"
Là Người Nhật PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Là Người Nhật PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LÀ NGƯỜI NHẬT
(Lịch Sử, Thi Ca Và Kịch Bản Học Quá Trình Hình Thành Chế Độ Toàn Trị)
Tác giả: A.N. Mesheriakov
Người dịch: Phạm Nguyên Trường
Phát hành & NXB: Nhà xuất bản Tri Thức 03/2016 —★—
ebook©vctvegroup
LỜI GIỚI THIỆU
Tác phẩm Là người Nhật - Lịch sử, Thi ca và Kịch bản học quá trình hình thành chế độ toàn trị của A. N. Mesheriakov, một nhà Nhật Bản học nổi tiếng, là phần tiếp theo của cuốn Hoàng đế Minh Trị và nước Nhật Bản của Ngài - một bestseller của ông. Tác phẩm mới này nói về giai đoạn đầy bi kịch trong lịch sử Nhật Bản nửa đầu thế kỉ XX, giai đoạn đất nước này đang rơi nhanh vào vực thẳm của chế độ toàn trị. Những cuộc chiến tranh do Nhật Bản tiến hành trong giai đoạn đó đã gây ra biết bao đau khổ cho chính nhân dân Nhật Bản cũng như nhân dân các nước khác.
Lần đầu tiên, tác giả cho ta thấy cơ chế quản lí và đặc biệt là cơ chế văn hóa đã tạo điều kiện cho nhà cầm quyền huy động quần chúng một cách thành công chưa từng có. Ông cố gắng tìm hiểu người Nhật giai đoạn đó, con đường mà đất nước lựa chọn hấp dẫn họ ở điểm nào. Ông tập trung vào những vấn đề hết sức lí thú như quan niệm của người Nhật đối với thể xác và tinh thần, đối với tuổi già và tuổi trẻ, đối với mình và với người.
Đây là tác phẩm không thể thay thế cho tất cả những người muốn đi sâu tìm hiểu lịch sử và văn hóa Nhật Bản.
Người dịch
Cỏ hoa mùa xuân
Và chiến công năm cũ…
Chỉ còn là những giấc mơ
Matsuo Basho*
LỜI NÓI ĐẦU
Cũng như những thế kỉ trước, thế kỉ XX là thế kỉ của những điều không tưởng, vấn đề là, những điều không tưởng của thế kỉ XX khác hẳn với những điều không tưởng của quá khứ. Khác không chỉ ở tính chất của những ước mơ mà còn ở quy mô của những mưu toan nhằm hiện thực hóa chúng nữa. Sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, giao thông và thông tin liên lạc đã dẫn đến việc hiện đại hóa công nghệ quản lí, cho phép huy động vào công cuộc xây dựng tương lai tươi sáng một lượng người lớn chưa từng có, nó tạo điều kiện cho nhà nước thâm nhập vào mọi ngóc ngách của đời sống, khiến số lượng nạn nhân cũng ở mức độ chưa từng có. Đô thị hóa làm cho cơ chế kìm hãm và nền đạo đức cũ sụp đổ, những giá trị và định hướng cũ mất dần ý nghĩa. Dân chúng rất dễ bị lừa mị, nhân dân biến thành đám đông ngay trong chớp mắt.
Mưu toan xây dựng các chế độ không tưởng được thực hiện cả ở Liên Xô, cả ở nước Đức quốc xã lẫn nước Nhật. Liên Xô xây dựng chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nước Đức quốc xã xây dựng “trật tự mới ở châu Âu”, còn nước Nhật phong kiến thì xây dựng khu vực thịnh vượng chung của các dân tộc Á Đông. “Tương lai tươi sáng”, “Sứ mệnh vĩ đại”, “Hòa bình vĩnh cửu”, “Hạnh phúc cho tất cả mọi người” đã nghiễm nhiên bước vào từ điển của các chế độ không
tưởng đó. Phương tiện để thực hiện những mục tiêu này chính là bạo lực. Bạo lực đối với chính nhân dân nước mình và với các dân tộc khác. Bạo lực đối với thông tin, đối với văn hóa, đối với thể xác và bạo lực quân sự. Cho nên, để thực hiện các tư tưởng không tưởng, ở cả ba nước nói trên người ta đều thiết lập một hệ thống cai trị. Hệ thống này phải được gọi là chủ nghĩa toàn trị.
Thuật ngữ này rộng hơn khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa xã hội quốc gia” hay “chế độ quân chủ”. Nó gom vào cùng một nhóm những chế độ và cơ cấu nhà nước đặc thù: đối với các chế độ này, đời sống của con người chẳng có một chút giá trị gì. Vì vậy, nhà nước tự giành lấy cho mình quyền - cả về mặt đạo đức lẫn pháp lí - thâm nhập vào mọi lĩnh vực có thể tưởng tượng được, nó tước đoạt ngay cả quyền sống độc lập của con người. Nó tạo ra một kiểu người không đủ sức suy nghĩ một cách độc lập về những lợi ích cá nhân và “ích kỉ” của chính mình.
Động viên, kế hoạch, chủ nghĩa tập thể, thống nhất, đấu tranh là những đặc trưng gắn liền với đời sống và hệ tư tưởng của những nhà nước đó. Lợi ích của những con người cụ thể bị lờ đi và bị coi là chủ nghĩa cá nhân thối tha. Đơn vị xã hội là giai cấp, đất nước và dân tộc. Con người chỉ được coi là có “đầy đủ giá trị” khi đã hòa nhập vào quần chúng. Những đám quần chúng này có niềm tự hào riêng của mình, họ coi mình là những người làm nên lịch sử, và rất dễ rơi vào tình trạng bị kích động, thậm chí còn lấy làm hài lòng vì bị kích động nữa.
Người ta thường nghĩ rằng dân chúng luôn luôn là nạn nhân của những chính trị gia khôn khéo và bất lương, những kẻ lúc nào cũng
chỉ theo đuổi quyền lợi ích kỉ. Tôi cho rằng hiểu như thế là không đúng. Phần lớn các chính trị gia và sử gia vẫn còn là tù nhân của những ảo tưởng “mị dân”: nhân dân bao giờ cũng đúng. Còn nếu nhận thấy ở nhân dân có điều gì đấy tiêu cực thì bao giờ họ cũng bảo rằng nhân dân đã bị lừa bịp. Nghĩa là trước những sự kiện đang diễn ra, “người dân bình thường” không phải chịu bất kì trách nhiệm đạo đức nào, nhân dân bị coi là những đứa trẻ vị thành niên và không thể bị đưa ra xét xử. Kể cả xét xử trước tòa án của lịch sử. Cách hiểu như thế, theo tôi, là vô trách nhiệm và đầy khiếm khuyết. Nhà nước toàn trị là kết quả hoạt động của rất nhiều người, mỗi người trong số họ phải chịu phần trách nhiệm của mình.Phần trách nhiệm của mỗi người dĩ nhiên là khác nhau, nhưng những mưu toan “biện hộ” cho nhân dân nhất định sẽ đưa đến sự băng hoại cả về mặt đạo đức lẫn thể xác của họ.
Cả Nhật, Đức và Liên Xô đều tiếp cận với quá trình công nghiệp hóa tương đối muộn. Nhưng quá trình công nghiệp hóa lại diễn ra với tốc độ nhanh chưa từng có, tay chân hoạt động nhanh hơn đầu óc, tình cảm không theo kịp máy móc. Trong khi tự hào với sức mạnh quân sự và công nghiệp của đất nước mình thì người dân lại khao khát tinh thần gia trưởng xưa cũ. Sự phát triển của nền văn minh đô thị dẫn đến sự đa dạng, mà đôi khi lại bị coi là hỗn loạn. Sự phân chia trong nội bộ làng xã thành “mình” và “họ” đã được mở rộng sang các giai cấp và dân tộc, và đạt đến biên giới quốc gia chứ không còn giới hạn trong làng xã nữa. Bị đẩy từ nông thôn lên phố thị, con người bị cắt rời khỏi cội rễ và những cơ chế kìm hãm của xã hội truyền thống. Họ trở thành những chủ thể độc lập của quá trình
sáng tạo của lịch sử. Trong khi đó, họ lại là những người nhu nhược và là đối tượng tuyệt vời cho việc ru ngủ và những thủ đoạn lừa gạt khác. Chính họ cũng muốn “thống nhất” tình cảm và cảm xúc của mình vì không thể chịu đựng nổi những thử thách của sự cô đơn và chủ nghĩa cá nhân. Họ thường xuyên bị những căng thẳng, những cơn rối loạn thần kinh và thái độ hung hãn giày vò; họ sẵn sàng tìm và dễ dàng tìm được kẻ thù. Ở cả trong cũng như ngoài biên giới quốc gia.
Xã hội trở thành một đội quân cực kì đông đảo, tất cả các chiến binh đều sẵn sàng thi hành mệnh lệnh ngay lập tức. Đàn ông lí tưởng không phải là người có thể tự đưa ra quyết định mà là người chiến sĩ sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh một cách vô điều kiện. Thực tế là không có ngoại lệ, mọi người đều được xếp vào đội ngũ, không ai được quyền hành động một cách độc lập. Phụ nữ và trẻ con cũng được yêu cầu trở thành những người giống như mẫu đàn ông nói trên. Và họ cũng vui vẻ đi theo con đường đó. Tất cả đều muốn đoàn kết với những người còn lại. Tất cả đều sợ cảnh cô đơn.
Cả Nhật, Đức và Liên Xô đều tuyên bố rằng mục tiêu cuối cùng của họ là hòa bình. Nhưng không nước nào trong ba nước nói trên có thể tồn tại và muốn tồn tại trong điều kiện hòa bình. Chiến tranh - giữa các quốc gia, giữa các sắc tộc, giữa các chủng tộc và giai cấp - là điều kiện tồn tại chủ yếu của họ. Nhà nước toàn trị chỉ có thể tồn tại trong không gian ngày càng được mở rộng, khi các cơ quan như quân đội và công an có nhiều quyền lực hơn các cơ quan dân sự, khi lĩnh vực đối nội phải phục tùng các mục tiêu đối ngoại. Tính
chất không tưởng của những mục tiêu nói trên nhất định sẽ xung đột với bản chất của con người, bạo lực sẽ ngày càng gia tăng và sự chống đối cũng tăng theo. Chính vì vậy mà thời gian tồn tại của chủ nghĩa toàn trị mới ngắn như thế, cơ chế tự hủy đã được cấy sẵn vào trong lòng nó ngay từ đầu.
Trong nhiều nước “tiên tiến” thế kỉ XX, nghệ thuật quản lí con người mới được phát minh (giáo dục bắt buộc và giống nhau, chế độ quân dịch chung cho tất cả mọi người, sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng), cũng như sự phát triển chưa từng có của khoa học và kĩ thuật đã dẫn đến niềm tin ngây ngô và nguy hiểm vào khả năng vô hạn của nhà nước cũng như khả năng huy động của nó. Các nhà nước thế kỉ XIX không thể cấp súng cho hàng triệu người dân của mình. Các nhà nước này cũng không thể động viên hàng trăm ngàn người tham gia những cuộc biểu tình ủng hộ họ. Họ cũng không thể bắt buộc dân chúng mơ ước rằng hai mươi năm sau cuộc đời sẽ tốt hơn hẳn. Và muốn thế thì phải hi sinh. Trong thế kỉ XX, niềm tin như thế đã trở thành tài sản chung, các ảo thuật gia đã nắm được quyền điều khiển cuộc chơi. Rất ít người nghi ngờ, nếu có cũng không thể át được tiếng nói của đám đông; điều đó đã dẫn đến kết cục bi thảm cho hàng trăm triệu người. Tất cả đều chịu chung hậu quả: cả những người nghi ngờ lẫn các ảo thuật gia và những người muốn được họ dắt mũi nữa.
Các đảng viên quốc xã, những người dân tộc chủ nghĩa Nhật Bản và đảng viên cộng sản Liên Xô có quan niệm khác nhau về thiên đường trên cõi thế. Thiên đường quốc xã không có người Do Thái và người Di-Gan, nhưng có những sắc dân khác, đấy là những
sắc dân phải lao động vì hạnh phúc của dân tộc thượng đẳng. Trong thiên đường Nhật Bản với tên gọi “Khu vực thịnh vượng chung Đại Đông Á”, Nhật Bản vĩ đại là người truyền bá ánh sáng và đức hạnh, là người dẫn các dân tộc bị những tên đế quốc “da trắng” áp bức bước vào tương lai. Thiên đường chính là sự “hài hòa” hay địa vị rõ ràng và dứt khoát cho các dân tộc, mỗi dân tộc sẽ có vị thế tương xứng của mình. Thiên đường cộng sản được mường tượng như là một xã hội thuần nhất, không còn dân tộc, không còn giai cấp, mọi người đều bình đẳng.
Mặc dù có những khác biệt như thế, nhưng phương pháp xây dựng thiên đường thì lại giống nhau đến lạ lùng. Các kiến trúc sư không tưởng luôn theo dõi nhau và với thái độ đầy ngờ vực, nhưng lại sẵn sàng bắt chước kinh nghiệm của nhau, coi đó là sản phẩm của chính mình. Chủ nghĩa toàn trị có đặc điểm là mang tính quốc tế, hệ thống toàn trị này không thể tồn tại nếu không có hệ thống kia. Chế độ toàn trị Nhật Bản cáo chung ngay sau khi chế độ toàn trị quốc xã sụp đổ. Sau đó chế độ toàn trị Xô Viết rơi vào giai đoạn hấp hối và tự sụp đổ - không có sự thúc đẩy mạnh mẽ từ bên ngoài, khả năng sáng tạo của nó đã suy kiệt một cách nhanh chóng.
Các nhà lãnh đạo Nhật Bản, Đức và Liên Xô là những người dễ bị kích động và thiếu văn hóa. Nói về đạo đức, những người cầm quyền Nhật Bản ăn đứt giới lãnh đạo chóp bu của Đức và Liên Xô. Họ chưa từng kêu gọi giết người, nhưng ngôn từ không tưởng của họ nhất định sẽ dẫn đến giết người. Các nhà lãnh đạo Nhật Bản, Đức và Liên Xô đều tin vào sứ mệnh thiêng liêng và khẳng định tính độc đáo của đất nước mình. Họ tin rằng mình nắm được chân lí và
có những bản thiết kế thần thánh, họ sẽ xây dựng tương lai theo đúng những bản thiết kế đó. Ý tưởng về tương lai tươi sáng đã làm họ lên cơn say. Họ không hề nghĩ rằng điều khiển một đất nước trong tình trạng say sưa là một việc làm vô cùng nguy hiểm, cho cả mình lẫn những người xung quanh, nguy hiểm hơn cả lái xe trong tình trạng say rượu.
Nhưng thuật ngữ “chủ nghĩa toàn trị” không xóa nhòa hiện tượng là phương pháp xây dựng chế độ toàn trị trong mỗi nước lại có những khác biệt cực kì sâu sắc. Chế độ toàn trị ở mỗi nước lại có những cơ chế đặc thù về văn hóa và dân tộc. Cái nhìn từ vũ trụ tưởng là giống nhau thì trên mặt đất hóa ra lại khác nhau. Khác với Đức và Liên Xô, cơ cấu bộ máy nhà nước Nhật, mà trung tâm của nó là vị hoàng đế thiêng liêng, không cần phải chứng minh tính chính danh của mình. Vì vậy mà hào quang hàng thế kỉ luôn luôn tỏa ra xung quanh những lời có cánh và những ẩn dụ mà nó sử dụng. Viện dẫn truyền thống là biện pháp rất thịnh hành ở Nhật. Tách hẳn khỏi các sự kiện lịch sử thì không một tư tưởng gia nào có thể hi vọng thành công. Vì vậy mà các kiến trúc sư toàn trị Nhật Bản không có tinh thần dũng cảm và táo bạo như các “đồng sự” của họ ở phương Tây. Cũng vì vậy mà chế độ toàn trị Nhật Bản không thể (không muốn) tạo ra được “phong cách” hoành tráng (trong nghệ thuật, hội họa, kiến trúc, văn học), dù còn lâu mới làm người ta nhớ tới những công trình sáng tạo được chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa cộng sản hà hơi tiếp sức.
Khi viết tác phẩm này, không chỉ sự tương đồng mà tính đặc thù trong quá trình xây dựng xã hội toàn trị Nhật Bản cũng làm tôi băn
khoăn lo lắng. Tính đặc thù xuất hiện khắp nơi: trong các mục tiêu, trong tương tác giữa giới tinh hoa cầm quyền với xã hội, trong các phương pháp giáo dục con người lí tưởng, trong bức tranh về thế giới, trong động cơ hành động, trong phong cách sống và chết. Nói cách khác, tôi cố gắng tìm hiểu: Người Nhật trong nửa đầu thế kỉ XX là những người như thế nào. Vì rằng “người Nhật” trong giai đoạn này đã không hoàn toàn có nghĩa như trước đây nữa. Khi viết tác phẩm Hoàng đế Minh Trị và nước Nhật Bản của Ngài*, với các sự kiện kết thúc vào năm 1912 - tức là khi vị hoàng đế này băng hà - tôi cũng đặt ra cho mình nhiệm vụ mô tả cảm quan của chính người Nhật Bản: cuốn Là người Nhật là phần tiếp nối của tác phẩm nói trên. Những ai đã đọc tác phẩm trước hẳn có điều kiện khẳng định rằng người Nhật vẫn nói tiếng Nhật, nhưng tiếng Nhật bây giờ đã khác trước. Dĩ nhiên là mỗi người Nhật đều đã sống một cuộc đời riêng, mỗi cuộc đời đó đương nhiên cũng không chỉ là thực hiện những chức năng mà xã hội và nhà nước giao cho từng người. Tuy nhiên vẫn có một cái gì đó giống nhau, chính cái sự giống nhau này đã đưa số phận của từng cá nhân vào một mẫu số chung. Tôi đã cố gắng quan sát những chiếc kim nhằm gắn kết, nhằm biến những cái riêng thành mẫu số chung đó.
Chế độ toàn trị Nhật Bản kéo dài không lâu. Tác phẩm này mô tả quá trình hình thành, hoạt động và cáo chung, cũng như những tình cảm liên quan đến quá trình xây dựng nó. Xây dựng chế độ toàn trị là một công việc to tát, có hàng triệu người tham gia. Có cả những diễn viên chính lẫn những kẻ “cờ đèn kèn trống”. Nhưng tất cả bọn họ đều là diễn viên của cùng một vở kịch. Một vở kịch không thể
diễn đến lần thứ hai. Dù có đầy đủ tính khoa trương, thiếu tự nhiên và xung động như mọi chế độ toàn trị khác, chế độ toàn trị Nhật Bản, về bản chất, là hiện tượng cực kì nghiêm túc. Trên sân khấu không có gì là giả mạo hết, tất cả các diễn viên đã sống và chết một cách nghiêm túc. Trong vở kịch này không có chỗ cho sự tự trào, chính vì vậy mà bao giờ nó cũng có kết cục khủng khiếp.
Câu chuyện kết thúc vào giai đoạn người Mĩ chiếm đóng Nhật Bản, đặt dấu chấm hết cho chế độ và con người toàn trị Nhật Bản - kẻ sáng tạo ra (cũng đồng thời là sản phẩm của) chế độ đó. Trên đống đổ nát của chế độ cũ, từ con người “Nhật Bản tan hoang” bắt đầu hình thành một con người Nhật Bản hoàn toàn khác. Đấy là con người có nhiều điểm chung với hình ảnh đã ăn sâu vào nhận thức của độc giả trong nước hiện nay (ý nói nước Nga - ND), quá trình hình thành nên người Nhật Bản mới này là đề tài của một câu chuyện khác. Tác phẩm này mới chỉ đề cập sơ qua mà thôi.
Tôi, tác giả cuốn sách này, sinh năm 1951, là sản phẩm của xã hội toàn trị. Tôi bước vào đời đúng lúc xã hội đó bắt đầu quá trình phân rã. Khi còn là học sinh, rồi đội viên và vào đoàn, tôi vẫn chưa có ý niệm gì về những vấn đề toàn trị, những vấn đề vốn đã là hiện thực khách quan của cuộc sống vô tư lự. Nhưng, như tôi nhớ, từ khi bước chân vào đại học, những lí tưởng mà chủ nghĩa cộng sản dùng để quyến rũ tôi đã không còn tạo được bất kì ảo tưởng nào. Nhưng có khá nhiều người thông minh và tử tế đã lên án những ý kiến mang tính phê phán của tôi. Tôi hoàn toàn không nghĩ là họ ngu dốt hơn mình, vấn đề là tại sao họ lại gắn bó với chế độ toàn trị. Cũng như người Nhật và người Đức đã từng gắn bó với nó.
Trong tác phẩm này tôi phân tích chủ yếu những vấn đề gần gũi với nghề nghiệp của mình. Tức là Nhật Bản. Nhưng kinh nghiệm sống ở Liên Xô đã cung cấp nền tảng vững chắc cho những suy nghĩ của tôi. Điều trước tiên tôi muốn tìm hiểu là vì sao những con người tế nhị, sắc sảo và nhạy cảm lại ngả theo chủ nghĩa toàn trị. Hiểu điều đó nghĩa là trả lời được câu hỏi: những người vẫn tự gọi mình là người Nhật thực chất là người như thế nào. Họ cảm nhận về mình như thế nào, họ dựa vào cái gì để sống và nguồn động viên của họ là gì, điều gì làm họ vui mừng hay đau khổ. Vì vậy mà tôi không quan tâm nhiều đến bản thân các sự kiện, có thể tìm được những sự kiện như thế trong các tác phẩm khác. Thảo luận về những tiểu tiết của những sự kiện cũng không thuộc phạm vi quan tâm của tác phẩm, vấn đề tôi quan tâm nhất là những người vẫn tự gọi mình là người Nhật đó nhận thức các sự kiện như thế nào.
Hiểu biết hiện nay của chúng ta về những sự kiện đó khác hẳn với hiểu biết của người đương thời. Nhận thức của họ cũng khác hẳn nhận thức của chúng ta. Nhưng chính họ lại tin là mình biết khá rõ những sự kiện đang diễn ra. Hiểu biết tạo ra trong lòng người ta tình cảm và quyết định những hành vi tiếp theo. Những ẩn dụ mà họ sử dụng tiềm ẩn khả năng xây dựng cũng như phá hoại rất lớn. Nói cách khác, tác giả không chỉ giữ vai trò của một nhà sử học cố gắng mô tả những sự kiện lịch sử theo quan niệm hiện nay mà còn đóng vai một nhân chứng-người đương thời với các sự kiện nữa. Theo quan niệm của tôi, cách tiếp cận như thế giúp dễ dàng giải thích và nhận thức hiện thực lịch sử và con người.
Dĩ nhiên, ngay cả bằng cách tiếp cận như thế, tôi vẫn không thể (không muốn) tránh được những nhận định cảm tính và mang tính cá nhân, đấy là do những thiên kiến và kinh nghiệm sống của mình mà ra. Trong thời gian viết tác phẩm này, có những lúc cảm xúc đã xâm chiếm trọn vẹn tâm hồn tôi. Theo quan niệm của tôi đấy là những tình cảm hữu ích - trách nhiệm nhà sử học của tôi được thể hiện qua những tình cảm đó. Trong đó, theo tôi, không chỉ có khía cạnh nhận thức mà còn hàm chứa cả khía cạnh đạo đức. Tôi nghĩ rằng suy tư về “đề tài Nhật Bản” giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta lại rơi vào (và rơi vào như thế nào) cái bẫy toàn trị, mà hôm nay chúng ta vẫn chưa thể (chưa muốn) thoát ra được. Thật đáng tiếc là tại nước Nga hiện nay, vấn đề trách nhiệm về mặt văn hóa và trách nhiệm của nhân dân đối với quá khứ toàn trị đẫm máu đã không được đem ra thảo luận. Người ta đã gán nó cho một cá nhân và gọi là chủ nghĩa Stalin, điều đó chứng tỏ rằng tư duy lịch sử-văn hóa và trách nhiệm của chúng ta còn ở trình độ cực kì thấp kém.
Tác giả nhận thức rõ rằng đối với nhiều vấn đề, tác phẩm này mới chỉ đề ra được cách tiếp cận mang tính nghiên cứu mà thôi, vấn đề ở đây không chỉ là ở sự phức tạp của đối tượng nghiên cứu và sự hiểu biết chưa đầy đủ của tác giả. Chủ nghĩa toàn trị Nhật Bản cần phải được nghiên cứu kĩ lưỡng hơn. Sau Thế chiến II, các nhà sử học cánh “tả” giữ thế thượng phong trong ngành sử liệu học Nhật Bản. Đồng tình với những lời lên án chế độ toàn trị và những kiến trúc sư rất thiếu thiện cảm của chế độ đó, tôi vẫn phải ghi nhận rằng trong rất nhiều tác phẩm, lòng nhiệt tình mang tính chính luận đã lấn át chức năng phân tích. Sự phân chia một cách dứt khoát
thành “giới thượng lưu” cầm quyền đầy sức mạnh và “nhân dân” chẳng có chút quyền hành nào đã dẫn đến kết quả là người ta đổ riệt mọi tai họa cho “bọn quân phiệt”. Với cách tiếp cận như thế, những cơ cấu do tâm lí và văn hóa tạo ra, làm cho chủ nghĩa toàn trị trở thành chế độ được nhiều người hâm mộ đã không được xem xét nữa. Sau khi Thế chiến II kết thúc, “bọn quân phiệt” được coi là những kẻ có tội trong việc làm cho đất nước sụp đổ, và như thế là vô hình trung đã làm cho những người đại diện “bình thường” của nền văn hóa Nhật không cần phải trăn trở, không cần phải chịu trách nhiệm cá nhân gì hết. Dư luận xã hội giữ vị trí “thụ động”: họ cho rằng nhân dân Nhật Bản đã bị một lũ lưu manh “lừa bịp”. Như thế lại càng cần phải hiểu vì sao nước Nhật lại bó tay trước sức cám dỗ của chủ nghĩa toàn trị. Chủ nghĩa toàn trị Đức và Nga sinh ra phần lớn là do sức ép của những hoàn cảnh cực kì khắc nghiệt: Thế chiến I. Vì đóng góp của Nhật vào cuộc chiến này là rất ít cho nên phải công nhận rằng chủ nghĩa toàn trị Nhật Bản chủ yếu là hiện tượng nội sinh. Theo nghĩa đó, Nhật Bản là ví dụ về chủ nghĩa toàn trị “thuần chất”, không pha tạp. Là ví dụ về chủ nghĩa toàn trị được khuyến khích bởi những toan tính trừu tượng và những cảm xúc đầy chất thơ.
Việc quy toàn bộ trách nhiệm cho “bọn quân phiệt” ở Nhật Bản lại trùng hợp một cách khác thường với xu hướng chủ đạo trong ngành sử liệu học ở Mĩ và Liên Xô. Đại diện của ngành sử liệu học ở những nước này cũng coi “chủ nghĩa quân phiệt” là “sự chệch hướng” của các sự kiện, các sự kiện đã không đi theo tiến trình “bình thường” và “tự nhiên”, tức là tiến trình dường như chắc chắn
sẽ dẫn tới xã hội (xã hội chủ nghĩa) hòa bình và dân chủ. Hành động của “bọn quân phiệt” được coi là âm mưu đểu cáng nhằm lừa bịp toàn thế giới cũng như nhân dân nước mình. Cơ sở của quan điểm như thế là niềm tin mang tính “dân chủ” (“dân túy”) rằng “nhân dân”, về bản chất, là người đại diện của những tư tưởng cao cả, đúng đắn và bẩm sinh là không thể làm điều ác. Qua phân tích các sự kiện, các thảm họa cả về mặt xã hội lẫn con người, diễn ra trong thế kỉ XX, tác giả không thể đồng tình với quan điểm đó. Theo thiển ý, “nhân dân” và những thành viên của nó cũng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, tương tự như “chính quyền”: họ là những chiến binh của cùng một hệ tư tưởng.
Sau khi đã nói đến quá trình nghiên cứu còn nhiều khiếm khuyết về hiện tượng toàn trị Nhật Bản, người viết buộc phải bổ sung thêm: lĩnh vực sử liệu học Nhật Bản trong những năm gần đây đã có những thay đổi căn bản. Ở Nhật Bản đã bắt đầu xuất hiện những công trình nghiên cứu coi những điều đã xảy ra không phải là thảm họa mà là kết quả hợp quy luật của quá trình phát triển cả về lịch sử lẫn văn hóa của đất nước. Độc giả có thể tìm thấy trích dẫn từ những công trình như thế trong cuốn sách này.
Xuất phát điểm của cuốn sách này là vương triều của hoàng đế Đại Chính (1879-1926, ở ngôi từ năm 1912 đến năm 1926). Khi còn sống, các thần dân vẫn gọi ngài là “hoàng đế Yosihito” (Gia Nhân). Chỉ sau khi băng hà, người ta mới gọi ngài là Đại Chính. Tương tự trường hợp hoàng đế Minh Trị. Để tránh lầm lẫn chúng ta sẽ gọi ngài là “hoàng đế Đại Chính”, tức thụy hiệu mà người ta vẫn gọi ngài hiện nay. Ta cũng sẽ làm như thế với con của ngài. Khi còn là
đông cung thái tử, chúng ta gọi ngài là hoàng tử Hirohito (Dụ Nhân) (1901-1989, ở ngôi từ năm 1926 đến 1989). Sau khi lên ngôi, ngài trở thành hoàng đế Chiêu Hòa, mặc dù người đương thời biết rằng ngài chính là Hirohito. Thuật ngữ “vương triều Đại Chính” hay “vương triều Chiêu Hòa” là do truyền thống và chỉ có tính chất kĩ thuật - các “hoàng đế” Nhật Bản không liên quan gì đến việc cai trị, mặc dù hình ảnh của họ giữ vai trò vô cùng to lớn trong thế giới quan của người Nhật hồi đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người đã góp ý, giúp đỡ tài liệu và đưa ra nhận xét trong quá trình biên soạn tác phẩm này. Trước hết, đấy là A. R. Viatkin, A. M. Gorbylev, O. A. Mudrak, K. K. Podlesky, E. K. Simonova-Gudzenko, V. V. Sumsky.
Tôi không thể không nhắc đến những người mà tình bạn và những buổi thảo luận với họ đã giúp hình thành tư tưởng và niềm tin của tôi. Đấy là nhà kinh tế học A. A. Konius (1895-1990) và nhà Trung Quốc học G. A. Tkatrenko (1947-2000). Họ đã không còn, nhưng quá trình tiếp xúc lâu dài và thường xuyên với họ là món quà vô giá mà tôi hi vọng rằng tôi đã rút ra được những bài học nhất định*.
HỒI I
BẤT ĐỒNG Ý KIẾN GIA TĂNG
MÀN 1
HOÀNG ĐẾ ĐẠI CHÍNH:
SÂN KHẤU CỦA MỘT CÁI BÓNG MỜ
Vì toàn bộ cấu trúc nhà nước-xã hội Nhật Bản được xây dựng để cho hoàng đế là trung tâm lễ nghi và biểu tượng của nó, cho nên trước hết chúng ta cần phải quan tâm đến nhà vua. Vấn đề quan tâm chủ yếu của chúng ta là hình ảnh của hoàng đế trong mắt thần dân của ngài. Vì không phải con người thực mà hình ảnh của ngài mới là điều quan trọng đối với họ.
Con của hoàng đế Minh Trị, hoàng thái tử Yosihito (Giá Nhân) được phong vương ngay sau khi vua cha băng hà vào ngày 30 tháng 7 năm 1912. Ngay sau khi băng hà, Minh Trị được tuyên bố là “hoàng đế vĩ đại”, sánh ngang với Alexander Đại đế* và Pyotr I*. Việc Minh Trị chỉ là biểu tượng chứ không hề có vai trò gì trong sự nghiệp cải tạo đất nước không phải là điều quan trọng. Chỉ có rất ít cận thần biết rõ chuyện này, còn trong nhận thức của người dân thì thời đại của những cuộc cải cách hoành tráng chính là thời đại mang tên ngài. Chính trong thời gian “cầm quyền” của Minh Trị, nước Nhật đã được gọi là “Đế chế Nhật Bản vĩ đại”. Có nhiều cơ sở để nói như thế: sau 45 năm trị vì của ngài, nước Nhật từ một đất nước quê mùa nằm bên lề của thế giới “văn minh” (tức là “phương
Tây”) thành một quốc gia hùng cường mà tất cả mọi người đều phải coi chừng. Trong thời gian đó, nước Nhật đã kịp xây dựng được một hệ thống quản lí hữu hiệu, một quân đội mạnh, dân chúng không còn người mù chữ, bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa và đã đánh thắng cả Trung Quốc lẫn Nga, chiếm được thuộc địa (nước duy nhất ở Á châu làm được chuyện này!) cũng ở châu Á (Đài Loan và Triều Tiên). Dĩ nhiên là Nhật còn lạc hậu hơn các nước tiên tiến, nhưng vị trí số một ở Á châu thì không ai có thể phủ nhận.
Vương triều Đại Chính nhất định phải trở thành vương triều vĩ đại. Mặc dù trong đạo dụ đầu tiên, theo truyền thống, ngài có phàn nàn về sự thiếu hụt lòng nhân từ của mình, phương châm cai trị vẫn thể hiện bằng hai chữ “Đại Chính”, nghĩa là “Chính nghĩa vĩ đại”. Từ này được lấy từ Kinh Dịch của Trung Quốc: “Lớn là nhờ chính nghĩa, đấy là đạo trời”. Đại Chính và quần thần của ngài đã dùng ẩn dụ đó để bố cáo cho thiên hạ biết rằng vị tân hoàng đế sẽ tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của vương triều trước.
Nhưng trên thực tế, Đại Chính mãi mãi chỉ là một cái bóng mờ của hoàng đế Minh Trị. Hành động quan trọng nhất được thực hiện ngay vào giai đoạn đầu của triều đại Minh Trị là tước quyền của Mạc phủ Tokugawa* và “phục hồi” quyền lực tuyệt đối của nhà vua, vốn đã bị các Mạc phủ tiếm đoạt từ lâu. Vì vậy, hoàng đế Minh Trị không chỉ được coi là người kế tục triều đại lâu đời nhất thế giới. Những lời ngợi ca sau khi ngài băng hà chứng tỏ rằng ngài được thần dân coi là người đặt nền móng cho một giại đoạn mới trong lịch sử Nhật Bản, giai đoạn, khi mà đất nước từ bỏ chính sách bế quan tỏa cảng và chứng minh cho thế giới thấy mình có quyền giữ vị trí
vẻ vang trong nhóm các quốc gia đứng đầu thế giới. Rất nhiều đoàn đại biểu quốc tế đã đến dự đám tang của hoàng đế Minh Trị. Người Nhật cho rằng điều đó chứng tỏ uy tín quốc tế của đất nước đang ngày càng gia tăng. Chính hình ảnh của vị hoàng đế cũng đã thay đổi đáng kể. Bây giờ ngài không còn là Đại tư tế “ẩn mình trong mây” của Thần đạo nữa, ngài đã trở thành đức hóa công, thành người sáng tạo thế giới. Ngoài ra, đối với các thần dân, ngài còn là biểu tượng của đức hạnh và người bảo trợ cho nền học vấn truyền thống. Trong cuốn tiểu sử chính thức đầu tiên sau khi hoàng đế Minh Trị băng hà, người ta nói nhiều đến không chỉ công lao của ngài (trước hết là sự quan tâm đến quân đội) mà còn nhấn mạnh phẩm hạnh: tình yêu đối với phụ thân, lòng nhân ái, tiết kiệm và tài văn chương của ngài nữa*.
Người Nhật Bản coi hoàng đế Minh Trị là người đặt nền móng cho nước Nhật mới. Đại Chính chỉ có thể giành được danh hiệu là người kế tục Minh Trị mà thôi, đấy là nói trong trường hợp tốt nhất. Vì vậy, không phải vô cớ mà trong những bài báo đầu tiên viết về vị tân hoàng đế người ta đã nhấn mạnh rằng không ai có được tình yêu với phụ thân như ngài. Trong những bài báo được viết nhân dịp sinh nhật đầu tiên của ngài trên cương vị hoàng đế (31 tháng 8 năm 1912) người ta dẫn ra cả lịch hằng ngày của ngài (dậy lúc 6 giờ sáng, từ 10 đến 12 giờ xem xét tài liệu, sau bữa trưa - đi dạo với các con và đọc báo, đi ngủ vào lúc 23 giờ). Người ta còn nói cả đến những thành tích trong học tập của ngài. Ngài có năng khiếu đặc biệt về toán học*. Có vẻ như không còn gì để ca ngợi nữa. Nhưng ngay cả những thông tin đó cũng ít liên quan đến thực tế. Những
người gần gũi Đại Chính biết rõ rằng ngài học cũng không được tốt lắm. Nhưng các thần dân khác thì không biết cho nên vấn đề này cũng không có gì quan trọng. Quan trọng là một trong những đạo dụ đầu tiên của hoàng đế Đại Chính (13 tháng 8) là đạo dụ gửi cho các triều thần của hoàng đế Minh Trị, các đại nguyên lão (genro) của quốc gia, tức là những người đóng vai trò cực kì to lớn trong việc hình thành nước Nhật Bản mới. Đại Chính yêu cầu các vị này “giúp” ngài trong công việc quản lí quốc gia. Đấy là Yamagata Aritomo (74 tuổi), Ooyama Iwao (70 tuổi), Inoue Kaoru (77 tuổi), Matsukata Masayoshi (77 tuổi), Katsura Taro (65 tuổi). Dĩ nhiên là các vị này muốn tiếp tục nắm quyền rồi. Đại Chính đã chứng tỏ là một người hoàn toàn bất lực, thậm chí không thể làm ra vẻ là có thể quyết định được bất cứ vấn đề cụ thể nào. Một số tờ báo tỏ thái độ bất mãn đối với đạo dụ gửi các đại nguyên lão. Họ cho rằng nước Nhật cần những nhà lãnh đạo trẻ hơn và năng động hơn. Kết quả? Katsura Taro, người ít tuổi nhất trong các vị đại nguyên lão được cử giữ chức Bộ trưởng Nội vụ, Nhật đã tấn công Nga khi ông này giữ chức thủ tướng. Đồng thời, ông ta còn là tổng quản của hoàng gia, nghĩa là có thể gặp trực tiếp hoàng đế và kiểm soát những cuộc gặp gỡ của hoàng đế với người khác, đây là công việc có ý nghĩa quan trọng. Tháng 12 năm 1912, Katsura lại một lần nữa đứng ra thành lập chính phủ mới.
Tháng 1 năm 1913, vị đại biểu suốt đời và lâu năm nhất của quốc hội, ông Ozaky Yukio (1858-1954) đã đọc một bài diễn văn đầy giận dữ, lên án “đội cận vệ già” là họ đã dùng “vương miện” của hoàng đế làm lá chắn cho mình và dùng các đạo dụ làm đạn để bắn vào
đối phương. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm, các đại biểu biết rằng lời tố cáo của ông là hoàn toàn đúng. Minh Trị cũng không quyết định bất cứ chuyện gì, nắm quyền sinh quyền sát vẫn là những con người đó. Nhưng bây giờ dường như không khí đã thay đổi - dưới thời Minh Trị, ngay cả Ozaky cũng không dám nói những lời như thế. Chính phủ của Katsura phải từ chức. Còn chính ông ta thì chết ngay trong năm 1913.
Trong cơ cấu chính trị-quốc gia Nhật Bản, hoàng đế giữ vai trò là một “tượng thờ”. Ngài đóng dấu lên các văn kiện do các cận thần soạn thảo, nhưng không bao giờ đưa ra những quyết định mang tính sống còn và tránh phát biểu ý kiến của mình. Nhưng vai trò đại diện thì ngài vẫn phải thực hiện. Ngài phải thực hiện cả lễ nghi của Thần đạo, thiết triều, khai mạc và bế mạc các kì họp quốc hội, dự các cuộc duyệt binh, tham gia các buổi lễ và xuất hiện trước công chúng. Đều là những việc không đòi hỏi nhiều trí tuệ, nhưng đòi hỏi sức lực và sức khỏe. Hoàng đế Đại Chính không có cả sức lực lẫn sức khỏe. Ngay từ nhỏ ngài đã rất ốm yếu, nhưng không còn lựa chọn nào khác: theo hiến pháp năm 1889, ngôi vua chỉ được truyền cho con trai mà ngài lại là con trai độc nhất của hoàng đế Minh Trị. Số phận đã quyết định như thế: ngài chính là hoàng đế của Nhật Bản.
Xuất hiện trước công chúng là một công việc nặng nề. Những người có mặt trong những buổi thiết triều đầu tiên của vị tân hoàng đế nhận ngay ra rằng dù đã mặc bộ quân phục tổng tư lệnh oai nghiêm, chỉ may bằng vàng, nhưng trông ngài vẫn không giống một vị hoàng đế oai phong lẫm liệt mà lại như một thảo dân tội nghiệp.
Ngay từ tháng 1 năm 1913 báo chí đã nói rằng ngài bị viêm phổi. Tàu điện ở Tokyo được lệnh chạy chậm lại để không làm phiền hoàng đế. Vì những biện pháp như thế cũng mới được áp dụng - trước khi Minh Trị băng hà - các thần dân bắt đầu lo lắng. Đại Chính đã bình phục, nhưng lễ mừng sinh nhật ngài được dời sang ngày 31 tháng 10, đấy là lúc ở Tokyo sức nóng đã không còn gay gắt nữa. Những cuốn sách giáo khoa, viết rằng 31 tháng 8 là ngày quốc lễ, lập tức được sửa lại. Giới tinh hoa chính trị có toàn quyền đối với hoàng đế - họ còn quyết định cả ngày sinh của ngài nữa. Có một vài cải tiến khi Đại Chính chuyển vào hoàng cung của cha mình: đèn điện và lò sưởi bằng hơi nước đã được lắp ở đây. Trong sinh hoạt, hoàng đế Minh Trị là người nệ cổ, ngài chỉ chấp nhận thắp sáng bằng nến. Quyền lực của ngài cũng chỉ đến thế mà thôi. Các ngự y của hoàng đế Đại Chính có quyền làm cho hoàng cung sáng hơn và ấm hơn. Khác với hoàng đế Minh Trị, người không bao giờ sử dụng xe hơi, hoàng đế Đại Chính không coi thường ô tô đến như thế.
Cảm thấy không có đủ sức khỏe, hoàng đế Đại Chính đã nhiều lần đề nghị cắt bớt chương trình, nếu đấy là những buổi lễ mà ngài phải đích thân tham dự. Nhưng thời kì đầu, các thần dân trung thành đã không chịu lắng nghe ngài: “sức khỏe tinh thần” của dân tộc đòi hỏi ngài phải có mặt suốt buổi, “sức khỏe tinh thần” của dân tộc quan trọng hơn sức khỏe của hoàng đế. Ngày làm việc của hoàng đế Đại Chính (đọc và nghe tấu trình, kí các văn bản, thiết triều) dài hơn là của hoàng thái tử Yosihito: ngày làm việc kéo dài từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, có nghỉ ăn trưa với các món ăn theo lối Âu châu. Khi nghe tấu, Đại Chính không bao giờ hỏi, lịch sử không
có bất kì bằng chứng nào như thế cả.
Dù sức yếu, nhưng dĩ nhiên là hoàng đế Đại Chính cũng không thể tránh được buổi lễ đăng quang. Giới tinh hoa của đất nước tập trung xung quanh ngài, ngài là trung tâm của nó, ngài ban ý nghĩa cho đời sống của các thần dân, vì vậy mà ngài phải đóng trọn vai trò. Nhân dịp ngài đăng quang, ở Tokyo người ta đã tổ chức những buổi lễ hội lớn chưa từng thấy. Vì hoàng thái hậu (vợ vua Minh Trị tên là Haruko, sau khi qua đời được đặt thụy hiệu là Shoken) qua đời vào tháng 4 năm 1914 cho nên mãi đến tháng 11 năm 1915 lễ đăng quang mới được tổ chức.
Lúc này Kyoto đã nhận quy chế “thủ đô lễ nghi” của Nhật. Nếu không kể Minh Trị thì tất cả các vua chúa Nhật Bản đều tổ chức lễ đăng quang ở Nara hay Kyoto. Trong sự hỗn loạn của những năm cầm quyền đầu tiên, Minh Trị đã trở thành hoàng đế với đầy đủ quyền lực ở Tokyo, nhưng “Quy chế về hoàng tộc” năm 1889 đã đưa mọi sự trở về với truyền thống và quyết định chọn Kyoto là nơi đăng quang. Năm 1915 người ta đã cho dựng những cổng chào cực kì lớn ở cả Kyoto lẫn Tokyo. Hằng đêm, ánh sáng từ những cổng chào này đã tạo được ấn tượng rất mạnh với cả người ngoại quốc lẫn người Nhật. Quá trình điện khí hóa đất nước diễn ra với tốc độ cao, ngay trong những ngày bình thường ánh đèn điện chói lòa trên đường phố Nhật Bản đã làm người ngoại quốc thất kinh rồi. Nhật Bản đã chứng tỏ cho thế giới thấy rằng phương Đông không chỉ có ánh sáng huyền nhiệm. Trước lễ đăng quang người ta đã tổ chức một cuộc triển lãm, trong đó có những con búp bê mô tả những buổi lễ sẽ diễn ra trong tương lai. Có 861.000 người tham
quan cuộc triển lãm này. Nước Nhật đã trở thành đất nước của những hành động mang tính quần chúng.
Trong đêm thực hiện nghi lễ Dajosai, khi hoàng đế Đại Chính ở lại một mình trong trai phòng để tiếp xúc với các thần linh của Thần đạo và trở thành một trong những vị thần như thế thì dân chúng Kyoto đổ ra chật đường, người ta uống sake và hát hò suốt đêm. Ngày 10 tháng 11, trong cung điện ở Kyoto, Đại Chính tuyên đọc đạo dụ lên ngôi hoàng đế của mình trước các quan chức cao cấp của chính phủ. Trong đạo dụ này, ngài nhấn mạnh rằng ngài chính là cha của các thần dân của mình - khắp thế giới chưa từng có trường hợp nào như thế. Ngoài ra, ngài còn trịnh trọng hứa rằng sẽ tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của vua cha. Sau đó, Thủ tướng Okuma Shigenobu (1838-1922), cũng là cộng sự của vua Minh Trị, cầu nguyện cho vương triều hạnh phúc. Đúng 3h30 chiều, dân chúng khắp cả nước, bao gồm cả Triều Tiên và Đài Loan, đồng thanh hô to ba lần “Banzai!” (Muôn Năm! - ND). Báo chí viết rằng tiếng hô to đến nỗi trời đất cũng phải rung lên. Đất nước đã có một vị hoàng đế mới. Mọi hành động của ngài đều phải phụng sự cho tinh thần đoàn kết quốc gia. Tinh thần đoàn kết cũng đã được thể hiện khi an táng hoàng đế Minh Trị. Mặc dù bệnh tật, Đại Chính cũng phải đóng vai trò tập hợp như thế. Tokutomi Roka (1868-1927), một nhà văn nổi tiếng, người mà trước đây ba năm đã viết những lời đau buồn thống thiết về sự chấm dứt thời đại Minh Trị, ghi vào nhật kí: “Ba giờ rưỡi, từ ngôi chùa Hachimana và trường tiểu học vang lên những tiếng hô “Banzai!”. Pháo hoa được bắn lên. Tôi cũng cầu nguyện cho tương lai của vương triều, cho nước Nhật và cho nhân loại”*.
Ngày 16 và 17, những buổi đón tiếp có cả ngàn người tham dự - giới tình hoa chính trị trong nước và các sứ thần ngoại quốc - được tổ chức trong lâu đài Nijojo ở Kyoto. Tòa lâu đài này vốn là dinh thự của Mạc phủ. Bữa trưa ngày 16 gồm các món ăn Nhật, tất cả khách Nhật Bản đều mặc y phục truyền thống. Bữa tối ngày 17 lại là thực đơn Pháp, và tất cả quan khách đều mặc Âu phục. Một lần nữa và một lần nữa nước Nhật đã thể hiện được thực chất nhất trí-kép của mình: “tiến bộ” mà vẫn giữ được truyền thống.
Lễ đăng quang của hoàng đế Đại Chính trọng thể hơn hẳn lễ đăng quang của hoàng đế Minh Trị. Trong cái năm 1873 xa xôi ấy, đất nước chưa có tiền mà cũng chẳng có thuộc địa nào. Dân chúng, cho đến lúc đó vẫn được dạy phải tuân theo nguyên tắc là không được tham gia vào chính sự, chưa có “tinh thần dân tộc”. Tinh thần dân tộc mới hình thành trong những năm sau này, người Nhật bấy giờ mới cảm thấy mình là người Nhật và bắt đầu tham gia vào những công việc quốc gia gần gũi với mình. “Nhân dân” trở thành đối tượng quản lí dễ dàng hơn. Tất cả người Nhật đều đến trường, tất cả đàn ông Nhật đều đi lính. Tất cả các thành tích đó đều được coi là công lao của hoàng đế Minh Trị. Nhưng thời đó không thể có chuyện tổ chức trong cả nước cuộc thi nhằm chọn bài hát hay nhất nói về lễ đăng quang của ngài. Nhưng lần này ban giám khảo đã nhận được 2.157 bài dự thi. Ban giám khảo, trong đó có nhà văn nổi tiếng Mori Ogai (1862-1922), đã trao giải nhất cho bài hát sau đây:
Hoàng đế của chúng ta bước lên ngai vàng
Thừa kế thần mặt trời
Trời xanh vô thủy vô chung
Vinh quang thay hôm nay!
Bánh trái thơm ngon
Rượu cẩm và rượu trắng
Dâng lên đức vua thần linh
Vinh quang thay ngày lễ này!
Ngày lễ vinh quang
Vương triều chính nghĩa
Khách đến từ muôn nơi
Lời chúc mừng vang bốn phương trời!
Học trò cả nước phải học thuộc lòng những ca từ trang trọng đó, và sẽ cùng nhau hát lên trong ngày đăng quang. Đại Chính có thể đáp lại như thế nào? Công việc xây dựng thư viện được triển khai trên khắp cả nước. Có gần 500 thư viện mới được xây dựng. Nghĩa là số lượng thư viện đã lập tức tăng lên gấp rưỡi*. Cũng như thời cổ đại, các vị hoàng đế bao giờ cũng đóng vai người gìn giữ sự thông tuệ chứa trong sách vở.
Đầu năm 1913, tức là trước lễ đăng quang của hoàng đế Đại Chính, người ta đã cho xuất bản cuốn sách Các quy định chủ yếu về hoàng gia. Cuốn sách dày tới 840 trang này có thể được gọi là “tập ảnh trước ngày đăng quang”. Tác phẩm chứa đựng rất nhiều thông tin khác nhau về hoàng tộc: cơ cấu, lễ nghi, lịch sử, phả hệ. Cần phải biết rằng cuốn sách này không phải là ý kiến cá nhân của những người biên soạn. Soạn giả không chỉ là các giáo sư nổi tiếng mà còn có cả các vị bộ trưởng, cả cựu và đương chức nữa. Như vậy, cuốn sách có thể được coi là quan điểm chính thức về quá khứ và tương lai của chế độ quân chủ và của nhân dân Nhật Bản.
Tác phẩm này được bắt đầu bằng những lời sau đây: “Cây anh đào trên núi tỏa hương thơm mỗi sáng trông thật là đẹp. Nhưng nếu được đưa sang nước khác trồng thì anh đào cũng sẽ sống. Núi Phú Sĩ vươn cao hơn cả những tầng mây, đúng là ngọn núi cao và thiêng liêng. Nhưng các nước khác còn có những ngọn núi cao hơn cả Phú Sĩ. Phong tục và định chế cũng khác nhau - có những cái người ta ưu việt hơn, lại có những cái ta ưu việt hơn và sẽ không có gì cản trở nếu muốn bắt chước họ. Hiện nay chúng ta đã bắt chước những điều tốt - chúng ta mặc âu phục và biết lái ô tô. Họ cũng bắt chước những điều tốt của chúng ta - họ cũng tổ chức trà đạo và tập nhu thuật (Jujitsu). Sự giao tiếp ngày càng mở rộng mang lại những lợi ích phù hợp với xu hướng của thời đại, dẫn đến sự san bằng những cách biệt. Nhưng có một điều duy nhất, không thể bắt chước, ngay cả nếu như người ngoại quốc có muốn, có một thứ duy nhất không thể sao chép, ngay cả nếu họ muốn: đấy là hoàng tộc của chúng ta, một hoàng tộc đã cầm quyền suốt hàng chục ngàn thế hệ - không ở đâu có hiện tượng như thế.
Không thể tưởng tượng được rằng ở một đất nước nào đó lại có vị hoàng đế vừa “là cha vừa là mẹ của nhân dân”. Chỉ có đế chế Nhật Bản vĩ đại của chúng ta mới có điều đó. Không có nước nào mà người dân lại mong muốn thực hiện “trách nhiệm thần dân và trách nhiệm của một đứa con” đến mức hoàn hảo. Chỉ có đế chế Nhật Bản vĩ đại của chúng ta mới có hiện tượng như thế.
Trong đế chế Nhật Bản của chúng ta, quan hệ giữa hoàng tộc và nhân dân không phải là quan hệ giữa kẻ cai trị đáng ghét và người bị trị. Đấy là quan hệ giữa người chủ gia đình và những thành viên
của chính gia đình ấy. Vì mối quan hệ như thế đã tồn tại không phải một hai thế kỉ mà trong hàng ngàn năm qua, kể từ ngày lập quốc, tư tưởng đó được truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia, tạo ra tình cảm kính trọng và yêu thương đối với hoàng tộc, một tình cảm đã ăn sâu bén rễ vào đầu óc nhân dân - vào từng người dân, không có ngoại lệ, đã trở thành tính chất không thể tách rời của họ”*.
Qua đoạn văn này có thể thấy nước Nhật đang xoay theo hướng nào. Ý tưởng về tính chất độc đáo của thiên nhiên và phong tục Nhật Bản, một ý tưởng rất thịnh hành thời Minh Trị, đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Các tư tưởng gia đã tập trung chú ý vào nhà vua và tính liên tục của triều đại. Mối quan hệ không tách rời, có tính “gia đình”, của nhà vua với “nhân dân” được coi là duy nhất trên thế giới. Dù trong hoàn cảnh nào thì mối quan hệ đó cũng vẫn còn - dù số phận có như thế nào thì con vẫn cứ là con. Hoàng đế và nhân dân gắn bó với nhau, họ là một thể thống nhất không thể tách rời. Nhân dân Nhật Bản không thể tồn tại mà không có hoàng đế, Nhân dân là gia nhân của hoàng đế, người Nhật bị coi là “vị thành niên”. Họ không có cơ hội trở thành người lớn vì triều đại đã trở thành vĩnh cửu. Triều đại không bị già và khô héo đi, còn nhân dân Nhật Bản thì mãi mãi vẫn là trẻ con. Những mối quan hệ này không bị tác động của thời gian vì chúng nằm ngoài vùng ảnh hưởng của nó.
Nhưng đấy chỉ là lí thuyết. Trên thực tế, tình trạng sức khỏe của Đại Chính không phù hợp với những kì vọng đặt lên vai ngài. Ngài đi không vững và ít khi xuất hiện trước đám đông. Ngài chỉ còn tiếp xúc với dân chúng bằng các đạo dụ và những bức ảnh mà thôi. Khác với Minh Trị - dân chúng chỉ biết có một bức ảnh của ngài -
ảnh của Đại Chính xuất hiện thường xuyên trên báo chí. Đấy là dấu hiệu của sự thiếu tự tin. Ban lãnh đạo đất nước dường như muốn khẳng định: các vị nghĩ rằng hoàng đế không được khỏe, xin hãy nhìn ảnh ngài, không phải như thế đâu. Những thợ ảnh của hoàng đế có trách nhiệm sửa bớt hình ảnh ốm yếu của ngài.
Đại Chính ốm nặng, giọng nói ngày càng khó nghe hơn, cử động cũng không còn chính xác, ăn uống cũng không còn tự lực được. Ngài không còn đọc nổi ngay cả một đạo dụ ngắn nhân dịp khai mạc kì họp quốc hội. Các bác sĩ chẩn đoán: đấy là hậu quả của căn bệnh viêm màng não, mắc phải từ hồi nhỏ. Đại Chính, giống như Minh Trị, không giải quyết bất cứ chuyện gì. Ngài còn không có khả năng thực hiện ngay cả những chức năng mang tính lễ nghi. Tháng 11 năm 1919 ngài đi xem thao diễn quân sự ở tỉnh Hyogo và đấy cũng là lần cuối cùng ngài ra khỏi Tokyo. Ngày 30 tháng 3 người ta công bố cho dân chúng biết tình trạng sức khỏe của ngài. Bệnh án nói rằng ngài bị đái tháo đường và tê thấp, ngài cần được “nghỉ ngơi” để chữa trị. Lúc đó không ai nghĩ rằng ngài sẽ “nghỉ” đến cuối cuộc đời.
Từ nay trở đi Đại Chính chỉ ở một trong hai nơi: Cung điện ở Tokyo và khu biệt thự ở Hayama, bên bờ Thái Bình Dương. Trên đường đi, ngồi trong toa tàu riêng, có hình gia huy là những bông cúc đại đóa 16 cánh ở bên ngoài, ngài thường vẫy chào các thần dân của mình. Tay vịn chiếc ghế tựa mà ngài ngồi được lắp một cơ chế đặc biệt, nó làm cho cánh tay ngài giơ lên hạ xuống mỗi khi ngài cử động và dân chúng tụ tập trên sân ga ngỡ là ngài vẫy tay chào họ. Nhưng cũng không thể giấu mãi được. Khác với hoàng đế
Minh Trị, người thường thích du hành một mình, Đại Chính bao giờ cũng đi cùng hoàng hậu. Không chỉ là hoàng hậu, bà còn là hộ lí có phẩm hàm nữa. Thỉnh thoảng có người còn gọi Đại Chính là “nhóc tì”, đấy là khi họ biết chắc là không có cảnh sát bên cạnh. Với một vị hoàng đế như thế, nước Nhật không thể tự cho là vĩ đại được. Muốn, nhưng không được.
Ngoài ra, cần phải nhớ thêm tình tiết sau đây. Những khó khăn và mâu thuẫn, tích tụ vào cuối vương triều Minh Trị, chưa xuất hiện khi ngài còn sống. Phải đến đời Đại Chính những vấn đề này mới hiện rõ. Và vì vậy mà nước Nhật Bản thống nhất, vốn nằm dưới “cái ô” che chở của Minh Trị, bây giờ đã được mở toang ra cho gió lùa vào từ mọi hướng. Một số người Nhật bỗng cảm thấy rằng họ là những người khác nhau, những điều làm họ gắn bó thì ít mà những điều làm họ chia rẽ thì nhiều. Tư sản và công nhân, nông dân và địa chủ, các viên chức quan liêu và những chính trị gia bất lương, thị dân và người nhà quê, trẻ và già, đàn ông và đàn bà… Sự đa dạng của đời sống được coi là nguy cơ khủng hoảng đã cận kề. Hiện đại hóa bao giờ cũng kéo theo nhiều mâu thuẫn, người Nhật cảm nhận chuyện này một cách đặc biệt sâu sắc. Vì sự thống nhất theo kiểu gia đình là lí tưởng của họ.
Dưới triều Đại Chính, người Nhật bắt đầu cho phép mình nói những chuyện mà trước đó có nằm mơ cũng không thấy. Người ta bắt đầu nói không chỉ những lời cảm ơn trước những việc làm từ thiện hào phóng của nhà vua. Dân chúng bàn tán rằng hoàng gia rất giàu có. Những cận thần của Đại Chính đã phản ứng ngay lập tức, một phần đất đai của hoàng gia đã được đem bán cho dân địa
phương với giá phải chăng*.
Thỉnh thoảng trên báo lại xuất hiện những thông cáo chứng tỏ tình trạng sức khỏe rất đáng thất vọng của Đại Chính. Mặc dù các thông cáo này đều nói rằng ngài sắp bình phục, nhưng mọi người đều biết: hoàn toàn không phải như thế. Các cận thần của ngài biết rõ hơn ai hết - những dấu hiệu suy giảm cả về thể chất lẫn tinh thần buộc họ phải nghĩ đến khả năng xấu nhất. Thỉnh thoảng ngài lại bị lẫn. Trong tình hình đáng lo như thế, người ta đã quyết định chuẩn bị ngay người kế vị - đấy là người con trưởng của Đại Chính, tức là hoàng thái tử Hirohito, sinh năm 1901. Dĩ nhiên là hoàng thái tử vẫn còn quá nhỏ, nhưng ông nội của ngài, tức Minh Trị thiên hoàng, cũng lên ngôi khi mới 15 tuổi.
Để chuẩn bị cho việc lên ngôi hoàng đế, Dụ Nhân đã thực hiện một chuyến công du nước ngoài. Các đông cung thái tử châu Âu vẫn thường làm như thế, nhưng đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản. Đại Chính, khi còn là hoàng thái tử, đã từng ở Triều Tiên trong vòng 5 ngày, nhưng Triều Tiên không hoàn toàn là “ngoại quốc”. Hơn nữa, từ năm 1910, Triều Tiên đã được tuyên bố là một phần của đế chế Nhật Bản. “Nước ngoài” thực sự nằm ở châu Âu. Kế hoạch công du 6 tháng châu Âu của Dụ Nhân bao gồm các nước: Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan và Ý. Dưới triều Minh Trị, Nhật coi Đức là hình mẫu phải theo, nhưng bây giờ Đức đã là nước cộng hòa chứ không còn là nước quân chủ nữa. Nga cũng thế.
Dụ Nhân xuống tàu ngày 3 tháng 3 năm 1921, đúng vào ngày lễ của “các bé gái”. Các nhà làm phim đã quay cảnh hoàng thái tử lên tàu hỏa ở Tokyo cũng như cảnh đến nhà ga ở Yokohama và xuống
tàu thủy ở đây. Đây là những thước phim đầu tiên quay người của hoàng gia. Các nhà làm phim còn đi theo Dụ Nhân trong suốt cuộc hành trình và họ đã làm được một bộ phim tài liệu. Bộ phim được công chiếu nhằm lấp đầy khoảng trống thông tin do cuộc sống ẩn dật của Đại Chính tạo ra. Bộ phim được chiếu trong các câu lạc bộ, công viên và rạp chiếu bóng. Không chỉ ở Nhật mà còn ở cả Triều Tiên và Đài Loan, cũng như ở Mãn Châu, nơi đang thu hút ánh mắt thèm thuồng của những người có tư tưởng đế quốc chủ nghĩa ở Nhật. Kết quả thật ấn tượng: gần 7 triệu người đã xem phim! Nghĩa là cứ mười người thì có một người xem*.
Sự sụp đổ của các vương triều ở Nga và Đức làm cho các cận thần của hoàng đế lo lắng. Hình ảnh trong phim của vị hoàng đế tương lai được coi là lá chắn bảo vệ cho Nhật Bản khỏi những xáo động kinh hoàng. Ngoài việc chuẩn bị cho các thần dân đón nhận vị hoàng đế mới, việc chiếu bộ phim trong các công viên lớn nhất ở Tokyo còn có ẩn ý rõ ràng: đây là những khu vực rộng lớn, tại đó và xung quanh sẽ diễn ra cuộc đấu tranh giữa chính quyền và những người đối lập. Buổi lễ kỉ niệm 50 năm dời đô từ Kyoto đến Tokyo được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 năm 1919. Đại Chính, hoàng hậu và hoàng thái tử Dụ Nhân cùng các vị bộ trưởng xuất hiện trước 60 ngàn người dự mít tinh trong công viên Ueno. Một năm sau, cũng ở đây, đã diễn ra cuộc tập hợp đầu tiên nhân ngày quốc tế lao động 1 tháng 5, với những khẩu hiệu đòi tự do hóa đạo luật bảo vệ trật tự công cộng, chống nạn thất nghiệp và đưa ra mức lương tối thiểu. Cảnh sát cho rằng có 1 ngàn người tham gia (những người tham gia diễu hành lại nói có đến 10 ngàn người). Dù chỉ một ít người bị
những khẩu hiệu “khiêu khích” đó quyến rũ thì đây cũng là hiện tượng không thể chấp nhận được. Quan điểm của chính quyền là đế chế phải có những con người khác và những khẩu hiệu khác.
Dụ Nhân về nước vào ngày 3 tháng 9 năm 1921, đúng nửa năm sau khi ngài xuống tàu. Những người làm phim đã đợi sẵn. Dụ Nhân đã trở thành nhân vật của công chúng, ngài đã làm lu mờ hình ảnh của vua cha, người không bao giờ để cho ống kính máy quay chĩa vào. Báo chí hân hoan viết rằng Dụ Nhân đã chào mừng đám đông gồm 13 ngàn người tụ tập trong công viên Hibia. Theo truyền thống, đại diện của hoàng gia chỉ gửi thư chứ không bao giờ nói trước đám đông. Các thần dân không bao giờ được nghe thấy giọng nói của ngài. Minh Trị cũng chưa bao giờ phát biểu trước các thần dân. Dụ Nhân chưa được phong vương, ngài chưa phải tuân thủ những hạn chế nghiêm ngặt mà vị hoàng đế đương quyền nhất định phải theo. Dù sao mặc lòng, báo chí tỏ ra hân hoan khi giọng nói của đông cung thái tử “đã được mọi người nghe thấy”. Điều đó, dĩ nhiên lại là một bằng chứng nữa chứng tỏ nguồn gốc đặc biệt của Dụ Nhân.
Ngày 16 tháng 11 năm 1921, hoàng đế Đại Chính công bố một đạo dụ ngắn, tuyên bố rằng vì bị bệnh nặng nên ngài đã cử hoàng thái tử Dụ Nhân làm phụ chính cho ngài. Nhưng hoàng đế đã không kí đạo dụ, mà hoàng thái tử tự tay kí đạo dụ này. Nghĩa là giữa cha và con có một sự gắn bó thiêng liêng, tuy hai mà một.
Khi còn là Đông cung Thái tử, Dụ Nhân đã chu du khắp nước để “học hỏi”, để làm quen với các xí nghiệp và trường học. Trước đây, duyệt các buổi thao diễn quân sự là đặc quyền của Đại Chính.
Nhưng từ khi trở thành phụ chính, Dụ Nhân giữ luôn vai trò của người bảo trợ cho các vấn đề quân sự. Khi đến những vùng xa xôi nhất của đất nước (trong đó có bán đảo Sakhalin và Đài Loan), đám đông đã hát quốc ca và vẫy những lá quốc kì có hình mặt trời để chào mừng ngài. Cách chào như thế đã có từ trước, nhưng chỉ đến bây giờ nó mới có tính chất của một hành động đã được tập luyện. Trước đây hoàng đế không xuất hiện trước các đám đông, ngài chỉ gặp gỡ với đại diện của giới tinh hoa địa phương. Bây giờ, ý tưởng “càng nhiều càng tốt” đã ăn sâu vào nhận thức rồi. Nhờ có hoàng đế mà dân chúng mới nhận thức được rằng mình là “nhân dân”. Dân chúng trở thành một đám đông đồng nhất ngay trong chớp mắt, họ tan vào đám đông, họ đánh mất cái “tôi” của mình và cảm thấy cực kì thỏa mãn. Hân hoan một cách chân thành, đấy là tình cảm của đám đông chào đón Dụ Nhân. Không nước nào có hiện tượng như thế, các nhà quan sát đương thời nói như vậy. Những nhà quay phim tháp tùng Dụ Nhân đã biến dân chúng khắp nước Nhật thành những người đồng tham dự các sự kiện mang tính quần chúng trên bình diện quốc gia. Những vụ đón rước đôi khi trông giống như một cơn điên loạn tập thể vậy. Nhiều người khóc, có người lăn ra bất tỉnh nhân sự. Số người đi đón không thể tính được chính xác đến từng người. Báo cáo của các phóng viên lấy đơn vị tối thiểu là hàng trăm. Nhưng “hàng ngàn” và “hàng chục ngàn” ngày càng xuất hiện nhiều hơn.
Cuối đời, Đại Chính hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt của hàng ngàn con người đó. Tháng 5 năm 1925 cả nước tổ chức ăn mừng đám cưới bạc của hoàng đế Đại Chính. Phụ thân của ngài tổ chức
ăn mừng đám cưới bạc vào năm 1894. Những buổi lễ lạt thời đó cho thấy nhiều sự phân tâm: theo truyền thống hoàng tộc, Minh Trị là người đa thê. Nhưng ngài đã thực hiện một cách hoàn hảo chức năng của người đại diện cho hoàng tộc. Đại Chính là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản chỉ có duy nhất hoàng hậu, nhưng đám cưới bạc của ngài lại gây ra một vài thắc mắc: cả nhà vua lẫn hoàng hậu đều không xuất hiện trước bất kì cuộc vui nào. Đại Chính đã trở thành nhân vật mờ ảo, những lời chúc mừng ngài lại rất chân thành. Dân chúng dễ điều khiển một cách đáng sợ - sự thán phục hơn hướng tới người nằm ngoài tầm mắt của họ. Hoàn toàn không bắt buộc phải nhìn thấy người đó. Người Nhật chưa bao giờ có quyền nhìn thấy mặt quân vương của mình. Đấy được coi là chuyện bình thường, “tính chất mờ ảo” của người cầm quyền càng làm người ta sợ hơn. Hoàng đế Minh Trị đã đặt dấu chấm hết cho điều cấm đoán này. Cho nên việc Đại Chính không xuất hiện vào giai đoạn cuối đời dường như đã đưa người Nhật trở về với quá khứ xa xôi. Nhưng điều tưởng chừng là bình thường trong thời cổ đại chưa chắc đã phù hợp với yêu cầu của thời đại khác. Đấy là một tín hiệu đáng lo: người Nhật, là tù binh của ánh hào quang của hoàng đế, càng ngày họ càng giống những người mù vậy.
Đại Chính cũng không nhìn thấy các thần dân của mình. Ngài bị đột quỵ vào tháng 12 năm 1925. Tháng 5 năm sau, xuất huyết não lại tái phát. Thông báo về tình trạng sức khỏe của ngài xuất hiện với tần suất đáng lo ngại. Người dân bắt đầu đi đến gần hoàng cung và đền thờ Minh Trị, mới được xây dựng cách đây 5 năm, để khấn vái, cầu mong cho vị hoàng đế đương triều mau bình phục. Tokutomy
Sokho (1863-1957), một nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng đương thời, viết rằng lòng trung thành của các thần dân thật không ở đâu bằng. Cả cuộc đời, cũng như cái chết đã cận kề của vị hoàng đế, cùng dẫn các nhà báo đến kết luận tương tự.
Hoàng đế Đại Chính băng hà ngày 25 tháng 12 năm 1926 ở Hayama, đây cũng là nơi ngài thường sống trong những năm cuối đời. Lúc đó ngài mới 47 tuổi. Hoàng đế Minh Trị, cha ngài, thọ 59 tuổi, còn hoàng đế Chiêu Hòa, con ngài thọ những 87 tuổi. Người ta nói rằng mẹ ngài, bà Yanagikhara, tì thiếp của hoàng đế Minh Trị, đã cầm tay ngài cho đến lúc lâm chung. Trước đó họ ít khi gặp nhau, đấy cũng là nguyên tắc của hoàng gia.
Quốc tang kéo dài đến tận ngày đầu năm mới. Tang lễ được cử hành vào hai ngày mồng 7 và mồng 8 tháng 2 năm 1927. Hoàng thái tử Hirohito, bây giờ đã là hoàng đế Chiêu Hòa, không tham gia tang lễ. Đấy là đòi hỏi của truyền thống, đã là vua thì không được tiếp xúc với người chết. Linh cữu được đặt trong một chiếc xe bọc kín, do những con bò kéo đi một cách chậm chạp trên đoạn đường dài 6 cây số. Khoảng một triệu rưỡi người đã đứng bên đường. Rời khỏi hoàng cung, đoàn đưa tang tiến đến nhà ga và sau khi mọi người nói lời tiễn biệt, linh cữu được đưa lên tàu. Hoàng đế được an táng ở làng Yokoyama, ngoại ô Tokyo (nay là thành phố Hachioji), nơi có một cánh rừng vốn thuộc về hoàng gia. Lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, các phát thanh viên đã tường thuật trực tiếp lễ hạ huyệt. Đây cũng là lần đầu tiên mộ hoàng đế không nằm ở Nara-Kyoto, tức là trung tâm của đế chế, mà lại nằm ngay cạnh Tokyo.
Mặc cho tính phô trương thấy rõ của đám tang, việc hoàng đế Đại Chính băng hà đã không gây cho dân chúng cảm giác sững sờ. Tâm trạng u sầu đã bao trùm Nhật Bản khi hoàng đế Minh Trị băng hà, nhưng lần này thì không thể nói như thế được. Người đương thời nhận xét rằng cuộc sống thường nhật vẫn tiếp tục - dường như không có gì đặc biệt xảy ra. Báo chí Nhật Bản viết rằng Đại Chính đã tiếp tục sự nghiệp do người cha vĩ đại của ngài khởi xướng. Báo chí ngoại quốc cũng chỉ có những bài bình luận dè dặt, không thể nào so sánh được với những lời ngợi ca khi hoàng đế Minh Trị băng hà. Người ta còn kể cho nhau nghe rằng, có lần, đấy là trong khi khai mạc kì họp quốc hội, Đại Chính đã cuốn tờ đạo dụ lại để nhìn phòng họp như thể nhìn qua ống nhòm. Không có bằng chứng chính xác nào, nhưng việc câu chuyện được lưu truyền rộng khắp chứng tỏ rằng người Nhật có xu hướng tin là thật.
Không chỉ cuộc đời của Đại Chính ngắn mà vương triều của ngài cũng ngắn. Người ta ít khi gắn các sự kiện diễn ra trong nước với tên tuổi của ngài. Nhiều người hiểu rằng vị hoàng đế ốm yếu không có điều kiện tác động đến số phận của đất nước. Có thể chính vì thế mà trong thời kì Đại Chính “cầm quyền”, tư tưởng của Minobe Tatsukiti (1873-1948), Giáo sư Đại học hoàng gia Tokyo, mới lưu hành rộng rãi trong giới tinh hoa trí thức và chính trị đến thế. Ông này đưa ra “lí thuyết cơ quan”. Sử dụng ẩn dụ về cơ thể con người mà người Nhật rất thích, vị giáo sư này khẳng định rằng hoàng đế là “cơ quan” của nhà nước Nhật. Cơ quan tối cao, nhưng cũng chỉ là cơ quan; quyền rất lớn, nhưng vẫn bị giới hạn bởi pháp luật. Như vậy, Minobe đã đưa nhà nước, chứ không phải hoàng đế, lên vị trí
tối thượng. Những tư tưởng gia bảo thủ hơn nói rằng hoàng đế là chủ quyền tối cao, với ngụ ý không có hoàng đế thì cũng không có nhà nước. Nhưng, chứng kiến tình cảnh yếu đuối của Đại Chính, giới chức có thẩm quyền cũng phải ngả sang xu hướng giảm bớt vai trò của hoàng đế và không còn gắn số phận của quốc gia với một nhân vật duy nhất nữa.
Mặc dù Đại Chính không để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn các thần dân, nhưng sau khi ngài qua đời người ta vẫn cố gắng thần thánh hóa hình ảnh của ngài. Nhưng kết quả thật tội nghiệp. Một trong những phẩm chất chính của người truyền bá sự “công chính vĩ đại” là biết làm thơ bằng chữ Hán… Khác với Minh Trị, người ta không xây đền thờ Đại Chính, và ngày sinh của ngài cũng không trở thành ngày quốc lễ.
Như mọi người đều biết, oai quyền của vua phần lớn là do bộ hạ tạo ra. Đại Chính bị các thần dân coi là một ông vua thụ động, nhưng đất nước lại thay đổi rất nhanh. Quyết định của chính quyền đóng vai trò không nhỏ. Vì vậy, chúng ta cần xem xét những thiết chế có ảnh hưởng tới việc xác định đường lối chính trị của nước Nhật.
MÀN 2
NHỮNG CƠ QUAN CÓ TOÀN QUYỀN QUYẾT ĐỊNH:
CẢNH LĂNG XĂNG XUNG QUANH NGAI VÀNG
Trước hết, có thể nhận thấy rằng đời sống chính trị trong nước dưới triều Đại Chính có nhiều biến động: trong 13 năm ngài ở ngôi đã có 11 lần thay đổi chính phủ. Các nhóm chính khách rình rập lẫn nhau, cơ cấu của các nhóm đó đã có những diện mạo mới, nhưng thành phần của giới tinh hoa thì vẫn gần như cũ; khác với trước đây, từ nhiệm không có nghĩa là bị đẩy khỏi đời sống chính trị. Hoạt động chính trị có nghĩa là phải tham gia vào cuộc đấu tranh quyết liệt, cả công khai lẫn sau hậu trường, nhưng không còn cảnh đàn áp và lưu đày nữa. Đấy là không nói một nhóm rất nhỏ những “người cực đoan” - trước hết là những người vô chính phủ và đảng viên xã hội. Nhưng họ không nằm trong giới tinh hoa. Mặc dù có một số khác biệt về mặt chiến thuật giữa các tập đoàn chính trị chủ yếu, các chính phủ khác nhau vẫn giữ chính sách phát triển của Nhật theo một định hướng tương đối ổn định. Sự khác nhau của các chính khách là ở phương pháp thực hiện đường lối chứ không phải đường lối xây dựng nước “Đại Nhật Bản”. Trong khái niệm này
có “sự vĩ đại” của đế chế. Giải quyết những nhiệm vụ nội trị là tiền đề cho việc giải quyết nhiệm vụ ngoại giao. “Nhân dân” không phải là mục đích tối thượng mà chỉ là công cụ cho những mục tiêu nằm bên ngoài biên giới quốc gia của chính nước Nhật. Những khẩu hiệu mang tính chiến lược về cải thiện điều kiện sống của nhân dân đã không được nói tới. Nhân dân được chia một phần tài sản quốc gia, vừa đủ để họ có thể thực hiện nhiệm vụ của người xây dựng nên đất nước vĩ đại. Về khía cạnh này, ta phải coi ban lãnh đạo của đất nước bao giờ cũng là một tập thể - đất nước được cai quản bởi một nhóm các chính trị gia say mê tư tưởng trung thành với ngai vàng và khuếch trương sức mạnh của đất nước.
Những vụ từ chức của nội các tạo cho người ta cảm giác đời sống chính trị sôi động, nhưng trên thực tế lại ít ảnh hưởng đến đường lối chung. Ta có thể nói đến sự ổn định theo ý nghĩa đó. Nhưng sự ổn định lại không phải do nội các không thay đổi quyết định mà là nhờ các phương tiện hoàn toàn khác.
Đối với nhân dân thì tất cả các chính phủ đều chỉ là “kĩ thuật”: nhân dân cho rằng Đại Chính tự ý thay họ, các chính trị gia thường bị chỉ trích một cách nặng nề, hoạt động chính trị không được đánh giá cao: “các đảng phái vô luân” chỉ đại diện cho quyền lợi của bọn nhà giàu, hoạt động chính trị không được tôn trọng vì nó không phải là hoạt động cha truyền con nối. Trên thực tế, Đại Chính, cũng như Minh Trị, chỉ làm mỗi việc là kí các đạo dụ được soạn thảo với sự tham gia tích cực của các đại nguyên lão, tức những người được coi là cố vấn của hoàng đế. Các vị đại nguyên lão đầu tiên được bổ nhiệm ngay từ năm 1889. Luật pháp không nói đến địa vị của các
đại nguyên lão, nhưng trong một thời gian dài, chính họ lại là những người có quyền quyết định thành phần bộ máy quan lại. Chính các đại nguyên lão và Cơ mật viện lựa chọn thủ tướng, sau đó Đại Chính mới bổ nhiệm bằng một đạo dụ. Đại nguyên lão là những người từng đóng vai trò quan trọng từ thời Minh Trị, tóc đã bạc phơ. Tuổi cao, hoạt động sau hậu trường, lại đã từng có những mối liên hệ với “Minh Trị Thiên Hoàng”, tạo cho họ sức nặng và tính chính danh trong mắt dân chúng.
Mặc dù Đại Chính còn trẻ, nhưng Nhật Bản lại do những người già nua cai trị. Hầu hết các đại nguyên lão đều có nguồn gốc từ các công quốc miền Tây Bắc là Satsuma và Tyosju, là những khu vực có vai trò chủ yếu trong việc tước quyền của Mạc phủ hồi cuối những năm 1860. Ito Hyrobumi (1841-1909, Tyosju), Kuroda Kyiotaka (1840-1900, Satsuma), Yamagata Aritomo (1838-1922, Tyosju), Matsukata Masayoshi (1835-1924, Satsuma), Ooyama Iwao (1841-1916, Satsuma), Katsura Taro (1847-1913, Tyosju), Saionji Kinmochi (1849-1940, quý tộc) là những nguyên lão trong những thời kì khác nhau.
Dưới thời Đại Chính, thể chế nguyên lão đã không còn được bổ sung thêm. Chỗ trống do người quá cố để lại tạo điều kiện cho việc ra quyết định theo những cách khác. Nhờ thế mà trong những năm 1920 vai trò của Cơ mật viện đã gia tăng. Cơ mật viện gồm 24 người không dưới 40 tuổi, do đích thân hoàng đế bổ nhiệm. Các cuộc họp của Cơ mật viện được tiến hành trong hoàng cung. Theo hiến pháp, Cơ mật viện chỉ có quyền cố vấn cho hoàng đế về những vấn đề cực kì hệ trọng. Nhưng từ nửa sau của vương triều
Đại Chính, Cơ mật viện đã trở thành trung tâm ra quyết định quan trọng - giống như một “viện thứ ba” của quốc hội vậy. Nhưng có một khác biệt quan trọng, các cuộc họp của viện - theo đúng như tên gọi của nó - được tiến hành một cách bí mật. Cơ mật viện là phòng tuyến cuối cùng nhưng cũng rất chắc chắn, nhiều sáng kiến “dân chủ” của quốc hội đã bị chặn lại ở đây.
Bộ hoàng gia* cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống chính trị Nhật Bản. Vì các thành viên của nó dễ dàng tiếp xúc với hoàng đế nên cơ quan này có uy tín rất lớn. Ngự tiền văn phòng hay tổng quản là những người đóng vai trò trung gian giữa hoàng đế và các thiết chế nhà nước khác, họ cũng là những người “phát ngôn” những quan điểm của hoàng đế (hoặc dường như là của hoàng đế). Vì bộ hoàng gia không nằm trong thành phần nội các nên thủ tướng chỉ có ảnh hưởng gián tiếp.
Quân đội có vị trị đặc biệt. Truyền thống này hình thành từ thời Minh Trị: chiến thắng Mạc phủ và “phục hồi” quyền lực cho nhà vua chủ yếu là nhờ công của các võ sĩ (samurai) vùng Satsuma và Choshu. Những người có nguồn gốc từ những vùng này giữ vai trò chủ yếu trong việc hình thành đường lối của triều đại Minh Trị. Và họ đã tìm mọi cách để cho các chiến binh dũng cảm của họ cũng giữ được vị trí phù hợp. Trong số các thành viên nội các, chỉ có bộ trưởng bộ lục quân và bộ hải quân là có thể trực tiếp gặp gỡ hoàng đế. Hoàng đế không làm gì, nhưng theo hiến pháp ngài lại là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Chỉ có các quân nhân, nghĩa là chỉ có bộ lục quân và bộ hải quân, mới có quyền tiến cử bộ trưởng của hai bộ này. Các tùy viên quân sự ở nước ngoài không thuộc quyền
quản lí của đại sứ - chỉ huy của họ không phải là những người mặc thường phục trong bộ ngoại giao mà là những người mặc quân phục ở bộ lục quân và bộ hải quân.
Quân nhân bị cấm tham gia hoạt động chính trị, tuy nhiên ảnh hưởng của họ lại vô cùng lớn. Họ có thể thực hiện đường lối riêng, không phụ thuộc vào các quan chức dân sự. Theo hiến pháp năm 1889, các bộ trưởng bộ lục quân và bộ hải quân có quyền báo cáo trực tiếp với hoàng đế, trong khi các bộ trưởng khác không được quyền như thế. Bộ trưởng lục quân và hải quân chịu trách nhiệm trước hoàng đế chứ không phải trước thủ tướng. Thủ tướng không có quyền bổ nhiệm “quân nhân”. Nếu các quân nhân không đồng ý với ứng cử viên chức thủ tướng thì họ sẽ không đưa ra ứng viên cho chức bộ trưởng lục quân và bộ trưởng hải quân, vị thủ tướng chỉ còn cách là rút lui. Chuyện đó đã xảy ra vào năm 1912, bộ trưởng lục quân, ông Uehara Yusaku, đã đệ đơn từ chức lên hoàng đế mà không cần thông qua nội các. Nguyên nhân là do vị bộ trưởng này bất mãn với việc Thủ tướng Saionji không chịu tăng cường cho quân khu Triều Tiên hai sư đoàn. Các quân nhân nói rằng Cách mạng Tân Hợi (1911, ở Trung Quốc - ND) đã kích động những vụ lộn xộn, cần tăng thêm quân cho khu vực này, nhưng Saionji đáp lại rằng không có tiền. Vì quân đội không chịu tiến cử vị bộ trưởng mới cho nên Saionji buộc phải từ chức.
Tính chất đặc thù trong đời sống chính trị-quân sự Nhật Bản còn thể hiện ở chỗ nước này không có bộ quốc phòng - lục quân và hải quân tương đối độc lập với nhau. Mục đích chiến thuật của hai bộ này không phải lúc nào cũng tương đồng, điều đó tạo thêm khó
khăn cho việc điều hòa lợi ích. Trong khi từ chối cung cấp tài chính cho lục quân thì Saionji lại sẵn sàng cung cấp cho hải quân. Quốc hội, là niềm tự hào của người Nhật trước các nước phương Tây vì đây là bằng chứng về nền “văn minh” của họ, trên thực tế chỉ là cơ quan có tính chất hình thức. Kì họp “tiêu chuẩn” của nó chỉ kéo dài đúng 3 tháng. Nhưng vì các nghị sĩ được hoàng đế triệu tập về Tokyo vào cuối tháng 12, mà người Nhật lại ăn tết suốt tháng Giêng nên trên thực tế kì họp đã bị rút lại còn 2 tháng. Hoàng đế không chỉ có vai trò triệu tập các kì họp mà cả giải tán quốc hội nữa. Chính quyền hành pháp triệt để lợi dụng việc này, đấy là nói nếu quốc hội (đúng hơn, phải nói hạ viện) giữ quan điểm “không thể chấp nhận được” về một vấn đề nào đó. Đại biểu quốc hội chỉ có quyền bất khả xâm phạm trong thời gian quốc hội họp. Các đại biểu quốc hội có thể bị kết án vi phạm luật về bảo đảm trật tự xã hội nếu họ đưa những quan điểm của mình - viết hoặc nói - ra ngoài phòng họp.
Quốc hội gồm hai viện, thượng viện và hạ viện. Một số thành viên thượng viện là do thế tập, số khác được bầu (từ tầng lớp quý tộc cấp thấp và những người đóng thuế giàu có), phần còn lại là do hoàng đế bổ nhiệm vì những đóng góp đặc biệt. Phần lớn thượng nghị sĩ tại vị suốt đời. Dân chúng bầu hạ viện, nhưng dưới thời Đại Chính chỉ đàn ông giàu có mới được quyền bầu cử, không một người phụ nữ nào có quyền này. Do những hạn chế như thế mà cả nước Nhật chỉ có gần một triệu rưỡi cử tri, trong khi dân số lúc đó đã là hơn 50 triệu người.
Quốc hội bổ nhiệm cả bộ trưởng và thủ tướng, nhưng thủ tướng
không phải báo cáo với quốc hội mà báo cáo trực tiếp với nhà vua. Theo hiến pháp, quốc hội chỉ có thực quyền trong một lĩnh vực, đó là tham gia thảo luận ngân sách. Vì vậy mà quốc hội chỉ có ba ủy ban chuyên trách: ủy ban ngân sách, ủy ban quy chế và ủy ban dân nguyện. Nếu quốc hội không đồng ý với dự thảo ngân sách của chính phủ thì ngân sách năm trước sẽ tự động được đem ra áp dụng cho năm tài khóa tiếp theo. Các đảng phái trong hạ viện có thể đấu tranh không khoan nhượng, các nghị sĩ có thể tranh cãi kịch liệt khi thảo luận một dự luật, nhưng thượng viện có toàn quyền bác bỏ dự luật đó. Như vậy, những cuộc thảo luận ở hạ viện thường chỉ có tính chất “trình diễn”, không phải là quốc hội mà chính phủ đưa ra phần lớn các dự luật.
Ngoài ra, cần phải nhớ rằng cốt lõi của nền chính trị Nhật Bản là mong ước gần như của tất cả mọi người về một “nước Nhật vĩ đại”. Các nghị sĩ có thể tố cáo chính phủ tăng thuế hoặc chậm giải quyết các vấn đề cụ thể đến sùi bọt mép, nhưng họ lại thường nhất trí cao về những vấn đề cơ bản nhất. Chỉ cần xảy ra xung đột quân sự là mọi ý kiến phê phán đều lập tức im bặt.
Hạ viện nằm dưới quyền kiểm soát của hai đảng là Rikken Seiyukai (Những người bạn của đường lối cai trị theo hiến pháp, thường gọi đơn giản là Seiyukai) và Kenseikai (Đảng theo đường lối hiến pháp, trước đó gọi là Rikken Doshikai - Những người bạn theo đường lối hiến pháp, từ năm 1927 gọi là Rikken Minseito - Đảng dân chủ lập hiến). Rikken-Seiyukai do Ito Hyrobumi thành lập năm 1900, còn Kenseikai do Katsura Taro thành lập năm 1913. Không phải vô tình mà tên các đảng nguyện trung thành với hiến pháp lại
gần giống nhau đến thế. Đấy là tổ chức của những người liên kết với nhau không chỉ bởi sự giống nhau về quan điểm và cương lĩnh mà còn bởi lòng trung thành với quyền lợi của tập đoàn. “Tính nguyên tắc” được hiểu không chỉ là sự trung thành với các nguyên tắc mà còn trung thành với tổ chức nữa. Như vậy, các đảng phái cũng giống như các băng nhóm được tổ chức theo lối phong kiến. Đấy không phải là những chính đảng có tính quần chúng - phần lớn đảng viên là các quan chức và đại biểu các cơ quan dân cử (nghị viện hoặc các cơ quan tự quản địa phương) của chính các đảng phái đó. Cuối những năm 1920, đảng viên của cả hai đảng ước tính là 100 ngàn người. Các đảng phái này đều không tìm cách gia tăng số lượng đảng viên, họ cho rằng đảng có “đạo đức” cao trước hết phải đại diện cho quyền lợi của những người không có đạo đức như thế. Việc phân chia thành “quân tử” và “tiểu nhân” cũng phù hợp với truyền thống Nhật Bản. Như vậy là dân chúng chỉ được tham gia một cách rất hạn chế vào đời sống chính trị của đất nước. Chủ yếu họ tham gia vào các cuộc bầu cử*.
Nói chung, đại biểu các hội đồng địa phương thường là những người thuộc các gia đình và dòng họ có uy tín và được tôn trọng từ trước. Những người có uy tín thường sử dụng các mối quan hệ của mình nhằm động viên quần chúng khi cần. Theo nghĩa này, có thể nói các đảng phái có cơ sở xã hội vững chắc và điều kiện động viên quần chúng nhất định. Chính phủ Katsura Taro chỉ tồn tại được 53 ngày một phần là do những cuộc mít tinh được những người ủng hộ Seiyukai tổ chức (Katsura dự định giải tán quốc hội), có cả dân thường tham gia. Những cuộc mít tinh, biểu tình phản đối thường
kéo theo các vụ lộn xộn, đốt phá và cướp bóc các đồn cảnh sát và tòa soạn báo ủng hộ Katsura. Phong trào phản đối này sau đó được gọi là “Phong trào bảo vệ hiến pháp”. Có 53 người chết.
Nhưng đảng phái không phải là tác nhân “khuấy động” duy nhất. Có cả những vụ tự phát nữa. Ví dụ như vào đầu năm 1941. Lúc đó có tin là một số quan chức cao cấp hải quân đã ăn đút lót của hãng Siemens của Đức và Vikers của Anh. Làn sóng biểu tình đòi chính phủ của đô đốc Yamamoto Gonbee (còn gọi là Gonnohyoe (1852- 1933)) từ chức lan khắp cả nước. Ngày 10 tháng 2, đám đông giận dữ xông cả vào tòa nhà quốc hội. Cảnh sát và binh lính buộc phải ra tay. 37 người bị thương nặng, 133 người bị bắt. Những cuộc nổi dậy của dân chúng là một trong những tác nhân đưa đến việc từ chức của nội các. Chính phủ của Yamamoto đã phải nhận trách nhiệm trong việc để xảy ra vụ tham nhũng đầy tai tiếng này. Như vậy, “quần chúng nhân dân” cũng bị lôi kéo vào các hoạt động chính trị, nhưng hành động của họ lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ vì không thể dự đoán được. Nhưng chính dưới thời Yamamoto người ta đã đòi được quyền bầu cả những quân nhân đã nghỉ hưu làm bộ trưởng lục quân và hải quân, chứ không chỉ từ những người đang tại ngũ như trước đây. Lúc đó việc này được coi là một “bước tiến”, có tác dụng ngăn chặn quyền lực của các quân nhân.
Nước Nhật được cai trị chủ yếu bằng các chỉ thị và quyết định của chính quyền hành pháp, những văn bản này trên thực tế cũng là những đạo luật, vì vậy, đã làm giảm bớt vai trò của ngành lập pháp. Nhân danh nhà vua, chính quyền hành pháp có thể ban hành các chỉ thị liên quan đến lĩnh vực quân sự và ngoại giao, cũng nhân
danh nhà vua người ta có thể, tuyên bố chiến tranh và kí hiệp ước hòa bình, tuyên bố ân xá và đặc xá. Chính phủ tự ý thành lập, giải tán và kiểm soát hoạt động của các bộ, điều chỉnh hoạt động của các cơ quan địa phương, quyết định mức lương cho các quan chức. Dùng những chỉ thị đặc biệt để quản lí trong lĩnh vực tài chính. Bộ nội vụ đưa ra những chỉ thị nhằm điều chỉnh “trật tự công cộng” và khởi xướng các công tác xã hội. Trong các nền dân chủ phát triển, đây là những chức năng của ngành lập pháp. Ngoài ra, chính quyền hành pháp còn quản lí cả những lĩnh vực hoạt động mà theo quan niệm của phương Tây là không thuộc chính phủ. Ví dụ các tu sĩ Thần đạo được coi là công chức nhà nước, có cấp bậc và thuộc quyền quản lí của bộ nội vụ hoặc tỉnh trưởng các tỉnh. Không có bộ y tế, bộ nội vụ kiêm luôn các chức năng của bộ này.
Về danh nghĩa, hoàng đế đứng trên đỉnh tháp quyền lực. Trong hội trường thượng viện, ghế của nhà vua được đặt ở vị trí cao nhất, ngài sẽ ngự ở đó trong những dịp khai mạc và bế mạc các kì họp. Thời gian còn lại chiếc ghế này được ngăn với hội trường bằng những bức rèm lụa. Người bước vào phòng phải cúi chào vị hoàng đế vắng mặt và chiếc ghế vô hình của ngài. Tất cả các sự kiện chính trị của đất nước đều phải trù liệu một cách thận trọng để được nhà vua ưng thuận.
Sự phân bố lực lượng chính trị Nhật Bản có đặc điểm là rất phức tạp, rối rắm, thiếu minh bạch và không theo những trình tự nhất định, tạo điều kiện thuận lợi cho đủ thứ thỏa hiệp, âm mưu và hội họp. Những quyết định quan trọng không phải được thông qua tại quốc hội mà ở hậu trường. Hệ thống chính trị này không có trung
tâm quyền lực, đủ mọi thứ quyền lợi có tính giai đoạn, của tập đoàn cũng như cá nhân, có thể ảnh hưởng đến sự phân bố lực lượng của nó. Đấy là nguyên nhân làm cho chính phủ không thể đứng vững được lâu - do áp lực của hoàn cảnh và các phe nhóm cạnh tranh với nhau, các thủ tướng Nhật thường xuyên và “tự nguyện” rút lui. Đặc điểm nổi bật của chính sách cán bộ, cả trong lĩnh vực quân sự lẫn dân sự, là không có ai giữ vị trí lãnh đạo trong một thời gian dài. Ngoại lệ duy nhất chính là “ghế” của nhà vua. Theo nghĩa này thì khả năng xuất hiện một nhà độc tài quân sự không phải là lớn. Nhưng điều đó cũng không cứu được đất nước khỏi những vụ bùng nổ của chủ nghĩa cực đoan trong chính sách đối ngoại. Không có một định chế hành pháp nào có thể độc chiếm được quyền lực, nhưng do sự yếu kém của quốc hội và các tổ chức xã hội (kể cả các chính đảng) cho nên hành pháp có quyền lực lớn đến mức việc áp đặt chế độ toàn trị là hoàn toàn có thể xảy ra. Các vị hoàng đế cổ đại và trung đại ít khi cai trị bằng một phương châm duy nhất. Thất bại, thiên tai buộc người ta phải thay đổi những phương châm đã mất giá trị. Nhưng kể từ Minh Trị, dù trong hoàn cảnh nào cũng không được thay đổi phương châm. Từ nay trở đi, nội các phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Việc thay người đứng đầu chính phủ cũng có vai trò tương tự như thay đổi phương châm cai trị. Đời sống chính trị Nhật Bản luôn luôn thay hình đổi dạng, tạo cho người ta cảm giác là nó rất sôi động. Nhưng nhiều khi lại bị coi là hỗn loạn. Hoàng đế tạo cho sự hỗn loạn đó một cơ cấu xác định. Ít nhất là người ta cũng có cảm tưởng như thế.
MÀN 3
NHẬT BẢN THAM GIA CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT:
NHIỀU VÀNG NHƯNG ÍT GẠO
Minh Trị lên ngôi khi người dân châu Âu chưa biết gì về nước Nhật, cũng như “thảo dân” Nhật không có chút quan tâm nào đến sự tồn tại của “nhân loại”. Nhưng khi Đại Chính lên ngôi thì Nhật Bản đã là một phần của cái thế giới to lớn và đầy biến động này rồi. Tất cả các nhân vật chính của “tiến trình lịch sử thế giới” đều hành động vì quyền lợi của mình, nhưng họ không cảm thấy ngượng khi sử dụng những từ như “công lí” và “hòa bình” nhằm biện hộ cho những tội ác chống lại nhân loại và nhân tính. Nhật Bản cũng không phải là ngoại lệ.
Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ ở châu Âu và đã làm thiệt mạng 7 triệu người. Cuộc chiến tranh này thực ra không ảnh hưởng tới quyền lợi của Nhật ở Viễn Đông: không ai nghĩ đến việc tấn công Nhật. Ban đầu chính phủ tuyên bố giữ vị trí trung lập, nhưng chính sách này không đứng vững được lâu. Lãnh đạo của đất nước muốn tham chiến đến mức nước Nhật không thể đứng bên ngoài cuộc chém giết trên bình diện quốc tế. Lúc đó giới tinh hoa có tư tưởng cho rằng không tham gia vào
những dự án “quan trọng” tầm cỡ thế giới là tự hạ thấp vai trò của mình. Triển lãm quốc tế hay chiến tranh thế giới không phải là điều quan trọng, quan trọng là phải tham gia.
Có một thời gian tình hình thật kì quặc: một số quan chức chính phủ cho là cần phải chiến đấu chống lại phe đồng minh, số khác lại cho là cần phải đánh Đức. Đối với giới chức Nhật, tất cả các nước đang đối địch nhau đều là “người lạ” cả, họ chỉ quan tâm đến những quyền lợi tức thời mà thôi. Không có tinh thần samurai gì ở đây hết, danh dự samurai chỉ áp dụng cho quan hệ giữa các cá nhân (người Nhật với nhau) chứ không phải cho các quốc gia. Kết quả là “những người thân Anh” đã thắng - Đức không có khả năng chống lại Nhật Bản để bảo vệ quyền lợi của mình ở Viễn Đông. Chính phủ Nhật đã đề nghị Anh kêu gọi Nhật Bản tham chiến (hiệp định Anh-Nhật quy định thủ tục như thế). Nước Anh đã làm như thế, nhưng lại đề nghị Nhật chỉ giới hạn các chiến dịch trong việc vô hiệu hóa hạm đội của Đức ở Viễn Đông. Bị từ chối, Anh rút lại yêu cầu, nhưng ngày 23 tháng 8 [năm 1914 - ND] Nhật vẫn tuyên chiến với Đức. Các đại nguyên lão của thượng viện, tức là những người có nhiều kinh nghiệm, phản đối. Nhưng không ai nghe người già nữa. Họ đã chiến đấu và chiến thắng rồi, bây giờ đến lượt người khác. Trong một hội nghị có sự hiện diện của hoàng đế, người đưa ra quyết định về việc tuyên chiến. Như thường lệ, Đại Chính không nói gì. Chức năng của ngài chỉ là kí đạo dụ tuyên chiến mà thôi.
Đạo dụ kêu gọi dân chúng đoàn kết trong tình hình khẩn trương có tuyên bố rằng căn cứ của Đức đóng ở cảng Thanh Đảo tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc - ND) là hiểm họa đối với hòa bình thế giới, vì
vậy phải tấn công ngay. Cuối đạo dụ, Đại Chính ngỏ lời xin lỗi thần dân vì tuyên chiến trong thời chịu tang hoàng thái hậu Haruko, hoàng hậu của Minh Trị, tức mẹ “chính thức” của ngài. Lúc đó, đáng lẽ Đại Chính phải cư tang, nhưng ở vùng Balkan và trên toàn cõi châu Âu đã xuất hiện một bài toán cực kì khó, cần phải giải quyết ngay. Do có tang mà Đại Chính phải lùi lại ngày lên ngôi hoàng đế, nhưng tuyên chiến thì không thể trì hoãn. Mặc dù có tang nhưng tuyên chiến với Đức là việc bắt buộc phải làm. Dù không muốn đánh nhau, nhưng hoàn cảnh bắt buộc…
Chính phủ Nhật hành động vì quyền lợi “quốc gia”, nhưng lại nói với dân chúng rằng đứng về phe đồng minh là “đạo đức”. Một nhà ngoại giao có tiếng của Nhật hồi tưởng: Nhật đã chứng tỏ lòng trung thành của mình với hiệp ước đồng minh Anh-Nhật, còn “nhân dân Nhật Bản thanh toán những món nợ cũ với Đức và bắt kẻ thù trả giá cho vụ can thiệp tay ba, cũng như đuổi Đức ra khỏi căn cứ ở Sơn Đông”. Mà “điều này phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức của dân tộc, nhân dân Nhật Bản nhất trí ủng hộ cuộc chiến tranh này”*. “Vụ can thiệp tay ba” ở đây chính là những sự kiện năm 1895, sau khi thắng Trung Quốc, đáng lẽ Nhật đã chiếm được bán đảo Liêu Đông. Nhưng Nga, Đức và Pháp đã can thiệp và ra tối hậu thư, Nhật đành phải từ bỏ chiến quả. Sau chiến tranh Nga-Nhật 1904-1905, bán đảo Liêu Đông đã rơi vào tay Nhật, nhưng hận thù thì vẫn sôi sục. Nhưng người ta đã không nói đến việc báo thù Nga và Pháp. Rõ ràng là lòng căm thù của giới tinh hoa Nhật Bản có tính chọn lọc. Năm mươi ngàn binh sĩ lên đường sang Trung Quốc.
Kể từ khi cùng quân đội Mĩ, Anh, Đức, Pháp, Nga đàn áp cuộc
nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn ở Trung Quốc vào năm 1900, đây là lần đầu tiên Nhật Bản tham chiến trong một liên minh quân sự quốc tế. Nhưng nếu 14 năm trước, đấy chỉ là trận chiến với những “kẻ nổi loạn”, thì bây giờ là một “cuộc chiến tranh thực sự”. Mười ba ngàn lính Nhật bao vây vùng tô giới Thanh Đảo của Đức. Trong cơn khốn quẫn vì tuyệt vọng, chính phủ Trung Quốc tuyên bố giữ vai trò trung lập trong cuộc chiến này. Nhưng muốn bao vây pháo đài, quân Nhật vẫn phải sử dụng lãnh thổ của Trung Quốc. Đề nghị hiệp đồng tác chiến giữa quân đội Nhật, Anh, Pháp và Nga đã bị Nhật từ chối với thái độ đầy kiêu hãnh. Pháo đài thất thủ vào ngày 7 tháng 11, bán đảo Sơn Đông, tài sản của Đức và Đức-Trung ở đây rơi vào tay Nhật. Việc chiếm được bán đảo Sơn Đông đã biến biển Hoàng Hải được bao bọc bởi hai bán đảo Sơn Đông và Liêu Đông thành biển Nhật Bản. Nhân dân Nhật Bản “chỉ” phải trả giá là 1.500 sinh mạng mà thôi. Trên đường phố Tokyo và các thành phố khác, những chiếc tàu điện được khoác những vòng hoa lộng lẫy và chạy từ từ để chào mừng chiến thắng. Trước đây, trong những ngày lễ truyến thống, dân chúng thường rước kiệu tượng Thần (shintai) trên đường phố. Ngày nay điện đã làm công việc này thay cho họ. Thần chiến tranh cũng được đưa vào tàu điện. “Liên minh nữ công dân yêu nước” gửi cho binh lính khăn tay và thiệp chúc mừng và tổ chức mít tinh ủng hộ những chiến binh đang đóng ở Trung Quốc. Không thấy ai lên tiếng phản đối.
Việc phân tầng trong xã hội truyền thống Nhật Bản được thực hiện một cách rất nhất quán. Khái niệm bình đẳng không có chỗ đứng trong hệ thống giá trị của họ. Giới tính cũng không phải là
ngoại lệ: vấn đề này được bàn thảo không phải để đảm bảo công bằng mà để củng cố quan hệ bất bình đẳng nam nữ. Nhiều tác phẩm nhằm giáo dục người phụ nữ “lí tưởng” cố tình nhấn mạnh chức năng làm vợ, làm mẹ, làm người nội trợ của phụ nữ. Nhưng nếu trong nước Nhật Bản truyền thống, phụ nữ chỉ quan tâm tới gia đình thì nay đối tượng quan tâm của họ là quân đội, nghĩa là họ đã quan tâm tới việc nước rồi.Phụ nữ cần phải biết nhiều hơn về đất nước của mình.
“Hiệp hội phụ nữ nghiên cứu xã hội” ở Osaka được thành lập vào năm 1916. Hoạt động chủ yếu của hiệp hội là tổ chức các chuyến tham quan những địa điểm mà ngày thường người phụ nữ Nhật Bản không có điều kiện tiếp xúc: trạm điện thoại, công ti khí đốt, nhà máy, ngân hàng. Đỉnh điểm của hoạt động tham quan là các cơ sở quân sự. Phải được cấp cao nhất cho phép thì mới vào được những chỗ như thế - trước đó, chưa có người phụ nữ Nhật Bản nào được bước chân vào các khu vực quân sự. Trong những chuyến tham quan diễn ra vào năm 1919 đã có 1.500 phụ nữ được xem xe tăng và 3.500 người được xem tàu ngầm. Sau khi xem xét xe tăng, những người đàn bà lịch sự Nhật Bản này đã hứa là họ sẽ không bao giờ quên sự ân cần của các quân nhân*.
Nhật Bản có vai trò gần như không đáng kể trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng ý tưởng của châu Âu về chiến tranh tổng lực đã làm xao xuyến tâm hồn người Nhật. Châu Âu đã mất khả nhiều máu trong suốt 4 năm và đã nghĩ đến việc chiến tranh thì không chỉ các quân nhân chuyên nghiệp, không chỉ đàn ông, mà cả đàn bà cũng phải chết. Các chiến lược gia của “chiến tranh tổng lực” (nghĩa
là giết sạch, phá sạch) lại có nhiều người ủng hộ hơn là các chiến sĩ đấu tranh cho hòa bình. Cuộc đấu tranh vì nữ quyền đã làm xao xuyến không chỉ những tình cảm hòa bình. Chiến tranh hóa ra còn là nguồn động viên cho cuộc đấu tranh nhằm “giải phóng” phụ nữ nữa. Các cuộc chiến tranh trong tương lai cho ta thấy rõ điều đó.
Xã hội Nhật Bản đón nhận tin tức về cuộc đổ bộ vào Trung Quốc với niềm hân hoan không cần che giấu, hầu như không có ai nói “chống”. Tất cả những người nói đến sự thiếu khôn ngoan về mặt địa-chính trị của chính phủ và khẳng định rằng tham vọng về lãnh thổ của Nhật có thể dẫn đến việc tranh chấp với Mĩ và các nước phương Tây khác đều bị coi là phản bội quyền lợi quốc gia. Nhưng lúc đó họ vẫn có điều kiện phát biểu. Họ chỉ là một thiểu số rất nhỏ, nhưng đây là vấn đề khác. Bình luận những sự kiện vừa diễn ra trên thế giới, ông Kikujiro Ishii (1866-1945), một nhà ngoại giao Nhật Bản, đã không giấu được vẻ mãn nguyện khi nói: “Nếu cứ giữ thế trung lập thì bây giờ chúng ta đã là nước loại ba, như kiểu Tây Ban Nha, và thế giới người ta sẽ chẳng bao giờ công nhận sức mạnh và uy tín của chúng ta”*.
Đối với Nhật, chiến tranh đã không kết thúc trên bán đảo Sơn Đông. Ngày 14 tháng 12, lực lượng hải quân dũng mãnh của Nhật đã chiếm các lãnh địa khác của Đức ở Thái Bình Dương như các quần đảo Marshall, Mariane và Karoline mà không phải nổ phát súng nào. Quyết định chiếm những quần đảo này được đưa ra sau khi xuất hiện khả năng là Australia và New Zealand có thể chiếm các quần đảo đó. Với việc chiếm các quần đảo này, Nhật Bản đã có thuộc địa không chỉ trên đất liền (Triều Tiên sáp nhập vào Nhật Bản
năm 1910) mà còn có cả thuộc địa trên biển. Lại một lần nữa quân đội Nhật Bản đã chứng tỏ được sức mạnh bách chiến bách thắng của mình, việc chiếm được các quần đảo nằm rất xa về phía nam tạo cho dân thường cảm giác đang sống trong một đế chế vô cùng rộng lớn. Ngoài ra, trong tương lai những căn cứ hải quân trên các quần đảo này có thể cắt đứt đường giao thương của Mĩ. Cần phải nghĩ đến tương lai, cần phải nhìn xa trông rộng - tất cả đều cho rằng đây không phải là cuộc chiến cuối cùng.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đã dũng cảm từ chối đề nghị đưa quân tham chiến ở châu Âu: ngay cả người mơ mộng nhất cũng không thể hi vọng chiến trường châu Âu có thể đem lại cho họ bất kì thành công nào.
Sau khi chiếm được bán đảo Sơn Đông và các quần đảo của Đức ở Thái Bình Dương, Nhật tiến hành thêm một loạt hoạt động khác gây phương hại đến quyền lợi của các nước đồng minh phương Tây. Trong khi những nước kia đang tính sổ với nhau ở châu Âu thì ngày 18 tháng 1 năm 1915 chính phủ của Thủ tướng Okuma Shigenobu (1838-1922) gửi cho chính phủ của Tổng thống Vương Thế Khải công hàm “21 điểm”, khẳng định “đặc quyền” của Nhật không chỉ đối với bán đảo Sơn Đông mà còn đối với cả vùng Nam Mãn Châu và Nội Mông nữa (xin nhắc lại là Nhật đang đánh nhau với Đức chứ không phải với Trung Quốc).
Cũng như trường hợp tuyên chiến với Đức, trong quá trình thương thảo với Trung Quốc, ý kiến của các đại nguyên lão đã bị bỏ qua. Trung Quốc đã đáp ứng phần lớn các đòi hỏi của Nhật, trong đó có việc gia hạn thời gian thuê tỉnh Quan Đông từ 25 năm lên 99
năm. Nếu Trung Quốc không chịu gia hạn thì Nhật sẽ phải rút khỏi Lữ Thuận và Đại Liên vào năm 1928. Nhật chỉ không đòi được một điều: cử người sang làm cố vấn cho chính phủ Trung Quốc. Từ đó trở đi tinh thần phản đế của những người yêu nước Trung Quốc đã không còn hướng vào các nước phương Tầy (trước hết là nước Anh) mà hướng vào Nhật Bản - người Trung Hoa đã không còn coi Nhật là đồng minh trong cuộc đấu tranh chống lại các nước phương Tây nữa, số sinh viên Trung Quốc ở Nhật bắt đầu giảm. Ngày 7 tháng 5, tức ngày công bố văn bản cuối cùng của tối hậu thư, được tuyên bố là “ngày quốc nhục”, ngày này những năm sau đó được đánh dấu bằng những cuộc mít tinh chống Nhật làm rung chuyển cả đất nước.
Thái độ “xảo quyệt” của Nhật làm Mĩ, lúc này vẫn giữ địa vị trung lập, rất tức giận. Đối đầu trực diện với Mĩ chỉ còn là vấn đề thời gian. Nga ủng hộ chính sách của Nhật ở Trung Quốc. Những nước khác trong liên minh chống Đức cũng buộc phải hành động như thế - họ đang cần Nhật giúp đỡ. Chính vì thế mà quân đội Nhật đã tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa của binh sĩ Ấn Độ (thuộc lực lượng quân sự Anh) đóng ở Singapore ngày 15 tháng 2 năm 1915, tức là đúng vào giai đoạn đàm phán Trung-Nhật quyết liệt nhất. Từ tháng 4 năm 1917, một đoàn tàu chiến 13 chiếc đã tham gia hộ tống tàu vận tải của Anh trên vùng biển Địa Trung Hải.
Quan hệ của Nhật với Nga cũng khá tốt. Trong những năm chiến tranh thế giới thứ nhất, quyền lợi về mặt địa-chính trị của Nga và Nhật đã trùng hợp với nhau trong một thời gian ngắn. Người Nhật bỗng quên bẵng rằng họ vừa đánh nhau với Nga ở Triều Tiên và
Mãn Châu, và có đến 70 ngàn người thiệt mạng. Tinh thần hữu nghị thể hiện rõ nhất trong những khu vực có cả người Nga và người Nhật, nghĩa là trong vùng Mãn Chầu. Một nhân chứng ở Cáp Nhĩ Tân đã ghi lại những sự kiện xảy ra sau ngày Nhật tuyên chiến với Đức như sau: “Cuộc diễu hành [của người Nhật] diễn ra vào ban đêm trên Đại lộ Lớn. Có rất nhiều người Nga đến xem buổi diễu hành hiếm có và đặc biệt này. Người đi diễu hành mang theo đèn đuốc, cờ, khẩu hiệu, biểu ngữ, cả bằng tiếng Nhật lẫn tiếng Nga. Nhưng chủ yếu là đèn - đèn đủ mọi màu sắc, kích thước và kiểu dáng, vuông có, tròn có, to có, nhỏ có, lướt qua rất nhanh trên đường phố. Đoàn diễu hành có cả trẻ và già, phụ nữ và trẻ em, mặc những bộ kimono truyền thống hay Âu phục, tất cả đều hân hoan, tất cả đều có vẻ phấn khích một cách bất thường. Trên các biểu ngữ là những khẩu hiệu như: “Nga, Pháp, Anh, Nhật muôn năm!”, “Muôn năm, Ura!”, “Hoàng đế Nga chiến thắng!”, “Chúa phù hộ Sa hoàng!””*. Trong khi theo dõi buổi diễu hành của người Nhật ngay sau khi Sơn Đông thất thủ, ông N. L. Gondatty, thống đốc tỉnh Priamuarsky (của Nga - ND), cũng hô lớn “Muôn năm!”*.
Trong khi đó, trong các rạp người ta tiếp tục cho chiếu những bộ phim về đề tài chiến tranh Nga-Nhật: cuộc chiến kết thúc với chiến thắng của Nhật cách đó đúng mười năm. Sau đó, hầu như năm nào cũng có những bộ phim mới nói về chiến thắng của Nhật trong cuộc chiến không thể nào quên được này. Từ năm 1912 đến năm 1937 đã có15 bộ phim nói về tướng Nogi Maresuke*, người anh hùng của cuộc chiến này (Nogi Maresuke (1849-1912), được vinh danh vì đã chiếm được cảng Lữ Thuận và tự sát bằng cách mổ bụng (hara-kiri)
sau khi hoàng đế Minh Trị băng hà).
Ngày 3 tháng 7 năm 1916, Nhật đã kí với Nga hiệp ước không tham gia vào những thỏa ước và liên minh nếu đấy là những thỏa thuận nhằm chống lại một trong hai nước. Nhưng phần mật ước còn đi xa hơn: tuyên bố Trung Quốc là khu vực đặc quyền của Nga và Nhật. Song cần nhớ rằng do cuộc cách mạng nổ ra ở nước Nga mà các bên kí kết đã không có điều kiện kiểm tra tính bền vững của hiệp ước hày. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên (và cũng là lần cuối cùng trong lịch sử) Nhật và Nga đã trở thành đồng minh, lần đầu tiên binh lính Nga dùng súng đạn của Nhật để bắn vào quân Đức. Quân đội Nga còn sử dụng cả búa và xẻng do Nhật sản xuất nữa.
Việc những người bonsevich chiếm được chính quyền đã làm thay đổi một cách triệt để bối cảnh địa-chính trị trên toàn thế giới. Không có nước nào muốn công nhận chế độ mới. Nhật Bản không phải là ngoại lệ. Ta phải xem xét hành động của giới tinh hoa Nhật trong bối cảnh đó.
Tháng 3 năm 1918, chính quyền công nông kí hiệp ước hòa bình riêng rẽ với Đức. Các nhà công nghiệp Nhật bị mất thị trường tiêu thụ vũ khí ở Nga, còn chính quyền bonsevich thì không chịu trả món nợ của chính phủ Sa hoàng (tính đến tháng 11 năm 1917 Nga đã nợ Nhật 250 triệu Yen) và không chịu thực hiện những hiệp ước đã kí trước đây. Sự sụp đổ của chế độ quân chủ cũng làm người ta đau khổ không kém. Hơn nữa, tháng 11 năm 1918 nước cộng hòa Weimar được tuyên bố thành lập ở Đức, và ngày 11 tháng 11 năm 1918 nước này đã kí hiệp định đình chiến với các nước đồng minh. Sự tan rã của đế chế Áo-Hung và sụp đổ của vương triều Ottoman
cũng chứng tỏ rằng thời đại của cácvương triều đã đến hồi cáo chung. Các dòng họ Romanov*, Habsburg*, Hohenzollern* đều đã thuộc về quá khứ. Nhưng các nhà tư tưởng Nhật đã hồi tỉnh ngay và lại tiếp tục nói về “tính đặc thù” Nhật Bản như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Lần này tính đặc thù được biểu hiện bằng sự tồn tại từ vô thủy đến vô chung chế độ quân chủ. Khác với các nước phương Tây, chế độ quân chủ ở Nhật Bản sẽ tồn tại vĩnh viễn. Dù thế giới có biến động như thế nào thì tính đặc thù của con đường mà Nhật Bản đã chọn vẫn là không gây ra bất cứ sự nghi ngờ nào. Sự hỗn loạn bao trùm lên toàn cõi châu Âu đã dẫn đến kết quả là từ tám “siêu cường” cũ (Anh, Pháp, Đức, Áo-Hung, Ý, Mĩ, Nhật và Nga) nay chỉ còn lại năm. Trừ Nhật và Mĩ, sau cuộc chiến, các nước còn lại đều yếu đi rất nhiều. Đối với Nhật, điều đó có nghĩa là ít đối thủ hơn và cũng tạo ra ảo tưởng là dù có làm gì thì cũng không bao giờ bị trừng phạt.
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã đem lạị cho nền kinh tế Nhật Bản một trận mưa vàng. Ngay từ đầu cuộc chiến, các nhà công nghiệp Nhật đã cung cấp cho châu Âu súng, gươm và đạn dược. Xuất khẩu của Nhật sang Nga tăng hơn 10 lần. Ở Nhật người ta đã bắt đầu bàn đến việc thay thế Đức trên thị trường Nga. Xuất khẩu của Nhật sang các nước Á châu cũng tăng lên hàng chục lần. Các nước này vốn là thị trường tiêu thụ của châu Âu, nhưng chiến tranh đã cắt đứt các mối liên hệ kinh tế cũ. Các hãng xưởng của Nhật không làm kịp các đơn đặt hàng, các hãng tàu Nhật trở thành những công ti vận tải lớn nhất thế giới. Lần đầu tiên sau nhiều năm, Nhật đã xuất nhiều hơn nhập. Nước Mĩ, mãi đến tháng 4 năm 1917
mới tuyên chiến với Đức,cũng hưởng lợi nhờ cung cấp vũ khí cho châu Âu. Trung Quốc cũng tuyên chiến với Đức vào năm 1917. Như vậy là Nhật và Trung Quốc đã trở thành đồng minh. Nhưng quân Nhật vẫn đóng trên bán đảo Sơn Đông.
Trong những năm chiến tranh, số triệu phú Nhật đã tăng lên gấp đôi. Nhật có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất thế giới. Đây là giai đoạn để các công ti tích luỹ hoặc hình thành các công ti mới mà chỉ mấy chục năm sau sẽ đem lại danh tiếng thế giới cho nước Nhật. Đó là các công ti đa ngành và nhiều kinh nghiệm như Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo.Và các công ti mới, ví dụ như Matsushita chuyên sản xuất thiết bị điện. Vì người Nhật ngày càng từ bỏ lối sống truyền thống cho nền những công ti này cũng sản xuất các loại hàng hóa giống như các công ti phương Tây. Mà không chỉ các thiết bị điện. Kimono, tuy chậm, nhưng cũng dần nhường chỗ cho Âu phục, giày dép truyền thống nhường chỗ cho giày da. Trước đây lục quân và hải quân là khách hàng chính, nhưng nay dân chúng cũng đã bắt đầu tiêu thụ những sản phẩm đó. Nghĩa là Nhật Bản đã bắt đầu có quan hệ cạnh tranh về công nghiệp và thương mại với phương Tây. Nhưng máy công cụ chủ yếu vẫn là hàng nhập khẩu. Bên cạnh những xí nghiệp công nghiệp lớn, sử dụng thiết bị hiện đại, là một số lượng cực kì lớn các xưởng thủ công nhỏ và rất nhỏ, lao động phổ thông là chủ yếu. Mức lương của lao động phổ thông quá thấp đã làm chậm lại quá trình áp dụng công nghệ tiên tiến. Tay nghề của đa phần công nhân vẫn còn thấp.
Sự bùng nổ về kinh tế ít ảnh hưởng đến đời sống của thường dân. Nguyên nhân là do lạm phát. Mà lạm phát lại là do xuất khẩu
mang lại quá nhiều tiền, còn các xí nghiệp thì không thể tăng một cách đột ngột công suất của những nhà máy chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Đất nước giàu lên, nhưng không phải người Nhật nào cũng cảm nhận được lợi ích từ đó. Siêu lợi nhuận thu được trong thời kì chiến tranh đã tạo điều kiện thực hiện những chương trình mà trước đó không ai dám nghĩ tới: người ta đã thành lập các viện nghiên cứu và phòng thí nghiệm, cả công lẫn tư, trong các lĩnh vực như hóa, lí, hàng không, nhiên liệu. Ngoài tiền, một tác nhân khác cũng đóng vai trò quan trọng: việc bao vây Đức đã cắt đứt mối liên hệ về mặt khoa học và kĩ thuật với nước này, và ở Nhật người ta bắt đầu bàn đến nhu cầu tự bảo đảm trong tất cả các lĩnh vực. Tiềm lực khoa học của Nhật, so với các nước công nghiệp khác, chưa phải là cao. Nhưng số lượng kĩ sư ra trường ngày một tăng tạo cho người ta hi vọng về một cú bứt phá ngoạn mục trong lĩnh vực công nghệ.
Chính phủ Nhật Bản đã tỏ ra rất thực dụng trong suốt thời kì chiến tranh. Sau khi đã chiếm được một khu vực nhỏ, Nhật Bản kiếm tiền bằng cách chuyên tâm vào cung cấp vũ khí, khí tài. Nhưng nay, vùng Viễn Đông và Sibiri của Nga không có chính quyền, chính phủ Nhật Bản quyết định: cần phải hành động gấp. Họ sợ là sự lộn xộn ở Nga sẽ tạo động lực mới cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên bán đảo Triều Tiên. Giới tinh hoa lo ngại rằng vũ khí của Nga có thể rơi vào tay nhà độc tài Mãn Châu là Trương Tác Lâm. Và nói chung, tại sao không nhặt lấy cái đang sắp rơi như thế? Quân đội được cử đi và được giải thích là để bảo vệ người Nhật sống ở Sibiri và vùng Viễn Đông cũng như bảo vệ tù
binh người Tiệp bị mắc kẹt ở đấy; các nước Đồng minh đã đưa họ tới vùng này để đánh Đức, nhưng bây giờ, sau khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc, những nước này rất lấy làm “lo lắng” cho số phận của họ.
Cuộc can thiệp của các nước đồng minh cũ của Nga vào vùng Viễn Đông Xô Viết bắt đầu năm 1918. Mĩ đưa đến đây 9.000 quân, Anh - 7.000, Trung Quốc - 2.000, Ý - 1.400, Pháp - 1.200. Gánh nặng chủ yếu đặt lên vai Nhật. Nhưng Nhật lại lấy làm thích thú. Đội quân viễn chinh Nhật ban đầu chỉ có 28.000, nhưng đã tăng lên thành 73.000 người trong thời gian rất ngắn. Quân Nhật chiếm được Vladivostok, Nikolaev-na-Amure, Tuyến đường sắt Đông Trung Hoa, Transsiv, Bắc Sakhalin; ngoài ra, họ còn ủng hộ những thủ lĩnh Bạch vệ như Semenov và Kalmykov, đô đốc Koltrakov và cuộc bạo loạn của các đơn vị người Tiệp ở vùng này.
Nhưng đất nước và nhân dân Liên Xô vững mạnh và kiên cường hơn người ta tưởng. Sau khi thấy rằng cuộc chiến chống chế độ bonsevich là không có tương lai, quân đội viễn chinh của các nước châu Âu rút lui vào năm 1920. Binh lính Tiệp Khắc rút qua ngả Vladivostok để về châu Âu. Nhật trở thành đơn thương độc mã, còn Mĩ thì luôn luôn nói rằng sẽ không công nhận quyền lợi của Nhật ở Sibiri. Nhưng lãnh thổ của đế chế Nga cũ vẫn là miếng mồi ngon đối với giới lãnh đạo Nhật Bản. Khác với các nước phương Tây, đối với Nhật Bản, Chiến tranh thế giới thứ nhất vẫn chưa kết thúc.
Quân đội Nhật Bản bảo vệ các nhà băng và các công ti Nhật Bản cũng như đường sắtcủa Nga ở Viễn Đông và Sibiri. Kế hoạch xây dựng những đoạn đường sắt mới, thậm chí kế hoạch xây dựng cả
đường hầm dưới vịnh Tatarsky đã được soạn thảo. Người ta bắt đầu kêu gọi biến biển Nhật Bản thành vùng nội thủy. Nói cách khác, Nhật Bản hành động như một người chủ thực sự của vùng này. Tuy nhiên, những hành động ở lục địa Nhật Bản lại thể hiện tính “không tưởng” của hải đảo và việc Nhật Bản hoàn toàn không hiểu tính cách của người Nga, đặc biệt là tính cách người vùng Viễn Đông và Sibiri, những người đã được tôi luyện để có thể hành động một cách độc lập và sống sót trong những điều kiện cực kì khắc nghiệt, những người kiên cường và sẵn sàng chiến đấu chống mọi “kẻ thù xâm lược”. Quân đội Nhật Bản được huấn luyện để đánh nhau với quân đội chính quy chứ không phải để đánh nhau với những người du kích sẵn sàng hi sinh tất cả, và nó cũng không được huấn luyện để có thể thích nghi với những điều kiện sống quá khắc nghiệt và không có khả năng bình định phong trào du kích ở đây. Nhật cũng không tìm được các đồng minh trung thành trong lực lượng Bạch vệ. Bạch vệ chấp nhận sự giúp đỡ của Nhật, nhưng do có lòng yêu nước nên họ không thể hợp tác lâu dài với Nhật bởi hợp tác lâu dài có nghĩa là phải biến Viễn Đông và Sibiri thành khu vực ảnh hưởng của Nhật. Nhật đã phải cộng tác với cái gọi là nước Cộng hòa Viễn Đông (thường gọi là vùng “đệm”) do Moskva điều khiển trong một thời gian, nhưng quân đội viễn chinh Nhật vẫn phải rút lui vào ngày 25 tháng 10 năm 1922. Ngày 19 tháng 11 năm 1922, nước Cộng hòa Viễn Đông trở thành một phần của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Nga. Quân đội Nhật còn ở lại vùng Bắc Sakhalin đến tận năm 1925, tức là cho đến khi quan hệ chính thức với Liên Xô được thiết lập, nhưng điều đó cũng không xóa nhoà được sự kiện là kế hoạch “khai thác Sibiri” đã thất bại thảm hại.
Đây là lần đầu tiên dân chúng tỏ ra bất bình với một chiến dịch quân sự ở nước ngoài, cần phải nhớ rằng việc phản đối không hẳn chỉ là do lòng yêu chuộng hòa bình, không hẳn là do người ta cho rằng can thiệp vào công việc của người khác là phi pháp và vô luân mà còn do người ta lo ngại Nhật sẽ chẳng được lợi lộc gì. Cách hiểu như thế không loại bỏ được chủ nghĩa quân phiệt, những người chỉ trích chỉ kêu gọi các quân nhân phải thận trọng hơn mà thôi. Cách hiểu như thế tiềm ẩn nguy cơ của những hành động xâm lược mới và “được suy xét một cách thấu đáo hơn”.
Ông Yosino Sakujo (1878-1933), nhà báo và nhà hoạt động xã hội, là một trong những người đầu tiên phê phán chiến dịch Sibiri. Ông cũng được coi là một trong những nhân vật chủ chốt của phong trào dân chủ đương thời. Ông bắt đầu việc “tố cáo” hành động của chính phủ bằng câu nói giống như một lời tự biện hộ: “Về nguyên tắc, tôi không phải là người phản đối việc đưa quân ra nước ngoài”. Sau khi đã trấn an những người phản đối bằng câu đó, ông nói thêm: “Trong dân chúng Nhật không có người nào phản đối việc chiếm đóng vùng Sibiri. Sibiri có nguồn tài nguyên phong phú, có thể giúp củng cố việc bảo vệ đường biên giới trên biển của Nhật và đặc biệt là gia tăng sức mạnh của đất nước qua việc khai thác lục địa, theo quan điểm đó thì chiếm đóng là công việc rất nên làm. Nhưng có thể chiếm Sibiri một cách dễ dàng như thế hay không?”. Ông ta kêu gọi phải xem xét phản ứng của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Mĩ. Và ông ta kết luận rằng các nước đõ sẽ không bỏ qua cho việc chiếm đóng của Nhật*. Tuy nhiên bài báo mang tính “phê phán” này hoàn toàn không đề cập đến quyền lợi của nước
Nga.
Ngay từ đầu, cuộc viễn chinh Sibiri đã gây ra những cuộc bạo loạn ngay trong lòng lãnh thổ Nhật Bản. Đấy là những cuộc “bạo loạn gạo”.
Gạo là lương thực chính của người Nhật. Dân chúng bao giờ cũng rất nhạy cảm với sự tăng giảm của giá gạo. Đôi khi giá gạo tăng đã làm dân chúng giận dữ và xuống đường. Họ thường đập phá các quầy hàng. Nhưng những cuộc “bạo loạn gạo” đó thường chỉ giới hạn trong một vài khu vực. Những vụ bạo loạn như thế đã từng xảy ra ở những khu vực phía Bắc trong các năm 1890 và 1897. Nhiều năm đã trôi qua, thị trường quốc gia đã hình thành dẫn đến sự kiện là khó khăn xuất hiện khắp nơi và ngay lập tức. Cuộc khủng hoảng như thế đã bùng nổ tháng 7 năm 1918. Ngoài nguyên nhân là lạm phát đi kèm với chiến tranh, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng là do chính phủ Nhật đã mua quá nhiều gạo cho đội quân sắp lên đường chiếm đóng vùng Viễn Đông và Sibiri. So với năm 1916, giá gạo đã tăng lên ba lần. Lương không tăng theo kịp đà lạm phát. Không ai hiểu nổi: Vì sao nhiều việc làm như thế mà giá lại tăng? Người Nhật đã quen sống “nghèo cho sạch, rách cho thơm”, nhưng khi thấy người giàu ngày càng giàu thêm thì họ không thể chấp nhận được nữa.
Ngày 7 tháng 7, các bà nội trợ ở một thị trấn trong tỉnh Toyama xuống đường đòi cấm đưa gạo ra khỏi tỉnh này. Dân chúng các thành phố bên cạnh làm theo, cuộc bạo loạn lan sang tất cả các tỉnh trong nước. Việc phụ nữ đóng vai trò khởi xướng đã là một cú sốc thực sự. Phụ nữ giữ nhà chứ không được ra đường đòi hỏi chuyện
nọ chuyện kia. Nhưng đàn ông đã đi vắng hết - họ đang vào mùa đánh cá ở Hokkaido và Sakhalin. Vì vậy mà phụ nữ phải tự đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình. Báo chí gọi đây là “cuộc bạo loạn của các bà”. Thay đổi đã xảy ra nhưng đấy là những thay đổi mà chính quyền chẳng thích thú gì.
Trong các thành phố lớn, dân chúng bao vây trụ sở của các công ti buôn bán gạo. Ở một vài nơi người ta còn xông vào cướp bóc, thậm chí đốt phá các văn phòng và cửa hàng bán gạo. Khoảng 700 ngàn người đã tham gia vào các cuộc biểu tình phản đối. Trước đây, chỉ có những cuộc ủng hộ chính sách của chính phủ trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật mới có số lượng người tham già đông đến thế. Còn bây giờ người ta phải huy động đến 100 ngàn lính bộ binh và hải quân để đàn áp cuộc bạo loạn. Quân đội khó mà được lòng dân sau những chuyện như thế. Quân đội phải chiến đấu với kẻ thù, nhưng lần này kẻ thù lại chính là nhân dân Nhật Bản. Báo chí bị cấm không được nói đến những cuộc bạo loạn vì gạo. Trang báo nào cũng đầy “những khoảng trắng” - kiểm duyệt xóa sạch những thông tin viết về cuộc bạo loạn này. Đây là lần đầu tiên kiểm duyệt ra tay một cách quyết liệt đến thế.
Người biểu tình lập tức giải tán sau khi quân đội xuất hiện trên đường phố, nhưng nạn nhân thì vẫn có. Mặc dù không có người lính nào bị giết, nhưng 30 người nổi loạn đã thiệt mạng. 25 ngàn người bị bắt giam, trong đó có 8 ngàn người bị đưa ra tòa. Hai người bị kết án tử hình, mười hai người bị tù chung thân. Các đảng phái chính trị cũng như các tổ chức xã hội không có vai trò gì trong việc tổ chức những vụ lộn xộn nói trên. Nghĩa là phong trào hoàn
toàn mang tính tự phát. Chính quyền cho rằng cách mạng Nga đã có ảnh hưởng đối với những cuộc “bạo loạn gạo”. Không thể nào uốn được lưỡi để công nhận rằng chính mình là người có lỗi. Lên án “nhân dân” Nhật Bản có vẻ như cũng không được “ái quốc” cho lắm. Những người xã hội chủ nghĩa đã trở thành nỗi ám ảnh đối với tầng lớp tinh hoa Nhật Bản.
Những vụ bắt bớ cũng như các biện pháp giảm giá của chính phủ đã mang lại kết quả: từ tháng 9 tình hình đã lắng dịu. Hoàng đế Đại Chính tặng quỹ cứu trợ 3 triệu Yên, chính phủ đóng góp 10 triệu, Mitsui và Mitsubishi cũng đóng góp mỗi công ti 1 triệu Yên. Gạo giá rẻ cũng được vận chuyển gấp từ Triều Tiên và Đài Loan về chính quốc. Nhưng dưới áp lực của dư luận xã hội, chính phủ của tướng Terauchi Masatake (1852-1919) cuối cùng cũng đã phải nhận trách nhiệm và từ chức. Nhưng lúc đó ở Nhật chẳng có mấy chính phủ tồn tại được lâu cho nên các vị bộ trưởng phải từ nhiệm cũng không coi đây là một bi kịch. Tuy nhiên, Terauchi vẫn là một trong những thủ tướng phải từ nhiệm vì những vụ nổi dậy của dân chúng. Lên thay là nội các do ông Hara Takashi (1856-1921), lãnh tụ đảng Seiyukai, thành lập và đây cũng là nội các mang tính đảng phái đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản.
So với các nước khác, dân Nhật có đặc điểm là cực kì dễ bảo. Nhưng họ sẽ không chịu nghe khi vấn đề liên quan đến gạo. Cần phải hiểu: bạo loạn không phải vì không có gì để ăn, nạn đói chưa hề xảy ra. Nhưng việc thay cơm bằng những món khác bị người Nhật coi là đại bi kịch. Khi nói “ăn”, người Nhật nghĩ ngay lă “ăn cơm”. Ngay cả ở Tohoku, tức là vùng Đông Bắc, người dân cũng
thích trồng lúa hơn là trồng các hoa màu khác. Nhưng khí hậu ở vùng này lại không thuận lợi cho việc trồng lúa. Những đợt lạnh giá thường dẫn đến mất mùa, song điều đó cũng không ảnh hưởng tới cơ cấu cây trồng của vùng này. Thái độ của người Nhật đối với cơm được nhà văn Natsume Soseki thể hiện như sau: “Người ta bảo rằng dân nghèo ăn những miếng khoai tây sống, thái mỏng thay cơm và đại mạch. Khoai tây thái mỏng là thức ăn dành cho khỉ. Thật là khủng khiếp quá. Nhưng có những người… ăn ngày ba bữa cơm. Nhiệm vụ của tôi là dùng tác phẩm của mình để vạch mặt những kẻ thất đức đó”.
Cuộc xâm lăng Sibiri chẳng mang lại cho Nhật một chút lợi lộc nào. Nhưng thiệt hại thì khá lớn: ba ngàn binh sĩ thiệt mạng và một tỉ Yên chiến phí. Tuy nhiên, sau khi rút hết các đơn vị viễn chinh về nước, người Nhật đã có một giai đoạn ngừng chiến và họ dành hết sức lực cho công cuộc xây dựng một xã hội tư bản “bình thường”. Lối sống tiêu thụ kiểu Mĩ, vốn bị các quân nhân và những người theo tự tưởng truyền thống ghét cay ghét đắng, bắt đầu “gặm nhấm” tâm hồn Nhật Bản. Cuộc sống của các thanh niên thành đạt trong các công ti tư nhân được bảo đảm hơn cuộc sống của các sĩ quan. Nhưng quân nhân lại cho rằng như thế là đi ngược lại truyền thống dân tộc. Nếu không phải các quân nhân thì ai là muối của đất? Quân đội không còn được dân chúng ngưỡng mộ như trước. Có thời sao và vạch cũng không còn hấp dẫn thanh niên nữa. Bộ máy tuyên truyền của các nước đồng minh với Nhật trong Thế chiến vừa qua - bây giờ những nước này ra sức khẳng định rằng họ đang đấu tranh chống lại chủ nghĩa quân phiệt - đã có vai trò quan trọng
trong việc tạo ra sự thay đổi tâm trạng như thế.
Bên cạnh thất bại ở Sibiri, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc còn mang đến cho Nhật một thất vọng nữa. Người Nhật bình thường cho rằng đất nước đã hành động một cách quân tử khi thể hiện lòng trung thành với hiệp ước Anh-Nhật và tuyên chiến với Đức. Nhưng năm 1922, theo đề nghị của Anh, hiệp ước này chấm dứt hiệu lực và Anh bắt đầu ngả dần sang phía Mĩ. Hành động của Anh tạo ra một làn sóng phẫn nộ trên khắp nước Nhật, người Nhật cho rằng mình bị xúc phạm. Anh bị coi là kẻ phản bội. Các thủy thủ đang theo học ở Anh bị gọi về, bây giờ ngay cả trong lĩnh vực này cũng chỉ còn cách dựa vào chính mình mà thôi. Trong giới quân nhân cảm giác bực bội ngày càng gia tăng, cần phải tìm lối thoát cho nó. Gần hai chục năm sau cảm giác này trở thành tác nhân chủ yếu, dẫn đến việc thành lập nhà nước cảnh sát và chiến tranh - cả với Anh lẫn Mĩ.
Nhưng nước Nhật thời Đại Chính chưa phải là nhà nước cảnh sát. Kỉ luật khá nghiêm khắc, nhưng tình hình chung trong xã hội chưa cho phép thực hiện những hành động độc đoán một cách công khai. Năm 1921, người ta quyết định trục xuất một người xã hội chủ nghĩa lãng mạn Nga tên là Vasili Eroshenko. Đấy là một người mù, chuyên sáng tác những câu chuyện cổ tích vô thưởng vô phạt bằng tiếng Nhật và tiếng Esperanto. Cảnh sát xông vào nhà những người bạn của nhà văn và lôi ông lên đồn. Khi xông vào nhà, cảnh sát đã quên cởi giày! [Người Nhật có phong tục cởi giày trước khi vào nhà - ND] Ngày hôm sau báo chí mô tả cụ thể vụ việc. Phóng viên tờ Yormiuri đòi đưa cảnh sát ra tòa vì đã vi phạm điều
khoản về tính bất khả xâm phạm về nhà ở. Vụ án đã được khởi tố. Nhân chứng cũng không thiếu. Eroshenko vẫn bị trục xuất, nhưng cảnh sát trưởng khu vực đã bị buộc phải từ chức*.
Nhật vẫn chưa phải là nước quân phiệt, nhưng tiền đề thì đã có rồi. Các quân nhân đã rút ra từ cuộc chiến vừa kết thúc một bài học quan trọng: chiến tranh không phải là công việc của riêng các quân nhân chuyên nghiệp, chiến tranh thế giới thứ nhất cho người ta thấy rằng giờ đây không phải quân đội đánh nhau với quân đội mà là dân tộc này đánh nhau với dân tộc kia. Vì vậy, cần phải chuẩn bị cho nhân dân Nhật Bản đón nhận cuộc chiến tranh tổng lực trong tương lai. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà quân sự càng thêm tin chắc rằng lịch sử chiến tranh của loài người sẽ còn lâu mới kết thúc.
Kết quả cuối cùng của chiến tranh thế giới thứ nhất được quyết định ở Paris và Versaille. Hội nghị bắt đầu vào ngày 18 tháng 1 năm 1918. Đoàn đại biểu Nhật Bản, do đại nguyên lão Saionji Kinmochi dẫn đầu, đã củng cố được chiến quả của mình về mặt pháp lí: Nhật đòi được quyền đối với bán đảo Sơn Đông (bố trí quân đội bảo vệ các tô giới được Đức nhượng cho Nhật) và quyền cai trị các thuộc địa của Đức ở Thái Bình Đương. Tất cả tài sản này được mua chỉ với giá 5 ngàn sinh mạng!
Nhưng Nhật bị thất bại trong một vấn đề khác. Hội nghị có thảo luận thành phần Hội quốc liên đang được thành lập. Nhật được ghế thành viên thường trực, tức được công nhận là “siêu cường”. Nhưng hoàn toàn thỏa mãn thì không. Phái đoàn Nhật đề nghị đưa vào lời nói đầu điều lệ điều khoản về bình đẳng sắc tộc. Biểu quyết
có vẻ như là thuận lợi: 11 “ủng hộ”, chỉ có 5 “chống”. Nhưng trong số các nước “chống” lại có Anh và Mĩ. Wilson, Tổng thống Mĩ tuyên bố rằng vấn đề này liên quan đến công việc nội bộ của các nước tham gia cho nên phải được tất cả các nước đồng ý thì mới được thông qua. Tất cả các nước phương Tây đều có thuộc địa, còn tại Mĩ thì chủ nghĩa phân biệt chủng tộc rất thịnh hành. Trong những điều kiện như thế, đòi hỏi bình đẳng sắc tộc chắc chắn không thể được chấp nhận. Nhật buộc phải rút lui. Việc người ta không muốn công nhận nguyên tắc bình đẳng sắc tộc không phải là nhằm chống lại Nhật, nhưng ở Nhật người ta đã nghĩ như thế. “Không tôn trọng sắc tộc” lập tức làm lu mờ sự kiện là Nhật đã giành được khá nhiều lãnh thổ. Một lần nữa Mĩ và Anh lại thể hiện được ưu thế của mình.
Việc Nhật chiếm đóng bán đảo Sơn Đông đã tạo ra làn sóng bất bình ở Trung Quốc và các nước châu Á khác. Nhật đã chứng tỏ cho thế giới thấy rằng họ đã bình đẳng với các nước phương Tây, nhưng không có chuyện bình đẳng giữa Nhật và các nước châu Á khác. Trung Quốc không kí Hiệp ước Versaille, chiến dịch tẩy chay hàng hóa Nhật Bản lan khắp cả nước. Đối với các nước châu Á, Nhật có thái độ của một cường quốc thuộc địa “bình thường”. Mĩ không thể chấp nhận được chuyện đó. Khác với chủ nghĩa đế quốc phương Tây, Mĩ dựa vào tính ưu việt của nền kinh tế và thực hiện chính sách “mở cửa” đối với châu Á. Bất đồng với việc chuyển bán đảo Sơn Đông cho Nhật, Thượng viện Mĩ không phê chuẩn Hiệp ước Versaille và nước này không tham gia Hội quốc liên. Như vậy, Hiệp ước Versaille đã tạo tiền đề không chỉ cho một cuộc chiến tranh mới ở châu Âu mà còn làm cho thái độ thù địch giữa Mĩ và
Nhật gia tăng. Năm 1919, hạm đội hải quân Mĩ được chuyển từ bờ biển Địa Trung Hải sang Thái Bình Dương. Tuy thất bại trong vấn đề bình đẳng sắc tộc, Nhật vẫn tham gia Hội quốc liên.
MÀN 4
TRẬN ĐỘNG ĐẤT KINH HOÀNG NĂM 1923: THIÊN NHIÊN VÀ CON NGƯỜI
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã trở thành lịch sử. Hậu quả và kết quả của nó có ảnh hưởng rất lớn đối với chính sách của Nhật Bản. Nhưng sự kiện lớn nhất dưới triều Đại Chính, còn đọng lại trong tâm trí người dân, lại không phải là chiến tranh. Cuộc chiến tranh này được tiến hành bên ngoài lãnh thổ quốc gia, tổn thất về người cũng không đáng kể. Còn vụ động đất năm 1923 thì xảy ra ngay trên lãnh thổ Nhật Bản.
Lúc đó mọi người đều nghĩ rằng Nhật là dân tộc có thái độ mẫn cảm đối với thiên nhiên nhất thế giới. Nhưng thiên nhiên cũng có thái độ đặc biệt đối với người Nhật. Năm nào cũng có bão, một vài trăm người thiệt mạng vì bão là chuyện bình thường. Động đất cũng là chuyện bình thường và không làm cho người ta bớt vững tin hơn vào ngày mai.
Quần đảo Nhật Bản thường xuyên bị rung chuyển. Nhưng chỉ thời gian gần đây hậu quả của động đất mới thực sự trở thành thảm họa. Đấy là do không chỉ các công trình xây dựng sụp đổ mà các vụ hỏa hoạn đi kèm cũng gây ra nhiều thiệt hại. Lửa mang đến nhiều tai họa hơn là những mái nhà bị sập. Hơn nữa, mái nhà cũng không
dễ sập - kết cấu tương đối nhẹ của những ngôi nhà Nhật Bản dễ dàng chống chọi được với động đất. Nhưng với mật độ dân số gia tăng ở những khu nhà gỗ trong thành phố thì số nạn nhân của các vụ động đất cũng gia tăng. Người ta vẫn còn nhớ vụ động đất kinh hoàng năm 1855. Nhưng vụ động đất kinh khủng nhất trong lịch sử Nhật Bản là vụ động đất 7,9 độ rechter, xảy ra lúc 11 giờ 58 phút 44 giây ngày 1 tháng 9 năm 1923. Khu vực Tokyo-Yokohama bị thiệt hại nặng nề nhất. Tokyo lúc đó có 3 triệu người. Ở ngay chính thủ đô số người bị chết cháy, bị gạch đá đè chết hoặc bị chết đuối là 100 ngàn. Hệ thống cung cấp điện, cung cấp nước và điện thoại bị hỏng hoàn toàn. Mỗi người phải tự thống kê thiệt hại. Toàn bộ số tem thư dự trữ, trong đó có loạt tem kỉ niệm đám cưới hoàng thái tử Hirohito, đã bị cháy hết.
Tâm chấn của trận động đất nằm bên dưới vịnh Sagami. Nhưng gió đã tạt lửa từ mái nhà này sang mái nhà kia, cả một thành phố với những ngôi nhà gỗ đã phát hỏa, nóng đến nỗi làm chảy cả tiền xu. Vì không có nước, vụ hỏa hoạn kéo dài ba ngày đêm liền. 221.718 ngôi nhà bị thiêu rụi. 360 trong số 675 chiếc cầu đã bị phá hủy. 824 lính cứu hỏa ở thủ đô cùng với 50 xe chữa cháy đã không làm được gì. Cây cối xung quanh cũng cháy hết, chỉ có những con sông và hoang mạc mới ngăn chặn được vụ cháy mà thôi. Tokyo bị cháy hết, Tokyo bị phá hủy hoàn toàn. Tất cả những ngôi nhà xây bằng đá từng khiến du khách phải trầm trồ đều đã không còn. Ngôi nhà thờ Chính Thống giáo nổi tiếng, được xây dựng vào năm 1891, cũng không còn. Chỉ có khách sạn Imperial, do Frank Lloyd Rite xây dựng cách đó một năm, là còn đứng vững. Đây là ngôi nhà bằng đá
chịu được động đất đầu tiên ở Nhật Bản.
Vụ động đất xảy ra khi các bà nội trợ đang nấu bữa trưa. Lửa từ những bếp lò, bếp than và đèn cồn đã thiêu rụi thành phố. Dân chúng chạy vào các công viên, sân nhà thờ, sân chùa, có người lao cả xuống sông, xuống hồ để tránh lửa. Trên quảng trường trước hoàng cung có 300 ngàn người - chưa bao giờ có đông người đến thế. Những người này đã trở thành vô gia cư. Nhưng cánh cổng hoàng cung, được bao bọc bởi những con kênh đầy nước và những bức tường bằng đá, vẫn đóng im ỉm như không có gì xảy ra. Như mọi khi, hoàng đế Đại Chính không có mặt ở thủ đô. Ngài đang dưỡng bệnh ở Nikko. Thiệt hại của trận động đất gấp bốn lần ngân sách hằng năm của quốc gia.
Nhưng trong vụ hỗn loạn này người Nhật vẫn là người Nhật. Họ đã chết một cách kiên cường. “Sau hỏa hoạn, những người còn sống đi đào bới tìm xác người chết. Người ta nhìn thấy nhiều người cháy thành than, trong những hàng dài - bên dưới những xác chết này có cả những đứa trẻ vẫn còn sống. Người lớn đã cháy thành than, họ chết mà không hề hoảng loạn, hay gần như không hoảng loạn - ít nhất, họ đã dùng thân thể mình che chở cho những đứa con”*. Stanislav Patek, một nhà ngoại giao Ba Lan đã nhìn thấy giữa cảnh kinh hoành đó một ông bố tìm thấy con gái của mình. “Họ không lao vào ôm lấy nhau - không - họ cúi gập người chào nhau, như những người Nhật lịch sự vẫn chào, tay để trên đầu gối, môi mấp máy, họ chúc nhau một buổi chiều tốt lành, họ không động vào người nhau*”.
Nhưng sự cuồng nộ của tự nhiên không phải là tất cả. Trong đám
đông tụ tập ở khu vực Shitamachi lan truyền tin đồn rằng không còn chính phủ nữa, các đám cháy là do người Triều Tiên và đảng viên xã hội chủ nghĩa đốt, bọn này đang chuẩn bị cướp chính quyền và giết hết người Nhật còn lại. Người ta còn nói rằng người Triều Tiên đã bỏ thuốc độc vào sông và giếng, rằng họ còn cướp và cưỡng hiếp nữa. Mà đằng sau dân Triều Tiên là bọn xã hội chủ nghĩa. Shitamachi là khu công nhân và dân nghèo. Ở đây có nhiều nhà máy và một số liên hiệp công đoàn. Công đoàn công nhân Triều Tiên cũng tham gia một trong những hiệp hội như thế. Ở đây có cả công nhân lao động phổ thông người Hoa. Người Triều Tiên và người Hoa từ Đài Loan tới đã đóng góp sức mình vào việc xây dựng nên đế chế Nhật Bản vĩ đại.
Không còn báo chí, những lời đồn đại tiếp tục làm nhiệm vụ của mình - dân chúng tự tổ chức thành những đội tuần tra, vũ khí là gậy tầm vông, câu liêm và giáo mác. Ngày 2 tháng 9 thủ đô tuyên bố tình trạng khẩn cấp, binh lính tỏa ra khắp thành phố. Cảnh sát, binh lính, dân quân và thường dân bắt đầu tấn công người Triều Tiên và người Hoa. Bạo lực lan tràn - theo một số nguồn tin, hơn 6 ngàn người Triều Tiên và khoảng 500 người Hoa đã bị giết. Có cả người Nhật từ các tỉnh khác tới, nhưng bị cho là người Triều Tiên và bị đám đông cuồng loạn giết chết. Cách phát âm của họ bị người dân Tokyo cho là giọng người ngoại quốc. Những người hoạt động công đoàn và vô chính phủ “may mắn” hơn người Hoa và người Triều Tiên - “chỉ có” 1.500 người bị giết. Cần phải nhớ rằng phần lớn nạn nhân của vụ khủng bố mang tính sắc tộc-xã hội này bị chết không phải do bị bắn mà là bị đánh đập. Mà bắn cũng không phải cả đoàn
"""