"
Lao Động Biển Cả - Victor Hugo PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lao Động Biển Cả - Victor Hugo PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI GIỚI THIỆU
Về Victor Hugo, bạn đọc Việt Nam đã được biết nhiều qua những tác phẩm của ông như Nhà Thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris), Những Người Khốn Khổ (Les Misérables), Chín Mươi Ba (Quatre-vingt treize)…
Riêng cuốn ‘Lao Động Biển Cả’ (Les Travailleurs de la mer) đã cuốn hút rất nhiều bạn đọc Việt Nam biết tiếng Pháp qua nhiều thế hệ. Đây không chỉ là một tác phẩm hiện thực phản ánh xã hội tư sản Pháp trong những ngày đầu của chế độ tư bản ở nước này. Qua tác phẩm này tác giả cũng xây dựng thành công một số nhân vật điển hình đại diện cho cái Thiện và cái Ác. Với một ngòi bút vững vàng đầy kinh nghiệm, tác giả đã vạch trần những mánh khóe xảo quyệt táng tận lương tâm của những con người như Rantaine hay Clubin. Đồng thời ông cũng miêu tả rất thực và rất sinh động những con người chân chính, lao động không mệt mỏi như Gilliatt. Qua câu chuyện tình éo le, dang dở của Gilliatt, bạn đọc vừa cảm thương cho số phận hẩm hiu của anh vừa căm giận những bất công trên đời này. Phải chăng đây là một thứ “định mệnh của vạn vật”?
Dẫu sao, sau khi đọc xong dòng chữ cuối cùng, gập sách lại, bạn đọc vẫn còn thấy lắng lại trong tâm tư những gì cao quý, tuy chua chát, của con người. Bởi vì trước sau Victor Hugo vẫn là một nhà văn đại diện cho các nhà văn lớn thế giới với những tư tưởng nhân văn cao quý.
BAN BIÊN TẬP
Tôi tặng quyển sách này cho hòn núi mến khách và tự do, cho mảnh đất Normand già cỗi, nơi sinh sống của dân tộc cao quý nhỏ bé miền biển, cho đảo Guernesey nghiêm nghị và hiền hòa, chỗ nương thân hiện thời của tôi và có thể là nơi tôi yên nghỉ.
VICTOR HUGO
Tôn giáo, xã hội, thiên nhiên, đấy là ba cuộc tranh đấu của con người. Ba cuộc tranh đấu ấy đồng thời cũng là ba nhu cầu. Con người cần tin tưởng, vì vậy mà lập nên đền thờ; con người cần sáng tạo, vì vậy mà thành ra đô thị; con người cần phải sống, vì vậy mà có cày cuốc, thuyền bè. Nhưng ba giải pháp ấy lại chứa đựng ba cuộc chiến tranh. Khó khăn bí mật của cuộc sống từ ba chỗ ấy mà ra. Con người gặp phải trở ngại dưới hình thức mê tín, dưới bình thức thành kiến, và dưới hình thức nguyên tố cơ bản. Ba định mệnh[1] đè nặng lên chúng ta, định mệnh của tín điều, định mệnh của luật pháp, định mệnh của vạn vật. Trong Nhà Thờ Đức Bà Paris, tác giả đã tố cáo cái thứ nhất; trong Những Người Khốn Khổ, tác giả đã làm nổi bật cái thứ nhì; trong quyển sách này, tác giả nói rõ đến cái thứ ba.
Cùng với ba thứ định mệnh bao trùm con người ấy, lại xen thêm định mệnh bên trong, sức mạnh lớn nhất, trái tim con người.
Hauteville House, tháng ba 1866.
PHẦN THỨ NHẤT SIEUR[2] CLUBIN
QUYỂN MỘT
NHỮNG GÌ LÀM NÊN MỘT TIẾNG XẤU
I
MỘT CHỮ VIẾT TRÊN TRANG GIẤY TRẮNG
Lễ Giáng sinh năm 1820 ở Guernesey đáng được chú ý. Hôm ấy trời tuyết. Trên các đảo vùng biển Manche, mùa đông có băng là điều đáng được ghi nhớ, và nếu có tuyết thì lại thành sự kiện đặc biệt.
Sáng hôm lễ Giáng sinh ấy, con đường dọc theo bờ biển từ Saint-Pierre Port đến Valle trắng xóa một màu. Tuyết rơi suốt từ nửa đêm đến tận bừng sáng. Quãng chín giờ, sau khi mặt trời mọc một tí, vì chưa phải lúc để các người theo giáo phái Anh quốc đi nhà thờ Saint-Sampson và để những người theo phái Wesley đến tiểu giáo đường Eldad, nên đường đi hầu như vắng vẻ. Suốt quãng đường giữa tháp thứ nhất và tháp thứ nhì, chỉ có ba người khách qua đường, một em bé, một người đàn ông và một người đàn bà. Ba khách qua đường này, đi cách nhau, rõ ràng không có quan hệ gì với nhau cả. Em bé, độ lên tám, dừng lại và tò mò nhìn tuyết. Người đàn ông đi cách sau người đàn bà, độ một trăm bước. Cũng như người đàn bà, anh từ Saint-Sampson đến; anh còn trẻ, có vẻ như một công nhân hay một thủy thủ. Anh mặc bộ quần áo tứ mùa, một chiếc áo varơ bằng da nâu xấu và một cái quần dính bết nhựa đường, hình như chứng tỏ là bất chấp ngày lễ anh chẳng đi đến giáo đường nào cả. Những chiếc giày cục mịch bằng da thô của anh, đế chi chít đinh to, để lại trên tuyết một dấu vết nom tương tự khóa nhà lao nhiều hơn là chân người. Còn người đàn bà qua đường thì tất nhiên là đóng bộ cánh đi lễ; cô khoác một chiếc áo choàng rộng lót lụa đen,
trong diện áo dài popeline Ireland bó sát, sọc trắng, sọc hồng, và giá cô không mang bít tất đỏ thì ta đã tưởng cô là người Paris. Cô cất bước nhanh nhẹn, thoải mái, nhẹ nhàng và qua dáng đi chưa bợn dấu đời đó người ta đoán được cô còn con gái. Điệu bộ cô mang cái vẻ duyên dáng thoáng qua, đánh dấu thời kỳ chuyển tiếp tế nhị nhất, tuổi dậy thì, hai cảnh hoàng hôn lẫn lộn, bước đầu của một người đàn bà trong phút cuối cùng của một em bé. Điểm ấy người đàn ông kia không nhận thấy.
Thình lình, đến cạnh một lùm sồi xanh ở góc một khu vườn con, chỗ gọi là Dãy Nhà Thấp, cô gái bỗng quay lại, động tác ấy khiến người đàn ông phải nhìn cô. Cô gái dừng lại, có vẻ như ngắm nhìn anh chàng một lúc, đoạn cúi xuống; người đàn ông thấy hình như cô lấy ngón tay viết gì đó trên tuyết. Rồi cô ngẩng lên, đi tiếp, bước nhanh, rồi ngoảnh lại, lần này còn cười nữa, và đi khuất sang phía trái con đường, trong cái lối mòn hai bên có hàng rào dẫn đến lâu đài Trường Xuân. Lúc cô ngoảnh lại lần thứ hai, người đàn ông mới nhận ra đây là Déruchette, một cô gái xinh đẹp của địa phương.
Anh thấy cũng chẳng cần phải vội và lát sau anh đã đến bên lùm sồi ở góc khu vườn con. Anh không nghĩ gì đến cô gái qua đường đã đi khuất, và nếu giây phút ấy có một con cá heo văng mình ngoài biển hay một con chim đỏ cổ nhảy nhót trên cành, thì có thể người đàn ông ấy đã đi qua, mắt chăm chú vào con chim đỏ cổ hay con cá heo. Tình cờ lúc trông xuống, anh chợt nhìn đúng vào chỗ cô gái đứng lại. Hai bàn chân nhỏ bé vẫn rành rành ở đấy, và bên cạnh, anh đọc được mấy chữ cô viết trên tuyết: Gilliatt.
Mấy chữ ấy là tên của anh.
Anh là Gilliatt.
Anh đứng lặng hồi lâu, nhìn cái tên, nhìn mặt tuyết, nhìn đôi chân nhỏ bé, rồi lại trầm ngâm đi tiếp.
II
BÛ DE LA RUE[3]
Gilliatt ở trong giáo khu Saint-Sampson. Ở đấy, anh không được ai yêu mến cả. Chuyện ấy cũng có nhiều lý do.
Trước tiên anh ở trong một ngôi nhà có ma. Đôi khi tại Jersey hay tại Guernesey, ở nông thôn hay ở thành phố cũng vậy, đi qua một nơi hẻo lánh hoặc trong một phố đông người, bạn gặp một ngôi nhà, lối vào bị ngăn bít, ô-tô lấp kín cửa, những mảnh ván xấu xí đóng đinh vít tạm các cửa sổ tầng
dưới, cửa sổ tầng trên thì cái đóng cái mở, bao nhiêu khung cửa đều đóng chốt nhưng tất cả các ô kính đều vỡ toang. Nếu có hàng rào, có sân, thì cỏ cũng mọc đầy và lan can bao quanh cũng sụt lở; nếu có vườn thì cũng chỉ thấy tầm ma, gai góc, và độc cần, và ở đấy người ta có thể rình bắt những
giống sâu bọ hiếm thấy; ống khói nứt nẻ, mái nhà sụt lở; bên trong các phòng thì tanh bành; gỗ ván mục nát, đá gạch mốc meo. Trên tường giấy dán bong hết. Các bạn có thể nghiên cứu ở đấy các kiểu giấy hoa thời xưa, các quái vật thời đế chế, các loại màn trướng lưỡi liềm thời chấp chính, các tường hoa và cột mộ thời Louis XVI. Những lớp mạng nhện chằng chịt đầy ruồi chỉ rõ cảnh yên tĩnh triền miên của các cô nhện. Đôi khi thấy một chiếc lọ vỡ trên sàn. Đấy là một ngôi nhà có ma. Ban đêm quỷ thường đến đấy.
Nhà cửa cũng như con người có thể trở thành xác chết. Chỉ cần một chuyện mê tín giết chết nó. Thế là nó trở nên khủng khiếp. Những ngôi
nhà chết như thế không phải là hiếm thấy trên các đảo vùng biển Manche.
Nơi nào có ma quỷ thì nông dân và người miền biển đều không yên tâm trí. Nhân dân vùng biển Manche, quần đảo Anh và duyên hải Pháp, có những khái niệm rất cụ thể về nó. Quỷ sứ có sứ giả trên khắp trần gian. Chắc chắn Belphégor là đại sứ của địa ngục tại nước Pháp, Hutgin tại Italia, Bélial tại Thổ Nhĩ Kỳ, Thamuz tại Tây Ban Nha, Martinet tại Thụy Sĩ và Mammon tại nước Anh. Satan cũng là một vị hoàng đế như ai. Satan César. Triều đình của nó tổ chức rất đàng hoàng; có Dagon là thị vệ thượng thiện; cổ Succor Bénoth trưởng đoàn quan thị; có Asmodée hồ lỳ các sòng bạc; có Kobal giám đốc nhà hát, có Verdelet vụ trưởng vụ lễ nghi; có hề Nybbas. Wiérus, nhà thông thái, học giả nổi tiếng về ma cà rồng và ma quỉ học đại tài, gọi Nybbas là “nhà thơ cuồng phỏng vĩ đại”.
Mỗi lần đi biển, ngư dân Normand vùng biển Manche đều đề phòng rất cẩn thận, vì những ảo ảnh do quỉ sứ gây ra. Từ lâu người ta cho rằng thánh Maclou vẫn sống trên ngọn núi vuông to Ortach, nằm ở ngoài khơi giữa Aurigny và các hòn Casquets, và nhiều thủy thủ già ngày xưa khẳng định thường nhìn thấy từ xa thánh ngồi và đọc sách. Vì vậy các thủy thủ đi qua cứ gập gối chào trước ngọn núi Ortach, cho đến ngày câu chuyện hoang đường ấy tiêu tan và nhường chỗ cho sự thật. Người ta đã phát hiện ra và ngày nay người ta biết rằng không phải một vị thánh sống trên núi Ottach mà một con quỉ. Con quỉ ấy, tên là Jochmus, đã ranh mãnh làm cho mọi người trong nhiều thế kỷ lầm tưởng hắn là thánh Maclou. Vả lại chính Nhà thờ cũng lầm. Những con quỷ Raguhel, Oribel và Tobiel cũng đã từng làm thánh mãi đến năm 745, ngày mà Giáo Hoàng Zacharie, đánh hơi biết, tống cổ chúng đi. Để có thể trục xuất như vậy, việc làm này chắc chắn là rất hữu ích, phải hết sức thông thạo về quỉ sứ.
Các cụ ngày xưa trong địa phương kể lại, nhưng những việc ấy đều thuộc về quá khứ, rằng ngày trước người theo đạo Gia-tổ trên quần đảo Normand còn hay liên hệ với ma nhiều hơn người Huguenot[4], tuy rất miễn cưỡng thôi. Tại sao? Điểm ấy chúng tôi chịu. Điều chắc chắn là ngày trước lớp người thiểu số này bị quỉ sứ quấy nhiễu quá thể. Nó quí mến người theo đạo Gia-tô, và tìm cách lui tới với họ, khiến người ta tưởng rằng quỉ sứ theo đạo Gia-tô chứ không theo đạo Tin lành. Một trong những trò thân mật không thể chịu được của nó, là đêm đêm mò đến các giường cưới của người Gia-tô. Vào lúc anh chồng đã ngủ, và chị vợ mới chập chờn. Do đó có những ngộ nhận. Patouillet vẫn nghĩ rằng Voltaire đã nhờ thế mà được cất tiếng chào đời. Chuyện ấy không có vẻ gì là không thật. Vả lại trường hợp ấy hoàn toàn được biết và tả bằng những câu phù chú, trong mục: de erroribus nocturnis et de semine diabolorum[5]. Đặc biệt nó đã hoành hành ở Saint-Hélier quãng cuối thế kỷ trước, chắc là để trừng phạt những tội ác của cách mạng. Hậu quả những mặt quá khích của cách mạng không thể kể xiết. Dù sao khả năng ma quỉ xuất hiện ban đêm, khi người ta không nhìn rõ, khi người ta ngủ, cũng khiến cho nhiều phụ nữ theo chính giáo phải lúng túng. Đẻ ra một ông Voltaire quả là chẳng có gì hay ho cả. Một bà lo ngại, đến hỏi cha xưng tội cách làm sáng rõ kịp thời chuyện lầm lẫn ấy. Cha xưng tội đáp: - Để biết chắc chắn là con đang nằm với quỉ sứ hay với chồng, con cứ sờ vào trán; nếu con thấy có sừng thì đúng là… - Là gì cơ ạ? - bà ta hỏi.
Ngôi nhà Gilliatt ở trước kia có ma, nay đã hết rồi. Vì vậy nó càng bị nghi ngờ. Không ai lạ gì khi một ngôi nhà có ma mà được phù thủy đến ở thì quỉ sử cho rằng nhà đã được trông coi tử tế, và tỏ ra lễ độ với vị phù thủy bằng cách không đến đấy nữa, trừ phi được gọi đến như thầy thuốc.
Ngôi nhà đó gọi là Bû de la Rue. Nó ở đầu một doi đất hay nói đúng hơn một ngọn núi làm thành một bến nhỏ riêng lẻ trong vịnh Houmet Paradis. Nước ở đấy sâu. Ngôi nhà chơ vơ độc một mình trên cái mũi nhọn hầu như nhô ra ngoài đảo, với một khoảnh đất vừa đủ để thành một mảnh vườn con. Thủy triều cao đôi khi dìm ngập cả mảnh vườn. Giữa cảng Saint-Sampson và vịnh Houmet Paradis, có ngọn đồi to trên đó sừng sững cái khối những tháp và trường xuân gọi là lâu đài Valle hay Archange, thành thử từ Saint-Sampson không thể nhìn thấy Bû de la Rue.
Ở Guernesey không gì dễ tìm hơn một anh phù thủy. Họ hành nghề tại một số giáo khu, và thế kỷ mười chín không động đến họ. Họ có những hành vi thật sự là tội ác. Họ nấu vàng cho sôi lên. Đêm khuya họ đi hái lá. Họ dòm ngó gia súc mọi nhà. Người ta tìm hỏi, họ bảo mang “nước bệnh nhân” để trong chai đến cho họ, và người ta nghe họ lẩm bẩm: Nước có vẻ buồn lắm. Một hôm, vào tháng ba năm 1856, một anh trong số họ nhận thấy trong “nước” của một bệnh nhân có bảy con quỉ. Người ta sợ họ mà họ cũng đáng sợ thật. Một anh đã phù yểm một người thợ làm bánh mì “và cả cái lò của y nữa”. Một anh còn nham hiểm gắn si và niêm phong rất kỹ những chiếc phong bì “trong đó chẳng có gì cả”. Một anh còn cất giữ trong nhà, trên một tấm ván, ba cái chai dán nhãn đề chữ B. Những việc quái gở ấy đều được nhiều người biết. Một số phù thủy cũng tử tế và chỉ cần hai hay ba ghinê cũng chữa hộ bệnh. Lúc bấy giờ họ vừa lăn ra giường vừa gào thét. Trong khi họ quằn quại thì các bạn nói: Kìa, tôi không sao nữa cả. Có những anh chữa hết mọi bệnh cho bạn bằng cách buộc quanh người bạn một chiếc khăn tay. Phương pháp đơn giản đến nỗi người ta ngạc nhiên tại sao chẳng ai nghĩ đến nó. Thế kỷ trước, tòa án Guernesey vứt họ vào một đống củi và thiêu sống. Ngày nay, tòa án phạt họ lần lượt tám tuần ngồi tù,
bốn tuần ăn bánh mì nước lã, và bốn tuần giam kín. Amant alterna catenœ[6].
Lần thiêu phù thủy cuối cùng ở Guernesey vào năm 1747. Để làm việc ấy, thành phố đã sử dụng một trong số các quảng trường, ngã tư Bordage. Ngã tư Bordage đã được thấy thiêu sống mười một phủ thủy, từ năm 1565 đến năm 1700. Thông thường bọn tội phạm này đều thú nhận. Người ta dùng tra tấn để giúp cho chúng thú nhận. Ngã tư Bordage còn giúp được nhiều việc khác nữa cho xã hội và tôn giáo. Người ta còn thiêu cả những người theo tà giáo. Dưới triều đại Marie Tudor, người ta thiêu ở đây, cùng với những người Huguenot, một bà mẹ cùng với hai cô con gái bà ta, bà mẹ ấy tên là Perrotine Massy. Một trong hai cô gái có chửa. Cô ta đẻ ngay trên giàn thiêu. Biên niên sử ghi: “Bụng cô ta nổ tung.” Từ cái bụng ấy văng ra một cháu bé còn sống; đứa trẻ sơ sinh lăn ra ngoài lò lửa; một người tên là House nhặt cháu bé lên. Tên pháp quan Hélier Gosselin, một tín đồ của đạo Gia-tô, bắt quăng trả cháu bé vào lửa.
III
“DÀNH CHO VỢ CON, KHI NÀO CON CƯỚI VỢ”
Ta hãy quay lại với Gilliatt.
Trong địa phương, người ta kể chuyện rằng vào quảng cuối thời kỳ Cách Mạng có một bà, cùng với một đứa con nhỏ, đến ở tại Guernesey. Bà ta là người Anh, nếu không phải là người Pháp, Bà ta có một cái tên nào đó mà cách phát âm vùng Guernesey và chính tả ở thôn quê biến thành Gilliatt. Bà ta sống một mình với thằng bé mà có người cho là cháu gọi bằng cô, có người cho là con, có người cho là cháu nội hay cháu ngoại, có
người lại cho chẳng là gì cả. Bà ta có được ít tiền, vừa đủ để sống một cách nghèo khổ. Bà ta mua một mảnh đồng cỏ nhỏ của bà Sergentée, và một vạt đất của bà Roque Crespel, ở cạnh Rocquaine. Ngôi nhà Bû de la Rue thời ấy đang có ma. Từ hơn ba mươi năm, người ta không còn ở đấy nữa. Nó đang sụp đổ. Mảnh vườn bị biển ra vào nhiều quá không sản xuất được gì cả. Ngoài những tiếng động ban đêm và những ánh sáng lập lòe, ngôi nhà có điểm đặc biệt hãi hùng là, nếu buổi tối người ta để trên lò sưởi một cuộn len, với kim đan và một đĩa súp, thì sáng hôm sau thấy súp hết nhẵn, đĩa không, và một đôi găng tay một ngón đã đan xong. Người ta yết bán ngôi nhà nát cùng với con ma trong ấy với giá vài ba livrơ xteclinh. Bà ta mua ngôi nhà, tất nhiên do bị quỉ sứ cám dỗ. Hoặc do giá hời.
Không những mua nó, bà ta còn đến đấy ở cùng với con trai, và từ đấy ngôi nhà trở nên yên tĩnh. Dân địa phương bảo: Ngôi nhà ấy đã có cái mà nó muốn. Việc ma ám chấm dứt. Người ta không nghe thấy tiếng gào thét ở đấy lúc trời rạng sáng nữa. Không có ánh sáng nào khác ngoài ngọn nến mỡ bò đêm đêm người đàn bà hiền lành kia thắp. Đèn phù thủy cũng như đuốc yêu tinh. Lời giải thích ấy làm vừa lòng công chúng.
Người đàn bà kia ngày đêm xoay sở với mấy sào đất của mình. Bà ta có một con bò cái tốt cho bơ vàng óng. Bà thu hoạch được đỗ trắng, cải bắp, và khoai tây loại Golden Drops. Cũng như những người khác, bà ta bán “củ cải đóng thùng, hành đếm trăm và đậu tằm bằng đấu”. Ba ta không đi chợ, mà nhờ Guilbert Falliot bán hoa màu cho cánh buôn Saint-Sampson. Sổ cái của Falliot nhận có lần bản hộ bà ta đến hai hộc khoai ba tháng, loại đúng thời hạn nhất.
Ngôi nhà đã được sửa chữa qua quýt, vừa đủ để ở được. Trong các buồng chỉ dột khi nào mưa to quá. Nhà gồm có một tầng dưới và một gác
mái. Tầng dưới chia làm ba phòng, hai phòng ngủ và một phòng ăn. Lên gác mái bằng thang. Người đàn bà lo việc bếp núc và dạy con đọc. Bà ta không đi nhà thờ, vì vậy, cân nhắc đủ mọi nhẽ, người ta bảo bà ta là người Pháp. “Không đi nhà thờ nào cả” là chuyện hệ trọng.
Tóm lại, đấy là những con người không có gì bảo đảm.
Rất có thể bà ta là người Pháp. Hỏa diệm sơn phụt ra đất đá thì Cách Mạng phụt ra người. Nhiều gia đình vì vậy mà bắn đi rất xa, nhiều số phận vì thế mà lạc loài, nhiều nhóm người bị ly tán và xé nhỏ, nhiều người rơi từ trên mây xuống, có người bay sang Đức, có người tung sang Anh, có người bạt sang Mỹ. Họ khiến cho các thổ dân phải ngạc nhiên. Những con người xa lạ kia từ đâu tới? Chính ngọn Vésuve[7] nghi ngút khói ở kia đã khạc ra họ. Người ta đặt tên cho những thứ thiên thạch kia, cho những kẻ bị trục xuất và phiêu bạt kia; người ta gọi họ là cánh di cư, là dân lánh nạn, là khách giang hồ. Nếu họ ở lại, người ta làm ngơ; nếu họ ra đi, người ta hể hả. Đôi khi đấy là những con người hoàn toàn vô hại, xa lạ, ít ra là các phụ nữ, trước những sự kiện đã xua đuổi họ, không căm hờn giận dữ, những viên đạn bất đắc dĩ, rất ngạc nhiên. Họ lại cố sức bắt rễ. Họ chẳng hề làm gì hại ai và không hiểu gì việc đã xảy ra đến với họ. Tôi đã thấy một túm cỏ khốn khổ bị mìn nổ hất tung lên không trung. Một cuộc cách mạng của nước Pháp, hơn bất cứ vụ nổ nào khác, đã hất xa những con người như vậy.
Người đàn bà mà Guernesey người ta quen gọi là mụ Gilliatt có lẽ là cái túi cỏ đó.
Người đàn bà già đi, thằng bé lớn dần. Hai người sống cô độc, bị xa lánh. Họ tự mãn với nhau. Sói mẹ sói con liếm láp cho nhau. Đấy cũng lại
là một trong những lời nói thông thường mà lòng hào hiệp xung quanh thường áp dụng cho họ. Thằng bé trở thành một chàng trai, chàng trai trở thành một gã đàn ông, và thế là vỏ già của đời bao giờ cũng phải bong rụng, bà mẹ chết. Bà để lại cho nó mảnh đồng của bà Sergentée, vạt đất của bà Roque-Crespel, ngôi nhà Bû de la Rue, và thêm bản kiểm kê chính thức ghi, “một trăm ghinê vàng trong một cẳng tất”, nghĩa là trong bàn chân một chiếc bít tất. Ngôi nhà cũng được trang hoàng đầy đủ với hai cái hòm bằng gỗ sồi, hai chiếc giường, sáu ghế tựa, một cái bàn và xoong nồi cần thiết. Trên một tấm ván có vài ba quyển sách và trong một góc, một cái hòm chẳng có gì là bí mật vì phải mở để kiểm kê. Hòm này bằng da màu nâu vàng, trang trí hoa văn bằng đinh đồng và ngôi sao bằng thiếc, và đựng đầy đủ một bộ tư trang đàn bà, còn mới tinh, bằng vải phin Dunkirk rất đẹp, sơ mi, váy, thêm một số lụa để may áo dài, với một mảnh giấy trên có mấy chữ sau đây do chính bàn tay người quá cố viết: Dành cho vợ con, khi nào con cưới vợ.
Cái chết này đối với người còn lại là một niềm đau xót nặng trĩu bên lòng. Xưa kia anh man rợ, giờ đây anh trở thành hung dữ. Cảnh vắng vẻ xung quanh anh càng thêm vắng vẻ. Trước đây là cảnh cô đơn, bây giờ là cảnh trống trải. Ngày nào còn có cả hai người, cuộc sống còn có thể chịu đựng được. Một mình, hình như không thể nào kéo lê thêm cuộc sống. Người ta không muốn kéo nữa. Đấy là hình thái đầu tiên của thất vọng. Sau đó người ta hiểu ra rằng bổn phận là một chuỗi dài chịu đựng. Người ta nhìn cái chết, người ta nhìn cuộc đời, và người ta chấp nhận. Nhưng đó là một sự chấp nhận rớm máu.
Gilliatt còn trẻ nên vết thương của anh thành sẹo. Ở tuổi anh, trái tim trở lại bình thường. Nỗi buồn của anh, dần dần phai nhạt, hòa lẫn vào thiên
nhiên xung quanh, trở thành một niềm say mê, lôi cuốn anh vào mọi vật và xa con người, ngày càng hợp tâm hồn ấy với cảnh cô đơn.
IV
THẤT NHÂN TÂM
Gilliatt không được yêu quí trong giáo khu, điều ấy chúng tôi đã nói rồi. Chẳng có gì tự nhiên hơn mối ác cảm đó. Nguyên nhân thì nhiều. Thoạt tiên, ta vừa giải thích xong, ngôi nhà anh ở. Tiếp đó, nguồn gốc anh. Người đàn bà kia là thế nào? Và tại sao lại thằng con ấy? Dân quê không thích có những điều bí ẩn về người thiên hạ. Tiếp đó, quần áo anh lại là quần áo công nhân, trong khi, mặc dù chẳng phải giàu có gì, anh vẫn đủ sống mà không làm gì. Tiếp đó, mảnh vườn mà anh khéo trồng trọt và thu hoạch khoai tây bất chấp những thay đổi của thời tiết. Tiếp đó, mấy quyển sách to anh để trên tấm ván và vẫn lấy đọc.
Còn nhiều lý do nữa.
Tại sao anh sống một mình? Ngôi nhà ven đường là một thứ trại hủi; người ta tẩy chay anh; vì vậy cũng đơn giản hơn việc người ta ngạc nhiên về cảnh hiu quạnh của anh, và người ta cho rằng anh phải chịu trách nhiệm về cảnh cô đơn mà người ta tạo ra xung quanh anh.
Không bao giờ anh đi nhà thờ. Anh thường ra khỏi nhà về đêm. Anh nói chuyện với phù thủy. Có lần người ta nhìn thấy anh ngồi trên cỏ, vẻ mặt ngơ ngác. Anh hay lui tới chỗ ngôi thạch mộ Ancresse và những hòn đá trên đồng ruộng. Người ta đoán chắc là đã thấy anh lễ phép chào ngọn Roque qui Chante. Anh mua tất cả số chim người ta đem đến cho anh và đem thả chúng ra. Anh lễ phép đối với những người tư sản trong các
đường phố Saint-Sampson, nhưng chỉ thích đi vòng để khỏi phải qua đấy. Anh rất hay đi câu và lúc nào cũng có cá đưa về. Chủ nhật anh làm vườn. Anh có một cái kèn da mua của những người lính Scotland đi qua Guernesey, và vào lúc chiều tà, ngồi trên các mỏm núi ngoài biển, anh thường lấy kèn ra thổi. Anh thường làm những điệu bộ như người gieo hạt. Với một người như vậy thì địa phương sẽ ra sao đây?
Còn mấy quyển sách mà người đàn bà quá cố để lại và anh thường lấy xuống đọc thì thật đáng lo ngại. Cha Jaquemin Hérode tôn kính, mục sư tại Saint-Sampson, vào nhà hôm đám ma người đàn bà, đã đọc được ở gáy các quyển sách những nhan đề sau đây: Từ điển Rosier, Candide của Voltaire, Lời khuyên dân chúng về sức khỏe của Tissot. Một vị quý tộc người Pháp, di cư ẩn dật ở Saint-Sampson, đã nói: Hẳn là cái lão Tissot, người đã cầm cái đầu của công chúa Lamballe.
Bề trên tôn kính đã nhận thấy trên một quyển sách cái nhan đề thật lủng củng và dễ sợ. De Rhubarbaro.
Tuy nhiên cần phải nói, vì tác phẩm được viết bằng chữ La tinh, như nhan đề chỉ rõ, khó có thể tin rằng Gilliatt, vốn không biết chữ La tinh, lại đọc đến quyển sách ấy.
Nhưng chính những quyển sách mà người ta không đọc lại hay kết tội người ta nhiều nhất. Pháp đình tôn giáo Tây Ban Nha đã xét đến điểm này và cho là không phải nghi ngờ gì cả.
Vả lại đây chẳng qua là quyển sách của bác sĩ Tilingius viết về cây Rhubarbe xuất bản ở Đức năm 1679.
Người ta không chắc Gilliatt đã không làm bùa, làm ngải, và “nấu rượu”. Anh có khối những chai lọ.
Tại sao tối tối anh lại hay dạo chơi, đôi khi đến tận nửa đêm, ngoài vách biển, tất nhiên để chuyện trò với những kẻ xấu ban đêm vật vờ trong khói ở ngoài bờ biển.
Có lần anh đã giúp mụ phù thủy ở Torteval kéo được một chiếc xe ra khỏi quãng lầy. Một bà già, tên là Moutonne Gahy.
Trong cuộc điều tra dân số ở đảo, được hỏi về nghề nghiệp, anh đã trả lời: Đánh cá, khi có cá. Bạn thử đặt mình vào cương vị dân thường, người ta không ưa những câu trả lời như vậy.
Nghèo giàu là chuyện để so sánh, Gilliatt có ruộng, có nhà và so với những người chẳng có gì, thì anh chẳng phải nghèo. Một hôm, để thử anh, và có lẽ cũng để tấn công anh vì cũng có những người đàn bà lấy quỉ giàu,
một cô gái hỏi Gilliatt: - Bao giờ thì anh lấy vợ? - Anh đáp: Bao giờ hòn Roque qui Chante lấy chồng thì tôi lấy vợ.
Hòn Roque qui Chante là một tảng đá to đứng sừng sững trong một mảnh vườn gần của Monsieur Lemézurier de Fry. Cần phải giám sát kỹ tảng đá này. Người ta không biết tại sao nó lại ở đấy. Người ta thường nghe có tiếng gáy ở đấy mà không thấy có gà, điều thật hết sức bực mình. Sau đó người ta lại xác nhận rằng nó được bọn sarregouset, bọn này cũng như bọn sin, đặt trong mảnh vườn ấy.
Ban đêm, khi nào có sấm, nếu thấy có người bay trong mây đỏ và trong không khí chuyển động, đấy là bọn sarregouset. Một người đàn bà, ở Grand Mielles, biết rõ chúng nó. Một tối nọ có bọn sarregouset ở một ngã tư, người đàn bà ấy nói to với một anh đánh xe bò, người này đang không biết đi về đàng nào: Cứ hỏi họ đường mà đi, đây là những con người rất tốt, rất lịch sự để trò chuyện ở đời. Cuộc gì thì cuộc, người đàn bà ấy là
phù thủy.
Vị vua anh minh và thông thái Jacques Đệ Nhất thường sai luộc sống những loại đàn bà như thế, nếm thử nước luộc và qua chất vị của nước luộc, phán: Đúng là một mụ phù thủy, hoặc mụ này không phải phù thủy.
Đáng tiếc là vua chúa ngày nay không có cái tài như thế nữa, để cho ta hiểu lợi ích của thể chế.
Gilliatt không phải là không có những nguyên nhân chính đáng, sống sặc mùi phù thủy. Trong cơn bão vào lúc nửa đêm, Gilliatt đang ở một mình ngoài biển, trên một chiếc thuyền con phía La Sommeilleuse, người ta nghe anh hỏi:
- Có thể đi qua được không?
Có tiếng nói to từ trên đỉnh núi:
- Có! Dũng cảm lên!
Anh nói với ai, nếu không phải với người trả lời anh? Đối với chúng ta, điều ấy hình như là một bằng chứng.
Một đêm khác trời cũng giông bão, tối như bưng, ngay cạnh hòn Catiau Roque, một dãy núi đồi, nơi phù thủy, dê và quỷ sứ cứ thứ sáu lại đến nhảy múa, người ta nhận rõ tiếng của Gilliatt lẫn trong đoạn đối thoại sau đây:
- Vésin Brovard thế nào rồi? (Đấy là một người thợ xây bị ngã từ mái nhà xuống)
- Đỡ rồi.
- Trời đất! Hắn ngã từ chỗ cao hơn cái cột này. May mà hắn không bị gãy xương.
- Tuần trước đi lấy rong biển trời đẹp lắm.
- Hơn bữa nay.
- Rồi coi! Ở chợ sẽ chẳng còn con cá nào đâu.
- Trời gió dẽ quá.
- Không làm sao mà thả được lưới.
- Con Catherine ra sao?
- Mê lắm.
“Con Catherine” dĩ nhiên là một con sarregouset.
Xét theo bề ngoài thì Gilliatt thường làm việc về đêm. Ít ra không ai nghi ngờ về chuyện ấy.
Đôi khi người ta thấy anh đổ nước ra đất với cái vò của anh. Mà nước đổ xuống đất bao giờ cũng có hình quỉ sứ.
Trên con đường Saint-Sampson, đối diện với xưởng rèn số 1, có ba tảng đá xếp thành bậc thang. Trên mặt bằng của chúng, hiện nay chẳng có gì, ngày trước có một cây thánh giá, nếu không phải là một cái giá treo cổ. Những tảng đá này ác độc lắm.
Nhiều người rất dè dặt và nhiều người tuyệt đối có thể tin được khẳng định đã trông thấy Gilliatt nói chuyện với một con cóc, cạnh mấy tảng đá nói trên. Thế mà ở Guernesey lại không có cóc, Guernesey có đủ loại rắn nước và Jersey có đủ loại cóc. Con cóc này hẳn đã bơi từ Jersey sang để nói chuyện với Gilliatt. Cuộc nói chuyện rất thân mật.
Những sự việc trên được xác nhận, chứng cớ là ba tảng đá vẫn còn đấy. Người nào ngờ vực có thể đi mà xem, và cách đấy không xa, còn một ngôi
nhà ở góc có treo tấm bảng: Mua bán gia súc sống hoặc chết, dây thừng cũ, sắt, xương và kén, giao dịch và thanh toán nhanh chóng.
Phải có ác ý mới phủ nhận sự hiện hữu của mấy tảng đá kia và sự tồn tại của ngôi nhà nọ. Tất cả những chuyện ấy đều có hại cho Gilliatt.
Chỉ những người ngu dốt mới không biết hiểm họa lớn nhất trên biển Manche là Vua Auxcriniers[8]. Không có nhân vật nào ngoài biển đáng sợ hơn. Ai mà trông thấy lão là thế nào cũng bị đắm giữa các hòn Saint Michel. Lão nhỏ người, lùn tịt, điếc đặc và là Vua. Lão biết tên tất cả những người chết ngoài biển và chỗ họ nằm. Lão biết tường tận nghĩa địa đại dương. Một cái đầu dưới to trên hẹp, một thân mình vạm vỡ, một cái bụng nhầy nhụa dị hình, sọ tinh mụn cóc, ống chân ngắn ngủn, cánh tay dài nghêu, bàn chân hình vây cá, bàn tay như vuốt nhọn, mặt phèn phẹt xanh lè, hình dạng lão vua ấy như thế đấy. Vuốt của lão có màng kiểu chân vịt, vây lão đều có móng. Ta cứ tưởng tượng một con cá mà có mặt người. Để thanh toán lão, phải trù yểm lão hay câu được lão. Trong khi chờ đợi lão rất hung ác. Không gì đáng sợ bằng lão. Trên sóng nước sau lớp sương mù dày đặc thấp thoáng hình dáng một con người; trán thấp, mũi tẹt, hai tai bẹp dí, cái mồm rộng hoác không răng, nhăn nhở màu xanh lục, hàng lông mày xếch ngược và cặp mắt vui vẻ thô lố. Lúc chớp xanh lè thì lão đỏ rực, lúc chớp đỏ thẫm thì lão lại nhợt nhạt tái mét. Lão có bộ râu xòa rộng vừa óng ánh vừa cứng, cắt tỉa vuông vắn, trên một cái màng mỏng hình áo choàng, trang trí thêm mười cái vỏ sò, bảy cái phía trước, bảy cái phía sau. Mấy cái vỏ sò này khá kỳ lạ đối với những ai hiểu biết về sò hến. Chỉ khi nào biển động mạnh mới thấy Vua Auxcrinier. Lão là tên hề rùng rợn của bão táp. Hình dáng lão thấp thoáng trong sương mù, trong gió giật và trong mưa tuôn. Cái rốn của lão nom thật gớm chết. Một lớp vỏ hàu phủ kín mạn
sườn lão như một chiếc áo nịt. Lão đứng sừng sững trên những lớp sóng cuộn tung tóc dưới áp lực của gió và xoắn vặn như phoi bào thoát ra khỏi chiếc bào thợ mộc. Lão đứng phơi cả mình ra ngoài bọt nước, và nếu ở
chân trời có thuyền bè lâm nạn là, đang xanh mét trong bóng tối, mặt bỗng rạng lên nhờ ánh sáng một nụ cười mơ hồ, lão nhảy múa với vẻ điên loạn và khủng khiếp. Đấy là một cuộc gặp gỡ nguy hiểm. Vào thời kỳ Gilliatt còn là một trong những chuyện bận tâm của Saint-Sampson, những người cuối cùng được thấy vua Auxcrinier đều tuyên bố rằng trên tấm áo choàng của lão chỉ còn mười ba chiếc vỏ sò, như vậy lão càng thêm nguy hiểm. Nhưng cái thứ mười bốn đâu rồi? Lão có cho ai không? Và lão đã cho ai? Chuyện đó chẳng ai biết, người ta đành đoán phỏng. Điều chắc chắn là Monsieur Lupin Mabier ở Godaines, người có uy tín, nghiệp chủ đóng thuế ở tám mươi phường khóm, sẵn sàng thề rằng có lần ông đã thấy trong tay Gilliatt một chiếc vỏ sò rất đặc biệt.
Những câu chuyện sau đây giữa hai nông dân không phải là hiếm: - Này ông bạn hàng xóm, có phải con bò nhà tôi đẹp không? - Béo múp ông bạn hàng xóm ạ.
- Ờ đúng thế thật.
- Nó nhiều mỡ hơn thịt.
- Trời ơi!
- Anh có chắc là Gilliatt chưa nhìn nó lần nào không?
Gilliatt thường dừng lại ở các rìa bờ ruộng, cạnh mấy người thợ cày và bên những mảnh vườn gần mấy người làm vườn, và anh thường nói với họ những lời bí mật:
- Khi nào hàm thiếc quỉ ra hoa thì gặt lúa mạch đông.
(Hàm thiếc quỉ tức là cây scabieuse).
- Tần bì ra lá, băng giá không còn.
- Hạ chí mà đến là gai ra hoa.
- Tháng sáu không mưa, lúa mì bạc trắng. Nên sợ lúa đen. - Anh đào kết quả, cảnh giác trăng tròn.
- Mồng sáu âm lịch, nếu thời tiết giống như mồng bốn, mồng năm thì suốt tuần trăng sẽ vẫn như thế, chín lần trên mười hai trong trường hợp thứ nhất và mười một trên mười hai trong trường hợp thứ hai.
- Phải để mắt đến hàng xóm đang kiện tụng với anh. Nên đề phòng những chuyện ác ý. Lợn uống sữa nóng thì lợn đi đời. Xát răng bò cái bằng hương mộc là bò chê cỏ.
- Cá hương đẻ trứng, coi chừng bệnh sốt.
- Nhái ra khỏi hang, dưa gang trồng gấp.
- Địa liên ra hoa, gieo ngay đại mạch.
- Điền ma ra hoa, phát ngay đồng cỏ.
- Bạch dương ra hoa, mở toang khuông kính.
- Thuốc lá ra hoa, đóng kỹ nhà kính.
Và, điều khủng khiếp, nếu nghe theo lời anh khuyên, người ta sẽ khá.
Một đêm tháng sáu anh thổi kèn da trên động cát, phía Demie de Fontenelle, thế là đợt đánh cá song mất trắng.
Một tối, lúc thủy triều xuống, trên bãi cát trước nhà anh ở Bû de la Rue,
một chiếc xe bò chở rong biển bị đổ. Chắc anh sợ bị gọi ra pháp luật, vì anh cố sức giúp người ta dựng chiếc xe và đích thân chất lại chỗ rong lên xe.
Một con bé hàng xóm có rận, anh đã đi Saint-Pierre-Port mua thuốc cao về, và xát cho con bé. Gilliatt đã chữa hết rận cho nó, như thể chứng tỏ Gilliatt đã làm cho con bé có rận.
Mọi người đều biết có một thứ bùa làm cho người ta có rận.
Gilliatt có tiếng hay nhìn xuống giếng, như thế rất nguy hiểm nếu con mắt độc ác; sự thật là một hôm ở Arculons, gần Saint-Pierre-Port, nước giếng bỗng dưng trở mùi. Bà chủ giếng hiền lành liền nói với Gilliatt: Anh xem chỗ nước này coi. Và bà đưa cho anh một cốc nước đầy. Gilliatt công nhận: Nước có nặng mùi thật. Bà cụ sinh nghi nói: Thế thì anh chữa nó hộ tôi đi. Gilliatt hỏi bà: - Bà có chuồng bò không? - Chuồng bò có cống không? - Nước cống có chảy qua gần giếng không? Bà cụ trả lời có, Gilliatt liền đi vào chuồng bò, quét dọn cống, cho dòng nước chảy qua chỗ khác, thế là nước trở lại trong lành. Trong vùng ai muốn nghĩ gì thì nghĩ. Một cái giếng không phải xấu, sau đó lại tốt, không có nguyên do; người ta không thể cho rằng bệnh của cái giếng này là tự nhiên, và khó lòng không tin rằng đúng Gilliatt đã bỏ bùa xuống giếng nước.
Một hôm anh đi Jersey, người ta nhận thấy anh đến ở tại Saint-Clément, phố Alleurs. Alleurs tức là ma quỉ.
Ở làng, người ta hay cóp nhặt những dấu hiệu về một con người, người ta ráp những dấu hiệu ấy lại; tổng số tạo thành tiếng tăm.
Có hôm người ta bắt gặp Gilliatt đổ máu cam. Chuyện này xem ra trầm trọng. Một người chủ đò, từng đi nhiều, đã đi gần hết quả đất, khẳng định
rằng ở Tungouses, tất cả bọn phù thủy đều chảy máu cam. Hễ thấy ai đổ máu cam là người ta biết ngay phải làm gì. Tuy nhiên những người biết điều đều nhận xét rằng đặc điểm của bọn phù thủy Tungouses có thể không hoàn toàn giống như đặc điểm của bọn phù thủy ở Jersey.
Một lần gần ngày lễ Saint-Michel, người ta thấy anh dừng chân trên một đồng cỏ trong các khu vườn con của nhà Huriaux, bao quanh con đường lớn đi Videclins. Anh huýt sáo trên đồng cỏ, và rồi lát sau nữa một con ác là bay đến. Sự việc được xác nhận bởi một người tai mắt, từ đó là ủy viên trong đoàn Mười Hai người được phép làm một cuốn sách mới nói về vấn đề chim đậu trên thái ấp nhà vua.
Tại Hamel, trong hai mươi ngày lễ l’Épine, có những bà già cam đoan một buổi sáng đã nghe thấy, qua tiếng sáo mồi quen thuộc, chim én gọi Gilliatt.
Thêm vào đó, anh ta không tốt.
Một hôm có người đàn ông khốn khổ đánh một con lừa. Con lừa không chịu đi. Người kia đá cho nó mấy cái vào bụng, thế là con lừa lăn quay ra. Gilliatt chạy đến để nâng con lừa dậy, thì con lừa đã chết, Gilliatt liền tát anh chàng khốn khổ kia.
Một hôm khác, thấy có một thằng bé từ trên cây tuột xuống, với một tổ chim táo mới nở, gần như không có lông và trần trụi. Gilliatt giằng lấy ổ chim của thằng bé, và còn độc ác đến mức đem ổ chim đặt lại trên cây.
Một số người qua đường trách anh, anh lẳng lặng chỉ vào con chim bố và con chim mẹ đang chiêm chiếp phía trên cây và bay về với lũ chim non. Anh vốn rất quí chim.
Đây là một dấu hiệu thông thường để nhận ra những bọn phù thủy.
Trẻ con sung sướng khi tìm được những ổ hải âu và sơn ca trong các vách biển. Chúng đưa về vô số trứng màu xanh, màu vàng, màu lục mà người ta vẫn dùng để làm thành những hình hoa thị trên mặt tiền lò sưởi. Vì vách biển dựng đứng, đôi khi chúng trượt chân ngã chết. Còn gì đẹp bằng những bức bình phong trang trí bằng trứng chim biển. Gilliatt không bao giờ làm hại ai. Anh dám liều cả tính mạng, trèo lên các vách núi cheo leo ngoài biển, và treo lên đấy những tấm rơm với những chiếc mũ cũ và đủ loại hình nhân, để không cho chim làm tổ ở đấy, và lẽ tất nhiên để ngăn chặn trẻ con đến đấy.
Bởi vậy mà Gilliatt hầu như bị địa phương oán ghét. Lẽ ra thì không đến nỗi thế.
V
NHỮNG MẶT ĐÁNG NGỜ KHÁC CỦA GILLIATT
Dư luận không được xác định rõ về Gilliatt.
Thông thường người ta tưởng anh là marcou, nhiều người còn tưởng anh là cambion. Cambion là con trai một người đàn bà ngủ với quỉ.
Khi nào một người đàn bà có liền với một người đàn ông bảy đứa con trai, thì đứa thứ bảy là marcou. Nhưng không được cô con gái xen vào giữa loạt con trai kia.
Marcou có một cái hoa huệ tự nhiên ở một bộ phận nào đấy trên người, nhờ thế mà nó chữa được bệnh tràng nhạc cũng giỏi như các vị vua nước Pháp. Khắp nước Pháp nơi nào cũng có một ít marcou, nhất là ở Orléanais.
Ở Gâtinais làng nào cũng có marcou. Để chữa chạy cho người bệnh, marcou chỉ cần thổi lên những vết thương của họ hoặc bảo họ sờ vào cái hoa huệ của nó. Việc này có kết quả nhất vào đêm thứ sáu thánh[9]. Cách đây mười năm, marcou vùng Ormes đến xin thuốc, là một người đóng thùng tô-nô tên gọi là Foulon, có ngựa có xe. Để ngăn chặn những phép màu của anh, người ta phải nhờ sen đầm can thiệp. Anh ta có hoa huệ ở dưới vú trái. Các marcon khác có hoa huệ ở chỗ khác.
Ở Jersey, ở Aurigny, và ở Guernesey đều có marcou. Điểm ấy có lẽ do nước Pháp có quyền hành trên công quốc Normandie. Nếu không thì ích gì cái hoa huệ?
Trên các đảo vùng biển Manche cũng có người mắc bệnh tràng nhạc, vì thế cần phải có marcou.
Một hôm, mấy người có mặt lúc Gilliatt tắm biển cho là đã trông thấy hoa huệ của anh. Được hỏi về điểm ấy, anh chỉ cười khì. Vì đôi khi anh cũng cười như mọi người khác. Từ đấy, người ta không thấy anh đi tắm nữa, anh chỉ tắm ở những chỗ nguy hiểm và vắng vẻ. Có lẽ vào ban đêm, lúc trăng sáng; một điều mà người ta sẽ thừa nhận là đáng nghi ngờ.
Những người cứ nhất định cho anh là cambion. Nghĩa là con của quỉ sứ, tất nhiên đã lầm. Lẽ ra họ phải biết rằng chỉ ở Đức mới có cambion. Nhưng cách đây năm mươi năm, Valle và Saint-Sampson đều là những địa phương ngu dốt.
Ở Guernesey mà tin người nọ người kia là con của quỉ sứ thì rõ ràng có quá đáng.
Chính vì Gilliatt gây lo ngại mà anh thường được nhờ chữa bệnh. Bà con nông dân, sợ hãi đến kể bệnh với anh. Nỗi sợ hãi ấy bao hàm niềm tin
tưởng; và ở nông thôn thầy thuốc càng bị ngờ vực thì thuốc của thầy càng đảm bảo. Gilliatt có những phương thuốc gia truyền do bà mẹ qua đời để lại; ai hỏi anh cũng cho và không chịu lấy tiền. Anh chữa càng cua chín mé bằng cách đắp lá; chữa sốt bằng thứ nước ở trong một cái lọ của anh; nhà hóa học ở Saint-Sampson, mà ở Pháp chúng ta gọi là dược sĩ, nghĩ có lẽ đây là rượu thuốc quinquina. Những người ít cảm tình nhất sẵn sàng thừa nhận Gilliatt là loại quỉ tương đối hiền lành đối với bệnh nhân khi dùng đến những phương thuốc thông thường của anh; nhưng bảo anh là marcou thì anh không chịu; nếu một người đau tràng nhạc xin được chạm vào cái hoa huệ của anh, anh chỉ trả lời bằng cách đóng sập cửa lại; làm phép lạ là điều anh dứt khoát từ chối, kể cũng buồn cười đối với một tay phù thủy. Đừng có làm phù thủy; nhưng đã là phù thủy thì nên hành nghề.
Trong mối ác cảm chung trên đây, có một hay hai biệt lệ. Sieur Landoys, ở Clos-Landès, là lục sự giáo khu Saint-Pierre-Port, phụ trách ghi chép và giữ sổ sinh tử giá thú. Ông lục sự Landoys này tự hào mình là con cháu của Pierre Landais, thủ quỹ xứ Bretagne, bị treo cổ năm 1485. Một hôm Sieur Landoys tắm xa bờ biển quá và suýt chết đuối, Gilliatt liền nhảy xuống nước, suýt nữa cũng chết đuối theo, và cứu được Landoys. Từ hôm ấy Landoys không nói xấu Giliatt nữa. Đối với những người tỏ ra ngạc nhiên vì thế, ông đáp: Tại sao ông lại muốn tôi ghét một người không làm gì tôi và đã cứu sống tôi? Ông lục sự lại còn phần nào tỏ ra thân thiện với Gilliatt nữa. Ông là một người không có thành kiến. Ông không tin phù thủy. Ông cười những ai sợ ma. Còn ông, ông có một chiếc tàu, ông đi câu những khi rỗi rãi cho vui, và chẳng bao giờ ông gặp chuyện gì kì lạ, ngoài chuyện một hôm sáng trăng có một người đàn bà trắng trẻo nhảy xuống nước, và ông không chắc là có thật không nữa, Moutonne Gahy, mụ phù thủy ở Torteval,
có cho ông một cái túi con để đeo dưới cà vạt và để yểm trừ ma quỷ; ông chế giễu cái túi và không biết nó đựng gì; tuy vậy ông cũng cứ đeo nó, cảm thấy mình an toàn hơn khi có cái của ấy ở cổ.
Một vài người táo tợn đánh liều đi theo Sieur Landoys để tìm ở Gilliatt một vài trường hợp giảm khinh, một vài dấu hiệu đạo đức, tính thanh đạm, chẳng rượu chè, chẳng thuốc lá, và đôi khi người ta đi đến chỗ khen ngợi anh như sau: Nó chẳng rượu chè, chẳng hút xách, chẳng nhai mà cũng chẳng hút thuốc lá.
Nhưng sống thanh đạm chỉ là nết tốt khi nào người ta có những nết tốt khác.
Hiềm khích của công chúng đều đổ lên đầu Gilliatt.
Dù sao, là marcou, Gilliatt cũng có thể giúp ích. Một hôm, vào ngày thứ sáu thánh, nửa đêm, ngày và giờ thường dùng cho những việc chữa chạy như thế, tất cả những người bị tràng nhạc trên đảo do cảm hứng hay do hẹn hò với nhau, lũ lượt kéo đến Bû de la Rue, với những vết thương rất tội nghiệp, chắp tay van xin Gilliatt chữa giúp. Anh từ chối. Người ta nhận định đấy là nết ác độc của anh.
VI
CHIẾC THUYỀN BẦU
Gilliatt như thế đấy!
Cánh con gái đều chê anh xấu.
Anh không xấu. Có lẽ anh còn đẹp nữa. Nhìn nghiêng anh có một cái gì đó của con người man rợ cổ xưa. Ngồi yên, anh giống như một người
Dace trong đội quân Trajane. Tai anh nhỏ, thanh tú không rách, với những đường vành rất đẹp. Giữa hai mắt, anh có cái nếp nhăn thẳng đứng hiên ngang của con người dũng cảm và kiên nghị. Hai khóe môi trễ xuống, vẻ chua chát; vầng trán cong cong cao quý và trong sáng; con người anh ngay thật, nhìn thẳng, mặc dù hay nhấp nháy kiểu dân chài vì chói ánh sóng biển. Tiếng cười của anh ngây thơ và rất dễ thương.
Không một thứ ngà nào sánh kịp hàng răng trắng bóng của anh. Những ánh nắng mặt trời đã làm anh gần giống như một người da đen. Không thể nào lăn lộn với đại dương, với bão táp, với trời đêm mà lại không bị ảnh hưởng; mới ba mươi tuổi mà nom anh như bốn nhăm. Anh đeo bộ mặt âm thầm của gió trời và biển cả.
Người ta đặt cho anh cái tên là Gilliatt Tinh khôn.
Ấn Độ có một truyện ngụ ngôn: một hôm Brahma hỏi thần Sức mạnh: Ai mạnh hơn Thần? Thần Sức mạnh đáp: Thần Khôn Khéo. Một câu tục ngữ Trung Quốc nói: Nếu sư tử là khỉ, thì có cái gì khỉ không làm được! Gilliatt không phải sư tử, mà cũng không phải khỉ; nhưng những việc anh
làm đều dựa vào câu tục ngữ Trung Quốc và câu truyện ngụ ngôn Ấn Độ. Với tầm vóc bình thường, với sức mạnh bình thường, nhưng nhờ tài khôn khéo của mình vừa nhiều sáng kiến vừa có hiệu quả, anh tìm được cách nâng những khối nặng khổng lồ và làm nên những việc phi thường của một lực sĩ.
Trong anh có nhà thể thao; anh sử dụng tay trái chẳng khác gì tay phải.
Anh không săn bắn, nhưng anh thích đi câu. Anh tha cho chim chứ không tha cho cá. Vô phúc cho những giống câm! Anh là tay bơi lội xuất sắc.
Cô đơn tạo nên những con người tài năng hoặc những anh hùng ngu ngốc. Gilliatt có cả hai mặt ấy. Lắm lúc người ta thấy anh có “cái vẻ ngơ ngác” đã nói trên đây, và người ta cứ cho anh là một con người cục súc. Lúc khác anh lại có một vẻ nhìn sâu thẳm. Nước Chaldée cổ xưa đã có những con người như vậy, có những giờ phút mà tính chất mờ đục của mục đồng trở thành trong suốt và cho thấy nhà đạo sĩ.
Tóm lại đó là một con người đáng thương biết đọc và biết viết. Rất có thể anh đứng ở chỗ ranh giới ngăn cách người trầm tư với nhà tư tưởng. Nhà tư tưởng đòi hỏi, người trầm tư chịu đựng. Cảnh cô đơn thêm vào cho những con người bình thường, và khiến cho họ phần nào thêm phức tạp. Họ mang nặng tính chất rùng rợn thiêng liêng mà không biết. Cái bóng đen bao trùm trí óc Gilliatt gồm hai thành phần gần như bằng nhau, cả hai đều tối tăm, nhưng khác hẳn nhau: bên trong, sự ngu đốt, tàn tật; bên ngoài, vẻ bí mật, vô biên.
Nhờ thích trèo núi, nhờ hay treo những chỗ cheo leo, nhờ đi lại mãi trong bán đảo vào mọi thời tiết, nhờ gặp thuyền bè nào cũng chèo lái, nhờ ngày đêm len lỏi trong các con lạch khó đi nhất, anh trở thành một người miền biển kỳ tài mà chẳng được gì, hoàn toàn chỉ để thỏa mãn sở thích và cái thú tiêu khiển của mình.
Anh là hoa tiêu bẩm sinh. Người hoa tiêu thật sự là người thủy thủ điều khiển theo đáy biển nhiều hơn theo mặt nước. Sóng chỉ là một vấn đề bên ngoài, bị hình thế đáy biển của những nơi thuyền bè đi tới làm cho thêm phức tạp. Nhìn Gilliatt lặn trên các chỗ nước cạn ngoài biển và giữa những mỏm ngầm của quần đảo Normand, cứ tưởng như anh có trong óc một bản đồ đáy biển. Anh biết hết và bất chấp tất cả.
Anh biết rõ những hải tiêu giỏi hơn cả những con cốc đậu bên trên. Những điểm khác nhau không nhận thấy để phân biệt bốn cột hải tiêu Creux, Alligande, Trémies, và Sardrette, đối với anh hoàn toàn rõ ràng rành mạch kể cả trong sương mù. Anh không hề do dự trước cái cọc có núm bầu dục ở Anfré, cũng như trước ba ngọn giáo ở Rousse, cũng như trước quả cầu trắng ở Corbette, cũng như trước quả cầu đen Longue Pierre, và anh không nhầm cây thánh giá Goubeau với thanh kiếm Platte cắm xuống đất, cũng không sợ lẫn hải tiêu hình búa Barbées với hải tiêu mộng đuôi cá Moulinet.
Tài thủy thủ hiếm có của anh đặc biệt nổi bật vào một hôm Guernesey có cuộc thi tài đi biển gọi là đua thuyền. Vấn đề đặt ra như sau: một mình ngồi trên một chiếc thuyền bốn buồm, lái từ Saint-Sampson đến đảo Herm cách đấy một dặm; rồi từ Herm đưa thuyền về Saint-Sampson. Điều khiển một mình con thuyền bốn buồm, việc đó không người dân chài nào không làm được, và khó khăn đường như không ghê gớm, nhưng đây mới là điểm quan trọng. Thứ nhất, bản thân chiếc thuyền là một loại xà lúp rộng, chắc, bụng phình ngày xưa, theo kiểu Rotterdam, mà dân biển thế kỷ trước hay gọi là thuyền bầu Hà Lan. Ngoài biển đôi khi người ta còn gặp thứ thuyền mẫu cổ xưa này của Hà Lan phình phình, bèn bẹt, mạn thuyền có hai cánh, lúc vỗ bên này, lúc vỗ bên kia, tùy theo chiều gió, và thay cho sống thuyền. Thứ hai, lượt về từ Herm; lượt về phức tạp vì phải chở thêm đá. Đi không nhưng về lại chở nặng. Giải thưởng cuộc thi là chiếc xà lúp. Nó được tặng trước cho người thắng cuộc. Chiếc thuyền bầu này trước đã dùng làm tàu dẫn; người hoa tiêu đã đi và lái nó suốt hai mươi năm là người thủy thủ lực lưỡng nhất biển Manche; khi ông ta chết, không tìm được ai để điều khiển chiếc thuyền bầu, người ta đã quyết định dùng nó làm giải thưởng cho một
cuộc đua thuyền. Chiếc thuyền bầu tuy không có sàn, vẫn có nhiều ưu điểm, và có thể cám dỗ một tay điều khiển tàu có tài. Buồm đựng phía trước nên sức kéo càng tăng. Ưu điểm khác, cột buồm không gây trở ngại cho việc chất xếp hàng. Đây là một loại vỏ thuyền chắc chắn, nặng nề, nhưng rộng rãi, và vững vàng lúc ra khơi, đúng là một chiếc thuyền anh chị. Người ta náo nức ra tranh giải; cuộc đua tài có gay go, nhưng giải thưởng cũng đích đáng. Bảy tám dân chài, những tay khỏe mạnh nhất đảo, ra ứng thí. Họ lần lượt thử sức, chẳng anh nào đến được Herm cả. Người đấu thủ cuối cùng nổi tiếng nhờ một hôm trời giông bão đã dùng chèo vượt qua cái eo biển mà ai cũng sợ giữa Herm và Brecq-Hou. Mồ hôi nhễ nhại, anh ta đưa chiếc thuyền bầu về và nói: Chịu. Bấy giờ Gilliatt mới nhảy xuống thuyền, thoạt tiên nắm lấy mái chèo, sau đó nắm lấy dây lèo và phóng thẳng ra khơi. Rồi, không cuốn dây lèo, vì cuốn lại là dại dột, và cũng không buông ra, nhờ vậy mà làm chủ được lá buồm đại, mặc cho lèo cuốn vào dây quai theo chiều gió, không cho chệch hướng, anh nắm lấy cần lái trong bàn tay trái. Sau bốn mươi lăm phút, anh đến Herm. Ba giờ sau, mặc dù gió nam nổi lên và thổi ngang lạch, chiếc thuyền bầu, trên có Gilliatt, trở về Saint-Sampson với đá đầy khoang. Anh còn huênh hoang phách lối chở thêm cỗ súng thần công nhỏ bằng đồng ở Herm mà hàng năm, ngày mồng năm tháng mười một, dân đảo vẫn bắn mừng kỷ niệm ngày chết của Guy Fawkes.
Nhân thể chúng tôi xin nói, Guy Fawkes chết cách đây hai trăm sáu mươi năm, đây là một niềm vui lâu dài.
Chở nặng và kiệt sức như thế, mặc dầu lại thêm khẩu đại bác của Guy Fawkes trên thuyền và buồm lộng gió nam, Gilliatt vẫn đưa được, có thể nói gần như mang được, chiếc thuyền bầu về Saint-Sampson.
Thấy thế, Mess Lethierry reo lên:
- Đấy mới thật là một thủy thủ dũng cảm!
Và ông chìa bàn tay ra cho Gilliatt.
Chúng tôi sẽ nói đến Mess Lethierry sau.
Chiếc thuyền bầu được quyết định thuộc về Gilliatt.
Một số người tuyên bố sự việc chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, vì Gilliatt đã giấu trong thuyền một cành sim rừng. Nhưng điểm này không thể chứng minh được.
Từ hôm ấy, Gilliatt không có thuyền bè nào khác chiếc thuyền bầu. Anh đi câu bằng chính chiếc thuyền nặng nề ấy. Anh buộc nó tại cái bến con rất tốt của riêng anh, ngay đưới bức tường ngôi nhà Bû de la Rue của anh. Trời vừa sập tối là anh vắt lưới lên vai, băng qua vườn nhà, trèo qua cái lan can đá khô, nhảy từ tảng nọ xuống tảng kia, và tót lên chiếc thuyền bầu. Từ đấy ra khơi.
Anh thường câu được rất nhiều cá, nhưng người ta khẳng định là cái cành sim vẫn luôn luôn buộc ở chiếc thuyền của anh. Cây sim là cây sơn tra tử. Chẳng ai trông thấy cái cành ấy cả, nhưng mọi người đều tin là có.
Cá ăn không hết, anh không bán, toàn đem cho.
Người nghèo nhận cá của anh, nhưng vẫn không bằng lòng anh vì cái cành sim kia. Như thế là không nên. Con người không được đánh lừa biển cả.
Anh làm nghề đánh cá, nhưng không phải chỉ làm có thế. Do bản năng và để tiêu khiển, anh đã học được ba bốn nghề. Anh làm được thợ mộc,
thợ sắt, thợ đóng xe, thợ xảm thuyền và phần nào cả thợ cơ khí nữa. Không ai chữa bánh xe giỏi bằng anh. Anh làm lấy tất cả những đồ nghề đánh cá theo một kiểu riêng của anh. Trong một góc Bû de la Rue có một cái lò rèn nhỏ và một cái đe, và vì chiếc thuyền bầu chỉ có một cái neo, nên anh tự tay và một mình làm thêm cho nó một cái thứ hai. Chiếc neo này thật là tuyệt diệu, mắt neo chắc khỏe như ý muốn và Gilliatt, chẳng cần phải ai dạy, đã tìm được ra kích thước chính xác mà sà neo phải có để mỏ neo khỏi lật ngược.
Anh đã kiên trì thay thế tất cả loạt đinh ở mạn thuyền bằng những chốt gỗ, nhờ thế không thể có lỗ gỉ.
Với cách đó anh đã tăng được nhiều ưu điểm đi biển của chiếc thuyền bầu. Anh còn lợi dụng nó để thỉnh thoảng đi một vài tháng đến một hòn đảo hiu quạnh, như Chousey hay Casquets. Người ta bảo: Kìa, Gilliatt không có ở nhà nữa. Điều ấy không làm cho ai buồn phiền cả.
VII
NHÀ CÓ MA DÀNH CHO NGƯỜI MỘNG TƯỞNG Ở
Gilliatt là con người trong mộng. Vì vậy mà anh táo bạo, và cũng vì vậy mà anh rụt rè. Anh có những ý nghĩ của riêng anh.
Có lẽ ở Gilliatt có con người sống trong ảo giác và con người được thần cảm. Ảo giác ám ảnh một nông dân như Martin không kém gì ám ảnh một vị vua như Henry Đệ Tứ. Vô định đôi khi làm cho tinh thần con người gặp nhiều điều ngạc nhiên. Bóng tối thình lình bị xé toang và đột ngột cho thấy cái vô hình, rồi lại khép lại. Những ảo ảnh ấy đôi khi chuyển hình đổi dạng: từ một anh chăn giữ lạc đà chúng làm thành Mahomet[10] và từ một
cô chăn dê thành Jeanne d’Arc[11]. Cảnh cô đơn phát ra đôi chút thác loạn cao cả. Đó là làn khói của bụi cây rực lửa[12]. Vì vậy mà có sự rung động thần bí của ý nghĩ, khiến nhà bác học trở thành người thần thị và thi sĩ thành đấng tiên tri; vì vậy mà có Horeb, Cédron, Ombos, những hứng vị của cây nguyệt quế Castalie nhá nhỏ, những phát giác của tháng Busion; do đó mà có Péleïa ở Dodone, có Phémonoë ở Delphes, có Trophonius ở Lébadée, Có Ezéchiel ở Kébar, có Jérôme ở Thébaïde. Thông thường nhất, trạng thái ảo giác đè nặng con người, và làm cho nó ngơ ngác. Trạng thái đần độn thiêng liêng là điều vẫn có. Nhà đạo sĩ mang gánh nặng ảo ảnh của mình cũng như thằng ngu mang cục bướu của nó. Luther nói với quỉ trên cái gác xép Wittemberg, Pascal che địa ngục bằng tấm bình phong ở phòng làm việc của ông, lão thầy mo da den nói chuyện với thần Bossum mặt trắng, đó vẫn là một hiện tượng nằm trong những đầu óc khác nhau, tùy theo sức mạnh và kích tấc của từng đầu óc. Luther và Pascal vĩ đại luôn luôn vĩ đại; còn lão thầy mo thì ngu si.
Gilliatt không cao đến thế và cũng không thấp đến thế. Anh là một con người trầm tư. Không có gì hơn.
Do được nhiều lần thấy trong nước biển thật trong những con vật bất ngờ khá to, hình dạng khác nhau, thuộc loài sứa mà khi ở trên cạn thì giống như pha lê mềm, khi vứt xuống nước thì lẫn với môi trường, do giống hệt nhau về độ trong và màu sắc đến mức biến mất trong nước, anh kết luận rằng: nếu có những sinh vật trong suốt ở trong nước thì những sinh vật trong suốt khác cũng có thể ở trong không khí. Chim chóc không phải là giống sống cố định trong không khí; chúng là những vật lưỡng thể của không khí, Gilliatt không tin rằng không khí hoang vu. Anh nói: Nếu biển cả có sinh vật, thì có gì không trung lại trống rỗng? Phải có những sinh vật
màu giống như không khí, nhòa lẫn trong ánh sáng và thoát khỏi mắt chúng ta; ai chứng minh rằng không có chúng nó? Tính chất giống nhau chỉ rõ không khí phải có cá của nó cũng như biển cả có cá của nó; những con cá này của không khí phải mờ mờ, đấy là ân phúc mà tạo hóa lo xa dành cho ta cũng như cho chúng; để cho ánh sáng xuyên qua hình bóng chúng và không tạo ra bóng tối, và do chúng không có bóng dáng, nên ta không hay biết gì về chúng, không thể chiếm đoạt được gì của chúng. Gilliatt tưởng tượng rằng nếu có thể làm cho mặt đất cạn hết lớp không khí, và nếu người ta câu trong không khí như câu trong một cái ao, thì người ta sẽ thấy ở đấy có vô vàn những con vật kỳ lạ. Và, trong giấc mơ anh còn thêm, vô khối điều sẽ được giải thích.
Mơ mộng, vốn là tư tưởng ở trạng thái mây mù, tiếp giáp với giấc ngủ, và xem nó như biên giới của mình. Không khí xa lạ với những sinh vật trong suốt, đấy là chỗ bắt đầu của thế giới xa lạ, nhưng phía bên kia là cảnh bao la của thế giới có thể có. Ở đây có những sinh vật khác, những sự việc khác. Không có gì siêu nhiên cả, mà là sự tiếp tục huyền bí của thiên nhiên vô tận, Gilliatt, trong cuộc sống vô công rồi nghề vất vả của mình, là một nhà quan sát kỳ quặc. Anh quan sát cả giấc ngủ. Giấc ngủ gần gũi với cái có-thể, mà chúng ta cũng gọi là cái vô-lý. Vạn vật ban đêm là một thế giới. Ban đêm, xét về phương diện ban đêm, là một vũ trụ. Cơ thể vật chất của con người, trên đó đè nặng một cột không khí cao mười lăm dặm, tối đến mệt mỏi, rã rời, nằm xuống và nghỉ ngơi, đôi mắt trần nhắm lại, thế là trong cái đầu chập chờn ấy, không bất động như người ta tưởng, có những con mắt khác mở ra; thế giới Xa-lạ xuất hiện. Những vật tối tăm của cái thế giới không được ai biết đến trở thành gần gũi với con người, do có mối quan hệ thật sự, hoặc do những viễn cảnh của vực thẳm được phóng
đại lên trong mộng tưởng; hình như những sinh vật không rõ rệt của không gian đến nhìn chúng ta và tò mò muốn biết chúng ta, những sinh vật trên quả đất; một tạo vật mà lên hoặc xuống với ta, sát cánh với ta trong một cảnh hoàng hôn; trước sự chiêm ngưỡng ma quái của ta, một cuộc sống khác cuộc sống chúng ta nhập vào và tan rã, gồm có chúng ta và thứ khác; và con người nằm ngủ kia, không hoàn toàn thấy rõ, không hoàn toàn vô ý thức, thoáng thấy những giống vật kỳ lạ kia, những cây cỏ khác thường kia, những màu sắc tái mét khủng khiếp hay tươi cười kia, những con sâu bọ kia, những chiếc mặt nạ kia, những bộ mặt thật kia, những con giao long kia, những mớ hỗn độn kia, cái đêm sáng trắng suông kia, những sự phân giải đen tối kì diệu kia, những sự tăng giảm trong một lớp dày đục kia, những hình dáng bềnh bồng trong u minh kia, tất cả cái điều bí mật mà chúng ta gọi là giấc mộng và chỉ là sự nhích gần đến một thực tế không trông thấy. Mơ màng là cái bể nuôi cá cảnh của ban đêm.
Gilliatt nằm mơ như thế đấy.
VIII
CHIẾC GHẾ GILD-HOLM-‘UR
Nếu ngày nay người ta đi tìm trong vịnh Les Houmets ngôi nhà của Gilliatt, với mảnh vườn, và cái vũng nơi anh neo cất chiếc thuyền bầu thì chỉ mất công. Bû de la Rue nay không còn nữa. Cái bán đảo con trên có ngôi nhà ấy đã đổ nhào trước lưỡi cuốc chim của những người phá vách biển, và đã được chất từng xe, từng xe, lên những tàu thuyền của cánh bán đá và cánh buôn hoa cương. Nó đã trở thành bến tàu, nhà thờ và cung điện ở thủ đô. Toàn bộ cái đỉnh bãi ngầm ấy từ lâu đã về Luân Đôn.
Những mỏm đá nhô ra biển ấy, với những chỗ lồi lõm, lởm chởm, thật sự là những dãy núi dài; nhìn chúng người ta có cái cảm giác của một anh khổng lồ ngắm dãy trường sơn. Thổ ngữ địa phương gọi chúng là Banques. Những dãy núi ấy mang những bộ mặt khác nhau. Chỗ này giống một cột xương sống, mỗi mô núi là một đốt xương sống, chỗ kia giống một đốt xương cá; chỗ kia lại giống một con cá sấu đang uống nước.
Ở chỗ tận cùng dãy núi của Bû de la Rue, có một hòn núi to mà dân chài Houmet gọi là Sừng Thú. Hòn núi này là một thứ kim tự tháp, giống như cái nóc thánh đường của đảo Jersey, mặc dầu có thấp hơn. Lúc triều lên, nước ngăn cách nó với dãy núi, hòn Sừng Thủ lại đứng chơ vơ. Lúc triều xuống, người ta đến đấy nhờ một eo núi có thể đi qua được. Vật kỳ quan của mỏm núi này, ở phía trông ra biển, là một thứ ghế tựa tự nhiên do sóng nước đục đẽo và mưa gió bào mòn. Chiếc ghế này có tính phản trắc. Người ta thường bị cảnh trời lôi cuốn đến đây lúc nào không biết; người ta dừng lại đấy “vì yêu quý kẻ lưu đày” như ở Jersey vẫn nói; có một cái gì đó giữ chân bạn lại; những chân trời vĩ đại vẫn có sức mê hoặc. Chiếc ghế kia chào mời; nó như một kiểu khám thờ ở mặt tiền thẳng đứng của núi đá; trèo lên khám thờ ấy dễ thôi; nước biển đã đẽo gọt nó trong đá, cũng đã xếp thành tầng ở phía dưới và sắp đặt một thứ cầu thang bằng đá phẳng lì rất tiện; vực thẳm thường ân cần chu đáo như thế, bạn hãy cảnh giác trước những cử chỉ lịch sự của nó; chiếc ghế cám dỗ, người ta bước lên, người ta ngồi xuống, người ta thấy thoải mái; ghế là tảng đá hoa cương được bọt sóng mài nhẵn bào tròn, tay vịn là hai chỗ lồi lõm như được dụng tâm tạo gọt, lưng tựa là toàn bộ bức thành cao thẳng đứng của ngọn núi ở trên đầu mà người ta thường chiêm ngưỡng, không nghĩ đến việc không thể nào leo lên được đấy. Còn gì đơn giản hơn thả mặc tâm hồn trong chiếc ghế bành
kia; người ta khám phá ra toàn bộ biển cả, xa xa người ta nhìn thấy thuyền đến tàu đi, người ta có thể dõi theo một cánh buồm cho đến lúc nó chìm mất bên kia những hòn Casquets dưới cái vành tròn của đại dương, người ta kinh ngạc, người ta ngắm nhìn, người ta thích thú, người ta cảm thấy gió trời và sóng biển mơn trớn vuốt ve. Ở Cayenne có một giống dơi biển biết rõ việc nó làm, nó ru ngủ bạn trong bóng tối bằng tiếng vỗ cánh êm đềm khó hiểu; giống dơi không nhìn thấy đó là gió trời; khi không phá hoại thì nó ru ngủ. Người ta chiêm ngưỡng biển khơi, người ta lắng nghe gió trời, dần dần người ta cảm thấy đê mê ngây ngất. Khi đôi mắt đã tràn đầy cảnh đẹp và ánh sáng, thì nhắm mắt lại là cả một niềm khoái cảm. Thình lình người ta tỉnh giấc. Muộn mất rồi. Thủy triều đã dần dần dâng cao. Nước đang bao quanh ngọn núi.
Tai họa rồi.
Biển dâng là một cuộc phong tỏa đáng sợ.
Thủy triều lên, thoạt tiên còn không nhận thấy, rồi dần dần mãnh liệt. Lên đến núi đá, nó nổi giận, ngầu bọt. Ở những chỗ đá ngầm không phải lúc nào người ta cũng bơi được. Nhiều tay bơi giỏi đã chết đuối ở chỗ Hòn Sừng của Bû de la Rue.
Ở một số nơi, có những giờ phút ngắm nhìn biển khơi là một thứ thuốc độc. Cũng như đôi khi nhìn ngắm một người đàn bà.
Những người dân rất cổ xưa của Guernesey ngày trước vẫn gọi là cái khám thờ do sóng biển tạc nên trong núi đá đó là chiếc ghế Gild-Holm-‘Ur, hoặc Kidormur. Người ta bảo đấy là một từ ngữ Celtic, mà ai biết tiếng Celtic thì không hiểu, còn ai biết tiếng Pháp thì lại hiểu. Ai ngủ thì chết. Đấy là lối dịch của nông dân.
Ta có thể tự do lựa chọn giữa cách dịch này, Ai ngủ thì chết, với lối dịch, năm 1819 thì phải, trong cuốn Armorican của Athenas. Theo nhà khảo cứu ngôn ngữ Celtic đáng kính này thi Gild-Holm-‘Ur nghĩa có nghĩa là Nơi dừng chân của những bầy chim.
Ở Aurigny có một chiếc ghế khác cũng thuộc loại này, mà người ta gọi là Ghế Tu Sĩ, được sóng biển tạc rất khéo, và có một chỗ đá nhô ra vừa khít đến nỗi có thể nói là biển đã chiều lòng kê một chiếc ghế con ngay dưới chân bạn.
Lúc biển đầy, khi thủy triều dâng cao, người ta không nhìn thấy chiếc ghế Gild-Holm-‘Ur nữa. Nước hoàn toàn phủ kín nó.
Chiếc ghế Gild-Holm-‘Ur cũng gần với ngôi nhà Bû de la Rue. Gilliatt biết rõ nó và thường ngồi ở đấy. Anh rất hay đến đấy. Anh trầm tư chăng? Không. Chúng tôi vừa nói, anh mơ mộng. Anh không để nước triều bất thình lình bắt gặp đâu.
QUYỂN HAI
MESS[13] LETHIERRY
I
CUỘC ĐỜI SÓNG GIÓ VÀ LƯƠNG TÂM THANH THẢN
Mess Lethierry, nhân sĩ ở Saint-Sampson, là một thủy thủ cừ khôi. Ông đã từng ngược xuôi nhiều trên biển cả. Ông đã làm thủy thủ nhóc, làm buồm, coi buồm, cầm lái, đốc công, thủy thủ trường, hoa tiêu, chủ tàu. Bây giờ ông đang kinh doanh về hàng hải. Không ai am hiểu biển cả hơn ông. Trong việc cứu hộ ông rất gan dạ. Những hôm động trời, ông thường đi dọc bãi biển, nhìn ngó chân trời. Cái gì đằng kia thế? Có người đang gặp nguy. Đấy là một chiếc thuyền chạy ven biển ở Weymouth, một chiếc thuyền đáy bằng ở Aurigny, một thuyền đánh cá ở Courseulle, chiếc du thuyền của một huân tước, đây là một người Anh, một người Pháp, một người nghèo, một người già, đây là quỉ sứ, bất kể là ai, ông nhảy xuống một chiếc thuyền gọi hai hay ba người dũng cảm, nếu cần ông cũng chẳng thiết đến họ, một mình thay cả nhóm, tháo dây neo, cầm lấy chèo, băng ra biển khơi, cưỡi lên, chúi xuống, rồi lại cưỡi lên trong lòng sóng biển, lao vào gió dữ, xông vào hiểm nguy. Từ xa, người ta nhìn thấy ông như thế trong gió lộng, đứng thẳng trên con thuyền nước mưa đầm đìa, lẫn trong ánh chớp với bộ mặt của một hùng sư mang bờm bọt sóng. Đôi khi suốt ngày ông mải mê trong hiểm nguy, trong sóng nước, trong gió trời mưa đá, cặp sát vào các tàu bè lâm nạn, cứu người, cứu làng, chống chọi với bão táp. Tối đến ông lại về nhà ngồi đan bít tất.
Ông sống cuộc đời như thế suốt năm chục năm, từ thuở lên mười cho
đến tuổi sáu mươi, suốt thời kỳ trai trẻ. Đến năm sáu mươi, ông nhận thấy mình một tay không nhấc nổi chiếc đe lò rèn Varclin nữa; chiếc xe đó nặng một tạ rưỡi; rồi thình lình ông bị những cơn thấp khớp giam giữ không cho đi đâu nữa. Buộc lòng ông phải từ bỏ biển cả.
Thế là từ tuổi anh hùng ông bước sang tuổi gia trưởng, và chỉ còn là một con người hiền lành chất phác.
Cùng một lúc ông đến với bệnh thấp khớp và cảnh an nhàn. Hai kết quả ấy của lao động sẵn sàng đi đôi với nhau. Đúng lúc được giàu có thì con người cũng vừa kiệt quệ: Vinh quang cuộc đời là thế đấy.
Người ta tự nhủ: Bây giờ phải vui hưởng.
Ở những đảo như Guernesey, dân số gồm những con người đã trải qua cả cuộc đời trên đồng ruộng và những con người đã trải cả cuộc đời vòng quanh thế giới. Đây là hai loại dân cày, một bên của đất cát, một bên của biển cả. Mess Lethierry thuộc vào loại sau. Tuy nhiên ông cũng am hiểu về đất cát. Ông đã từng sống một cuộc đời lao động hăng say. Ông đã ngao du trên lục địa. Một thời gian ông đã làm thợ mộc đóng thuyền ở Rochefort, rồi Cette. Chúng tôi vừa nói đến chuyện vòng quanh thế giới; ông đã đi vòng quanh nước Pháp làm thợ bạn trong nghề mộc. Ông đã làm ở trạm máy bơm chống úng cho các đồng muối ở Franche-Comté. Con người lương thiện ấy đã sống một cuộc đời giang hồ. Tại nước Pháp, ông đã học đọc, học suy nghĩ, học trau dồi ý chí. Việc gì ông cũng làm, và từ các việc ông làm, ông đã rút ra được lòng chính trực. Bản chất ông là thủy thủ. Nước là của ông. Ông thường nói: Cá ở ngay trong nhà tôi. Tóm lại, toàn bộ cuộc đời của ông, trừ vài ba năm, đều cống hiến cho đại dương, đều vứt xuống biển cả, như ông vẫn nói. Ông đã từng ngược xuôi trên các biển lớn,
trên Đại Tây Dương, trên Thái Bình Dương, nhưng ông vẫn thích biển Manche hơn cả. Ông thường trìu mến thốt lên: Biển ấy mới thật là bất trị: Ông sinh ra ở đấy và muốn được chết ở đấy. Sau khi đi một hai vòng quả đất, biết là thế nào rồi, ông trở về Guernesey, và không đi đâu nữa. Từ nay các cuộc hành trình của ông là Granville và Saint-Malo.
Mess Lethierry là người Guernesey, nghĩa là người Normand, nghĩa là người Anh, nghĩa là người Pháp. Ông mang trong người cái tổ quốc tay tư ấy, chìm ngập và như đắm đuối trong cái tổ quốc đại dương vĩ đại của ông. Suốt cuộc đời ông và bất cứ ở đâu, ông cũng vẫn giữ đúng phẩm cách một người dân chài Normand.
Điều ấy không hề ngăn cản ông thỉnh thoảng cũng giở một quyển sách cũ, thích thú với một quyển sách mới, biết được một số tên các triết gia và thi sĩ, và líu lô một tí tất cả mọi thứ tiếng.
II
MỘT SỞ THÍCH CỦA ÔNG
Gilliatt là một con người man rợ. Mess Lethierry lại thuộc một loại man rợ khác.
Con người man rợ này có những mặt tao nhã riêng của nó.
Ông rất khó tính đối với bàn tay phụ nữ. Thời trai trẻ, gần như lúc còn là trẻ con nữa, giữa thủy thủ già và thủy thủ nhóc ông đã nghe viên pháp quan Suffren thốt lên: con bé xinh thật, nhưng hai bàn tay sao mà đỏ và to khiếp thế! Lời nói đô đốc, về mặt nào, cũng như ra lệnh. Trên sấm ngữ, có một mệnh lệnh. Lời cảm thán của viên pháp quan Suffren đã làm cho
Lethierry trở thành tế nhị và khắt khe về phương diện những bàn tay trắng trẻo và xinh xắn. Còn bàn tay của ông ta, y như cái bay to tướng màu gỗ đào hoa tâm, dùng vào việc nhẹ thì như chùy đồng, mà để vuốt ve thi mơn trớn như kìm sắt, và nếu nắm chặt rơi xuống thì vỡ cả nền đường.
Ông chưa bao giờ cưới vợ. Ông không muốn lấy hoặc chưa tìm được người vừa ý. Có lẽ vì nhà thủy thủ đòi hỏi nắm những bàn tay nữ quận công. Loại bàn tay ấy thì ít thấy ở nữ dân chài Portbail.
Tuy vậy, người ta cũng kể lại rằng trước đây ở Rochefort, Charente ông đã gặp được một cô công nhân lẳng lơ đáp ứng đúng lý tưởng của ông. Một cô gái đẹp có bàn tay rất xinh. Cô thích nói xấu và hay châm chọc. Không nên gây sự với cô. Móng tay cô, khi cần, thành vuốt nhọn sạch sẽ, thanh tú, không thể chê vào đâu được và chẳng biết sợ là gì. Mấy móng tay xinh xắn ấy thoạt đầu làm Lethierry mê mẩn, sau lại làm ông lo ngại; và, sợ một ngày kia không làm chủ nổi cô tình nhân, ông đã quyết định không đưa ra trước xã trưởng câu chuyện ong bướm ấy nữa.
Một lần khác, ở Aurigny, ông lại gặp được một cô gái vừa ý. Ông đang tính đến chuyện cưới xin thì một người dân ở đây bảo ông: Tôi có lời khen ngợi ông đấy. Ông sẽ gặp được một cô mụ thung giỏi giang. Ông yêu cầu giải thích lời khen. Ở Aurigny có kiểu đi nhặt phân bò, rồi đem ném vào tường nhà. Lối ném rất tài tình, khi nào phân khô, rơi xuống, người ta lấy về để sưởi. Thứ phân khô ấy gọi là coipiaux. Người ta chỉ cưới một cô gái về làm vợ khi nào cô ta là mụ thung giỏi. Tài hoa ấy khiến Lethierry phải chuồn thẳng.
Vả lại về Vấn đề yêu đương hay chim chuột, ông vẫn có một triết lý nông dân thô thiển, một thứ khôn ngoan của thủy thủ lúc nào cũng bị cám
dỗ, không bao giờ bị trói buộc, và ông thường tự hào, thời trai trẻ, rất dễ bị “quần hồng” đánh gục. Cái mà ngày nay ta gọi là váy xòe thì bấy giờ người ta gọi là quần hồng. Nó có mặt hơn và kém một người đàn bà.
Những người dân miền biển vụng về ấy của quần đảo Normand cũng có tài trí. Hầu hết họ biết đọc và rất ham đọc sách. Ngày chủ nhật, người ta thường thấy những thủy thủ nhóc tám tuổi ngồi trên một cuộn thừng tay cầm cuốn sách. Thời đại nào cánh thủy thủ Normand ấy cũng ưa châm chọc, và như ngày nay người ta thường nói, thích nói chữ. Chính một trong số họ, tay hoa tiêu dũng cảm Quéripel, đã ném vào Montgomery, ẩn lánh ở Jersey sau mũi giáo không may của ông ta vào Henry Đệ Nhị, câu nói này: Đầu điên đánh vỡ đầu rỗng. Lại một người khác, Touzeau, chủ thuyền ở Saint-Brélade, đã nói câu đồng âm dị nghĩa triết lý này, vẫn gán cho giám mục Camus: Sau khi chết, các giáo hoàng hóa thành bươm bướm, và các điện hạ hóa thành mọt gạo.[14]
III
NGÔN NGỮ CỔ XƯA CỦA MIỀN BIỂN
Cánh thủy thủ ấy của Channel Islands đúng là người Gaulois cổ xưa. Những hòn đảo này, ngày nay Anh hóa nhanh chóng, từ lâu vẫn giữ tính chất bản xứ. Người nông dân Sark nói tiếng Louis XIV.
Cách đây bốn mươi năm, các thủy thủ Jersey và Aurigny vẫn nói thứ thổ ngữ cổ điển của miền biển. Người ta cứ tưởng như đang đứng giữa bờ biển của thế kỷ mười bảy. Một chuyên gia khảo cổ có thể đến đấy nghiên cứu thổ ngữ cổ về diễn tập và chiến đấu mà Jean Bart rống lên trong cái loa làm khiếp đảm đô đốc Hidde. Từ vựng hàng hải của cha ông chúng ta ngày
nay gần như hoàn toàn đổi mới, vẫn còn sử dụng tại Guernesey vào năm 1820. Một chiếc thuyền chịu gió tốt hơn là bon boulinier; một chiếc thuyền hầu như tự biết nó nép theo chiều gió, bất kể buồm mũi và lái của nó, là vaisseau ardent. Bắt đầu hoạt động là prendre aire; liệu thế đi khi trời xấu là capeyer; buộc đầu một sợi thừng lưu động là faire dormant; đón gió trên là faire chapelle; giữ vững dây cáp là faire teste; mất trật tự trên tàu là être en pantenne; cho buồm đón gió là porter plain. Tất cả những từ ấy không ai nói nữa. Ngày nay người ta nói louvoyer thì trước kia người ta nói leauvoyer; nay nói naviguer, trước kia nói naviger; nay nói virer vent devant, trước kia nói donner vent devant; nay nói aller de l’avant, trước kia nói tailler de l’avant; nay nói tirez d’accord, trước kia nói halez d’accord; nay nói dérapez, trước kia nói déplantez; nay nói embraquez, trước kia nói abraquez; nay nói taquets; trước kia nói bittons; nay nói burins; trước kia nói tapes; nay nói balancines; trước nói valancines; nay nói tribord; trước kia nói stribord; nay nói les hommes de quart à bâbord; trước kia nói les basbourdis. Tourville viết thư cho Hocquincourt: chúng ta đã singlé. Đáng lẽ la rafale thì nói le raffal; đáng lẽ bossoir thì nói boussoir; đáng lẽ drosse thì nói drousse; đáng lẽ loffer thì nói faire une olofée; đáng lẽ élonger thì nói alonger; đáng lẽ forte brise thì nói survent; đáng lẽ jouail thì nói jas; đáng lẽ soute thì nói fosse; đấy là ngôn ngữ thuyền bè của các đảo vùng biển Manche, hồi đầu thế kỷ này. Nghe một hoa tiêu Jersey nói, Ango hẳn phải bối rối. Trong lúc mọi nơi nói buồm faseyaient, thì ở các đảo vùng biển Manche nói buồm barbeyaient. Một cơn gió trở thình lình trước kia là một folle-vente. Trước kia chỉ ở đó người ta mới dùng hai lối buộc thuyền kiểu gothic: lối vature và lối Bồ Đào Nha, Trước kia chỉ ở đó mới nghe những mệnh lệnh cổ xưa: Tour-et-choque! - Bosse et bitte! Một thủy thủ ở Granville đã nói le clan, trong khi một thủy thủ ở Saint-Aubin hoặc ở Saint-
Sampson còn nói le cannal de pouliot, Ở Saint-Malo gọi bout d’alonge, thì ở Saint-Hélier gọi oreille d’âne. Mess Lethierry, cũng hoàn toàn như công tước Vibonne, gọi đường khum của boong tàu là la torture và cái đục của thợ xảm tàu là la patarasse. Chính miệng dùng thứ thổ ngữ lạ lùng này mà
Duquesne đã đánh thắng Ruyter, mà Duguay-Trouin đã đánh thắng Wasnaer, mà Tourville năm 1681 giữa ban ngày chằng giữ chiếc thuyền đầu tiên bắn vào Alger. Ngày nay nó là một từ ngữ. Tiếng lóng miền biển ngày nay khác hẳn, Duperré sẽ không hiểu nổi Suffren.
Ngôn ngữ tín hiệu cũng thay đổi không kém. Biết bao xa cách kể từ bốn ngọn lửa đỏ, trắng, xanh, vàng, đến chiếc tàu Bourdonnais mười tám lá cờ ngày nay. Những lá cờ này kéo lên từng hai chiếc một, ba chiếc một, và bốn chiếc một, cung cấp cho các đòi hỏi viễn thông bảy vạn tổ hợp, không bao giờ cạn, và có thể nói là tiên đoán những điều bất ngờ.
IV
NGƯỜI TA CÓ THỂ BỊ TỔN THƯƠNG BỞI CÁI MÌNH YÊU QUÍ
Mess Lethierry là một người hiền lành thật thà, một người “tim để trên tay”; một bàn tay to và một trái tim cao cả. Khuyết điểm của ông chính là cái đức tính đáng khen, lòng tin người. Ông có một lối cam kết riêng của ông, thật trang trọng; ông nói: Tôi xin dâng lời nói danh dự của tôi cho Chúa lòng lành. Một khi đã nói thế, là ông làm đến cùng. Ông tin ở Chúa lòng lành, không tin gì khác. Thỉnh thoảng ông có đi nhà thờ cũng là chuyện giữ lễ. Ở biển, ông là người mê tín.
Tuy nhiên chẳng bao giờ trời động lại khiến ông phải lùi bước; đó là do ông khó chấp nhận sự mâu thuẫn. Ông không tha thứ chuyện mâu thuẫn ở
đại dương cũng như ở một người khác. Ông muốn mọi người phải theo ý ông; mặc kệ biển cả nếu nó chống lại; biển cả phải đứng về phía ông. Mess Lethierry không chịu khuất phục. Một cơn sóng dữ, cũng chẳng hơn gì một người láng giềng hay gây sự, không thể ngăn chặn nổi ông. Điều ông nói là đinh đóng cột, điều ông dự định là điều đã thực hiện. Ông không chịu cúi mình trước một lời bắt bẻ, cũng như trước một trận phong ba. Đối với ông không có từ Không; không có trên cửa miệng một con người, mà cũng không có từ Có trong tiếng sấm động. Ông bất chấp hết. Ông không cho ai từ chối ông. Vì vậy mà ông bướng bỉnh trong đời sống và dũng cảm trên đại dương.
Ông vui lòng tự tay thêm nếm món súp cá của ông, vì ông biết liều lượng tiêu, muối, hành mùi nên cho, và khi nấu, ông thích thú bao nhiêu thì khi ăn ông cũng thích thú bấy nhiêu. Một con người mà một ngọn gió tây nam làm biến đổi sắc mặt, mà một chiếc áo rơđanhgôt làm cho mụ mẫm, một con người tóc bay trước gió như Jean Bart, và khi đội chiếc mũ tròn thì giống như Jocrisse đã nhìn thấy phong trào cách mạng, một người ngu dốt rất thông thái, không bao giờ tin nhảm, nhưng có đủ thứ ảo mộng, tin ở Phu nhân góa chồng hơn ở Đức Bà Đồng Trinh, sức mạnh của Polyphème, ý chí của Christophe Colomb, lôgic của chong chóng gió, một cái gì của bò mộng và một cái gì của trẻ con, một cái mũi gần như tẹt, đôi má chắc nịch, một cái mồm đủ răng, một gương mặt chỗ nào cũng nhăn, một diện mạo dường như đã bị gió vỗ và trên đó kim la bàn đã xoay suốt bốn mươi năm, một vẻ phong ba trên vùng trán, một nước da màu đá tảng giữa biển khơi; và bây giờ bạn hãy thêm vào gương mặt ấy một vẻ nhìn hiền lành, bạn sẽ có Mess Lethierry.
Mess Lethierry có hai niềm say mê: Durande và Déruchette.
QUYỂN BA
DURANDE VÀ DÉRUCHETTE
I
TIẾNG THỎ THẺ VÀ LÀN KHÓI
Thân hình con người rất có thể chỉ là một vẻ ngoài. Nó che giấu thực thể của chúng ta. Nó dày đặc lại trước ánh sáng hay bóng tối của chúng ta. Thực thể chính là linh hồn. Nói một cách tuyệt đối, bộ mặt chúng ta là một chiếc mặt nạ. Con người thật sự, chính là cái ở phía sau con người. Nếu trông thấy con người ấy ngồi hay nấp sau cái ảo ảnh mà ta gọi là da thịt, người ta sẽ có nhiều ngạc nhiên. Sai lầm chung thường lấy con người bên ngoài làm con người thật. Một cô gái nào đấy chẳng hạn, nếu ta nhìn cô ta đúng như trước mắt, sẽ trở thành một con chim.
Một con chim dưới hình dáng một cô gái, còn gì tuyệt diệu hơn! Bạn hãy hình dung bạn có một con chim ấy trong nhà. Đây sẽ là Déruchette. Con người mới dịu dàng làm sao? Người ta chỉ muốn nói với cô: Xin chào, cô chìa vôi. Người ta không trông thấy cảnh, nhưng người ta nghe tiếng líu lo. Chốc chốc cô lại hát. Qua tiếng thỏ thẻ có kém con người; qua tiếng hát lại hơn. Trong tiếng hát ấy có điều bí mật; một trinh nữ là cái vỏ ngoài của thiên thần. Khi người đàn bà hình thành thì thiên thần cất cánh bay đi. Nhưng sau đó thiên thần trở lại, đem đến một linh hồn nhỏ bé cho người mẹ. Trong lúc chờ đợi cuộc đời, người mà một ngày kia sẽ làm mẹ là một em bé trong một thời gian rất lâu, em bé gái tồn tại mãi trong người thiếu nữ, và đấy là một con chim bông lau. Trông thấy nó, người ta nghĩ: Thật đáng yêu quá, nó không bay đi! Con chim dịu dàng thân cận ấy tùy thích
bay nhảy trong nhà, cành nọ sang cành kia, nghĩa là phòng nọ sang phòng kia, đi vào, đi ra, lùi xa, đến gần, rỉa lông hay chải tóc, gây đủ mọi tiếng động nhỏ nhẹ tế nhị, thầm thì những gì khó tả bên tai bạn. Nó hỏi, người ta trả lời, người ta hỏi, nó líu lo. Người ríu ra chim ríu rít. Nói chán thì ríu ra ríu rít cho đỡ mệt. Con chim ấy mang tính chất trời xanh trong mình. Đây là một tư tưởng màu xanh hòa vào tư tưởng đen tối của bạn. Bạn cảm ơn nó là sao nhẹ nhàng như thế, thoăn thoắt như thế, trơn chuội như thế, khó bắt như thế, mà lại có lòng tốt không tàng hình lẩn tránh, trong khi bản thân là vật tưởng như không thể sờ mó vào dược. Dưới trần này cái đẹp là cái cần thiết. Trên trái đất ít có những nhiệm vụ quan trọng hơn nhiệm vụ phải tỏ ra yêu kiều. Rừng xanh sẽ buồn nản nếu không có chim sâu. Toát lên niềm vui, phát tán hạnh phúc, tỏa sáng giữa những vật tối tăm, làm lớp mạ vàng của số phận, tỏ ra hài hòa, tỏ ra duyên dáng, tỏ ra đáng yêu tức là giúp ích cho bạn. Cái đẹp làm điều hay cho tôi vì nó đẹp. Một tạo vật nào đó có phép tiên gây được một niềm lạc thú đối với mọi thứ bao quanh; đôi khi chính nó cũng không hay biết gì về điều đó, như vậy lại càng tuyệt diệu; sự có mặt của nó soi sáng, việc nó đến gần làm ấm áp thêm; nó đi qua người ta bằng lòng, nó đứng lại người ta sung sướng; nhìn nó là thấy vui đời; nó là bình minh có mặt người; nó không làm gì hơn là đứng đấy, thế là đủ, nó biến cửa nhà thành cõi thiên thai, toàn thân nó tỏa ra hương sắc thiên đường; niềm ngây ngất ấy, nó ban phát cho tất cả mọi người mà không mất chút công khí nào khác hơn là chỉ đứng thở bên cạnh họ. Có được một nụ cười, không hiểu sao, làm nhẹ bớt sợi xích nặng mà mọi sinh linh cùng phải kéo lê, bạn muốn tôi nói với bạn thế nào, đó là điều thần thánh. Nụ cười ấy Déruchette có. Hơn thế nữa, Déruchette chính là nụ cười ấy. Có một cái gì giống chúng ta hơn cả bộ mặt chúng ta, đấy là diện mạo chúng ta, có một cái gì giống chúng ta hơn cả diện mạo chúng ta, đấy là nụ cười
của chúng ta. Déruchette mỉm cười, đấy là Déruchette.
Dòng máu của Jersey và của Guernesey là một dòng máu đặc biệt. Các phụ nữ, nhất là các cô gái, có một vẻ đẹp tươi tắn và ngây thơ. Đấy là nước da trắng trẻo saxon kết hợp với vẻ tươi mát Normand. Những đôi má hồng, những cặp mắt xanh. Những cặp mắt ấy thiếu ánh sao. Nền giáo dục Anh - cát - lợi làm dịu bớt chúng. Những con mắt trong sáng ấy sẽ có sức cám dỗ mãnh liệt ngày nào trên đó xuất hiện vẻ sâu sắc của Paris. May sao Paris vẫn chưa thâm nhập vào phụ nữ Anh. Déruchette không phải là một cô gái Paris, nhưng cũng không phải là một cô gái Guernesey. Cô sinh tại Saint-Pierre-Port, nhưng Mess Lethierry đã nuôi dạy để cô trở thành một cô gái đáng yêu, thực tế cô vẫn là một cô gái đáng yêu.
Déruchette có vẻ nhìn lạnh lùng và khiêu khích mà không hay. Có lẽ cô không biết ý nghĩa hai chữ tình yêu, và cô dễ dàng làm cho người khác ngơ ngẩn vì cô. Nhưng không chút ác ý. Cô không hề nghĩ đến chuyện lấy chồng. Ông già quý phái di cư đã sinh cơ lập nghiệp ở Saint-Sampson thường nói: Con bé này đỏng đảnh quá thể.
Déruchette có đôi bàn tay đẹp tuyệt trần và hai bàn chân tương xứng với đôi tay, Mess Lethierry vẫn bảo đó là bốn cái chân ruồi. Cả con người cô là phúc hậu, là dịu hiền, cô xem Mess Lethierry, chú cô, là gia đình, là tài sản, chuyện mặc cho ngày tháng trôi qua là công việc, vài ba bài hát là tài năng,
sắc đẹp là khoa học, ngây thơ là trí tuệ, ngu dốt là trái tim; cô mang cái tính lười biếng đáng yêu của người dân sinh trưởng thuộc địa, cộng lẫn với tính chất dại dột và tính hay hờn hay dỗi, cô có cái nét vui vẻ thích trêu chọc của trẻ con với chút khuynh hướng sầu muộn; cô ăn mặc hơi theo kiểu dân đảo, lịch sự nhưng không hợp cách, quanh năm đội mũ hoa; cô có vầng trán ngây thơ, cái cổ mềm mại và khêu gợi, mái tóc hạt dẻ, nước da trắng ngần
mùa hè điểm thêm ít nốt tàn nhang, cái mồm lành mạnh, và trên cái miệng ấy vẻ trong sáng đáng yêu nguy hiểm của nụ cười. Đây là Déruchette.
Đôi khi, buổi tối, sau lúc mặt trời lặn, vào lúc trời đêm hòa với biển cả, vào giờ phút mà hoàng hôn làm cho sóng nước mang một vẻ rùng rợn, người ta thấy tiến vào cảng nhỏ Saint-Sampson, trên lớp sóng cồn buồn thảm, một khối dị hình, một bóng quái gở vừa khạc vừa huýt còi, một vật khủng khiếp khò khè như một con thú và phụt khói như một hỏa diệm sơn, một thứ giao long đang phều phào dãi nhớt trong bọt nước, kéo theo sau một dải sương mù, và lao thẳng về phía thành phố với tiếng đập vây rùng rợn, với một cái mõm phì ra lửa. Đấy là tàu Durande.
II
CÂU CHUYỆN KHÔNG TƯỞNG MUÔN THUỞ
Năm 182., một chiếc tàu chạy bằng hơi nước trên biển Manche là một chuyện mới mẻ phi thường. Tất cả bờ biển Normand đều hãi hùng về chuyện đó trong một thời gian rất lâu. Ngày nay, mươi mười hai tàu máy ngược xuôi trên một chân trời của biển cả chẳng làm ai ngước mắt, quá lắm chúng chỉ làm bận tâm trong chốc lát người chuyên môn sành sỏi biết phân biệt qua màu khói chiếc này chạy bằng than Wales và chiếc kia đốt bằng than Newcastle. Chúng chạy qua, tốt lắm. Welcome[15], nếu chúng đến. Thượng lộ bình an, nếu chúng ra đi.
Trong phần tư đầu thế kỷ này, người ta có kém yên tâm hơn về các phát minh ấy, và những máy móc đó với lớp khói của chúng thường bị dân đảo vùng biển Manche nhìn với con mắt đặc biệt ác cảm. Trong cái quần đảo theo thanh giáo này, nơi mà Nữ hoàng Anh bị chê trách đã vi phạm Kinh
Thánh vì khi đẻ lại dùng thuốc mê[16], chiếc tàu chạy bằng hơi nước đã đạt thắng lợi bước đầu được đặt tên là Tàu Quỉ (Devil boat). Đối với những người dân chài hiền lành lúc bấy giờ, trước kia theo phái Gia-tô, nay theo giáo phái Calvin, luôn luôn sùng tín, thì đấy hình như là địa ngục rồi. Một nhà truyền giáo địa phương bàn đến vấn đề: Người ta có quyền bắt cùng làm việc một lúc cả nước và lửa mà Chúa Trời đã chia tách không?[17]. Con vật lửa và sắt này chẳng giống Léviathan[18] sao? Có phải đây là muốn dựng lại cảnh hỗn mang trong phạm vi khả năng con người không? Đây không phải lần đầu tiên việc đi lên của tiến bộ bị gọi là việc quay lại thời kỳ hỗn mang.
Ý nghĩ điên cuồng, sai lầm kệch cỡm, câu chuyện phi lý; đấy là lời phán quyết của viện hàn lâm khoa học khi được Napoléon hỏi ý kiến hồi đầu thế kỷ này về chiếc tàu chạy bằng hơi nước. Người ta có thể tha thứ cho dân chài ở Saint-Sampson là, về mặt khoa học, trình độ chỉ ngang với
các nhà hình học Paris, và về tôn giáo, một hòn đảo nhỏ như Guernesey không bắt buộc phải văn minh hơn một lục địa lớn như châu Mỹ. Năm 1807 lúc chiếc tàu đầu tiên của Fulton[19], được Livingstone đỡ đầu, lắp chiếc máy của Watt gửi từ nước Anh đến, và trên tàu ngoài số thủy thủ chỉ có hai người Pháp, André Michaux và một người nữa, lúc chiếc tàu hơi nước này chạy chuyến đầu tiên từ New York đến Albany, tình cờ lại vào ngày 17 tháng tám. Thế là giám lý hội lên tiếng, và trong tất cả các giáo đường, các nhà thuyết giáo miệt thị chiếc máy, tuyên bố con số mười bảy đó là tổng số của mười cái sừng và bảy cái râu của con vật trong sách Khải Huyền[20], ở châu Mỹ để chống đối tàu chạy bằng hơi nước, người ra viện con vật trong sách Khải Huyền, còn ở châu Âu thì con vật trong Sáng Thế Ký. Tất cả chỗ khác nhau là ở chỗ ấy.
Các nhà bác học đã gạt bỏ tàu hơi nước, xem như không thể thực hiện được; đến lượt mình các cha cố gạt bỏ nó, xem như nghịch đạo. Khoa học đã kết tội, tôn giáo lại đọa đầy. Fulton là một loại Lucifer. Những người chất phác miền duyên hải và nông thôn tán thành việc bài xích vì cái của tân kỳ ấy làm cho họ khó chịu. Trước chiếc tàu hơi nước, quan điểm tôn giáo là: - Nước và lửa là một cuộc ly dị. Việc ly dị này do Chúa Trời ra lệnh. Con người không được chia rẽ cái Chúa Trời đã đoàn kết; con người không được đoàn kết cái Chúa Trời đã chia rẽ. Quan điểm nông dân là: cái ấy làm tôi hãi lắn.
Ở thời đại xa xôi ấy, dám làm một việc như thế, một chiếc tàu hơi nước chạy từ Guernesey đến Saint-Malo, phải là Mess Lethierry. Chỉ ông mới có thể quan niệm được việc đó theo tư cách một nhà tư tưởng tự do, và thực hiện theo tư cách một thủy thủ dũng cảm. Khía cạnh người Pháp của ông có ý nghĩ, khía cạnh người Anh của ông thực hành nó.
Nhân cơ hội nào? Chúng ta cần nói rõ.
III
RANTAINE
Quãng bốn mươi năm trước thời kỳ xảy ra những việc chúng tôi kể đây, trong vùng ngoại ô Paris, cạnh bức tường thành bao quanh, giữa Hố Chồn và Mộ Issoire, có một ngôi nhà đáng ngờ vực. Đây là một ngôi nhà lụp xụp hẻo lánh khi cần thì trở thành nơi nguy hiểm. Một tên tư sản ăn cướp, nguyên là thư ký biện lý ở Châtelet, sau trở thành kẻ cắp thực thụ đã sống ở đây với vợ con. Về sau hắn phải ra trước tòa đại hình. Gia đình này gọi là cánh Rantaine. Trong ngôi nhà nát, trên một cái tủ ngăn kéo bằng gỗ đào
hoa tâm, thấy để hai chiếc tách hoa bằng sứ: trên một chiếc có dòng chữ lấp lánh: Kỷ niệm của tình bạn và trên chiếc kia: Quà tặng của lòng mến chuộng. Đứa con sống trong cái hang ổ ô-hợp đó cùng với tội ác. Vì bố mẹ vốn thuộc tầng lớp tiểu tư sản, nên đứa bé cũng học đọc; người ta nuôi dạy nó. Người mẹ, xanh xao, ăn mặc gần như rách rưới, “giáo dục” con một cách máy móc, bắt nó đánh vần, và thường bỏ dở công việc để giúp chồng bày mưu tính kế, hoặc để đánh đĩ với một khách qua đường. Trong khi ấy, cuốn sách với Thánh Giá của Chúa Jésus, mở đúng chỗ người ta đã rời bỏ nó, vẫn nằm trên bàn, còn thằng bé mơ màng bên cạnh.
Người bố và người mẹ, bị bắt quả tang trong một vụ quả tang, biến mất trong đêm xử tội. Thằng bé cũng biến mất.
Trên đường rong ruổi của mình, có lần Lethierry gặp được một kẻ giang hồ như ông, cứu y ra khỏi một bước không may, làm ơn cho y, thương hại y, thu dụng y, đem y về Guernesey, thấy y thông minh trong nghề sông nước, liền cho y cộng tác với mình. Đây là thằng bé Rantaine đã trưởng thành.
Cũng như Lethierry, Rantaine có một cái gáy lực lượng, một quãng rộng và khỏe để vác những vật nặng giữa hai vai, và đôi hông của Hecule Farnèse. Lethierry và y, cũng cùng dáng bộ, cách đi đứng, tầm vóc Rataine lại có phần cao hơn. Nhìn họ từ sau lưng, cặp kè đi chơi trên bến cảng, ai cũng nói: Đúng là hai anh em. Nhìn thẳng mặt, lại khác. Tất cả những gì cởi mở ở Lethierry thì ở Rantaine đều khép chặt. Rantaine kín đáo. Rantaine là thầy dạy đánh kiếm, chơi harmonica hay, bắn tắt được một ngọn nến cách xa hai mươi bước bằng một viên đạn, có cú đấm tuyệt luân, ngâm thơ Henriade và biết đoán mộng. Y thuộc lòng Những nấm mộ Saint Denis của Treneuil. Y tự hào đã từng kết bạn với vị sultan[21] ở Calicut
“nhà người Tây Ban Nha gọi là Zamorin”. Giá ai được giở xem cuốn nhật kí trong người y sẽ thấy, xen giữa những ghi chép khác, những đoạn đại loại thế này: “Ở Lyon, trong kẽ tường một hầm tối, Saint-Joseph có giấu một cái dũa”. Y nói năng khôn ngoan từ tốn. Y bảo y là con một hiệp sĩ của Saint-Louis. Quần áo y không đồng bộ và được đánh dấu bằng những chữ khác nhau. Chẳng ai hay mất lòng bằng y về điểm danh dự: y đánh nhau và giết người. Trong vẻ nhìn y có một cái gì đó của một bà mẹ diễn viên.
Sức mạnh dùng làm vỏ che cho quỷ thuật, đấy là Ranraine.
Quả đấm tuyệt đẹp của y, giáng lên một cabeza de moro[22] trong một phiên chợ, trước đây đã tranh thủ được trái tim của Lethierry.
Ở Guernesey, người ta không biết được hết những chuyện ly kỳ của y. Thật là muôn màu muôn vẻ. Nếu số phận con người có một phòng quần áo, thì số phận của Rantaine phải ăn mặc theo kiểu Arlequin[23]. Y đã nhìn thấy
thế giới và đã từng trải việc đời. Đúng là một nhà thám hiểm vòng quanh thế giới. Nghề nghiệp của y là cả một cung đàn. Y đã từng nấu bếp ở Madagascar, nuôi chim ở Sumatra, làm tướng ở Honolulu, nhà báo tôn giáo tại các đảo, nhà thơ ở Oomrawuttee, hội viên hội Tam điểm ở Haiti. Với danh nghĩa sau cùng này, y đã đọc tại Grand-Goâve một bài điếu văn mà báo chí địa phương còn lưu lại đoạn sau đây: “…Xin vĩnh biệt, hỡi linh hồn cao thượng! Trong bầu trời xanh thẳm, nơi giờ đây anh đang cất cánh bay cao, có lẽ anh sẽ gặp ngài tu viện trưởng hiền lành Léandre Crameau ở Petit-Goâve. Anh hãy nói với ngài rằng, nhờ mười năm cố gắng vinh quang, anh đã hoàn thành ngôi nhà thờ Anse-à-Veau! Vĩnh biệt, hỡi thiên tài siêu việt, hỡi người thợ… gương mẫu!”. Như người ta thấy, cái mặt nạ hội viên Hội Tam Điểm không ngăn cản y mang cái mũ Gia-tô giả. Cái thứ nhất dung hòa y với những người tiến bộ, cái thứ hai với những người tu
hành. Y tuyên bố y là người da trắng thuần chủng, y căm thù người da đen; tuy nhiên chắc hẳn y phải ca ngợi. Ở Bordeaux năm 1815 y đã là verdet[24]. Thời kỳ ấy, khói bảo hoàng tỏa ra trên trán y dưới hình thức một cái lông chim trắng rất to. Y đã sống đời y theo kiểu nguyệt thực, hết hiện lại ẩn, rồi lại tái hiện. Đúng là một tên lưu manh giáo giở. Y biết tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: thay cho guillotine[25], y nói néboïsse. Y đã làm nô lệ ở Tripoli tại nhà của một thaleb[26] và ở đấy y đã học được tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, dưới làn gậy gộc: nhiệm vụ của y là tối tối đến của các ngôi đền và đọc to trước mặt tín đồ bản kinh Koran viết trên những mảnh gỗ con hay trên những xương vai lạc đà. Có lẽ y là kẻ bội giáo.
Y có khả năng làm đủ mọi việc, và những việc tệ hại nhất.
Cùng một lúc y có thể vừa cau mày vừa cười ha hả. Y thường nói: Về chính trị, tôi chỉ quí trọng những người uy vũ bất năng khuất, hoặc: Tôi ủng hộ các phong tục, hoặc: Cần phải đặt lại Kim tự tháp trên cái đáy của nó. Nói cho đúng thì y vui vẻ và thân mật hơn gì hết. Hình dáng cái mồm y phản đối ý nghĩa lời nói của y. Ở đuôi mắt, y có một giao điểm của nhiều nếp nhăn, nơi hẹn hò của tất cả các loại tư tưởng đen tối. Bí mật tướng mạo của y có thể bị khám phá tại chỗ ấy. Nếp nhăn ở đuôi mắt y là một cái móng diều hâu. Hộp sọ của y bẹp ở đỉnh đầu và rộng ở hai bên thái dương. Lỗ tai y chẳng ra hình thù gì cả và rậm rì như chổi xể, dường như bảo: chớ có nói với con vật nằm trong cái hang này.
Một hôm đẹp trời, tại Guernesey, người ta không biết Rantaine đi đâu mất.
Ông bạn cộng tác của Lethierry đã “chuồn thẳng”, để lại cái két rỗng không cho hội.
Trong két chắc chắn là có tiền của Rantaine, nhưng có cả năm vạn frăng của Lethierry.
Lethierry, trong nghề buôn tàu ven biển và đóng tàu của mình, sau bốn mươi năm khôn ngoan và chính trực, đã kiếm được mười vạn frăng. Rantaine đem đi mất một nửa số ấy của ông.
Mất hết một nửa vốn liếng, Lethierry không nản chí, lập tức nghĩ ngay đến chuyện đứng dậy. Đối với những con người can trường, có thể tiêu hủy tài sản nhưng không tiêu hủy được trái tim. Lúc bấy giờ người ta bắt đầu đến chuyện tàu hơi nước. Lethierry chợt nảy ra ý kiến thử nghiệm chiếc máy Fulton, đang bị bài bác mạnh, và dùng một chiếc tàu chạy than nối liền bán đảo Normand đi với nước Pháp. Ông liền ăn thua với ý nghĩ ấy. Ông quẳng vào đấy tất cả vốn liếng còn lại. Sáu tháng sau ngày Rataine biệt tích, người ta thấy từ hải cảng Saint-Sampson ngơ ngác chạy ra một chiếc tàu hỏa khói, nom y như một đám cháy trên biển, chiếc tàu máy đầu tiên chạy trên biển Manche.
Chiếc tàu ấy, mà hằn học và khinh bỉ của mọi người lập tức ban cho cái biệt danh “Tàu buôn Lethierry”, tuyên bố sẽ chạy thường xuyên từ Guernesey đến Saint-Malo…
IV
TIẾP THEO CÂU CHUYỆN KHÔNG TƯỞNG
Sự việc, người ta thừa hiểu, thoạt tiên diễn ra rất tồi tệ. Tất cả các chủ tàu đáy bằng chạy từ đảo Guernesey đến bờ biển nước Pháp đều lớn tiếng la ó. Họ tố cáo việc này xâm phạm tới Kinh Thánh và tới độc quyền của họ. Một vài giáo đường nổi giận. Một vị giáo sĩ đáng kính, tên là Elihu,
đánh giá chiếc tàu là “một trò phản tôn giáo”. Chiếc tàu bị tuyên bố là của chính thống. Người ta thấy có loạt sừng quỉ sứ trên đầu những con bò mà chiếc tàu hơi nước chở tới và dỡ xuống. Việc phản đối này kéo dài một thời gian khá lâu. Tuy vậy dần dần người ta nhận thấy những con bò ấy đến nơi ít nhọc mệt hơn, và bán được giá hơn vì thịt ngon hơn; nguy hiểm về biển đối với người cũng ít hơn; phương tiện ấy ít tốn kém hơn lại chắc chắn và nhanh hơn; người ta được đi đúng giờ, đến đúng giờ; cá mú nhờ đi nhanh hơn có tươi hơn, và từ nay có thể đổ lên các chợ Pháp số cá dư thừa của những chuyến đánh bắt lớn rất thường ở Guernesey; bơ của những con bò cái tuyệt vời ở Guernesey chuyên chở bằng chiếc Devil Boat (Tàu Quỉ) đi nhanh hơn khi chở bằng thuyền buồm, và không bị mất phẩm chất nữa, thành thử Dinan đòi hỏi, Saint-Brieuc đòi hỏi và Rennes đỏi hỏi; cuối cùng nhờ cái gọi là “Chiếc tàu buôn Lethierry”, người ta được đi lại an toàn, liên lạc đều đặn, tới lui dễ dàng nhanh chóng, giao thông mở rộng, thị trường bội tăng, thương mại phát triển, và tóm lại phải ủng hộ chiếc Tàu Quỉ đã xúc phạm Kinh Thánh và làm giàu cho đảo. Một số người không sợ dư luận còn liều tán thành trong một chừng mực nào đó. Sieur Landoys, lục sự, tỏ ra có cảm tình với chiếc tàu này. Và lại đây là thái độ vô tư của ông vì ông vốn không ưa Lethierry. Lúc đầu Lethierry là Mess còn Landoys chỉ Sieur[27]. Tiếp đó, mặc dầu là lục sự Saint-Pierre-Port, Landoys là giáo dân khu Saint-Sampson; thế mà, trong giáo khu, chỉ có họ, ông và Lethierry, là hai người không có thành kiến; ít ra người nọ phải ghét người kia. Cùng bờ lại hóa ra xa bến.
Sieur Landoys ít ra cũng quân tử ở chỗ tán thành chiếc tàu hơi nước. Một số người khác cũng theo Sieur Landoys. Sự việc cứ đi lên lúc nào không rõ; sự việc là một thứ thủy triều và, cùng với thời gian, với kết quả
liên tục, tăng dần, với lợi ích rõ ràng, vì tất cả mọi người đều nhận thấy có thoải mái hơn, một hôm, trừ vài người khôn ngoan, mọi người đều ca ngợi “Chiếc tàu buôn Lethierry”.
Ngày nay chắc người ta ca ngợi nó ít hơn. Chiếc tàu máy cách đây bốn mươi năm hẳn làm cho các nhà đóng tàu của ta hiện nay mỉm cười. Của kỳ quan ấy dị hình, vật diệu kỳ ấy què quặt.
Từ những chiếc tàu to lớn vượt Đại Tây Dương của chúng ta ngày nay đến chiếc tàu có bánh xe và đốt lửa mà Denis Papincho chạy trên sông Fulde năm 1707, quãng cách không kém hơn từ chiếc tàu ba boong Montebello, dài hai trăm piê[28], rộng năm mươi, có một trục lớn có một trăm năm mươi piê, trọng tải ba nghìn tấn, chở được một nghìn một trăm sáu mươi hòm đạn súng máy, lúc chiến đấu, mỗi mạn tàu khạc ra ba nghìn ba trăm livrơ[29] sắt, và lúc chạy thì giăng ra gió năm nghìn sáu trăm thước vuông vải, đến chiếc thuyền Đan Mạch của thế kỷ thứ hai, tìm thấy đầy rìu đá, cung và chùy, trong bùn biển của Wester-Satrup, và để lại Tòa thị chính Flensbourg.
Đúng một trăm năm, 1707-1807, thêm ngăn cách chiếc tàu đầu tiên của Papin đến chiếc tàu đầu tiên của Fulton “Tàu buôn Lethierry” chắc chắn là một tiến bộ so với hai phác thảo ấy, nhưng bản thân nó cũng chỉ là một phác thảo. Nhưng không vì thế mà nó không phải là một kiệt tác. Bất cứ phôi thai nào của khoa học cũng mang hai hình dáng: bào thai quái vật, mầm mống kỳ quan.
V
CHIẾC TÀU QUỶ
“Tàu buôn Lethierry” không đặt cột buồm theo đúng tâm điểm của buồm, như thế không phải khuyết điểm vì đây là một trong những quy tắc của nghề đóng tàu, vả lại tàu dùng lửa làm sức đẩy thì hệ thống buồm chỉ
là phụ. Chúng ta cần nói thêm là tàu bánh xe hầu như không cần đến hệ thống buồm. Chiếc tàu buôn ngắn quá, tròn quá, thu gọn quá; má nó quá to, hông nó quá rộng; người ta không mạo hiểm đến chỗ thiết kế nó nhẹ nhàng, chiếc tàu buôn có một số điểm bất tiện và một số ưu điểm so với chiếc Thuyền Bầu. Nó ít chồm tới chồm lui, nhưng lại hay chòng chành. Bộ trống lại quá cao. Đối với chiều dài của nó thì thuyền nhiều rường ngang quá. Bộ máy đồ sộ, cồng kềnh, và để cho tàu chở được nhiều, người ta phải tôn cao quá mức bức vách chắn, thành thử chiếc tàu buôn có khuyết điểm gần gần giống những chiếc tàu năm 74, một thứ thuyền mẫu tạp nham và phải phá bằng để cho hợp với việc đi biển. Vì ngắn nên nó phải lái nhanh, thời gian dùng cho một vòng xoay tỷ lệ thuận với chiều dài tàu, nhưng trong lực làm cho nó mất lợi thế của hình dáng thon gọn. Khoang bụng rộng quá làm cho nó chậm chạp vì lực cản của nước tỷ lệ thuận với tiết diện chìm lớn nhất và với bình phương của tốc độ. Mũi tàu thẳng đứng, điều ấy ngày nay không phải là khuyết điểm, nhưng thời ấy lệ thường bất di bất dịch để cho nó nghiêng bốn mươi lăn độ. Tất cả các đoạn cong của vỏ tàu đều được chắp nối tốt, nhưng không đủ dài để bảo đảm cho chiều nghiêng và nhất là cho độ song song của khối nước lăng trụ bị chuyển dịch, khối này bao giờ cũng chỉ được đẩy ngang. Gặp lúc trời động, nó chìm quá sâu, lúc thì chúc mũi, lúc thì ngửa lái, đây là khuyết điểm của trọng tâm. Do số hàng chở nằm không đúng vị trí, vì trọng lượng máy, trọng tâm thường lấn về phía sau cột buồm đại, thành thử phải dựa hẳn vào hơi nước và phải dè chừng lá buồm đại, vì trong trường hợp ấy buồm đại làm cho tàu đi tới chứ không giúp cho tàu chống đỡ với gió trời.
Biện pháp là lúc gần gió nhất phải thả hết dây lèo; như thế gió bị cố định ở đằng mũi bởi dây buồm, và buồm đại chỉ có tác dụng của một lá buồm lái. Lối vận hành này là khó. Tay lái kiểu cổ, không phải bằng bánh xe như ngày nay mà bằng sàn gỗ, xoay trên bản lề bắt chặt vào cây gỗ lớn ở đuôi thuyền và xoay chuyển bằng một thanh gỗ nằm trên cái sà sườn thuyền phía lái. Hai chiếc canô, loại thuyền ngắn, treo lủng lẳng ở hai bên mạn. Tàu có bốn neo, neo đại, neo trung là chiếc neo làm việc, working - anchor và hai neo đôi. Bốn chiếc neo này, thả cùng với xích sắt, đều chuyển vận tùy trường hợp bằng cái máy trục to đằng lái và cái máy trục nhỏ đằng mũi. Thời ấy, trục cuốn bằng bơm chưa thay thế cho sà đòn bẩy hoạt động gián đoạn. Chỉ có hai bộ neo đôi, một ở bên phải, một ở bên trái, tàu không thể nào buông neo đôi kiểu chân ngỗng, và thế là như bị tước bớt vũ khí trước một vài hướng gió. Tuy vậy gặp trường hợp ấy nó có thể sử dụng đến chiếc neo thứ hai. Phao đều thuộc loại thông thường, và cấu tạo đủ sức đỡ được dây neo, mà vẫn nổi trên mặt nước. Xuồng có kích tấc thích đáng. Đấy là dụng cụ phòng bị thật sự của chiếc tàu; nó khá vững chắc để rút chiếc neo đại. Một điểm mới của tàu này là một phần thuyền cụ của nó đều có xích sắt, vả lại như thế không hại gì đến sức chuyển động của thừng lưu động và sức căng của thừng cố định. Hệ thống cột buồm, mặc dầu chỉ là phụ, không có một khuyết điểm gì; hệ thống dây chằng rất dày, rất nhẹ nhàng, ít lộ. Toàn bộ sườn tàu chắc chắn, nhưng thô kệch, vì tàu hơi nước không đòi hỏi phần gỗ phải thanh tú như thuyền buồn, Tàu này chạy với tốc độ hai dặm một giờ. Gặp hỏng hóc, nó cứ đi lừng chừng. Với hiện trạng như thế, chiếc “Tàu buôn Lethierry” đi khơi thì tốt, nhưng thiếu mũi nhọn để rẽ nước, và không thể bảo là nó có dáng điệu thanh nhã. Người ta cảm thấy khi gặp nguy hiểm, đá ngầm hoặc cây nước, nó sẽ khó vận hành. Nó kêu răng rắc như một vật chưa hoàn thành. Lúc chòng chành trên sóng,
nó phát ra một tiếng như tiếng đế giày mới.
Chiếc tàu này chủ yếu là một cái thùng chứa, và cũng như mọi tàu chuyên đón nhận hàng hóa hơn là sử dụng vào chiến tranh, nó chỉ được bố trí để chất xếp hàng. Nó nhận rất ít hành khách. Việc chuyên chở gia súc khiến cho việc bốc xếp trở nên khó khăn và rất khác biệt. Thời ấy người ta xếp bò trong khoang, đấy là một vấn đề phức tạp. Ngày nay người ta xếp chúng lên boong trước. Bộ trống chiếc Tàu Quỷ Lethierry sơn trắng, vỏ tàu, cho đến đường ngấn nước màu lửa, và toàn bộ các chỗ còn lại của tàu, theo kiểu cách khá xấu xí của thế kỷ ấy, màu đen. Lúc rỗng, tàu chìm sâu bảy piê, và lúc có hàng, mười bốn.
Còn máy thì rất khoẻ. Mạnh đến một ngựa cho ba tô-nô, như thế là gần bằng sức mạnh một tàu kéo. Các bánh xe được đặt rất đúng chỗ, hơi nhích ra phía trước trọng tâm tàu một tí. Máy có một áp suất tối đa hai atmosphères. Nó tiêu thụ rất nhiều than, mặc dầu nó thuộc loại ngưng tụ và giãn đẩy. Nó không có tay lái vì điểm tựa không vững để bổ khuyết vào đó, như ngày nay người ta vẫn còn làm, nó dùng một thứ máy kép làm hoạt động luân phiên hai tay quay bắt vào đầu trục chính và bố trí sao cho một tay quay luôn luôn nằm ở điểm mạnh khi tay quay kia nằm ở điểm chết. Toàn bộ cỗ máy đặt trên một tấm gang duy nhất; nhờ thế ngay lúc bị hỏng nặng, không một cơn sóng nào làm nó mất thăng bằng và vỏ tàu có móp cũng không thể làm hỏng máy. Để máy thêm vững chắc, người ta đã đặt biên chính cạnh xi-lanh, như vậy là chuyển được giao tâm quả lắc từ giữa ra đằng đầu. Từ đấy người ta đã sáng kiến ra loại xi-lanh dao động cho phép bỏ hẳn biên; nhưng thời ấy cách đặt biên cạnh xi-lanh hình như đã là đỉnh cao nhất của khoa chế tạo máy. Nồi hơi chia ra từng ngăn và có bơm saumure. Các bánh xe rất to, như thế đỡ hao phí lực, và ống khói rất cao
tăng thêm sức hút cho lò; nhưng bánh xe to lại cản nước, ống khói cao lại cản gió. Cánh bằng gỗ, móc bằng sắt, ổ trục bằng gang, các bánh xe đều chế tạo tốt và điều ngạc nhiên là có thể tháo lắp được. Luôn luôn có ba cánh nằm dưới nước. Tốc độ của tấm cánh chỉ hơn tốc độ tàu một phần sáu; đấy là khuyết điểm của loại bánh xe ấy. Ngoài ra, chỗ cầm tay quay dài quá, và hộc phân phối hơi trong xi-lanh cọ xát nhiều quá. Thời kì ấy, cỗ máy đó dường như tuyệt diệu và tuyệt diệu thật.
Cỗ máy đó được rèn ở Pháp tại nhà máy Bercy. Mess Lethierry có tưởng tượng ra nó chút ít; người thợ chế tạo ra nó theo hình vẽ của ông đã chết; vì vậy nó là cỗ máy duy nhất, không thể nào thay thế. Người thiết kế còn, nhưng thiếu người chế tạo.
Cỗ máy trị giá bốn vạn frăng.
Lethierry đã đích thân đóng chiếc tàu buôn dưới âu cảng có mái cạnh cái tháp đầu tiên giữa Saint-Pierre-Port và Saint-Sampson. Ông đã đi tận Brême mua gỗ. Trong công trình này, ông đã tận dụng tất cả tay nghề thợ mộc đóng tàu của ông, và người ta phải chịu tài ông trong nghề cạp thuyền với những đường máy rất nhỏ, rất đều, và được quét phủ bằng sarangousti, một thứ mát-tít Ấn Độ tốt hơn cả nhựa thông. Lớp bọc lòng tàu được đóng đinh to. Lethierry đã trát bụng tàu bằng nhựa gallegalle. Để bổ khuyết chiều tròn của vỏ tàu, ông đã lắp một cần buồm phụ vào cột buồm cái, nhờ vậy mà thêm được một buồm vuông giả vào cánh buồm vuông ở cột buồm mũi. Hôm hạ thủy ông đã nói: Thế là tôi xuống nước! Quả thật chiếc tàu buôn thành công, như ta đã thấy.
Do tình cờ hay hữu ý, nó được hạ thủy đúng vào ngày 14 tháng bảy[30]. Hôm ấy Lethierry, đứng trên boong tày giữa hai cái trống, nhìn thẳng ra
biển khơi và hét to:
- Đến lượt mày rồi! Dân chúng Paris đã chiếm ngục Bastille; bây giờ chúng tao chiếm được chính này!
“Chiếc tàu buôn Lethierry” chạy từ Guernesey đến Saint-Malo mỗi tuần một lần. Nó rời bến sáng thứ ba và trở về chiều thứ sáu, trước phiên chợ ngày thứ bảy. Nó là một kiểu mẫu bằng gỗ khỏe hơn các thuyền buôn ven biển trong toàn quần đảo, và vì dung tích của nó tỷ lệ thuận với kích tấc, một chuyến đi của nó bằng bốn chuyến của một chiếc tàu đáy bằng thông thường, về lượng hàng và về lợi nhuận. Nhờ thế mà lời lãi rất nhiều. Tiếng tăm một chiếc tàu tùy thuộc ở việc chất xếp hàng hóa của nó, Lethierry lại là một tay bốc xếp tuyệt vời. Khi không thể đích thân lăn lộn ngoài biển cả nữa, ông liền luyện một tay thủy thủ để thay thế ông làm người bốc xếp. Sau hai năm, chiếc tàu hơi nước sinh lợi đúng bảy trăm năm mươi livrơ xteclinh ở Guernesey trị giá hai mươi bốn frăng, đồng ở Anh trị giá hai mươi lăm, và đồng ở Jersey hai mươi sáu. Những trò dấm dớ ấy không dấm dớ như vẻ ngoài của chúng; các ngân hàng đều kiếm chác ở chỗ ấy.
VI
LETHIERRY BƯỚC VÀO VINH QUANG
Chiếc tàu buôn phát đạt. Mess Lethierry thấy mình sắp thành Monsieur đến nơi. Ở Guernesey người ta không phải ông với nhau cả đâu. Giữa con người và ông có cả một cái thang cao phải trèo; thoạt tiên, bậc thứ nhất, chỉ gọi tên trống không, Pie chẳng hạn; rồi bậc thứ nhì, vô danh (hàng xóm) Pierre; rồi bậc thứ ba, lão Pierre; rồi bậc thứ tư, Sieur Pierre; rồi bậc thứ
năm, Mess Pierre; rồi đỉnh cao, ông (Monsieur) Pierre.
Cái thang này, từ lòng đất chui ra, cứ tiếp mãi trên trời xanh. Toàn bộ đẳng cấp nước Anh đều vào đấy và sắp xếp theo tầng lớp. Đây là các bậc, càng lên càng rực rỡ; trên ông (gentleman) có esq (dũng sĩ tùy tùng), trên esq có kỵ sĩ (sir suốt đời), rồi lên mãi, tòng nam tước (sir cha truyền con nối), rồi huân trước, ở Scotland là laird, rồi nam tước, rồi tử tước, rồi bá tước (ở Anh là earl), ở Na Uy là jarl, rồi hầu tước, rồi công tước, rồi nguyên lão Anh quốc, rồi hoàng tử, từ tầng lớp tư sản lên tầng lớp tòng nam tước, từ tầng lớp tòng nam tước lên tầng lớp nguyên lão, từ tầng lớp nguyên lão lên đến hàng vua chúa.
Nhờ có quyết định bất thần của mình thành công, nhờ hơi nước, nhờ cỗ máy, nhờ chiếc Tàu Quỷ, Mess Lethierry đã trở thành người có địa vị. Để đóng chiếc tàu buôn ông đã phải vay mượn; ông đã mang công mắc nợ ở Brême, ông đã mang công mắc nợ ở Saint-Malo; nhưng mỗi năm ông đều trả dần được nợ.
Ông còn mưa chịu, ngay ở lối vào cảng Saint-Sampson, một ngôi nhà xinh xắn bằng đá, mới tinh, trên vườn dưới biển, ở góc nhà có hai chữ: Les Bravées. Ngôi nhà Les Bravées, mà mặt tiền cũng thuộc vào chính bức tường thành của cảng, đáng chú ý ở hai dãy cửa sổ, phía bắc, phía một khu vườn đầy hoa, phía nam, phía đại dương; thành thử ngôi nhà này có hai mặt, mặt này nhìn thẳng bão táp, mặt kia trông ra vườn hồng.
Những mặt nhà này dường như dành cho hai người ở, Mess Lethierry và cô Déruchette.
Ngôi nhà Le Bravées được nhiều người ở Saint-Sampson nói đến. Vì cuối cùng Mess Lethierry đã được mọi người ngưỡng mộ. Việc được lòng
dân này một phần do lòng tốt, do sự tận tâm và tính can đảm của ông, một phần do nhiều người được ông cứu vớt, còn phần lớn là do thành công của ông, và cũng do ông dành cho cảng Saint-Sampson đặc quyền về các chuyến đi đi về về của chiếc tàu hơi nước. Thấy chắc chắn chiếc Tàu Quỷ là một món lợi, Saint-Pierre, thủ đô, đã định dành nó cho cảng của mình, nhưng Lethierry quyết giữ cho Saint-Sampson. Đấy là thành phố quê hương ông. - Chính tại đây tôi đã được vứt xuống biển cả - ông nói. Nhờ vậy mà ông được nhiệt liệt ngưỡng mộ tại địa phương. Với tư cách nghiệp chủ đóng thuế ông được gọi là một cư dân Guernesey. Người ta gọi ông là thành viên trong đoàn Mười Hai. Người thủy thủ đáng thương này đã trèo hết năm bậc thang trong số sáu bậc của trật tự xã hội Guernesey; ông là Mess; ông gần thành Monsieur; và biết đâu ông sẽ chẳng vượt qua bậc Monsieur? Biết đâu một ngày kia người ta chẳng đọc thấy trong cuốn toàn thư Guernesey, ở mục Gentry and Nobility[31], đoạn ghi chép chưa từng có và tuyệt diệu này: Lethierry, esq.?[32]
Nhưng Mess Lethierry vẫn xem thường hoặc nói cho đúng không hay biết đến khía cạnh phù phiếm của chuyện đời. Niềm vui của ông là tự cảm thấy mình có ích. Được ngưỡng mộ không làm ông xúc động bằng cảm thấy mình cần thiết cho mọi người. Như chúng tôi đã nói, ông chỉ có hai niềm say mê, và do đó, chỉ có hai tham vọng; Durande và Déruchette.
Dù sao đi nữa, ông đã đánh xổ số với biển cả, và ông đã trúng giải độc đắc.
Giải độc đắc ấy là chiếc Durande ngược xuôi trên biển cả.
VII
Ẫ Ỡ Ẫ Ỡ
VẪN CHA ĐỠ ĐẦU ẤY, VẪN MẸ ĐỠ ĐẦU ẤY
Sau khi sáng tạo nên chiếc tàu chạy bằng hơi nước ấy, Lethierry đã đặt tên cho nó. Ông gọi nó là Durande. Tàu Durande, từ đây chúng tôi sẽ không gọi nó bằng cách khác nữa. Chúng tôi cũng xin phép bất chấp lệ thường của nhà in, không gạch dưới cái tên Durande, như thế là chúng tôi vẫn làm theo đúng tư tưởng của Mess Lethierry; đối với ông, Durande gần như một con người.
Durande và Déruchette, vẫn cùng một tên, Déruchette là từ thu hẹp của Durande. Kiểu từ thu hẹp này rất thông dụng ở miền Tây nước Pháp.
Các thánh ở nông thôn thường mang tên mình với tất cả các từ thu hẹp và các từ làm mạnh thêm nghĩa. Người ta tưởng đâu nhiều người hóa ra chỉ có một. Những trường hợp trùng lẫn nam thánh và nữ thánh bảo hộ mang những tên khác nhau không phải chuyện hiếm. Lise, Lisette, Lisa, Élisa, Isabelle, Lisbeth, Betsy, cả cái đám đông ấy là Élisabeth. Có lẽ Mahout, Maclou, Malo và Magloire cũng vẫn là một ông thánh. Tuy vậy chúng tôi không chú trọng đến điều ấy.
Nữ thánh Durande là một nữ thánh của vùng Angoumois và vùng Charente. Bà có đoan trang hay không? Điểm ấy quan hệ đến dân bollandistes. Đoan trang hay không, bà cũng có giáo đường.
Hồi ở Rochefort, khi còn là một chàng thủy thủ trẻ, Lethierry đã được biết bà thánh đó, hẳn là qua một cô gái xinh đẹp nào đó ở Charante, có lẽ cái cô gái lẳng lơ có móng tay đẹp. Ông còn giữ được khá nhiều kỷ niệm về cô nên ông mới dành cái tên ấy cho hai thứ ông yêu quý nhất đời:
Durande cho chiếc tàu buồm, Déruchette cho cô con gái.
Ông là bố của bên này và chú của bên kia.
Déruchette là con gái một người anh của ông. Cô không còn bố mẹ. Ông đã nhận cô làm con nuôi. Ông thay thế cả bố lẫn mẹ.
Déruchette không phải chỉ là cháu ông. Cô còn là con đỡ đầu của ông. Chính ông đã là cha đỡ đầu của cô. Chính ông đã tìm ra cho cô bà thánh bảo hộ, nữ thánh Durande, và cái tiểu danh Déruchette.
Như chúng tôi đã nói, Déruchette sinh tại Saint-Pierre-Port. Cô được ghi vào sổ giáo khu đúng ngày sinh của cô.
Ngày nào cô cháu còn là trẻ con, và ông chú còn nghèo hèn thì chẳng ai thèm để ý đến cái tên Déruchette; nhưng khi cô bé trở thành một thiếu nữ và người thủy thủ trở thành một quý ông thì Déruchette nghe hơi chướng. Người ta lấy thế làm ngạc nhiên. Người ta hỏi Mess Lethierry: Tại sao lại Déruchette? Ông đáp: Thì cái tên nó như thế. Nhiều lần người ta có đặt lại tên thánh cho cô. Ông đều không chịu. Một hôm, một phu nhân xinh đẹp và sang trọng ở Saint-Sampson, vợ một chủ lò rèn giàu có đã bỏ nghề, một sixty như người ta vẫn gọi ở Guernesey, bảo với Mess Lethierry: Từ nay tôi gọi con gái ông là Nancy. Ông nói: Tại sao không gọi là Lons-Le Saulnier? Phu nhân xinh đẹp vẫn không chịu thôi, và hôm sau lại nói với ông: Dứt khoát chúng tôi không đồng ý cái tên Déruchette. Tôi đã tìm được cho con gái ông một cái tên rất hay, Marianne. - Tên hay thật đấy - Mess Lethierry đáp lại - nhưng lại bao gồm hai con vật xấu xí, một anh chồng và một con lừa[33]. Ông vẫn giữ cái tên Déruchette.
Nếu từ câu nói trên mà kết luận rằng ông không muốn gả chồng cho cháu thì lầm to. Tất nhiên, ông cũng muốn kiếm cho cháu một tấm chồng nhưng theo kiểu của ông. Ông đòi hỏi cô phải lấy một người chồng thuộc
loại như ông, lao động thật nhiều, còn cô thì chẳng làm gì lắm. Ông thích đàn ông tay đen, còn đàn bà thì tay trắng. Để Déruchette khỏi làm hỏng hai bàn tay xinh đẹp, ông đã hướng cô về phía tiểu thư. Ông đã kiếm cho cô một ông thầy dạy đàn, một chiếc dương cầm, một tủ sách nhỏ, và thêm ít kim chỉ trong giỏ may. Cô thích đọc hơn thích khâu, thích đàn hơn thích đọc. Mess Lethierry muốn cô như thế. Duyên sắc, đấy là tất cả những gì ông đòi hỏi ở cô. Ông đã nuôi dưỡng cô để trở thành bông hoa chứ không phải để thành đàn bà. Ai đã nghiên cứu về thủy thủ khắc hiểu rõ điều ấy. Cứng cỏi bao nhiêu lại khao khát tế nhị bấy nhiêu. Muốn có cháu thực hiện được lý tưởng của ông chú thì cô cháu phải giàu sang. Chính đây là điều Mess Lethierry mong muốn. Cỗ máy to đi biển của ông hoạt động nhằm mục đích ấy. Ông giao trách nhiệm cho Durande phải lo khoản hồi môn cho Déruchette.
VIII
ĐIỆU NHẠC BONNY DUNDEE
Déruchette ở căn phòng đẹp nhất của ngôi nhà Bravées, có hai cửa sổ, tủ bàn toàn bằng gỗ đào hoa tâm có vân, trang hoàng thêm một cái giường có màn kẻ ô vuông xanh trắng, nhìn ra mảnh vườn và ngọn đồi cao trên đó có lâu đài Valle. Phía bên kia ngọn đồi là ngôi nhà Bû de la Rue.
Trong căn phòng ấy, Déruchette để sách nhạc và cây đàn piano của cô. Thường ngày cô đệm đàn piano vừa hát điệu hát ưa thích, bản nhạc Scotland Bonny Dundee; suốt tối chỉ có điệu hát ấy, suốt buổi bình minh chỉ nghe giọng cô; một điểm tương phản hơi kỳ lạ, người ta nói: cô Déruchette đang ngồi bên chiếc đàn piano của cô, và người qua đường
phía dưới chân đồi đôi khi cũng dừng bước trước bức tường khu vườn Bravées để lắng nghe giọng hát xiết bao trong sáng ấy và bài hát xiết bao buồn bã ấy.
Déruchette là hình ảnh tươi vui đi đi lại lại trong nhà. Cô làm cho ngôi nhà quanh năm thắm đượm trời xuân. Cô đẹp, nhưng cô lại xinh hơn là đẹp, và lại duyên dáng hơn là xinh. Cô gợi cho các hoa tiêu già hiền lành bạn của Mess Lethierry nhớ đến nàng công chúa trong một bài hát của lính và thủy thủ, công chúa đẹp đến nỗi “có tiếng là đẹp trong trung đoàn”. Mess Lethierry thường nói: Nó có mái tóc dài như một sợi dây cáp.
Từ bé cô đã có sắc đẹp mê hồn. Một thời gian dài người ta ngại về cái mũi của cô, nhưng con bé, hẳn trời đã định cho là phải đẹp, vẫn đầy duyên dáng, tuổi trưởng thành đã không làm hại cô; mũi cô không dài quá, không ngắn quá; và lớn lên cô vẫn yêu kiều.
Không bao giờ cô gọi chú cô khác hơn là “bố”.
Ông cho phép cô thi thố chút ít tài năng làm vườn, và nội trợ nữa. Cô tự tay tưới các luống hồng thục quỳ, thiên nga nhung, giáp trúc đào lâu năm và thủy dương mai đỏ rực; cô trồng crépis hồng và thố thảo hồng; cô biết lợi dụng khí hậu của Guernesey vốn rất mến hoa. Cũng như mọi người cô có dứa rừng trên mặt đất bằng, và điểm này khó hơn, trồng được cả phiên bạch thảo Népaul. Vườn rau nhỏ bé của cô được tổ chức rất khoa học; xong củ cải đỏ, cô trồng rau muống, sau rau muống cô trồng tiếp đỗ hạt; cô biết gieo cấy súp lơ Hà Lan và bắp cải Bruxelles vào tháng bảy, cải củ vào tháng tám, diếp quăn vào tháng chín, cải thơm tròn vào mùa thu, và diệp lạ bắc vào dịp đông. Mess Lethierry để mặc cho cô làm, miễn cô đừng xúc xẻng và dùng cào nhiều quá, nhất là đừng tự tay bón phân. Ông cho cô
hai người tớ gái Grâce và Douce hai tên của Guernesey. Grâce, Douce làm việc trong nhà và ngoài vườn thêm được quyền có những bàn tay đỏ.
Còn Mess Lethierry, phòng của ông là một căn buồng xép nhìn ra cảng và liền với căn phòng lớn, thấp của tầng dưới nơi có cửa ra vào và nơi hội tụ các cầu thang trong nhà. Đồ đạc trang hoàng trong phòng có chiếc vòng thủy thủ, đồng hồ và cái tẩu hút thuốc lá của ông. Cũng có thêm một cái bàn và một cái ghế. Trần nhà, trơ cả xà, cũng được quét vôi trắng như bốn bức tường; bên phải cánh cửa, quần đảo Manche đóng bằng đinh, một tấm bản đồ với dòng chữ: W. Faden, 5, Charing Cross. Geographer of His Majesty[34]. Và bên trái, một số đinh khác đóng dăng ra trên bức tường rộng một loại khăn vải to, có những hình màu tượng trưng cờ và dấu hiệu của toàn bộ hàng hải thế giới, bốn góc là quốc kỳ nước Pháp, nước Nga, nước Tây Ban Nha, nước Mỹ, và ở giữa là quốc kỳ Anh.
Douce và Grâce là hai con người bình thường, hiểu theo khía cạnh tốt của từ ngữ. Douce không ác và Grâce không xấu. Hai cái tên nguy hiểm này không có hại gì cả. Douce, chưa lấy chồng, có một “nhân tình”. Trên các đảo vùng biển Manche, từ ngữ này rất thông thường, mà sự việc cũng thông thường. Hai cô gái có cái mà người ta có thể gọi là lối phục dịch thuộc địa, một kiểu chậm chạp đặc biệt của tầng lớp đi ở của Normand trong quần đảo. Grâce, làm dáng và xinh, luôn luôn nhìn ngắm chân trời với một vẻ lo lắng như mèo. Đó là vì, như Douce, cô cũng có một gã nhân tình; ngoài ra người ta bảo cô còn có một người chồng thủy thủ mà cô rất sợ ngày về. Những điểm ấy không can hệ gì đến chúng ta. Nét khác biệt giữa Grâce và Douce là gặp một gia đình ít khắc khổ hơn và ít ngây thơ hơn, Dolce hẳn chịu làm đầy tớ mãi và Grâce trở thành con sen. Những tài năng tiềm tàng của Grâce bị mai một với một cô gái trong trắng như
Déruchette. Vả lại những chuyện tình duyên của Dolce và Grâce chỉ ngấm ngầm. Chẳng có gì khiến Mess Lethierry phải ngạc nhiên và chẳng có gì ảnh hưởng đến Déruchette cả.
Căn phòng thấp ở tầng dưới là một gian buồng lớn có lò sưởi xung quanh bày bàn và ghế dài, thế kỷ trước đã dùng làm nơi hội họp cho một cuộc hội nghị bí mật của dân tị nạn người Pháp theo đạo Tin lành. Bức tường đá chỉ có mỗi cái khung gỗ đen là vật xa xỉ, trên cùng một tấm giấy da ghi những thành tích của Bénigne Bossuet[35], giám mục thành Meaux. Một số giáo dân đáng thương trong giáo khu của con đại bàng này[36] bị ông ta hành hạ lúc thủ tiêu sắc dụ Nantes[37], và trốn tránh tại Guernesey, đã treo cái khung gỗ trên bức tường ấy để dẫn chứng. Trên đây, người ta đọc được, nếu có thể đọc nổi nét chữ ngoằn nghèo và một thứ mực ố vàng, những sự việc ít được biết đến như sau:
- Ngày 29 tháng mười năm 1685, triệt hạ các đền Morcerf và Nanteuil, do ông giám mục thành Meaux yêu cầu nhà vua.
- Ngày mùng 2 tháng tư năm 1686, bắt hai cha con Cochard, vì lý do tôn giáo, theo yêu cầu của ông giám mục thành Meaux. Được thả, cha con Cochard đã tuyên thệ bỏ đạo.
- Ngày 28 tháng mười năm 1699, ông giám mục thành Meaux gửi cho ông de Pontchartrain một bức thư điều trần nói là cần thiết phải đưa các cô de Chalandes và de Neuville, theo tôn giáo cải cách, vào nhà Nữ Tân Tín đồ Gia-tô của Paris.
- Ngày mùng 7 tháng bảy năm 1703, thi hành lệnh nhốt vợ chồng Baudoin, tín đồ Gia-tô xấu của Fublaines, vào nhà thương điên, do ông giám mục thành Meaux yêu cầu nhà vua.
Ở cuối phòng, cạnh cửa buồng của Mess Lethierry, có một buồng con bằng ván, trước kia là tòa giảng của phái Huguenots[38], nay nhờ lớp lưới sắt có cái lỗ con, trở thành bàn giấy của chiếc tàu hơi nước, nghĩa là văn phòng của tàu Durande, do đích thân Mess Lethierry phụ trách. Trên cái
yên sách cũ bằng gỗ sồi, một quyển sổ với những trang giấy ghi rõ bên Có và bên Nợ thay cho cuốn Kinh Thánh.
IX
NGƯỜI ĐÃ ĐOÁN ĐƯỢC RANTAINE
Ngày nào Mess Lethierry còn tung hoành được trên biển cả, thì ông còn điều khiển tàu Durande, và ông không có hoa tiêu nào, thuyền trưởng nào khác ngoài bản thân, nhưng đã đến giờ phút, như chúng tôi đã nói, mà Mess Lethierry phải tìm người thay thế. Để làm việc ấy ông đã chọn được Sieur Clubin, quê ở Torteval, một con người trầm mặc ít nói. Trên toàn miền duyên hải, Sieur Clubin được tiếng hết sức liêm khiết. Đấy là cái tôi khác[39] và là người đại diện của Mess Lethierry.
Mặc dù có vẻ một viên lục sự hơn là một thủy thủ, Sieur Clubin là một tay đi biển có nhiều khả năng và hiếm thấy. Ông ta có tất cả mọi tài năng cần thiết cho việc mạo hiểm thường xuyển biến đổi. Ông ta là tay bốc xếp khéo léo, coi buồm thận trọng phụ trách neo lèo phao chu đáo và thông thạo, cầm lái vững, hoa tiêu giỏi và thuyền trưởng dũng cảm. Tính ông ta cẩn thận, và đôi khi cẩn thận đến mức liều, đây là một đức tính lớn trên biển cả. Ông ta biết sự việc có thể xảy ra, nhưng lại biết dung hòa với khả năng có thể làm được. Đây là một trong những thủy thủ dám đương đầu với hiểm nguy trong chừng mực mà họ nắm vững, và bất cứ trường hợp
nào cũng biết tạo nên thắng lợi. Tất cả phần vững tin mà biển khơi có thể dành cho một con người, ông ta đều có đủ; ngoài ra Sieur Clubin còn là một tay bơi lặn nổi tiếng; ông ta thuộc loại người dạn dày sóng nước, có thể ngâm mình dưới nước bao nhiêu lâu cũng được, và có thể đi từ Havre des-Pas ở Jersey, vượt qua Colette, vòng quanh tháp của am tu sĩ và lâu đài Elisabeth, rồi sau hai giờ đồng hồ quay về địa điểm xuất phát. Ông ta quê ở Torteval và nghe đâu ông ta thường hay bơi quãng đường ghê sợ từ Hanois đến mũi Plainmont.
Một trong những điều khiến Mess Lethierry tin tưởng vào Sieur Clubin nhất, là do biết hay hiểu thấu được Rantaine, ông ta đã báo trước cho Mess Lethierry cái tính gian xảo của con người này, và đã nói với ông: - Rantaine sẽ lừa ông cho xem. Điều ấy đã được chứng minh. Nhiều lần, đối với những vật đúng là không quan trọng, Mess Lethierry đã thử thách lòng ngay thẳng đến mức quá chu đáo của Sieur Clubin, và ông đã nhờ cậy ông ta trong các công việc của ông. Mess Lethierry nói: Lương tâm ngay thẳng đòi hỏi phải được tin tưởng hoàn toàn.
X
NHỮNG CÂU CHUYỆN ĐƯỜNG XA
Tuy có chịu khó về mặt khác, nhưng lúc nào Mess Lethierry cũng mặc quần áo làm việc trên tàu, và thích chiếc varơ thủy thủ hơn chiếc varơ hoa tiêu. Việc ấy khiến Déruchette phải nhíu cái mũi xinh xinh lại. Không có gì đẹp bằng người có duyên nhăn mặt, lúc nổi giận. Cô vừa trách vừa cười và kêu lên: Eo ơi! Bố toàn mùi nhựa đường. Và cô khẽ vỗ vào cái vai u của ông.
Người anh hùng này của biển cả đã thuật lại nhiều chuyện lạ lùng về các chuyến chu du của mình. Ở Madagasca, ông đã thấy những chiếc lông chim mà chỉ cần ba chiếc là đủ lợp một mái nhà. Ở Ấn Độ, ông đã thấy những cây ôdây cao gần ba mét. Ở Tân Hà Lan, ông đã thấy những đàn ngỗng và gà tây được chăn dắt bởi một thứ chó chăn cừu mà lại là một con chim gọi là Agami. Ông đã thấy những nghĩa địa voi. Ở châu Phi ông đã thấy những con vượn, những loại người - hổ, cao đến hơn hai mét. Ông biết tập quán của tất cả các loại khỉ, từ loại macacơ rừng mà ông gọi là macaco bravo đến loại macacơ hay hét mà ông gọi là macaco barbado. Ở Chilê, ông đã thấy một con khỉ cái chìa con ra cho những người thợ săn làm họ phải xúc động. Ở California, ông đã thấy một thân cây rỗng đổ xuống đất, trong đó có một người đi ngựa có thể đi được một trăm năm mươi bước. Ông đã thấy ở Maroc những người Mozabites và những người Biskris đánh nhau bằng dùi cui và gậy sắt vì cánh biskris bị gọi là kelb nghĩa là chó, và cánh Mozabites bị gọi là khamsi nghĩa là người thuộc môn phái thứ năm. Ở Trung Quốc, ông đã thấy một tên cướp bị tùng xẻo vì đã giết người trưởng ấp. Tại “Thủ Dầu Một” ông đã thấy một con sư tử[40] bắt một bà già ngay giữa chợ tỉnh. Ông đã được dự một buổi đón con rắn to từ Quảng Đông đến Sài Gòn, để tổ chức tại chùa Chợ Lớn lễ thánh mẫu của những người đi biển. Ông đã được ngắm xem vị Đại Quân Sư tại vùng dân tộc ít người. Tại Rio-Janeiro, ông đã thấy các bà người Braxin tối đến là dắt lên mái tóc những túi vải thưa bé tí, mỗi cái đựng một con vagalumes, một loại đom đóm, như thể là họ đội ngôi sao. Ông đã đánh nhau với những con kiến Uruguay, và ở Paraguay với những con nhện to bằng con chim, có lông, to bằng đầu trẻ con, sải chân chiếm một đường kính rộng đến bốn mươi phân, tấn công cả người, bắn vào người những cái lông như những mũi tên cắm vào da thịt và làm tấy thành mụn nhọt.
Trên sông Arinos, phụ lưu của sông Tocantins, trong những khu rừng hoang ở phía bắc Diamantina, ông đã thấy được dân tộc dơi khủng khiếp, những murcilagos, những con người bẩm sinh tóc bạc, mắt đỏ, sống trong những rừng âm u, ngày ngủ, đêm dậy đi câu, đi săn trong tối, và có thể nhìn thấy rõ hơn khi không có trăng. Gần Beyrouth, tại chỗ cắm trại của một đoàn thám hiểm mà ông được tham gia, có một lều bị mất cắp một chiếc vũ kế, một người phù thủy, đeo hai ba cái dây da giống như người đeo dải quần, đã giận dữ lắc một cái chuông con ở đầu một cái sừng đến nỗi một con linh cẩu phải đem chiếc vũ kế đến trả lại. Con linh cẩu ấy là một mụ ăn cắp. Nhữngcâu chuyện có thật ấy giống chuyện hoang đường quá khiến Déruchette rất thích thú.
Con búp bê của tàu Durande là mối dây liên lạc giữa chiếc tàu và cô gái. Ở các đảo Normand, người ta gọi búp bê là hình chạm ở mũi tàu, gần như một bức tượng gỗ chạm. Do đó, thành ngữ địa phương, nói đứng giữa lái và búp bê tức là đi biển.
Mess Lethierry đặc biệt quí hóa con búp bê của tàu Durande. Ông đã đặt thợ mộc làm nó thật giống Déruchette. Giống nhờ những nhát rìu. Đây là một khúc gỗ cố gắng để thành một cô gái xinh.
Cái khối hơi dị dạng ấy gây ảo tưởng cho Mess Lethierry. Ông nhìn ngắm nó với thái độ chiêm ngưỡng của một tín đồ. Ông rất thành tâm trước cái hình đó. Nhìn nó ông nhận thấy đúng là Déruchette. Tín điều giống sự thật, và thần tượng giống Chúa cũng đại khái như thế.
Mỗi tuần Mess Lethierry có hai niềm vui lớn, một niềm vui vào ngày thứ ba và một niềm vui vào ngày thứ sáu. Niềm vui thứ nhất, thấy tàu Durande ra đi, niềm vui thứ hai, thấy nó trở về. Ông chống cùi tay vào cửa
sổ, nhìn công trình của mình và hả hê sung sướng. Trong sách Sáng-thế ký cũng có một cái gì tương tự thế. Et vidit quod esset bonum[41].
Ngày thứ sáu, việc có mặt của Mess Lethierry ở cửa sổ có giá trị như một dấu hiệu. Khi nào thấy ở cửa sổ nhà Bravées, cái tẩu của ông loé sáng là người ta bảo: A! Chiếc tàu hơi nước đang ở phía chân trời. Làn khói nọ báo tin làn khói kia.
Tàu Durande về đến cảng là buộc cáp dưới cửa sổ của Mess Lethierry, vào một khoanh sắt to gắn trong nền nhà Bravées. Những đêm ấy, Lethierry đánh một giấc ngon lành trên chiếc võng của ông, cảm thấy bên này Déruchette đang ngủ yên và bên kia Durande được buộc kỹ.
Chỗ buộc tàu Durande, khu vực Bravées, ngôi nhà, mảnh vườn, những con đường hẻm có rào giật, và cả phần lớn các ngôi nhà xung quanh, ngày nay không còn nữa. Việc khai thác đá hoa cương của Guernesey đã buộc phải bán những mảnh đất ấy. Toàn bộ địa điểm, vào giờ phút này, đều bị những công trường đá chiếm giữ.
XI
NHÌN QUA NHỮNG ANH CHỒNG CƠ HỘI
Déruchette lớn lên và vẫn không lấy chồng.
Mess Lethierry trong khi tạo cho cô đôi bàn tay trắng, đã làm cho cô sinh ra khó tính. Những lối giáo dục ấy về sau thường phản lại các bạn.
Vả lại, về phía mình, ông còn khó tính hơn. Người chồng mà ông tưởng tượng cho Déruchette cũng phần nào là một người chồng cho Durande. Ông ước sao cùng một lúc kiếm được chồng cho cả hai cô con gái của ông.
Ông những mong sao người dìu dắt cô sau này cũng có thể là hoa tiêu của họ. Chồng là thế nào? Là người thuyền trưởng của một chuyến vượt trùng dương. Tại sao lại không cùng một chủ nhân cho cả cô con gái và chiếc tàu? Một gia đình tuân theo những dòng nước thủy triều. Anh nào biết dẫn dắt một chiếc tàu khắc biết dẫn dắt một người vợ. Đấy là hai nữ thần dân của trăng và của gió. Sier Clubin, kém Mess Lethierry có mười lăm tuổi, chỉ có thể là một người chủ tạm thời của Durande, cần phải có một tay hoa tiêu trẻ, một chủ nhân chính thức, một người kế tục thực sự cho người sáng lập, cho người phát minh, cho người sáng tạo. Người hoa tiêu chính thức của Durande sẽ phần nào là con rể của Mess Lethierry. Tại sao lại không hòa hai anh con rể vào làm một? Ông luôn luôn ôm ấp ý nghĩ ấy. Bản thân ông cũng thấy xuất hiện trong những giấc mộng của ông một vị hôn phu. Một anh chàng coi buồm khỏe mạnh, rám nắng và hung hung, lực sĩ của biển cả, lý tưởng của ông là thế. Đây không phải hoàn toàn là lý tưởng của Déruchette. Cô xây một giấc mộng tươi hồng hơn thế.
Dù sao ông chú và cô cháu cũng dường như thống nhất với nhau về điểm không cần vội vã. Khi thấy Déruchette sắp trở thành một cô thừa kế, các đám đều lũ lượt kéo đến. Những trò sốt sắng ấy không phải lúc nào cũng thuộc loại tốt. Mess Lethierry cảm thấy điều đó. Ông lầu bầu: cô dâu vàng cốm, chú rể đồng thau. Và ông từ chối khéo các chàng trai rấp ranh bắn sẻ. Ông chờ đợi. Cô cũng vậy.
Điểm đặc biệt, ông ít quan tâm đến tầng lớp quí phái. Về mặt này, Mess Lethierry có vẻ không phải là người Anh. Người ta sẽ khó tin rằng ông đã đi đến chỗ thay mặt cho Déruchette từ chối một anh chàng Ganduel ở Jersey, một anh Bugnet-Nicolin ở Serk. Người ta còn dám khẳng định, nhưng chúng tôi ngờ sự việc có thể như thế, rằng ông không nhận một tầng
"""