"
Lam Ngọc - Kerstin Gier PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lam Ngọc - Kerstin Gier PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LAM NGỌC
—★—
Tác giả: Kerstin Gier
Người dịch: Đỗ Phương Thùy Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Văn Học 2015ebook©vctvegroup
Frank,
không có anh, có lẽ em đã không thể làm được điều này
Khúc dạo đầu
London, 14 tháng Năm năm 1602
Những con hẻm của Southwark chìm trong bóng đêm, tối tăm và hiu quạnh. Không khí phảng phất mùi rong rêu, cống rãnh và cá chết. Anh bất giác siết chặt tay cô rồi kéo cô đi tiếp. “Lẽ ra chúng ta cứ đi men theo bờ sông. Trong ngõ ngách hỗn độn này người ta không lạc đường mới lạ,” anh thì thào.
“Đúng thế, và ở mỗi góc tối đều có bọn trộm cướp và sát nhân rình rập.” Giọng cô vang lên thích thú. “Tuyệt quá phải không? Còn tốt hơn ngàn lần so với việc ngồi làm bài tập về nhà trong bốn bức tường ngột ngạt!” Cô vén chiếc váy nặng và vội vã đi tiếp.
Anh bất giác nhếch miệng cười. Lucy quả là có năng khiếu độc nhất vô nhị, lúc nào cũng tìm ra được mặt tích cực của hoàn cảnh. Ngay cả cái gọi là thời hoàng kim của nước Anh đang bị thực tại tăm tối bóc trần vẻ dối trá cũng không khiến cô kinh sợ, ngược lại là đằng khác.
“Tiếc thật, chẳng bao giờ mình có hơn ba tiếng đồng hồ,” cô nói khi anh bắt kịp. “Hamlet chắc sẽ hay hơn nếu không phải xem vào nhiều kỳ.” Cô khéo léo né một vũng bùn kinh tởm, ít nhất thì anh cũng mong đó chỉ là bùn. Rồi cô tung tẩy nhảy vài bước và xoay tròn một vòng. “Lý trí đã biến tất cả chúng ta thành những kẻ nhát gan… tài thật, nhỉ?”
Anh gật đầu, cố kiềm chế để không nhếch mép cười lần nữa. Anh luôn như thế bên Lucy. Nếu không cẩn thận thì trông anh sẽ như một thằng ngớ ngẩn!
Họ đang trên đường tới cầu London. Lẽ ra đi qua cầu Southwark thì tiện hơn, nhưng rủi thay ở thời này nó còn chưa được xây. Nhưng họ phải nhanh chân lên, nếu không muốn cuộc ngang tắt về thế kỷ 17 của mình bại lộ.
Trời ạ, nếu có thể lột phăng cái cổ áo trắng cứng đơ này ra thì giá nào anh cũng trả! Nó đâu khác gì cái vòng nhựa đeo quanh cổ lũ chó sau khi phẫu thuật.
Lucy rẽ sang con phố đâm ra bờ sông. Có vẻ như đầu óc cô vẫn vấn vương với Shakespeare. “Anh phải cho ông ta bao nhiêu để được phép vào Globe Theatre thế, Paul?”
“Bốn đồng xu to, nhưng anh cũng không biết thế là bao nhiêu.” Anh cười. “Có lẽ bằng cả năm tiền lương của hắn.”
“Dù sao cũng đạt mục đích. Chỗ ngồi lý tưởng.”
Họ đi như chạy đến cầu London. Cũng như lúc đến đây, Lucy dừng lại, ngắm nghía những ngôi nhà xây trên cầu, nhưng anh kéo cô đi tiếp. “Em có nhớ lời ông George dặn không: Hễ dừng chân quá lâu dưới cửa sổ thì sẽ bị giội bô lên đầu đấy,” anh nhắc. “Hơn nữa em còn đánh động làm người ta để ý!”
“Không giống như mình đang đứng trên cầu nhỉ, trông chẳng khác gì một con phố bình thường. Ô, anh nhìn kìa, tắc đường! Đã đến lúc họ phải xây thêm vài cây cầu nữa rồi.”
Khác với những ngõ hẻm, trên cầu đông nghịt, song đám xe kéo, võng lọng và xe ngựa đi về phía bờ kia sông Thames không nhích lên được phân nào. Xa xa đằng trước vẳng lại tiếng cười nói, tiếng chửi bới, tiếng ngựa hí, nhưng không ai rõ tại sao lại tắc ứ như vậy. Sát bên họ, một người đội mũ đen ngồi trong xe ngựa thò đầu ra. Cổ áo đăng ten trắng hồ cứng của ông ta uốn cong lên tới tận tai.
“Không có đường nào khác đi qua con sông hôi thối này sao?” Ông ta gọi vống lên với người đánh xe bằng tiếng Pháp.
Gã xà ích lắc đầu. “Kể cả nếu có thì cũng không quay đầu được nữa, ta đang mắc kẹt ở đây! Tôi sẽ chạy lên phía trước xem có chuyện gì. Chắc là sẽ sớm đi tiếp được thôi, thưa ngài.”
Người đàn ông gầm gừ bức bối rồi rụt cái đầu đội mũ cùng chiếc cổ áo vào xe, trong khi xà ích đã trèo xuống, cố len qua đám đông nhốn nháo. “Anh nghe chưa, Paul? Người Pháp,” Lucy thì thào háo hức. “Khách du lịch đấy!”
“Ừ. Hay thật. Nhưng mình phải đi tiếp, không còn nhiều thì giờ nữa.” Anh nhớ mang máng đã từng đọc ở đâu đó rằng sẽ có lúc người ta phá cây
cầu này và xây lại nó ở cách vị trí cũ mười lăm mét. Đây thật không phải một chỗ tốt để vượt thời gian.
Họ bám theo gã đánh xe người Pháp. Nhưng đi được mấy bước thì người và xe chen chúc không làm sao chen qua nổi.
“Nghe đâu có một xe chở dầu bị bắt lửa,” người đàn bà phía trước họ nói bâng quơ. “Không cẩn thận khéo lại thiêu rụi cả cây cầu mất.” “Theo như tôi biết thì không phải là hôm nay,” Paul lẩm bẩm và tóm tay Lucy. “Đi nào, chúng ta sẽ trở ngược lại và đợi vượt thời gian ở bờ bên kia.”
“Anh còn nhớ mật khẩu chứ? Phòng trường hợp chúng ta không tới kịp.”
“Hình như cút đi là vừa thì phải.”
“Gutta cavat lapidem[1], ngốc ạ.” Cô khúc khích cười ngẩng lên nhìn anh. Đôi mắt xanh của cô lấp lánh phấn khích. Anh sực nhớ Falk đã nói gì khi anh hỏi về thời điểm hoàn hảo. “Anh sẽ chẳng phí sức lảm nhảm. Anh cứ hành động thôi. Sau đó có thể cô ấy sẽ cho chú một cái tát và thế là chú hiểu ngay.”
Đương nhiên Falk muốn biết anh ám chỉ ai. Nhưng Paul không mấy hứng thú với những cuộc tranh luận mở đầu bằng “Chú thừa biết những mối quan hệ giữa dòng họ de Villiers và Montrose chỉ nên mang tính công việc!” và kết thúc, “Hơn nữa đám con gái nhà Montrose đều đanh đá, sau này họ đều thành tinh như quý bà Arista cả.”
Đanh đá gì chứ! Các cô Montrose khác thì rất có thể, nhưng Lucy thì chắc chắn không.
Lucy, người mỗi ngày đều khiến anh càng thêm yêu thương, người được anh tin cậy gửi gắm những điều anh chưa từng nói với bất cứ ai. Lucy, người mà…
Anh hít một hơi sâu.
“Sao anh đứng lại?” Lucy hỏi, nhưng anh đã cúi xuống áp môi mình lên môi cô. Suốt ba giây, anh lo sợ sẽ bị cô đẩy ra, nhưng dường như cô đã vượt qua được sự bất ngờ và đáp lại nụ hôn của anh, ban đầu dè dặt, rồi mỗi lúc một nồng nàn hơn.
Thực ra đây không hề là thời điểm hoàn hảo và thực ra họ đang quá vội, vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể vượt thời gian, và thực ra thì… Điều thứ ba thực ra là gì thì Paul quên khuấy. Giờ chỉ có Lucy là tất cả. Nhưng rồi khi ánh mắt lướt qua một bóng người đội mũ tối màu sùm sụp, anh kinh hoàng nhảy lùi lại.
Lucy ngơ ngác nhìn anh một thoáng, rồi cô đỏ mặt cúi gằm xuống chân. “Em xin lỗi,” cô ngượng ngùng lẩm bẩm. “Larry Coleman cũng bảo em hôn giống như xát cả vốc phúc bồn tử gai xanh vào mặt người ta.”
“Phúc bồn tử gai?” Anh lắc đầu. “Mà Larry Coleman là thằng quỷ tha ma bắt nào?”
Giờ thì cô ngơ ngác thực sự và anh cũng chẳng ngạc nhiên. Bằng cách nào đó anh phải cố trấn áp cơn rối loạn đang hoành hành trong đầu. Anh kéo Lucy ra khỏi vầng sáng của những ngọn đuốc, giữ vai và nhìn sâu vào mắt cô. “Nghe này, Lucy. Thứ nhất: Hôn em giống như là… như là… ăn dâu tây. Thứ hai: Anh mà tóm được thằng Larry Coleman đó, anh sẽ đấm dập mũi hắn. Thứ ba: Em hãy nhớ thật kỹ lúc chúng mình dừng lại. Nhưng bây giờ mình đang có một vấn đề nho nhỏ.”
Anh lặng im hất hàm về người đàn ông cao lớn đang ưng dung bước ra từ dưới bóng chiếc xe thồ và cúi xuống bên cửa sổ cỗ xe ngựa của người Pháp nọ.
Lucy tròn mắt khiếp đảm.
“Xin chào, nam tước,” hắn nói bằng tiếng Pháp. Nghe giọng hắn, Lucy bấu chặt tay Paul. “Rất vui được gặp được ngài. Đường từ Flanders tới đây xa thật.” Hắn gạt chiếc mũ trùm đầu xuống.
Trong xe vang lên một tiếng kêu thảng thốt. “Tên bá tước mạo danh! Ngươi làm gì ở đây? Sao lại thế này?”
“Em cũng rất muốn biết,” Lucy thì thầm.
“Ngài chào hỏi hậu duệ của mình như vậy sao?” Người kia vui vẻ đáp. “Dù sao thì ta cũng là cháu nội của cháu nội cháu nội ngài. Và mặc dù ta vẫn thường bị gọi là kẻ vô danh, ta đảm bảo với ngài là ta có tên đàng hoàng. Thậm chí còn nhiều tên là đằng khác. Ngài cho phép ta lên xe hàn huyên chứ? Đứng đây không được thoải mái cho lắm, và cầu còn tắc lâu.” Không cần đợi câu trả lời hoặc ngoái nhìn xung quanh lấy một lần, hắn mở cửa trèo vào xe.
Lucy kéo Paul né sang bên, cách xa ánh đuốc thêm hai bước nữa. “Đúng ông ta đấy! Nhưng trẻ hơn nhiều. Chúng ta nên làm gì bây giờ?” “Không làm gì cả,” Paul thì thầm. “Chúng ta đâu thể tới đó chào hỏi! Đúng ra chúng ta không được phép có mặt ở đây.”
“Nhưng sao ông ấy lại ở đây?”
“Một sự tình cờ ngu xuẩn. Dù thế nào cũng không được để ông ấy nhìn thấy mình. Đi thôi, chúng ta phải tới bờ sông.”
Nhưng không ai nhúc nhích. Cả hai cùng nhìn như bị thôi miên vào ô cửa sổ xe ngựa tối mò, cảm thấy còn hiếu kỳ hơn cả khi nhìn lên sân khấu Globe Theatre ban nãy.
“Trong lần gặp trước, ta đã nói rõ cho ngươi biết ta nghĩ gì về ngươi,” giọng nam tước người Pháp vọng ra từ trong xe.
“Ồ, đúng là ngài đã làm thế thật!” Tiếng cười khẽ của vị khách khiến Paul nổi da gà, dù anh không nói được vì sao.
“Quyết định bất di bất dịch!” Nam tước hơi lạc giọng. “Ta sẽ giao cỗ máy ma quái đó cho bên liên minh, bất kể các ngươi có dùng mưu ma chước quỷ nào để ngăn cản ta. Ta biết ngươi cùng hội cùng thuyền với quỷ dữ.”
“Ông ta nói thế nghĩa là sao?” Lucy thì thầm.
Paul chỉ lắc đầu.
Lại một tiếng cười khẽ vang lên. “Cụ tổ cạn nghĩ và mù quáng của ta ơi! Cuộc đời của ngài - và cả của ta - sẽ thảnh thơi biết bao nếu ngài chịu nghe ta thay vì nghe lão giáo chủ hay những kẻ cuồng tín đáng thương bên liên minh. Giá mà ngài biết dùng trí tuệ thay vì chuỗi tràng hạt, giá mà ngài nhận thức được rằng vai trò của mình còn lớn hơn những gì cha cố của ngài giảng giải.”
Có vẻ như nam tước kia đọc “Kinh Lạy Cha” thay cho câu trả lời. Lucy và Paul chỉ nghe thấy ông ta khẽ lẩm bẩm.
“Amen!” Người khách thở dài. “Vậy đây là lời cuối của ngài về chuyện này?”
“Ngươi là quỷ dữ hiện hình!” Nam tước thốt lên. “Ra khỏi xe ngay và đừng bao giờ xuất hiện trước mắt ta.”
“Tùy ngài thôi. Vậy chỉ còn một việc nhỏ. Lâu nay ta chưa nói ra vì không muốn khiến ngài lo lắng không cần thiết. Nhưng chính mắt ta trông thấy trên mộ ngài ghi ngày mất là 14 tháng Năm năm 1602.” “Nhưng đó là…” Nam tước nói.
“… hôm nay, chính xác. Từ giờ tới nửa đêm cũng không còn dài.” Một tiếng khò khè vang lên từ phía nam tước.
“Ông ấy đang làm gì thế?” Lucy thì thào.
“Ông ấy đang phá vỡ luật lệ của chính mình.” Paul nổi da gà tới tận gáy. “Ông ấy nói về…” Anh ngừng bặt vì cảm giác nôn nao quen thuộc lan truyền trong lòng dạ.
“Xà ích của ta sẽ quay lại ngay,” nam tước nói, giọng lúc này đã lo sợ thực sự.
“Ừ, ta cũng biết thế,” Vị khách đáp khá thờ ơ. “Thế nên ta cũng đang vội đây.”
Lucy áp tay lên bụng. “Paul!”
“Anh biết, anh cũng cảm thấy rồi. Chết tiệt… Phải chạy thôi, nếu không chúng ta sẽ rơi xuống sông mất.” Anh tóm lấy tay cô kéo đi, thận trọng không để lộ mặt về phía cửa sổ xe ngựa.
“Lẽ ra ngài mất tại quê nhà, do một trận cúm đáng ghét biến chứng,” Họ nghe thấy tiếng người khách trong lúc len lén đi qua. “Nhưng hiện giờ ngài lại đang có mặt ở London với sức khỏe dồi dào - nói cho cùng là nhờ những lần thăm hỏi của ta - nên đã có gì đó bị lệch lạc nghiêm trọng. Là con người chu đáo, ta thấy phải có trách nhiệm giúp Thần Chết một tay.”
Paul đang mải quan tâm đến cảm giác nôn nao trong dạ và nhẩm tính xem còn bao nhiêu mét nữa là tới bờ, thế nhưng ý nghĩa của những lời nói kia len lỏi vào tâm thức khiến anh khựng lại.
Lucy khẽ huých vào sườn anh. “Chạy đi!” cô kêu lên rồi vùng chạy. “Chỉ còn vài giây nữa thôi!”
Anh cố nhấc đầu gối bải hoải, và trong lúc chạy, khi bờ sông gần kề bắt đầu nhòe đi trước mắt, anh nghe thấy từ trong xe vọng ra một tiếng thét rùng rợn cố nén, tiếp theo là tiếng khò khè: “Quỷ dữ!” - rồi chỉ còn sự im lặng chết chóc.
Hôm nay, vào lúc 15h, Lucy và Paul phân nhánh hồi khứ về năm 1948. Khi quay trở lại lúc 19h, họ rơi xuống chậu hoa hồng trước cửa sổ Long Điện, trong bộ trang phục của thế kỷ 17 ướt nhoẹt.
Họ có vẻ khá hoảng loạn, nói năng linh tinh, nên dù họ không muốn, tôi vẫn quyết định báo cho huân tước Montrose và ngài Falk de Villiers. Thực ra chuyện rất đơn giản.
Huân tước Montrose còn nhớ rất rõ lề hội hóa trang được tổ chức ngoài vườn vào năm 1948. Trong lễ hội, một số vị khách - gồm có Lucy và Paul - đã ngã xuống hồ cá vàng sau khi quá chén.
Huân tước Lucas đã chịu trách nhiệm về chuyện này và hứa sẽ đền bồi hai khóm hồng Ferdinand Picard và Mrs John Laing bị giập nát. Lucy và Paul bị khiển trách nghiêm khắc, rằng trong tương lai phải tránh xa bia rượu, bất kể ở thời kỳ nào.
Trích Biên niên sử Đội Cận vệ
18 tháng Mười hai năm 1992
Tường thuật bởi: J. Mountjoy, môn sinh đệ nhị
CHƯƠNG 1
“Này các vị, đây là nhà thờ! Không phải chỗ để hôn nhau!” Tôi kinh hãi mở choàng mắt, hấp tấp lùi lại. Cứ ngỡ sẽ phải đối diện với một vị linh mục cổ hủ mặt mày giận dữ tiến đến trong bộ áo lễ lướt thướt, tôi chuẩn bị tư thế sẵn sàng đón bài giáo huấn nghiêm khắc như sấm sét giáng xuống đầu. Nhưng người phá đám nụ hôn của chúng tôi không phải linh mục. Cũng chẳng phải là người. Nó là một con quỷ đá nho nhỏ chễm chệ trên băng ghế nhà thờ ngay cạnh buồng xưng tội. Nó kinh ngạc nhìn tôi hệt như tôi nhìn nó.
Mà khó có thể nói tôi đang kinh ngạc. Chữ kinh ngạc kỳ thực không đủ để miêu tả tâm trạng hiện tại của tôi. Thật lòng mà nói, tôi như vừa trải qua một cú mất ý thức trầm trọng.
Tất cả đều vì nụ hôn này.
Gideon de Villiers vừa hôn tôi - Gwendolyn Shepherd.
Lẽ ra tôi phải tự hỏi vì sao hắn lại đột nhiên nảy ra ý này: trong buồng xưng tội của một nhà thờ nào đó ở Belgravia vào năm 1912, ngay sau một cuộc đào tẩu hụt hơi, vượt qua đủ chướng ngại vật chứ không chỉ có mỗi chiếc váy bó dài tới mắt cá chân với kiểu cổ bẻ lính thủy nực cười.
Tôi có thể phân tích so sánh những lần từng được bọn con trai khác hôn, để biết lý do vì sao Gideon lại hôn tuyệt hơn nhiều.
Tôi cũng có thể bận tâm về bức vách đục ô cửa xưng tội ngăn giữa hai chúng tôi khiến Gideon phải rướn cả hai tay và chui đầu qua, và đó không hề là điều kiện lý tưởng cho việc hôn hít, chưa kể đến việc tôi không muốn cuộc đời tôi thêm rối rắm, sau khi vừa được biết mình thừa kế gien vượt thời gian của dòng họ cách đây ba hôm.
Nhưng trên thực tế thì tôi không nghĩ được gì hết, có chăng chỉ là ôi, hừm và nữa đi!
Vì thế, tôi không để ý thấy cảm giác nôn nao trong dạ, mãi tới khi con quỷ đá nhỏ trên băng ghế nhà thờ khoanh tay trừng mắt nhìn, mãi tới khi mắt tôi chạm tới tấm rèm nhung của buồng xưng tội ban nãy còn xanh mướt giờ đã hóa ra màu nâu tởm lợm, tôi mới nhận ra chúng tôi đã quay trở về thời hiện tại.
“Chết tiệt!” Gideon lùi lại, bối rối gãi gáy.
Chết tiệt? Tôi rơi bịch từ trên chùi tầng mây xuống, quên luôn cả con quỷ đá.
“Tôi thấy cũng có đến nỗi tệ lắm đâu,” tôi cố ra vẻ tỉnh bơ. Tiếc là hơi thở hổn hển của tôi làm giảm ấn tượng ấy. Không thể nhìn thẳng vào mắt Gideon, tôi đành tiếp tục trân trối nhìn tấm rèm nhựa nâu của buồng xưng tội.
Trời ạ! Tôi vượt gần trăm năm thời gian mà không biết gì, vì nụ hôn này đã hoàn toàn, tuyệt đối khiến tôi… sửng sốt. Không sửng sốt sao được khi vừa phút trước còn nghe hắn cằn nhằn này nọ, phút sau đã có mặt trong cuộc rượt đuổi, phải chạy long tóc gáy trước một lũ người mang súng. Rồi đột nhiên - cứ như sét giữa trời quang - nghe hắn bảo mình là một người thật đặc biệt, và còn hôn mình nữa. Và cách Gideon hôn nữa chứ! Lập tức tôi ghen tị với tất cả những con bé đã dạy hắn hôn.
“Không có ai ở đây.” Gideon ngó ra rồi rời khỏi buồng xung tội. “Tốt. Mình sẽ bắt xe buýt trở lại Temple. Đi thôi, chắc họ đang chờ chúng ta.” Tôi nhìn hắn chòng chọc qua tấm rèm. Thế nghĩa là giờ hắn muốn quay lại lịch trình thường nhật? Lẽ ra sau khi hôn (kỳ thực trước đó thì tốt nhất, nhưng giờ thì đã quá muộn) ta cần phải làm rõ vài điều mang tính nguyên tắc chứ nhỉ? Liệu nụ hôn đó đã là một dạng tỏ tình? Tôi và Gideon giờ có phải đã thành đôi? Hay chúng tôi chỉ hôn hít cho vui vì chẳng còn chuyện gì hay ho hơn mà làm?
“Tôi không đi xe buýt trong cái váy này đâu,” tôi kiên quyết, cố đứng lên một cách kiêu sa nhất có thể. Thà cắn đứt lưỡi chứ tôi sẽ không hỏi hắn những câu vừa vọt ra trong đầu.
Chiếc váy tôi mặc làm từ lụa trắng, với mấy chiếc nơ sọc xanh da trời ở eo và cổ, có lẽ là đỉnh cao thời trang của năm 1912 nhưng không thực sự tiện lợi để tham gia giao thông công cộng ở thế kỷ 21. “Mình bắt taxi.”
Gideon quay lại nhìn, nhưng không phản đối. Chắc hắn cũng không nằng nặc đòi đi xe buýt trong chiếc áo đuôi tôm và quần là li thẳng tắp, mặc dù nom hắn rất bảnh, nhất là mái tóc lúc này lòa xòa buông xuống trán thành những lọn rối chứ không còn chải ép sát vào sau tai như hai giờ trước.
Tôi bước ra sảnh chính nơi hắn đang đứng và xuýt xoa vì rét. Trong này lạnh cắt da cắt thịt. Hay tại ba ngày qua tôi gần như không ngủ? Hay tại chuyện vừa mới xảy ra?
Có lẽ trong một quãng thời gian ngắn ngủi vừa rồi, cơ thể tôi đã tiết ra lượng adrenalin còn nhiều hơn cả mười sáu năm trước cộng lại. Quá nhiều chuyện xảy ra mà lại quá ít thời gian để suy ngẫm, khiến đầu óc tôi chỉ chực nổ tung trước vô số thông tin và cảm xúc. Nếu là nhân vật trong truyện tranh, giờ chắc quả bóng thoại chứa dấu hỏi khổng lồ đã lơ lửng trên đầu tôi. Và có lẽ cả vài cái đầu lâu nữa.
Tôi tự động viên mình. Nếu Gideon muốn làm như chưa có chuyện gì đã xảy ra thì cứ việc, tôi cũng chả kém. “Được, thế thì ra khỏi đây thôi,” tôi cao giọng. “Tôi lạnh quá.”
Tôi định chen qua hắn, nhưng hắn níu tay tôi lại. “Em này, về chuyện vừa nãy…” Hắn ngừng nói, có lẽ mong tôi ngắt lời.
Dĩ nhiên là tôi không làm vậy. Tôi thực sự tò mò muốn biết hắn định nói gì. Ngoài ra tôi lại thấy khó thở khi đứng sát người hắn. “Nụ hôn đó… Tôi không…” Lại một câu nửa chừng. Nhưng ngay lập tức tôi đã thầm điền nốt vào chỗ trống.
Tôi không có ý đó.
Ừ, rõ rồi, nhưng nếu vậy thì lẽ ra hắn không nên làm thế, đúng không? Như thế có khác gì châm lửa đốt rèm rồi sau đó ngạc nhiên không hiểu vì sao nhà cháy, (Ừ, so sánh hơi ngu.) Tôi không hề muốn làm dễ cho hắn nên chỉ lạnh lùng nhìn và chờ đợi. Nghĩa là tôi cố tỉnh bơ nhìn hắn và chờ đợi, chứ còn trên thực tế thì có lẽ ánh mắt tôi lại nói rằng Em là Bambi bé bỏng, xin đừng ăn thịt em. Mà tôi lại không thể làm gì khác, chỉ thiếu nước môi dưới run lập bập nữa là đủ bộ.
Tôi không có ý đó. Nào, nói ra đi!
Nhưng Gideon không nói lời nào. Hắn rút một chiếc kẹp tăm ra khỏi mái tóc rối bù của tôi (chắc kiểu tóc cuốn ốc sên phức tạp giờ trông như đã
có đôi chim vào làm tổ), cầm lấy một lọn tóc và cuốn quanh ngón tay. Tay kia khẽ vuốt má tôi. Rồi hắn cúi xuống và hôn tôi lần nữa, lần này rất dè dặt. Tôi nhắm mắt lại - và hệt như lúc nãy: Đầu óc tôi lại có dịp đơ ra, (chỉ còn ôi, hừm và nữa đi!)
Nhưng chỉ được khoảng muôi giây, vì ngay sau đó, một giọng nói bực bội vang lên ngay cạnh bọn tôi: “Lại nữa hả trời?”
Tôi hoảng hốt khẽ đẩy Gideon ra. Mặt con quỷ đá đập thẳng vào mắt tôi. Nó, đúng hơn là hồn ma của nó, đang đung đưa treo ngược người từ tòa giảng.
Gideon buông tóc tôi ra và làm vẻ mặt bàng quan. Ôi trời ơi! Giờ hắn nghĩ thế nào về tôi? Không thể nhận ra điều gì trong đôi mắt xanh lục, ngoài một thoáng xa lạ.
“Tôi… tôi tưởng, tôi nghe thấy tiếng gì,” Tôi lẩm bẩm.
“Thế à,” Hắn hơi dài giọng, nhưng nghe vẫn rất thân thiện. “Cậu nghe thấy tớ,” con quỷ đá nói. “Cậu nghe thấy tớ!” Nó to bằng con mèo, mặt cũng từa tựa mặt mèo. Nhưng ngoài đôi tai linh miêu to nhọn, nó còn có hai cái sừng tròn và đôi cánh nhỏ trên lưng. Đuôi nó phủ vẩy, dài như cái đuôi thằn lằn ngoe nguẩy, chóp đuôi hình tam giác. “Và cậu còn nhìn thấy tớ nữa!”
Tôi không đáp.
“Ta nên đi thì hơn,” Gideon nói.
“Cậu có thể nhìn và nghe thấy tớ!” Con quỷ đá nhỏ kêu lên mừng rỡ, thả người rơi từ đế tòa giảng xuống ghế băng rồi nhảy tưng tưng. Giọng nó khàn khàn như trẻ con tịt mũi. “Tớ biết ngay mà!”
Tuyệt đối không phạm bất cứ sai lầm nào lúc này, không thì tôi sẽ chẳng bao giờ thoát được nó. Tôi bước ra phía cửa nhà thờ, ánh mắt làm bộ thản nhiên lướt qua hàng ghế. Gideon mở cửa cho tôi.
“Cảm ơn nhé, lịch sự thế!” Con quỷ đá cũng luồn ra theo. Tôi hơi nheo mắt trong ánh sáng khi ra đến vỉa hè dù trời nhiều mây, che khuất mặt trời. Tôi đoán lúc này là khoảng chập tối.
“Đợi tớ với, đợi tớ với!” Con quỷ đá giật giật váy tôi. “Chúng ta cần nói chuyện gấp! Kìa, cậu đang giẫm lên chân tớ đấy… Đừng làm ra vẻ không nhìn thấy tớ. Tớ biết là cậu nhìn thấy tớ!” Một tia nước từ miệng
nó bắn ra ướt một vệt nho nhỏ trên đôi ủng cài khuy của tôi. “Ôi, xin lỗi nhé. Tớ hồi hộp quá nên mới thế.”
Tôi ngước nhìn mặt tiền nhà thờ. Có lẽ nó mang phong cách kiến trúc thời Victoria, với nhiều ô cửa kính sặc sỡ và hai ngọn tháp yêu kiều. Những viên gạch mộc xen đều với lớp vữa màu kem tạo nên một đường diềm vui nhộn. Nhưng dù có ngước cao bao nhiêu, tôi cũng không phát hiện ra bất cứ bức tượng hay con quỷ máng xối nào. Kỳ lạ thật, sao hồn ma kia vẫn còn quanh quẩn chốn này.
“Tớ ở đây!” Con quỷ đá quặp móng lên tường ngay trước mũi tôi. Như tất cả những con quỷ khác, nó có thể leo trèo như thằn lằn. Tôi nhìn thẳng vào viên gạch cạnh đầu nó khoảng một giây rồi quay đi.
Giờ thì con quỷ đá không còn dám chắc liệu tôi có nhìn thấy nó. “Ơ kìa, tớ xin cậu đấy,” nó nói. “Nếu được nói chuyện với ai đó khác ngoài hồn ma của ngài Arthur Conan Doyle thì hay quá.”
Con quỷ con ranh thật. Nhưng đừng hòng lừa tôi. Kể cũng tội nghiệp nó, nhưng tôi biết lũ quỷ này có thể gây phiền nhiễu đến mức nào. Hơn nữa nó còn phá đám nụ hôn của tôi. Vì nó mà có lẽ Gideon đang nghĩ rằng tôi chảnh.
“Đi mà, đi mà, điiiiiiii mà!” Con quỷ đá nài nỉ.
Tôi tiếp tục cố hết sức tảng lờ nó. Trời ạ, có Chúa chứng giám, tôi còn cả đống chuyện đang gông vào cổ đây.
Gideon bước ra vệ đường vẫy taxi. Dĩ nhiên là hắn bắt ngay được xe. Có những người luôn gặp may. Hoặc có uy quyền trời cho, như quý bà Arista chẳng hạn. Chỉ cần bà dừng lại bên vệ đường và nhìn một cách nghiêm khắc là taxi đã phanh kít.
“Đi thôi chứ, Gwendolyn?”
“Cậu không thể cứ thế chuồn đi được!” Cái giọng trẻ con khàn khàn nghe rất nức nở, thê lương. “Chúng ta chỉ vừa mới tìm được nhau mà.” Nếu chỉ có một mình, hẳn tôi đã tặc lưỡi nói chuyện với nó. Dù có răng nanh nhọn hoắt và bộ móng vuốt, trông nó vẫn rất đáng yêu. Và hình như nó không có nhiều bạn. (Tôi cá là hồn ma ngài Arthur Conan Doyle có việc khác quan trọng hơn là buôn dưa lê với đám quỷ đá. Mà ông ấy ở London làm gì nhỉ?) Nhưng nếu giao lưu với ma quỷ trước mặt người khác thì may ra người ta sẽ nghĩ là bạn giả vờ hoặc diễn trò, còn thường thì sẽ bị coi là
tâm thần. Tôi không dại gì để Gideon nghĩ mình bị tâm thần. Hơn nữa, lần cuối cùng tôi lỡ miệng bắt chuyện với một con quỷ đá, nó bám tôi nhằng nhẵng đến nỗi tôi còn không thể đi vệ sinh một mình.
Thế là tôi làm mặt lạnh như tiền leo lên taxi, mắt nhìn thẳng. Bên cạnh tôi, Gideon nhìn ra cửa sổ. Tài xế im lặng, dù vẫn nhướng mày ngắm kỹ trang phục của bọn tôi qua gương chiếu hậu. Thật đáng nể.
“Sắp sáu rưỡi,” Gideon cố ra vẻ bâng quơ. “Thảo nào tôi đói ngấu.” Nghe thế, tôi mới nhận ra bụng mình đang đói cồn cào. Lát bánh trong bữa sáng tôi đã không nuốt nổi vì không khí nặng nề bên bàn ăn ở nhà, còn bữa trưa ở trường vẫn khó nuốt như mọi khi. Nhớ đến mấy lát bánh kẹp và bánh nướng ngon lành trong bữa trà của quý bà Tilney tôi vẫn tiếc đứt ruột vì hụt ăn.
Quý bà Tilney! Mãi giờ tôi mới nhớ ra là cần thống nhất với Gideon về cuộc phiêu lưu mạo hiểm năm 1912. Dù sao sự việc cũng đổ bể quá mức cho phép, và tôi không rõ Đội Cận vệ sẽ nghĩ thế nào. Gì chứ cứ liên quan đến sứ mệnh vượt thời gian thì họ không biết đùa. Tôi và Gideon nhận nhiệm vụ trở về quá khứ để lấy máu nhận dạng quý bà Tilney vào máy đồng hồ (cũng phải nói thêm, tôi chưa hiểu rõ lý do vì sao, nhưng có vẻ việc này vô cùng quan trọng; theo những gì tôi biết thì ít nhất cũng quan trọng ngang với cứu rỗi thế giới). Tuy nhiên trước khi bọn tôi kịp hành động thì xuất hiện cô chị họ Lucy và Paul, vốn được coi những kẻ ác trong toàn bộ vụ này. Ít ra là cả nhà Gideo nghĩ vậy, và hắn cũng a dua theo họ. Nghe đâu Lucy và Paul đã lấy cắp chiếc máy đồng hồ thứ nhất và cùng với nó trốn về quá khứ. Từ nhiều năm nay, không ai biết tin gì về họ - cho đến khi họ xuất hiện ở nhà quý bà Tilney và làm đảo lộn bữa tiệc trà nho nhỏ của bọn tôi.
Còn những khẩu súng nhập cuộc từ lúc nào thì tôi đã quên bẵng vì quá sợ. Tôi chỉ biết một lúc nào đó đã thấy Gideon gí vào gáy chị Lucy khẩu súng mà lẽ ra hắn không được phép mang theo (cũng như tôi cũng không được mang theo điện thoại di động, cái thứ dù sao cũng không dùng để bắn chết người được!). Rồi sau đó chúng tôi trốn trong nhà thờ. Tuy nhiên suốt thời gian ấy tôi vẫn cảm thấy chuyện Lucy và Paul không hẳn đã đen trắng rõ ràng như nhà Villiers vẫn khẳng định.
“Mình sẽ nói thế nào về vụ quý bà Tilney?” Tôi hỏi.
“Hừm,” Gideon mệt mỏi day trán. “Ta không cần nói dối, nhưng trong trường hợp này cứ bỏ qua vài chi tiết thì hơn. Tốt nhất là em cứ để mình tôi nói.”
Hắn lại hiện nguyên hình, với cái giọng hách dịch quen thuộc. “Tuân lệnh,” tôi đáp. “Tôi sẽ chỉ gật đầu và ngậm tăm, như nghĩa vụ của lũ con gái.”
Tôi bất giác khoanh tay trước ngực. Sao Gideon lại không thể cư xử như người bình thường lấy một lần? Thoạt tiên hắn hôn tôi (mà không chỉ một lần!) để rồi ngay sau đó lại ra vẻ như đương chức trưởng hội?
Mỗi người chúng tôi cứ thế dán mắt vào ô cửa sổ cạnh mình. Rốt cuộc, Gideon là người phá vỡ sự im lặng, khiến tôi có chút đắc ý. “Có chuyện gì thế, em bị mèo ăn mất lưỡi sao?” Giọng hắn có vẻ ngượng ngùng.
“Sao cơ?”
“Mẹ tôi thường hỏi thế hồi tôi còn bé. Nhất là những khi tôi ngồi trơ khấc như em bây giờ.”
“Anh cũng có mẹ?” Nói xong câu này, tôi mới nhận thấy câu hỏi của mình mới đần làm sao. Ôi Chúa ơi!
Gideon nhướng mày. “Thế em nghĩ sao?” Hắn thích thú hỏi. “Em nghĩ tôi là người máy do bác Falk và ông George lắp ráp hả?”
“Có nói thế cũng không ngoa. Anh còn giữ ảnh hồi bé không?” Hình dung ra em bé Gideon đầu trọc lóc không có sợi tóc nào, mặt bầu bĩnh, má phúng phình, tôi bất giác mỉm cười. “Thế bố mẹ anh giờ ở đâu? Họ cũng ở London?”
Gideon lắc đầu. “Bố tôi mất rồi, còn mẹ tôi hiện sống ở Antibes, miền Nam Pháp.” Hắn mím môi trong giây lát khiến tôi tưởng hắn lại lui về câm lặng. Nhưng rồi hắn nói tiếp: “Cùng em trai tôi và người chồng mới, ông Bertelin Cứ-gọi-chú-là-bố. Ông ấy có một công ty sản xuất các phụ kiện cực nhỏ từ bạch kim và đồng dành cho máy móc điện tử, chắc chắn làm ăn phát đạt lắm: cái du thuyền choáng lộn của ông ấy được đặt tên Crésus.”
Tôi kinh ngạc một cách chân thành. Thường thì Gideon không phải là người tiết lộ nhiều thông tin cá nhân như thế. “Thế à, nhưng nghỉ hè ở đó chắc tuyệt lắm?”
“Tất nhiên,” Hắn mỉa mai. “Bể bơi ở đó lớn gấp ba sân quần vợt, và vòi nước lắp trên cái du thuyền khốn kiếp kia toàn bằng vàng.” “Tôi thấy dù thế nào cũng còn hơn túp lều nông dân không có lò sưởi ở Peebles.” Gia đình tôi chỉ đi nghỉ hè ở Scotland thôi. “Nếu tôi là anh và có gia đình ở miền Nam Pháp thì cuối tuần nào tôi cũng sẽ tới thăm họ. Ngay cả khi họ không có bể bơi hay du thuyền.”
Gideon lắc đầu nhìn tôi. “Thế hả? Vậy em định làm thế nào nếu cứ vài tiếng lại phải nhảy ngược về quá khứ? Sẽ không phải là một trải nghiệm tưng bừng khi đang phóng 150 km giờ trên đường cao tốc.”
“Ừ nhỉ.” Xem ra câu chuyện vượt thời gian này đối với tôi vẫn còn quá mới lạ, và tôi chưa hình dung được mọi hệ quả của nó. Tổng cộng chỉ có mười hai người mang gien vượt thời gian rải qua mọi thế kỷ - chính tôi còn chưa tin nổi mình lại là một trong số đó. Lẽ ra người ấy phải là cô chị họ Charlotte của tôi, người đã dồn hết nhiệt huyết để chuẩn bị nắm vai trò này. Nhưng không hiểu sao mẹ tôi lại tráo đổi ngày sinh của tôi khiến mọi chuyện đảo lộn hết cả. Giống như Gideon, giờ tôi chỉ có hai lựa chọn: Một là nhờ máy đồng hồ hỗ trợ, vượt thời gian một cách có kiểm soát, hai là bất chợt bị bắn về quá khứ bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào. Kinh nghiệm xương máu cho thấy lựa chọn thứ hai không mấy dễ chịu.
“Tất nhiên anh phải cầm theo máy đồng hồ để thỉnh thoảng còn phân nhánh hồi khứ về những thời điểm an toàn,” Tôi nghĩ thành tiếng. Gideon thở phì ngán ngẩm, “Ừ, được thế thì đương nhiên người ta có thể thảnh thơi du hí, được biết thêm vô số di tích lịch sử trên đường. Nhưng bỏ qua chuyện sẽ không ai cho phép tôi khoác ba lô đựng máy đồng hồ đi lang thang – em sẽ làm gì trong lúc thiếu nó?” Hắn nhìn sang cửa sổ bên tôi. “Tại Lucy và Paul nên giờ chỉ còn có mỗi một chiếc này thôi, hay em đã quên rồi?” Lúc nào cũng thế, cứ nhắc đến Lucy và Paul là giọng hắn lại sôi lên.
Tôi nhún vai, mắt lại nhìn ra cửa xe. Chiếc taxi bò như rùa về hướng Picadilly. Thế có ngán không. Đúng lúc tan tầm trong thành phố. Có khi cuốc bộ còn nhanh hơn.
“Xem ra em vẫn chưa ý thức được rằng em không còn nhiều cơ hội để rời khỏi hòn đảo này, Gwendolyn!” Giọng Gideon thoáng chút cay đắng. “Hoặc ra khỏi thành phố. Thay vì đi nghỉ ở Scotland, lẽ ra gia đình nên cho
em được thấy cả thế giới bao la mới phải. Giờ thì đã quá muộn. Em nên chuẩn bị tinh thần đi, giờ thì em chỉ có thể ngắm tất cả những gì em mơ ước qua Google Earth.”
Tài xế taxi lôi một cuốn sách bỏ túi nhàu nhĩ ra, tựa vào lưng ghế rồi thản nhiên đọc. “Nhưng… anh đã từng tới Bỉ, và Paris,” tôi nói. “và từ đó trở về quá khứ để lấy máu của cái ông gì gì ấy, và…”
“Đúng thế,” hắn ngắt lời. “Đi cùng bác tôi, ba lính cận vệ và bà thiết kế trang phục. Một chuyến đi tuyệt vời! Lại còn tới một nước lạ hoắc như Bỉ nữa chứ! Ai mà không từng mơ được du lịch ba ngày tới Bỉ?”
Rúm ró lại trước sự gay gắt đột ngột của hắn, tôi lí nhí: “Vậy anh muốn đi đâu, nếu được phép chọn?”
“Ý em là nếu tôi không vướng phải lời nguyền vượt thời gian? Ôi trời - tôi không biết nên bắt đầu từ đâu. Chile, Brazil, Peru, Costa Rica, Nicaragua, Canada, Alaska, Việt Nam, Úc, New Zealand…” Hắn nhếch miệng cười. “Tóm lại là đi khắp nơi, trừ lên cung trăng. Nhưng chẳng hay ho gì mà nghĩ đến những việc cả đời không làm được. Nên chấp nhận thực tế là cả cuộc đời chúng ta sẽ rất tẻ nhạt vì chẳng được đi đâu.”
“Nếu không tính những lần vượt thời gian.” Tôi chợt đỏ mặt khi nghe hắn nói “đời chúng ta”, nghe có chút gì đó khá… gần gũi. “Thì ít ra cũng phải được đền bù công bằng cho sự kiểm soát và tù túng vĩnh cửu này chứ,” Gideon nói. “Nếu không có những lần vượt thời gian, chắc tôi đã chết vì buồn chán từ lâu. Nghe rất phi lí, nhưng đó là sự thật.” “Tôi thì chỉ cần thỉnh thoảng xem một bộ phim gay cấn là đã đủ căng thẳng thần kinh, thật đấy.”
Tôi nôn nóng dõi theo một người đi xe đạp đang luồn lách qua đám xe cộ ùn tắc. Tôi chỉ muốn về nhà! Dòng xe trước mặt không nhích thêm lấy một phân, còn anh tài xế ham đọc sách lại có vẻ rất thỏa mãn vì thế.
“Gia đình anh ở miền Nam nước Pháp, thế còn anh sống ở đâu?” Tôi hỏi Gideon.
“Tôi mới có căn hộ ở Chelsea. Nhưng thực ra chỉ để tắm và ngủ. Nếu có dịp tới được đó.” Hắn thở dài. Chắc là trong ba ngày vừa rồi hắn cũng ngủ ít như tôi. Có khi còn ít hơn. “Trước đó, tôi sống với nhà bác Falk ở Greenwich, từ năm mười một tuổi. Sau đó mẹ tôi quen cái lão có bộ mặt ngứa đòn và nảy ra ý định rời khỏi nước Anh; Đội Cận vệ tất nhiên phản
đối kịch liệt. Chỉ còn có vài năm nữa là tới cú vượt tự thân đầu tiên, mà tôi thì còn vô số thứ phải học.”
“Thế là mẹ anh để anh lại một mình?” Là mẹ tôi thì tôi chắc bà sẽ chẳng bao giờ nỡ làm thế.
Gideon nhún vai. “Tôi rất quý bác tôi, trừ những khi phải gắn với cái mác hội trưởng thì bác ấy khá ổn. Tôi thấy bác ấy dù gì cũng ngàn lần dễ chịu hơn cái người tôi phải gọi là cha dượng kia.”
“Nhưng…” Tôi thực tình không dám hỏi, nên chỉ dám mấp máy môi, “anh không nhớ mẹ à?”
Lại nhún vai. “Đến tận năm mười lăm tuổi, khi tôi vẫn có thể đi lại an toàn thì dịp nghỉ nào tôi cũng đi thăm mẹ. Và mỗi năm ít nhất mẹ tôi cũng tới London hai lần. Nói là đi thăm tôi, nhưng thực ra là để bà tiêu tiền của lão Bertelin. Mẹ tôi nghiện quần áo, giày dép và trang sức cổ. Và nghiện cả nhà hàng thực dưỡng hạng sao.”
Một bà mẹ y hệt trong truyện tranh! “Thế em trai anh?”
“Raphael ấy à? Nó đã trở thành dân Pháp chính gốc. Nó gọi cái lão mặt nhìn muốn tát kia là bố và sẽ tiếp nhận vương quốc bạch kim đó. Mặc dù hiện giờ cái thằng lười chảy thây ấy chưa chắc đã lấy nổi tấm bằng trung học. Nó để tâm đến bọn con gái hơn sách vở.” Gideon đặt tay lên thành ghế phía sau lưng tôi, ngay lập tức hơi thở của tôi loạn nhịp. “Sao trông em như bị choáng thế? Em thấy thương hại tôi sao?”
“Có đôi chút,” tôi thành thật đáp, trong lòng nghĩ đến cậu bé mười một tuổi phải cô đơn ở lại nước Anh. Giữa những con người đầy bí hiểm bắt cậu học đấu kiếm và vĩ cầm. Và cả mã cầul Bác Falk thậm chí còn không phải bác ruột, chỉ là họ hàng xa của hắn.
Đằng sau vang lên tiếng còi giận dữ. Anh tài xế taxi chỉ ngẩng lên một thoáng để nhích xe đi tiếp, mắt vẫn dán vào sách. Tôi hy vọng chương đó không quá hồi hộp.
Gideon dường như chẳng để ý gì đến ông ta. “Tôi luôn coi bác Falk như cha,” rồi hắn mỉm cười khi nhìn xéo qua tôi. “Thật đấy, em không cần nhìn tôi như nhìn David Copperfield đâu.”
Sao nhỉ? Lý do gì mà tôi phải ví hắn với David Copperfield? Gideon thở dài. “Ý tôi muốn nói đến nhân vật tiểu thuyết của Charles Dickens chứ không ám chỉ nhà ảo thuật. Thỉnh thoảng em có đọc sách
chứ?”
Đấy, lại là hắn, gã Gideon quen thói tinh tướng. Đầu óc tôi tưởng đã rúng động trước sự tin tưởng và thân thiện. Lạ thay, tôi gần như nhẹ người khi lại thấy hắn đáng ghét trở lại. Tôi vênh mặt lên, rồi nhích ra xa hơn một chút. “Tôi thích văn học hiện đại hơn.”
“Thế ư?” Mắt Gideon sáng lên hào hứng. “Ví dụ?”
Hắn đương nhiên không thể biết, nhiều năm nay tôi thường xuyên bị Charlotte tra tấn bằng câu hỏi này với vẻ cao ngạo y hệt. Tôi đọc không ít và tôi luôn sẵn sàng tiếp chuyện. Nhưng Charlotte luôn coi những thứ tôi đọc là “kém giá trị” và “chuyện đàn bà ngớ ngẩn”. Đến một lúc, tôi không còn chịu nổi nữa và lật kèo, phá hỏng hoàn toàn trò vui của cô nàng. Đôi khi người ta phải dùng chiêu gậy ông đập lưng ông. Nhất thiết không được để đối phương nhận ra bất cứ chút do dự nào trong giọng nói, phải khéo léo thoáng nhắc đến ít nhất một nhà văn đang nổi vì có sách bán chạy, tốt nhất là người mình đã thực sự đọc rồi. Còn nữa: một tác giả ngoại quốc càng lạ càng tốt.
Tôi hất cằm nhìn thẳng vào mắt Gideon: “À, ví dụ như tôi rất thích đọc George Matussek, Wally Lamb, Pjotr Selvjeniki, Liisa Tikaanenen. Nhìn chung tôi rất thích các tác giả người Phần Lan, họ có gu hài hước đặc biệt. Tôi đọc hết của Jack August Merrywether, dù tác phẩm cuối của ông ấy khiến tôi hơi thất vọng. Và đương nhiên cả Helen Marundi, Tahuro Yashamoto, Lawrence Delaney, tất nhiên cả Grimphook, Tcherkovsky, Maland, Pitt…”
Gideon sửng sốt ra mặt.
Tôi đảo mắt. “Rudolf Pitt, không phải Brad Pitt.”
Khóe miệng hắn hơi giật giật.
“Mặc dù phải nói là tôi không thích Tuyết Ametit chút nào,” tôi liến thoắng nói tiếp. “Có quá nhiều ẩn dụ nặng nề, anh có thấy vậy không? Khi đọc, tôi cứ có cảm giác như ai đó đã viết hộ ông ấy.”
“Tuyết Ametit?” Gideon nhắc lại và toét miệng cười. “À, ừ, tôi cũng cảm thấy cuốn đó quá nặng nề. Ngược lại, tôi thấy cuốn Cơn lũ hổ phách cực hay.”
Tôi không thể không mỉm cười đáp lại. “Ừ, đúng, với cuốn Cơn lũ hổ phách, ông ấy xứng đáng được nhận giải thưởng văn chương quốc gia của
Áo. Anh thấy Takoshi Maruro thế nào?”
“Những tác phẩm ban đầu thì còn được, nhưng về sau tôi thấy hơi nhàm khi ông ấy cứ xào đi xào lại những ác mộng thời thơ ấu,” Gideon đáp. “Trong các nhà văn Nhật thì tôi thích Yamamoto Kawasaki hơn, hoặc Haruki Murakami hơn.”
Giờ thì tôi bật cười khúc khích không ngừng. “Đúng là Murakami có tồn tại thật!”
“Tôi biết,” Gideon nói. “Charlotte có tặng tôi một cuốn của ông ấy. Nếu lần sau chuyện trò về sách vở, tôi sẽ giới thiệu cho cô ấy cuốn Tuyết Amatit của - tên ông ấy là gì nhỉ?”
“Rudolf Pitt.” Charlotte đã tặng hắn sách? Chị ta thật là, hừm, dễ thương. Không phải ai cũng nghĩ ra được mánh ấy. Và họ còn làm gì với nhau ngoài bàn luận về sách vở? Tâm trạng phấn khích của tôi cứ như bị thổi bay mất tiêu. Làm sao tôi lại có thể ngồi tán chuyện tào lao với Gideon cứ như giữa hai đứa không hề có chuyện gì xảy ra? Trước hết cần phải làm rõ vài điều có tính nguyên tắc đã. Tôi chăm chú nhìn hắn và lấy hơi thật sâu, dù còn chưa biết rõ sẽ hỏi hắn điều gì.
Vì sao anh hôn tôi?
“Chúng ta sắp đến nơi rồi,” Gideon bảo.
Bị cắt ngang dòng suy nghĩ, tôi nhìn qua cửa xe. Đúng thật - trong lúc bọn tôi bốp chát với nhau, người lái xe đã để cuốn sách sang bên và đi tiếp, sắp rẽ vào Crown Office Row ở khu Temple, trụ sở chính của Đội Cận vệ bí mật. Lát sau xe dừng trong một bãi đỗ tư nhân, bên cạnh một chiếc Bentley bóng nhoáng.
“Anh có chắc là được đỗ ở đây?”
“Không sao đâu,” Gideon trấn an và ra khỏi xe. “Không, Gwendolyn, em ngồi yên trong xe, chờ tôi đi lấy tiền,” hắn nói khi tôi định ra theo. “Hãy nhớ: Dù họ hỏi bất cứ điều gì, em để tôi nói. Tôi quay lại ngay.” “Đồng hồ vẫn chạy đấy,” tài xế taxi nhắc nhở.
Tôi và anh ta nhìn Gideon mất hút sau những tòa nhà cổ kính của Temple. Mãi đến lúc này tôi mới nhận ra mình bị bỏ lại để cược tiền taxi. “Cô làm ở nhà hát?” Tài xế hỏi.
“Sao ạ?” Một cái bóng gì phành phạch bay qua trên đầu chúng tôi!
“Tôi chỉ hỏi vì bộ đồ phục trang kỳ dị thôi.”
“Không, ở bảo tàng.” Trên nóc xe có tiếng cào sột soạt lạ tai. Như thể có con chim vừa đậu xuống. Một con chim lớn. “Cái gì thế?” “Gì kia?” Tài xế hỏi.
“Tôi nghĩ là có con quạ hay con gì đó trên nóc xe,” Tôi phấp phỏng hy vọng. Nhưng đương nhiên không có con quạ nào trên nóc xe thò đầu xuống nhòm ngó. Đó là con quỷ đá nhỏ từ Belgravia. Thấy vẻ mặt kinh sợ của tôi, nó nở nụ cười đắc chí trên cái mặt mèo rồi nhổ một ngụm nước lên kính chắn gió.
Không gì cản nổi tình yêu vượt qua tất cả
Cửa hay then đều vô ích
Tình yêu không có khởi đầu
Mãi mãi đập cánh, mãi mãi bay.
MATTHIAS CLAUDIUS (1740-1815)
CHƯƠNG 2
“Ngạc nhiên chưa?” Con quỷ đá kêu lên. Từ lúc tôi ra khỏi xe tới giờ, nó liến thoắng không ngừng. “Không dễ gì trốn được bọn này đâu nhé.” “Được rồi, biết rồi. Cậu nghe đây…” Tôi bối rối ngoái nhìn chiếc taxi. Tôi bảo tài xế mình phải chui ra gấp vì buồn nôn, và lúc này anh ta đang nhìn theo đầy nghi hoặc, kinh ngạc vì thấy tôi lảm nhảm với bức tường. Gideon vẫn mất tăm mất tích.
“Tớ còn biết bay nữa cơ.” Để chứng minh, con quỷ đá xòe cánh. “Bay như dơi. Nhanh hơn bất cứ chiếc taxi nào.”
“Giờ thì nghe đây: Chỉ vì tớ nhìn thấy cậu, không có nghĩa là…” “Nhìn thấy và nghe thấy!” con quỷ đá ngắt lời. “Cậu có biết điều này hiếm lắm không? Người cuối cùng nhìn và nghe được tớ là quý bà Tussaud, nhưng tiếc là bà ấy chẳng đoái hoài gì đến tớ. Bà ấy chỉ toàn vẩy nước thánh vào tớ và cầu nguyện. Quý bà tội nghiệp ấy hơi nhạy cảm.” Nó đảo mắt. “Cậu biết rồi đấy: chừng ấy cái đầu lâu…”
Nó lại nhổ một ngụm nước, ngay trước chân tôi.
“Thôi cái trò ấy đi!”
“Xin lỗi! Chỉ vì tớ hồi hộp quá. Chút hoài niệm về cái thời tớ còn là ống thoát nước.”
Tôi không hy vọng thoát được nó lần nữa, nhưng ít nhất tôi cũng muốn thử. Bằng cách thân thiện. Thế là tôi cúi xuống ngang tầm mắt nó. “Cậu hẳn là một anh chàng dễ thương, nhưng cậu không thể nào ở cạnh tớ! Đời tớ đã đủ phức tạp và thật lòng mà nói, tớ cũng quen quá đủ ma rồi. Vậy cậu làm ơn biến đi cho.”
“Tớ có phải là ma đâu,” Con quỷ đá giận dỗi. “Tớ là quỷ. Hay đúng hơn là phần sót lại của quỷ.”
“Thế thì khác gì?” Tôi tuyệt vọng thốt lên. “Tớ không được phép nhìn thấy ma lẫn quỷ, cậu làm ơn hiểu cho! Quay về nhà thờ của cậu đi.” “Có gì khác à? Lạ thật đấy! Ma chỉ là hình ảnh phản chiếu của người chết mà vì một lý do nào đó không muốn rời bỏ thế gian. Nhưng tớ đã là quỷ từ lúc còn sống. Cậu không thể vơ đũa cả nắm, xếp tớ cùng với lũ ma tầm thường được. Với lại đó không phải là nhà thờ của tớ. Tớ chỉ thích quanh quẩn ở đấy.” Anh tài xế taxi há hốc mồm nhìn tôi. Qua cánh cửa để ngỏ, có lẽ anh ta đã nghe thấy hết - từng từ tôi nói.
Tôi ôm đầu. “Không cần biết. Dù sao thì cậu cũng không thể ở cạnh tớ.”
“Cậu sợ gì?” Con quỷ đá tin cậy tiến lại gần tôi rồi ngoẹo đầu sang một bên. “Giờ làm gì còn trò đưa phù thủy lên giàn thiêu, chỉ vì họ nhìn và biết nhiều hơn những người bình thường.”
“Nhưng giờ người ta sẽ bị tống vào nhà thương điên nếu nói chuyện với ma - à, và với quỷ,” Tôi nói. “Cậu không hiểu là…” Tôi ngừng bặt. Vô ích thôi. Thân thiện cũng chẳng đi tới đâu. Thế nên tôi nhăn mặt và nói lỗ mãng hết cữ. “Chỉ vì tao xui xẻo nhìn thấy mày thì mày cũng còn lâu mới có quyền đòi ở bên tao.”
Con quỷ đá tính queo. “Nhưng cậu lại có quyền ở bên tớ, cô bé may mắn ạ…”
“Nghe một lần cho thủng này: Mày nhiễu lắm! Làm ơn xéo đi cho rảnh nợ!” Tôi quát.
“Không, tớ không xéo! Rồi cậu sẽ hối hận cho xem. Gã bạn trai hôn hít của cậu quay lại rồi kìa.” Nó chu mỏ hôn chùn chụt.
“Ặc, im đi.” Tôi nhìn thấy Gideon vừa rẽ từ góc phố đang sải bước tiến lại. “Biến ngay!” Tôi nghiến răng thốt lên không cần mấp máy môi, như nghệ sĩ nói tiếng bụng. Đương nhiên là con quỷ đá chẳng mảy may động tâm.
“Đừng lên giọng, tiểu thư!” Nó đắc ý. “Hãy luôn ghi nhớ: Gieo nhân nào gặt quả ấy.”
Gideon không đi một mình. Sau lưng hắn lấp ló bóng dáng tròn trịa của ông George. Ông chạy thoăn thoắt mới theo kịp Gideon. Bù lại, từ xa ông đã rạng rỡ nhìn tôi.
Tôi đứng lên, vuốt phẳng váy áo.
“Gwendolyn, ơn Chúa,” Ông George lấy khăn tay thấm mồ hôi trán. “Mọi chuyện ổn cả chứ, cháu bé?”
“Ông béo kia có vẻ hụt hơi quá nhỉ,” Con quỷ đá nói.
“Ổn ạ, ông George. Bọn cháu chỉ bị… ờ… vài vấn đề nho nhỏ.” Gideon đưa mấy bảng Anh cho tài xế taxi, đồng thời nhướng mày cảnh cáo tôi qua nóc taxi.
“… về thời điểm,” Tôi lẩm bẩm, mắt nhìn theo anh tài xế lắc đầu lái xe rời chỗ và đi khuất.
“Ừ, Gideon cũng nói gặp đôi chút trục trặc. Không thể tin được, đâu đó trong hệ thống có lỗi, ta phải phân tích thật kỹ. Có thể phải đổi tư duy. Nhưng quan trọng là các cháu không sao.” Ông George chìa tay ra cho tôi khoác, khá kỳ cục vì ông thấp hơn tôi nửa cái đầu. “Đi nào, cháu gái, còn nhiều việc phải làm nữa.”
“Thực ra cháu muốn được về nhà càng sớm càng tốt,” Tôi nói. Con quỷ đá leo tót lên ống thoát nước, rồi vừa chuyền dọc theo máng nước vừa gân cổ hát “Friends will be friends.”
“Ừ, tất nhiên,” ông George nói. “Nhưng hôm nay cháu mới về quá khứ có ba tiếng. Để chắc ăn cho tới trưa mai, cháu còn phải phân nhánh hồi khứ vài tiếng nữa. Đừng lo, không có gì vất vả đâu. Cháu chỉ cần ngồi làm bài tập trong một căn hầm dễ chịu.”
“Nhưng mẹ cháu chắc đang chờ và lo lắng!” Hôm nay là thứ Tư, theo lệ ở nhà có món gà nướng và khoai tây chiên. Lại còn bồn tắm và giường êm ái đang chờ nữa!
Trong tình cảnh này mà còn bắt tôi ngồi làm bài tập nữa thì thật quá quắt. Lẽ ra phải có ai viết giấy xin phép cho tôi. Gần đây, do ngày nào Gwendolyn cũng phải đảm nhận sứ mệnh vượt thời gian quan trọng, đề nghị từ nay được miễn làm bài tập về nhà.
Con quỷ đá vẫn rống lên trên mái nhà. Phải kiềm chế lắm tôi mới không nhắc nó hát cho đúng. Nhờ Singstar và những chiều karaoke ở nhà Leslie nên tôi thuộc làu cả các bài của Queen, và biết chắc không bài nào nói đến dưa chuột.
“Hai tiếng là đủ,” Gideon lại sải bước dài khiến ông George và tôi chới với không theo kịp. “Sau đó cô ấy có thể về nhà ngủ cho đẫy giấc.”
Ừ
Tôi ghét nghe hắn dùng ngôi thứ ba để nói về tôi khi tôi hiện diện, “Ừ, cô ấy đang mong thế lắm,” Tôi đáp. “Bởi vì cô ấy thực sự quá mệt.” “Chúng ta sẽ gọi điện báo cho mẹ cháu muộn nhất mười giờ sẽ đưa cháu về,” ông George nói.
Mười giờ? Vĩnh biệt gà nướng. Tôi cá là từ lâu trước cái giờ đó, suất gà của tôi đã biến thành nạn nhân của thằng em háu đói.
“When you’re through with life and all hope is lost,” Con quỷ đá hát. Nó vừa bay vừa men theo bờ tường gạch tụt dần xuống, rồi hạ cánh duyên dáng trên nền đá lát bên cạnh tôi.
“Chúng ta sẽ bảo là cháu còn phải học,” Ông George tự nói với chính mình hơn là với tôi. “Còn chuyến trở về năm 1912 thì có lẽ cháu đừng kể gì với mẹ. Mẹ cháu vẫn tưởng cháu phân nhánh hồi khứ về năm 1956.”
Giờ chúng tôi đã đứng trước trụ sở chính của Đội Cận vệ. Từ hàng trăm năm nay, đây là nơi kiểm soát mọi cuộc vượt thời gian. Nghe nói gia tộc Villiers là hậu duệ chính thống của bá tước Saint Germain, một trong những người vượt thời gian nổi tiếng nhất trong hệ nam. Trái lại, nhà Montrose chúng tôi là hệ nữ, và đó là lý do để nhà Villiers chẳng mấy đếm xỉa đến chúng tôi.
Chính bá tước Saint Germain là người phát minh ý tưởng kiểm soát những cuộc vượt thời gian bằng máy đồng hồ, và ông cũng là người đưa ra yêu cầu điên rồ, buộc mười hai người vượt thời gian mặc định phải được nhận diện trong máy đồng hồ.
Cho đến giờ chỉ còn thiếu Lucy, Paul, quý bà Tilney và một bà nữa, một cung phi mà tôi không thể nhớ tên. Bọn tôi cần lấy vài giọt máu của họ.
Câu hỏi tối hậu là: Cụ thể chuyện gì sẽ xảy ra khi nhận diện được tất cả mười hai người mang gien vượt thời gian và khắc nhập huyết hội? Có vẻ như không ai biết rõ điều này. Riêng Đội Cận vệ, mỗi khi nhắc đến bá tước thì đều răm rắp cúi đầu, tệ hơn cả mọi sự tôn thờ mù quáng!
Tôi thì ngược lại, hễ nghĩ đến bá tước là như bị ai bóp nghẹt cổ, bởi lần chạm trán duy nhất với ông ấy trong quá khứ không hề dễ chịu. Ông George thở hổn hển bước lên cầu thang trước tôi. Vóc dáng thấp bé tròn trịa của ông luôn đem lại sự an ủi. Dù sao ông cũng là người duy nhất trong hội khiến tôi tin tưởng đôi chút. Trừ Gideon - mặc dù, không,
không thể gọi đó là tin tưởng. Nhìn từ bên ngoài, tòa hội sở trông không khác gì các tòa nhà phần lớn được dùng làm văn phòng luật sư và nơi ở của các giảng viên Viện Luật học trong mấy ngõ hẹp quanh Temple. Nhưng tôi biết khu này lớn và hoành tráng hơn rất nhiều so với vẻ ngoài khiêm nhường của nó, đặc biệt là diện tích mênh mông ở dưới tầng ngầm.
Gideon giữ tôi lại trước cửa và nghiến răng nói khẽ: “Tôi đã bảo họ là em bị một phen hoảng hồn, nên nếu muốn về nhà sớm thì em hãy làm bộ ngơ ngáo một chút.”
“Tôi tưởng tôi vẫn ngơ ngáo nãy giờ,” tôi lẩm bẩm.
“Mọi người đang chờ các cháu ở Long điện,” ông George thở hổn hển trên hành lang. “Hai cháu cứ đi trước, ta sẽ bảo bà Jenkins đem chút đồ ăn lên. Chắc các cháu đói lắm. Có nguyện vọng gì đặc biệt không?”
Tôi chưa kịp đề nghị thì đã bị Gideon đã tóm tay kéo đi tiếp. “Mỗi thứ càng nhiều càng tốt ạ!” Tôi ngoái qua vai nói với ông George trước khi bị Gideon kéo vọt qua cửa sang lối khác. Khó khăn lắm tôi mới không vấp ngã vì chiếc váy lượt thượt.
Con quỷ đá tung tăng nhảy theo bên cạnh. “Tớ thấy anh bạn hôn hít của cậu không được lịch lãm lắm,” Nó nói. “Ai lại lôi cậu xềnh xệch như kéo dê ra chợ vậy.”
“Đừng vội thế,” Tôi nhắc Gideon.
“Chúng ta càng xong sớm bao nhiêu thì em càng chóng được về nhà bấy nhiêu.” Không rõ hắn chăm chút cho tôi hay chỉ muốn sớm thoát khỏi tôi?
“Vâng, nhưng… anh có từng nghĩ rằng có thể tôi cũng muốn tham gia vào chuyện này? Tôi có hàng đống câu hỏi và đã ngán chuyện ai nấy im lặng không trả lời.”
Gideon hơi chậm bước lại. “Dù thế nào thì hôm nay sẽ không có ai trả lời em đâu - hôm nay họ chỉ muốn biết vì sao Paul và Lucy đón lõng được chúng ta. Xin lỗi, nhưng em vẫn là nghi can lớn nhất của chúng tôi.”
Mấy từ của chúng tôi khiến tim tôi đau nhói, rồi lập tức cảm thấy bị động chạm.
“Tôi mới là người duy nhất không hề biết gì!”
Gideon thở dài. “Tôi đã cố giải thích cho em một lần rồi. Hiện giờ có thể em hoàn toàn không hay biết, và… vô tội, nhưng ai mà biết trong tương
lai em sẽ làm gì. Em đừng quên là khi đó em vẫn có thể trở về quá khứ kể cho Lucy và Paul về việc chúng ta đến.” Hắn ngừng lời. “À, em sẽ có thể kể.”
Tôi ngước mắt. “Anh cũng thế! Mà sao cứ nhất thiết phải là một trong hai chúng ta? Kị Margret Tilney cũng có thể là người để lại tin nhắn trong quá khứ? Hoặc các lính cận vệ? Họ có thể gửi thư qua một trong số những người vượt thời gian, chuyển từ bất cứ thời nào tới thời nào…”
“Hả?” Con quỷ đá nghệt mặt bay trên đầu chúng tôi. “Làm ơn giải thích cho tớ chuyện hai người đang nói được không? Tớ chẳng hiểu gì sất.” “Đương nhiên là có một số khả năng lý giải chuyện này,” Gideon bước chậm bên tôi. “Nhưng hôm nay tôi cảm thấy có vẻ như Paul và Lucy - có thể nói là đã gây ấn tượng đối với em.” Hắn dừng lại, buông tay tôi ra và nghiêm nghị nhìn tôi. “Giả sử không có mặt tôi ở đó, hẳn em đã nói chuyện với họ, đã tin những câu chuyện dối trá của họ, thậm chí em còn có thể tự nguyện hiến máu để họ dùng cho máy đồng hồ đã đánh cắp.” “Không, tôi sẽ không làm chuyện đó,” Tôi phản đối. “Nhưng có lẽ tôi thực sự muốn nghe những gì họ định nói với chúng ta. Tôi không thấy họ có vẻ gì độc ác.”
Gideon gật đầu. “Em thấy chưa, đó chính là điều tôi định nói. Gwendolyn, bọn họ muốn phá đi một bí mật được bảo vệ hàng trăm năm nay. Họ muốn chiếm đoạt thứ vốn không thuộc về mình. Để đạt mục đích ấy, họ chỉ cần lấy được máu của chúng ta thôi. Tôi tin là họ không từ bất cứ thủ đoạn nào để lấy được máu.” Hắn gạt lọn tóc nâu đang buông rủ xuống trán khiến tôi bất giác nghẹt thở. Trời ạ, hắn quá đẹp trai! Đôi mắt xanh màu ngọc lục bảo, viền môi cong và màu da trắng hơi xanh xao ấy - mọi thứ nơi con người hắn đều hoàn hảo. Ngoài ra từ hắn còn tỏa ra một mùi hương dễ chịu khiến tôi thoáng ước ao được vùi đầu vào ngực hắn. Nhưng tất nhiên tôi không làm thế.
“Có lẽ anh quên mất rằng chúng ta cũng muốn lấy máu của họ. Chính anh mới là người gí súng vào đầu Lucy chứ không phải ngược lại,” Tôi nói. “Chị ấy không có vũ khí.”
Một nếp hằn sâu giận dữ xuất hiện giữa hai hàng lông mày của Gideon. “Gwendolyn, em hãy thôi ngây thơ đi. Không rõ tại sao, nhưng chúng ta đã
bị nhử rơi vào ổ phục kích. Lucy và Paul có lực lượng vũ trang hỗ trợ. Ít nhất là bốn chọi một đó!”
“Chọi hai!” Tôi kêu lên. “Tôi cũng có mặt ở đó mà!”
“Năm, nếu tánh cả quý bà Tilney. Nếu không có khẩu súng của tôi thì chắc chúng ta đã chết. Hoặc ít nhất họ đã có thể dùng vũ lực để lấy máu của chúng ta, họ có mặt ở đó chỉ vì mục đích đó. Còn em thì lại muốn nói chuyện với họ?”
Tôi cắn môi.
“Này?” Con quỷ đá nói. “Có ai nghĩ đến tớ không? Tớ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì!”
“Tôi biết em đang hoang mang,” Giọng Gideon tuy dịu đi nhiều nhưng vẫn cao ngạo. “Mấy ngày vừa rồi em đã nếm trải và biết quá nhiều. Mà không hề được chuẩn bị. Làm sao em có thể hiểu nổi những chuyện gì đã xảy ra? Em cần về nhà đi ngủ. Do vậy chúng ta hãy làm nhanh cho xong.” Hắn lại túm tay tôi lôi đi. “Tôi sẽ trình bày và em xác nhận, được chưa?”
“Biết rồi, anh nói câu đó ít nhất đã hai chục lần!” Tôi bực bội đáp và giậm chân trước tấm biển đồng đề chữ “Nữ” trên nền nhà. “Các vị cứ bắt đầu, không cần đợi tôi, tôi muốn đi vệ sinh từ năm 1912 rồi.” Gideon thả tôi ra. “Em tự tìm được đường lên chứ?”
“Tất nhiên,” Tôi đáp, dù không mấy tin vào khả năng định hướng của mình. Ngôi nhà này có quá nhiều ngóc ngách, hành lang, cửa và cầu thang. “Tốt quá! Vậy là thoát được gã chăn dê,” Con quỷ đá nói. “Bây giờ cậu có thể từ từ giải thích cho tớ!”
Tôi đợi cho đến khi Gideon đi khuất rồi mới mở cửa nhà vệ sinh và bảo con quỷ đá: “Nhanh lên, vào trong đi!”
“Cái gì?” Con quỷ đá giận dữ. “Vào nhà vệ sinh? Thật là, tớ thấy việc này có chút…”
“Tớ mặc kệ cậu thấy thế nào. Ở đây không có nhiều nơi để người ta được yên thân nói chuyện với quỷ đâu, mà tớ thì không muốn bị ai chứng kiến! Vào đi.”
Con quỷ đá bịt mũi, miễn cưỡng theo tôi vào nhà vệ sinh. Trong đó thoang thoảng mùi thuốc tẩy trùng và chanh. Tôi liếc qua một lượt bên trong. Không có ai. “Cậu nghe cho rõ đây: tớ biết chắc tớ không dễ gì thoát
được cậu, nhưng nếu muốn ở lại bên cạnh tớ, cậu phải tuân thủ một số điều, rõ chưa?”
“Không được ngoáy mũi, không được chửi bậy, không được dọa chó…” Con quỷ đá ngân nga.
“Cái gì? Không phải, tớ chỉ muốn cậu tôn trọng không gian riêng của tớ. Tớ muốn được ở một mình vào buổi tối và trong phòng tắm. Trong trường hợp có ai đó hôn tớ,” Nói đến đây tôi phải nuốt nước bọt. “thì tớ không muốn bị nhòm ngó, rõ chưa?”
“Ồi giời,” Con quỷ đá bĩu môi. “Phát ngôn này lại đến từ người vừa kéo tớ vào nhà vệ sinh cơ đấy!”
“Thế nào, nhất trí không? Cậu sẽ tôn trọng không gian riêng của tớ?” “Dù thế nào tớ cũng sẽ không nhìn trộm cậu khi tắm hoặc - kinh quá, trời phật phù hộ cho con - khi hôn,” Con quỷ đá nhấn mạnh. “Chuyện này cậu không cần phải lo. Bình thường tớ cũng không thích xem người khác ngủ. Không ngáy phì phò thì cũng nhỏ dãi, lại còn cả những chuyện tớ không muốn nhắc đến…”
“Ngoài ra cậu cũng không được ngắt lời tớ lúc ở trường hoặc khi tớ đang nói chuyện với ai đó - và làm ơn: Nếu muốn hát thì cũng đừng hát trước mặt tớ!”
“Tớ còn biết bắt chước tiếng kèn đồng rất siêu,” Con quỷ đá nói. “Hoặc tiếng tù và. Cậu có nuôi chó không?”
“Không!” Tôi hít một hơi thật sâu. Chắc phải có thần kinh thép mới đối phó được nó.
“Cậu mua cho tớ một con nhé? Không thì mèo cũng được. Nhưng chúng nó rất tinh tướng và khó chọc tức. Một số loài chim cũng có thể nhìn thấy tớ. Cậu có nuôi chim không?”
“Bà ngoại tớ ghét nuôi thú trong nhà,” Cố gắng lắm tôi mới không bồi thêm là có lẽ bà ghét cả thú nuôi tàng hình. “Nào, chúng ta hãy bắt đầu lại: Tên tớ là Gwendolyn Shepherd. Rất vui được làm quen với cậu.”
“Xemerius,” Con quỷ đá hớn hở đáp. “Vô cùng hân hạnh.” Nó trèo lên bồn rửa mặt rồi nhìn sâu vào mắt tôi. “Thật đấy! Rất, rất hân hạnh! Cậu mua mèo cho tớ nhé?”
“Không. Còn giờ thì ra ngoài, tớ phải đi vệ sinh thật!”
“Úi.” Xemerius cuống quýt vọt ra không cần mở cửa. Ra đến hành lang nó lại ngân nga bài “Friends will be friends.”
Tôi ở trong nhà vệ sinh lâu hơn cần thiết. Tôi rửa tay thật kỹ và vỗ nước lạnh lên mặt, hy vọng đầu óc có thể tỉnh táo lại. Dẫu thế, tôi vẫn không tài nào chặn đứng những ý nghĩ đang quay cuồng trong não. Tấm gương phản chiếu mớ tóc như vừa có đàn quạ chui vào làm tổ, tôi lùa tay vào cái đám rối bù cố cào cho thẳng và ra sức tự động viên. Nếu là Leslie, hẳn nó cũng sẽ làm thế.
“Chỉ vài tiếng đồng hồ nữa là xong thôi, Gwendolyn. Nhưng mà này, dù mệt rũ và đói ngấu, trông mày cũng đâu có tệ.”
Bóng người trong gương mở to đôi mắt thâm quầng mất ngủ nhìn tôi trách móc.
“Ờ, có chút bốc phét thật,” Tôi thừa nhận. “Trông mày kinh quá. Nhưng đã có lúc trông mày còn tệ hơn nhiều. Như hồi bị thủy đậu ấy. Nên là hãy ngẩng cao đầu lên! Mày sẽ làm được.”
Ngoài hành lang, Xemerius treo lủng lẳng như con dơi trên chiếc đèn chùm. “Ở đây hơi rùng rợn,” Nó nhận xét. “Ban nãy vừa có một Hiệp sĩ Đền thánh một tay đi qua, cậu có quen hắn không?”
“Không,” Tôi bảo. “May mà không. Đi nào, chúng ta phải theo lối này.” “Cậu giải thích cho tớ về vượt thời gian chứ?”
“Chính tớ còn chưa hiểu.”
“Cậu mua mèo cho tớ nhé?”
“Không.”
“Nhưng tớ biết chỗ cho không mèo đấy. Ôi, trong bộ áo giáp kia có người.”
Tôi lén nhìn bộ áo giáp. Đúng thật, một đôi mắt lóe lên sau chiếc mặt nạ. Chính là bộ áo giáp mà hôm qua tôi còn hứng chí gõ gõ vào vai nó, vì cứ chắc mẩm đó chỉ là món đồ trang trí.
Mới vừa hôm qua mà cứ ngỡ như đã hàng năm trước.
Trước cửa Long điện, tôi gặp thư ký Jenkins. Bà đang khệ nệ bưng khay nên rất cảm kích khi tôi mở cửa giúp.
“Tạm thời chỉ có trà và bánh quy, cháu yêu,” Bà mỉm cười xin lỗi. “Bà Mallory đã về nhà từ lâu, để bác vào bếp xem còn có thể làm được món gì
cho bọn trẻ đói ngấu đây.”
Tuy ngoan ngoãn gật đầu nhưng tôi biết chắc, nếu dỏng tai lên, chắc chắn người ta sẽ nghe thấy dạ dày tôi đang gào lên: “Bác gọi tạm món gì ở quán Tàu đi!”
Mọi người đã chờ sẵn trong phòng: Bác Falk của Gideon, với đôi mắt màu hổ phách và mái tóc muối tiêu luôn làm tôi nghĩ đến chó sói. Bác sĩ White thẳng đơ trong bộ complet đen muôn thuở và ánh mắt cau có, và - ngạc nhiên chưa - thầy Whitman dạy Anh văn và Sử của tôi, còn gọi là thầy Sóc. Ngay lập tức tôi thấy ngại ngùng gấp đôi, hai tay bất giác luống cuống mân mê dải nơ váy xanh lơ. Sáng nay thầy Whitman vừa bắt quả tang tôi với Leslie trốn học và đã xạc cho cả hai đứa một trận. Ngoài ra thầy còn tịch thu toàn bộ tài liệu tra cứu của Leslie. Xưa nay chúng tôi vẫn đoán thầy ở trong nhóm nội vụ của Đội Cận vệ, điều ấy nay đã được chứng thực.
“Cháu đây rồi, Gwendolyn,” Ông Falk vui vẻ cất tiếng nhưng không mỉm cười. Trông ông rất giống người cần cạo râu gấp, hoặc ông là kiểu người sớm tinh mơ cạo râu chiều tối râu đã tua tủa như mọc được ba hôm. Cũng có thể vì quầng râu quanh miệng nên nom ông đầy căng thẳng và có vẻ nghiêm nghị hơn hôm qua hoặc lúc ban trưa. Sói đầu đàn đang nóng ruột.
ít nhất thầy Whitman cũng nháy mắt chào, còn bác sĩ White thì lẩm bẩm gì đó không rõ, tôi nghe loáng thoáng có “đàn bà” và “đúng giờ”. Như mọi khi, bên cạnh bác sĩ White là hồn ma cậu Robert tóc vàng, có lẽ là người duy nhất vui mừng khi gặp tôi vì nó toét miệng cười. Robert là con trai của bác sĩ White. Năm lên 7, nó chết đuối dưới bể bơi và biến thành ma, cứ luẩn quẩn bám chân bố từ đó đến giờ. Tất nhiên ngoài tôi ra không ai nhìn thấy nó, và do bác sĩ White luôn có mặt nên tôi vẫn chưa kịp trò chuyện đàng hoàng với nó. Tôi muốn biết vì sao linh hồn nó cứ mãi quanh quẩn trên trái đất này.
Gideon khoanh tay trước ngực, tựa vào bức tường chạm trổ nhiều hình điêu khắc tinh xảo. Ánh mắt hắn chỉ lướt qua tôi rồi dừng lại ở khay bánh của bà Jenkins. Hy vọng bụng hắn cũng đang sôi réo như bụng tôi.
Xemerius chui vào phòng trước tôi và ngó quanh đầy thán phục. “Trời đất quỷ thần ơi,” Nó thảng thốt, “túp lều này không tệ chút nào.” Nó đi dạo
một vòng, chiêm ngưỡng những hình điêu khắc tinh xảo mà chính tôi nhìn mãi không chán. Tôi đặc biệt thích nàng tiên cá bơi phía trên ghế sofa. Từng chiếc vảy được tỉa tót tỉ mỉ, vây của nàng lấp lánh đủ sắc xanh. Nhưng cái tên Long điện lại có từ con rồng khổng lồ uốn quanh những chùm đèn trên trần nhà. Con rồng đó sống động như thể sẵn sàng tung cánh bay vút đi bất cứ lúc nào.
Trông thấy Xemerius, hồn ma cậu bé tròn mắt kinh ngạc rồi trốn vội ra sau chân bác sĩ White.
Tôi rất muốn bảo nó: “Cậu ấy không làm gì đâu, cậu ấy chỉ muốn chơi đùa thôi.” (hy vọng là đúng thế). Nhưng nói chuyện với ma về quỷ trước mặt cả đống người không nhìn thấy cả ma lẫn quỷ thì không nên tí nào.
“Để tôi vào bếp xem còn đồ ăn gì khác không,” Bà Jenkins nói. “Lẽ ra bà xong việc từ lâu, bà Jenkins,” Ông Falk nói. “Gần đây bà phải làm thêm giờ nhiều quá.”
“Đúng thế, bà về đi,” Bác sĩ White đuổi. “Ở đây không ai chết đói đâu.”
Có đấy, có tôi! Tôi đảm bảo Gideon cũng đang nghĩ y hệt. Khi ánh mắt bọn tôi giao nhau, hắn mỉm cười.
“Nhưng bánh quy không phải là bữa tối lành mạnh cho bọn trẻ,” Bà Jenkins nói, nhưng rất khẽ. Đương nhiên tôi và Gideon không còn là trẻ con, nhưng chúng tôi vẫn có quyền được ăn tối đàng hoàng. Tiếc thay chỉ có bà Jenkins cùng chung ý nghĩ với tôi, mà bà thì chẳng có quyền hành gì. Ra tới cửa, bà vấp phải ông George vẫn thở hổn hển và còn khệ nệ khuân thêm hai cuốn sách bìa da nặng trịch.
“A, bà Jenkins,” ông chào. “Cảm ơn bà đã đem trà. Bà khóa cửa văn phòng rồi về đi thôi.”
Bà Jenkins nhăn mặt bất bình nhưng vẫn lịch sự đáp: “Sáng mai gặp lại.”
Ông George sập cửa lại sau lưng bà, đặt hai cuốn sách dầy cộp lên bàn. “Tôi đây. Chúng ta bắt đầu thôi. Chỉ với bốn thành viên trong Bộ Nội vụ thì chúng ta không có quyền ra quyết định, nhưng mai họ sẽ tới gần đủ. Sinclair và Hawkins vắng mặt như đã biết, cả hai đều giao quyền bỏ phiếu cho tôi. Còn hôm nay chỉ cần xác định hướng hành động chính.”
“Tốt nhất chúng ta cứ ngồi xuống đã.” Ông Falk chỉ vào những chiếc ghế xếp quanh cái bàn bên dưới hình con rồng điêu khắc. Mọi người vào chỗ.
Gideon vắt cái áo đuôi tôm lên thành ghế hơi chếch chỗ tôi rồi xắn tay sơ mi lên. “Cháu nhắc lại: Gwendolyn không nên có mặt trong cuộc họp này. Cô ấy rất mệt và hoang mang. Để cô ấy phân nhánh hồi khứ rồi về nhà thôi.”
Và trước đó, các người làm ơn đặt cho tôi một chiếc pizza, thêm thật nhiều phô mai.
“Đừng lo, Gwendolyn chỉ cần trình bày ngắn gọn những ấn tượng của mình,” Ông George bảo. “Sau đó tự tôi sẽ đem con bé xuống chỗ máy đồng hồ.”
“Tôi không thấy con bé có vẻ gì hoang mang cả,” bác sĩ White vận đồ đen lẩm bẩm. Hồn ma Robert đứng phía sau lưng ghế bố tò mò nhìn Xemerius đang loay hoay trên sofa.
“Cái gì thế kia?” Nó hỏi tôi.
Tất nhiên tôi không nói gì.
“Tớ không phải là cái gì. Tớ là bạn thân của Gwendolyn,” Xemerius đáp thay tôi và thè lưỡi trêu: “Thậm chí còn là bạn thân nhất. Cô ấy sẽ mua chó cho tớ.”
Tôi trừng mắt nhìn chiếc ghế sofa.
“Điều bất khả đã xảy ra,” Ông Falk nói. “Gwendolyn và Gideon tới gặp quý bà Tilney, hai đứa đã bị đón lõng. Tất cả những người có mặt ở đây đều có thể chứng nhận là chúng ta chọn thời gian và địa điểm cho cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn tình cờ. Mặc dù vậy, Lucy và Paul đã chờ sẵn hai đứa. Không thể là ngẫu nhiên được.”
“Như vậy nghĩa là có ai đó đã báo cho họ về cuộc gặp này,” Ông George lật một cuốn sách bìa da. “Vấn đề chỉ là: ai.”
“Khi nào thì đúng hơn,” Bác sĩ White đưa mắt nhìn tôi.
“Và vì mục đích gì,” Tôi nói.
Gideon lập tức nhíu mày. “Mục đích gì thì đã quá rõ. Họ cần máu của chúng ta để nhận diện bằng máy đồng hồ bị đánh cắp. Chính vì thế nên họ cũng đem theo viện trợ.”
“Trong biên niên sử không hề ghi dòng nào về lần thăm hỏi này của các cháu,” ông George nói. “Mặc dù hai đứa tiếp xúc với ít nhất ba lính cận vệ, chưa kể đến toán lính canh trên các cầu thang. Các cháu có nhớ tên họ không?”
“Người thư ký thứ nhất đích thân ra đón bọn cháu.” Gideon gạt lọn tóc trên trán. “Hình như tên là Burghes. Hắn bảo hắn đang chờ hai anh em Jonathan và Timothy de Villiers tới phân nhánh hồi khứ vào chập tối, còn quý bà Tilney đã xong từ sáng sớm. Gã đánh xe chở bọn cháu tới Belgravia tên là Winsley. Lẽ ra hắn phải đứng đợi trước cửa, nhưng khi bọn cháu ra khỏi nhà thì cỗ xe đã biến mất. Bọn cháu buộc phải chạy trốn và đợi vượt thời gian ở chỗ ẩn náu.”
Nhớ đến khoảng thời gian trong chỗ trốn tôi vụt đỏ mặt. Tôi vớ vội một miếng bánh và để tóc xòa xuống che mặt.
“Bản báo cáo ngày hôm đó do một cận vệ thuộc Bộ Nội vụ viết, một Frank Mine nào đó. Chỉ có vài dòng về thời tiết, về cuộc biểu tình đòi quyền bầu cử của phụ nữ trong thành phố, về việc quý bà Tilney có mặt đúng giờ để phân nhánh hồi khứ. Không có gì đặc biệt. Không nhắc đến cặp song sinh nhà Villiers, nhưng trong những năm đó, họ đã là thành viên của Bộ Nội vụ.” Ông George thở dài gập sách lại. “Thật kỳ quặc. Tất cả những điều này đều cho thấy có sự phản bội trong nội bộ.”
“Và câu hỏi quan trọng nhất vẫn là: Vì sao Lucy và Paul lại biết được hai đứa sẽ có mặt ở chỗ quý bà Tilney vào ngày đó, giờ đó?” Thầy Whitman nói.
“Phù,” Xemerius trên sofa thốt lên. “Nhiều tên quá, loạn hết cả đầu.” “Lý do vì sao thì đã quá rõ,” Bác sĩ White lại nhìn tôi chằm chằm. Tất cả trầm ngâm cau có, kể cả tôi. Tôi không làm gì, nhưng rõ ràng tất
cả đều cho rằng một lúc nào đó trong tương lai, tôi sẽ nảy ra ý định báo cho Paul và Lucy thời điểm chúng tôi đến thăm quý bà Tilney - không cần biết lý do vì sao. Mọi thứ rối tinh rối mù, càng nghĩ về chuyện này bao nhiêu, tôi càng thấy nó phi lý bấy nhiêu. Đột nhiên tôi thấy mình thật cô độc.
“Các người là một lũ dân đồng bóng hay sao?” Xemerius nhảy khỏi ghế sofa rồi treo lộn đầu dưới chiếc đèn chùm khổng lồ. “Vượt thời gian - là gì? Tuy đã trải qua nhiều chuyện, nhưng đây là chuyện hoàn toàn mới đối với cả tớ.”
“Có một chuyện cháu không hiểu,” Tôi nói. “Ông George, sao ông lại nghĩ trong biên niên sử sẽ có ghi chép gì về lần tới thăm này của bọn cháu? Ý cháu là, giả sử trong đó có ghi gì thì ông đã có thể biết trước là hôm nay bọn cháu sẽ tới đó và sẽ xảy ra chuyện gì. Hay giống như trong phim với Ashton Kutcher? Mỗi khi có ai trong chúng ta trở về từ quá khứ thì toàn bộ tương lai cũng thay đổi theo?”
“Đó là một câu hỏi rất thú vị và đầy tính triết học, Gwendolyn,” Thầy Whitman nói, như thể đang trong tiết học. “Tuy thầy không biết bộ phim mà em vừa nhắc đến, nhưng đúng là theo định luật logic thì chỉ cần một thay đổi nhỏ xíu trong quá khứ cũng có thể tác động rất nhiều đến tương lai. Trong một truyện ngắn của Ray Bradbury…”
“Có lẽ chúng ta nên hoãn cuộc tranh luận triết học này sang lúc khác,” Ông Falk ngắt lời. “Ta muốn nghe chi tiết về vụ phục kích ở nhà quý bà Tilney, và làm sao hai đứa thoát được.”
Tôi nhìn Gideon. Hắn cứ việc vẽ ra một câu chuyện không có khẩu súng. Tôi lấy thêm một cái bánh quy.
“Bọn cháu gặp may,” Giọng Gideon vẫn điềm tĩnh như trước. “Cháu nhận thấy ngay có điều gì không ổn. Quý bà Tilney có vẻ như không hề ngạc nhiên khi thấy bọn cháu. Bàn đã bày sẵn đồ ăn. Lúc Paul và Lucy xuất hiện, rồi gã quản gia đứng chặn cửa, cháu và Gwendolyn chạy qua phòng bên cạnh và trốn bằng cầu thang dành cho người hầu. Cỗ xe đã biến mất nên bọn cháu phải chạy bộ.” Xem ra hắn biết nói dối rất trơn tru. Không hề đỏ mặt hay chớp mắt, không cố ngước nhìn lên hay run giọng. Mặc dù thế, tôi vẫn thấy câu chuyện của hắn thiếu thứ gì đó khả dĩ khiến người ta tin.
“Kỳ quái thật,” Bác sĩ White nói. “Nếu định gài bẫy thật thì họ đã trang bị vũ khí và chặn mọi đường trốn của hai đứa.”
“Đầu tớ bắt đầu quay cuồng,” Xemerius lại từ sofa chõ xuống. “Tớ ghét những động từ đảo ngược, dùng giả định thức để trộn tương lai và quá khứ.”
Tôi nhìn Gideon chờ đợi. Giờ thì hắn phải nghĩ ra lý do gì đó để biện hộ cho phiên bản không súng của hắn.
“Đơn giản là họ đã bị bọn cháu làm bất ngờ,” Gideon nói.
“Hừm,” Ông Falk nói. Nét mặt của những người khác cũng không mấy thuyết phục. Đương nhiên! Gideon đã làm hỏng chuyện! Nếu đã định nói dối thì người ta phải vẽ ra đủ chi tiết rối rắm mà chẳng ai thèm bận tâm.
“Bọn cháu rất nhanh,” Tôi nói vội. “Cầu thang dành cho người hầu hẳn vừa được đánh xi. Đúng hơn là cháu trượt một lèo chứ không phải chạy xuống. Nếu không bám chặt tay vịn thì chắc cháu đã ngã gãy cổ ở năm 1912. Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu người ta chết trong lúc vượt thời gian ạ? Cái xác có tự quay về hiện tại được không? Hừm, dù sao bọn cháu cũng đã gặp may, cửa dưới để ngỏ vì một cô hầu gái vừa xách giỏ đi chợ về. Một cô tóc vàng béo tốt. Cháu cứ tưởng Gideon sẽ va vào cô ta. Một giỏ toàn trứng, suýt nữa thành bãi chiến trường kinh khủng. Nhưng bọn cháu kịp tránh cô ta rồi chạy ra phố. Ngón chân cháu phồng rộp cả lên.”
Gideon tựa vào lưng ghế, khoanh tay trước ngực. Tôi không giải mã được ánh mắt hắn nhưng nom có vẻ như hắn không định khen ngợi hay có chút biết ơn nào.
“Lần sau cháu sẽ đi giày thể thao,” Tôi nói trong sự im lặng bốn bề. Và nhón thêm chiếc bánh. Ngoài tôi ra, chẳng ai ăn.
“Tôi có một giả thiết,” Thầy Whitman từ tốn lên tiếng, mân mê chiếc nhẫn triện trên bàn tay phải. “Và càng nghĩ về chuyện này tôi lại càng chắc là giả thiết của tôi đúng. Nếu…”
“Dần dần cháu quá chán vì cứ phải nhắc đi nhắc lại. Nhưng cô ấy không nên có mặt trong cuộc họp này,” Gideon nói. Cơn nhói trong tim tôi trở nên tệ hại hơn. Giờ thì tôi không còn thấy bị tổn thương - mà tức lộn ruột.
“Cậu ấy nói đúng đấy,” Bác sĩ White đồng tình. “Sẽ là nông nổi khi để con bé tham gia vào những cuộc bàn luận của chúng ta.”
“Nhưng chúng ta cần ký ức của Gwendolyn,” Ông George nói. “Mỗi ký ức dù nhỏ nhặt về trang phục, lời nói và diện mạo đều có thể đem lại những đầu mối quan trọng về thời điểm xuất phát của Paul và Lucy.”
“Mấy chuyện đó thì mai hoặc ngày kia con bé vẫn còn nhớ,” Ông Falk nói. “Tôi nghĩ tốt nhất anh dẫn con bé xuống dưới phân nhánh hồi khứ đi, Thomas.”
Ông George im lặng khoanh tay trước cái bụng phệ.
“Tôi sẽ đi cùng Gwendolyn về… tới chỗ máy đồng hồ và giám sát cú vượt lần này,” Thầy Whitman đẩy ghế ra sau.
“Tốt,” Ông Falk gật đầu. “Hai tiếng là quá đủ. Cứ để một môn sinh chờ con bé quay trở lại, chúng tôi cần anh ở trên này.”
Tôi ngước nhìn ông George dò hỏi. Ông chỉ ngán ngẩm nhún vai. “Đi nào, Gwendolyn.” Thầy Whitman đứng bật dậy. “Càng xong sớm bao nhiêu thì em càng được đi ngủ sớm bấy nhiêu. Như thế thì mai em mới tập trung học được. Ngoài ra tôi còn đang sốt ruột đợi bài luận về Shakespeare của em.”
Ôi trời. Thần kinh lão này đúng là bằng thép! Bây giờ mà còn nhớ đến Shakespeare được!
Tôi đắn đo suy tính liệu có nên phản đối, nhưng nhanh chóng quyết định thôi. Nói cho cùng thì tôi cũng không còn muốn theo dõi cuộc tán nhảm ngớ ngẩn này lâu hơn nữa. Tôi muốn về nhà, muốn quên hết chuyện vượt thời gian và cả Gideon nữa. Cứ để họ loay hoay với những bí mật trong căn phòng dớ dẩn này cho tới khi lăn ra vì mệt. Nhất là Gideon. Cùng với cơn ác mộng tiếp theo!
Xemerius nói đúng: Lũ đồng bóng.
Bực một nỗi tôi vẫn phải quay sang nhìn Gideon và nghĩ một điều ngu xuẩn như Chỉ cần hắn mỉm cười, mình sẽ tha thứ hết.
Tất nhiên hắn không mỉm cười. Thay vào đó, hắn dửng dưng nhìn tôi, khó đoán được trong đầu hắn đang nghĩ gì. Trong khoảnh khắc, hình ảnh bọn tôi hôn nhau bỗng lùi xa vạn dặm. Không hiểu sao tôi liên tưởng đến những vần vè vớ vẩn mà Cynthia Dale, cô nàng giải mã thơ tình của lớp, thường ngân nga: “Này em, con ếch xanh, không chút tình mong manh…”
“Chúc ngủ ngon,” Tôi nghiêm trang.
“Chúc ngủ ngon,” Tất cả lẩm bẩm. Trừ Gideon. Hắn nói: “Thầy Whitman, thầy đừng quên bịt mắt cô ấy.”
Ông George bực bội thở phì qua mũi. Lúc thầy Whitman mở cửa đẩy tôi ra hành lang, tôi còn kịp nghe thấy tiếng ông George: “Các vị có nghĩ là chính cách cư xử kỳ thị này có khi lại là lý do để có thể xảy ra những sự kiện như chúng sẽ xảy ra trong tương lai không?” Tôi không biết có ai đáp lời ông ấy hay không, vì cánh cửa nặng nề khép lại ngay, cắt đứt mọi âm thanh bên trong.
Xemerius lấy chóp đuôi gãi đầu. “Đây là cái hội kỳ quái nhất mà tớ từng gặp!”
“Em đừng để tâm quá mức, Gwendolyn,” Thầy Whitman nói. Thầy rút chiếc khăn đen trong túi và giơ ra trước mũi tôi.
“Em mới nhập cuộc chơi. Ẩn số lớn trong phương trình.” Tôi còn biết nói gì đây? Đối với tôi, mọi thứ đều mới! Ba ngày trước, tôi không hề biết tới sự tồn tại của Đội Cận vệ. Ba ngày trước, cuộc sống của tôi vẫn hoàn toàn bình thường. À, nói chung là thế. “Thầy Whitman, trước khi thầy bịt mắt em… chúng ta có thể ghé qua xưởng may của Madame Rossini để lấy đồ của em được không? Em đã để hai bộ đồng phục ở đó, em cần có thứ để mặc cho ngày mai. Cả cặp sách của em nữa.” “Tất nhiên rồi.” Thầy Whitman vừa đi vừa vui vẻ phe phẩy chiếc khăn trong không khí. “Em thay đồ ở đấy luôn cũng được, trong lần vượt thời gian này em cũng sẽ không gặp ai. Chúng ta nên để em về năm nào?” “Năm nào chả được, khi em bị nhốt trong hầm,” Tôi nói.
“Thôi được, đó phải là năm mà em có thể rơi… à hạ cánh an toàn xuống hầm, tốt nhất là không gặp phải ai. Từ năm 1945 trở đi chắc không có vấn đề gì - trước đó, các phòng này được dùng làm hầm báo động. Năm 1974 được không? Đó là năm sinh của thầy, một năm tốt lành.” Thầy cười. “Hay là chúng ta chọn ngày 30 tháng Sáu năm 1966. Hồi đó Anh thắng Đức trong trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới. Nhưng hình như em không mấy quan tâm đến bóng đá đúng không?”
“Càng không quan tâm ở độ sâu 20 mét dưới lòng đất,” Tôi mệt mỏi. “Mọi chuyện cũng chỉ để bảo vệ em thôi mà,” Thầy Whitman thở dài. “Từ từ, từ từ đã,” Xemerius vỗ cánh bay cạnh tôi. “Tớ lại không hiểu gì
rồi. Thế nghĩa là bây giờ cậu sẽ trèo vào một máy thời gian và quay về quá khứ?”
“Ừ, đúng thế.” Tôi đáp.
“Thế chúng ta cứ chọn năm 1948,” thầy Whitman mừng rỡ. “Thế vận hội mùa hè ở London.”
Vì đang đi trước nên thầy không trông thấy vẻ mặt ngán ngẩm của tôi. “Vượt thời gian! Ái chà chà. Thế là tớ tán được một cô bạn tuyệt vời đấy!” Xemerius nói. Lần đầu tiên tôi nghe thấy chút kính nể trong giọng
nó.
•§•
Căn phòng cất máy đồng hồ nằm sâu dưới lòng đất. Và mặc dù đến giờ, tôi luôn bị người ta bịt mắt dẫn tới rồi lại điệu về, tôi vẫn có cảm giác như lờ mờ biết nó nằm ở đâu. Bởi tôi may mắn được rời khỏi căn phòng này vào năm 1912 cũng như năm 1782 mà không bị bịt mắt. Lúc thầy Whitman dẫn tôi ra khỏi phòng may của Madame Rossini rồi đi dọc theo các hành lang và cầu thang, tôi thấy đường đi khá quen thuộc, riêng khúc cuối hình như thầy Whitman dẫn tôi loanh quanh thêm một đoạn để đánh lạc hướng.
“Ông này cứ muốn làm mọi chuyên trở nên gay cấn,” Xemerius bảo. “Việc gì phải giấu máy đồng hồ vào hầm tối?”
Tôi nghe thấy tiếng thầy Whitman nói chuyện với ai đó. Một cánh cửa nặng nề mở ra rồi lại khép vào, thầy Whitman tháo khăn cho tôi. Tôi hấp háy mắt vì chói. Bên cạnh thầy Whitman là một thanh niên tóc đỏ mặc complet đen, dáng vẻ căng thẳng và đang vã mồ hôi vì hồi hộp. Tôi đưa mắt tìm Xemerius. Nó nghịch ngợm thò đầu qua cánh cửa đóng kín, phần thân vẫn ở trong phòng.
“Đây là bức tường dày nhất tớ từng thấy,” nó thông báo khi quay trở lại. “Dày đến nỗi có thể đem giấu được cả voi, mà xoay ngang con voi ra ấy, cậu hiểu ý tớ chứ.”
“Gwendolyn, đây là Marley, môn sinh đệ nhất,” Thầy Whitman nói. “Cậu ấy sẽ ở đây đợi em quay về và lại đưa em lên trên. Marley, đây là Gwendolyn Shepherd, Hồng ngọc.”
“Rất hân hạnh, thưa cô.” Thanh niên tóc đỏ cúi người.
Tôi mỉm cười ngượng ngùng. “À, vâng, rất hân hạnh.”
Thầy Whitman loay hoay mở cái két sắt hiện đại với màn hình nhấp nháy mà trong những lần trước tôi không để ý. Nó được giấu sau tấm thảm tường có thêu những khung cảnh cổ tích tươi đẹp thời Trung cổ. Các hiệp sĩ cưỡi ngựa, đội mũ giáp cài lông phất phơ, các thanh nữ chốn cung đình đội nón nhọn, mặt che mạng đang chiêm ngưỡng chàng thanh niên mình trần vừa khuất phục một con rồng. Trong lúc thầy Whitman bấm mã số,
anh chàng Marley tóc đỏ giữ ý cúi nhìn xuống đất. Nhưng dù có muốn thì người ta cũng không thể nhìn được gì vì thầy Whitman quay lưng che kín màn hình. Cánh cửa két sắt bật mở, thầy nâng cỗ máy đồng hồ bọc khăn nhung đỏ ra và đặt nó lên bàn.
Marley kinh ngạc nín thở.
“Hôm nay là ngày đầu tiên Marley được chứng kiến cách sử dụng máy đồng hồ,” Thầy Whitman nháy mắt với tôi. Thầy hất hàm về phía chiếc đèn pin trên bàn. “Em cầm đi, phòng khi mất điện. Để em không phải sợ trong bóng tối.”
“Cảm ơn thầy,” Tôi cân nhắc xem có nên đòi thêm hộp xịt chống côn trùng không. Hầm cũ thế chắc đầy nhện - và chuột cống? Bắt tôi tới đó một mình thật bất công. “Em có thể mang theo một cái dùi cui không?” “Dùi cui? Gwendolyn, em sẽ không gặp ai ở đấy.”
“Nhưng lỡ đâu có chuột cống…”
“Nếu có thì chúng nó sợ em mới phải, tin tôi đi.” Thầy Whitman lật lớp khăn nhung để lộ ra máy đồng hồ. “Rất ấn tượng phải không, Marley?” “Vâng, thưa ngài, quả thực rất ấn tượng.” Anh chàng Marley kính cẩn chiêm ngưỡng cỗ máy.
“Đồ nịnh hót!” Xemerius nói. “Bọn tóc đỏ đều là đồ nịnh hót, cậu có thấy vậy không?”
“Tớ đã hình dung ra nó to hơn nhiều,” Tôi nói. “Tớ cũng không nghĩ máy thời gian lại giống đồng hồ bày trên lò sưởi đến thế.” Xemerius suỵt khẽ. “Nhưng mấy cục đá kia bự thật - nếu chúng là đá thật thì tớ cũng cất vào két sắt.” Đúng là những viên đá trang trí trên máy đồng hồ lớn đến kinh ngạc. Chúng lấp lánh như trên chiếc vương miện giữa các bề mặt chạm trổ và viết chữ của cỗ máy kỳ dị.
“Gwendolyn chọn năm 1948,” Thầy Whitman mở nắp máy, những bánh răng cưa nhỏ xíu bắt đầu vận hành. “Ở London hồi đó có sự kiện gì, Marley?”
“Thế vận hội mùa hè, thưa ngài,” Marley nói.
“Học thuộc lòng,” Xemerius nói. “Bọn tóc đỏ toàn học huộc lòng.” “Rất tốt,” Thầy Whitman đứng lên. “Gwendolyn sẽ hạ cánh lúc mười hai giờ trưa ngày 12 tháng Tám, và sẽ ở đó đúng 120 phút. Em sẵn sàng
chưa, Gwendolyn?”
Tôi nuốt nước bọt. “Nhưng em còn muốn biết… thầy có chắc là em sẽ không gặp ai ở đó?” Trừ nhện và chuột. “Ông George từng đưa em chiếc nhẫn của ông ấy để không ai làm gì em…”
“Lần trước em vượt thời gian trong phòng tài liệu. Đó là căn phòng được sử dụng thường xuyên ở mọi thời. Nhưng còn đây là phòng trống. Nếu em ngồi yên và không rời khỏi phòng - mà kiểu gì nó cũng bị khóa - thì chắc chắn em không thể gặp ai được. Trong những năm sau chiến tranh, người ta hiếm khi đặt chân tới phần này của ngôi nhà. Khắp nơi ở London đều bận rộn tái thiết các công trình xây dựng trên mặt đất.” Thầy Whitman thở dài. “Một thời kỳ hào hùng…”
“Nhưng nếu tình cờ có ai tới đó vào đúng hôm nay và nhìn thấy em? Ít ra thì em cũng phải biết mật khẩu của ngày chứ.”
Thầy Whitman hơi nhướng mày bực bội. “Gwendolyn, không ai tới đó đâu. Tôi nhắc lại lần nữa: Em sẽ hạ cánh xuống căn hầm trống khóa kín, ở lại đó đứng 120 phút rồi trở về hiện tại mà không ai trong năm 1948 hay biết. Nếu có thì trong biên niên sử đã ghi lại lần vượt thời gian này của em. Hơn nữa giờ chúng ta không có thời gian để kiểm tra xem mật khẩu hôm đó là gì.”
“Được tham gia là quan trọng nhất,” Marley ngập ngừng. “Cái gì?”
“Khẩu hiệu của thế vận hội: Được tham gia là quan trọng nhất.” Anh chàng Marley ngượng ngùng nhìn xuống đất. “Tôi nhớ được nó vì phần lớn mật khẩu đều bằng tiếng Latin.”
Xemerius đảo mắt, còn thầy Whitman trông như cũng muốn làm y hệt. “Thế hả? Gwendolyn, em nghe thấy rồi nhé. Tôi không nghĩ em sẽ cần đến nó, nhưng nếu vì thế mà em cảm thấy yên tâm hơn… Em làm ơn tới đây!”
Tôi bước tới trước máy đồng hồ và chìa tay ra cho thầy Whitman. Xemerius loẹt xoẹt hạ xuống cạnh tôi.
“Thế giờ thì sao?” Nó hồi hộp hỏi.
Giờ thì đến phần khó chịu. Thầy Whitman mở một nắp của máy đồng hồ ra và đặt ngón trỏ của tôi vào miệng nắp.
“Tớ nghĩ tốt nhất tớ cứ ôm chặt lấy cậu,” Xemerius quàng lấy cổ tôi ở phía sau như con khỉ con. Lẽ ra tôi không nhận thấy gì mới phải, nhưng tôi
lại có cảm giác như có ai đó vừa đặt cái khăn ướt lên cổ.
Mắt Marley trợn tròn kinh ngạc.
“Cảm ơn anh đã cho biết mật khẩu,” Tôi nói và nhăn mặt khi cây kim đâm sâu vào ngón tay. Rồi căn phòng tràn ngập ánh sáng đỏ. Tôi nắm chặt cây đèn pin, màu sắc và mọi người nhào lộn trước mắt, một cú hích lan khắp người.
23 tháng Sáu năm 1542. Firenze. Trưởng môn giao cho tôi một vụ cần tới sự kín đáo, tinh tế, và không vụ nào có thể kỳ khôi hơn. Nghe đồn từ mười năm nay, Elisabetta, tiểu thư út của M.[2] vốn sống trong tu viện dưới sự cai quản chặt chẽ giờ lại mang trong mình một Sukkubus[3], do gian díu với quỷ dữ. Đúng là sau khi tới thăm, tôi có thể xác định chắc chắn cô ấy đang mang thai, cũng như tình trạng thần kinh hơi rối loạn. Trong khi nữ viện trưởng - là người tôi hoàn toàn tin tưởng và có vẻ là người minh triết - không loại trừ một giải thích tự nhiên về hiện tượng này thì không ngờ cha cô ấy lại nghi con mình bị phù phép. Ông ấy khẳng định tận mắt trông thấy quỷ dữ đột lốt một thanh niên trẻ ôm con gái mình trong vườn rồi đột nhiên tan biến như mây khói[4], để lại mùi lưu huỳnh thoang thoảng. Còn có hai nữ tu chứng nhận họ từng trông thấy quỷ dữ nhiều lần đi cùng Elisabetta và tặng cô ấy những viên đá quý. Nghe rất khó tin, nhưng dựa trên mối quan hệ mật thiết giữa ngài M. Và R.M.[5] cũng như những người bạn khác ở Vatican, tôi khó có thể công khai nghi ngờ trí lực của ông ấy, nên chỉ phán cô con gái tội phóng đãng. Vì thế, từ ngày mai, tôi sẽ thẩm vấn dưới sự có mặt của tất cả những người liên quan.
Trích biên bản “Tòa án dị giáo
của linh mục Gian Petro Baribi dòng Anh Em Thuyết Giáo Văn khố Thư viện Đại học, Padova
(TS. M. Giordano giải mã, chuyển ngữ và biên soạn)
CHƯƠNG 3
“Xemerius?” Cảm giác ươn ướt quanh cổ đã biến mất. Tôi vội bật đèn pin. Nhưng căn phòng tôi vừa hạ cánh xuống đã được chiếc bóng đèn tờ mờ đung đưa trên trần nhà chiếu sáng sẵn.
“Xin chào,” Có ai đó nói.
Tôi giật bắn người. Trong phòng ngổn ngang đủ loại thùng hộp và đồ gỗ. Một thanh niên trẻ da xanh mai mái đang đứng tựa ở bên tường. “Đ… được… tham gia là quan trọng nhất,” Tôi lắp bắp.
“Gwendolyn Shepherd?” Người đó lắp bắp đáp lại.
Tôi gật đầu. “Sao anh biết?”
Người thanh niên rút từ túi quần ra một mảnh giấy nhàu nhĩ rồi chìa cho tôi. Trông anh ta cũng hồi hộp như tôi. Anh ta mặc quần đeo dây, mang kính tròn, tóc vàng rẽ ngôi lệch, chải keo ngược ra sau gáy. Anh ta thừa sức đóng trong một bộ phim găngxtơ cũ, vào vai trợ lý ông cụ non nhưng vô hại của ông thám tử sành sỏi phì phèo thuốc như đầu xe lửa, si mê một nàng quấn khăn lông và cuối cùng kiểu gì cũng bị bắn chết.
Tôi tự trấn an và nhìn quanh. Ngoài anh ta ra, trong phòng không có ai, cũng không có dấu vết nào của Xemerius. Rõ ràng là nó có thể đi xuyên tường, nhưng lại không vượt thời gian được.
Tôi lưỡng lự cầm mảnh giấy kẻ ô úa vàng, được giật vội từ một cuốn vở đục lỗ nào đó. Nét chữ trên đó tương đối xiêu vẹo nhưng thân quen đến khó tin:
Kính gửi huân tước Lucas Montrose - Khẩn!!!
12 tháng Tám năm 1948, 12h trưa. Phòng Giả kim thuật.
Làm ơn tới một mình.
Gwendolyn Shepherd.
Tim tôi đập dội lên. Huân tước Lucas Montrose chính là ông ngoại tôi! Ông mất năm tôi lên mười. Tôi nghi hoặc nhìn nét lượn của chữ L. Không còn nghi ngờ gì nữa: Nét chữ xiêu vẹo này hệt như nét chữ của tôi. Nhưng làm sao có thể?
Tôi ngẩng lên nhìn người thanh niên nọ. “Sao anh lại có nó? Mà anh là ai?”
“Là cô viết phải không?”
“Cũng có thể,” Tôi nói, những ý nghĩ trong đầu bắt đầu xoay vòng. Nếu đó là do tôi viết, sao tôi không nhớ? “Anh lấy đâu ra?”
“Tôi có mảnh giấy từ năm năm nay. Ai đó đã kẹp nó cùng một lá thư bỏ trong túi áo choàng của tôi, đúng vào hôm diễn ra lễ tuyên thệ cho bậc nhị phẩm. Trong thư có đoạn: Ai giữ bí mật, người đó phải biết cả bí mật ẩn sau bí mật. Hãy chứng minh rằng anh không chỉ biết im lặng mà còn biết suy nghĩ. Không có chữ ký. Nét chữ đó khác với nét chữ trên mảnh giấy này, trông, hừm, lịch thiệp và hơi cổ hủ.”
Tôi cắn môi. “Tôi không hiểu.”
“Tôi cũng không hiểu. Suốt những năm qua, tôi cứ đinh ninh đây là một kiểu thử thách,” Người thanh niên nói. “Một bài thử nữa chẳng hạn. Tôi không kể cho bất cứ ai, chỉ luôn đợi có người tới gọi chuyện hoặc nhận được thêm chỉ dẫn khác. Nhưng không có chuyện gì xảy ra. Hôm nay tôi lẻn xuống đây chờ. Thực ra thì tôi không nghĩ sẽ có chuyện gì xảy ra nữa. Nhưng đột nhiên cô lại hiện hình từ không khí. Vào đúng mười hai giờ trưa. Sao cô lại viết thư này cho tôi? Sao chúng ta lại gặp nhau trong căn hầm hẻo lánh này? Và cô tới từ năm nào?”
“2011,” Tôi nói. “Rất tiếc là tôi cũng không thể trả lời các câu hỏi còn lại.” Tôi hắng giọng. “Anh là ai?”
“Ồ, xin lỗi, tên tôi là Lucas Montrose. Không có danh hiệu huân tước. Tôi là môn sinh nhị phẩm.”
Miệng tôi đột nhiên khô không khốc. “Lucas Montrose. Bourdon Place, nhà số 81.”
Người thanh niên gật đầu. “Đúng vậy, cha mẹ tôi sống ở đó.” “Thế thì…” Tôi nhìn người ấy chằm chằm và hít một hơi sâu: “Thế thì ông chính là ông ngoại của cháu.”
“Ô, lại thế nữa sao,” Người thanh niên thở dài não nề. Rồi người đó trấn tĩnh, rời bức tường, phủi bụi một chiếc ghế trong chồng ghế xếp lộn đầu ở góc hầm và đặt nó trước mặt tôi. “Chúng ta ngồi xuống chứ? Chân tôi không đứng nổi nữa.”
“Chân cháu cũng vậy,” Tôi công nhận và thả người xuống chiếc ghế nệm. Ông Lucas tự lấy ghế ngồi đối diện.
“Vậy ra cô là cháu ngoại tôi?” Ông khẽ mỉm cười. “Cô biết không, đây là hình dung kỳ quặc đối với tôi. Tôi thậm chí còn chưa lập gia đình. Nói đúng hơn là còn chưa kịp đính hôn.”
“Ông bao nhiêu tuổi ạ? Ô, cháu xin lỗi, điều này thì cháu phải biết, ông sinh năm 1924, như vậy là vào năm 1948, ông 24 tuổi.”
“Đúng thế,” Ông nói. “Ba tháng nữa tôi sẽ tròn 24. Thế còn cô?” “16 ạ.”
“Giống như Lucy.”
Lucy. Tôi buộc phải nghĩ tới những gì chị ấy gọi với theo khi bọn tôi chạy trốn khỏi nhà quý bà Tilney.
Tôi vẫn còn chưa tin nổi mình đang ngồi trước mặt ông ngoại. Tôi tìm kiếm những nét tương đồng với người từng bế tôi trên đùi, kể cho tôi nghe những câu chuyện hồi hộp. Người đã bảo vệ tôi trước Charlotte mỗi khi chị ấy cho rằng tôi chỉ dùng những câu chuyện ma quỷ để tỏ vẻ ta đây. Nhưng khuôn mặt phẳng phiu của người thanh niên đang ngồi trước tôi không hề có nét nào giống gương mặt nhăn nheo của người ông mà tôi từng biết. Bù lại, tôi thấy khuôn mặt ông giống mẹ tôi, đôi mắt xanh lơ, khuôn hàm cương nghị và cả cách ông mỉm cười. Tôi choáng váng nhắm mắt lại trong giây lát, chuyện này đúng là vượt quá sức tôi.
“Vậy là chúng ta đang bên nhau,” Ông Lucas khẽ nói. “Tôi có phải là… là… một người ông đáng yêu?”
Nước mắt đổ xuống mũi nhồn nhột, tôi phải cố gắng kiềm chế, nên chỉ khẽ gật đầu.
“Những người vượt thời gian khác thường hạ cánh rất đàng hoàng và thoải mái ở Long điện bên máy đồng hồ hoặc là trong phòng tài liệu,” Ông Lucas nói. “Sao cô lại chọn căn phòng thí nghiệm cũ kỹ tối tăm này?”
“Đâu phải do cháu chọn.” Tôi quẹt mũi bằng mu bàn tay. “Cháu thậm chí còn không biết đây là phòng thí nghiệm, ở thời của cháu thì đây chỉ là
một căn hầm bình thường chứa két sắt đựng máy đồng hồ.” “Thật à? Từ lâu rồi, đây cũng không còn là phòng thí nghiệm nữa,” Ông Lucas nói. “Nhưng trước đây, chỗ này được dùng làm phòng thí nghiệm giả kim bí mật. Nó là một trong những căn phòng cổ nhất của ngôi nhà này. Hàng trăm năm trước khi bá tước Saint Germain thành lập hội, các nhà hóa kim và ảo thuật gia nổi tiếng của London đã thí nghiệm ở đây để tìm ra viên đá của các nhà thông thái. Trên tường còn sót lại vài hình vẽ rùng rợn và các công thức bí hiểm. Người ta đồn rằng, những bức tường này dày như vậy vì trong đó chất đầy đầu lâu xương sọ…” Ông ngừng lời và cắn môi. “Như vậy cô cũng là cháu tôi. Cho phép tôi hỏi, cô là con ai trong số các con tôi?”
“Mẹ cháu là Grace,” Tôi nói. “Mẹ rất giống ông.”
Ông Lucas gật đầu. “Lucy đã kể cho tôi nghe về Grace. Cô ấy bảo đó là đứa con ngoan nhất của tôi, những đứa khác toàn là đám trưởng giả.” Ông bĩu môi. “Tôi không hình dung được mình sẽ có những đứa con trưởng giả… hoặc nói chung là sẽ có con…”
“Có thể điều này không phải tại ông, mà tại bà chăng,” Tôi lẩm bẩm. Ông Lucas thở dài. “Kể từ Lucy xuất hiện lần đầu cách đây hai tháng, tất cả đều trêu tôi, vì cô ấy cũng có mái tóc đỏ giống cô gái mà tôi… tôi… quan tâm. Nhưng Lucy không chịu tiết lộ người mà tôi sẽ cưới, cô ấy sợ tôi có thể đổi ý. Và nếu thế thì mấy người sẽ không được sinh ra.” “Quan trọng hơn màu tóc có lẽ là gien vượt thời gian mà vợ tương lai của ông thừa hưởng,” Tôi nói. “Chắc ông sẽ dựa vào đó mà nhận ra bà.” “Thì chính điều này mới kỳ quặc,” Ông Lucas ngồi nhích ra phía trước một chút trên ghế. “Tôi thấy cả hai cô thuộc dòng Ngọc thạch đều thực sự… thực sự… hấp dẫn… Đối tượng quan sát số 4 và số 8.” “Ra thế,” Tôi nói.
“Cô biết không, vấn đề là hiện tại tôi chưa thể quyết định chắc chắn. Biết đâu cô lại có thể gợi ý cho tôi để chấm dứt tình trạng lưỡng lự này.” Tôi nhún vai. “Được thôi. Bà ngoại cháu, nghĩa là vợ ông, chính là…” “Đừng!” Ông Lucas rú lên. Ông xua cả hai tay ngăn. “Tôi nghĩ lại rồi, tốt nhất là cô đừng nói ra.” Ông lúng túng gãi đầu. “Đây là đồng phục học sinh của trường Saint Lennox, đúng không? Tôi nhận ra phù hiệu trên khuy áo.”
“Đúng ạ,” Tôi cúi xuống nhìn chiếc áo khoác xanh đậm. Madame Rossini có lẽ đã giặt là cẩn thận, chúng trông như mới và thoảng mùi oải hương. Ngoài ra bà còn sửa lại cái áo khoác, nó đã vừa vặn hẳn.
“Em gái Madeleine của tôi cũng đang học ở trường Saint Lennox. Do chiến tranh nên mãi năm nay nó mới tốt nghiệp trung học.” “Bà Maddy? Thế mà cháu không biết.”
“Tất cả con gái nhà Montrose đều học ở trường Saint Lennox. Lucy cũng vậy. Cô ấy cũng mặc bộ đồng phục giống cô. Bộ của Maddy lại có màu xanh lá cây đậm pha trắng, váy kẻ ca rô…” Ông Lucas hắng giọng. “Hừm, nếu cô quan tâm đến chuyện này… nhưng tốt hơn hết bây giờ nên tập trung nghĩ xem vì sao ta lại gặp nhau ở đây hôm nay. Giả dụ cô đã viết ra mẩu giấy này…”
“… sẽ viết!”
“… và chuyển cho tôi trong một lần vượt quá khứ trong tương lai… Vậy theo cô, vì sao cô đã làm thế?”
“Ý ông là vì sao cháu sẽ làm thế?” Tôi thở dài. “Nghe cũng hợp lý thế nào đó. Cháu đoán là ông có thể giải thích cho cháu nhiều điều. Nhưng cháu cũng không rõ…” Tôi ngơ ngác nhìn ông ngoại mình thời trẻ. “Ông có thân với Lucy và Paul không?”
“Từ tháng Giêng, Paul de Villiers thường tới để phân nhánh hồi khứ. Trong thời gian này cậu ấy đã già thêm hai tuổi, hơi rùng rợn một chút. Còn Lucy tới đây lần đầu vào tháng Sáu. Tôi chủ yếu chăm sóc họ trong thời gian đến thăm. Thường thì rất… vui. Tôi giúp họ làm bài về nhà. Phải nói rằng Paul là người đầu tiên của nhà Villiers mà tôi có thiện cảm.” Ông lại hắng giọng. “Nếu cô tới từ năm 2011 hẳn cô phải biết họ. Hình dung ra họ giờ đã xấp xỉ tuổi 40 thật kỳ quặc… Cô nhớ chào họ giúp tôi.”
“Không, chuyện này thì cháu chịu.” Ôi trời, sao lại phức tạp thế cơ chứ. Và chừng nào tôi còn chưa hiểu rõ chuyện gì đang diễn ra, chừng đó tôi vẫn phải cẩn thận với những gì mình kể. Lời mẹ dặn còn văng vẳng bên tai: “Đừng tin ai. Ngay cả cảm giác của chính con.” Nhưng tôi cũng phải có ai đó để gửi gắm lòng tin. Ai còn có thể thích hợp hơn ông ngoại? Tôi quyết định đặt tất cả lên một lá bài: “Cháu không chào Lucy và Paul hộ ông được. Họ đã lấy cắp máy đồng hồ và đem nó theo về quá khứ.”
“Cái gì?” Đôi mắt ông trợn tròn sau cặp kính. “Họ làm thế để làm gì? Tôi không thể tin nổi. Họ sẽ không bao giờ… Đó là khi nào?” “Năm 1994,” Tôi nói. “Năm ấy cháu ra đời.”
“Năm 1994 thì Paul 20 còn Lucy 18,” Ông Lucas tự nói với mình hơn là với tôi. “Vậy là hai năm nữa. Bởi vì hiện tại cô ấy 16 còn cậu ấy 18.” Ông mỉm cười xin lỗi. “Đương nhiên tôi không muốn nói đến bây giờ, mà là khi họ đến để phân nhánh hồi khứ trong năm nay.”
“Mấy đêm vừa rồi cháu không chợp mắt được mấy, nên giờ cháu có cảm giác não cháu giống như kẹo bông đường,” Tôi nói. “Còn tính toán thì cháu dốt đặc.”
“Lucy và Paul đã… - điều cô vừa kể rất vô lý. Họ sẽ không đời nào làm chuyện điên rồ như vậy.”
“Nhưng họ đã làm. Cháu tưởng ông có thể nói cho cháu biết lý do vì sao. Ở thời của cháu, ai cũng muốn khẳng định với cháu là họ rất… xấu. Hoặc điên rồ. Hoặc cả hai. Dù thế nào thì họ cũng rất nguy hiểm. Lúc cháu gặp Lucy, chị ấy dặn cháu hỏi ông về kỵ sĩ xanh. Thế kỵ sĩ xanh là gì?”
Ông Lucas bối rối nhìn tôi. “Cô đã gặp Lucy? Cô vừa bảo là cô ấy và Paul đã biến mất vào năm cô sinh ra cơ mà.” Và như chợt nhớ ra điều gì: “Mà nếu họ đã lấy cắp máy đồng hồ thì làm sao cô còn trở về quá khứ được?”
“Cháu gặp họ vào năm 1912. Ở nhà quý bà Tilney. Đội Cận vệ còn một máy đồng hồ để dùng cho bọn cháu.”
“Quý bà Tilney? Bà ấy đã mất từ bốn năm nay. Còn cỗ máy thứ hai đâu có hoạt động.”
Tôi thở dài. “Nhưng bây giờ thì hoạt động rồi. Ông ngoại, ông nghe cháu này,” - hai chữ “ông ngoại” khiến ông Lucas giật mình. “Đối với cháu thì tất cả mọi thứ còn rối rắm hơn nhiều, bởi vì bốn ngày trước, cháu còn chưa biết tí gì về những chuyện này. Cháu không thể giải thích cho ông điều gì cả. Cháu chỉ tới đây để phân nhánh hồi khứ, ôi trời, cháu thậm chí còn không biết viết những từ này như thế nào. Đây mới là lần thứ ba cháu vượt thời gian bằng máy đồng hồ. Trước đó cháu đã vượt thời gian ba lần không kiểm soát. Chẳng vui vẻ gì đâu. Thật ra thì tất cả mọi người đều nghĩ chị Charlotte mới là người mang gien. Chị ấy sinh đúng ngày còn mẹ cháu lại nói dối ngày sinh của cháu. Vì thế, không phải cháu mà Charlotte
mới là người được học khiêu vũ, biết tất tật về bệnh dịch, về vua George, biết đấu kiếm, phi ngựa và chơi dương cầm - và có trời mới biết chị ấy còn học những gì trong mấy giờ học thần bí.” Tôi càng nói thì từ ngữ càng tuôn ra nhanh bấy nhiêu. “Còn cháu, cháu chỉ biết chút gì người ta chịu tiết lộ, mà một chút đó thì quả thực không bao nhiêu và cũng không làm sáng tỏ được gì. Tệ hơn nữa là cho đến giờ cháu thậm chí còn không có thời gian để lý giải những gì đã trải nghiệm. Bạn gái Leslie của cháu đã tìm hiểu về tất cả những thứ này trên mạng, nhưng số tài liệu đó đã bị thầy Whitman tịch thu. Hơn nữa cháu cũng chỉ hiểu được cùng lắm nửa số đó. Có vẻ như tất cả đều kỳ vọng điều gì đó đặc biệt ở cháu và giờ họ đang thất vọng.”
“Hồng ngọc sở hữu phép thuật của loài quạ, dùng cung Sol trưởng khép lại vòng tròn Hội Thập Nhị.” Ông Lucas lẩm bẩm.
“Đúng đấy, ông thấy chưa, phép thuật của loài quạ, blablabla. Cháu làm gì có. Bá tước Saint Germain thậm chí còn bóp cổ cháu dù đứng cách cháu tới vài mét. Cháu nghe thấy giọng ông ấy trong đầu. Lại còn toán người cầm súng và kiếm trong Hyde Park. Cháu buộc phải đâm người đó, nếu không hắn sẽ giết Gideon. Còn Gideon… hắn là… hắn là một gã…” Tôi lấy hơi, nhưng là để tuôn thêm một tràng: “Gideon đúng là một gã khốn kiếp. Hắn làm như cháu là quả tạ xích vào chân hắn. Sáng nay hắn còn hôn Charlotte, chỉ hôn lên má nhưng có lẽ điều này có ý nghĩa gì đó. Lẽ ra dù thế nào cháu cũng không nên hôn hắn trước khi hỏi hắn về chuyện này. Mà cháu mới chỉ quen hắn có một hay hai ngày, nhưng đột nhiên hắn thật… dễ thương và rồi… mọi chuyện diễn ra nhanh quá… Giờ tất cả mọi người đều nghĩ, chính cháu là người đã tiết lộ cho Lucy và Paul biết thời điểm bọn cháu tới thăm quý bà Tilney. Bọn cháu cần lấy máu của kị ấy, cả của Lucy và Paul. Nhưng cả họ cũng cần máu của cháu và Gideon vì máy đồng hồ của họ còn thiếu. Không ai nói cho cháu biết điều gì sẽ xảy ra khi máy đồng hồ nhận diện hết máu của tất cả mọi người. Thỉnh thoảng cháu nghĩ chính họ cũng không biết nốt. Ngoài ra chị Lucy còn dặn cháu hỏi ông về kỵ sĩ xanh.”
Mắt ông Lucas nhắm lại sau cặp kính. Hẳn ông đang cố gắng một cách tuyệt vọng để hiểu điều gì đó trong dòng thác từ ngữ của tôi. “Tôi chẳng biết gì về kỵ sĩ xanh,” Ông nói. “Xin lỗi, nhưng hôm nay là lần đầu tiên tôi nghe về điều này. Hay đó là tên một bộ phim? Vì sao cô không hỏi tôi… cô có thể hỏi tôi vào năm 2011?”
Tôi kinh ngạc nhìn ông.
“Ô, tôi hiểu rồi,” Ông Lucas nói nhanh. “Cô không thể hỏi tôi, bởi khi đó có lẽ tôi đã chết từ lâu, hoặc già cả, mù lòa, câm điếc, nằm trong nhà dưỡng lão nào cũng nên… - không, không, đừng, tôi không muốn biết.”
Lần này thì tôi không thể nào kìm được nước mắt. Tôi ngồi nức nở ít nhất nửa phút, vì đột nhiên - dù có vẻ khó tin - tôi thấy nhớ ông kinh khủng. Rồi tôi nói: “Cháu rất yêu ông.”
Ông Lucas đưa tôi chiếc khăn tay và nhìn tôi thương cảm. “Cô có chắc khồng? Tôi thậm chí còn không thích trẻ con. Nghịch như quỷ sứ. Nhưng có lẽ cô là một phiên bản đáng yêu ngoại lệ. Chắc chắn là vậy.”
“Vâng. Nhưng đối với cháu nào ông cũng đều rất tốt.” Tôi xì mũi. “Thậm chí với cả Charlotte.”
Hai ông cháu im lặng hồi lâu, rồi ông Lucas rút đồng hồ ra khỏi túi: “Chúng ta còn bao nhiêu thời gian?”
“Họ gửi cháu về đây đúng hai tiếng đồng hồ.”
“Thế thì không còn bao lâu. Chúng ta đã lãng phí quá nhiều thời gian.” Ông đứng dậy. “Tôi sẽ đi lấy giấy bút, chúng ta thử sắp xếp lại trật tự cho mớ hỗn loạn này xem sao. Tốt nhất là cô cứ ngồi yên đấy, đừng nhúc nhích.”
Tôi chỉ gật đầu. Khi ông Lucas đi khỏi, tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống, hai tay ôm mặt. Ông nói đúng, quan trọng bây giờ là phải giữ cho đầu óc thật tỉnh táo.
Ai biết được khi nào tôi lại được gặp ông? Tôi có nên nói với ông những gì sẽ còn xảy ra trong tương lai, và không nên nói điều gì? Ngược lại, tôi cũng tuyệt vọng nghĩ đến những thông tin có ích mà ông có thể nói cho tôi. Rốt cuộc thì ông là đồng minh duy nhất của tôi. Duy chỉ ở nhầm thời điểm. Ông có thể giải được câu đố nào từ nơi đây?
Ông Lucas đi rất lâu. Mỗi một phút trôi qua càng khiến tôi nghi ngờ cảm giác của chính mình. Biết đâu ông nói dối và sắp quay lại cùng với Lucy, Paul và con dao to tướng để lấy máu của tôi. Rồi tôi sốt ruột đứng dậy, cố tìm thứ gì đó làm vũ khí tự vệ. Ở góc phòng có một tấm ván với chiếc đinh gỉ, nhưng lúc nhặt lên thì nó mủn nát trong tay tôi. Đúng lúc này cửa bật mở, ông ngoại tôi thời trẻ bước vào, nách kẹp tập giấy, tay cầm quả chuối.
Tôi thở phào nhẹ nhõm.
“Này, ăn đi cho đỡ đói.” Ông Lucas đưa chuối cho tôi rồi nhấc thêm chiếc ghế thứ ba ra khỏi chồng ghế. Ông đặt nó vào giữa rồi để tập giấy lên. “Xin lỗi vì tôi đã đi lâu thế. Gã Kenneth de Villiers chết tiệt cứ làm vướng chân tôi mãi ở trên. Tôi không ưa đám người nhà Villiers. Họ luôn tò mò xía mũi vào đủ mọi chuyện trên đời, luôn muốn kiểm soát và quyết định mọi việc, luôn coi mình là bố thiên hạ!”
“Đúng thế,” Tôi lẩm bẩm.
Ông Lucas phẩy tay. “Giờ thì chúng ta bắt đầu thôi, cháu gái. Cô là viên Hồng ngọc, người thứ mười hai trong hội. Viên Kim cương của nhà Villiers đã được sinh ra từ hai năm trước. Vậy là ở thời của cô, cậu ta khoảng 19. Tên cậu ấy là gì nhỉ?”
“Gideon,” Tôi nói. Chỉ nhắc đến tên hắn, tôi đã thấy lòng ấm lại. “Gideon de Villiers.”
Ông Lucas lướt cây bút chì trên mặt giấy. “Và cậu ta cũng đáng ghét hệt như các thành viên khác nhà Villiers, nhưng nếu tôi hiểu không sai thì cô vẫn hôn cậu ta. Chẳng phải cô còn quá trẻ cho việc này sao?”
“Trẻ gì nữa hả ông,” Tôi nói. “Ngược lại, cháu thuộc dạng chậm thì có. Ngoài cháu ra thì tất cả bọn con gái trong lớp đã uống thuốc.” À, tất cả trừ Aishani, Peggy và Cassie Clarke. Nhưng bố mẹ Aishani là người Ấn Độ bảo thủ và chỉ cần nó ngắm một đứa con trai nào là họ giết thịt nó ngay. Peggy hình như thích bọn con gái hơn. Còn Cassie thì, một lúc nào đó chắc đống mụn trứng cá kia cũng tự biến đi, và lúc đó có lẽ nó cũng thân thiện hơn với mọi người, và sẽ thôi gầm gừ “nhìn gì mà nhìn” mỗi khi có ai lỡ liếc mắt về hướng nó. “À, đương nhiên cả chị Charlotte cũng không liên quan gì đến sex. Thế nên Gordon Gelderman mới gọi chị ấy là Nữ hoàng băng giá. Nhưng giờ thì cháu không còn dám chắc liệu cái tên này có còn đúng không nữa…” Tôi nghiến răng vì nghĩ đến cái cách Charlotte nhìn Gideon - và ngược lại. Suy cho cùng thì chỉ hai ngày sau khi quen, Gideon đã nhanh chóng nảy ra ý định hôn tôi. Tôi chẳng cần phải hình dung ra những chuyện có thể xảy ra giữa họ trong nhiều năm quen biết.
“Uống thuốc gì?” Ông Lucas hỏi.
“Gì ạ?” Ôi trời, không lẽ ở năm 1948, người ta vẫn còn tránh thai bằng bao cao su làm từ ruột bò hoặc tương tự - nếu họ có phòng tránh. Nhưng tôi
cũng không muốn biết. “Cháu không muốn nói về sex với ông đâu, thật đấy, ông ngoại ạ.”
Ông Lucas lắc đầu nhìn tôi. “Tôi thậm chí còn không muốn nghe cô thốt ra từ này. Ý tôi không phải là từ ông ngoại.”
“Vâng ạ.” Tôi bóc chuối trong lúc ông Lucas ghi chép. “Thế mọi người dùng từ nào để nói ạ?”
“Nói cái gì?”
“Nói thay từ sex ấy?”
“Chúng tôi không nói về chuyện này,” Ông Lucas cúi gằm mặt xuống trang giấy. “Nhất là với một cô bé 16 tuổi. Tiếp tục nào: Máy đồng hồ bị Paul và Lucy lấy mất trước khi nó kịp nhận diện máu của hai thành viên cuối cùng của Hội Thập Nhị. Vì thế người ta dùng máy thứ hai, đương nhiên là máy này chưa có máu của tất cả những người vượt thời gian khác.”
“Không, chuyện cũ rồi. Gideon đã tìm được gần hết những người vượt thời gian và xin máu của họ. Giờ chỉ còn thiếu quý bà Tilney và của viên Opal, Elise gì đấy.”
“Elaine Burghley,” Ông Lucas nói. “Một thị nữ của nữ hoàng Elizabeth Đệ nhất, mất năm 18 tuổi sau khi sinh.”
“Chính xác. Và đương nhiên cả máu của Paul và Lucy. Thế nên bọn cháu đang đi lấy máu của họ, và họ lấy của bọn cháu. Theo cháu hiểu là thế.”
“Vậy giờ hiện có hai máy đồng hồ có thể khắc nhập hội? Chuyện này thật… không thể tin nổi!”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu hội được khắc nhập?”
“Điều bí mật sẽ được tiết lộ,” Ông Lucas nghiêm trang.
“Ôi trời ơi, cả ông cũng nói vậy.” Tôi bực mình lắc đầu. “Không thể chỉ một lần cụ thể hơn sao?”
“Những lời tiên tri có nhắc đến việc đại bàng lên ngôi, nhân loại chiến thắng bệnh tật và cái chết, một thời đại mới bắt đầu.”
“À há,” Tôi vẫn ngu hệt như trước. “Như vậy đó là một chuyện tốt?” “Rất tốt là đằng khác. Nó sẽ mang lại bước tiến quyết định cho nhân loại. Vì thế bá tước Saint Germain lập Đội Cận vệ, vì thế những người
thông thái nhất và mạnh mẽ nhất thế giới có mặt trong hàng ngũ của chúng ta. Tất cả đều muốn gìn giữ bí mật này, để khi thời điểm chín muồi, nó được hé lộ và cứu rỗi thế giới.”
Ờ. Nói thế còn rõ ràng. Ít ra thì cho đến giờ, đây cũng là những thông tin rõ nhất tôi được nghe về vụ bí mật. “Nhưng tại sao Paul và Lucy không muốn khắc nhập hội?”
Ông Lucas thở dài. “Tôi không biết. Cô vừa kể là cô gặp họ lúc nào?” “Năm 1912,” Tôi đáp. “Ngày 22 hoặc 24 tháng Sáu, cháu không nhớ rõ nữa.” Càng cố vắt óc thì tôi lại càng không dám chắc bấy nhiêu. “Cũng có thể là 12? Cháu chỉ nhớ chắc chắn đó là một số chẵn. Hay là 18 nhỉ? Nhưng chắc chắn đó là vào buổi chiều. Quý bà Tilney đã chuẩn bị sẵn tiệc trà trên bàn.” Vừa buông lời, tôi chợt lóe lên ý nghĩ và vội giơ tay lên bịt miệng: “Ối!”
“Gì thế?”
“Bây giờ cháu đã kể ra với ông, rồi ông sẽ tiết lộ cho Lucy và Paul. Vì thế họ mới đón lõng bọn cháu ở đấy. Nói cho cùng thì chính ông mới là kẻ phản bội chứ không phải cháu. Mặc dù - kết quả cuối cùng cũng thế cả…”
“Gì cơ? Ồ không đâu!” Ông Lucas lắc đầu quầy quậy. “Tôi sẽ không làm thế. Tôi sẽ không kể với họ về cô, có điên mới làm vậy! Nếu ngày mai tôi bảo sẽ có lúc họ lấy cắp máy đồng hồ và đem nó theo về quá khứ, chắc họ sẽ ngất lăn tại chỗ. Trước khi nói với ai điều gì đó về tương lai, người ta phải cân nhắc rất kỹ, cô rõ chưa?”
“À thì, có thể ngày mai ông sẽ không nói với họ, nhưng ông vẫn còn nhiều năm mà.” Tôi trầm ngâm nhai chuối. “Mặt khác thì… họ đem theo máy đồng hồ về thời nào nhỉ? Sao không phải là thời này? Ở đây dù sao họ còn có bạn, chính là ông. Cũng có thể ông đang lừa cháu và họ đã chực sẵn trước cửa để lấy máu của cháu cũng nên.”
“Tôi không biết họ sẽ trở về thời gian nào.” Ông Lucas thở dài. “Tôi thậm chí còn không tưởng tượng nổi họ sẽ làm chuyện điên rồ kia. Hoặc lý do vì sao họ làm thế!” Ông chán nản nói thêm: “Mà tóm lại là tôi không hề biết tí gì.”
“Có lẽ là ở thời điểm này, cả ông và cháu đều không hề biết gì,” tôi cũng ngao ngán đáp.
Ông Lucas ghi lại kỵ sĩ xanh, máy đồng hồ thứ hai và quý bà Tilney lên giấy và vẽ những dấu hỏi to tướng ra sau. “Chúng ta cần gặp nhau lần nữa - sau này. Tới lúc đó có thể tôi sẽ tìm hiểu được khối chuyện…”
Điều này nghe có lý. “Lẽ ra cháu phải phân nhánh hồi khứ về năm 1956. Có thể là tối mai chúng ta sẽ gặp lại.”
“Haha!” Ông Lucas bật cười. “Đối với cô thì năm 1956 có thể là tối mai - nhưng còn đối với tôi… Nhưng thôi, chúng ta thử suy nghĩ xem. Nếu sắp tới cô phân nhánh hồi khứ về một thời sau thời này, cô cũng sẽ ở đây chứ?”
Tôi gật đầu. “Cháu nghĩ thế. Nhưng ông không thể ngày đêm ngồi đợi cháu ở dưới này. Hơn nữa Gideon có thể tạt qua bất cứ lúc nào, vì hắn cũng phải phân nhánh hồi khứ.”
“Tôi biết chúng ta nên làm thế nào,” Ông Lucas càng lúc càng hào hứng. “Nếu lần sau cô lại hạ cánh xuống phòng này thì cô cứ tới chỗ tôi! Văn phòng của tôi ở tầng hai. Cô chỉ cần qua được hai người lính canh, nhưng cái này không thành vấn đề. Cô cứ bảo cô bị lạc đường, cứ bảo cô là em họ tôi. Hazel, ở quê ra. Từ hôm nay tôi sẽ bắt đầu kể với tất cả mọi người về cô.”
“Nhưng thầy Whitman nói phòng này luôn khóa. Hơn nữa cháu còn không biết hiện chúng ta đang ở đâu.”
“Đương nhiên là cô cần chìa khóa. Và mật khẩu của ngày.” Ông Lucas nhìn quanh. “Tôi sẽ đánh cho cô một chìa và giấu nó ở đâu đây. Cả mật khẩu nữa. Tôi sẽ viết nó lên mảnh giấy và giấu luôn cùng. Tốt nhất là ở đâu đó trong tường. Ở dưới kia kìa, chỗ mấy viên gạch hơi lỏng lẻo, cô thấy chưa? Có lẽ chúng ta sẽ đào được một cái hốc nhỏ ở đó.” Ông đứng dậy, vòng qua đống đồ ngổn ngang rồi quỳ xuống trước bức tường. “Nhìn này. Tôi sẽ đem đồ đến và tạo ra một chỗ giấu hoàn hảo. Lần sau khi tới, cô chỉ cần rút viên gạch này ra sẽ tìm thấy chìa khóa và mật khẩu.”
“Nhưng ở đây có cả đống gạch,” tôi nói.
“Thì cô cứ nhớ lấy viên này, hàng thứ năm từ dưới trở lên, khoảng giữa phòng. Chết tiệt! Gãy cả móng tay! Thôi cứ vậy đi, kế hoạch như thế là ổn.”
“Nhưng từ giờ trở đi, ngày nào ông cũng phải xuống dưới này để cập nhật mật khẩu,” Tôi nói. “Ông định làm thế nào? Ông học ở đại học Oxford
cơ mà?”
“Mật khẩu không phải ngày nào cũng khác,” Ông đáp. “Thỉnh thoảng chúng tôi dùng cùng một mật khẩu cho mấy tuần liền. Hơn nữa đây là cách duy nhất để có thể sắp xếp một cuộc gặp khác. Cô nhớ viên gạch này nhé. Tôi cũng sẽ giấu bản đồ vào đấy để cô biết đường mà tìm lên trên. Từ đây có những con đường bí mật dẫn đi tới nửa London.” Ông nhìn đồng hồ. “Giờ thì chúng ta cứ ngồi xuống và ghi lại một cách có hệ thống. Cô sẽ thấy, sau đó cả hai chúng ta sẽ khôn lên đấy.”
“Hoặc vẫn là hai kẻ ngu ngơ trong căn hầm ẩm mốc.”
Ông Lucas nghiêng đầu mỉm cười. “Biết đâu, cô sẽ nhân thể tiết lộ cho tôi, tên của bà cô bắt đầu bằng chữ A. Hoặc chữ C?”
Tôi buộc phải mỉm cười. “Thế ông thích chữ nào hơn?”
Hội Thập Nhị
Họ tên Đá quý Tên giả kim tương ứng
Lancelot de Villiers
Loài
vật Giống cây
1560-1607Hổ phách Calcinatio Ếch Dẻ gai Elaine Burghley
1562-1580Opal Putrefatio et mortificio
William de Villiers
Cú
mèo Hồ đào
1636-1689Mã não Sublimatio Gấu Thông kim
Cecilia Woodville
1628-1684
Robert Leopold
Bá tước von Saint Germain
1703-1784
Jeanne de Pontcarreé Madame d’Urfe
1705-1775
Jonathan và Timothy de Villiers
1875-1944
1875-1930
Margarete Tilney
Ngọc hải
thủy Solutio Ngựa Phong
Bích ngọc Distillatio Đại
bàng Sồi
Ngọc
hoàng yến Coagulatio Rắn Bạch quả
Caneon Extractio Chim ưngTáo
1877-1944Ngọc thạch Digestio Cáo Cây đoạn
Họ tên Đá quý Tên giả kim tương ứng
Loài
vật Giống cây
Paul de Villiers *1974
Lucy Montrose
Tourmaline
đen Ceratio Sói Thanh lương trà
*1976Lam ngọc Fermentatio Linh
miêu Liễu
Gideon de Villiers
*1992Kim cương Multiplicatio Sư tử Thủy tùng
Gwendolyn Shepherd
*1994
Hồng ngọc Projectio Quạ Bạch dương
Trích Biên niên sử Đội Cận vệ
Tập IV: Hội Thập Nhị
CHƯƠNG 4
“Gwenny! Chị Gwenny, dậy đi!”
Tôi mệt nhọc tỉnh dậy từ giấc mơ sâu. Trong mơ tôi là một bà lão già khú lưng còng, ngồi đối diện với Gideon bảnh bao ngời ngời, khẳng định với hắn tên bà ta là Gwendolyn Shepherd và tới từ năm 2080. Rồi tôi trông thấy gương mặt với cái mũi hếch quen thuộc của em gái Caroline.
“Cuối cùng thì cũng tỉnh!” Nó nói. “Em tưởng là em không bao giờ đánh thức chị được. Tối qua khi chị về thì em ngủ mất rồi, mặc dù em đã gắng thức. Chị có mang về thêm một cái váy kỳ dị nào nữa không?”
“Không, lần này thì không.” Tôi nhỏm dậy. “Lần này chị thay quần áo ở đó.”
“Từ giờ trở đi sẽ luôn như thế à? Chị sẽ chỉ về khi em đã ngủ? Mẹ đã hóa ra thật kỳ lạ từ khi chuyện này xảy đến với chị. Còn em và Nick thì nhớ chị lắm - ăn tối vắng chị chán kinh khủng.”
“Trước đây vẫn thế mà,” Tôi lại ngả xuống gối.
Tối qua tôi được chở về nhà bằng chiếc Limousine, tôi không quen người lái xe nhưng anh chàng Marley tóc đỏ thì tiễn tôi tới tận cửa. Tôi không còn gặp Gideon từ lúc đó, thế cũng tốt. Phải mơ về hắn cả đêm là quá đủ.
Ông quản gia Bernhard đón tôi bên cửa, lịch sự và cứng đơ như mọi khi. Mẹ chạy từ trên cầu thang xuống ôm chầm lấy tôi cứ như tôi mới cùng đoàn thám hiểm Nam Cực trở về. Tuy vui mừng khi gặp lại mẹ, nhưng tôi vẫn còn khá giận mẹ. Cảm giác phát hiện ra bị chính mẹ mình lừa dối thật khó tiêu. Mà mẹ thì không chịu cho tôi biết lý do vì sao. Ngoài vài câu tối nghĩa như “Đừng tin bất cứ ai - nguy hiểm - bí mật - blablabla”, mẹ không giải thích gì về cách cư xử của mẹ. Bởi thế và vì mệt gần chết nên tôi chỉ ậm ừ gặm miếng thịt gà đã nguội rồi bò lên giường đi ngủ mà không kể gì
cho mẹ nghe về những chuyện đã xảy ra trong ngày. Mẹ biết làm gì với mớ thông tin ấy? Mẹ đã quá lo lắng rồi. Tôi thấy mẹ có vẻ cũng kiệt sức gần như tôi.
Caroline lại lay tay tôi. “Này chị, đừng ngủ lại!”
“Biết rồi.” Tôi vùng dậy vắt chân ra khỏi giường. Mặc dù trước khi đi ngủ, tôi còn gọi điện nói chuyện rất lâu với Leslie, nhưng lúc thức dậy cảm thấy cũng tương đối đẫy giấc. Nhưng Xemerius đâu rồi? Tối qua nó biến mất lúc tôi đi tắm và từ đó không thấy mặt mũi đâu.
Tôi tỉnh ngủ hẳn dưới vòi hoa sen. Tôi dùng dầu gội và dầu xả đắt tiền của mẹ dù không được phép, dù biết sẽ bị lộ bởi hương hoa hồng và bưởi tuyệt diệu. Trong lúc lau tóc, tôi bất giác tự hỏi không biết Gideon có thích mùi hoa hồng và bưởi, để rồi ngay lập tức phải chấn chỉnh mình.
Vừa ngủ được một, hai giờ đồng hồ, tôi đã nghĩ đến gã! Mà nào đã có chuyện gì to tát xảy ra? Ừ, bọn tôi hôn nhau một chút trong buồng xưng tội, nhưng ngay sau đó hắn lại nhập vai thằng khốn. Dù ngủ có đẫy hay không thì tôi cũng không muốn nhớ lại cú rơi bịch từ tầng mây thứ chín. Kể chuyện này cho Leslie nghe, tôi làm nó cả tối qua không còn muốn đổi chủ đề.
Tôi sấy khô tóc, mặc quần áo, lững thững men theo mấy cầu thang dài dằng dặc xuống phòng ăn. Caroline, Nick, mẹ và tôi sống ở lầu ba. Khác với những phần khác trong ngôi nhà thuộc sở hữu của gia tộc tôi ít nhất đã ngàn năm (ít nhất!) thì ở đó khá dễ chịu.
Phần còn lại trong nhà chứa đầy đồ cổ và chân dung các cụ, kỵ khác nhau. Trong đó đếm không được mấy người khiến thiên hạ phải trầm trồ. Trong nhà còn có cả phòng khiêu vũ. Tôi từng dạy Nick đi xe đạp ở đó, tất nhiên là bí mật. Ai cũng biết giao thông trong thành phố lớn giờ nguy hiểm kinh khủng thế nào.
Như thường lệ, tôi thấy tiếc là bọn tôi không thể cùng mẹ dùng bữa ở trên này. Bà ngoại Arista cứ nằng nặc bắt mọi người phải có mặt ở cái phòng ăn ảm đạm có tường ốp gỗ màu sô cô la sữa. Đó là cách so sánh ngon lành duy nhất đấy. So sánh cách khác thì… ừm… dễ bỏ cơm lắm.
Ít ra không khí hôm nay đã nhiều phần khá hơn hôm trước, vừa bước vào phòng là tôi nhận ra ngay.
Quý bà Arista, vốn luôn mang dáng vẻ của giáo viên ballet, luôn sẵn sàng đét vào tay học trò, cất giọng vui vẻ: “Chào buổi sáng, cháu yêu!” Charlotte và mẹ chị ấy thì nhìn tôi mỉm cười như thể họ biết được điều gì đó mà tôi không hề hay biết.
Thường thì bác Glenda chẳng bao giờ mỉm cười với tôi (hoặc với bất cứ ai, trừ kiểu nhếch mép chua chát), và mới hôm qua Charlotte còn dành cho tôi mấy lời xấu xí. Vì thế tôi cẩn thận đề phòng ngay lập tức. “Có chuyện gì ạ?” Tôi hỏi.
Thằng em Nick mười hai tuổi của tôi nhoẻn miệng cười khi tôi ngồi xuống bên cạnh Caroline. Mẹ đẩy sang phía tôi một đĩa tú hụ bánh mì và trứng chiên bông. Tôi suýt ngất vì đói khi mùi thức ăn phả lên mũi.
“Ôi trời,” Bác Glenda nói. “Hôm nay cô định nhồi cho con cô lượng mỡ và cholesterol của cả tháng hay sao, Grace?”
“Vâng, đúng thế,” Mẹ thản nhiên.
“Sau này nó sẽ ghét cô vì cô không chăm chút tới hình thể của nó,” Bác Glenda lại cười mỉm.
“Hình thể của Gwendolyn không có gì đáng chê,” Mẹ đáp. “Bây giờ thì thế,” Bác Glenda vẫn cười mỉm.
“Mấy đứa bỏ cái gì vào trà của bác ấy à?” Tôi thì thầm với Caroline. “Lúc nãy có người gọi điện, rồi kể từ đó, bác và chị Charlotte tí tởn thế day,” Caroline thì thào đáp. “Cứ như vừa lột xác!”
Đúng lúc này, Xemerius hạ xuống bên ngoài bệ cửa sổ, khép cánh rồi vươn đầu đi qua lớp kính.
“Chào buổi sáng!” Tôi mừng rỡ nói.
“Chào buổi sáng!” Xemerius nhảy từ bệ cửa xuống một chiếc ghế trống.
Trong khi những người khác kinh ngạc nhìn tôi, Xemerius thò vuốt gãi bụng sồn sột. “Gia đình cậu khá đông. Dù chưa bao quát được hết nhưng tớ để ý thấy trong nhà này hơi bị nhiều đàn bà con gái. Quá nhiều là đằng khác. Và trông có vẻ như người ta cần thọc lét ngay một nửa trong số đó.” Nó vẩy cánh. “Thế các ông bố của đám trẻ đâu? Và thú vật nuôi trong nhà đâu? Cả cái nhà to vật vã mà không có nổi một con hoàng yến. Thất vọng quá đi mất.”
Tôi mỉm cười. “Bà Maddy đâu ạ?” Tôi hỏi và bắt đầu ăn ngấu nghiến. “Ta e là nhu cầu được ngủ của cô em chồng yêu quý còn lớn hơn cả sự tò mò,” quý bà Arista nghiêm trang nói. Bà ngồi thẳng đơ như cây nến bên bàn và xòe tay kiểu cách khi ăn một nửa miếng bánh mì phết bơ. (Tôi chưa bao giờ thấy bà ngồi kiểu nào khác.) “Vì hôm qua lỡ dậy sớm nên cả ngày, tâm trạng bà ấy bực bội khó chiều. Trước mười giờ sáng thì ta nghĩ bà ấy vẫn chưa xuất hiện đâu.”
“Con thấy thế lại tốt,” Giọng bác Glenda rin rít. “Mấy lời nhảm nhí về trứng lam ngọc với đồng hồ tháp của cô ấy khiến người ta điên cả đầu. À, cháu có khỏe không, Gwendolyn? Bác có thể hình dung được là tất cả những chuyện này rất rối rắm với cháu.”
“Vâng,” Tôi ậm ừ.
“Có lẽ rất kinh khủng, khi đột nhiên được biết mình mang sứ mệnh cao quý song lại không thể đáp ứng được mọi mong đợi.” Bác Glenda xiên một miếng cà chua trên đĩa.
“Ông George bảo là từ đầu đến giờ Gwendolyn đã làm rất tốt,” Quý bà Arista nói. Nhưng trước khi tôi kịp cảm kích vì sự trợ giúp của bà thì bà đã bồi thêm: “Nếu ta thông cảm với hoàn cảnh. Gwendolyn này, hôm nay người ta sẽ lại đến đón cháu ở trường rồi đưa tới Temple. Lần này chị Charlotte sẽ đi cùng cháu.” Bà nhấp một ngụm trà.
Tôi không thể mở miệng vì sợ rơi trứng ra ngoài, nên chỉ tròn mắt kinh hãi, trong khi Nick và Caroline đồng thanh hỏi thay tôi: “Vì sao lại thế ạ?” Bác Glenda lắc đầu theo kiểu của riêng mình, “Bởi vì Charlotte đã thành thạo tất cả những gì Gwendolyn lẽ ra phải biết để có thể hoàn thành nhiệm vụ cho tử tế. Và bây giờ, vì những sự kiện rối loạn trong mấy ngày vừa qua mà ai cũng có thể hình dung lại quá rõ, người bên Temple muốn Charlotte giúp em họ mình chuẩn bị cho những lần vượt thời gian tiếp theo.” Trông bác cứ như có cô con gái vừa giành huy chương vàng ở thế vận hội. Ít nhất là thế.
Cho những lần vượt thời gian tiếp theo? Vụ này là sao?
“Con mụ tóc đỏ gầy khô độc địa kia là ai vậy?” Xemerius hỏi. “Tớ hy vọng đó chỉ là họ hàng xa của cậu.”
“Tuy không hề bất ngờ trước thỉnh cầu này, nhưng chúng tôi vẫn phải cân nhắc xem có nên nhận lời không. Nói cho cùng thì Charlotte chẳng có
nghĩa vụ gì cả. Nhưng,” Nói tới đây thì con mụ… ấy chết, bác Glenda tóc đỏ gầy khô thở dài đầy kịch tính. “Charlotte ý thức rất rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ này và sẵn sàng quên mình để góp sức vào thành công.”
Mẹ cũng thở dài nhìn tôi ái ngại. Charlotte gạt lọn tóc đỏ lấp lánh ra sau tai và chớp chớp mi nhìn sang tôi.
“Hả?” Nick thốt lên. “Chị Charlotte thì dạy gì được chị Gwendolyn?” “Ô,” Má bác Glenda đỏ ửng vì hăng hái. “Nhiều chứ. Nhưng đòi Gwendolyn học hết được những gì Charlotte đã rèn luyện ngần ấy năm trời trong một thời gian ngắn là điều phi lý, chưa nói đến… những tài năng thiên phú được phân bổ khá bất công giữa hai đứa. Chúng ta chỉ có thể truyền đạt lại những điều cơ bản nhất. Mà theo như bác nghe kể, Gwendolyn thiếu kiến thức cơ bản đến thê thảm, cũng không nắm được cách ứng xử hợp với các thời đại khác nhau.”
Nói láo! Ai kể cho bác ta được nhỉ?
“Vâng, người ta đặc biệt cần biết ứng xử khi ngồi một mình trong căn hầm khóa kín,” Tôi đáp. “Nhỡ đâu vẫn bị mấy con chuột cống bắt quả tang đang ngoáy mũi.”
Caroline cười khúc khích.
“Ô, không đâu, Gwenny. Chị lấy làm tiếc vì phải nói với em điều này, nhưng trong thời gian tới mọi thứ sẽ phức tạp lên đôi chút với em đấy.” Charlotte nhìn tôi với ánh mắt lẽ ra nên đồng cảm, nhưng lại có vẻ đắc chí và cay độc.
“Chị cháu nói đúng.” Tôi vốn đã khá sợ ánh mắt như xuyên thấu của quý bà Arista, lần này nó còn khiến tôi giật mình. “Theo mệnh lệnh tối cao, cháu sẽ còn phải tốn nhiều thời gian ở thế kỷ 18,” bà nói.
“Và sẽ gặp nhiều người,” Charlotte bồi thêm. “Nếu thậm chí em còn không biết tên vị vua đang cai trị hoặc Réticule là gì thì người ta sẽ thấy rất kỳ quặc.”
Re… gì cơ?
“Là gì hả chị?” Caroline hỏi.
Charlotte mỉm cười kiêu sa. “Để chị em giải thích cho mà nghe.” Tôi tức giận nhìn Charlotte. Sao chị ta có thể vui mừng đến thế mỗi khi đẩy tôi vào thế ngu si và vô học? Bác Glenda cười khẩy.
“Là một dạng túi xách tay, một thứ túi vải vớ vẩn, thường chỉ dùng để đựng đồ thêu thùa vô bổ,” Xemerius nói. “Cả khăn tay. Và thuốc muối hít chống ngất.”
Ra thế!
“Réticule là từ cổ lỗ cho túi xách tay, Caroline,” Tôi nói, mắt không rời Charlotte. Mi mắt chị ta khẽ rung lên kinh ngạc nhưng nụ cười nhu mì vẫn nở trên môi.
“Theo mệnh lệnh tối cao? Nghĩa là sao ạ?” Mẹ tôi quay sang hỏi quý bà Arista. “Con tưởng chúng ta đã nhất trí sẽ cố gắng tách Gwendolyn ra khỏi chuyện này càng nhiều càng tốt. Con tưởng nó chỉ phải phân nhánh hồi khứ về những thời điểm an toàn. Sao bây giờ họ lại có thể quyết định đẩy nó vào nguy hiểm?”
“Đây không phải việc của con, Grace,” Bà lạnh lùng nói. “Con đã gây ra đủ chuyện phiền toái rồi.”
Mẹ cắn môi. Ánh mắt giận dữ của mẹ lia từ tôi sang quý bà Arista, rồi mẹ đẩy phắt ghế đứng lên. “Con phải đi làm,” mẹ nói. Mẹ hôn lên tóc Nick, nhìn sang phía tôi và Caroline. “Các con đi học vui nhé. Caroline, con nhớ cầm theo chiếc khăn cho giờ thủ công. Hẹn tối gặp lại các con.”
“Thương mẹ quá,” Caroline thì thầm khi mẹ ra khỏi phòng. “Tối qua mẹ đã khóc. Em nghĩ là mẹ không thích chị thừa hưởng gien vượt thời gian chút nào.”
“Ừ,” tôi bảo. “Chị cũng nhận ra.”
“Nhưng không chỉ có mẹ đâu,” Nick liếc mắt đầy ngụ ý về phía Charlotte và bác Glenda, họ vẫn mỉm cười.
Tôi chưa bao giờ nhận được nhiều chú ý khi bước vào lớp như hôm nay. Vì chiều qua có tới một nửa lớp chứng kiến cảnh tôi được xe Limousine đen tới đón.
“Vẫn tiếp tục nhận cá cược,” Gordon Gelderman nói. “Tỉ lệ tuyệt đối cho khả năng thứ nhất: Gã lãng tử đồng tính hôm qua là nhà sản xuất truyền hình, tuyển cả Gwendolyn và Charlotte cho chương trình, nhưng cuối cùng Gwendolyn thắng. Khả năng thứ hai: Hắn là gã anh họ đồng tính
của hai người, chuyên cung cấp dịch vụ đưa đón bằng xe Limousine. Khả năng thứ ba…”
“Im mồm đi Gordon,” Charlotte vặc, gạt tóc ra sau rồi ngồi vào chỗ. “Tớ thấy cậu cũng nên giải thích lý do vì sao cậu tuy quấn quýt với anh chàng ấy, nhưng sau đó Gwendolyn lại là người lên xe đi cùng hắn,” Cynthia Dale nịnh nọt. “Leslie định kể chuyện cổ tích cho bọn tớ, rằng hắn là thầy giáo phụ đạo của Gwendolyn!”
“Đương nhiên rồi, thầy giáo phụ đạo mà lại đi xe Limousine tới và nắm tay nữ hoàng băng giá nhà ta,” Gordon nhìn Leslie độc địa. “Rõ ràng là có âm mưu che giấu chuyện mờ ám nào đây.”
Leslie nhún vai, nhìn tôi mỉm cười. “Tớ không kịp nghĩ ra lý do gì hay ho hơn.” Nó ngồi phịch xuống ghế.
Tôi nhìn quanh tìm Xemerius. Lần cuối tôi trông thấy nó, nó đang nhấp nhổm trên mái trường, vui vẻ vẫy tôi. Tuy đã dặn dò nó tránh xa tôi trong giờ học, nhưng tôi không nghĩ là nó sẽ nghe lời.
“Kỵ sĩ xanh có vẻ là một ngõ cụt chính cống,” Leslie hạ giọng thì thào. Khác tôi, tối qua nó hầu như không ngủ, mà tìm kiếm hàng giờ trên mạng. “Một bức tượng ngọc thạch nhỏ nổi tiếng thời nhà Minh có tên như thế, nhưng hiện nó đang ở bảo tàng tại Bắc Kinh. Còn có tượng đài trên quảng trường thành phố Cloppenburg của Đức và hai cuốn sách cùng tên. Một cuốn là tiểu thuyết viết năm 1926 và cuốn kia là sách thiếu nhi, xuất bản sau khi ông cậu mất. Đến giờ tớ mới tìm được có thế.”
“Tớ tưởng đó là một bức tranh,” Tôi nói. Trong phim, các bí mật thường được giấu sau hoặc trong bức tranh.
“Nhầm to,” Leslie kêu lên. “Nếu đó là kỵ sĩ áo lam thì mọi sự đã khác… Tớ cũng đã nhiều lần dùng chương trình đảo từ cho KỴ SĨ XANH, nhưng nếu XANH KỴ SĨ có nghĩa thì tớ cũng chưa suy ra được. Nhưng tớ đã in ra vài khả năng, biết đâu cậu nghĩ ra được gì?” Nó đẩy một tờ giấy sang cho tôi.
“XANH SĨ KỴ,” tôi đọc. “KỴ XANH SĨ. Hừm… để nghĩ xem nào…” Leslie cười khúc khích. “Từ tớ thích nhất là: SĨ XANH KỴ. Ôi trời, thầy Sóc đang phi tới!”
Ý nó muốn nói đến thầy Whitman. Như mọi khi, thầy sải bước tiến vào lớp. Bọn tôi gắn cho thầy biệt danh này vì đôi mắt nâu to tướng. Nhưng
hồi đó, bọn tôi còn chưa biết thầy thực sự là ai.
“Tớ vẫn còn chờ bị kỷ luật vì chuyện hôm qua,” Tôi nói, nhưng Leslie lắc đầu.
“Làm thế sao được,” Nó đáp ngắn gọn. “Hoặc là thầy hiệu trưởng Gilles sẽ biết đồng nghiệp dạy Anh văn của mình chính là thành viên quan trọng trong một hội kín? Bởi vì nếu thầy dám hé ra thì tớ sẽ khai y chang thế. Ôi, chết tiệt, thầy đi đến đây. Lại vẫn ánh nhìn… cao ngạo!”
Đúng là thầy Whitman đi đến chỗ bọn tôi. Thầy đặt kẹp tài liệu dày cộp tịch thu của Leslie trong nhà vệ sinh nữ hôm qua lên bàn. “Tôi nghĩ là em rất muốn lấy lại bộ sưu tầm giấy tờ… cực kỳ thú vị này,” Thầy mỉa mai.
“Vâng, cảm ơn thầy,” Leslie hơi đỏ mặt. Bộ sưu tầm giấy tờ chính là tập tài liệu nghiên cứu hiện tượng vượt thời gian. Trong đó có mọi thông tin mà bọn tôi (đặc biệt là Leslie) đã tìm được về Đội Cận vệ và bá tước Saint Germain. Ở trang 34, ngay sau những bài sưu tầm về khả năng di vật cách cảm còn có một ghi chép liên quan tới thầy Whitman. Lão Sóc cũng là thành viên của hội kín? Nhẫn. Ý nghĩa? Bọn tôi chỉ có thể hy vọng thầy không vận lời ấy vào thân.
“Leslie, tôi không muốn nói ra điều này, nhưng tôi nghĩ em nên sử dụng năng lượng của mình để đầu tư cho một số môn học khác.” Thầy Whitman tuy mỉm cười, nhưng giọng thầy không chỉ giễu cợt. Thầy hạ giọng. “Không phải tất cả những gì người ta thấy thú vị cũng tốt cho mình.”
Có phải thầy đang dọa không? Leslie im lặng cầm kẹp hồ sơ cho vào cặp.
Đám bạn học tò mò đổ mắt nhìn về phía bọn tôi. Có lẽ họ tự hỏi không biết thầy Whitman đang nói chuyện gì. Charlotte ngồi đủ gần để nghe thấy lời thầy. Mắt chị ta lộ rõ vẻ đắc ý. Khi thầy Whitman bảo: “Còn em, Gwendolyn, dần dần em nên hiểu được rằng biết giữ bí mật là phẩm chất mà người ta không chỉ mong đợi, mà còn đòi hỏi ở em,” Chị ta gật gù đồng tình. “Đáng tiếc em lại tỏ ra mình kém xứng đáng đến thế.”
Thật bất công! Tôi quyết định noi gương Leslie. Thế là tôi và thầy Whitman im lặng nhìn nhau chằm chằm vài giây. Rồi nụ cười của thầy càng tươi, thầy đột ngột vỗ má tôi. “Nhưng thôi, ngẩng cao đầu lên! Tôi tin
chắc em sẽ còn học được rất nhiều điều,” Rồi thầy đi tiếp. “Còn Gordon, thế nào rồi? Lần này em lại chép nguyên văn bài luận trên mạng?” “Thầy vẫn cho phép bọn em được sử dụng tất cả các nguồn tài liệu tìm được cơ mà?” Gordon cãi. Trong một câu mà giọng nó ngân được qua hai quãng tám.
“Thầy Whitman muốn gì thế?” Cynthia Dale rướn người qua chỗ bọn tôi. “Tập hồ sơ gì đấy? Và sao thầy lại vỗ má cậu, Gwendolyn?” “Không cần ghen lồng lên đâu, Cyn,” Leslie bảo. “Thầy ấy chẳng yêu bọn tớ hơn cậu chút nào.”
“Úi,” Cynthia bảo. “Tớ đâu có ghen. Ý tớ là, này? Sao tất cả cứ nghĩ là tớ si mê thầy ấy nhỉ?”
“Có lẽ vì cậu là chủ tịch câu lạc bộ những người hâm mộ William Whitman?” tôi gọi ý.
“Hoặc vì cậu đã viết Cynthia Whitman hai chục lần lên giấy, lấy lý do cậu muốn biết cảm giác đó thế nào?” Leslie nói.
“Hoặc là vì…”
“Đủ rồi,” Cynthia nghiến răng. “Ngày xưa thì thế. Nhưng đã qua lâu rồi.”
“Mới hôm kia chứ lâu gì,” Leslie nói.
“Giờ tớ đã trưởng thành và chín chắn hơn,” Cynthia thở dài nhìn quanh lớp. “Tất cả cũng chỉ tại cái đám trẻ ranh kia. Nếu trong lớp mình có vài mống chững chạc hơn tí thì có ai phải lòng thầy giáo làm gì. À, nhân tiện: Anh chàng tới đón cậu bằng chiếc Limousine hôm qua ấy, Gwenny? Giữa hai người có gì không?”
Charlotte phì mũi đắc ý và ngay lập tức được Cynthia để mắt đến. “Giờ đừng úp mở nữa, Charlotte. Ai trong số hai cậu có gì với hắn?” Lúc này thầy Whitman đã bước lên bục giảng, yêu cầu cả lớp tập trung vào Shakespeare và những bản sonnet của ông.
Lần này là lần duy nhất mà tôi biết ơn thầy. Shakespeare còn hơn Gideon! Những tiếng xì xào xung quanh im bặt, thay vào đó là tiếng thở dài não nuột và tiếng lật trang loạt soạt. Nhưng tôi còn kịp nghe thấy Charlotte nói: “Gwenny thì chắc chắn là không.”
Leslie nhìn tôi thông cảm. “Nó chả biết gì,” Nó thì thầm. “Thực ra thì nó rất đáng thương.”
“Ừ,” tôi thì thào đáp. Nhưng thực ra tôi thấy mình đáng thương. Được Charlotte hộ tống chiều nay hẳn là một chuyện vô cùng thú vị.
Chiếc Limousine lần này không đợi chúng tôi ngay trước cổng trường mà ý tứ đỗ cách đó một quãng. Anh chàng Marley tóc đỏ nóng ruột đi đi lại lại trước xe và còn bối rối hơn khi thấy bọn tôi lại gần.
“A, ra là anh,” giọng Charlotte kém vui một cách lộ liễu, khiến Marley đỏ mặt. Charlotte liếc nhìn qua cửa sổ vào bên trong. Xe trống trơn, ngoài người lái và Xemerius. Vẻ thất vọng của Charlotte lại khiến tôi phấn chấn.
“Chắc cậu có nhớ tớ?” Xemerius thích chí ngọ nguậy trên ghế khi xe phóng đi. Marley ngồi ở trên còn Charlotte thì im lặng ngồi cạnh tôi, mắt nhìn chằm chằm ra cửa kính.
“Tốt đấy,” Xemerius không cần đợi tôi trả lời. “Nhưng chắc cậu thông cảm được, tớ còn nhiều nghĩa vụ khác chứ không chỉ trông nom cậu.” Tôi đảo mắt, Xemerius khoái chí cười rinh rích.
Đúng là tôi nhớ nó thật. Buổi học dai ngoách như kẹo cao su. Đến khi cô Counter giảng lâu vô tận về khoáng sản vùng biển Baltic thì tôi thực sự nhớ Xemerius và những câu bình phẩm của nó. Hơn nữa, tôi rất muốn giới thiệu nó với Leslie, theo cách khả thi nhất. Leslie vô cùng thích thú nghe tôi tường thuật, mặc dù những nét ký họa của tôi sau đó hơi bất lợi cho con quỷ đá tội nghiệp. (“Cái gì như cặp quần áo thế kia?” Leslie chỉ vào đôi sừng tôi vẽ.)
“Rốt cuộc thì cậu cũng có một người bạn tàng hình hữu ích!” Nó vui mừng nói. “Thử nghĩ mà xem: Khác với gã James chuyên đứng quẩn quanh vô nghĩa trong hộc tường và cằn nhằn về cách cư xử của cậu, con quỷ đá kia có thể dò la và nhòm ngó xem chuyện gì diễn ra sau những cánh cửa đóng kín.”
Tôi còn chưa hề nghĩ tới ý tưởng này. Nhưng đúng thật. Sáng nay Xemerius đã giúp tôi rất nhiều trong vụ chữ Re… Re… gì đó ám chỉ túi xách tay thời xưa.
“Xemerius có thể trở thành trợ thủ đắc lực của cậu,” Leslie nói. “Chứ không như gã James vô tích sự chuyên hờn dỗi.”
Tiếc là Leslie có lý khi nói về James. James thì… ừ nhỉ, James thực ra là gì? Nếu anh ấy có thể rung chuỗi hạt hoặc làm đung đưa chùm đèn thì còn có thể chính thức được mệnh danh là hồn ma của trường. James August Peregrin Pympoole-Bothame là một anh chàng bảnh trai trạc đôi mươi, đội tóc giả rắc phấn, mặc áo đuôi tôm thêu hoa và đã chết từ hai trăm hăm chín năm trước. Ngôi trường tôi học từng là tư dinh của cha mẹ anh ấy. Cũng như tất cả những hồn ma khác, anh không muốn chấp nhận sự thật rằng mình đã chết. Đối với anh, cuộc đời làm ma mấy trăm năm chỉ là giấc mơ kỳ dị, anh vẫn chờ khi thức dậy. Leslie e rằng anh đã bỏ lỡ khúc đường hầm quan trọng chói lòa ánh sáng ở phía tận cùng.
Tôi cãi: “James cũng không hẳn vô tích sự.” Mới hôm trước, tôi còn quyết định nhờ James - người con của thế kỷ 18 - giúp đỡ, ví dụ như dạy tôi đấu kiếm. Suốt mấy tiếng đồng hồ tôi cứ tưởng nếu nhờ James, tôi sẽ xài kiếm thành thạo như Gideon. Tiếc thay, tôi nhầm to.
Trong giờ học đấu kiếm đầu tiên (và có vẻ cũng là cuối cùng) vào giờ nghỉ giải lao ban nãy, Leslie cười lăn lộn. Đương nhiên nó không nhìn thấy James với những động tác mà tôi cho là rất chuyên nghiệp, cũng như không nghe thấy các khẩu lệnh: “Đỡ này, cô Gwendolyn, đỡ này! Terz! Prime! Terz! Quinte!” Nó chỉ trông thấy tôi cầm que giảng bài của cô Counter tuyệt vọng nghí ngoáy trong không khí, chống lại một thanh kiếm vô hình. Vô dụng. Và nực cười. Cười chán, Leslie bảo James nên dạy tôi điều gì khác thì hơn. Anh nhượng bộ đồng tình. James cho rằng cũng như tất cả các môn võ khác, đấu kiếm là việc của đàn ông. Theo anh, thứ nguy hiểm nhất mà một cô nương được phép cầm trong tay chính là chiếc kim thêu.
“Nếu như nam giới cũng tuân theo quy tắc này thì thế giới hẳn đã tốt đẹp hơn,” Leslie nói. “Nhưng chừng nào họ còn chưa làm thế thì tốt nhất phụ nữ cũng nên có sự chuẩn bị.” Suýt nữa James ngất lăn khi Leslie rút con dao dài khoảng 20 cm trong cặp ra. “Cậu có thể dùng nó tự vệ, nếu lần sau lại có thằng khốn nào trong quá khứ định đụng đến cậu.”
“Trông cứ như…”
“… con dao làm bếp của Nhật. Chém rau quả và cá tươi ngọt như cắt bơ.”
Tôi ớn lạnh sống lưng.
“Phòng trường hợp khẩn cấp,” Leslie nói thêm. “Chỉ là để cậu cảm thấy an toàn hơn một chút. Đây là thứ vũ khí tốt nhất tớ có thể nhanh chóng tậu được mà không cần giấy phép sử dụng.”
Giờ thì trong cặp tôi đang chứa con dao giắt trong cái vỏ chế từ hộp kính của mẹ Leslie. Và cả một cuộn băng dính mà nếu tin lời Leslie thì sẽ có dịp dùng đến.
Người lái xe cua gấp một phát. Xemerius không kịp bám, trượt vèo trên ghế da rồi va vào Charlotte. Nó vội vàng lồm cồm bò dậy. “Người gì mà thẳng dơ như cột nhà,” nó bình phẩm và rũ cánh. Nó ngồi bên cạnh ngắm nghía chị ấy. “Bây giờ chúng ta có thêm cô này đeo bám cả ngày à?”
“Ừ, chán thật,” Tôi nói.
“Chán gì cơ?” Charlotte hỏi.
“Chán vì lại lỡ bữa trưa,” Tôi nói.
“Tại em thôi,” Charlotte đáp. “Nhưng nói thật nhé, em có giảm đi vài cân cũng chẳng hại gì. Dù sao em cũng phải xỏ vừa những bộ váy mà Madame Rossini đã may cho chị.” Chị mím môi một thoáng, và cảm giác thương hại chợt nhú lên trong tôi. Có lẽ chị ấy thực sự mong được mặc những bộ đồ của Madame Rossini, nhưng sự xuất hiện của tôi đã làm hỏng mọi chuyện. Tất nhiên không phải cố ý, nhưng hỏng thì vẫn hỏng.
“Trong tủ của em vẫn còn chiếc váy em mặc khi đi gặp bá tước Saint Germain,” Tôi nói. “Nếu chị thích thì em đưa cho. Chị có thể mặc nó trong buổi tiệc hóa trang lần tới ở nhà Cynthia - em cá rằng tất cả mọi người sẽ choáng khi nhìn thấy chị!”
“Chiếc váy đó không phải của em,” Charlotte sẵng giọng. “Đó là tài sản của Đội Cận vệ, em chẳng có quyền quyết định gì hết. Chỗ của nó cũng không phải trong tủ của em đâu.” Chị ta lại nhìn ra cửa kính. “Cằn nhằn, cằn nhằn suốt ngày,” Xemerius bảo.
Charlotte khiến người ta khó ưa nổi, xưa nay đều thế. Biết rõ từ lâu, nhưng tôi vẫn ức chế vì không khí lạnh lẽo trong xe. Tôi cố thử thêm lần nữa. “Chị Charlotte này…?”
“Chúng ta sắp đến nơi,” Charlotte ngắt lời. “Chị rất nóng lòng muốn biết liệu chúng ta có gặp ai đó trong Bộ Nội vụ.” Nét mặt cau có của chị ta đột nhiên rạng rỡ hẳn lên. “Ý chị là ngoài những người chúng ta đã biết. Hồi hộp quá. Trong những ngày tới, ở Temple sẽ chỉ nô nức toàn những huyền thoại sống. Nhiều chính khách nổi tiếng, những người đoạt giải Nobel và khoa học gia danh giá sẽ hội tụ trong những gian phòng thiêng liêng này mà cả thế giới không hề hay biết. Koppe Jötland sẽ tới, ôi, lại còn cả Jonathan Reeves-Haviland nữa… Chị ước gì được bắt tay ông ấy.” So với thường ngày, giọng Charlotte thực sự hào hứng.
Tôi thì hoàn toàn chẳng biết chị ấy đang nói đến ai. Tôi nhìn Xemerius dò hỏi, nhưng nó chỉ nhún vai lắc đầu. “Sorry, tớ chưa từng nghe đến ai trong đám hề đó bao giờ,” Nó bảo.
“Người ta làm sao biết hết mọi chuyện được,” Tôi đáp với nụ cười đồng cảm.
Charlotte thở dài. “Không thể biết hết, nhưng thỉnh thoảng đọc vài tờ báo nghiêm túc hoặc xem qua tạp chí tin tức để cập nhật tình hình chính trị thế giới thì cũng chẳng hại gì. Đương nhiên là lúc đó cũng phải động não một chút… nếu như trong đầu có não.”
Tôi đã bảo rồi, chị ấy không dễ để người ta ưa.
Chiếc Limousine dừng lại, Marley xuống mở cửa xe - cửa bên phía Charlotte - như tôi để ý nhận ra.
“Ngài Giordano đang chờ các cô trong Cổ yến phòng,” Marley nói. Tôi có cảm giác cố gắng lắm anh ta mới không thốt ra: Thưa ngài! “Tôi sẽ đưa các cô lên đó.”
“Tôi biết đường rồi,” Charlotte nói và quay về phía tôi. “Đi thôi!” “Hình như cậu có vẻ gì đó khiến người ta chỉ muốn ra lệnh cho cậu,” Xemerius nói. “Có cần tớ đi cùng không?”
“Có chứ,” tôi nói và đi vào những lối hẹp. “Có cậu ở bên tớ yên tâm hơn.”
“Cậu mua chó cho tớ nhé?”
“Không!”
“Nhưng cậu thích tớ, đúng không? Tớ nghĩ tớ phải thường xuyên tỏ ra bận rộn!”
“Hoặc có ích,” Tôi nghĩ tới lời Leslie. Xemerius có thể trở thành trợ thủ đắc lực của cậu. Đúng đấy. Mấy ai có được một người bạn biết đi xuyên tường?
“Nhanh chân lên,” Charlotte gọi. Chị ta và Marley đi cạnh nhau, trước bọn tôi vài mét. Mãi giờ tôi mới nhận thấy trông họ giống nhau tới mức nào.
“Dạ vâng, thưa cô Rottenmeier,” tôi đáp.
Meet the time as it seeks us.
(Đón thời cuộc khi nó tìm tới chúng ta)
WILLIAM SHAKESPEARS (Bi kịch Cymbeline)
CHƯƠNG 5
Chốt lại: Tôi có mơ cũng không hình dung nổi giờ học với Charlotte và Giordano lại kinh khủng đến thế. Người ta cố nhồi mọi thứ vào đầu tôi cùng một lúc: Trong khi tôi (yêu kiều trong chiếc váy lồng khung màu anh đào kẻ sọc, cực kỳ hợp với áo sơ mi đồng phục màu bột khoai tây) mải chiến đấu với những bước nhảy của điệu Menuett, tôi đồng thời phải hiểu được những nét khác biệt về quan điểm chính trị của phe Whigs và Tories. Tôi còn phải học cách cầm quạt, phân biệt các xưng hô “Tâu bệ hạ”, “Thưa điện hạ” và “Bẩm đại nhân”. Chỉ sau một tiếng đồng hồ với mười bảy cách mở quạt khác nhau, đầu tôi đã đau như búa bổ và không còn phân biệt nổi đâu là trái đâu là phải. Câu nói đùa nhằm thay đổi không khí của tôi: “Chúng ta nghỉ một chút được không, cháu đã hoàn toàn hạ bệ!” không hề được tán thưởng.
“Chẳng buồn cười gì cả,” Giordano nói giọng mũi. “Đồ ngốc.” Cổ yến phòng ở tầng trệt rất rộng, có những ô cửa sổ cao hướng ra sân. Ngoài cây dương cầm cánh và vài chiếc ghế dựng dọc tường, trong phòng không còn đồ đạc gì khác. Vì thế Xemerius lại đung đưa treo ngược trên chiếc đèn chùm như mọi khi, cánh khép gọn gàng sau lưng. Giordano tự giới thiệu: “Giordano, chỉ Giordano thôi. Tiến sĩ sử học, thiết kế thời trang danh tiếng, thầy luyện khí công, nhà thiết kế trang sức sáng tạo, biên đạo nổi tiếng, môn sinh tam phẩm, chuyên gia về thế kỷ 18 và 19.”
“Ôi trời đất ơi,” Xemerius thốt lên. “Có người bị ấm đầu từ bé kìa.” Tôi chỉ có thể im lặng đồng tình với nó. Lão Giordano, à nhầm, chỉ Giordano, quá giống mấy người bán hàng điên khùng trên kênh đặt hàng qua mạng. Giọng mấy người ấy nghe như bị cặp quần áo kẹp mũi và chó phốc cắn vào chân dưới gầm bàn. Tôi chỉ chờ lão chu môi (bơm chích?) ra cười và nói: “Và bây giờ, thưa quý vị khán giả thân mến, chúng ta sẽ đến
với nhãn hiệu Brigitte. Đây là chiếc bình lưu thủy hạng nhất, một ốc đảo hạnh phúc chỉ với giá hăm bảy bảng, rẻ như cho không. Nhào vô mua thôi, thưa quý vị, bản thân tôi cũng có tới hai chiếc ở nhà…”
Nhưng thay vào đó, lão nói, không hề mỉm cười: “Charlotte yêu quý của ta, xin chào, xin chào!” rồi hôn chụt vào hai bên trái, phải cạnh tai Charlotte. “Ta đã nghe kể lại và vẫn không sao tin nổi! Thế là uổng phí bao nhiêu năm miệt mài luyện tập, bao nhiêu tài năng! Đúng là kêu trời không thấu, thật là tai tiếng, bất công đến thế là cùng… Nó đây phải không? Người đóng thế cháu?” Trong khi nhìn tôi từ đầu xuống chân, miệng lão cong vếu. Tôi không thể không kinh ngạc nhìn lại. Lão có kiểu tóc giông bão kỳ dị được đổ bê tông trên đầu bằng keo vuốt và keo xịt. Những đường râu đen mỏng ngoằn ngoèo nửa mặt dưới như những dòng sông trên bản đồ. Đôi lông mày cắt tỉa cẩn thận và được tô thêm bằng bút dạ đen. Nếu tôi không nhầm thì mũi lão còn thoa phấn.
“Và đến tối ngày kia nó phải nhuần nhuyễn hòa mình vào dạ yến của năm 1728?” Lão nói. “Nó” chắc là ám chỉ tôi. Còn “dạ yến” hẳn là cái khác. Nhưng là cái gì.
“Này, này, tớ nghĩ là cái lão môi bánh cuốn vừa sỉ nhục cậu đấy,” Xemerius nói. “Nếu cậu cần tìm câu chửi tục nào để đốp lại thì cứ bảo: Tớ sẵn sàng nhắc vở.”
“Môi bánh cuốn”, cái tên đúng là không tệ.
“Dạ yến là một dạng tiệc tối chán ngắt,” Xemerius nói tiếp. “Phòng trường hợp cậu chưa biết. Người ta ngồi lại sau khi ăn tối, thay nhau chơi thứ gì đó trên đàn dương cầm và cố không ngủ gật.”
“À, cảm ơn nhé!” tôi nói.
“Cháu vẫn chưa thể tin được là họ thực sự muốn mạo hiểm chuyện này,” Charlotte vắt áo choàng lên ghế. “Để Gwendolyn gặp gỡ mọi người là việc đi ngược lại hoàn toàn với nguyên tắc giữ hành tung bí mật. Chỉ cần nhìn nó là người ta đã có thể thấy ngay có gì đó không ổn.”
“Đúng thế, ta cũng nghĩ hệt thế!” Môi bánh cuốn kêu lên. “Nhưng bá tước lâu nay vẫn nổi tiếng về tính khí đặc biệt thất thường.” Charlotte lật qua cuốn vở để trên cây dương cầm. “Nó phải đóng vai người được tử tước Betten bảo trợ? Còn Gideon là con trai ông ấy? Như thế không quá mạo hiểm sao? Ngộ nhỡ có ai ở đó cũng quen tử tước và gia
đình của ông ấy? Sao họ không chọn một tử tước tha phương người Pháp?”
Giordano thở dài. “Thế cũng không được vì nó không thạo tiếng Pháp. Có lẽ bá tước muốn thử thách chúng ta. Chúng ta phải chứng minh cho ngài thấy chúng ta có thể biến con bé thành một tiểu thư của thế kỷ 18. Chúng ta buộc phải thế!” Lão giơ tay lên trời.
“Cháu nghĩ nếu người ta làm được điều này với Keira Knightly thì cũng làm được với cháu,” Tôi tự tin nói. Keira Knightly hẳn là cô gái hiện đại nhất thế giới. Nhưng trông cô ấy vẫn tuyệt vời trong các phim cổ trang, thậm chí cả khi đội những bộ tóc giả điên rồ nhất.
“Keira Knightly?” Hai hàng lông mày đen nhướng lên gần chạm chân tóc giả. “Trên phim thì được, nhưng chẳng cần đến mười phút ở thế kỷ 18, Keira Knightly nhất định bị lật tẩy. Chỉ riêng cái kiểu cười nhe răng, cười ngửa đầu ra sau và cười ngoạc mồm ra là đủ! Chẳng có người phụ nữ nào ở thế kỷ 18 lại làm thế cả!”
“Ông làm sao biết chính xác thế,” Tôi nói.
“Cái gì?”
“Cháu bảo là chính xác thế thì…”
Môi bánh cuốn nhìn tôi nảy lửa. “Chúng ta cần lập tức đặt ra nguyên tắc đầu tiên, chính là: Không được phép nghi ngờ những gì sư phụ nói.” “Thế ai là sư phụ - à, cháu hiểu rồi, ông,” Tôi hơi đỏ mặt, còn Xemerius bắt đầu bật cười ha hả. “Vâng. Không được cười hở răng. Cháu nhớ rồi.” Chuyện này dễ ợt. Cũng khó mà tìm ra lý do để cười trong cái dạ yến chết tiệt đó.
Sư phụ Môi bánh cuốn hài lòng hạ lông mày xuống, và vì không nghe được tiếng Xemerius rú: “Đồ điên!” từ trên trần nhà, lão bắt đầu với nhiệm vụ truy bài buồn thảm. Lão muốn biết kiến thức của tôi về chính trị, văn học, phong tục và tập quán của năm 1782, và những câu trả lời của tôi (“Cháu chỉ biết hồi đó chưa có những gì - ví dụ như chưa có xả bồn cầu tự động và quyền bầu cử cho phụ nữ”) khiến lão tuyệt vọng úp mặt vào tay vài giây.
“Tớ sắp cười vãi đái ở trên này,” Xemerius nói, và khổ thay, tâm trạng đó cũng dần dần lây qua tôi. Phải cố gắng lắm tôi mới ghìm được những trận cười đang từ bụng chen nhau dồn lên.
Charlotte dịu dàng nói: “Cháu tưởng họ đã báo trước về việc nó tuyệt đối không được chuẩn bị chút nào, thưa sư phụ.”
“Nhưng mà ta… ít ra thì những kiến thứ cơ bản…” Gương mặt sư phụ ló ra sau đôi bàn tay. Tôi không dám nhìn. Lỡ lớp son phấn trang điểm kia nhòe đi thì tôi cười nôn ruột ra mất.
“Thế còn năng khiếu âm nhạc của cô? Dương cầm? Thanh nhạc? Thụ cầm? Còn khiêu vũ giao tiếp? Điệu Menuett à deux đơn giản chắc là cô biết, nhưng còn những điệu nhảy khác?”
Thụ cầm? Menuett à deux? Ha ha! Giờ thì tôi không còn kiềm chế được nữa và cười rú lên.
“Hay quá, ít ra thì ở đây cũng có một người vui,” Môi bánh cuốn sững sờ thốt lên. Đây hẳn là lúc lão quyết định sẽ hành tôi cho tới khi tôi không cười nổi nữa mới thôi.
Và không phải đợi lâu. Chỉ mười lăm phút sau, tôi đã nhận ra mình là kẻ ngu si và vô dụng nhất trên đời, mặc cho Xemerius cố hết sức động viên từ trên trần nhà. “Cố lên, Gwendolyn, hãy chứng tỏ tài năng của cậu cho hai kẻ bạo hành kia biết!”
Tôi còn muốn làm gì hơn thế, chỉ tiếc là tôi không có tài năng nào. “Tour de Mam, tay trái, đồ ngốc, nhưng quay sang phải, Cornwallis đầu hàng, huân tước North thoái vị năm 1782, với hậu quả là… quay sang phải - không, sang phải! Ôi trời đất ơi! Charlotte, làm ơn chỉ lại cho nó lần nữa!”
Và Charlotte chỉ lại cho tôi. Phải công nhận chị ấy nhảy rất đẹp, trông dễ như ăn kẹo.
Và thực ra cũng dễ thôi. Người ta chỉ cần tiến lên, lùi xưống, xoay vòng, liên tục mỉm cười nhưng không được để lộ răng. Tiếng nhạc vọng ra từ mấy cái loa ẩn trong tường ốp gỗ, và tôi buộc phải công nhận đây không hẳn là thứ nhạc khiến người ta vừa nghe đã giậm giật chân cẳng.
Có thể tôi đã nhớ được trình tự những bước nhảy nếu Môi bánh cuốn ngừng lải nhải bên tai. “Từ năm 1779 vẫn chiến tranh với Tây Ban Nha… còn bây giờ là xoay vòng, làm ơn đi, chúng ta còn phải tưởng tượng ra người thứ tư, rồi nhún chân đi, đúng thế, làm ơn duyên dáng hơn một chút. Lại từ đầu nào, đừng quên mỉm cười, ngẩng đầu lên, nâng cằm lên, Anh vừa mất thuộc địa Bắc Mỹ, ôi trời đất ơi, không, sang bên phải cơ mà, tay
ẳ
"""