, lúc nào tôi cũng bị lạc loài. Khanh với Vy thì thân thiết chia sẻ với nhau lắm, còn tôi cứ bị long ra khỏi cái khối gia đình chung ấy. Đến bây giờ vẫn thế. Không dễ dàng gì để mà tâm sự những chuyện riêng tư của mình cho hai cô em biết. Mà họ cũng rất biết tôi không phải loại người dễ cởi mở nỗi lòng để nói về những điều sâu xa thầm kín bên trong. Cho nên các cô ấy cũng tránh, không bao giờ hỏi để tôi phải nói ra những điều không muốn nói. Về phía tôi cũng vậy, tôi không bao giờ tò mò hay can thiệp vào đời sống riêng tư của hai cô em.
Chắc chắn là Khanh và Vy sẽ chẳng bao giờ “vạch áo cho người xem lưng” đâu. Họ sẽ chỉ nói những điều tốt, những điều hời hợt bên ngoài cho đẹp lòng mọi người. Đại loại là chúng tôi rất may mắn vì bộ mẹ tôi đã không đi bước nữa để hi sinh tất cả cho con cái, để nuôi dưỡng chị em chúng tôi trưởng thành. Vì thế dù hai người đã ly hôn, nhưng đến nay, chúng tôi vẫn quây quần sống bên nhau. Nhìn từ bên ngoài vào đúng là như thế thật. Nhưng đó chỉ là một thứ sự thật dừng lại ở mức độ hời hợt đèm đẹp vậy thôi.
Sự thật là, vì không có điều kiện thì đành phải chịu. Bố mẹ bỏ nhau rồi nhưng chẳng có nơi chốn nào để đi, thế là lại chung đụng, lại va chạm, lại cãi vã giày vò nhau.
Tôi nghĩ mỗi gia đình là một tế bào độc lập, riêng biệt, có cuộc sống riêng với những “bí mật” riêng không dễ chia sẻ. Những thành viên trong gia đình chỉ nên vui vẻ gặp nhau vào những dịp đặc biệt trong năm rồi ai lại về nhà nấy, chắc rằng sẽ chẳng bao giờ có bất hoà hay cố chấp. Và như vậy, mối quan hệ của những người ruột thịt sẽ được thân thiện và bền lâu hơn.
LÊ VÂN - YÊU VÀ SỐNG
Bùi Mai Hạnh
www.dtv-ebook.com
Yêu Và Sống - Chương 5: Khi Mà Mình Chỉ Là Dân Đen
Trường múa, bảy năm trời chúng tôi sống như những người máy, dưới một thứ kỷ cương kiểu quân phiệt, đầy ải cả về thể xác lẫn tinh thần. Bố mẹ khoán trắng con cho nhà trường, cũng chả cần biết nó học hành ra sao. Có nhà trường nuôi đỡ cho một miệng ăn là tốt quá rồi, lại dạy chữ, dạy nghề nữa thì còn gì bằng. Cố lục lọi trong trí nhớ một chút ân tình ấm áp từ trường múa mà sao chỉ vọng về nỗi oán hận xa xôi. Đói ăn. Đói cả niềm vui sống. May sao đã thấy thấp thoáng vẻ đẹp bay bổng, lửng lơ của những bông hoa tuyết đầu mùa…
Vì sao tôi đi vào con đường nghệ thuật? Sự thật là tôi vào ngành nghệ thuật chẳng có chút ý thức nào. Chín, mười tuổi mà còn bảo mẹ đừng giết con, tức là đã có ý thức gì đâu. Có chăng chỉ là một câu hỏi từ cõi vô thức xa xăm, mù mờ không lời đáp: “Sao những người làm nghệ thuật làm văn hóa lại đối xử với nhau chả có văn hóa nghệ thuật gì cả? Bố và mẹ, những người làm nghệ thuật, yêu nhau kiểu gì mà chỉ thích cắn xé nhau? Cái môi trường nghệ thuật sao mà đáng sợ thế!”. Và dù rất mơ hồ sợ hãi cái gọi là làm nghệ thuật, dù không yêu thích múa may biểu diễn chút nào, thì một đứa bé gái cô độc mới chục tuổi đầu cũng không thể nói không với người lớn. Bởi vậy, lôi vào ngành nghệ thuật là do mẹ. Mẹ nghĩ đơn giản: Bố mẹ làm nghệ thuật thì cũng cho con vào một ngành nghệ thuật cho tiện.
Ban đầu, mẹ ấn tôi vào tuyển nhạc. Câu hỏi đầu tiên những người tuyển sinh hỏi là thích loại nhạc cụ nào. Trong thâm tâm tôi thích đàn piano nhưng không biết có phải tên cái đàn ấy là piano hay violon. Tức là còn nhỏ đến mức ấy và chẳng biết gì. Ngay cả bố mẹ cũng chẳng biết kiến thức gì về âm nhạc. Thế là cứ đắn đo và không trả lời. Mấy người tuyển bảo nhau, kiểu này là bố mẹ bắt đi tuyển rồi. Và trượt. Rồi một lần, hai mẹ con đi chợ Hàng Da, qua rạp Hồng Hà, thấy một tờ giấy quảng cáo trường múa Việt Nam tuyển sinh khóa 7. Mẹ bèn ấn tôi vào. Nghệ thuật nào cũng được, miễn là được học cả văn hóa lẫn học nghề. Ra trường sẽ có một nghề kiếm sống. Bản thân tôi lúc đó chẳng có chút khái niệm nào về múa, chứ đừng nói gì đến năng khiếu hay yêu thích. May mà những người tuyển không hỏi nhiều như lần tuyển nhạc, chỉ xem người ngợm chân tay. Thế là trúng. Đã trúng rồi thì phải đi học. Tôi khăn gói vào học nội trú trong trường múa từ đó, tuần được về nhà nghỉ một ngày Chủ nhật.
Ở trường múa, tất cả học sinh phải tuân thủ nội qui giống như những người máy. Thời gian học văn hóa, luyện múa, ăn, ngủ đều được qui định sít sao. Ăn cơm xong là đến kẻng học bài ôn văn hóa từ 7 đến 8 giờ. Rồi lại kẻng đến giờ ôn chuyên môn, xách giày tập lên sàn từ 8 đến 9 giờ ôn lại những tổ hợp, những động tác của bài vừa học mà mình vẫn chưa hoàn thiện được. 10 giờ về đến phòng mồ hôi mồ kê ướt đẫm. Quần áo vắt ra nước, giầy vải mềm ướt sũng bốc mùi thối khắm. Giờ nghĩ lại, không thể tưởng tượng nổi làm sao mà một đứa bé mới chục tuổi đầu lại có thể theo được cái guồng sống và học tập như vậy. Đó là một chương trình quá nặng, vừa chuyên môn vừa văn hóa lại còn lên sàn buổi tối.
Cứ thế kiệt quệ 7 năm trời!
Rất nhiều người lầm tưởng rằng những năm ở trường múa là những năm tôi được học tập, rèn luyện tràn đầy niềm vui nhưng đâu phải thế. Mẹ bắt đi học múa thì phải đi thôi, nào có thích thú gì! Làm sao dám phản kháng rằng con không thích đâu, mẹ đừng bắt con đi
học. Và khi đã phải đi, không dám chống đối, thì lúc vào học cũng nhất nhất nghe lời thầy cô, làm cái gì cũng hết sức nghiêm túc, thế là thành học giỏi. Cứ tự nhiên thành ra như thế. Cứ nghĩ tất cả là thật, là nghiêm túc, không thể lười biếng hay lơ là.
Trong lớp học cũng có bạn chăm bạn lười, có bạn tập rất hời hợt, vừa không tốn sức lại đỡ mệt, nên không thể có kết quả tốt. Tôi thì khác, chẳng hiểu sao ngay từ nhỏ đã bị “mắc bệnh”chân thành quá, máy móc quá. Làm việc gì cũng cứ vắt kiệt mình. Nhiều khi cứ bị như thể ngây thơ giả vờ, vì người ta bảo làm thế nào là cứ nhất nhất phải làm đúng, vì cứ tưởng thật. Thực ra, trong cuộc sống không phải lúc nào cũng cần nghiêm túc đến thế, có thể tập cầm chừng thôi, làm cầm chừng thôi mà chẳng chết ai.
Tôi là người không thích hóa trang hay trang điểm. Không phải là tôi không biết làm đẹp, nhưng có biết thì cũng tự tiêu diệt. Tôi không thích làm đỏm hay tỏ ra mình là yểu điệu thục nữ. Thậm chí còn ghét cả những người hay làm dáng điệu đà. Mặc dù, có những cô gái sinh ra đã mang tính uốn éo ỏn ẻn bẩm sinh, nhưng tôi vẫn không chịu được những người như vậy. Nhiều khi trước mặt bọn con trai họ lại còn cố tình điệu hơn, tỏ cái nữ tính của mình ra nữa, nom thật khó chịu và đáng ghét. Có lẽ vì thế, năm mười ba tuổi, thân hình tôi cứ quắt queo lại. Khi lớn rồi mới nghe bọn bạn tâm sự thật: “Nói thật với mày, hồi mới vào trường, tao cứ nghĩ, lớp mình có con bé nào xấu thế mà sao cũng được tuyển vào trường múa không biết”. Mà đúng thật, cái thời đó, tôi đang ở thời kỳ dở dở ương ương. Da mai mái, tái mét, xấu lắm. Bảo học thì học, bảo tập thì tập.
Cứ ngây thơ như một con rối, hành xác mình đến quắt queo. Cũng chẳng phải vì có ý thức phấn đấu để trở thanh giỏi giang gì cả, thế mà lại được.
Khóa múa năm đó có rất nhiều người xinh. Cỏ một bạn rất hay được mẹ làm đỏm cho. Đồ đạc của cô ấy cái gì cũng đẹp. Đôi giày tập được mẹ thêu cho hai bông hoa vào đó, cái xô xách nước thì vẽ đôi thiên nga. Cô có mái tóc buộc vổng lên, môi đỏ, da trắng, mắt long lanh, đi đâu cũng được chú ý. Còn mình, đúng là một con vịt con xấu xí, chẳng là gì cả. Hồi đó, tôi đâu biết là mình xấu thế, nhưng may sao lại hay được các cô khen. Nếu có bạn nào trong lớp tập sai động tác, cô giáo lại bảo: “Thôi, em nghỉ đi, xem bạn Vân tập kia kìa!”. Nhiều lúc ngẫm nghĩ, quả cũng lạ, chẳng biết tại sao mình lại có khả năng múa balet, thi vào vì bắt phải thi, vào trường rồi bắt học thì phải học. Chỉ biết thầy truyền cho cái gì là gắng sức mà làm cho bằng được, làm rất chân thành nghiêm túc, chứ cũng chẳng phải vì năng khiếu bẩm sinh gì.
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng nhất nhất nghe lời người lớn. Tôi nhớ, ngay từ khi còn rất nhỏ, đôi khi tôi rất bướng bỉnh, gan lì. Đó là thời bom Mỹ đánh phá miền Bắc. Suốt ngày còi báo động. Vừa nằm một tí lại phải chồm dậy, lao xuống hầm. Hơi một tí lại chạy ào ra đường chui xuống những cái hầm tăng xê, những cái ống cống có hai cái lỗ nhỏ xíu để thở. Trên vỉa hè có rất nhiều hầm như thế. Có những cái rất sạch sẽ, ai đó quét dọn vì phải thường xuyên chạy xuống đó.
Nhưng lần ấy tôi đã bất cần, đã mặc kệ. Mặc cho bố mẹ gọi ời ời: “Con Vân, xuống hầm ngay không chết bây giờ, có nghe thấy còi báo động không, xuống hầm ngay”. Tôi cứ ầm ừ, cứ nằm ì, nghĩ bụng, kệ nó, cùng lắm thì ầm một cái là chết chứ gì! Chạy lên chui
xuống mãi phát mệt. Một lúc sau, lại thấy còi báo an, mọi người lục tục kéo nhau ra khỏi hầm.
Tôi được thể bảo: “Cả nhà thấy chưa, có sao đâu. Suốt ngày chạy, mệt mỏi quá. Cùng lắm là chết chứ gì. Nếu có chết thì cũng chết rất nhanh thôi, có gì đâu mà sợ”
***
Suốt 7 năm ở trường múa, từ khi còn là một đứa trẻ cho đến lúc ra trường, tôi luôn được dạy dỗ rằng, đã làm người thì càng trong hoàn cảnh khó khăn, người ta càng phải đùm bọc nhau, yêu thương giúp đỡ nhau. Phải vượt qua hoàn cảnh để sống. Đó là niềm vui và đạo lý. Nhưng cũng chính ở trường múa, tôi lại nhìn thấy, trải nghiệm một sự thật: vì hoàn cảnh khó khăn nên người ta âm thầm bớt xén của đám trẻ trong trường, vô hình chung, người ta trở nên độc ác với những người khác mà họ không biết. Không biết các bạn của tôi những người từng học trường múa có lúc nào nhớ lại những “kỷ niệm” ấy không? Đói, chúng tôi luôn bị đói.
Học sinh trường múa thuộc diện dược nhà nước ưu ái, xếp vào loại lao động nặng, như công nhân mỏ, nên không còn một mức trợ cấp lương thực nào cao hơn mức mà chúng tôi được hưởng. Từ 11 tuổi đến 18 tuổi đều được hưởng 21 cân gạo một tháng, làm sao ăn hết. Vậy mà thường xuyên đói. Sau này, mỗi khi nhớ lại thời gian học trong trường, lòng tôi tràn đầy uất hận. Vì sao chúng tôi đói? Tại sao họ lại để cho những đứa trẻ xa bố mẹ như thế bị đói!
Phải chăng vì người ta nghèo nên mới phải xà xẻo bớt chút khẩu phần của học sinh? Thủ kho một tí, thủ quỹ một tí, nhà bếp một tí. Nấu một chảo cơm, chỉ ít gạo thôi còn đâu là độn ngô vàng chóe. Hôm nào may thì có mì sợi đựng trong cái nồi nhôm méo. Có hôm
ăn gạo dính viện trợ từ Ấn Độ. Gạo dính lại càng ngót. Càng bị đói. Lại có thời kỳ ăn những cục bột mỳ luộc thả trong cái chảo nước sôi to đùng gọi là “tàu ngầm” không thể nào nuốt nổi. Nhà bếp, nhà trường có biết điều đó không? Tất nhiên là biết. Học sinh không ăn được thì còn thừa ra đấy, họ mang về nhà chăn nuôi gà lợn.
Thức ăn thường có món thịt mỡ kho thái mỏng dính, nổi lềnh phềnh trong cái thứ nước hàng đen sì. Trời lạnh, lớp mỡ đóng băng lại, phải cố gạt cái lớp băng giá lạnh ấy ra, lấy tí nước mặn màu gạo cháy tưới vào bát cơm lạnh ngắt mà nuốt. Thế mà cũng phải tranh nhau ăn chứ có biết nhường nhau đâu. Vì tôi cứ mắc bệnh sĩ, hay ngượng, nên càng hay bị đói. Làm sao mình dám xới đầy một bát cơm cho mình, phải xới lưng bát thôi, nhiều khi chưa kịp xới bát thứ hai thì đã hết. Thế là chịu vậy. Ngô không ăn được, thịt mỡ cũng không biết ăn. Đói đến tong teo cả người.
Họa hoằn lắm mới có món cá biển kho đồng mốt một cân, tôi thích lắm. Đó là cái thứ cá lộn xộn, rẻ mạt còn lại sau khi đã lọc hết những con cá to ngon nhất cho những cửa hàng cao cấp. Thời đó
có mấy loại cửa hàng thực phẩm, loại dành cho cán bộ cao cấp, loạt dành cho cán bộ bình thường và loại cửa hàng cho nhân dân. Cái thứ cá mà học sinh, sinh viên được ăn là thứ cá hạng bét, ấy vậy mà, những ngày cơm có cá là những bữa đại tiệc. Cá ăn dễ hơn vì nó không có mỡ. Dù khi ăn, nó có lạnh ngắt, tanh nồng thì vẫn cứ tuyệt ngon.
Món thứ hai tôi cũng rất hay thèm là món bắp cải xào. Họ thái to lắm, cứ như cho lợn ăn ấy, láng qua chút mỡ thôi, nhưng mà tôi rất thích. Đó là hai món ăn mơ ước của cơ thể cũng như tâm hồn tôi suốt 7 năm trường múa. Nó ăn sâu vào nỗi thèm khát của tôi đến nỗi, chủ nhật về nhà, mẹ hỏi thích ăn gì, tôi nói ngay, tôi chỉ khao
khát được ăn thỏa thích món cá biển kho và bắp cải xào! Tôi không đòi hỏi bún chả bún nem, chỉ thích mỗi thế thôi, thích cái món ở trường thỉnh thoảng mới được ăn ấy. May quá, mẹ thở phào vì tôi chẳng đòi hỏi gì hơn.
Hôm nào may mắn được ăn cơm độn bánh mỳ cũng rất thích. Có một loại tem nào đó sẽ đổi được cái bánh mỳ 225 gam. Mọi thứ đều được định lượng rõ ràng. Phần ăn độn được nhà bếp đổi ra thành bánh mỳ. Vì chả gặm được bánh mỳ không, tôi cùng mấy cô bạn nghĩ ra một kế. Đồng phục tập của chúng tôi hồi đó là những cái quần có chun túm ống và áo khoác bên ngoài. Dấu những cái bánh mỳ không ăn được ấy vào trong nách áo khoác, mang ra khỏi nhà bếp mà không ai biết. Chiều tối, chúng tôi mang bánh mỳ ra ngoài quán bán cho mấy bà hàng nước. Được một món tiền nhỏ, chung nhau lại mua mấy lạng đỗ đen, mua bột đao, với chút đường được phát, chúng tôi nhờ bếp cán bộ nấu một nồi chè đầy. Tối đi tập về, cả lũ xì xụp ăn chè trong một niềm hạnh phúc khó tả. Có lần, từ nhà ăn đi về, qua một rãnh nước, chẳng hiểu sao tôi lại quên béng mất bánh mỳ đang kẹp nách, vung tay lên nhảy qua, thế là rơi hết bánh mỳ xuống nước. Tôi đang thẫn thờ tiếc nồi chè, cô bạn lại nghĩ ra một kế, đem bánh mỳ vào lò nướng, bánh mỳ lại khô, lại đem ra đổi hàng nước. Khi thì được quả trứng, lúc thì được cái kẹo, quả chuối… thích lắm.
Chế độ ăn uống, cách nấu nướng đã vậy, nhưng bát đũa cũng không có. Sau buổi học sáng, hơn mười hai giờ, mệt lả vì đói, chúng tôi lại phải lê lên gác tư lấy bát đũa ăn cơm. Nghĩa là từ tầng tư của lớp học ở tòa nhà này đi xuống, xong lại leo lên tầng tư của tòa nhà khác là ký túc xá để lấy bát đũa. Sau rồi mới lại xuống nhà bếp ở tầng trệt để ăn cơm.
Người cứ lả đi vì đỏi và mệt. Chỉ muốn tranh thủ đi ào ra bếp ăn thật nhanh để rồi leo lên gác tư nằm vật ra thở một tí, chợp mắt một tí. Chỉ một tí thôi đã lại đến 1 giờ 30, lại kẻng báo giờ lên lớp. Đó là tiếng kẻng hãi hùng. Tất cả học sinh, dù kiệt sức thế nào cũng vẫn phải bật dậy như những người lính, giờ nghĩ lại, vẫn thấy hằn đọng một nỗi oán hận.
Không hiểu sao những người lớn lại nỡ đối xử với chúng tôi như thế? Ấm ức và oán giận lắm, nhưng nghĩ lại, cũng chỉ tại cái đói cái nghèo! Còn chúng tôi, những đứa trẻ xa nhà, dù đói khổ thế, đói khổ nữa, chúng tôi vẫn phải tập múa, tập kiên trì bay lượn trên mười đầu ngón chân yếu ớt vì suy dinh dưỡng của mình.
***
Về tinh thần, có thể ví nó như cái thời quân phiệt. Một thời gian biểu được vẽ ra để học sinh học tập và sinh hoạt theo như cách quản lý người trong trại tập trung. Nhà trường chọn ra cái gọi là “ban đại diện học sinh”, gồm những học sinh trong đội cờ đỏ, những người “bôn sệt”, suốt ngày lo phấn đấu về mặt kỷ luật, lo hoàn thành nhiệm vụ theo dõi và tố giác các học sinh khác. Tại các buổi họp với ban giáo vụ, họ có nhiệm vụ báo cáo với ban thi đua. Họ theo dõi từng người, rồi nhận xét hạnh kiểm, rồi chấm cho người ấy là cờ đỏ, cờ xanh hay cờ trắng. Trong lớp có nhiều bạn phấn đấu đạt cờ đạo đức vì không bao giờ xuống muộn, không nghỉ ốm vặt hoặc rất cần mẫn ghi chép khuyết điểm của người khác để được tăng điểm hạnh kiểm cho mình. Chẳng hiểu sao, về mặt này, tôi chẳng mấy khi được cờ đỏ. Mặc dù luôn lo lắng và sợ hãi bị phê bình, kiểm điểm, nhưng tôi không thể nào phấn đấu được, lúc nào tôi cũng cảm thấy kiệt sức, chỉ muốn nằm thêm một chút, xuống tập thể dục muộn một chút. Và lại sống trong tâm trạng lo âu, sợ hãi.
Một trong những nỗi sợ hãi kinh hoàng của tôi thời đó là nghe tiếng keng thể dục buổi sáng. Vì thời gian biểu được sắp xếp dậy từ 5.30 sáng, nên tôi luôn bị ngái ngủ. Trong cơn ngái ngủ ấy, tôi cứ nghĩ, 7 giờ đã phải tập balet rồi, lên sàn vận động rồi, tại sao lại cứ bắt dậy sớm thế để tập thể dục. Sợ nhất là kẻng tập thể dục. Sợ thứ hai là phải chen chúc nhau trên cái ô tô buýt chiều thứ Bảy để về nhà. Về đến nhà coi như thoát chết. Sợ thứ ba là phải làm một bài văn dài trả cô vào sáng thứ hai. Ngoài ra, cô lại còn giao cho làm bao nhiêu là bài tập của các môn khác nữa. Chỉ cần cắm đầu vào một bài tập làm văn, coi như đi đứt nửa ngày Chủ nhật. Không còn đầu óc nào để mà nghỉ ngơi sau cả một tuần căng thẳng.
Ngay cả bộ quần áo tập hôm thứ bảy, gói về nhà đôi khi cũng không kịp giặt, vì phải căng thẳng, bò lăn bò toài ra làm bài cho kịp. Chưa kịp nghỉ ngơi một chút nào, 2 giờ chiều chủ nhật, tôi đã phải lên xe cho bố chở ra bến ô tô để chen chúc nhau về trường.
Vì đi xe buýt nhiều nên tôi có kinh nghiệm, nếu lên ở bến phụ thì không thể chen nổi. phải đến tận bến gốc ở Lò Đúc mới có chỗ. Ngồi sẵn đó khi xe chưa khởi hành là yên tâm nhất. Kiểu gì cũng sẽ vào đến trường. Kẻng điểm danh đánh đúng 7 giờ tối. Tất cả các lớp xếp hàng dọc. Dù cố gắng nhưng nhiều khi vẫn bị vào muộn. Mất hai ba tiếng đồng hồ để di chuyển 9 cây số là chuyện hết sức bình thường. Lỡ ô tô thì đúng là ác mộng. Điểm danh mà chưa có mặt sẽ kinh khủng lắm. Có những chủ nhật, bố bận đi ăn giỗ hay cưới xin gì đó, mải vui họ hàng bạn bè say sưa không về kịp, người tôi cứ như là phát rồ dại lên. Cứ như là sắp phải lãnh án tử hình hay một hình phạt nào đó thảm khốc đang chờ.
Sống trong cái guồng máy cơm không đủ no, lại luôn bị nỗi sợ hãi ám ảnh, tôi chẳng có cách nào khác là để mặc cho nó kéo mình đi.
Suốt 7 năm trời, tôi chả có hơi sức đâu để mà phấn đấu, chỉ nghĩ đến trách nhiệm hoàn thành được các bài học văn hóa, bài tập chuyên môn đã là tốt lắm rồi. Mà không hoàn thành được thì phải tìm cách đối phó, nhất là đối phó trong các kỳ thi, kiểm tra, với các môn học lê thê buồn tẻ. Cho đến giờ, tôi vẫn không quên một kỷ niệm đáng xấu hổ về kỳ thi môn chính trị hồi lớp bảy.
Giờ chính trị tất nhiên là chỉ buồn ngủ hoặc nói chuyện riêng. Bởi vậy, khi thi, chúng tôi tìm cách học đối phó. Tôi và một cô bạn chia nhau mỗi đứa học thuộc lòng một nửa số câu hỏi thầy giao về nhà ôn. Nếu đề rơi vào câu của đứa nào, đứa ấy phải đọc lên cho đứa kia chép. Yên trí như vậy, nhưng đến trước giờ thi, có lẽ vì tâm lý lo sợ chăng mà bỗng nhiên tôi lại muốn đi vệ sinh kinh khủng, đành xin phép thầy ra ngoài. Lúc trở vào, tôi sững người, chỗ của tôi, thầy vô tình đã xếp vào một bạn khác. Tôi bị ngồi cách xa hẳn “cái phao” của mình. Đã thế, đề thi lại không trúng vào phần tôi chuẩn bị. Suốt buổi thi, tôi chẳng viết được chữ nào.
Đúng lúc định nộp giấy trắng thì một cậu bạn bàn trên quay xuống, chìa ra cho một bài làm sẵn. Thì ra, cậu ấy có một cách đối phó khác là chép tất cả các câu trả lời vào giấy từ ở nhà, đến giờ thi, trúng câu nào thì chỉ việc mang câu ấy ra, mạo chữ ký của thầy và nộp. Tôi mừng quá, viết ngay tên mình vào góc trang giấy. Đúng lúc trống đánh hết giờ, lại còn phải giả chữ ký của thầy nữa? Cậu bạn luống cuống thế nào, ký hỏng bét, chẳng giống tẹo nào. Cậu ta bèn nhanh trí, rỏ vào đó một giọt mực nhoe nhoét làm như chẳng may bị giây bẩn để lập liếm cái tội giả mạo kia… Tôi nộp bài, ngay lập tức bị thầy giáo phát hiện ra sự gian lận. Thầy giận lắm, báo lên ban giám hiệu nhà trường. Các thầy cô bộ môn khác nhìn tôi bằng con mắt kinh ngạc, tại sao tôi lại có thể nghĩ ra cái trò gian dối kỳ quái như vậy chứ? Tuy trò chơi có hai người nhưng chỉ mình tôi chịu trận.
Cậu bạn tốt bụng định giúp tôi mà lại thành hại tôi. Cậu im lặng. Hình như cậu ấy hơi thích tôi. Đặc biệt thích tập múa đôi với tôi. Có lẽ vì người tôi nhẹ, dễ nâng. Tiếc là tôi lại không có một chút tình cảm đặc biệt nào với cậu, không thích tập với cậu. Cứ đến động tác cậu phải lấy hết sức từ từ nâng tôi lên cao khỏi đầu thì tôi ì ra, không chịu múa phối hợp, thành thử tuy tôi gầy thật, nhẹ thật nhưng cậu không thể nào nâng tôi lên được. Chẳng phải tôi ghét bỏ gì bạn ấy, chỉ đơn giản là không thích múa cùng thì phản ứng bằng cách trẻ con như thế…
Vâng, chúng tôi đã trẻ con làm sao! Có lần, hồi năm thứ hai hay thứ ba của khóa học, bọn con trai con gái choai choai lớp tôi, không biết đứa nào đầu têu, nghĩ ra trò chơi “khiêng người chết”. Một đứa phải giả làm người chết, nằm thẳng cẳng, mắt nhắm nghiền, hai tay để trên bụng. Một đứa con trai ở phía trên đầu, tám đứa kia chia làm hai bên dọc theo “người chết”. Hôm đó, tôi xung phong làm “người chết” đầu tiên. Tôi nằm xuống cái sàn xi măng lạnh buốt sống lưng.
Qui định ngặt nghèo của trò chơi là tất cả phải chung một niềm tin như đang cùng nhau tham gia một nghi lễ. Trong bầu không khí linh thiêng, chín đứa quì xuống. Mỗi đứa chỉ được chạm ngón tay trỏ của bàn tay trái của mình vào “xác chết”. Đứa con trai phía trên đầu “người chết” lầm rầm câu đầu tiên: “Tôi đi đưa ma bác đi đâu”. Đứa thứ hai lặp lại: “Tôi đi đưa ma bác đi đâu?”… Cứ thế, cứ thế… lầm bầm, rì rầm, câu hỏi ấy được truyền đi sang đứa thứ ba, đứa thứ tư, đứa thứ năm… cho đến lúc trở lại hỏi đứa ban đầu, thì nó phải nói: “Nào, chúng ta cùng đi!”. Tôi cảm thấy thân mình như không còn trọng lượng, từ từ được chín ngón tay nâng cao lên khỏi đầu. Tôi sởn da gà, lạnh toát. Cảm thấy những bước chân đưa ma tôi chầm chậm di chuyển. Bỗng tôi phì cười Như có một luồng điện chạy qua, cả lũ rùng mình cười theo. Lập tức, trọng lượng trở lại, tôi rơi bụp
xuống đất. Trò chơi dừng. Đến lượt tôi vào vị trí người khiêng, tôi cũng chạm một ngón tay vào “xác chết”, cũng lầm rầm hỏi câu thần chú, cũng “đưa ma” lên cao quá đầu, cũng đi được vài bước ra cửa rồi cả lũ lại cười đánh rơi “con ma” bộp xuống sàn. Đứa nào cũng muốn, ít nhất một lần, thử được là người chết, rồi lại thử được là người khiêng. Cho đến bây giờ tôi vẫn không cắt nghĩa được sự bí hiểm như có bùa ngải của trò chơi ấy…
Có lẽ, dù làm bất kỳ điều gì lớn hay nhỏ, dù chỉ là trò chơi trẻ con, thì cũng cần phải có mềm tin…
***
Năm nào tôi cũng là học sinh xuất sắc nhưng lại không được vào Đoàn. Mãi đến khi sắp ra trường, có một đợt vào Đoàn vét, tôi mới được chiếu cố kết nạp. Các bạn trong đội cờ đỏ, trong ban đại diện đánh giá tôi kém tinh thần phấn đấu. Mặc dù học giỏi cả chuyên môn lẫn văn hóa nhưng vẫn bị coi là kém đạo đức. Trong mắt ban cán sự lớp, tôi không có ý chí vươn lên về mặt tác phong tư tưởng. Không cần cù gương mẫu trong sinh hoạt. Không giúp đỡ kèm cặp các bạn yếu. Thú thực, không hiểu sao, dù có cố gắng đến mấy tôi cũng không “phấn đấu” theo cách ấy được. Mà tại sao lại phải phấn đấu? Phấn đấu theo kiểu ấy, tôi thấy nó cứ giả dối thế nào! Tôi là thế đấy! Nếu tôi xứng đáng thì kết nạp tôi, tại sao lại phải cố gắng? Cố gắng trong thời gian cảm tình đoàn không được phạm sai sót gì. Đáng học đến 9 giờ tối rồi đi ngủ thì lại phải “cố gắng phấn đấu” học thêm, hành xác thêm một, hai tiếng nữa. Song rồi, khi hết thời gian cảm tình, hết được thử thách với phấn đấu, lại tha hồ “quậy”, không cần phải tỏ ra chăm ngoan nữa, vì đã được kết nạp rồi? Vậy thì phấn đấu tức là cố tình cho người ta thấy tôi đang ngoan đây! Tôi không
làm thế được. Dù có muốn, tôi không có đủ sức khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần để phấn đấu kiểu giả tạo ấy.
Tôi vẫn đi học đều, vẫn học giỏi, vân luôn là nhân vật chính trong lớp, thế mà tại sao tôi lại không được kết nạp Đoàn? Đành chấp nhận bị xếp vào loại tụt hậu vậy chứ tôi cũng chẳng biết làm thế nào khác.
Chính trong vụ vào Đoàn này, tôi nhận được một bài học đắt giá đầu tiên về tình bạn.
Trong lớp, tôi kết bạn với hai cô gái cũng thuộc loại học giỏi. Nói thân cũng không hẳn vì tính tôi ít khi thố lộ với ai. Chẳng qua là thích tụ nhau lại thành một nhóm cùng đi tập, đi ăn với nhau. Đi tập về cùng ra nhà tắm, thay phiên nhau đứa xách nước, đứa tắm, đứa giặt. Đến giờ ăn thay phiên nhau lên tầng 4 lấy bát lấy thìa đỡ khổ cả ba đứa đều phải đi. Ăn xong luân phiên nhau rửa bát. Hai cô bạn kia không được trời phú cho một dáng dấp tự nhiên cần thiết. Một cô trong nhóm lúc nào cũng tập tành rất chăm chỉ, ngoài giờ bắt buộc phải tập múa trên lớp, đêm đêm, trên sân thượng tối thui, cô tự mình vật vã quằn quại “hành xác” thêm nữa. Cần cù phấn đấu bù lại cái mà trời không cho: một thân hình lý tưởng cho nghệ thuật balet. Sức học của cô cũng khá, thuộc dạng cần cù bù khả năng.
Hai cô bạn đều thuộc diện trong ban cán sự, chính các cô là người đi họp báo cáo tình hình lớp. Lần ấy, họ có một cuộc họp về việc xét kết nạp Đoàn trong đó có tôi. Tôi nghĩ lần này, thế nào họ cũng phải xét đến mình. Mình có những hai cô bạn làm cán sự cơ
mà. Chả cần các bạn ấy phải tâng bốc mình lên, chỉ cần nói đúng sự thật và nếu cần ủng hộ thì chắc chắn các bạn ấy sẽ giơ cho một cánh tay chứ. “Lần này xét đến mày đấy”, cô bạn nói thế rồi đi họp. Còn chính bản thân mình là người đang được xét đến thì bị bật ra
ngoài. Tất nhiên rồi, vì mình chỉ là thứ dân đen, là Bạch Vệ. Tuy nhiên, tôi yên tâm, lần này thế nào chúng nó cũng ủng hộ mình. Về sau, tôi mới ngã ngửa ra, khi được một một cô bạn khác lớp tường thuật lại buổi họp và nhấn mạnh về thái độ khó hiểu của “hai cô bạn thân” của tôi. Trong buổi họp, một người phụ trách chung đứng lên nhận xét rằng tôi hay dậy muộn, vào tập trung muộn, không cần cù gương mẫu… Tóm lại, tôi có rất nhiều khuyết điểm, rất nhiều tội lỗi và không xứng đáng đứng vào hàng ngũ của Đoàn. Nghe vậy, hai cô bạn của tôi vẫn ngồi im re không nói năng gì, không nhúc nhích. Nghĩa là các bạn ấy đồng ý với nhận xét trên. Và tôi không được kết nạp Đoàn đợt đó. Chuyện này làm tôi rất sốc, nhưng tôi cũng chỉ biết im lặng.
Cuối cùng, tôi cũng được vào Đoàn đợt vét, có lẽ để nhà trường có thành tích 100% học sinh tốt nghiệp là đoàn viên chăng? Hôm kết nạp Đoàn, tôi thấy sao mà ngượng thế.
Một lá cờ được treo lên. Những đoàn viên tương lai được gọi lên đứng trước lá cờ đoàn. Sau khi Bí thư đoàn hô câu gì đại loại như “Xin thề làm cánh tay phải của Đảng”, tôi cũng giơ tay lên đủ ba lần, và hô “Xin thề, xin thề, xin thề”, mà cứ thấy ngượng chín hết cả người, đỏ hết cả sống lưng. Bởi rõ ràng là mình chẳng nghĩ như thế một tí nào. Mình chẳng “tiến bộ” được tí nào. Thế mà miệng lại phải hô rõ to. Sao mà nó sống sượng và hình thức đến thế! Dù mình đứng quay lưng vào các bạn, quay mặt vào lá cờ, chả ai nhìn thấy mặt mình cả, nhưng vẫn thấy tự ngượng với mình.
Về phòng, tôi cứ thắc mắc, không biết các bạn khác khi vào Đoàn có cái cảm giác bị luộc chín người như mình không nhỉ? Cũng có thể họ thành thật tin rằng họ đã được trở thành cánh tay phải của Đảng, hoặc cũng có thể họ giả vờ tin như thế nhưng không để lộ ra.
"""