"
Lâu Đài Người Bán Nón - Archibald Joseph Cronin full prc pdf epub [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lâu Đài Người Bán Nón - Archibald Joseph Cronin full prc pdf epub [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
Lới Giới Thiệu
Tập I- Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Tập Ii - Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35
LÂU ĐÀI NGƯỜI BÁN NÓN
Archibald Joseph Cronin
www.dtv-ebook.com
Lới Giới Thiệu
Lâu đài người bán nón (Hatter s Castle) xuất bản năm 1932 tại Luân Đôn, là tác phẩm đầu tay của A.J.CRONIN. Thành công rực rỡ, được dư luận độc giả Châu Âu đánh giá rất cao, bác sỹ Cronin quyết định theo hẳn con đường sáng tác.
Là tiểu thuyết tâm lý xã hội, Lâu đài người bán nón lấy bối cảnh ở một thành phố cổ kính, sùng đạo của nước Anh cuối thế kỷ XIX. Nhân vật chính là James Brodie, chủ một cửa hàng nón độc quyền ở thành phố, đồng thời là chủ một tòa lâu đài kỳ quái được xây dựng theo ý thích của ông - Là chủ nhân ông trong một gia đình gồm toàn những con người chỉ biết phục tùng.
Luôn luôn ảo tưởng về dòng dõi quý tộc của mình, về sức mạnh bạo lực toát ra từ một cơ thể cường tráng, James Brodie đã chọn nghề bán nón - một nghề nghiệp
cao quý, vì nó cho phép ông chỉ nhìn người đối diện bằng con mắt từ bên trên! - Và trong công việc, ông cũng chỉ tiếp xúc với giới thượng lưu. Mọi giao tiếp khác với tất cả những khách hàng thuộc loại tầm thường trong xã hội, James Brodie phó mặc cho một người giúp việc.
Gia đình James Brodie gồm có mẹ, vợ ông, con trai và hai người con gái. Mẹ ông: một gánh nặng! Vợ ông: một người đàn bà nô lệ, sợ đến cả từng cái liếc mắt của chồng; đối với ông, bà chỉ có ích như là một người đầy tớ không công! Cậu con trai: nhu nhược, hoang đàng.
Còn hai cô con gái? Mary yêu một công nhân bình thường - Và điều đó, đối với James Brodie, là cả một sự thách thức ghê gớm. Trong một đêm mưa bão, ông đã thẳng tay xua đuổi nàng ra khỏi nhà, ngay sau khi khám phá ra nàng đang trong tình trạng chuẩn bị sinh nở. Cuối cùng, chỉ còn lại Nessie nằm trong mọi ý nghĩ của ông. Nhưng ngay cả tình thương cũa James Brodie đối với cô con gái út cũng không bình thường. Tính háo danh, hãnh tiến và sự ngu dốt đã khiến ông buộc Nessie - đang độ tuổi bắt đầu lớn - suốt ngày giam mình trong phòng học - học đến khủng hoảng.
Cuộc sống gia đình là địa ngục. cuộc sống bên ngoài xã hội cũng là địa ngục đối với James Brodie. Ông luôn luôn cảm thấy mình phải chung đụng với một "lũ người dơ bẩn", luôn luôn khát khao điên cuồng một chỗ đứng lớn hơn tất cả, cao hơn tất cả. Thảm trạng tất yếu xảy ra. Ông chủ tiệm nón phá sản. Tất cả đều bỏ rơi ông, tất cả đều nguyền rủa ông, nguyền rủa tòa lâu đài âm u, nơi đã giam hãm bao con người đáng thương, giam hãm ngay chính chủ nhân của nó nữa.
Bằng cái nhìn trầm tĩnh, sâu lắng mà không kém phần nhân văn, A.J.Cronin đã phơi trần những bệnh trạng của con người trong xã hội Anh thế kỷ XIX, qua một con người cụ thể. Tất nhiên, James Brodie không phải là một điển hình, nhưng, qua ông, qua mối giao tiếp của ông với một tập thể "thượng lưu" một góc xã hội hé mở... Và, thông qua tác phẩm, chúng ta có thể nhận thức rõ điều này: "... Kẻ nào khinh thường quần chúng, chà đạp lên tình yêu chân thật giữa con người với con người, chạy theo vẻ hào nhoáng giả dối và ích kỷ của giai cấp được gọi là thượng lưu quý phái, kẻ ấy tất yếu sẽ phải nhận những hình phạt xứng đáng"...
Chính bởi những điều mang tính xã hội và nhân đạo sâu sắc ấy mà bác sỹ Cronin đã trở thành Nhà văn lớn ngay từ tác phẩm đầu tiên.
LÂU ĐÀI NGƯỜI BÁN NÓN
Archibald Joseph Cronin
www.dtv-ebook.com
Tập I - Chương 1
Mùa xuân 1879 đặc biệt đến sớm và êm dịu. Trong các vùng đất thấp, lúa mì sớm đã lú mầm xanh, hoa dẻ đã nở vào tháng tư, và những hàng cây đào gai dọc theo các con đường đã trổ hoa trước một tháng. Nhiều chủ nông trại tỏ vẻ vui mừng một cách dè dặt giữa lúc những đứa bé hồn nhiên chơi đùa quanh các thùng nước. Dọc theo con sông lớn, tiếng ầm ĩ đinh tai nhức óc của xưởng đóng tàu đã dịu xuống; và xa khỏi mấy ngọn đồi, vang êm trong không khí ấm áp, là tiếng vù vù của một con ong vội vã, đang bị những tiếng "be be" của đàn cừu che lấp. Trong thành phố, các công nhân cởi áo vét- tông ra, vừa đi dạo vừa cằn nhằn về thời tiết nóng bức, chính sách của Lord Beaconsfield 1, cuộc chiến tranh với người Zoulou 2 và giá rượu bia quá đắt.
Vào ngày đầu của năm, từng phiến mây mỏng đứng lửng lơ trong bầu không khí mệt mỏi, nhưng tới xế
chiều, chúng từ từ chuyển động: một cơn gió ấm đã đẩy chúng đi, và sau khi chúng đã khuất dạng ở chân trời, gió bèn đi xuống thành phố. Đầu tiên gió thổi đến khối đá cao lịch sử che khuất hợp lưu của sông Leven với sông Clyde, hình dáng nặng nề của khối đá với những đường nét sắc nhọn vươn lên trên bầu trời màu ngọc mắt mèo, trông giống như thân hình bất động của một con voi khổng lồ. Cơn gió ấm bọc quanh khối đá, thổi nhanh qua các con đường nóng bức của thành phố rồi lang thang qua nhiều ụ đóng tàu cao ngất, có mấy máy cần cẩu quay tít và các thân tàu đang được đóng trong các xưởng của công ty Latta nằm dọc theo cửa sông. Sau đó gió từ từ đi vào con đường Nhà Thờ, có tòa thị chính, và trường đại học rất đẹp.
Nhưng sau khi đã chán chơi đùa dọc theo những thềm nhà bằng cát đỏ, gió muốn đến miền quê. Ung dung lướt trên các con đường xinh đẹp đưa thẳng ra vùng đồng nội, gió bỗng trở nên lạnh hơn khi thổi đến
ngôi nhà cuối cùng.
Đó là một ngôi nhà kỳ dị, có bảy căn phòng, được xây cất một cách vững chắc bằng đá xám và lối kiến
trúc của nó có một không hai.
Nền nhà là một hình chữ nhật hẹp, chiều dài chạy thẳng ra đường, các vách tường không xây thẳng từ mặt đất lên, mà từ một nền cao bằng đá trông như một con vật chân bị lún sâu xuống đất. Cửa ra vào rất hẹp, mang một vẻ bất thân thiện giống như cái miệng đang nhíu lại một cách khinh bỉ. Mấy cửa sổ cũng bé nhỏ, không có khuôn. Đó chỉ là các lỗ hổng được khoét trong các vách tường, hạn chế ánh sáng lọt vào ngăn cản những cặp mắt tò mò.
Nhìn chung, ngôi nhà có vẻ u ám dễ sợ, như có ẩn chứa một cái gì bí hiểm, đen tối. Kích thước khiêm nhường của nó không cho nó cái vẻ hiên ngang huy hoàng của một lâu đài lãnh chúa, mặc dầu cái tháp, bức tường thành có lỗ châu mai và các góc tường nhọn khiến cho ta có cảm giác đó. Những lỗ châu mai đúng là những lỗ châu mai thực sự, với những đường nét khác thường nhưng không hề có vẻ khôi hài, và trong lối kiến trúc táo bạo của nó có một cái gì buộc sự nhạo báng phải im lặng: một sự quan sát kỹ sẽ cho ta thấy cái nguyên cớ sâu xa, bí mật và đầy bệnh hoạn của nó.
Người dân ở thị trấn Levenford không bao giờ ra mặt chế nhạo ngôi nhà này. Có một cái gì đó - như một sức mạnh vô hình bao bọc ngôi nhà - ngăn cấm họ, ngay cả một nụ cười mỉa mai. Trước nhà không một bóng cây, chỉ có một sân cát trống trơn rất sạch và ngay giữa sân là một khẩu đại bác nhỏ bằng đồng. Trước kia nó là một trong những khẩu đại bác nằm oai vệ trên một chiếc thuyền ba cột buồm. Sau nhiều năm bị lãng quên, bây giờ nó được lau chùi bóng loáng và uy nghi vươn mình giữa hai đống đạn đại bác nằm cách đều hai bên, như cố góp thêm một nét quái dị cho ngôi nhà kỳ lạ này.
Phía sau ngôi nhà là một sân cỏ vuông vức, bốn góc đóng những cọc sắt, được một bức tường đá cao bao bọc. Sát bức tường mọc lên vài cây lý èo uột, và một cây hoa đinh hương không bao giờ trổ hoa, vẻ u buồn, ủ rũ nghiêng cánh trước cửa sổ phòng bếp.
Nhìn qua cửa sổ, có thể thấy vài đồ vật bên trong. Đó là một căn phòng dễ coi, được trang bị vài ghế dựa, một đi- văng, một bàn lớn, một tủ cao kê sát tường, và một tủ buýp- phê ở vách tường bên kia. Vách tường phủ bằng một loại giấy màu vàng, một đồng hồ treo ở phía
trên cửa lò sưởi. Dưới nền trải một tấm thảm. Tất cả những thứ đó cho biết đây không hẳn là một nhà bếp. Nó là một gian phòng "chung", nơi đó người ta ăn uống, nghỉ ngơi và tụ họp để bàn công việc.
Lúc ấy là 5 giờ 20 phút và bà cụ Brodie đang nướng bánh mì. Đó là một người đàn bà thân hình xương xẩu, nhỏ thó, nhưng không yếu ớt dưới sức nặng của cái tuổi bảy mươi hai. Da nhăn nheo, sù sì như một thân cây khô cằn nhưng vẫn còn sức chịu đựng. Hai bàn tay nổi đầy gân, với các lóng tay phù lên vì chứng viêm khớp. Gương mặt màu lá úa vắt ngang dọc bao đường nhăn; tóc bà vẫn còn đen, chải rẽ ở giữa, để lộ một đường thẳng trên chiếc sọ trắng, và được thắt lại ở sau ót thành một cái nơ cứng; vài sợi lông ngắn và cứng nhô lên rải rác ở cằm và ở môi trên của bà. Bà mặc áo chẽn với chiếc khăn choàng màu đen, một váy dài và đội mũ bo nê nhỏ cùng màu, chân mang giày cao cổ cột bằng dây thun.
Nghiêng mình về phía bếp lửa, cầm chiếc nĩa bạc đặc biệt trong cả hai bàn tay run rẩy, bà hết sức thận trọng nướng hai lát bánh mì dày mà lát nữa sẽ thuộc về phần
bà. Nướng xong, bà đặt chúng vào cái đĩa gần bà nhất. Sau đó, bà tiếp tục công việc còn lại một cách lơ đễnh, vừa nói lầm bầm trong tiếng va chạm lập bập của mấy cái răng giả. "Thật không thể chấp nhận được" - bà nghĩ
- "việc con Mary không mang phó-mát về, con bé này càng ngày càng trở nên cẩu thả, và trong những việc quan trọng như thế, người ta không thể nào tin cậy nó được. Uống trà mà không có phó-mát thì còn ngon lành gì nữa?"
Phó-mát Dunlop tươi! Hình ảnh này đã làm rung động môi trên và khiến một dải nước bọt chảy ra ở khóe miệng bà.
Tay vẫn làm việc, song mắt bà không ngừng ném những cái nhìn trách móc về phía đứa cháu nội, đang ngồi trong góc đối diện, trên chiếc ghế bành dành riêng cho cha cô mà không một ai được phép ngồi.
Tuy nhiên, Mary không hề nghĩ đến miếng phó-mát hay cái ghế. Đôi mắt dịu dàng của nàng đang mải nhìn vào một nơi xa xăm, như thể nàng trông thấy ở đó một cảnh thần tiên tuyệt vời nào vậy.
Thỉnh thoảng miệng nàng hé nở một nụ cười, rồi sau đó lắc đầu nhè nhẹ, làm rung động mấy lọn tóc. Đôi tay trắng mịn đặt trên hai đầu gối, nàng ngồi thẳng như một thân cây, xinh xắn với vẻ đẹp thanh thản nhưng bí ẩn
của một mặt nước hồ sâu thẳm và bình lặng, trên đó vươn lên những cành lau sậy mềm mại.
Nỗi bất bình mỗi lúc một lớn ở trong lòng đã thúc đẩy bà cụ lên tiếng. Vì thể diện của mình, bà không thể nói thẳng điều bà muốn nói, chỉ nói loanh quanh với một vẻ cay đắng càng lúc càng gia tăng:
- Mary, mày đang ngồi trong ghế bành của cha mày! Không có tiếng trả lời.
- Cái ghế bành mà mày đang ngồi là của cha mày, mày có nghe tao nói không?
Cũng không có tiếng trả lời. Thế là, run lên vì cơn tức giận bị dồn ép, bà cụ la lên:
- Mày có điếc và câm không, con bé lười biếng kia? Tại sao mày lại quên món đồ mà mày được sai đi lấy?
Trong tuần lễ này ngày nào mày cũng phạm lỗi. Thời tiết nóng bức đã làm cho mày điên rồi chăng?
Như một người đang ngủ mê thình lình bị đánh thức, Mary ngước mắt lên, định thần lại và mỉm cười:
- Bà nội đang nói với con phải không?
- "Không", bà già la lên một cách gay gắt, "tao chỉ mở miệng ra để đớp những con ruồi. Đó là cách hay nhất để giết thì giờ, khi người ta không có chuyện gì để làm. Tao chắc mày đã thử làm như vậy khi mày đi xuống phố hồi trưa nay, nhưng nếu mày ngậm miệng lại và mở lỗ tai ra thì có lẽ sẽ hay hơn".
Lúc đó, Margaret Brodie từ nhà bếp phụ bước ra, tay bưng một bình trà lớn. Bà bước từng bước nhỏ lính quýnh, thân hình nghiêng về phía trước, đó là dáng đi quen thuộc của bà, khiến bà lúc nào cũng có vẻ vội vã.
Đầu bà lúc nào cũng nghiêng về một bên, và cái mũi hình như cũng lệch theo như vậy, có lẽ vì cảm tình với cái đầu, hay vì một thói quen mà bà đã mắc phải trong
mấy năm sau này: bà chùi cái mũi từ phải sang trái với lưng bàn tay. Gương mặt úa héo của bà trông mệt mỏi đến cảm động. Bà mới bốn mươi hai tuổi nhưng trông già hơn đến mười năm. Đó là mẹ của Mary.
Đã từng kinh nghiệm về mọi tình huống xảy ra trong gia đình, mẹ - tất cả mọi người trong nhà đều gọi bà Brodie như vậy - nhận thấy ngay sự giận dỗi của bà cụ và vẻ bối rối của Mary. Bà la lên:
- Đã cháy hết một lát rồi… Đưa lát bánh mì cháy dở đó tôi ăn cho. Chúng ta không nên hoang phí.
Bà lấy miếng bánh mì cháy và cố ý đặt nó trên đĩa của mình sao cho mọi người thấy rõ rồi bắt đầu dọn dẹp một cách không cần thiết tất cả mọi thứ ở trên bàn, như
thể không có việc gì đã được làm đàng hoàng và sẽ không bao giờ đàng hoàng nếu không có tay bà nhúng vào.
- Dọn bàn kỳ cục quá! - Bà lầm bầm chê trách, trong khi con gái bà đi ra ngoài
- Nessie, Nessie, tới giờ rồi, đã tới giờ rồi! Mary gọi lớn.
Một giọng con nít cao và thanh vang lên ở trên lầu: - Em xuống liền… chờ em một chút.
Một lát sau, hai chị em cũng bước vào. Nhìn hai chị em, người ta thấy ngay một sự tương phản nổi bật trong tính tình và thể chất. Nessie thuộc một mẫu người hoàn toàn trái ngược với chị của nó. Mái tóc tết lại thành hai bím, đôi mắt trong, hiền lành, và luôn luôn mang một vẻ dịu dàng êm ái như lúc nào cũng muốn tìm cách làm vui lòng mọi người. Nó có một gương mặt đẹp với cái trán cao màu tinh khiết, đôi má hồng, cằm nhọn và cái miệng nhỏ nhắn.
- Thưa mẹ, phải chăng chiều nay chúng ta bắt đầu hơi sớm? Nó hỏi, vừa tiến đến cạnh mẹ.
Đang bận sắp xếp nốt bàn ăn, bà không nhìn con.
- "Con đã rửa tay chưa?" - Rồi liếc mắt nhìn đồng hồ, bà ra lệnh: - "Chúng ta ngồi!".
Tất cả bốn người ngồi vào bàn, bà nội ngồi xuống trước như thường lệ. Họ chờ đợi. Lúc đó trong bầu không khí im lặng, vang lên âm thanh trang nghiêm của cái đồng hồ treo đang gõ nửa giờ ở phòng ngoài, đồng thời cánh cửa được mở ra và đóng lại một cách mạnh mẽ. Mọi người nghe thấy tiếng cây can được cắm vào giá, tiếng bước chân nặng nề trong hành lang: cửa phòng bật mở và James Brodie tiến vào. Ông ta đi thẳng đến cái ghế riêng, đưa tay lấy tách trà, một đĩa trứng, bánh mì đã phết bơ rồi ngồi xuống ăn ngay. Đó là lý do vì sao cả nhà phải làm việc đúng giờ. Thật vậy, bổn phận phải phục vụ ông không được chậm trễ - vào giờ ăn cũng như trong mọi việc - là một phần của luật lệ không thành văn trong nhà.
Brodie thường ăn ngon lành với một vẻ thích thú rõ rệt. Đó là một người đàn ông to con có đôi vai và cần cổ của một con bò mộng. Đầu nặng nề, cặp mắt nhỏ xíu màu xám, sâu hoắm, cái cằm mạnh mẽ, đầy thịt đến nỗi khi ông nhai, một khối thịt cứng nổi lên di chuyển tới lui bên dưới gò má màu nâu. Gương mặt ông sẽ đẹp biết mấy, nếu không có vầng trán quá thấp và hai con mắt
quá gần nhau. Một hàm râu mép dày bao phủ môi trên, che khuất một phần cái miệng, môi dưới nhô ra phía trước với một vẻ cao ngạo.
Đôi tay khổng lồ, ngay cả trên những ngón tay bẹt đầu, thô kệch, cũng có lông đen bao phủ. Con dao và cái nĩa nằm trong bàn tay to lớn dị thường của ông trông như những món đồ chơi tí hon.
Ông chủ đã ăn, tức là mọi người được phép. Bà nội Brodie khởi đầu trước tiên bằng cách ăn ngấu nghiến hai lát bánh mì của bà. Thỉnh thoảng, khi con bà vui vẻ, ông ta ầm ĩ mời bà vài miếng nhỏ lấy từ đĩa của ông, nhưng buổi chiều đó, trước thái độ lầm lì của ông ta, bà thấy không có hy vọng gì được cái thú hiếm hoi đó, và bà bằng lòng với món ăn khiêm tốn của mình. Nessie ăn nhỏ nhẻ, nghiêm trang. Mary vừa ăn vừa nghĩ đến chuyện khác, còn bà Brodie - trước đó một giờ đã ăn bữa nhẹ - chỉ nhấm nháp miếng bánh mì cháy với vẻ của một người đàn bà quá yếu đuối, hết sức chăm lo cho kẻ khác, không màng đến việc ăn uống.
Một sự im lặng tuyệt đối ngự trị trong phòng, thình
thoảng chỉ vang lên tiếng hớp nước trà khi đôi môi đầy râu nhấm vào tách, tiếng động của hàm răng giả của bà nội đang cố gắng dùng bữa, và một tiếng khịt bất chợt phát ra từ cái mũi ngoan cố của mẹ. Những người trong bàn không hề tỏ vẻ ngạc nhiên thích thú, bối rối hay tiếc rẻ về việc không có một câu nói nào được trao đổi với nhau. Họ chỉ lặng lẽ nhai, uống và nuốt dưới con mắt đầy đe dọa của Brodie. Khi ông ta thích giữ im lặng, không một ai được phép nói lên một tiếng nào. Buổi chiều hôm đó gương mặt ông ta đặc biệt đen tối, nhìn bàn ăn với vẻ mặt nhăn nhó, và sau hai miếng ăn, liếc nhìn mẹ ông ta với một vẻ không bằng lòng vì bà đang chấm bánh mì vào tách trà. Cuôi cùng ông ta ném cho bà một câu:
- Sao bà lại ăn uống dơ bẩn như vậy?
Giật mình, bà ngước đôi mắt nhấp nháy lên nhìn ông ta:
- Cái gì, Jame?
- Bà ăn uống không quý phái chút nào.
- Má đã quên… quên phứt đi mất… má sẽ không làm như vậy nữa… phải, phải, má sẽ nhớ điều đó.
Và trong sự bối rối của mình, bà ợ lên dữ dội.
- "Tốt lắm", - Brodie cười gằn - "Bà hãy nhớ lại cái tư cách đẹp đẽ của mình" - Gương mặt của ông ta lại sa sầm xuống - "Thật là đẹp! Một con người như tôi mà phải chịu đựng bao điều tồi tàn như vầy ở tại cái nhà này!"
Ông ta đưa nắm đấm khổng lồ của mình lên tự đấm vào ngực nghe một tiếng "binh" như tiếng trống.
- "Tôi", ông ta la lớn, "tôi!". Thình lình, ông ta dừng lại, đôi mắt liếc nhìn khắp xung quanh, rồi lại tiếp tục ăn.
Ông ta đã "phạm lỗi" rồi: Ông ta đã nói. Cũng theo những luật lệ bất thành văn được hiểu ngầm trong gia đình, chính sau lúc ông ta mở miệng, thì mọi người được phép nói chuyện với nhau.
- Nessie, con hãy đưa cái tách của cha con đến đây, để mẹ rót thêm trà. Mẹ chắc cha con đã uống hết trà rồi.
- Bà Brodie nói, cố làm cho bầu không khí dịu xuống. - Đây, mẹ!
- Mary, con hãy ngồi thẳng lên và đứng phá rầy cha con. Ồng đã mệt nhọc sau một ngày làm việc.
- Thưa mẹ, vâng. - Mary đáp, ngồi thẳng lên. - Và đưa mứt cho cha con.
Người ta bắt đầu xoa dịu cơn giận của con sư tử; và chỉ một phút sau nó lại bùng lên dữ dội mà nguyên do chỉ vì một vấn đề bình thường vô hại. Lúc ấy, mẹ quay sang Nessie, âu yếm:
- Thế nào, bé Nessie của mẹ, hôm nay ở nhà trường như thế nào?
- Thưa mẹ, rất tốt - Nessie trả lời một cách rụt rè. Brodie sắp sửa đưa tách trà lên môi, bỗng dừng lại.
- Rất tốt hả? Con luôn luôn đứng đầu lớp, phải không?
- "Thưa ba, hôm nay…" - Nó nói, mắt nhìn xuống - "con chỉ đứng hạng nhì thôi".
- Sao, con đã bị hạ? Đứa nào?
- John Grierson.
- Grierson, con của tên buôn bán lúa gạo đó à? Thằng bé của tên sản xuất cám heo hôi hám đó à? Nó sẽ tha hồ khoe khoang trong nhiều tuần lễ cho mà xem. Ôi! Tại sao con để bị hạ?
Con bé òa lên khóc. Mary can thiệp một cách can đảm:
- Thưa ba, nó đã dẫn đầu lớp trong suốt sáu tuần lễ liền, và mọi đứa khác đều lớn tuổi hơn nó.
- "Mày câm đi". - Brodie hét lên, vừa quắc mắt nhìn Mary - "Mày chỉ nói khi nào mày được phép. Chốc nữa, tao nói với mày, lúc đó mày tha hồ múa lưỡi".
- "Tại cái môn Pháp văn" - Nessie vừa nói vừa khóc. "Con không thể nào nhét được các giống đực và giống
cái vào đầu. Các môn toán, lịch sử, địa lý thì dễ, nhưng cái môn Pháp văn đó khó quá. Con có cảm giác con sẽ không bao giờ học được nó".
- Con sẽ không học được môn đó ư? Ba tin là được, rằng con sẽ học được… Ba sẽ làm cho con phải học được. Mặc dù con chỉ là một đứa bé! Người ta nói với ba con có nhiều khả năng… một trí thông minh mà con thừa hưởng nơi ba. Và ba sẽ giúp con sử dụng cái trí thông minh đó. Tối nay con sẽ làm bài tập gấp đôi.
- Dạ. Tất cả những gì ba muốn - Nessie thở ra, một tiếng nấc cuối cùng làm nó rùng mình.
- "Tốt lắm!" - Vẻ mặt cứng rắn, đen tối của Brodie bỗng thoáng sáng lên một cách bất ngờ, như một tia sáng mặt trời bỗng rơi lên một khối đá đen xì. "Ba sẽ cho cả thị trấn Levenford thấy trí thông minh của con gái ba. Ba sẽ giúp con trở thành một nữ sinh viên đầu tiên của trường đại học. Nhưng bây giờ con phải siêng năng, và cương quyết theo đuổi việc học.
Ngước mắt lên, nhìn đăm đăm vào một điểm xa xăm,
như thể đang nhìn ngắm tương lai, Brodie thì thầm: "Ta sẽ cho họ thấy…". Rồi đưa mắt nhìn lại Nessie, ông ta vuốt đầu tóc nó và nói thêm:
- Con đúng là con gái của ba, và con sẽ làm vinh dự cho cái tên Brodie.
Ông quay đầu lại nhìn cô con gái lớn, vẻ mặt bỗng thay đổi, đôi mắt tối sầm lại.
- Mary.
- Dạ!
- "Tao muốn nói với mày một chuyện, mày có cái lưỡi dài lắm!" - Rồi bớt vẻ nhạo báng cay độc, ông ngả lưng vào ghế bành, cân nhắc từng lời nói với vẻ bình tĩnh đáng sợ của một quan tòa. "Thật là thích thú khi được người ta cho biết những tin tức về gia đình này, dĩ nhiên chúng không hề đem lại vinh dự gì, mà ngược lại…". Giọng nói của ông càng lúc càng trở nên lạnh lùng - "Ngày hôm nay, trong khi nói chuyện với một nhân viên của hội đồng thành phố, tao được biết mày đang nói
chuyện với một thanh niên, một thanh niên rất đẹp trai…".
Và nhe răng ra, ông ta nói tiếp bằng một giọng cay độc: "… mà tao cho là một tên hèn hạ và bất lương, một tên vô lại."
Bằng một giọng rên rỉ, bà Brodie bênh con một cách yếu ớt:
- Ồ! Không! Mary, đó không phải là con, con là một đứa con gái đáng kính trọng. Con hãy nói với cha rằng đó không phải là con!
Nessie nhẹ người vì đã thoát khỏi sự cật vấn, buột miệng kêu lên, không suy nghĩ:
- Ồ, chị Mary! Đó có phải là anh Denis Foyle không?
Mary không động đậy, đôi mắt nhìn đăm đăm vào đĩa thức ăn, một vẻ nhợt nhạt kỳ lạ xuất hiện chung quanh miệng, rồi, cảm thấy cổ họng bị một vật gì chặn nghẹt, nàng nuốt ực một cái, nói bằng một giọng nhỏ nhưng cương quyết:
- Anh ấy không phải là một kẻ vô lại.
- Sao? - Brodie gầm lên - Mày trả lời với cha mày như thế để bênh vực cho một tên hèn hạ… hôi hám, một tên Ái Nhĩ Lan, một tên du đãng à? Không, những tên "Paddy" 3 này có thể từ các đầm lầy của chúng đến đào trộm khoai tây của tao… nhưng bao nhiêu đó đủ rồi. Chúng đừng làm ra vẻ kiêu hãnh. Tên già Foyle có thể là người chủ quán giỏi nhất ở Darroch, nhưng điều đó không thể làm cho con trai hắn trở thành một người lịch sự đàng hoàng.
Toàn thân Mary run lên, đôi môi cứng ngắc và khô ran:
- Thưa ba, anh Denis có một địa vị riêng của anh ấy và anh ấy không hề dính dáng gì đến việc buôn bán rượu. Anh ấy làm việc cho công ty Findlay ở Glasgow, một công ty nhập cảng trà, và nhất định họ không có dính líu gì với… với cái nghề kia.
- "Thật thế". Ông ta chế nhạo, "đây là một tin tức thật hay. Mày còn điều gì khác nữa để nói về những tình
cảm cao quí của con người lịch sự đó không? Hắn không bán rượu whisky mà bán trà, hình như thế. Đó là một nghề đẹp đẽ cho con trai của một chủ quán rượu. Và rồi sao nữa?"
Mary biết cha cố tình hạ nhục mình, nhưng nàng không thể im lặng để xoa dịu ông ta:
- Thưa ba, anh ấy không phải là một công nhân thường. Anh ấy rất được công ty trọng đãi. Anh ấy… anh ấy hy vọng sẽ được thăng thưởng… và sau này trở thành người có phần hùn…
- "Mày nói nhiều quá", Brodie càu nhàu. "Nó đã nhét vào sọ mày quá nhiều điều ngu xuẩn… Không phải là một công nhân thường… một tên quảng cáo hàng tồi tệ, phải, đúng như vậy phải không? Nó không khẳng định với mày là sau này nó sẽ trở thành Thị trưởng London sao? Cũng có thể lắm, cái thằng nhãi ranh đó!"
Đôi mắt đầm đìa nước mắt, Mary vẫn còn chống chế, mặc dầu có tiếng rên rỉ cảnh cáo của mẹ:
- Thưa ba, anh ấy được mọi người yêu mến, con bảo đảm với cha. Ông Findlay rất thích anh ấy, con biết chắc như vậy.
- "Thôi đi, mày tưởng tao sẽ tin những gì nó nói với mày sao? Đó chỉ là lời nói láo, những lời nói láo trắng trợn." Ông ta lớn tiếng lặp lại. "Nó chỉ là một tên mất dạy hèn hạ. Có thể trông cậy được gì nơi một tên vô lại như thế? Chả có gì sạch sẽ hết. Việc mày đã nói chuyện với nó là một điều sỉ nhục đối với tao rồi… Nhưng đó là lần cuối cùng mày nói chuyện với nó! - Brodie nhìn Mary một cách cương quyết và lập lại bằng một giọng giận dữ:
- Đúng vậy, từ nay về sau mày sẽ không bao giờ được nói chuyện với nó nữa, tao cấm tiệt mày.
- Nhưng, thưa ba… - Mary khóc thút thít - Ồ! Thưa ba, con… con…
- "Mary, Mary". Giọng bà mẹ vang lên từ đầu kia của cái bàn. "Đừng nói nữa. Thật ghê tởm khi nghe con trả lời ba con bằng một giọng như thế!"
Bà có ý định làm cho hai người dịu lại, nhưng lần này câu nói của bà là một sai lầm về chiến thuật. Với ánh mắt rực lửa, Brodie đổ cơn giận lên đầu vợ:
- Việc gì mà bà phải rên rỉ? Bà đang nói hay tôi đang nói? Nếu bà có điều gì đó muốn nói, tôi sẽ im lặng để nghe cái điều kì diệu lớn lao đó, nhưng nếu bà không có gì để nói thì bà hãy ngậm miệng lại và đừng ngắt lời tôi nữa. Bà cũng có tội như nó. Con hư tại mẹ mà!
Ông ta khịt mũi, và theo thói quen của mình, dừng lại để tạo ra một bầu không khí im lặng nặng nề, cho đến lúc bà cụ - nãy giờ không theo dõi câu chuyện, nhưng có cảm giác Mary đang bị mắng - để cho nỗi ấm ức riêng tư của bà được thoát ra bằng một giọng hờn giận già nua:
- James, ngày hôm nay nó không đem phó - mát của mẹ về, cái con bé ngu dại đó.
Rồi, sau khi đã xả được cơn giận, bà dịu xuống, nói lầm bầm trong miệng vừa lắc đầu như một người bại liệt.
Không để ý đến câu nói của bà, ông Brodie nhìn lại Mary, từ từ nói tiếp:
- Tao đã nói rồi. Nếu mày cãi lời tao, thì mày sẽ biết. Còn một điều này nữa: tối nay hội chợ Levenford sẽ khai mạc. Mày đừng quên: không một đứa con nào của tao được đến gần chỗ đó. Cả thành phố có thể đi đến đó, tất cả bọn người hạ cấp trong vùng đều có thể vào đó, cùng với cái tên Foyle và bạn bè của chúng, nhưng không một người nào của gia đình Brodie được hạ mình đến đó. Tao cấm!
Nói xong, ông ta xô cái ghế, đứng thẳng người lên một lúc, nhìn chòng chọc vào đám người nhỏ bé đang run sợ. Rồi, ông bước đến chiếc ghế bành trong góc phòng, ngồi xuống và bằng một cử chỉ máy móc, do thói quen, đưa bàn tay lên cái giá cắm ống điếu, mò mẫm lựa một cái, cẩn thận nhồi thuốc vào và châm lửa bằng một miếng giấy cuộn tròn mồi trong lò sưởi. Khi đã làm xong một loạt động tác trên (giữa lúc đó, nhóm người lặng lẽ vẫn còn ngồi ở bàn ăn), ông ta thong thả hút, môi dưới ướt và trề ra, mắt vẫn trông chừng những người kia, nhưng lần này với vẻ bình tĩnh của một quan
tòa đầy quyền lực… Mặc dầu đã quen thuộc, gia đình Brodie lúc nào cũng khiếp sợ trước cái nhìn dữ dội của ông. Bây giờ họ nói chuyện nho nhỏ với nhau, gương mặt của mẹ vẫn còn đỏ, đôi môi của Mary vẫn tiếp tục run run trong khi nói, và Nessie đang đùa với cái muỗng của nó. Chỉ có bà cụ là vẫn bình thản, tận hưởng cái cảm giác dễ chịu sau một bữa ăn.
Lúc ấy, người ta nghe có tiếng bước chân vào nhà. Đó là một thanh niên hai mươi bốn tuổi, cao mảnh khảnh, gương mặt xanh xao, luôn luôn có cái nhìn hơi lén lút và không ngay thẳng, ăn mặc chưng diện tùy theo túi tiền của cậu. Nhất là đôi bàn tay của cậu làm cho người ta phải chú ý: to, mềm dịu, trắng toát, móng tay cắt thật sát và để lộ các khúc thịt tròn ở đầu ngón tay. Cậu buông mình xuống ghế, làm như không thấy ai trong căn phòng, lặng thinh lấy tách trà của mẹ trao và bắt đầu ăn. Đó là Mathieu, con trai duy nhất của James Brodie. Cậu được phép về trễ, bởi vì cậu làm việc trong kho tiếp liệu cho tàu bè của cơ xưởng Latta, và chỉ ra về vào lúc sáu giờ.
- Nước trà có ngon không? - Mẹ cậu ân cần hỏi nho
nhỏ.
Mathieu gật đầu trả lời.
- Hãy dùng nước quả táo nấu đông này, ngon lắm. - Bà nhỏ giọng năn nỉ. - Con có vẻ hơi mệt. Hôm nay con làm việc nhiều lắm phải không?
Mathieu gật đầu mơ hồ, hai bàn tay động đậy không ngừng: cắt bánh mì, khuấy nước trà, gõ nhịp lên bàn… Những cái nhìn xuống, sự nhai nuốt vội vàng, sự xao động liên tục của hai bàn tay là do cặp mắt dữ tợn của cha cậu.
- "Một tách trà nữa nhé?" - Mẹ cậu thì thầm, vừa đưa bàn tay ra. - "Con ăn mấy miếng bích-qui này, mới làm đó."
Rồi, như bỗng sực nhớ ra điều gì, bà nói thêm: - "Hôm nay, bao tử con có đau lắm không?"
- Không đau lắm - Mathieu trả lời cộc lốc, mắt vẫn cúi xuống.
- Vậy con nên ăn chầm chậm, Matt. Con ăn nhanh quá.
- Nhưng thưa mẹ, con còn phải đi gặp Agnès tối nay - Cậu nói thật nhỏ, như để giải thích cho sự vội vã của mình.
Bà Brodie gật đầu nhè nhẹ để tỏ ra mình đã hiểu. Đúng lúc này bà cụ đứng lên, giũ các mẩu bánh mì vụn rơi trên đầu gối xuống, rồi vừa ngồi vào ghế bành của bà vừa tự hỏi hôm nay con trai bà có nói chuyện với bà không. Khi ông ta thích, ông ta sẽ kể cho bà nghe một vài chuyện xảy ra trong thành phố, khoe với bà rằng ông đã hạ Waddel sát ván, ông thị trưởng Gordon đã thân mật vỗ lưng ông, và việc làm ăn của Paxton đang sa sút. Brodie không bao giờ khen ai trong các cuộc nói chuyện này, nhưng đối với bà cụ, những lời châm biếm mỉa mai của ông đều là một điều thích thú, những lời nhạo báng, cay độc của ông có một hương vị mà bà rất khoái; bà tận hưởng từng mẩu chuyện ngồi lê đôi mách của ông, luôn luôn sung sướng thấy con trai mình nổi bật, sáng chói.
Nhưng buổi tối hôm đó, Brodie giữ im lặng, mải mê theo đuổi những ý tưởng đã có vẻ bớt thù địch hơn lúc ở bàn ăn. Ông ta tự bào mình phải đàn áp Mary, hình như nó không giống ông tí nào. Thật vậy, Mary không bao giờ chịu khuất phục trước ông ta như ý ông ta muốn; cô không bao giờ tỏ vẻ kính trọng cha một cách tuyệt đối như những người khác. Để thỏa mãn lòng tự ái cá nhân, ông ta quyết triệt hạ cái tính cứng đầu, bướng bỉnh đó. Còn về chuyện giao thiệp với Denis Foyle, ông mừng rằng mình đã được biết sớm và đã bóp chết nó từ trong trứng.
Rồi, đôi mắt ông lại nhìn đến vợ ông, chỉ trong một giây thôi: Brodie cho rằng giá trị duy nhất của bà là tránh cho ông khỏi tốn tiền thuê một người giúp việc. Ông quay mặt đi chỗ khác thật nhanh, với một cái bĩu môi khinh bỉ tự phát và nghĩ đến những điều khác thú vị hơn.
Phải, đứa con trai của ông. Mathieu không phải là một đứa con trai xấu, có lẽ tính tình nó không được thẳng thắn lắm. Nó mềm yếu và khó hiểu, vì vậy nó cần phải được canh chừng thật kỹ; hơn nữa, mẹ nó lại cưng chiều nó quá. Nhưng một thời gian sống tại Ấn Độ chắc
chắn sẽ làm cho nó chín chắn hơn. Chỉ còn hai hay ba tuần lễ nữa, nó sẽ xuống tàu. À! Người ta sẽ bàn tán với nhau về điều này. Nét mặt của ông vui hẳn lên khi nghĩ rằng tất cả mọi người sẽ nhận thấy, qua sự việc này, ông là người được Sir John rất trọng đãi. Thêm một bằng chứng nữa về địa vị thượng lưu của ông trong thị trấn, một địa vị sẽ đem đến cho con trai ông nhiều điều lợi và nhất là sẽ làm cho chính ông trở thành một nhân vật quan trọng.
Tiếp đó, Brodie quay sang nhìn mẹ ông với một cái nhìn khoan dung hơn lúc bà cụ đang lập cập ăn uống. Bà chỉ nghĩ đến việc ăn uống thôi; và trong khi bà ngồi trước bếp lửa, ông ta biết bà đang nghĩ đến bữa ăn sắp tới gồm có món đậu Hà Lan nấu nhừ với sữa. Bà rất thích món đó và thường lặp đi lặp lại rằng:
- Không gì tốt bằng đi ngủ sau khi ăn một món nấu nhừ: nó như một miếng thuốc đắp lên bao tử.
Cuối cùng, ông ta nhìn lại Nessie, thoáng xúc động, không biểu lộ rõ trên nét mặt mà chỉ bằng một ánh mắt dịu dàng. Phải, bà cứ giữ thằng "Matt của mẹ" và cả con
Mary nữa… Nhưng Nessie là của ông. Ông sẽ biến con cừu non này trở thành một cái gì? Nó hãy còn quá nhỏ, nhưng con người nó có một cái gì đầy hứa hẹn. Mới buổi chiều nào đây, ông hiệu trưởng bảo đảm với ông ta rằng nó có khả năng trở thành một nhà bác học nếu nó học hết sức. Ngoài ra, trong đầu ông ta còn nhìn thấy tương lai, thấy cái học bổng Latta! Nessie sẽ thành công nếu nó được hướng dẫn đúng cách. Ôi! Chiến thắng này sẽ lớn lao biết mấy! Lần đầu tiên một đứa con gái được cấp học bổng Latta. Và đứa con gái đó, là con của Brodie!
Ông chưa biết mình sẽ có những dự tính gì cho Nessie, nhưng sự học là sự học…
Tất cả mọi người trong thành phố đều biết ông là một con người tiến bộ, một con người có những tư tưởng tự do, rộng rãi, và ông sẽ cho họ thấy điều này. Phải, ông sẽ nhét điều này vào những khối óc thấp kém của họ. Ông tưởng chừng như ông đã nghe họ bảo nhau: "Anh có biết tin này chưa? Con gái của Brodie sắp sửa vào đại học! Nó đã được cấp học bổng Latta, nó đoạt hết mọi phần thưởng ở trường và bây giờ ông Brodie cho phép
nó học tiếp. Đó là một cọng lông chim thật đẹp trang hoàng cho cái nón của ông ta."
Brodie phồng ngực lên, hai lỗ mũi mấp máy cử động, đôi mắt nhìn bất động vào khoảng không và cái ống điếu tắt ngấm hồi nào không hay. Ông ta sẽ bắt buộc họ phải biết đến ông ta, phải thấy rõ cái giá trị thật sự của ông ta vào một ngày nào đó.
Ý nghĩ về Nessie phai mờ dần trong tâm trí Brodie. Ông không còn nghĩ đến tương lai của nó nữa. Lúc này, trong mọi bức tranh do óc tưởng tượng của ông vẽ ra, chỉ còn lại duy nhất hình ảnh của ông ở giữa, và ông khoái trá đắm mình trong ánh vinh quang mà Nessie sẽ tô điểm lên cái tên của ông.
Chợt Brodie đứng dậy, giũ sạch sẽ tàn thuốc trong ống điếu, cắm nó vào giá, lặng lẽ ném cái nhìn đầy đe dọa về phía gia đình ông, như để nói: "Tôi đi đây nhưng các người hãy nhớ đến lời tôi dặn: bao giờ tôi cũng trông chừng các người." Rồi ông cầm lấy nón, cây can, và đi ra ngoài, không nói một tiếng. Đó là thói quen của Brodie: không bao giờ chịu nói cho gia đình biết ông đến
nơi nào. Họ tha hồ ức đoán và đành phải ở trong tình trạng hoang mang, không biết giờ nào ông về, cũng như lúc nào ông vui hay buồn… Brodie thích làm cho mọi người phải giật mình khi bất thình lình họ nghe tiếng chân ông.
Tuy nhiên, sự ra đi của James Brodie hình như đem đến cho gia đình ông một chút thoải mái vì bầu không khí ngột ngạt đã biến mất. Những bắp thịt của bà Brodie, căng thẳng suốt hơn một giờ, trở lại bình thường, đôi vai bà tìm lại được một chút nhẹ nhàng và trí óc bà cũng minh mẫn hơn. Bà dịu dàng nói:
- Tối nay mẹ hơi mệt, để mẹ đọc sách một chút cho khỏe.
- Thưa mẹ, vâng. - Mary trả lời, và lễ phép nói thêm. - Mẹ đã làm việc nhiều rồi, để con rửa chén cho.
Bà Brodie gật đầu nhè nhẹ như miễn cưỡng đồng ý, đứng dậy đi lấy quyển "Điều ước nguyện của Devenham". Cuốn tiểu thuyết này, cũng như mọi quyển khác bà đã đọc, đều mượn của phòng đọc sách
Levenford.
Âu yếm áp quyển tiểu thuyết vào ngực, bà ngồi xuống và liền đó hòa hợp cái cá tính bi đát, khốn khổ của bà với cá tính của nữ nhân vật chính trong truyện và đây là một trong những niềm an ủi hiếm hoi mà cuộc đời còn dành cho bà.
Mary nhanh nhẹn dọn dẹp chén đĩa, trải lên bàn một tấm vải hoa rồi đi vào gian bếp phụ, xắn tay áo lên làm việc.
Nessie ngồi trước bàn, nhớ lại những lời cha nó thúc giục, đưa mắt nhìn hình dáng nặng nề của mẹ, cái lưng của bà nội, rồi nhìn đến Matt đang ngồi xỉa răng. Sau cùng, với một tiếng thở dài, nó uể oải rút mấy quyển sách giáo khoa ra khỏi cặp.
- Hãy đến chơi cờ "đam" đã, chị Mary. - Nó kêu lên.
- Không, em cưng, cha đã dặn. Em làm bài đi. Sau đó, mình sẽ chơi một bàn..
- Tối nay em có lau chùi chén đĩa với chị không? -
Nessie hỏi khéo, cố tìm cách đẩy lùi giờ học lại. - Chị làm một mình cũng được rồi, em cưng. Nessie lại thở dài.
Nó nghĩ đến mấy đứa bạn của nó, chắc lúc này chúng đang chơi trò nhảy dây, đánh cầu, làm mèo bắt chuột, cùng nhiều trò giải trí tuyệt diệu khác. Và nó bắt đầu học bài, với một nỗi buồn thật lớn trong quả tim nhỏ bé của nó.
Bị quấy rầy trong sự mơ mộng của mình bởi những tiếng lầm thầm "Je suis, tu es, il est" không ngừng lặp đi lặp lại ở bên tai, Mathieu bèn đút cây tăm xỉa răng vào túi nhỏ ở lưng quần và đứng dậy. Từ lúc cha đi khỏi, cậu đã thay đổi thái độ, lấy một dáng điệu hơi kể cả đối với những người chung quanh, đưa mắt nhìn đầy ý nghĩa lên mặt đồng hồ và đi ra khỏi phòng với một dáng đi hơi kiểu cách.
Bây giờ sự im lặng ngự trị trong căn phòng, chỉ bị khuấy động bởi tiếng lật của một trang giấy, tiếng chén
bát chạm nhau từ gian bếp phụ và tiếng thì thầm không ngớt "nous sommes, vous etes, ils sont". Nhưng vài phút sau, tất cả những tiếng động này ngưng hẳn lại và Mary đi ra phòng ngoài, leo lên cầu thang, đến gõ cửa phòng của anh trai.
- Em có thể vào được không, anh Matt? - Nàng dịu dàng hỏi.
- Vào đi! - Một giọng nói đầy kiểu cách phát ra từ bên trong.
Khi Mary bước vào, Mathieu không ngước mắt lên, vẫn ngồi trên giường, trong một tư thế mà, nhờ một tấm kính đặt trên tủ theo một chiều nghiêng đã định trước, cậu có thể nhìn thấy mình trong gương. Cậu vẫn bình thản vừa ngắm nhìn mình vừa nhả ra những ngụm khói to tròn về phía tấm kính với một vẻ sành điệu.
- Thuốc xì - gà của anh thơm quá, anh Matt. - Mary nói với một vẻ ngây thơ.
Matt rút điếu xì- gà ra khỏi miệng một cách lịch lãm,
mắt vẫn không rời tấm kính, vẻ hài lòng.
- "Phải, đây là loại xì- gà thượng hạng. Năm điếu giá sáu xu, nhưng chỉ một mình điếu này thôi anh phải trả đến ba xu rưỡi. Nó là hàng mẫu, mùi thơm, nhưng cái hương vị của nó mới là điều mà các tay sành hút ưa thích. Một điếu xì- gà sẽ không được gọi là "thượng hạng" nếu nó không có hương vị". - Cậu quay mắt khỏi gương soi với một vẻ luyến tiếc, và nhìn sát điếu xì- gà hơn. "Anh sẽ dừng lại ở đây, anh đã hút khá nhiều rồi."
- Ồ! Hút nữa đi anh, thật là tuyệt, nó thơm hơn ống điếu nhiều.
- Không, anh chừa lại cho buổi tối.
- Chị Aggie Moir có thích anh hút không? - Mary thì thầm.
- Anh yêu cầu em đừng gọi cô ấy bằng Aggie - Mathieu chỉnh lại, giọng không bằng lòng. - Đã bao lẩn rồi, anh yêu cầu em đừng tỏ ra quá suồng sã trong cách xưng hô như vậy. Như vậy là thiếu lịch sự, như vậy là…
là em quá tự do.
- Em xin lỗi anh, - Mary nói, cúi mặt xuống.
- Được rồi. Em đừng quên rằng, cô Moir là một thiếu nữ, một thiếu nữ rất sang trọng, và hơn nữa, anh có ý định xây dựng gia đình với cô ấy. Phải, cô ấy rất thích anh hút thuốc… lúc đầu cô ấy phản đối, nhưng bây giờ cô ấy thấy hút thuốc là một cử chỉ rất đàn ông.
- Anh yêu cô Agnès lắm, phải không anh? Nàng hỏi một cách nghiêm trang.
- Phải, và cô ấy cũng yêu anh lắm. Đáng lẽ em không nên nói đến những gì mà em không hiểu, nhưng có điều em cần biết là những cặp trai gái đi dạo chung với nhau phải rất thương yêu nhau… Agnès tôn sùng anh. Nếu em thấy tận mắt những món quà cô ấy tặng anh! Thật đáng hãnh diện biết bao cho một cậu trai có được một tình yêu như vậy.
Mary im lặng, nhìn Mathieu trân trân rồi bỗng nhiên nàng đặt bàn tay lên ngực, chỗ quả tim mình.
- Lúc xa nhau, mỗi khi nhớ đến cô Agnès, anh có đau khổ không, anh Matt?
- "Dĩ nhiên là không". Cậu ta trả lời, giọng không tự nhiên. "Mà em hỏi gì kỳ vậy. Em chỉ giỏi hỏi bậy bạ. Thôi bao nhiêu đó đủ rồi. Bay giờ anh học đây, đừng có quấy rầy anh nữa."
Mathieu đứng dậy và cúi xuống một cách cẩn thận để không làm nhàu chiếc quần tây của mình, lấy từ dưới giường cây măng- đô- lin. Cậu mở quyển "Tự học đàn măng- đô- lin" ra, và ngồi trong một tư thế thoải mái. Nhưng rất tiếc là tài nghệ của cậu quá non nớt. Khi đánh đến đoạn khó, Mathieu mắc cỡ dừng lại.
- Anh đàn nữa đi! - Mary khuyến khích.
Cậu ta cảm ơn nàng bằng một cái nhìn bực tức.
- Tôi tưởng tôi đã yêu cầu cô làm thinh rồi, cái cô hay nói kia. Em nên nhớ rằng đàn măng- đô- lin là một loại đàn rất phức tạp và rất khó học; anh phải tập dợt cho thuần thục trước khi đi Ấn Độ. Lúc đó, anh sẽ biểu
diễn trên tàu cho các bà thuộc giới thượng lưu thưởng thức. Anh đã tiến bộ nhiều rồi, nhưng chắc cũng cần tập luyện nhiều hơn nữa.
Rồi cậu lại tiếp tục đàn, và kết thúc bản nhạc một cách khó nhọc. Những loạt "nốt" đàn đánh sai là một cực hình cho lỗ tai, vì thế cậu ta chỉ chơi đàn - cũng như thưởng thức xì- gà - trong những lúc cha cậu vắng
mặt. Mặc dù vậy, Mary, hai bàn tay đỡ lấy cằm, luôn luôn nhìn cậu với một vẻ thán phục.
Bản nhạc chấm dứt, Mathieu đưa bàn tay lùa vào trong tóc mình với cử chỉ vừa hờ hững vừa đầy vẻ lãng mạn.
- Tối nay anh không được khỏe lắm; anh nghĩ rằng anh hơi buồn, em biết không. Anh hơi suy tư… Có lẽ hơi đừ một chút… Ôi, biết bao công việc ở văn phòng, những con số đáng nguyền rủa ấy luôn luôn làm hại các tâm hồn nghệ sĩ.
Cậu thở dài với một vẻ u buồn mơ mộng của một thiên tài không được người đời biết đến, nhưng liền đó,
ngẩng đầu lên, cậu hỏi, để tìm một lời khích lệ: - Nhưng em thấy anh chơi bản nhạc đó như thế nào? - Nó giống hoàn toàn. - Mary nói, vẻ đảm bảo. - Giống cái gì?
- Giống tiếng ngựa phi trong bản nhạc " Cô Kate không biết mắc cỡ".
- Con bé ngu đần, - Mathieu kêu lên, - đây là bản "Nelly Bly".
Tinh thần hoàn toàn sụp đổ, cậu ta trừng mắt nhìn Mary, rồi nhảy xuống giường, xô cây đàn, một cách giận dữ, cúi mặt xuống nói:
- "Chắc cô chỉ nói như vậy để chọc tức tôi" - Và ngẩng mặt lên, Mathieu nói thêm bằng một giọng khinh bỉ - " Hơn nữa, cô không biết thưởng thức âm nhạc chút nào!".
Làm như không nghe thấy những lời xin lỗi của
Mary, cậu quay lưng lại, mở ngăn tủ lấy chiếc cra- vát có những chấm tròn màu xanh dương và tiếp tục giận dữ:
- Cô Moir biết thưởng thức âm nhạc và cô ấy cho rằng anh là một nhạc sĩ có giọng ca hay nhất trong các ban hợp ca. Tôi ao ước cô tỏ ra xứng đáng làm em chồng của cô ấy.
Mary hối tiếc về sự vụng về của mình.:
- Nhưng dù sao anh cũng để em thắt cà- vạt cho, anh Matt.
Mathieu quay lại với vẻ hờn dỗi, song vẫn chịu để em gái thắt chiếc nơ dùm mình. Đây là công việc Mary luôn luôn giúp cậu
- Bri - dăng - tin! - Cậu ta nói lớn, và lệnh này là lời tha thứ.
Mary đưa cho anh chai "Bri - dăng - tin" và Mathieu bôi thật nhiều lên tóc.
- "Tóc của anh rất dày, Mary!" - Cậu ra nói vừa cẩn thận chải. - "Anh sẽ không bị hói. Tên ngu đần Cooper, khi hớt tóc cho anh lần trước, đã nói rằng tóc anh rụng thưa dần ở phía trên? Thằng đó đã điên rồi! Để trừng trị
nó, anh sẽ không hớt tóc ở tiệm nó nữa".
Khi mái tóc đã có những đường dợn sóng vừa ý, Mathieu đưa hai tay ra để Mary giúp cậu mặc áo vét tông vào, rồi đứng ngẩn người trước gương:
- "Bộ đồ được may rất khéo". - Cậu ta nói nhỏ nhỏ, vừa ưỡn thẳng người lên. - "Nếu tối nay Agnès không hài lòng về anh thì cô ấy rất sai lầm!"
Sau cùng, lúc ra đi, cậu dặn dò một câu khó hiểu:
- "Và đừng quên nhé, Mary, mười giờ rưỡi tối nay, hoặc trễ hơn một chút."
- Em sẽ không ngủ quên đâu, Matt - Mary nói nho nhỏ, để làm cho anh trai yên tâm.
- Chắc không?
- Chắc.
Lời dặn dò này đã đủ để lộ "gót chân Achille" 4 của Matt, bởi vì chàng trai trẻ hào hoa, tay sành điệu hút thuốc xì- gà, nhạc sĩ đàn măng- đô- lin, người du khách sắp sửa qua Ấn Độ này có một nhược điểm rất lạ: cậu ta rất sợ bóng tối. Nếu cậu ta thổ lộ chuyện tâm tình cho Mary biết và xem cô như một người bạn, ấy là vì vào những đêm khuya, cô chịu khó chờ đợi cậu, để hộ tống cậu vượt qua cái cầu thang tối đen ghê rợn, đến tận phòng của cậu.
Liền sau khi gã si tình đó đi rồi, Mary cảm thấy trống không, lòng hoang mang, xao xuyến và lo âu. Nàng không có việc gì để làm trong lúc mọi người đều bận rộn. Nessie hì hục làm bài, mẹ đang chìm đắm trong quyển tiểu thuyết, bà nội nằm thiêm thiếp để cho cơ thể tiêu hóa hết thức ăn. Mary đi lang thang trong nhà bếp, nghĩ đến những lời cấm đoán của cha, lòng buồn chán cực độ.
- Sao con cứ đi tới đi lui như một linh hồn đau khổ vậy? Hãy lấy đồ ra may, hoặc là đi ngủ đi, để cho mẹ
đọc sách - Bà Brodie bực mình càu nhàu.
"Mình sẽ đi ngủ ư?" - Nàng hoang mang tự hỏi. "Không, hãy còn quá sớm. Mình đã bị giữ suốt ngày ở trong nhà, có lẽ mình nên ra ngoài một chút. Mọi người sẽ tưởng mình ở trong phòng".
Mải suy nghĩ, Mary đã ra đến phòng ngoài lúc nào không hay. Đội cái nón rơm cũ kỹ, khoác chiếc áo sờn rách, nàng nhẹ nhàng mở cửa.
Mary rùng mình sợ hãi khi thấy mình đang ở ngoài đường. Nhưng nàng tự trấn an rằng ăn mặc như vầy thì không thể đi xa được. Ở nơi khoảng khoát, tâm trí người ta sẽ thoải mái hơn. Mary tự hỏi lúc này Denis đang làm gì… dĩ nhiên là chàng đang sửa soạn đi xem hội chợ. Tại sao tất cả mọi người đều có thể đến đó, ngoại trừ mình? Đây là một sự bất công, bởi vì đó là một cuộc giải trí do một hiệp hội có uy tín nhất trong thành phố tổ chức.
Tựa mình vào cổng, Mary thưởng thức vẻ đẹp của bầu trời, ngây ngất hít các mùi hương của hoàng hôn. Cô thấy cuộc sống như bừng dậy. Những con chim én
bay lượn chung quanh ba cây phong ở cánh đồng cỏ trước mặt; xa hơn một chút, một con chim sẻ kêu gọi cô với một vẻ đầy khuyến khích: "Hãy đến đây, hãy đến đây!" Thật là xấu hổ khi phải giam mình tại nhà trong một đêm đẹp như thế này… Mary tiến ra đường, tự bảo mình chỉ đi dạo một chút thôi, rồi sẽ trở về chơi cờ "đam" với Nessie. Nàng đi thơ thẩn trên con đường vắng tanh. Denis đang chờ nàng ở hội chợ. Chàng đã yêu cầu nàng đến, và Mary như một người điên, đã nhận lời. Thật đáng ân hận biết bao nếu không đến đó được!
Mary cảm thấy mình đã đến đầu đường quá nhanh… và đã đến lúc phải quay về. Nhưng nếu lý trí nghiêm khắc ra lệnh như vậy thì một sức mạnh khác, mãnh liệt hơn, ngăn nàng lại. Thế là nàng vẫn tiếp tục bước tới. Tim đập thình thịch, và chân cũng bước thoăn thoắt theo nhịp đập con tim. Rồi, xuyên qua màn đêm, tiếng nhạc vọng đến yếu ớt nhưng đầy quyến rũ. Mary càng bước nhanh hơn, gần như chạy. Nàng tự bảo:
- Ồ! Phải rồi, mình phải gặp anh ấy.
Thế rồi nàng bay về phía trước.
Chú thích
1 Disreaeli (Benjamin), Lord Beaconsfield (1804- 1881): Tiểu thuyết gia và chính trị người Anh, sinh tại Luân đôn, từng là chủ tịch Đảng Bảo thủ, và là thủ tướng năm 1968. Ông được tặng tước Lord Beaconsfield.
2 Zoulou: một dân tộc ở Nam Phi. Người Zoulou chống lại người Anh suốt một khoảng thời gian khá lâu
3 & 4 Achille: Nhân vật thần thoại Hy Lạp, mình đồng da sắt trừ ở gót chân, nơi bà mẹ nắm nhúng ông vào nước sông Styx ở Địa ngục để trở thành bất khả xâm phạm. Trong trân chiến thành Troie, Achille tha hồ xông xáo chém giết. Nhưng tướng Paris phía địch biết được, bắn ngay vào gót chân Achille và hạ được ông.
LÂU ĐÀI NGƯỜI BÁN NÓN
Archibald Joseph Cronin
www.dtv-ebook.com
Chương 2
Chợ phiên Levenford khai mạc hàng năm. Nơi đó trong những căn nhà bằng ván, một nhóm người cùng biểu diễn với một con voi, hai con sư tử. Ngoài ra, cũng có một căn nhà chơi bắn súng và nhiều trò chơi khác. Đây là cuộc lễ quan trọng nhất trong vùng, đủ sức thu hút khán giả trong thành phố và các vùng lân cận.
Cả một biển người đang cười nói, la hét, xô đẩy Mary. Đây là điều mà nàng không hề tưởng tượng tới.Mới vào chưa đầy năm phút, nàng cảm thấy hối hận và nghĩ rằng có lẽ cha nàng có lý khi ông cấm nàng đến đây. Hơn nữa, nếu đến để gặp Denis, thì chàng không thể nào tìm thấy nàng giữa đám đông hỗn độn này. Rồi khi bị những cùi chỏ đánh vào xương sườn, hai bàn chân bị đạp, nàng bắt đầu sợ hãi. Tại sao nàng quá dại dột cãi lời cha và nhẹ dạ chiều theo yêu cầu của một chàng trai mà nàng mới chỉ quen biết có một tháng?
Trong lúc bị dòng người cuốn đi, Mary hình dung lại các sự việc đã xảy ra trong mấy tuần qua và nàng nghĩ một cách ngây thơ rằng chính cánh cửa phòng đọc sách phải gánh chịu một phần trách nhiệm.
Thật vậy, cánh cửa mang lời chỉ dẫn: "kéo ra". Nhưng nó rất rít và nặng nề, nhất là lúc hai tay bạn đang ôm đầy sách. Và hôm đó, thay vì kéo ra, nàng lại "xô vào", nên đã va phải một thanh niên mặc y phục màu nâu. Tóc cũng nâu, đôi mắt, và gương mặt có những đốm đỏ đậm. Khi ngước mắt nhìn lên, nàng bắt gặp nụ cười của chàng với đôi mắt mở to và đôi môi hé mở, chàng bình tĩnh lượm quyển sách lên, dạn dĩ mở ra, nhìn thấy tên nàng được ghi trên phiếu mượn sách.
- "Rất tiếc đã chạm phải cô, thưa cô Mary". Chàng nói một cách trang trọng, đôi mắt tươi cười nhìn nàng - "Cánh cửa này rất nguy hiểm, đáng lẽ chúng phải được lắp kính vào. Tôi có lỗi đã không đưa vấn đề này ra hội đồng thành phố".
Trước câu bông đùa duyên dáng này, nàng đã cười như một cô gái điên, cười một cách không e dè, không
tự kiềm chế được, và chỉ ngừng lại khi chàng nói thêm một chi tiết quan trọng:
- Tôi tên là Foyle, tôi ở Darroch.
Hai người đã nhìn nhau trong một lúc lâu, dĩ nhiên mặt nàng đỏ dần lên như một con bé ngu ngốc (sau này chàng đã khẳng định với nàng rằng đó là một màu đỏ đáng yêu) và nàng đã e thẹn buột miệng:
- Rất tiếc là tôi phải đi về.
Cái câu thật là ngu, nàng nghĩ như thế. Chàng không tìm cách giữ nàng lại, nhường lối đi một cách thật lịch sự, nghiêng mình nhấc nón lên chào; và trên đường về, nàng có cảm giác đôi mắt tinh anh đó vẫn luôn dõi theo mình.
Trước kia, nàng chưa bao giờ trông thấy chàng ở Levenford, vì chàng rất ít khi đi đến thị trấn này; thế mà sau hôm đó, nàng bắt đầu trông thấy chàng xuất hiện thường xuyên ở ngoài đường. Chàng không bao giờ có dịp nói chuyện với nàng. Mỗi lần trông thấy nhau, chàng
chỉ mỉm cười, chào một cách vui vẻ nhưng rất kính trọng. Nàng bắt đầu cảm thấy mến nụ cười tươi tắn ấy, cảm thấy nhớ nhung bóng dáng thanh lịch và ánh mắt thiết tha ấy. Thỉnh thoảng, nàng nhận thấy chàng đứng chung với nhóm thanh niên hoạt bát và dạn dĩ nhất của Levenford trong tiệm bánh mới mở của Bertorelli, và nàng kinh hãi thấy các thanh niên táo bạo này đón tiếp chàng như đón tiếp một bậc đàn anh của họ! Điều này thêm với ý nghĩ chàng lui tới một nơi không đứng đắn như tiệm bánh ngọt Ý - Đại - Lợi, làm nàng run sợ. Hơn nữa, sự kiện chàng quen biết với các thanh niên đó làm họ chú ý đến nàng, và ngay cả khi vắng mặt chàng, lúc nàng đi ngang qua họ, họ liền im lặng một cách lễ phép, và tất cả đều đồng loạt giở nón ra chào… khiến cho nàng vừa hãnh diện vừa bối rối.
Tuần lễ sau, Mary trở lại phòng đọc sách, mặc dầu lần này cẩn thận làm đúng theo lời chỉ dẫn "kéo ra", nàng vẫn lại trông thấy Denis Foyle đứng sừng sững trước mặt mình.
- "Thật là sự trùng hợp rất hay, thưa cô Brodie" - chàng nói - "Chúng ta lại gặp nhau lần nữa tại nơi đây…
tôi đã đi ngang qua đúng ngay lúc này".
Làm sao nàng có thể ngờ được, cô bé đáng thương, rằng chàng đã chờ đợi nàng ở lề đường đối diện từ hai tiếng đồng hồ rồi?
- Tôi có thể xem quyển sách mà cô sẽ đọc trong tuần lễ này không?
- Quyển "Tu viện Pomeroy" - nàng lập bập
- À! Phải, quyển II… lần trước tôi đã thấy cô mượn quyển I.
Để ý, nàng thấy trong ánh mắt của chàng có một ước muốn nhút nhát, chàng có vẻ ít bình tĩnh hơn, ít tự tin nơi mình hơn lần trước, và lòng nàng dâng lên một mối xúc động dịu dàng khi nghe chàng nói một cách thiết tha:
- Cô có vui lòng cho phép tôi mang giùm quyển sách ấy không, thưa cô?
Bây giờ nhớ lại, nàng cảm thấy xấu hổ về hành vi
không thể tha thứ được của một thiếu nữ có giáo dục, nhưng sự thật là thế: nàng lặng lẽ trao quyển sách cho Denis, như thể bằng cử chỉ này, nàng cảm ơn chàng về những chăm sóc mà chàng đã dành cho nàng. Nàng thở dài khi nghĩ đến cái "thuở ban đầu ấy". Sau đó, họ đã gặp nhau trong nhiều dịp, và nàng đã dần dần bị xâm chiếm bởi một tình cảm thật lạ lùng, thật khó hiểu, đến độ xa chàng, nàng cảm thấy đau khổ và cô độc.
Lắc mạnh đầu, Mary trở về với thực tại. Nàng đã đi giáp vòng khu chợ phiên mà không thấy gì khác hơn là các màu sắc chói lòa, và hiểu rằng không còn có chút hy vọng nào tìm gặp gương mặt mà nàng muốn thấy, nàng bèn khó nhọc đi trở ra.
Thình lình, Mary cảm thấy trên các ngón tay có hơi ấm của một bàn tay. Nàng vội ngước mắt lên. Một cảm giác yên ổn tuyệt diệu xâm chiếm lấy nàng và làm cho nàng cảm thấy vô cùng dễ chịu. Mary siết chặt bàn tay kia, và trước khi chàng kịp mở miệng, nàng đã nồng nhiệt kêu lên, với tất cả sự ngây thơ của tâm hồn mình:
- Ồ! Denis, không có anh ở đây em rất buồn! Em có
cảm giác đã mất anh vĩnh viễn!
- "Anh rất ngu xuẩn," - Chàng vừa nói vừa âu yếm nhìn nàng - "nên mới hẹn gặp em ở đây. Anh biết là anh sẽ tìm ra em, nhưng trước đó anh không nghĩ rằng em có thể bị rơi vào cảnh hỗn độn này. Hơn nữa, chuyến xe lửa của anh đã bị trễ. Em đến lâu chưa?"
- Em không biết… hình như cả thiên thu, nhưng bây giờ có anh ở bên cạnh là đủ rồi.
- Anh hy vọng em không hề hấn gì trong đám đông này… Anh giận mình đã để em đến đây một mình, đáng lẽ anh phải đón em ở ngoài kia. Em không giận anh chứ?
Mary lắc đầu và không che giấu niềm vui, nàng trả lời một cách ngây thơ, đầy hạnh phúc:
- Mọi sự đều tốt đẹp, Denis, khi chúng ta đã ở bên nhau!
- Em là một thiên thần. Em đã tha thứ cho anh, nhưng anh sẽ làm hết sức để đền bù cho em. Chúng ta hãy bắt lại thời gian đã mất: anh sẽ chỉ bằng lòng khi nào
em được vui vẻ hơn bao giờ hết. Chúng ta sẽ khởi đầu bằng cái gì? Em hãy nói một tiếng, và anh sẽ vâng lời em.
Mary đưa mắt nhìn quanh. Tất cả đều đã biến đổi! Và nàng cảm thấy sung sướng vì đã đến đây! Không còn những kẻ thô bạo nữa, mà chỉ là những con người ồn ào và sung sướng. Một thế giới tràn đầy màu sắc hào hứng và sống động. Lời kêu gọi của những người quảng cáo làm nàng thích thú, những tiếng súng nổ làm nàng giật mình nhưng không sợ hãi, tiếng nhạc ầm ĩ khiến nàng say sưa, và khi ánh mắt bị lôi cuốn bởi những con ngựa gỗ đang quay tròn, nàng đưa tay chỉ chúng, cười lớn:
- Bằng cái đó!
- Tốt lắm! Ý của em là mệnh lệnh. Chúng ta sẽ nhảy lên hai con tuấn mã đó. Hãy tiến lên dự cuộc săn bắn ở Donegal!
Chàng nắm tay, kéo nàng đi. Lạ thay! Như có một phép màu, đám đông lúc trước đã làm nàng sợ hãi, bỗng như tan ra trước mặt hai người.
- "Chúng ta đến rồi!" - Chàng trai vui vẻ kêu lên. "Hai con ngựa chạy cặp với nhau, với cái đuôi của con sư tử và hàm răng của lạc đà - Nhảy lên em. Con ngựa của em có thể phóng qua khỏi một cái nhà, cứ nhìn nó cũng biết."
Và họ cho ngựa chạy, tay cầm cương, lúc đầu chầm chậm, rồi nhanh hơn, cuốn theo một điệu nhạc ầm ĩ, say sưa trong niềm vui của tốc lực, quay tròn bên trên đám người đứng dưới đất, miệng há hốc nhìn lên trông thật nhỏ bé dưới các con tuấn mã kiêu hãnh đang bay trong không gian. Khi dừng lại, chàng không cho nàng đặt chân xuống đất, mà ép nàng bay thêm một vòng thứ nhì, vòng thứ ba, rồi vòng thứ tư, khiến nàng trở nên tự tin và khéo léo hơn, ít bám chặt vào dây cương hơn, và chỉ điều khiển con ngựa bằng một tay thôi. Nàng lượn theo các đường vòng của nó một cách uyển chuyển và hãnh diện cho Denis thấy tài cưỡi ngựa của mình. Chàng ngợi khen, khuyến khích nàng, vui mừng trông thấy nàng thích thú. Nhưng chợt Mary yêu cầu được xuống - Nàng ngại hao tốn. Denis cười rũ rượi đến phải ôm bụng:
- Chúng ta có thể ở đây suốt buổi tối nếu em muốn;
một khi điều đó làm cho em vui thích thì không có gì đáng kể nữa.
- Ồ! Có chứ, Denis. Trò chơi này tốn tiền lắm. Chúng ta xuống đi, em vui lắm rồi.
- Tốt lắm! Nhưng chúng ta chỉ mới khởi sự thôi.
- Nếu anh có đủ tiền… đây là một nơi tuyệt diệu!... Nhưng em không muốn anh hoang phí vì em.
- Dẫu phải xài đến đồng xu cuối cùng đi nữa, anh cũng vui lòng.
Thế rồi, họ lao mình vào trong đám đông, thưởng thức quang cảnh đủ màu sắc một cách cuồng nhiệt.
Một giờ đã trôi qua. Sau khi đã ném các quả bóng vào những đồ vật đủ loại, xem con sư tử và con voi bị con ruồi đuổi đi, ngắm nhìn người đàn bà nhỏ nhất thế giới và rùng mình trước bộ xương người còn sống, mua mọi loại kẹo bánh, đôi bạn vui vẻ nhất trong tất cả những cặp vui vẻ, đến trước căn lều rộng nhất của chợ phiên.
Đó là đoàn hát Me Inally, cống hiến - theo các bảng quảng cáo của nó - những môn giải trí thanh lịch, duyên dáng. Ở giữa một bục gỗ, được bốn ngọn đuốc soi sáng, chính ông bầu Me Inally đang đứng sừng sững. Người ta nhận ra ông dễ dàng nhờ cái mũ cao và cái áo rộng thùng thình, quần tây dài có sọc ca - rô lớn. Ở hai bên, mọi người thấy tập hợp - nói theo các bảng quảng cáo - một dải ngân hà các tài năng sáng chói: bên phải là, một người đàn ông cao lớn trong bộ đồ dạ hội phai màu, đứng dựa vào một cây cột, vẻ mặt u buồn duyên dáng, đôi mắt nhìn lên cao như đang tìm kiếm ở trên trời một nàng Juliette xứng đáng với ông ta. Ông ta cố gắng che giấu bộ đồ tồi tàn bằng cách kéo hai tay lên, hiên ngang khoanh tay trước ngực. Nhưng anh chàng Romeo u sầu này không phải là cây đinh duy nhất của buổi trình diễn, bởi vì ở bên trái của Me Inally là một nữ tài tử lộng lẫy trong cái "áo tắm biển" màu hồng, nón kết bơi thuyền đội lệch trên đầu, thỉnh thoảng nhún nhẩy vài bước nhỏ, hứa hẹn những bước biểu diễn thật sự sẽ hấp dẫn hơn nhiều và gửi những cái hôn đến đám đông bằng một cử chỉ duyên dáng, như thể đang kéo ra từ đôi môi mình những thước dây "ruybăng".
- Bà ấy thật đẹp! - Mary nói nhỏ, đứng sát vào Denis.
- Nếu em trông thấy bà ta giữa ban ngày, em sẽ rất ngạc nhiên. Người ta khẳng định với anh là bà ta bị lé.
- Ồ! Denis, sao anh lại có thể nói một điều như thế được! - Mary phản đối, vừa nghi kỵ nhìn cái nón kết đội lệch một cách táo bạo của bà ta.
- Xin mời quý bà, quý ông hãy đi vào, hãy đi vào!
Me Inally kêu lên, giở nón ra và ném lên cao với một vẻ mời mọc duyên dáng.
- Buổi trình diễn sắp bắt đầu, chúng tôi bắt đầu ngay bây giờ, đây là buổi trình diễn cuối cùng của tối nay. Một cuộc giải trí thượng hạng, đầy nghệ thuật, tao nhã và lịch sự. Vào cửa hai xu, chỉ hai xu thôi… Thưa quý ông, quý ông có thể dẫn theo vợ và bạn gái của quý ông, nhất định các bà sẽ không thất vọng đoàn hát của chúng tôi đâu. Đoàn hát Me Inally duy nhất, đoàn hát thượng hạng, đoàn hát có một không hai. Chúng tôi bắt đầu! Thưa quý ông, bà Bolita, có mặt ở đây, là môn đệ tài ba
nhất của Terrsiclore, mà thế kỷ này được biết đến…
Nghe nói đến tên mình, bà Bolita biểu diễn vài điệu múa xoay tròn, mỉm cười một cách khiêm tốn, đưa hai bàn tay ra với một vẻ đỏm dáng và kéo theo nhiều sợi dây "ruybăng" khác, dài và to hơn những sợi dây trước.
- Thưa quí bà, ông Magini, đứng bên ở tay phải tôi, là ca sĩ hoàn hảo nhất và nổi danh nhất của các rạp ca nhạc kịch ở Paris và Milan, giọng ca hay nhất của thời đại chúng ta!
Signor Magini bèn lấy một nét mặt u buồn hơn nữa và chào với vẻ mơ mộng, như thể những bà quí phái đã ném tới tấp vào người ông những bó hoa ở Paris, hay đã tranh giành nhau những ân huệ của ông ở Milan.
- Chúng tôi sắp sửa bắt đầu, chúng tôi bắt đầu, chúng tôi bắt đầu ngay bây giờ đây. Mời quý vị hãy đi vào, hãy vào đi! Đây là buổi trình diễn cuối cùng của tối nay. Sau đó, chúng tôi đóng cửa. Xin cảm ơn tất cả quý vị đã vui lòng chiếu cố. Xin mời quý vị hãy đi vào, hãy vào đi!...
- Buổi trình diễn sắp bắt đầu - Denis nói - Ông ta đã lặp đi lặp lại nhiều như thế. Chúng ta vào xem thử không?
- Ồ! Vâng, vâng… - Mary nói, giọng thèm muốn Họ đi vào.
Dưới căn lều, họ nghe mùi dầu lửa, mùi mạt cưa, mùi vỏ cam… và tìm được hai chỗ ngồi trong bóng tối lờ mờ. Một lát sau, bức màn nhung từ từ vén lên. Phần đầu dành cho bà Bolita, phần thứ nhì cho ông ca sĩ của Paris và Milan. Phải chăng vì mùi hành tây mà người ta đang chuẩn bị bữa tối đã lôi cuối Me Inally, hay vì ông ta nghĩ rằng hãy còn đủ thời giờ để sắp xếp thêm một buổi trình diễn nữa, - và đó mới thực sự là buổi biểu diễn cuối cùng trong ngày - mà buổi diễn hôm nay cực kỳ ngắn ngủi.
Bà Bolita bước ra sân khấu, nhảy lên một cách nặng nề và buông người rơi xuống mấy miếng ván, thở ồ ồ. Rồi bà chuyển động thân hình một cách nhẹ nhàng hơn, vừa búng ngón tay vừa the thé hét mấy tiếng "La! La!
La!". Sau cùng, bà ta ngả người trên sàn ván, hai cánh tay đưa lên trời, gương mặt nhăn nhó và bức màn nhanh nhẹn buông xuống như để giúp bà khỏi phải ngồi dậy một cách khó nhọc trước mắt khán giả.
- " Không tệ lắm đối với tuổi tác ấy" - Denis nhận xét, - "Nhưng vào một ngày nào đó, bà ta sẽ rơi xuyên qua mấy miếng ván và người ta sẽ không còn nghe nói đến tên bà ta nữa".
- "Ồ! Denis!" - Mary nói bằng một giọng trách móc - "Anh nói đùa phải không? Bà ta có làm anh hài lòng không?"
- "Nếu bà ta đã làm cho em thích thú, thì anh có thiện cảm với bà ta, nhưng em đừng bảo anh phải say mê bà ta". Chàng trả lời vẻ trêu chọc. "Chúng ta hãy chờ xem bà ta sắp sửa làm gì".
Bức màn lại được kéo lên, để lộ ra một phong cảnh, và ở giữa phong cảnh đó, hình dáng mập mạp của bà Bolita đang đong đưa một cách chậm chạp. Bà khoác áo dài màu trắng. Đầu không đội nón kết nữa, tóc tết thành
bím dài. Mang đôi cánh, bà bay lượn trong bóng tối lờ mờ, trước những cặp mắt trầm trồ thán phục. Rất được hoan hô, bà đáp trở xuống chào khán giả bằng cách đập đôi cánh, rồi rút lui.
Mary vỗ tay một cách nồng nhiệt và nghiêm trang hỏi Denis, như để thách đố chàng còn dám chê bai một nghệ sĩ tuyệt vời như thế không:
- Bây giờ anh thấy thế nào về bà ấy?
Họ ngồi sát vào nhau trên chiếc băng gỗ chật hẹp, tay trong tay. Denis ngắm nhìn gương mặt tràn ngập vui thú của nàng, siết chặt các ngón tay nàng và nói một câu đầy ý nghĩa:
- Anh thấy em rất tuyệt!
Câu trả lời thật hay. Mary bật cười thú vị, nhưng liền đó, chợt xuất hiện trong tâm trí nàng, hình ảnh u buồn của ngôi nhà mình. Và như vừa bị rơi vào một khối nước lạnh, nàng bỗng rùng mình, cúi đầu. Nhưng nàng cố gắng xua đuổi nỗi buồn, và yên tâm với sự hiện diện của
Denis bên cạnh, nàng đưa mắt nhìn trở lên sân khấu.
Trên một cái màn màu trắng, chiếc đèn lồng ở tận cùng của căn lều rọi lên hàng chữ: "Dịu dàng và trung thành thay người yêu của thủy thủ" và trong khi Magini hát theo tiếng nhạc dương cầm, trên tấm màn trắng xuất hiện những hình ảnh rực rỡ màu sắc kể lại những thăng trầm của câu chuyện tình đầy cảm động.
Sau đó, theo lời yêu cầu của khán giả, ông hát thêm bản "Juanita", một câu chuyện tình còn say đắm và bi thảm hơn, rồi kết thúc bằng bản "Xứ của tình yêu", mà giọng hát thanh tao và tự nhiên của ông làm khán giả say sưa.
Trong khi các làn sóng âm điệu du dương tràn ngập căn lều, Mary cảm thấy có một sức hấp dẫn kỳ lạ lôi cuốn nàng về phía Denis, và sự xúc động làm đôi mắt nàng đẫm lệ. Vẻ rực rỡ của buổi chợ phiên tối nay và sức quyến rũ kỳ diệu của âm nhạc đã đưa tâm hồn nàng vươn lên khỏi cuộc sống bẩn chật và buồn chán.
Buổi trình diễn đã chấm dứt: nàng nhận ra điều này
trong một cái rùng mình, và hai người cùng im lặng, bước ra bầu không khí mát lạnh của buổi tối.
Đêm đã xuống hẳn, đám đông đã thưa bớt nhưng vẫn luôn luôn vui vẻ. Tâm hồn của hai người đang chìm đắm trong một niềm hoan lạc sâu xa hơn, sự quyến rũ của buổi lễ đã biến mất. Họ nhìn chung quanh một cách ngần ngại.
- Chúng ta còn tiếp tục nữa không? - Denis chậm chạp hỏi.
Nàng lắc đầu. Buổi tối hôm nay vô cùng tuyệt diệu khiến nàng ước muốn nó kéo dài mãi mãi. Nhưng cuộc vui đã bắt đầu tàn và điều đau khổ nhất đối với nàng là phải nói lời từ giã để rời khỏi xứ của tình yêu. Và than ôi! Đã đến lúc phải lên đường.
- Vậy em đi dạo với anh một chút - Chàng khẩn cầu - Hãy còn sớm. Chúng ta sẽ không đi xa…
Nàng không thể quyết định rời khỏi chàng. Chỉ nghĩ đến điều này thôi, cổ họng nàng nghẹn lại và cảm thấy
cần ở lại, dù chỉ thêm một phút nữa.
Nàng muốn lùi lại giây phút đau khổ. Nàng cần có sự hiện diện liên tục của chàng ở bên mình để xoa dịu và nâng đỡ nàng. Sự mãnh liệt của tình cảm nàng dành cho chàng khiến nàng không còn nhớ đến ngôi nhà u ám cũng như lời cấm đoán của cha.
- Hãy đi với anh, em yêu quý. Bây giờ hãy còn sớm. - Thêm một đoạn đường nữa vậy. - Nàng dịu dàng,
Hai người bước êm trên con đường mòn bò ngòng ngoèo dọc theo dòng sông Leven, một bên là làn nước đang thì thầm, một bên là những cánh đồng cỏ xanh tốt. Mặt trăng như một cái dĩa bạc lơ lửng trên bầu trời cao giữa muôn ngàn tinh tú và soi bóng xuống dòng nước sâu thẳm.
Trước mặt họ, hai con bướm đêm bay đuổi nhau, lượn những vòng kỳ ảo bên trên những đám lau sậy lớn dọc theo bờ sông, xoay tròn, bay thẳng, nhào lộn trong im lặng, nhưng luôn luôn bay sát theo nhau, luôn luôn ở
bên nhau. Đôi cánh xám lấp lánh như những hạt nguyên tử lơ lửng giữa ánh sáng màu ngà, và tiếng vỗ cánh của chúng là tiếng của một chiếc lá rơi.
Họ đã đi được một khoảng xa và bây giờ khu chợ phiên chỉ là vài đốm sáng mơ hồ trên bầu trời bàng bạc ánh trăng, và tiếng âm nhạc chỉ còn văng vẳng như một tiếng thì thầm yếu ớt. Nhưng Denis và Mary không còn suy nghĩ gì đến âm nhạc và mặt trăng nữa, và nếu cả hai đều cảm nhận, trong tiềm thức của mình, vẻ đẹp của phong cảnh chung quanh họ, thì mỗi người chỉ nghĩ đến bạn mình đang đi bên cạnh. Sự kiện lần đầu tiên được ở một mình bên cạnh Denis, xa hẳn thế giới bên ngoài, làm Mary vô cùng hạnh phúc, tim rộn lên một niềm vui kỳ diệu.
Denis cũng vậy, chàng trai thành thị này cảm thấy lòng mình tràn ngập một mối xúc động lạ lùng và mới mẻ. Những câu nói dễ dàng đã làm chàng trai trở thành người hoạt náo viên của một nhóm, những lời tán tụng thường thoát ra một cách tự nhiên từ đôi môi chàng bỗng khô như đã cạn tận nguồn. Chàng câm lặng như một nhân viên sở mai táng, chàng thấy cần phải nói lên
một ý nghĩ nào đó, dầu là một ý nghĩ tầm thường, xoàng xĩnh nhất. Nhưng, lưỡi chàng vẫn cứng đơ và trí óc chàng không tìm ra được một lời nào để nói.
Bề ngoài, cả hai bước đi rất bình thản, nhưng trong lòng họ tràn ngập những tình cảm bị đè nén mà sự im lặng của họ càng làm cho nó mạnh mẽ hơn.
Mary cảm thấy như có một cái gì đau nhói ở bên người. Họ đi sát nhau đến độ nàng có cảm giác một mối dây liên hệ mật thiết kết hợp hai cơ thể đang rung động, làm nảy sinh trong nàng một ước vọng không thể diễn tả
được, một nỗi thèm muốn vô biên chỉ có thể thỏa mãn trong vòng tay vững chắc của Denis.
Sau cùng, cả hai thình lình dừng lại và nhìn nhau. Nàng ngước mắt lên. Dưới ánh trăng, gương mặt trái xoan nhỏ nhắn của nàng như trong suốt. Chàng cúi xuống hôn nàng. Đó là nụ hôn đầu tiên của một người đàn ông.
Denis cảm thấy xao xuyến. Chưa bao giờ chàng có một cảm xúc tương tự như mình vừa nhận được một sự
dâng hiến vô cùng tuyệt diệu và hiếm có. Như trong một cơn mơ, chàng tự động quì gối xuống trước mặt nàng, ôm lấy nàng, gục đầu vào chiếc áo dài. Mùi vải cũ kỹ thật quyến rũ với chàng và Denis nhận thấy đôi chân mảnh mai của nàng run lên nhè nhẹ. Chàng nắm lấy bàn tay nàng, kéo nàng ngồi xuống đất.
Khi chàng giở chiếc nón của nàng ra, một lọn tóc buông xuống vầng trán xanh xao của nàng. Chàng vụng về hôn lên đó trước khi hôn lên đôi mắt khiến chúng khép lại.
Bây giờ hai người ngồi sát nhau, được che khuất bởi những đám lau sậy và một lớp cỏ dầy. Sự va chạm của cơ thể đem đến cho họ một cảm giác ấm áp tuyệt diệu; và trong im lặng, cả hai cùng rời bỏ thế giới xung quanh
họ, chỉ còn biết có họ. Mary ngả đầu lên cánh tay của Denis và đôi môi nàng hé mở để lộ hàm răng sáng như những hạt ngọc màu trắng. Lúc đó, trong vòng tay siết chặt của chàng, và đôi mắt nhắm nghiền, nàng có một
cảm giác chói lòa, rồi quên hết tất cả, như thể nàng không còn là của mình nữa mà hoàn toàn thuộc về chàng. Tâm hồn nàng lao nhanh hơn một con chim én
đến trước tâm hồn của Denis, và cả hai hòa hợp với nhau, bỏ mặc thể xác họ trên mặt đất, cùng nhau bay lên một vùng cao rộng. Họ cùng bay bên nhau, cũng nhẹ nhàng như hai con bướm đêm, cũng lặng lẽ như dòng sông. Không có gì kiềm giữ họ lại được, không một sợi dây phàm tục nào ngăn cản được cuộc bay đầy hoan lạc của họ.
Những ánh đèn của khu chợ phiên lần lượt tắt đi, một màn sương trắng nhẹ che phủ ánh sáng trên mặt sông, như hơi thở làm mờ một tấm gương, rồi tỏa rộng trên khắp đồng quê và bóng tối bao trùm những khu đồng cỏ trong khi mặt đất từ từ trở lạnh. Bức màn sương làm im mọi tiếng động và sự yên lặng trở nên tuyệt đối, cho đến lúc, thật lâu, thật lâu sau đó, một con cá hồi phóng lên khỏi mặt sông và rơi trở xuống khiến nước bắn lên tung tóe.
Tiếng động này làm Mary cử động nhè nhẹ và dẫn dần trở lại với thực tại. Nàng thì thầm:
- Denis, em yêu anh, nhưng đêm đã khuya, rất khuya rồi, em phải về.
Mệt nhọc ngẩng đầu lên, nàng duỗi hai tay và hai chân tê cóng. Rồi nhanh như một tia chớp, nàng nhớ đến cha nàng, nhà nàng và hoàn cảnh của nàng ở đó. Nàng kinh hãi đứng dậy, ghê sợ cả chính mình, kêu lên:
- Ôi! Em đã làm gì? Cha em! …. Chúng ta sẽ ra sao? Em thật điên rồ!
- "Em sẽ không bị một tai họa nào hết". Denis nói, vừa đứng dậy và tìm cách trấn an cô. "Anh yêu em và anh sẽ bảo vệ em".
- "Vậy anh hãy để em về" - Nàng nói trong lúc những giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhợt nhạt. "Ồ! Em phải có mặt tại nhà trước khi cha em về, nếu không, em sẽ phải ở ngoài đường suốt đêm".
- Đừng khóc em! Anh van em, nước mắt của em làm anh buồn khổ. Chưa khuya lắm đâu, chỉ mới mười một giờ. Hơn nữa, chính anh chịu trách nhiệm, chính mình anh đáng bị trách mắng.
- Không, Denis, không! Tất cả đều do em. Đáng lẽ
em không nên đến… em đã cãi lời cha. Chính em phải hứng chịu các hậu quả.
Denis ôm lấy thân hình run rẩy và nhìn thẳng vào mắt nàng, giọng quả quyết:
- Em sẽ không phải chịu đau khổ. Anh muốn em biết rõ một điều, ngay tại đây: anh yêu em, anh tôn sùng em và anh sẽ cưới em.
- "Vâng, vâng", Mary vừa nói vừa thổn thức, "nhưng hãy để em về nhà… em phải về, nếu không cha em sẽ giết em. Nếu tối nay ông không về trễ thì sẽ xảy đến cho em… sẽ xảy đến cho cả hai chúng ta một điều gì ghê gớm lắm".
Và nàng bỏ chạy trên con đường mòn, trượt chân và loạng choạng suýt ngã. Chàng chạy theo tìm cách an ủi, trấn an bằng những lời âu yếm, cảm động nhất. Nàng ngưng khóc khi nghe chàng nói, nhưng vẫn tiếp tục lặng lẽ chạy đi cho đến lúc hai người vào đến thành phố. Nàng đứng lại, hổn hển nói:
- Anh đừng đi theo em nữa. Chúng ta có thể gặp ông ấy… cha em.
- Nhưng con đường tối tăm quá… anh không dám để em đi một mình.
- Anh hãy đi đi! Cha em có thể gặp chúng ta đi chung với nhau.
- Nhưng, bóng tối?
- Không làm sao khác được. Em sẽ cố chạy.
- Chạy như thế em sẽ bị mệt, và trời lại tối quá. Con đường lại hết sức vắng vẻ.
- Hãy để em đi, em phải đi… Hẹn gặp lại anh.
Và sau một cái siết tay cuối cùng, nàng bỏ chạy, biến mất trong đêm tối.
Denis tự hỏi nên phóng theo hay gọi nàng lại, chàng đưa tay lên, vẻ hoang mang, như để van nài nàng, rồi từ từ buông xuống, và sau khi đứng bất động một hồi lâu,
chàng ủ rũ quay lưng trở về nhà. Trong lúc đó Mary cuống cuồng trở lại con đường mà đầu hôm nàng đã đi với những bước chân nhẹ nhàng. Nàng có cảm giác mình đã sống cả một thế kỷ chỉ trong vài giờ vừa qua. Thật không thể nào tưởng tượng nổi rằng cô gái Mary Brodie lại ở ngoài đường một mình vào giờ này. Tiếng các bước chân cô độc của nàng làm nàng sợ hãi, chúng vang lên như những lời tố cáo về sự điên rồ, sự vô lý của nàng. Denis muốn cưới nàng! Chàng chắc cũng đã mất lý trí, vì chàng không hiểu cha nàng, cũng như không hiểu những điều kiện khắc nghiệt của cuộc sống của nàng. Tiếng vang của những bước chân hình như đang chế nhạo nàng, thì thầm rằng nàng thật điên rồ khi lao mình vào một cuộc phiêu lưu vô ích.
Về gần đến nhà, nàng trông thấy một bóng người và nàng như bị tê liệt. Thường thường cha nàng chỉ trở về sau mười một giờ, nhưng đôi khi sớm hơn, và càng tiến tới nàng có cảm giác đó là ông. Bỗng Mary thốt ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Không còn thận trọng nữa, nàng chạy vội đến, vừa thở hổn hển vừa nói:
- Anh Matt, ồ! Anh Matt, hãy đợi em!
"""