" Lã Bất Vi - Hàn Diệu Kỳ full prc, pdf, epub, azw3 [Danh Nhân] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lã Bất Vi - Hàn Diệu Kỳ full prc, pdf, epub, azw3 [Danh Nhân] Ebooks Nhóm Zalo Lã Bất Vy HÀN DIỆU KÌ thuvien-ebook.net ĐÔI LỜI VỀ TÁC GIẢ Hàn Diệu Kì là hội viên của Hiệp hội các nhà văn Trung Quốc. Ông sinh tháng 6 năm1951 tại thị trấn Công Chủ Linh. Năm 1975 tốt nghiệp khoa trung văn Học viện Sư phạm Tây Bình. Ông đã từng là thành phần trí thức, thương gia, sáng tác gia, biên tập viên, phóng viên, thư ký của Bí thư Ủy ban nhân dân thành phố, nhưng ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sáng tác những tác phẩm văn học mang tính ghi chép lại sự thực. Những tác phẩm nổi tiếng: tiểu thuyết “Nơi xa xưa”, những tác phẩm chuyên ngành “Diện mạo Mãn tộc đời Thanh”. Hiện nay ông giữ chức Phó chủ nhiệm Trung tâm sáng tác văn học tỉnh Cát Lâm, kiêm Tổng thư ký Hội liên hiệp hữu nghị thương – tác gia tỉnh Cát Lâm. LỜI NÓI ĐẦU Khi chúng ta dùng ngòi bút của mình để phủi đi những lớp bụi lịch sử trên con người Lã Bất Vi thì chúng ta không những bị thu hút bởi những biến cố thăng trầm rung động lòng người mà con người này đã trải qua, bởi một tình yêu sâu đậm mà còn bị những tư tưởng mới vượt xa hơn người của ông ta lôi vào vòng cuốn. Ví như Lã Bất Vi có khí phách của người anh hùng dám đương đầu với sóng gió. Ông ta và phụ thân của mình đều là thương nhân của nước Vệ. Có lần Lã Bất Vi hỏi cha: “Làm ruộng thì số lời sẽ thu là bao nhiêu?”, cha ông ta trả lời: “Một trăm lần”; ông ta lại hỏi tiếp: “Lập một quốc vương thì có thể thu lợi là bao nhiêu?”. Lần này cha ông không biết trả lời sao. Ông ta nói với cha mình rằng: “Lập một quốc vương thì món lời đó sẽ không thể tính được”. Vậy mà trong cuộc chém giết nhau trên chiến trường và tranh giành nơi triều chính, thậm chí đôi lúc mạo hiểm cả tính mạng; nhưng Lã Bất Vi vẫn không hề tỏ ra run sợ, ông ta sẵn sàng đương đầu đón nhận những nguy hiểm đó. Và sau những nỗ lực, gian khổ, cuối cùng ông ta đã thành công. Ví như tư tưởng thiên hạ chi công của Lã Bất Vi trong cuốn “Lã Thị Xuân Thu. Qúy Công” có viết: “Thiên hạ giả, phi nhất nhân chi thiên hạ, thiên hạ chi thiên hạ dã. Âm dương chi hòa, bất tưởng nhất loại, cam lộ thời vũ, bất tư nhất vật; vạn dân chi chủ, bất a nhất nhân”. Câu nói này thật hay biết bao. Nó có nghĩa là: Thiên hạ không phải là thiên hạ của riêng ai, mà là thiên hạ của mọi người; khi âm dương kết hợp với nhau một cách tự nhiên thì những vật phẩm được sinh ra từ sự kết hợp đó sẽ không phải chỉ có duy nhất một loại; khí hậu mưa thuận gió hòa thì những sinh vật được hưởng những ưu đãi này cũng không phải chỉ có một loài: chủ của muôn dân cũng không phải chỉ có một người. Lại ví như chủ trương mai táng của Lã Bất Vi.Ông ta bảo: “Ngày xưa vua Nghiêu sau khi mất đã được chôn cất tại Cốc Lâm, trên mộ trồng vô số cây: Vua Thuấn sau khi mất thì được chôn tại Kỉ Thị và vẫn cho mọi người buôn bán, họp chợ tại nơi đó; vua Vũ thì được chôn tại Hội Kê, cũng không phải sử dụng đến nhân lực, vì vậy tiên vương cũng phải tiết kiệm trong việc chôn cất (Xem Lã Thị Xuân Thu. An Tử). Có thể nói một cách không khoa trương rằng những tư tưởng tiến bộ của dân tộc Trung Hoa từ thời xa xưa đều có thể tìm thấy trong quỹ đạo khởi đầu trong thế giới tinh thần của Lã Bất Vi. Tính cách chính là vận mệnh. Năm 246 trước CN, Tần Thủy Hoàng mới chỉ có mười tuổi đã lên kế vị. Lã Bất Vi nhiếp chính với danh nghĩa “Trọng phụ” và tướng quốc, và đã trở thành người cầm quyền sinh sát chính thức của nước Tần. Lúc này cũng chính là lúc nước Tần cầm quân đi thôn tính sáu nước và giành được thắng lợi liên tiếp. Trên một góc độ nào đó, thì chính Lã Bất Vi là người đã đặt nền móng cho sự thống nhất thiên hạ của nước Tần. Mười một năm sau đó, Tần Thủy Hoàng chính thức lên nắm quyền. Lã Bất Vi bị cách chức, cuối cùng trên đường cùng uống thuốc độc tự kết liễu đời mình. Kết cục bị thảm của Lã Bất Vi là do hai mâu thuẫn gây ra. Thứ nhất là mâu thuẫn giữa cái tôi trong tính cách của ông ta. Mâu thuẫn giữa ông ta và Tần Thủy Hoàng là đối lập nhau. Trong cuốn “mười điều phê phán của Quách Mạt Nhược đã nêu ra mười nội dung: chú trọng việc dùng đức để trị hay dung hình phạt để trị? Quan thiên hạ hay gia thiên hạ, quân chủ chiêu hiền hay là quân chủ cực quyền, tôn sự trọng Nho giáo hay là đốt sách bài Nho v.v… Tần Thủy Hoàng không thể tha thứ cho những ai có ý chống đối với mình, mặc dù người đó là Lã Bất Vi – người cùng dòng máu với mình, người đã giúp ông ta xây dựng cơ nghiệp. Những mâu thuẫn: tiến thủ và trốn tránh, bác ái và nhỏ nhen, khôn khéo và thẳng thắn trong tính cách của Lã Bất Vi. Ví như, ông ta phải ghìmlong để dâng người thiếp yêu của mình là Triệu Cơ cho Dị Nhân trở thành vua Nước Tần, nhưng tình yêu của Triệu Cơ đối với Lã Bất Vi vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi hai người lén lút gặp nhau thì cái chủ trương kiềmchế và tâmlý phòng nguy hiểmđã khiến Lã Bất Vi phải rời xa chốn buồng the nơi hậu cung và tìm Lao Ái – tên giả hoạn quan để thay thế mình. Hành động rút lui đó của Lã Bất Vi không chỉ tạo ra một khoảng trống trong tâmhồn của Vương hậu mà còn tạo ra không gian quyền lực, rất nhanh Lao Ái đã tạo dựng cho mình thế lực chính trị trogn cung. Bị vây chặt giữa hai thế lực là Tần Thủy Hoàng và Lao Ái, Lã Bất Vi không còn sức chống chọi nữa. Con người nếu rơi vào cái mâu thuẫn nội tại của chính bản thân mình thì có thể coi như vô tội, đồng thời với việc tạo dựng và phân tích con người Lã Bất Vi, chúng ta có lý do để thông cảmvới nhân vật đầy tính bi kịch này. HÀN DIỆU KÌ Trường Xuân tháng 12-2000 Chương 1: QUYỀN UY SỤP ĐỔ Một trận mưa không to nhưng không dày và dai dẳng xuốn cả vùng Cảo Kinh – kinh đô của triều nhà Chu. Trận mưa mang đến cho mùa xuân 770 trước CN một không khí ẩmướt. Một thời gian dài trước đó thời tiết lạnh khô đến lạ kỳ. Trận mưa kéo dài suốt mười ngày, đúng như dự toán của ông thầy cúng. Mặc dù vậy, trong các ngôi đền, chùa vẫn mù mịt khói hương, người dâng cúng lễ vật và những người cầu mưa đều vui mừng nhìn ra giá ngoài và ê a hát lên bài cầu chúc. Trong cung Hổ Tước, nơi mà thường xuyên được Chu Vương cho sửa sang và quét vôi, những tên lính hầu và đámcung nữ luôn luôn thấy vị Thiên tử Tây Chu này đi đi lại lại. Ông ta thường cáu giận với các triều thần trong triều vì những chuyện không đâu vào đâu, buổi tối cũng không lui tới thẩmcung của các phi tần. Tiếng chuông treo trên mái hiên phát ra những âmthanh trong trẻo cũng không làmông ta thích thú mà trái lại ông ta cảmthấy rất chói tai, bèn sai người tháo hết những cái chuông đó xuống. Vị Thiên tứ ngũ tuần này biết rằng, tâm tính khó chịu này cũng một phần là tại thời tiết. Dưới bầu trời nắng như thiêu, không có lấy một gợn mây nào ông ta mong ước có một mỹ nhân cùng với mưa xuân bay xuống. Ông ta cũng chẳng muốn quan tâm đến công việc ruộng đồng, trồng hạt. Đống kê, thóc trong kho lương thực của vị Thiên tử họ Chu cũng đủ để nuôi đám hậu duệ cháu chắt mấy đời và đám phi tần, mỹ nhân của ông ta. Hơn nữa ông ta cũng đã khoán mức thuế phải đóng hàng năm cho các chư hầu, riêng chỗ đó cũng đủ cho việc chi tiêu, ăn mặc trong vương thất. Mặc dù như vậy, Chu U Vương vần mong chờ mưa xuống, không hiểu tại lý do gì. Thậm chí ông ta còn cho vời rất nhiều thầy cúng danh tiếng đến điện ở cung Hổ Tước để xem bói. Những thầy mo mặt vẽ chằng các hoa văn, họ đem đốt những mai rùa, xương thú còn dính nguyên máu tươi trên những đống than, làmphát ra những tiếng lốp bốp, sau khi nhìn thấy những vết rạn nứt ở phía trên những vật đó thì thiên cơ cho Chu U Vương sẽ tiết lộ. Trận mưa dai dẳng đó đã quét sạch bụi bẩn trên những mái hiên rong rêu trên tường, trên những thềm lan chạm ngọc đồng thời cũng tăng them nhiều màu sắc, dáng vẻ cho những cây liễu, cây mai trong ngự hoa viên của Thiên tử. Mùa xuân đã hiện diện trong tất cả các sự vật. Chu U Vương cũng hiểu rỏ rằng, mùa xuân trong ông ta chính là do một người con gái mời vào cung không lâu đemlại. Đột nhiên, Chu U Vương cảm thấy tinh thần phấn chấn, trong lòng sảng khoái và thoải mái như bầu trời sau cơn mưa, trong mát và thoáng đãng. Mấy tên thái giám hầu hạ bên cạnh cũng thấy ngạc nhiên. Một Thiên tử thường ngày rầu rủ ủ dột giờ đây dường như đã lột xác thành con người hoàn khác. Ông ta đứng lên đi lại, động tác mạnh mẽ khiến cho chiếc vương miện trên đầu hết nghiêng bên này rồi ngả bên kia. Một ngày, ông ta cùng với người con gái mới đến hân lạc trong thẩm cung, ông ta cởi từng lớp quần áo trên người nàng, để lộ ra một thân thể trắng muốt như ngọc và họ bắt đầu cuộc vần vũ mây mưa. Đây vừa là “sở trường” vừa là sở thích của Chu U Vương. Cô gái sau một hồi run rẩy như bị co giật mới thì thầm với Chu Vương: nàng tên Bao Tự, mới 17 xuân xanh. Chu U Vương nhận thấy rằng “nghệ thuật” chăn gối của Ba Tự quả không tồi, nàng như được trời phú cho cái tài nghệ này, bèn chỉ báo cho nàng chút ít. Thân hỉnh của ông ta như con rắn, lúc thì quấn quanh lúc thì lật đi lật lại, để cho nàng biết được lạc thú của chuyện gối chăn mà từ trước tới nay nàng chưa từng được biết. Lúc Chu U Vương ômBao Tự vào lòng, ông ta để ý tới đôi mắt long lanh và làn môi mọng như trái anh đào của nàng. Từ đó trở đi, đôi mắt và làn môi đó lúc nào cũng quanh quẩn trong đầu Chu Vương. Nhiều năm sau đó, sau khi Chu U Vương bị giết chết tại Ly Sơn, Bao Tự trở thành món đồ chơi trong tay của Tây Nhung Vương thì cũng là lúc trên các đường phố, ngõ ngách ở Cảo Kinh bắt đầu lưu truyền những truyền thuyết kì lạ về Bao Tự. Ngày trước, vào thời suy vi thuộc nhà Hạ, có hai con rồng thần đáp xuống cung điện của Thiên tử nhà Hạ và cứ quấn ở trên hai cái cột đó không rời “Chúng ta là hai vị tiên vương của nước Bao”. Vua nhà Hạ lung túng chẳng biết làm sao, vội mới thầy cúng đến để xin chỉ thị của Thượng Đế là giết, đuổi đi hay mời ở lại. Kết quả của những lần xin đầu đều không được, bèn cầu xin tiếp. Thượng Đế phán phải xin rồng thần ban cho nước bọt, đồng thời phải cất cẩn thận chỗ nước bọt đó, có như vậy mới gặp được sự lành. Hạ Vương bèn sai trải ngọc và lụa dưới cái cột trong cung, viết những lời khấn lên các thẻ tre, quì xuống cầu xin: “Kính xin rồng thần hãy ban cho nước bọt, kính xin rồng thần ban cho nước bọt”. Hai con rồng thần đó chấp nhận lời thỉnh cầu của Hạ Vương, sau khi để lại nước bọt của mình thì bay đi mất. Hạ Vương sai người đựng chỗ nước bọt vào một cái hộp gỗ. Sau khi nhà Hạ bị diệt vong, cái hộp này được truyền đến đời Chu - Trải qua ba đời nhưng không có một vị thiên tử nào dám mở ra xem. Đến cuối triều vua Chu Lệ, cũng chính là thời ông của Chu U Vương, ông này bèn sai người cho mở chiếc hộp đó ra, và không ngờ chỗ nước bọt đó tràn ngập khắp trong cung, không có cách nào dọn sạch được. Lúc đó Chu Lệ Vương đang ômấp phi tử trong lòng, thấy vậy bèn sai lệnh cho nàng ra sức gọi nước bọt. Đámnước bọt đó bỗng nhiên biến thành một con thằn lằn màu đen, bò vào hậu cung của Chu Lệ Vương. Trong hậu cung có một cung nữ rất trẻ, nàng ta dẫm phải bãi nước bọt đó; sau khi trưởng thành, mặc dù không cưới gả cho ai tự nhiên mang thai, sau đó sinh được một bé gái. Cung nữ này rất khiếp sợ bèn đem vứt đứa bé gái đó đi, vào thời Chu Tuyên Vương, có một đứa bé gái hát bài ca dao: “ Cung nỏ bằng gỗ cây dâu, mũi tên bằng gỗ ki, tiêu diệt sạch nhà Chu”. Sau khi Chu Tuyên Vương nghe được, ông ta hoang mang hết sức, bèn sai người đi khắp nơi dò hỏi, cuối cùng đã bắt được đôi vợ chồng bán cung nỏ làm bằng gỗ dâu, mụi tên bằng gỗ ki và chuẩn bị hành hình. Đôi vợ chồng nọ tìm đủ lý do để gỡ tội, họ kể trên đường họ gặp đứa bé gái do cung nữ nọ vứt bỏ. Nghe thấy tiếng nó khóc rất tội nghiệp bèn nhặt về nuôi. Đôi vợ chồng nọ đem đứa bé chạy đến nước Bao. Mười mấy năm qua đi, đứa bé nọ giờ đã trở thành một tuyệt sắc giai nhân. Sau này khi người nước Bao đắc tội với Chu U Vương, sợ bị nước Chu thôn tính nên đã xin cô gái nọ cống nộp cho nước Chu để tạ tội. Bởi vì cô gái đó lớn lên ở nước Bao nên gọi là Bao Tự. Bao Tự là kết quả của câu chuyện hoang đường: thần rồng hiện hình, chỉ có thể có trong những điển tích của Sầu thời Tần. Thực ra Bao Tự có nguồn gốc thật của mình. Nàng chính là con gái của một vị đại phu nước Bao, gia cảnh bình thường, là con nhà gia giáo, giỏi đàn hát múa ca. Năm thứ hai đời Chu U Vương; ba châu: Kinh Hà, Vị Hà, Lạc Hà bị động đất, trên đường đi chạy nạn nàng đã bị lạc mất người thân, trở thành nô lệ, sau khi kẻ dưới của Chu U Vương là Quắc Thạch Phụ mua về. Tên này vốn là một tên bợmquan, suốt ngày chỉ lo cách lấy lòng Chu U Vương nên khi thấy Bao Tự tài sắc vẹn toàn, trong những ngày cuối của đợt mưa xuân đó đã dâng Bao Tự cho Chu U Vương. Bao Tự vốn là cô gái xuất thân từ gia đình gia giáo, những ước muốn của nàng thật thanh cao, Chu U Vương cũng rất biết cách lấy lòng nàng. Bên cạnh thẩmcung của chính cung hoàng hậu bỗng xuất hiện một tòa nhà to đẹp đàng hoàng, đặc biệt Chu U Vương còn cho vời những người văn hay chữ tốt đến để đặt tên cho tòa cung đó và lấy tên là Phụng Minh Các. Cùng với toà cung đó là vô vàn đồ bày biện quý giá, đám kẻ hầu người hạ nhanh nhẹn và một ban nhạc với đàn, trống, ai nấy đều áo quần súng sính. Bao Tự như bị đính chặt vào hậu cung. Trước Phụng minh Các, Chu U Vương còn cho trồng vô số loài hoa như mẫu đơn, hoa hồng, hoa cúc, mai vàng, để cùng người đẹp thưởng hoa. Một người con gái vào cung được sủng ái như vậy khiến cho bao kẻ thầmghen tức và cũng từ đó trở thành trung tâmcủa những câu chuyện kì quái. Kể từ sau ngày người con gái đa tình ấy vào cung thì hình ảnh của nàng lúc nào cũng quanh quẩn trong đầu Chu U Vương. Cả ngày lẫn đêm lúc nào Chu U Vương cũng ở lại Phụng Minh Các, điều này khiến cho chính cung hoàng hậu – Thân Hậu và vô vàn các phi tần khác không tránh khỏi sự cô đơn lẻ bóng. Trong cảnh vắng vẻ đó luôn luôn nảy sinh những âm mưu độc ác và những nguy hiểmrình rập xung quanh Bao Tự. Chính cung hoàng hậu – Thân Hậu lúc đó chưa đầy ba mươi tuổi, bà ta là chị gái của quốc quân nước chư hầu – Thân Hầu. Bà có hàng lông mày thanh tú nhỏ nhắn, đôi mắt dịu dàng, đẹp nhưng lẳng lơ; thân hình thướt tha, mềm mại như cành liễu trước gió. Dung mạo của bà so với đám phi tần trong cung như con hạc lạc giữa bầy gà. Nhưng tính nhân hậu ở bà lại có phần trội hơn nhan sắc. Lúc vào cung bà mới mười hai tuổi, chỉ là một nàng hầu, do cần cù chăm chỉ nên được cho giữ chức Thế phụ, cai quản việc dâu tằm trong cung, không lâu sau được chọn làm cửu tần của Chu Vương. Thiếp, phụ, Tần đều là những kẻ lao động trong cung, cũng là người danh chính ngôn thuận được cùng qua đêm với Thiên tử. Trong “Lễ ký. Hôn nghĩa” có chép: “Ngày xưa, sau Thiên tử lập sáu cung, ba Đại phu, chín Tần, hai mươi bảy Thế phụ, tám mươi mốt Ngự Thế”. Thân Hậu được làm phi tần mới có nhiều cơ hội gần gũi Chu U Vương, sau khi được sủng ái thìsinh hạ được thái tử Nghi Hữu và được lập làmhoàng hậu. Sau khi trở thành chính cung hoàng hậu, Thân Hậu càng tỏ rõ sự hiền đức và càng cần cù cố gắng. Chu U Vương thì bỏ bê công việc triều chính, thậm chí càng ngày càng đam mê tửu sắc, không để ý, quan tâm đến việc học hành của Nghi Hữu. Thân Hậu mời một thầy văn, một thầy võ vào cung dạy thái tử học. Thầy dạy võ tên là Tản Nghi Quảng, tính tình tuy hiền lành nhưng khí phách rất cương trực, về tài kếim thuật hay võ thuật có thể nói vô địch thiên hạ. Thầy dạy văn tên Kế Nhiên, tài học uyên thâm, tính tình khảng khí trung thực. Kế Nhiên hơn Thân Hậu hai tuổi nên được bà coi như huynh trưởng và là người tâm phúc của mình. Mặc dù được hai vị thầy giỏi ở bên ngày đêmdạy bảo nhưng Thân Hậu vẫn thường lui tới để giámsát việc học hành của Thái tử, thậmchí mỗi lần Nghi Hữu học xong trở về, Thân Hậu đích thân kiểm tra những bài mà Thái tử đã học. Do hay phải lật giở những cuốn sách bằng tre nên đôi tay của Thân Hậu bị tre đâmchảy cả máu. Nghi Hữu thông minh nhân hậu, phong thái đĩnh đạc, thêmvào đó ngày ngày được hai thầy và Thân Hậu kèmcặp nên phẩm chất, văn chương, binh kiếm… tiến bộ rõ rệt. Mỗi lần Chu U Vương đến thăm, Nghi Hữu lại nhanh trí đọc cho phụ vương nghe một bài văn, múa một bài kiếm, Chu U Vương vui đến mỗi lớn tiếng cười to. Tiếng cười của Chu U Vương vang vọng khắp trong điện, khiến cho những vị đại thần đang khoanh tay ngồi đợi lệnh và đámcung nữ nhìn nhau ngơ ngác, cùng ngước mắt nhìn cái gia đình gồmba con người chí cao vô thượng này. Kể từ ngày Bao Tự vào cung thì chẳng thấy bóng dáng và tiếng cười của Chu U Vương bên cạnh hai mẹ con Thân Hậu đâu nữa. Lúc đầu Vương Hậu tỏ ra vô cùng khó chịu, oán hận Chu U Vương bội phần, suốt ngày than ngắn thở dài không thiết ăn uống, thân hình tiều tuỵ. Dần dần về sau, nhờ những lời an ủi khuyên bảo hết lời của Kế Nhiên nên Thân Hậu cũng quen dần vớisự lạnh nhạt, cô đơn. Nhưng Thân Hậu lại lo rằng Chu U Vương quá sa đà vào khoái lạc thâu đêm suốt sáng như vậy, không những ảnh hưởng đến long thể mà còn buông lỏng kỷ cương, khiến cho cơ đồ mà tiên vương tạo dựng sẽ sớm muộn tiêu tan. Mỗi lần nghĩ đến điều này, lòng bà nóng như lửa đốt. Có lúc ba tháng không được gặp mặt Chu U Vương, hoặc nếu có gặp được thì lại bị Bao Tự và đám vũ nữ trong cung mê hoặc đến hồn xiêu phách lạc, tinh thần mệt mỏi nên không còn tâm trí và hứng thú để nghe những lời chỉ giáo của Thân Hậu, nào là đạo trị quốc, dưỡng sinh…Thời gian trong cung Hổ Tước cứ lặng lẽ, vô tình trôi đi nhanh chóng. Thấmthoắt Nghi Hữu giờ đây đã tròn mườisáu tuổi, ngày mai, ngày 18 tháng 5 sẽ là sinh nhật của Thái tử. Thân Hậu muốn tổ chức lễ sinh nhật của Thái tử thật to, thật long trọng, có lẽ chỉ có lần sinh nhật này hai mẹ con nàng mới có dịp đoàn tụ với Chu U Vương và cũng là cơ hội để khiến cho Chu U Vương hồi tâm chuyển ý. Trong một buổi sớm tràn đầy hy vọng và niềm hứng khởi như vậy, Thân Hậu cũng dậy sớm hơn so với mọi ngày. Sau khi trang điểm một cách rất kỹ càng, bà bắt đầu sai người đi trang trí. Buổi sớm ban mai vẫn chưa sáng tỏ; chỉ nhìn thấy bóng người lờ mờ, lay động đang chăng đèn kết hoa, bày biện, dọn dẹp. Nghi Hữu hôm nay cũng quần áo xúng xính, phong thái mạnh mẽ, đĩnh đạc, đến vấn an mẫu hậu từ rất sớm. Sau khi mọi thứ đều được chuẩn bị tươm tất, Thân Hậu đích thân đến mời Chu U Vương. Đến cung Hổ Tước thì được biết Chu U Vương ở chỗ Bao Tự tại Phụng Minh Các. Thân Hậu đến Phụng Minh Các thì gặp hai tên lính gác đang canh giữ trước chính điện, thấy bà đến chúng bèn chặn lại không cho vào. Thân Hậu thẹn quá hoá giận, một tên lính gác quèn quả là mắt không tròng, không còn nhận ra được một vị mẫu nhi thiên hạ nữa! Tên lính gác mặt nhỏ thó vội quỳ xuống, nói như muốn khóc: “Khởi bẩm hoàng hậu nương nương, xin hãy tha tội cho chúng thần, Thiên tử đã có chỉ không cho bất cứ ai vào nếu kháng lệnh sẽ bị xử trảm, bất cứ người đó là ai, xin nương nương hãy giữ gìn hai cái đầu của chúng thần mà lui bước!” Thân Hậu sau khi suy nghĩ một lát mới bảo: “Vậy thì được thôi, hãy vào bẩm với Thiên tử điện hạ rằng hôm nay là sinh nhật của Thái tử, lễ mừng đã chuẩn bị xong, mời thánh giá đến thamdự”. Tên lính gác nọ cao giọng truyền những lời của hoàng hậu tới thái giámcủa Phụng Minh Các. Sau một hồi lâu, thái giámlại truyền đạt ý chỉ của Thiên tử tới Hoàng hậu: “Bẩm Vương hậu nương nương! Hoàng thượng bảo hiện Hoàng thượng không được rảnh rỗi, mời Hoàng hậu nương nương và Thái tử cứ tiến hành buổi lễ!” Vương hậu giận tím mặt, nước mắt tuôn rơi. Bà hiểu rõ tính cách bảo thủ cố chấp, nóng lạnh thất thường của Chu U Vương, nếu làm không theo ý ông ta thì tất sẽ có kết quả chẳng tốt đẹp gì. Mặt trời đã lên tới nóc lầu Phụng Minh Các, ánh nắng chiếu vào nóc lầu toả ra những tia xanh vàng rực rỡ, còn Thân Hậu thì mặt mày ủ dột. Một cung nữ đứng bên cạnh đi lên trước để dìu bà nhưng bị bà từ chối, đứng được một lúc, bà quay gót lui ra. Vừa đi bà vừa nói một mình: “Thật khiến người ta khó lòng tha thứ”. “Vương hậu nương nương tạisao lại phải camchịu rút lui như vậy chứ?” Một giọng nói chua cay từ phía sau Thân Hậu vọng lại. Thân Hậu quay lại, hoá ra là phu nhân Tề Dư. Vị này vốn là nàng hầu hạng thấp của nước Tề, mồm mép nhanh nhảu, tư chất thông minh, hồi trước hay giở trò vặt để thu hút sự chú ý của Chu U Vương. Kể từ hồi Bao Tự vào cung thì hoàn cảnh của nàng ta cũng không khác gì Thân Hậu, một mình một bóng, phòng đơn gối chiếc. Thân Hậu thấy mặt nàng ta lột đầy vẻ ghen tuông, thật không ngờ được rằng sau khi Tề Dư bị đối xử lạnh nhạt lại trở nên thù hận, tức tối lồng lộn điên cuồng đến như vậy. Thân Hậu vội dừng bước, thân mật nắmtay nàng ta nói: “Đại Vương sủng ái Bao Tự, chúng ta làmgì được Đại Vương cơ chứ?” Tề Dư tức tối: “Chúng ta không làm gì Đại Vương, nhưng phải nghĩ cách để trị cái con tiểu yêu tinh kia chứ! Nói xấu nó, mắng nó, mời thầy bỏ bùa, dùng âm khí để bắn chết nó, dùng thuốc độc để đầu độc, làm cho nó khó ăn khó ở, ăn không ngon ngủ không yên, phát mủ chảy máu, khiến cho nó đau đớn, nói năng linh tinh rồisẽ chết!” Thân Hậu cười nói: “Tề phu nhân cũng chỉ nói cho bõ tức thôi, có giỏi thì làmthật cho ta xemxem”. Đôi mắt Tề Dư đưa đi đưa lại, giảo hoạt nói: “Đúng thật, đúng thật! Cũng chỉ là lời nói chút lưỡi đầu môi, nói thì ai mà chẳng nói được. Thôi chẳng bàn đến chuyện này nữa. Hôm nay là sinh nhật của Thái tử, em cũng đến để cùng chị chung vui, em cũng có món quà xin chúc mừng!” Thân Hậu đứng một mình ở hành lang hậu cung đang mải suy nghĩ thì bị một cung nữ va phải. Mấy ngày nay, tâm tư của Thân Hậu đang mải nghĩ về chuyện của Chu U Vương và Bao Tự, nên lúc đi lại hay làmviệc gì đều không để tâm. Bị va mạnh bà như chợt tỉnh giấc mộng, nhìn kỹ hoá ra con hầu tên Quyên Chi mới vào Phụng Minh Các. Đứa cung nữ mặt vẫn còn nét ngây thơ này vội vàng giấu bó rau dại đang ôm trong lòng, nhưng không ngờ dải váy bị tụt nên bó rau rơi hết xuống đất. Quyên Chi biết đã đụng phải thánh giá của Hoàng hậu nên vội quỳ xuống tạ tội. Thân Hậu nhặt bó rau dại đó lên, đó là rau hao tử tên là hương chi bồng. Hồi nhỏ lúc còn ở quê nhà bà cũng thường nhìn thấy loại rau này ở vùng sơn dã, từng khóm từng khóm một, mọc khắp cả vùng núi, khi ra hoa trông rất rực rỡ, hương thơm bay khắp nơi. Nhưng lá và cành của loại hoa này vô cùng độc, nếu dùng nước ngâm cành hoặc lá cây này trộn với thức ăn thì sau khi chuột ăn phải lập tức chết ngay. Thân Hậu trả lại những thứ đó cho Quyên Chi nói: “Bọn trẻ các ngươi đều không biết được loại rau này rất độc, đừng đemnó ra làmtrò chơi”. Quyên Chi đỡ lấy bó rau vội vàng nói mấy tiếng “tạ ơn Vương hậu nương nương” rồi đứng dậy đi tiếp. Khi Thân Hậu về đến cung thì thấy Nghi Hữu đùng đùng nổi giận cùng thầy Kế Nhiên kể cho bà nghe một chuyện mà mọi người trong cung đều đang bàn luận. Nước Tần dùng vũ lực để cướp mất lúa mạch của nước Bao, nay nước Bao quyết định tấn công nước Tần. Để rút ngắn đường đi nên phải mượn đường đi qua Phong Cảo. Tướng quân của nước Bao hết sức lo sợ vội đến Phong Cảo, nhưng không gặp được Chu U Vương bèn cống đến hàng trămlượng vàng, 10 con ngựa tốt, châu lụa 10 thếp, mỹ nữ 10 cô cho Quắc Thạch Phụ. Quắc Thạch Phụ vốn biết Bao Tự đến từ nước Bao nên đã nhận món lễ vật đó và nhận lời. Hai mươi vạn quân của nước Bao, chiến xa thì chắc ngựa chiến thì sung mãn hùng hùng hổ hổ tiến qua Phong Cao, đến thành Bình Dương của nước Tần sớm hơn hai ngày. Trong thành Bình Dương chỉ có một vạn quân binh. Tần Vương cũng không ngờ rằng quân nước Bao tiến đến thần tốc như vậy, đợi đến khi quân tiếp viện không quản ngày đêm đến được thành Bình Dương và sau khi thành Bình Dương bị công phá thì vội ôm của cải, lương thực gái đẹp chạy ra khỏi thành Bình Dương. Thân Hậu nghe xong, bán tín bán nghi hỏi lại: “Chuyện này có thật sao?” Kế Nhiên miêu tả sinh động: “Hai mươi vạn đại quân của nước Bao khí thế hừng hực, khi đi qua Phong Cảo thì bụi bay mù trời, phủ dầy cả các mái ngói của thái miếu. Dân trong thành chen chúc nhau người đông như nêmđứng hai bên đường xemcảnh náo nhiệt.” Nghi Hữu nói: “Quả đúng như vậy”. Thân Hậu nghe xong rất đỗi lo sợ: “Nếu quả thật Quắc Thạch Phụ cho giặc đi qua thì quả là đã vượt quá quyền hạn của ông ta mà làmcàn rồi!” Kế Nhiên khẳng khái bẩm: “Khởi bẩmVương hậu nương nương, không chỉ có như vậy mà nguy hại hơn là việc cấu kết với vua Tần sẽ gây hoạ lớn cho nước Chu ta!” Nghi Hữu tiếp: “Việc này có lẽ phụ vương cũng chưa biết!” Trong lúc ba người còn đang bình phẩm việc cho nước Bao mượn đường thì tên thái giám thường hầu ạh bên cạnh Chu U Vương sấp sấp ngửa ngửa đến gặp Thân Hậu, mời thái tử Nghi Hữu và Kế Nhiên vào triều nghị sự. Hoá ra, nước Tần bị lâm vào thế bất lợi, sau khi biết rằng nước Chu cho nước Bao mượn đường thì Tần Vương trong lúc tức giận đã phái hai mươi vạn quân bao vây chặt Phong Cảo, bắt Chu U Vương phải bồi thường tổn thất với hàng nghìn lượng châu báu. Khi Quắc Thạch Phụ mặt cắt không còn hột máu bẩm báo với Chu U Vương rằng quân Tần đã bao vây chặt Phong Cảo thì Chu U Vương đang ở trong Phụng Minh Các cùng Bao Tự hát múa hưởng lạc. Sau khi nghe bẩmbáo, Chu U Vương tưởng như sấmđánh bên tai, sợ quá toàn thân toát cả mồ hôi. Ông ta vội vàng đẩy người đẹp như tiên giáng thế ra, bắt bọn thái giámvà lính hầu dìu mình lên thành để nhìn xuống phía dưới. Ông ta nhìn thấy quân Tần đông như nêm, bụi bay mù trời, rợp cả trời cờ Tần, áo giáp sáng loáng, bài binh bố trận, chiến xa san sát. Chu U Vương cămphẫn nói: “lại một phen làmloạmnữa rồi!” Vị Thiên tử của Chu triều này vẫn không biết trên núi Ly Sơn đang dành cho ông ta một nơi yên nghỉ ngàn thu. Còn lúc này ông ta đang khoa chân múa tay đạo diễn một màn kịch sử diệt vong “quyền lực bá vương như mặt trời gác non tây”. Vào khoảng thế kỷ thứ 11 trước CN, Chu Vũ Vương Cơ tiêu diệt Thương Trụ lập nên triều Chu, sau đó nối tiếp nhau các đời Vũ Vương, Thành Vương, Khang Vương, Chiêu Vương, Mục Vương, Công Vương, Ý Vương, Hiếu Vương, Di Vương, Lệ Vương, Tuyên Vương, U Vương, tổng cộng mười hai đời. Hồi đó toàn bộ ruộng đất và nô lệ trên cả nước đều thuộc về quyền sở hữu của thiên tử Chu. Đúng như trong cuốn “Thư Kinh. Bắc Sơn” có viết rằng: “Ruộng đất trong khắp thiên hạ, không đâu là không thuộc đất của vua; còn ở những vùng duyên hải là thuộc quyền cai quản của Vương thần”. Thiên tử Chu phân cho tầng lớp quý tộc dưới mình những người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ thân thuộc với thiên tử các vùng khác nhau của mọi miền đất nước. Những người này được gọi là chư hầu; các chư hầu lại cử những người có quan hệ huếyt thống hoặc họ hàng thân thích đến cai quản các vùng đất được phân, những người này được gọi là Khanh hoặc Đại phu; những Khanh hoặc Đại phu lại tiếp tục phân đất cho những người có quan hệ huyết thống hoặc họ hàng thân thích đến cai quản các vùng được phân, những người này được gọi là Sĩ hoặc Gia thần… Cái kết cấu xã hội thời Chu về chế độ phân chức vị, phân đất đai này cũng giống như một mô hình của Kim tự tháp. Chu Vương là người cao nhất có quyền uy tối cao, chỉ cần ban bố mệnh lệnh cho các Chư hầu thực hiện, vênh mặt hất hàmsai khiến, có quyền lực vô song. Lễ nhạc, chinh phạt chỉ cần Chu Vương nói một tiếng là đâu vào đấy. Các Chư hầu có nghĩa vụ là ngoan ngoãn vâng lời, phục tùng mệnh lệnh. Khi Chu Di Vương lâm bệnh, thì các Chư hầu phải tổ chức buổi tế lễ tại nước mình cai trị, cầu cho Chu Vương tai qua nạn khỏi. Nếu các Chư hầu có điều gì bất cẩn thìsẽ bị Thiên tử Chu trừng phạt nghiêmkhắc. Tề Ai Hầu chỉ biết suốt ngày săn bắn, du ngoạn, hoang dâm, không hiểu lễ pháp, Chu Di Vương liền cho triệu tập các Chư hầu lại, lôi Tề Ai Hầu ra ném vào đỉnh dầu ngay trước mặt các đại thần, bọn Chư hầu thất kinh khiếp đảm, mặt trắng bệch cắt không còn giọt máu. Nhưng đến cuối thời Chu, đặc biệt là thời Chu U Vương mà chúng ta vừa nói đến ở trên, sau khi ông ta bị giết hại thì chín cái đỉnh cửu đỉnh bị đổ theo, miếu tổ tông cũng hoang vắng, vương quyền sụp đổ, hữu danh vô thực. Hàng trăm các Chư hầu lớn bé đều không thèm quan tâm đến Thiên tử nữa. Họ bắt đầu tranh giành nhau, chém giết lẫn nhau. Theo sự ghi chép cúa cuốn “Xuân Thu”, trong vòng hai trăm bốn hai năm có bốn trăm tám ba cuộc chiến tranh giữa các Chư hầu, có năm trăm linh bốn cuộc họp liên kết đồng minh của triều đình. Lã Bất Vi được sinh ra giữa lúc vương quyền của Tây Chu phát triển lên đến đỉnh điểm và bắt đầu chuyển sang xã hội chính trị đa trị: Xuân thu chiến quốc. Khổng Tử người nước Lỗ, đã từng chu du khắp vùng núi nước Tần khi đi du ngoạn nhìn những đám mây lơ lửng đã có bài văn rằng: “Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên tử xuất; Thiên hạ vô đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Chu hầu xuất. Tự Chu hầu xuất, cái thập thế hy bất thất hĩ; tự Đại phu xuất, ngũ thế hy bất thất hĩ; bồi thần chấp quốc mệnh, tamthế hy bất thất hĩ. Thiên hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị”. Vị thánh nhân nhìn xa trông rộng này nói thật sâu xa, nếu chúng ta đi sâu vào giải thích thì câu trên có nghĩa: “Ví như thiên hạ thái bình thì những việc như lễ, nhạc, hiệu lệnh chinh phạt… đề do Thiên tử quyết định; nếu như thiên hạ hỗn loạn thì việc lễ, nhạc, chinh phạt là quyết định bởi các Chư hầu. Khi Chư hầu quyết định việc lễ, nhạc, chinh phạt thì đến khoảng đời thứ mười rất hiếmcó người kế tiếp; nếu những việc đó do Đại phu quyết định thì rất hiếm truyền được đến đời thứ năm. Nếu như Gia thần của Đại phu nắm quyền lực quốc gia thì rất ít truyền được đến đời thứ ba. Thiên hạ thái bình, quyền uy không còn nằm trong tay của Đại phu, nếu như vậy, thì nhiều người sẽ không bàn tán xôn xao”. Chúng ta hãy lấy luận đoán này trong cuốn “Luận ngữ, Lý Thị” của Khổng Tử để phân tích cục diện của Xuân thu chiến quốc, thì quả là Khổng Tử đã thật sự thấy trước được đặc trưng phát triển của thời đại. Vậy mà sự phát triển này lại đi ngược với những lý tưởng chính trị của vị đại thánh nhân này. Lễ, nhạc, bị bại hoại. Kì lân (1) con vật được tôn quý như vậy cũng bị mọi người tranh nhau săn bắn, Khổng Tử cũng không thể làmgì được chỉ biết than dài: “Cái đạo của chúng ta hỏng thật rồi!” Chu U Vương từ đầu thành trở về đại đường trong cung Hổ Tước. Mặt ông ta hầm hầm, cáu giận với bá quan văn võ dưới điện, quăng hết những bản tấu nghiên, bút… xuống đất, bọn cung nữ đứng sau đứa nào đứa nấy thất kinh biến sắc. Sau một lúc im lặng, Chu U Vương lo sợ đảo mắt khắp cả quần thần dưới điện, cuối cùng mới cất lời: “Tần Vương quả là một kẻ vong ân bội nghĩa! Quả nhân đối đãi với anh ta không còn gì đáng chê trách, giúp anh ta liên minh các chư hầu, hơn một trăm quốc quân chọn hắn làm minh chủ; thanh minh tổ chức tế lễ cũng mời hắn đến tham dự; mỗi lần quả nhân ban thưởng đều không quên phần của hắn; mùa thu khi đi săn bắn còn mời hắn ngồi trên chiến xa của quả nhân…Nhưng tên loạn thần tặc tử này lại lấy oán đền ơn, dấy binh thảo phạt quả nhân!” Quắc Thạch Phụ quỳ xuống bẩm: “Lời của Đại Vương thật có lý, hiện nay việc cấp thiết trước tiên là phải điều binh để bảo vệ xung quanh Cảo Kinh, đánh tan quân Tần để bảo vệ sự an toàn của xã tắc”. Kế Nhiên cướp lời: “Quân binh trong thành Cảo Kinh chưa đầy mười vạn, nếu đánh một trận lớn với quân Tần thì như trứng chọi với đá thôi. Bây giờ chỉ còn cách tới núi Li Sơn đốt lửa báo động, gõ chiêng đánh trống để triệu tập các Chư hầu lại, kêu họ phái binh tới cứu giá!” Đối với một tên vua không bao giờ quan tâm đến việc triều chính như Chu U Vương như vậy nhưng khi ra lệnh thực hiện biện pháp của vị đại thần học sĩ cũng không lấy gì làm khó khăn lắm, vội phái binh tướng đến Li Sơn trước. Chu U Vương thấy các triều thần của mình hành quân thần tốc như dòng chảy xiết liền tưởng tượng khi đến nơi sẽ có hàng nghìn vạn quân tướng đứng hai bên những con đường nhỏ uốn lượn như rắn để nghênh đón thánh giá lên Li Sơn. Ngọn núi Li Sơn cao chót vót, cỏ cây um tùm, đá núi lởm chởm. Trên đỉnh núi cao tít có mấy chục cái nồi, đặt mấy chục cái trống lớn. Đây là di tích để lại từ đời Chu Lệ Vương; hồi đó bởi vì Tây Nhung rất hùng hậu, nhiều lần đánh phá Cảo Kinh nên ông cho xây dựng những thiết bị này để tiện cho việc triệu tập các Chư hầu xung quanh. Mỗi khi có việc quân cấp bách bèn cho đốt phân sói trong những cái nồi đó; khói bốc tận lên cung mây, các nước Chư hầu thấy vậy liền xuất binh tướng cứu. Rồi lại đánh chiêng đánh trống nhằm giục quân nhanh đến. Số quân sĩ mà Chu U Vương phái đi đã lên đến núi Li Sơn, châm lửa đốt cháy những đống phân sói trong nồi, một mùi tanh và khai toả khắp sơn cốc, những cột khói cao to lượn lờ bay lên. Tiếp đó là tiếng trống vang trời động đất. Các Chư hầu ở gần Cảo Kinh nhìn thấy tín hiệu trên núi Li Sơn biết là Thiên tử đang gặp nguy hiểm, nên vội vã xuất quân. Nước Sở điều nămvạn quân, nước Trịnh bảy vạn, nước Tề ba vạn, nước Hoạt năm vạn, nước Ngu năm vạn, Thân quốc mười vạn. Thống soái của Thân quốc chính là Thân hầu, em của Thân Hậu. Hàng mấy trămnghìn quân tướng của các nước Chư hầu rầmrộ kéo đến. Những vị tướng soái tinh nhuệ này khi giáp chiến với quân Tần thì liền hạ lệnh cho quân sĩ bài binh bố trận. Trống trận âm vang, tiếng ngựa chiến hí ầm trời, tiếng kêu la của các tướng sĩ dội lên tận trời xanh. Nhìn qua đã thấy quân Tần nhuệ khí giảm đi rõ rệt, thế trận hỗn loạn. Cướp lấy thời cơ này, tất cả các tướng quân của các nước Chư hầu đồng loạt hạ lệnh tấn công, hàng vạn quan, mà như hổ đói vồ mồi tiến đánh quân Tần. Lúc đó thế trận quân Tần rối loạn, xác chết như rạ trên chiến trường. Cuộc chiến đẫm máu giữa hai bên diễn ra trong vòng ba canh giờ thì kết thúc, sự thất bại nặng nề của quân Tần đã bắt đầu chấmhết cho cuộc chiến. Trong lúc bại trận quân Tần đang lặng lẽ thu dọn chiến trận rút khỏi Cảo Kinh thì cũng là lúc trong cung Hổ Tước Chu U Vương đang cho bày tiệc thưởng công chiến thắng. Sau khi Chu U Vương hớn hở ban thưởng cho các Chư hầu và những triều thần có công thì những tiếng hô “Kính chúc quốc vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”, vang lên như sấm dậy. Lần đầu tiên được chứng kiến cảnh tượng huy hoàng như vậy, Bao Tự không cầm nổi nước mắt, sau lúc phấn chấn nàng phải đứng dậy múa hát bài “Văn Vương hữu thanh”. Tiếp nối những lời dạo đầu tưởng như đứt hơi khản tiếng của Quắc Thạch Phụ thì hàng trăm vũ nữ đẹp như tiên nga bắt đầu xuất hiện hai bên chính điện. Bao Tự lộng lẫy và diễm lệ bước ra khỏi bàn tiệc tiến dần đến đại sảnh, nàng đứng giữa đám vũ nữ quả thật như hạc đứng giữa bầy gà, trong tiếng đàn nhạc như đinh tai nhức óc thì vang lên tiếng hát: Văn Vương hữu thanh, Duật tuấn hữu thanh, Duật cầu quyết ninh, Văn Vương chủng tai! Văn Vương thọ mệnh, Hữu thử võ công, Kí phạt vu sùng, Tác ấp vu phong, Văn Vương chủng tai! (2) Vào lúc này lựa chọn bài hát ca ngợi Văn Vương diệt xong Sùng dời đô đến Phong, Võ Vương sau khi dẹp yên Trụ thì định đô tại Cảo, hai việc lớn này thật là quá hợp. Thêm vào đó là sự biểu diễn uyển chuyển của Bao Tự trong điện không ngớt lời ca ngợi, tán thưởng. Nàng Bao Tự kiều diễm biết rằng những lời tán thưởng đó đều dành cho nàng nên điệu múa lại càng uyển chuyển, khuôn mặt càng thêm phần rạng rỡ. Sau khi màn hát múa kết thúc, Thân Hầu vốn đã đứng ngồi không yên nay lập tức đứng dậy nói để các quần thần nghe thấy: “Khởi bẩm Đại Vương, trong buổi lễ long trọng mừng chiến thắng này, thần được Đại Vương ban tặng nên thấy vui mừng hết sức. Thần nghe nói, thưởng phạt phải phân minh, có như vậy mới cai trị đất nước một cách anh minh được. Lần này quân Tần dấy binh làm loạn, vây phá Cảo Kinh, đó là do triều đình ta đã cho nước Bao mượn đường. Theo thần được biết đây hoàn toàn không phải là thánh ý của Đại Vương, mà có kẻ mạo giả thánh chỉ! Đối với những kẻ to gan không coi Đại Vương ra gì như vậy cần phải nghiêmtrị, để tránh hậu hoạ về sau!” Những việc như Chu U Vương sủng ái Bao Tự, lạnh nhạt với Thân hoàng hậu, Quắc Thạch Phụ lạm dụng quyền thế cho nước Bao mượn đường…Thân Hầu trong cung cũng đều biết hết, sau lần xả thân cứu giá lần này, ông bèn ở lại cung Thân Hậu nghỉ ngơi và ông ta cũng được biết qua lời kể của hoàng hậu. Con người nhanh trí như Quắc Thạch Phụ đã hiểu được ngầm ý của Thân Hầu nên vội đứng lên cùng đối chất với Thân Hầu: “Thân quốc quân, tiểu nhân không hiểu ngài nói ra những điều này là có ý gì? Lẽ nào ngài lại có ý muốn trách sự quyết đoán anh minh của Đại Vương sao?” Ý tứ sâu xa của Quắc Thạch Phụ chính là muốn nói việc cho nước Bao mượn đường là thánh ý của Chu U Vương, những lời nói gian trá, hoàn toàn bịa đặt này đã khiến cho toàn thể triều thần xôn xao bàn tán. “Nhà ngươi đã giả truyền thánh chỉ!” – Thân Hầu mặt đỏ tía tai quát lớn. “Nhà ngươi có chứng cứ gì cho là Đại Vương không ban thánh chỉ này?” – Quắc Thạch Phụ thản nhiên hỏi lại. Cuộc tranh cãi giữa hai vị đại thần làm Chu U Vương như bị rơi vào đám sương mù, ông ta lẩm bẩm một mình: “Quả nhân nhận lời chuyện này từ bao giờ chứ?” Quắc Thạch Phụ nhìn thấy vẻ mặt ngơ ngác của Chu U Vương nên đã nhân cơ hội đó tiếp: “Khởi bẩm Đại Vương, hôm đó lúc Đại Vương cùng phi tử Bao Tự đang ngắm hoa mai ở trong Ngự hoa viên, hạ thần đã dẫn quốc quân của Bao quốc đến yết kiến Đại Vương nhưng Đại Vương không tiếp, người hỏi thần có việc gì. Thần thưa, quân binh nước Bao muốn mượn đường qua Cảo Kinh của ta. Đại Vương bảo thì cứ cho họ mượn là xong!” Quắc Thạch Phụ nói xong,bèn đưa mắt nhìn Bao Tự cầu xin sự cứu viện, Bao Tự hiểu ý, cũng thêm vào: “Đại Vương người quên rồi sao, đúng là có chuyện ấy. Lúc đó thiếp còn nói đùa một câu rằng không thể cho mượn không được mà phải trả tiền mua đường”. Chu U Vương đã nói như vậy thì Thân Hầu cũng không tranh luận thêmnữa. Nhưng trong lòng Thân Hầu hiểu rõ Quắc Thạch Phụ và Bao Tự đã thông đồng với nhau, lừa gạt Thiên tử nhằm che đậy những sai trái. Bản nhạc thứ hai bắt đầu cất lên nhưng Thân Hầu không còn hứng thú gì nữa bèn cáo từ, đến thẩm cung của chị gái nghỉ ngơi. Thân Hầu thấy chị gái mặt mày ủ dột, khí sắc kém tươi bèn bảo ngày mai khi khởi quân về nước sẽ xin cho Thân Hậu về cố quốc để giải phiền cho khuây khoả. Thân Hậu bảo việc này phải xin ý của Đại Vương. Nhưng Kế Nhiên đứng bên cạnh nhắc hoàng hậu rằng, nămngày nữa sẽ là tết trùng cửu (ngày 9 tháng 9), Đại Vương phải đi tế lễ. Mỗi lần như vậy, hoàng hậu nương nương cũng phải đi cùng. Trước lúc Thân Hầu và chị gái mình chia tay, Thân Hậu vẫn lưu luyến không muốn rời, dặn dò em trai đợi khi nào cùng Đại Vương cúng tế xong sẽ về Thân quốc để giải phiền tĩnh dưỡng. Thân Hầu để ý thấy rằng tuy nói những lời này nhưng trên nét mặt chị gái mình đang giấu một nỗi buồn mà từ trước tới nay Thân Hầu chưa thấy bao giờ, thật kỳ lạ và khó hiểu. Nhưng cuối cùng Thân Hầu cũng hiểu ra cái điều mà chị gái mình đang thiếu. Cái bụng Bao Tự mỗi ngày một lớn và cuối cùng đã sắp đến ngày khai hoa kết quả. Trước khi đứa bé được ra đời thì tin không biết từ đâu đưa đến rằng: Chu U Vương đã nhận lời với Bao Tự, nếu sinh con trai sẽ lập đứa bé làm Thái tử. Lời đồn đại như vậy truyền đi mọi nơi và đến tai Thân Hầu và nó như tiếng sét ngang tai Thân Hậu và Nghi Hữu. Nghi Hữu như con kiến bị ném vào mồi lửa, nóng lòng muốn đi tìmThân Hầu để cùng bàn bạc đốisách. Những tin đồn nhảmrác rưởi đó khiến cho Thân Hậu đau đớn vô cùng, ngày ngày than khóc. Kế Nhiên không tin lắmvào lời đồn này, ông nói với Thân Hậu và Nghi Hữu rằng, Bao Tự sinh con trai hay con gái giờ đây vẫn còn chưa rõ, làm sao có căn cứ gì để nói đến việc lập Thái tử. Hơn nữa, việc lập Nghi Hữu làm Thái tử, Đại Vương đã tuyên chiếu khắp thiên hạ. Thiên tử đại Chu, nhất ngôn cửu đỉnh, làm sao có thể sớm ra lệnh tối lại bãi bỏ được? Huống hồ Nghi Hữu giữ gìn phép tắc, chuyên tâm học hành, văn thao võ lược, khoan hậu yêu dân, phàm những ai đã từng tiếp xúc với Thái tử đều phải kính nể, phế cũ lập mới, có cái gì làmcăn cứ. Cho dù câu nào của Kế Nhiên cũng đều có lý, vô cùng sắc sảo nhưng Thân Hậu vẫn cảm thấy không yên tâm, tư tưởng không tập trung, bà muốn yết kiến Chu U Vương để hỏi rõ nguồn cơn. Hôm nay, Thân Hậu lấy tất cả vàng bạc chấu báu, đồ tế nhuyễn cất từ trong rương ra. Trong đó vẫn còn hai xếp lụa màu mà bà thích nhất. Khi bà vuốt lại tấm lụa mát như ngọc ấy, một ý nghĩ bỗng hiện ra. Bà sai cung nữ mang hai xếp lụa này đến Phụng Minh Các, bà muốn đemtấmlụa quý mang từ nước Tề này tặng cho Bao Tự, có lẽ như vậy sẽ biết thêmchút gì đấy. Thân Hậu đến Phụng Minh Các thì đã có cung nữ thông báo cho Bao Tự biết. Bao Tự đi đến hành lễ với Thân Hậu, bảo cung nữ nhận lấy chỗ lụa. Mới trò chuyện được vài câu thì Bao Tự lãnh đạm hỏi hoàng hậu nương nương có gì dặn dò. Thân Hậu thấy thái độ không có gì mặn mà của Bao Tự bèn đứng dậy ra về. Không lâu sau, trong cung có tin đồn rằng Bao Tự đã dùng chỗ lụa đó để may áo cho ngựa của Thiên tử. Thân Hậu bèn sai một cung nữ thân tín nhất đi nghe ngóng, khi đến chuồng ngựa của Phụng Minh Các quả thấy đúng như vậy. Lúc này, Thân Hậu mới hiểu rõ rằng bà đang bị xúc phạm ghê gớm. Đường đường những tấm lụa mà một vị mẫu nghi thiên hạ ban thưởng lẽ nào chỉ đáng may áo cho ngựa sao? Mấy đêmrồi Thân Hậu thức trắng không ngủ, tự nhốt mình trong tẩmcung, nước mắt ròng ròng. Nghi Hữu cũng đã biết rõ ngọn nguồn của sự việc thông qua đám cung nữ. Sau những đêm trằn trọc không ngủ cuối cùng anh ta cũng nghĩ ra cách để rửa nhục cho mẫu hậu. Tiếng gà gáy sáng đổ dồn và ý nghĩ muốn báo thù Bao Tự đã làm cho Nghi Hữu giật mình tỉnh giấc. Nghi Hữu bắt đầu chuẩn bị để “ra trận”. Anh ta chân tay rối loạn ngắt hết những bông hoa trong vườn của Phụng Minh Các, hành động của anh ta cũng làm cho lũ ong, bướmgiật mình ngơ ngác, những cánh hoa bay lả tả khắp nơi. Đám cung nữ trong Phụng Minh Các ra ngăn anh ta lại, chúng bảo vườn hoa này là do Đại Vương sai trồng để nương nương Bao Tự thưởng ngoạn. Đám cung nữ đi theo Nghi Hữu cũng không chịu lép vế bảo rằng chính hoàng hậu múôn ngắt bỏ hết chỗ hoa này đi, ai dám ngăn cản. Từ trong phòng Bao Tự đã chứng kiến hết đầu đuôi sự việc, nàng xuất hiện, trông giống như một đoá hoa vĩ đại đang nở trong vườn hoa trước Phụng Minh Các. Bao Tự bước ra với cái bụng vượt mặt, lớn tiếng: “Kẻ nào dám làm loạn vậy? Trong mắt các ngươi còn có Bao nương nương này hay không?” Nghi Hữu từ chỗ nấp giữa những cây hoa bước ra, thấy Bao Tự huênh hoang như vậy, mắt anh ta long lên lòng sọc. Vừa nghe thấy bà ta xưng là “nương nương”, bèn chạy nhanh đến nắmtóc bà ta đồng thời thượng cẳng chân hạ cẳng tay, mắng mỏ: “Con tiện nhân này, ngươi chỉ là một đại phu vô danh tiểu tốt vậy mà dámlộng xưng “nương nương”, thật là không biết xấu hổ! Hômnay bổn Thái tử đến dạy cho ngươi một bài học!” Cung nữ của hai phe biết rằng Bao Tự đang mang thai rồng, sợ gây ra chuyện không hay, vạn nhất có gì sai sót thì không biết làm sao, vội đồng tâm hiệp lực kéo Nghi Hữu ra. Nghi Hữu đã trút được mối hận trong lòng, khoát tay ra hiệu cùng đám hơn chục cung nữ nghênh ngang bỏ đi. Bao Tự nhìn thấy cảnh tượng hoa rụng lả tả trên mặt đất, lại còn đầu tóc bù xù bất giác bật oà lên khóc. Chu U Vương đã lâu không lên triều, hôm nay đột nhiên đến cung Hổ Tước lật giở đống tấu chương cao như núi, sau khi rời cung thì lại gặp Bao Tự đầu tóc rối bời, nước mắt lã chã đòi Đại Vương cứu lấy mạng mình và đứa trẻ trong bụng. Sau khi biết được nguồn cơn sự việc, Chu U Vương cáu giận đùng đùng, mắng Nghi Hữu là đồ súc sinh ngỗ ngược. Tiếp đó Bao Tự lại thêmthắt bịa đặt: “Thái tử mồmvẫn chưa hết hơisữa, hành động vô lễ, thô bạo đối với thần thiếp có lẽ là do chủ ý của Vương hậu nương nương và quốc cữu!” Chu U Vương hạ chỉ phạt Nghi Hữu ba mươi roi, cho đến nước Thân đóng cửa tự suy nghĩ về hành động của mình; Thái học sĩ Kế Nhiên dạy dỗ không nghiêmkhắc phạt bãi bỏ chức quan giáng xuống làmthứ dân. Hoàng hậu sau khi cầu xin U Vương niệmtình tha thứ, nhưng bị ông ta lớn tiếng quát mắng, chỉ còn biết đau xót nhìn thấy con trai của mình bị đánh đến trầy da róc thịt rồi bị đưa đến nước Thân mà thôi. Mấy ngày nay Bao Tự lúc nào cũng cản thấy da thịt ngứa ngáy khó chịu, nàng ta cũng không để ý lắm, cho rằng đó là do nàng đang mang thai; còn Chu U Vương thì nhẹ nhàng xoa xoa giùm nàng. Mấy ngày sau, Bao Tự phát hiện thấy toàn người rộp đỏ, có vài chỗ có nốt nổi lên, sau khi châmcho vỡ thì thấy có nước mủ màu vàng đục chảy ra. Chu U Vương vội cho truyền ngự y đến. Sau khi ngự y khám xong, bảo đây không phải là bệnh lâu ngày khó chữa, chỉ là do khi tắmgội nước độc ngấmvào gây ra bệnh, chỉ cần dùng một ít cao tán là có thể trị khỏi. Chu U Vương cho người kiểm tra lại chỗ hoa cỏ thơm dùng cho Bao Tự khi nàng tắm thì phát hiện trong đó có rất nhiều hoa hương chi bồng độc, bèn cho gọi bốn đứa cung nữ hay hầu hạ Bao Tự lúc tắm lại, tra khảo nghiêm khắc, nếu không khai thành thật sẽ bị xẻ thịt nấu nhừ. Bốn đứa cung nữ này nói chắc như đinh đóng cột, đều nhận là không làm. Bao Tự bảo Chu U Vương, bốn đứa cung nữ này không có gan to như vậy đâu, e là do người ấy làm. Chu U Vương hỏi người đó là ai, Bao Tự nói rằng do Thân Hậu gây ra. Chu U Vương nổi giận lôi đình cho gọi Thân Hậu đến cung Hổ Tước để điều tra sự tình, Thân Hậu nói bà không hề hay biết gì về chuyện này. Chu U Vương hỏi có phải chính Thân Hậu làmviệc này không, Thân Hậu oan ức quá bèn bật oà lên khóc, bà còn thề với trời xanh rằng nếu có ý xấu với Bao Tự thì trời chu đất diệt, chết không yên thân. Bởi vì Chu U Vương chưa có bằng chứng xác thực gì, nên sau khi páhn “đợi ta làmsáng tỏ sự việc rồisẽ hỏi tiếp” bèn rũ áo bỏ đi. Chu U Vương trở lại Phụng Minh Các, ngọt ngào an ủi Bao Tự, nói nhất định sẽ tìm ra kẻ nào đã hại nàng, sẽ chặt chân cắt tay, mổ ruột moi tim nó ra để báo thù rửa chục cho nàng. Sau đó ông ta cho gọi quan trấn phủ, quan coi sự việc trong hoàng cung và quan cai quản lũ binh lính bảo vệ bên cạnh Chu Vương lại, bắt họ phải nghiêm khắc tra xét tất cả đám phi tần, cung nữ, thái giám và bọn tạp dịch trong cung. Chuyện vừa xảy ra với Bao Tự cũng làm Thân Hậu được an ủi đôi chút. Nhưng khi nghĩ đến sự tra khảo ghê gớm của Chu U Vương thì niềm vui nho nhỏ mà bà vừa cảm thấy đã bị nỗi sợ làm tan biến đi. Bây giờ trong lòng bà chỉ còn nỗi lo sợ. Bà ngồi một mình trong thẩm cung để lục lại trí nhớ của mình. Bà nhớ lại cảnh tượng ngày hôm sinh nhật Thái tử, bà đến Phụng Minh Các mời Đại Vương thì đụng phải Quyên Chi. Thân Hậu chỉ nhớ nàng hầu đó tên Quyên Chi còn mặt mũi hay thân thế của Quyên Chi thì bà cũng không được rõ. Thân Hậu đoán việc này mười phần thì có đến tám, chín phần là do con hầu đó làm. Nhưng đứa cung nữ vô danh đó thì có thù hằn gì với Bao Tự cơ chứ? Hay là có người sai nó đi làm chuyện này mà lại dám cưỡi lên đầu hổ? Thân Hậu quyết định đi tìm con hầu đó để hỏi cho ra nhẽ. Con hầu Quyên Chi này là họ hàng xa của Tề Dư. Trước kia vốn ở Tề quốc trồng sen, sau được Tề Dư tiến cử vào cung làm việc. Thân Hậu đoán quả không sai, chỗ hương chi bồng đó là do nàng bỏ vào. Nhưng điều Thân Hậu không ngờ tới đây chính là do Tề Dư chỉ thị. Khi thấy Quyên Chi mặt mày thanh tú, trong lòng hoàng hậu thấy hơi buồn, bà thầm khen: “Con bé này quả là xinh đẹp” Quyên Chi vẫn quỳ bên dưới đợi sự cho phép của Thân Hậu. Vương hậu sau khi quan sát Quyên Chi một lượt mới hỏi: “Nhà ngươi là Quyên Chi, cung nữ trong Phụng Minh Các ư?” Quyên Chi gật đầu. Hai mắt Thân Hậu nhìn chằm chằm vào Quyên Chi hỏi: “Bây giờ trong cung xảy ra chuyện chắc ngươi cũng biết rồi chứ, phi tử Bao Tự bị nước độc của những cành hương chi bồng đó làmcho phồng rộp cả da rồi”. Lúc bấy giờ Quyên Chi cũn đã nhớ lại chuyện hôm nàng giấu bó hương chi bồng thì đụng phải Thân Hậu, bị bà phát hiện. Nàng cho rằng Thân Hậu đã biết việc nàng làm, việc đã đến nước này thì e rằng cũng như giấy không bọc được lửa. Nghĩ đến đây, nàng không thấy cần phải giấu giếm gì nữa: “Chẳng phải hoàng hậu đến hỏi ai đã cho chỗ lá độc đó vào trong chậu nước tắm của phi tử Bao Tự ư? Khởi bẩmhoàng hậu nương nương, việc này là do Quyên Chi làm, quả thật là do Quyên Chi gây ra!”. “Ai đã sai ngươi làmnhư vậy?”. “Dạ bẩm không ai sai nô tỳ cả, là nô tỳ can tâm tình nguyện làm”. “Nhà ngươi với Bao Tự chẳng có thù oán gì, tại sao lại hại cô ta cơ chứ?”. “Bao Tự đã dùng tài sắc của mình để mê hoặc lừa dối Đại Vương, làm mất cả kỷ cương xã tắc, lòng dân oán hờn! Nô tỳ nghĩ rằng mọi người và cả Vương Hậu nương nương nữa có lẽ rất cămhận bà ta!” Mấy câu nói này của Quyên Chi công thêm sự nói năng lưu loát, đứng trước nguy hiểm mà không run sợ đã khiến cho bà cảm thấy mến phục nàng. Thân Hậu bảo: “Bình thân. Đứng dậy nói đi”. Quyên Chi đứng dậy, mặt nghiêm nghị: “Việc đã đến nước này, muốn chém muốn giết xin tuỳ ý Đại Vương và Vương hậu nương nương!” Vương hậu cười rất tươi bảo: “Nhà ngươi hãy lui ra đi, việc này chớ nên nói với ai vội”. Khi Quyên Chi lui ra thì cũng là lúc nàng ý thức được rằng sẽ có máy chémvà vạc dầu hay tương tự như vậy đang chờ để róc thịt róc xương nàng. Khi nghĩ đến đây toàn thân nàng bất giác run rẩy. Tội chết chắc không thể tha được. Nhưng nghĩ đến xác thịt của mình bị đày đoạ trước khi chết nàng cảm thấy vô cùng sợ hãi, nàng muốn tự nàng kết thúc vận mệnh một cách nhẹ nhàng. Nghĩ vậy, nàng bèn đi về phía cái giếng gần chuồng ngựa của Phụng Minh Các. Tận mắt nàng chứng kiến một tên thái giámvì phạmtội mà nhảy xuống giếng tự tử, khi được vớt lên, sắc mặt nhợt nhạt như đang ngủ say, chẳng có chút gì đau khổ cả. Khi Quyên Chi quyết định đi thẳng tới cái giếng đó, nàng dường như ngửi thấy mùi của những cây thực vật mục nát xung quanh giếng, nhìn thấy mảnh trời xanh nho nhỏ trong lòng giếng. Quyên Chi nghe thấy sau lưng có tiếng người gọi nàng, âmthanh đó lúc rõ lúc không, phảng phất bên tai giống như trong ảo mộng. Nàng quay đầu lại nhìn thì thấy một người đàn ông thân hình vạm vỡ như chiếc đỉnh, đã lớn tuổi đi về phía nàng. Nàng biết người ấy, ông ta là Lã Nhượng, là người canh cửa tại Thủ Cung của Phụng Minh Các. Mỗi lần Quyên Chi ra khỏi cung đều thấy ánh mắt thân thiện của người đàn ông có thân hình như con gấu ấy chào nàng, nhưng không hề nói một lời nào. Lã Nhượng hoảng hốt bảo Quyên Chi: “Hiện nay trong và ngoài cung đang lan truyền rằgn Quyên Chi là người bỏ những cành lá độc đó vào trong nước tắmcủa Bao Tự, lát nữa Đại Vương sẽ cho người đến bắt cháu, cháu mau chạy trốn đi!” Bỏ trốn? Điều này Quyên Chi vẫn chưa nghĩ đến. Chạy như thế nào đây? Chạy đi đâu? Ánh mắt Quyên Chi hướng về phía Lã Nhượng như muốn dò hỏi. Lã Nhượng bảo ông ta có chìa khoá của cửa hậu trong cung, bây giờ muốn để nàng chạy trốn. Ông còn dặn sau đó hãy đến thẳng nước Thân, Thân Hầu và Thái tử Nghi Hữu sẽ giúp nàng ẩn giấu tung tích. Khi Quyên Chi đã ra đến ngoài vẫn thấy Lã Nhượng đứng chôn chân nhìn ra phía nàng. Nàng chấn chỉnh lại xiêm áo, quỳ xuống đất hướng về phía Lã Nhượng khấu đầu ba cái rồi đi theo con đường quanh co trước mắt, chẳng mấy chốc bóng nàng đã mất hút phía xa. Nhiều năm sau đó, sau khi nhân vật chính của cuốn sách này – Lã Bất Vi - trở thành một vị tể tướng quyền lực vô biên tiếng tăm muôn trượng, ông ta thường quỳ trước tấm gia phả bằng lụa vàng treo trên bức tường phía nam trong phủ Tể tướng. Nếu lấy đời ông ta làm mốc tính ngược lên trên mười một đời sẽ tìm thấy một vị tổ tiên từng canh giữ cửa Thủ cung cho Bao Tự, vị tổ tiên này chính là Lã Nhượng. Lúc đó Lã Bất Vi liên tưởng đến người cha của ông ta, Lã Hâm đã từng làm người gác cửa Thủ Cung nước Vệ. Ông ta lờ mờ hiểu được rằng lịch sử giàu sang của gia tộc Lã Thị có một chút dư vị của quy luật luân hồi. Vị tổ tiên tốt bụng, giúp người lúc hoạn nạn của Lã Bất Vi sau khi giúp cho Quyên Chi chạy trốn, lại khoá cửa lại như cũ. Lã Nhượng biết rõ rằng một trận trừng phạt kinh thiên động địa sẽ diễn ra trong bốn bức tường của cung điện nguy nga tráng lệ này. Sau khi Quyên Chi đi khỏi, Thân Hậu luôn luôn nghĩ tới và cảmthấy nếu để cho người cung nữ dũng cảmphi phàmnày trở thành hồn ma dưới lưỡi đao của Đại Vương thì thật là đáng tiếc và có tội. Bà quyết định sai cung nữ sang mời Tề Dư để cùng bàn bạc làmthế nào để cứu Quyên Chi. Con hầu trở lại rất nhan, lúc trở về mặt cắt không còn hột máu kể lại với Thân Hậu. Quyên Chi bỏ trốn thoát tội, nhưng Tề Dư bị Đại Vương trừng phạt, bà ta bị némvào chảo dầu nấu chín. Sau khi cung nữ lui ra, bỗng nhiên bà nhớ tới một câu mà thái học sĩ Kế Nhiên dạy Thái tử Nghi Hữu học bài: “Kinh tâm động phách”(3). Dưới bầu trời thu xanh thăm thẳm, từng đàn chim nhạn bay từ bắc sang nam, sau những tiếng kêu thê lương những thân chim như những chiếc mỏ neo từ từ hạ xuống hai bên đường từ Cảo Kinh đến Li Sơn. Đội ngũ cúng tế với lọng, cờ quạt rực rỡ của Chu U Vương cũng đang đi về nơi cần đến. Từ trước tới nay chưa bao giờ thấy có mặt Bao Tự tại buổi tế lễ trùng dương hàng năm, bà ta luôn mong ngày này để có dịp tham dự vào không khí náo nhiệt. Một số đại thần khuyên Chu Vương, Bao Tự bụng đang mang thai, nên sắc khí không được trong sạch e sợ sẽ làm ô ếu đến các đấng thần linh. Hơn nữa không đem theo Thân Hậu đi cùng cũng là đã làm trái với lễ nghi. Quắc Thạch Phụ đỡ lời: lễ, nhạc chinh phạt đều do Thiên tử quyết định; những lời, những việc mà Đại Vương đã nói và làm đều là những điển lễ mà vạn dân phải tuân theo. Trước khi khởi hành, Chu Vương ban chiếu, cho Bao Tự đi cùng thánh giá đến lễ tổ ở Li Sơn còn Thân Hậu ở hậu cung muốn làmgì thì làm. Thân Hậu thấy Chu Vương chỉ mang theo Bao Tự đến Li Sơn, bỏ mặc mình ở lại thì trong lòng sốt ruột không yên. Sau khi Chu Vương khởi hành, bà quyết định đến Thân quốc, chỗ của Thân Hầu nghỉ ngơi, đồng thời thămThái tử Nghi Hữu. Sau khi chuẩn bị chu tất bèn cho người đi sửa soạn chiếc kiệu long phụng có người khiêng chuyên dùng cho hoàng hậu; đến lúc đó mới hay chiếc kiệu đó đã dành cho Bao Tự đi Li Sơn rồi, bà đành phải ngồi kiệu do xe ngựa kéo dành cho đám phi tần. Đoàn người của Thân Hậu rầm rập tiến đến cửa thành của Thân quốc, một cung nữ đến báo cho tên lính coi giữ cổng thành. Ngày trước Thân Hậu đi đâu đều dùng kiệu long phụng, như vậy mới xứng đáng với thân phận của bà. Lần này bọn coi thành thấy đâu không phải là kiệu long phụng mà kiệu sơn đỏ dành cho bọn phi tần nên người ngồi trên kiệu kia nhất định không phải là hoàng hậu nương nương, nên chúng không cho đi qua, Đám cung nữ cũng cãi lý với bọn lính gác, Thân Hậu thấy vậy bèn vén rèm kiệu lên, hé mặt ra hỏi có chuyện gì: Lẽ nào chúng ta giả mạo không thành ư? Bọn lính lúc đó mới nhận ra đúng là hoàng hậu nương nương tôn quý nên vội cúi chào nhường đường. Khi Thân Hậu đến phủ Thân Hầu thì thấy Thân Hầu đang cùng đám văn võ quan bàn vịêc khai hoang trồng trọt. Hồi đó là “đất đai trên khắp thiên hạ đều là đất của vua”, ruộng đất trên toàn quốc được phân thành những ô vuông giống như chữ “tinh” (nghĩa là giếng), ruộng đất này đều thuộc quyền sở hữu của Chu Vương, Chu Vương phân cho các Chư hầu, mỗi năm họ phải nộp một khoản thuế nhất định. Cùng với sự nâng cao về năng lực sản xuất, đặc biệt là việc sử dụng những dụng cụ làm bằng sắt trong việc cày ruộng và trồng trọt, một số chư hầu đã bí mật khai hoang để thêm ruộng, vì vậy ngoài những thửa ruộng chữ “điền” thì bắt đầu xuất hiện một số lượng lớn “tư điền” (ruộng riêng). Lúc mới đầu, Chu Vương không chấp nhận “tư điền”. Nhưng về sau “tư điền” càng ngày càng nhiều, Chu Vương chẳng còn cách nào khác đành phải thu thuế đất, điều này chứng tỏ trên thực tế đã chấp nhận sự tồn tại của “tư điền”, như vậy, cơ sở kinh tế của triều Chu - chế độ “tỉnh điền” - bắt đầu bị tan vỡ. Số lượng “tư điền” mà các chư hầu có thường thường trở thành một loại tượng trưng cho uy vọng và thực lực của người đó. Chiếc xe chở Thân Hậu dừng hẳn, Thân Hậu được đám cung nữ dìu xuống xe. Vừa xuống xe đã thấy Thân Hầu và toàn bộ gia quyến quỳ đón trước cửa phủ tự bao giờ, tiếp đó là những tiếng hô: “Chúc Vương hậu nương nương thiên tuế!” Những vết thương trên người Nghi Hữu đã lành, cậu ta chạy lại sà vào lòng Thân Hậu. Hai mẹ con ôm nhau mà khóc, nhiều người đứng xung quanh cũng không khỏi ngậm ngùi. Thân Hầu dìu Thân Hậu vào trong phòng khách, đuổi hết bọn lâu la ra ngoài, hai chị em cùng nhỏ to chuyện trò. Lát sau một cô ra bái kiến Vương hậu, Thân Hậu giật bắn mình, đây không phải là cung nữ Quyên Chi sao? Nếu che giấu tội nhân mà Chu U Vương đang cho cáo thị thì sẽ bị chu di chín đời. Thân Hậu cố hết sức lấy lại bình tĩnh, vui vẻ hoà nhã trò chuyện cùng Quyên Chi. Quyên Chi kể lại rằng nàng thoát thân được là do Lã Nhượng – người trông coi cổng cugn đã giúp nàng. Sau khi Quyên Chi lui ra, Thân Hậu lo sợ nói với em trai, nếu Đại Vương biết chúng ta giấu Quyên Chi ở đây thì toàn gia tộc e khó tránh khỏi tội chết. Thân Hầu đáp, Quyên Chi là một cô gái hiệp nghĩa, đã trừng trị được Bao Tự, mặc dù chưa giết được con yêu nữ ấy nhưng cũng đã thay chúng ta rửa hận. Lúc cô ấy gặp khó khăn xin đến nương nhờ lẽ nào chúng ta không giúp. Em đã để cô ta ở ngôi nhà phụ, không ai có thể biết được. Ánh nắng mùa thu không đủ rực rỡ nhưng khi chiếu vào những bộ trang phục điểm vàng dát bạc của Thân Hậu cũng làm cho bộ trang phục sáng lấp lánh. Ở trong phủ của Thân Hầu, lánh xa những phiền toái, lo âu nơi Cảo Kinh, bà cảm thấy lòng nhẹ nhõm, khoan khoái hẳn, bà cảm thấy lòng mình như đứa trẻ, không phải lo lắng gì. Thấy bảo hôm nay Thân Hầu muốn đến chỗ khai khẩn đất hoang ở núi NamSơn phía ngoài thành để thịsát, bà cũng muốn đi để tận mắt thưởng thức cảnh mùa thu ở nơi xa xôi đó xemsao. Đi ra khỏi thành về phía Nam, ở nơi dưới chân núi có tên là Lạc Phụng Pha có hàng trămngười và nô lệ của Thân Hầu đang chặt cành, phát bụi, cày ruộng một cách miệt mài. Những con người khai phá này quần áo lam lũ, đầm đìa mồ hôi, khi bọn họ biết trong đám quý tộc xa xa kia có Thân Hậu nương nương và tướng quân Thân quốc thì họ hân hoan nhảy nhót, không ngừng giơ những bàn tay còn dính đầy bùn đất lên vẫy vẫy. Thân Hậu sau khi chứng kiến sự nồng nhiệt tiếp đón của bọn họ, bắt đầu đi thưởng ngoạn cảnh sắc nơi vùng núi xanh biếc dưới ánh nắng trong trẻo. Thân Hậu dừng chân bên cạnh một dòng suối nhỏ, nước suối trong như ngọc, nghe tiếng nước róc rách chảy lòng bà cảmt hấy nhẹ nhõmkhoan khoái vô cùng. Lúc đó có tên quân uý giám sát việc thi công quỳ bẩm với Thân Hậu và Thân Hầu, rằng trong lúc đào đất mọi người phát hiện được vô số ngọc thạch. Thật là ngoài mong muốn khiến cho hai chị em Thân Hậu vui đến nỗi cứ hoa chân múa tay. Họ cũng không còn để ý đến cảnh đẹp xung quanh mà chạy nhanh đến chỗ ngọc thạch được xếp từng đống từng đống. Những viên ngọc thạch thật đẹp mỗi viên một màu sắc, ánh sáng của chúng làm cho người ta loá cả mắt. Chúng được xếp thành từng đống từng đống. Thân Hầu ra lệnh tiếp tục đào, cuối cùng phát hiện đây là một cánh đồng ngọc thạch sâu và dài. Thân Hầu lập tức sai người về giết lợn mổ dê làmvật tế lễ, bày tiệc rượu cúng trời và tổ chức buổi lễ khai thác ngọc thạch. Đây quả là một món của cải kếch sù ngoàisự tưởng tượng! Tại Tây Chu, ngọc được dùng để làm đồ tế lễ, tín vật, đồ trang sức và tiền tệ, được mọi người rất coi trọng, đồng thời có giá rất cao. Trong “Chu Lễ. Xuân Cung. Đại Tông Bá” có ghi lại rằng: “Ngọc được chế biến thành sáu loại, để cúng tế bốn phương trời đất: Màu xanh lam dùng để tế trời, màu vàng nhạt dùng để tế đất, màu xanh da trời để tế phía Đông, màu đỏ để tế phía Nam, màu trắng để tế phía Tây, màu vàng đậm để tế phía Bắc”. Đồng thời, việc dùng ngọc cúng tế này chỉ phục vụ cho chế độ đẳng cấp, “Ngọc được coi như sáu điều may mắn, để phân biệt các nước láng giềng, Vua dùng ngọc khuê, Công dùng ngọc hoàn, Hầu dùng ngọc tín, Bá dùng cung khuê, Tử dùng cốc bích, Nam dùng bạc bích”. Ngoài ra ngọc còn được tầng lớp quý tộc coi như tín vật dùng cho việc cưới hỏi, điều động quân sự… Ngọc dùng vật trang trí thì công dụng lại càng rộng rãi. Trong cuốn “Lễ kí. Ngọc Tảo” có viết: “Quân tử ngày xưa phải đeo ngọc trên mình…Nếu không có biến cố gì thì ngọc bất ly thân”. Có thể thấy rằng hồi đó việc đeo ngọc được mọi người, đặc biệt là tầng lớp quý tộc hết sức coi trọng. Hồi đó, trên các lễ vật phải có hai miếng ngọc tương đồng với nhau, hai bên trái phải của phần eo, mỗi bên đeo một miếng. Mỗi miếng ngọc đều được đeo bởi sợi dây gai. Trên đầu dây đeo miếng ngọc hình bán cung, gọi là Hoành (tức viên ngọc nằm ngang), hai bên đầu của Hoành mỗi bên treo miếng ngọc tròn, màu xanh, gọi là Hoàng (vòng ngọc hình bán cung), ở giữa dây xâu hai miếng ngọc, gọi là Xung Nha. Đeo dây ngọc này vào khi bước đi thì miếng ngọc Hoàng và Xung Nha sẽ đập vào nhau, phát ra những âmthanh trong trẻo, tượng trưng cho sự phú quý và nho nhã. Khi Thân Hậu trần đầy hứng khởi cầm những viên ngọc thạch lên xem thì trong đầu bà hiện lên những hình ảnh vừa đep vừa quý phái gắn liền với ngọc. Sau này rất lâu, Lã Bất Vi mạo hiểm ca tính mạng để bắt đầu nghề kinh doanh châu ngọc. Địa điểm đầu tiên ông ta mua hàng chính là cánh đồng ngọc Lạc Phụng Pha này. Chỉ có điều là bấy giờ nơi đây không phải vùng đất hoang vu nữa mà đã trở thành một thị trấn buôn bán nhỏ có quán xá, nhà trọ tương đốisầmuất. Khi Lã Bất Vi mua những miếng ngọc được chạmtrổ tỉ mỉ với những hình dáng muôn hình vạn trạng thì cũng đã được nghe những truyền thuyết xa xưa về việc khai khẩn cánh đồng ngọc này. Nhưng ông ta không tin vào câu chuyện rằng Vương hậu nương nương dùng những ngón tay như búp măng của mình xoa xoa vào những viên ngọc thạch vẫn còn dính bùn đất, và ông ta cho rằng đó là sự hư cấu của người đờisau. Khi Thân Hầu đang cùng với đám quần thần bàn bạc tìm cách mở rộng vùng đất kinh doanh thì tại cung vua ở Lỳ Sơn, Chu U Vương và Bao Tự vui mừng khôn siết khi nghe thấy tiếng khóc to khoẻ của một đứa trẻ mới chào đời. Một buổi chiều tà, sau một tháng tế tổ, Bao Tự đã sinh hạ được một bé trai đặt tên là Bá Phục. Đây là kết quả mong đợi của những cuộc mây mưa thâu đêm suốt sáng giữa Chu U Vương và Bao Tự. Vào một ngày sau khi trở về kinh thành, Quắc Thạch Phụ nói với Chu U Vương: “Khởi bẩm Đại Vương, thần có một điều không rõ khiến thần băn khoăn bấy lâu nay. Bao Tự nương nương tuy sinh hạ được quý tử nhưng làm sao mà vẫn không vui, đến một nụ cười cũng chẳng có”. Chu U Vương nghe xong như sực tỉnh nói: “May mà ái khanh nhắc nhở quả nhân mới phát hiện ra, hà cớ gì mà Bao Tự chẳng cười. Từ ngày vào cung đến nay, ta chưa bao giờ thấy nụ cười của nàng cả”. Quắc Thạch Phụ lắc đầu nói: “Thật là kỳ lạ”. Chu U Vương lập tức khởi giá đến Phụng Minh Các, hỏi với giọng điệu đầy nghi ngờ: “Ái cơ, vì sao mà từ trước tới nay quả nhân chưa bao giờ thấy nàng cười?” Bao Tự trả lời: “Thần thiếp không thích cười, từ xưa đến nay chưa bao giờ cười cả”. Chu U Vương thề thốt: “Quả nhân sẽ làm cho nàng cười”. Bao Tự nói: “Thần thiếp e rằng Hoàng thượng không đủ bản lĩnh thôi”. Chu U Vương nghe nói Bao Tự thích nghe âm thanh của vải lụa bị xé liền lệnh cho Tổng thái giám đem một trăm cuộn vải lụa vào cung, sai cung nữ xé từng cuộn. Khi nghe thấy âm thanh vừa trong vừa giòn, Bao Tự rất chăm chú. Chu U Vương thăm dò sắc mặt của Bao Tự nhưng vẫn không thấy nàng cười. Chu U Vương lại gọi đến mười người lùn bảo họ kể chuyện cười với những động tác kỳ quái, họ làm trò suốt một ngày một đêm, Chu U Vương, Quắc Thạch Phụ và các thái giám cung nữ đều ôm bụng cười ngật ngưỡng nhưng Bao Tự vẫn không hề hé môi, vẻ mặt vẫn bình thản. Chu U Vương lại gọi một gánh xiếc đến biểu diễn. Các chú hề với những động tác nhào lộn trên không trung rất sống động khiến cho mọi người vô cùng thích thú nhưng Bao Tự vẫn không hề cười. Chu U Vương nghĩ mãi không ra cách nào, bèn ra cáo thị khắp trong ngoài cung: ai có thể làm cho Bao Tự cười sẽ được thưởng một trăm lạng vàng. Cáo thị đã được ban ra vài ngày nhưng không ai dám đến. Quắc Thạch Phụ nghĩ nát óc cuối cùng cũng tìm ra một cách, liền nói với Chu U Vương: “Đại Vương hãy cùng với Bao Tự nương nương di giá đến Li Sơn, đốt khói phân sói lên, các nước chư hầu lân cận ắt sẽ nghĩ Kinh đô có biến động lập tức phái quân đến Li Sơn tiếp viện. Khi quân đến nhưng không có chuyện gì xảy ra, Bao Tự chắc chắn sẽ cười”. Chu U Vương nghe xong liền nhìn chằm chằm vào mặt Quắc Thạch Phụ đang đầy những nếp nhăn trên trán, Chu U Vương kinh ngạc đến lạ lùng: làm sao vị cận thần này lại có thể nghĩ ra được một cách thông minh, một diệu kế tuyệt vời đến vậy. Quắc Thạch Phụ bị vua nhìn chằmchằmluống cuống, líu lưỡi nói: “Đại Vương, điều này…”. Chu U Vương mặt mày rạng rỡ nói: “Tuyệt quá, tuyệt quá!” Ngay đêmđó Chu U Vương cùng với Bao Tự đến Li Sơn, sai người đốt ba mươi đống khói phân sói. Ngay lập tức ánh lửa ngút trời, cả một vùng trời được soi sáng như dải lụa hồng rực rỡ. Các nước chư hầu lân cận cho rằng kinh thành xảy ra chuyện bất trắc liền lập tức điều binh khiển tướng vượt ngày, vượt đêm vội đến Li Sơn. Nhưng chỉ thấy Li Sơn bốn bề im ắng, không hề biến động. Trong cung của Chu U Vương đèn thắp sáng, ca hát vui vẻ., Chu U Vương và Bao Tự lấy rượu làm vui. Quắc Thạch Phụ đứng dựa lan can ở mái hiên lầu hai nói với xuống: “Các vị Quốc Vương chắc hẳn rất kinh ngạc vì không có biến động nào cả. Đây chỉ là do Đại Vương uống rượu nổi hứng phái các vị đến để làmtrò tiêu khiển”. Các vị chư hầu đứng dưới cung của Chu U Vương đưa mắt nhìn nhau đầy bất lực bàn tán xôn xao. Thân Hầu bực tức nói: “Đây chẳng phải là trêu đùa hạ thần đó sao!” Bao Tự nhờ ánh sáng của ngọn nến thấy các vị chư hầu kinh hồn bất định, đi đi lại lại bất giác đã bật lên tiếng cười. Chu U Vương vui mừng khôn xiết nói: “Nụ cười của nàng thật vô cùng tuyệt diệu!” Đêm hôm đó Chu U Vương và Bao Tự ở lại cung Li Sơn. Nằm trên giường Chu U Vương hài lòng nói với Bao Tự: “Ái cơ, cuối cùng ta đã làm cho nàng cười rồi”. Bao Tự nói: “Đại Vương có thể hàng ngày điều khiển các nước chư hầu đến giúp thiếp cười không? Dù cho như vậy thần thiếp cũng không cười nữa đâu”. Chu U Vương lúng túng nói: “Như vậy là từ giờ trở đi Ái cơ không bao giờ cười nữa hay sao?” Bao Tự nhân cơ hội nói: “Chỉ có một chuyện khiến cho thần thiếp vui đến suốt đời thôi, không biết Đại Vương có bằng lòng không?” Chu U Vương nói: “Nàng cứ nói đi đừng ngại”. Bao Tự nói: “Lập Bá Phục làm thái tử”. Chu U Vương tiếp lời: “Ta cũng có ý như vậy, thằng Nghi Hữu ngang ngược bất hiếu phải sớmphế truất”. Ngày hômsau, Chu U Vương khởi giá hồi cung, tại cung Hổ Tước Chu Vương tuyên bố phế trưởng lập thứ, phong Bao Tự làmHoàng hậu, lập Bá Phục làm thái tử. Trước biến sự này rất nhiều đại thần trình tấu can gián. Tin tức này truyền đến Thân quốc, trước sự khóc lóc kêu than của mẹ con Nghi Hữu, Thân Hầu lại tỏ ra bình tĩnh. Một mặt Thân Hầu trình tấu chống lại chuyện này: “Tích Kiệt vì cưng chiều Muội Hỉ nên nước Hạ bị diệt vong, vua Trụ vì Đát Kỉ nên mất Thương. Đại Vương nay vì Bao Tự mà phế trưởng lập thứ vừa trái với đạo nghĩa vợ chồng lại làm tổn thương tới tình cảm cha con. Nếu không lấy chuyện của Kiệt, Trụ làm bài học cho hôm nay, thì việc bị diệt vong như Hạ, Thương không phải là chuyện sau này. Mong Đại Vương thu lại lệnh truyền để tránh hoạ diệt vong về sau”. Mặt khác Thân Hầu chuẩn bị binh giáp, liên lạc với các nước chư hầu để đề phòng bất trắc. Chu U Vương xem xong tấu chương của Thân Hầu vô cùng bực tức. Quắc Thạch Phụ nhân cơ hội đó nói: “Việc Đại Vương đưa Thái tử đi đày, Thân Hầu đã ôm mối hận từ lâu. Nay lại nghe tin Thân Hậu và Thái tử bị phế truất nên có ý làm phản vì vậy mà ông ta mới to gan đánh đồng Đại Vương với Hạ Kiệt, Thương Trụ, bôi nhọ thanh danh của Đại Vương”. Chu U Vương nghe xong lập tức phái quân đánh dẹp Thân Hầu. Do sớm chuẩn bị từ trước Thân Hầu liên kết với quân đội nước Tăng và các nước phương Tây nhanh chóng hành động trước, tấn công vào kinh thành. Quân của Thân Hầu thế như chẻ tre không gì chặn được mau chóng tiến vào chân thành. Chu U Vương phải chạy về Li Sơn, lệnh cho quân phóng hoả nhưng quân cứu viện đến lác đác không đáng kể. Quân đội của các nước phương Tây mau chóng chiếmgọn kinh thành, giết chết Chu U Vương ở Li Sơn, vơ vét của cải và bắt Bao Tự đi. Khi khói lửa còn chưa tan hết, Thái tử Nghi Hữu lên ngôi Hoàng đế với hiệu Chu Bình Vương, nămđó là năm770 trước CN. Phụng Minh Các ngày xưa đàn hát náo nhiệt nay bỗng trở thành phế cung xơ xác tiêu điều. Người gác cổng Lã Nhượng mấy ngày nay co rúm lại trong góc cung, kinh hoàng khiếp sợ lắng nghe tiếng va đập của đao kiếm và tiếng chân ngựa trong và ngoài cung Hổ Tước. Ngày Chu Bình Vương lên ngôi rất nhiều người thấy cánh cửa Phụng Minh Các vẫn mở rộng, có một người dáng già nua, lụ khụ vừa nhặt lá khô vừa lẩmbẩmnói: “Thay triều đổi đại rồi”. Đó chính là Lã Nhượng. Hôm sau khi đang quét sân, Lã Nhượng thấy cạnh đống lá của cây bông có một đôi giày có thêu hình đầu con chim phượng. Lã Nhượng ngẩng đầu lên nhìn, thì ra là Quyên Chi trong bộ quần áo đẹp tuyệt vời, lúc ấy người cung nữ này đã trở thành một vị quốc sắc thiên hương. Sau lưng Quyên Chi là tốp cung nữ rất mực cung kính. Lã Nhượng nói: “Đây không phải là Quyên Chi đó sao?” Các cung nữ nói: “Đối với Hoàng hậu nương nương không được chỉ đích danh”. Việc Quyên Chi trở thành vợ của Nghi Hữu khiến cho Lã Nhượng vui mừng khôn xiết, liền vội vàng quỳ lạy. Quyên Chi nói để tạ ơn cứu mạng Đại Vương ân chuẩn cho Lã Nhượng không phải gác cổng Phụng Minh Các nữa mà theo Thân Hầu làmquan ở Thân quốc. Lã Nhượng cưỡi ngựa cùng Thân Hầu thắng trận trở về. Cùng đi với Lã Nhượng là thái phó Kế Nhiên. Khi đoàn người đi đến dốc Lạc Phượng, Kế Nhiên nói với Thân Hầu: “Hãy để thần ở lại đây, vừa để thay quốc vương quản lý Ngọc Điền, vừa để trước thư lập thuyết”. Thân Hầu ân chuẩn. Khi đoàn người tiến vào cổng thành, Lã Nhượng nói với Thân Hầu: “Thần vô cùng cảmtạ ân điển của Đại Vương đối với thần nhưng thần đã nhiều tuổi rồi, mong Đại Vương cho phép thần được làmviệc cũ: gác cổng thành cho Người”. Thân Hầu gật đầu ân chuẩn. Kể từ đó vị quan gác cổng không ham vinh hoa phú quý, cam chịu cuộc sống thanh bần và hai cánh cổng thành màu đỏ tươi trở thành mục tiêu chú ý của người dân Thân quốc. Nhiều nămtrôi qua. Vào năm thứ hai, khi vua Tần Doanh Chính chính thức chấp chính, Lã Bất Vi bị bãi chức quan Tể tướng, bị duổi khỏi Hàm Dương quay về An Dương sống những ngày tháng cuối đời. Vào buổi chiều hôm ảm đạm, Lã Bất Vi đặt chân đến khu mộ hoang thấp thoáng trong đám cỏ khô tìm được tấm bia đá khắc ngay ngắn dòng chữ “Lã Nhượng chi mộ”. Lã Bất Vi quỳ lạy, hai tay ôm chặt tấm bia đá, nhìn nay nhớ xưa, nước mắt giàn giụa, than thở về cuộc đời chinh thương chua ngọt đắng cay, sóng gió của mình… (1)Kì lân: ngày xưa được coi là điềmlành. (2) Dịch văn: Danh tiếng Đại Vương vang bay xa, ân đức như cồn vang bốn bể, muốn tìmnơi an cư lạc nghiệp, cuối cùng đã xây dựng thành công Chu bang. A! Văn Vương thật quả vua anh minh! Văn Vương vâng theo thiên mệnh, đánh đông dẹp bắc trăm trận thắng, diệt gọn Sùng bang gậy nghiệp lớn, dời đô đến Phong, ban chức tước. A! Văn Vương quả thật vua anh minh! (3) Giải nghĩa: “Kinh tâmđộng phách”: Sợ đến lòng, động đến phách ý nói rất sợ hãi, rất xúc động. Chương 2: BỎ QUAN TÒNG THƯƠNG Giữa trưa hè trời xanh trong không một áng mây, Lã Bất Vi là công tử trong một gia đình có cha làm nghề gác cổng ở thành Bộc Dương, như trút được gánh nặng khi học xong khoá cuối cùng ở trường tư thục, hành lý nặng trĩu thư tịch rời khỏi nhà sư phụ Bá Hạ. Nghiệp học hành mười năm gian khổ cuối cùng đã hoàn thành mĩ mãn, con đường tiến thân của Lã Bất Vi như được trải thảm hoa. Công tử họ Lã đón ánh nắng mặt trời, tràn đầy tin tưởng về tương lai. Bá Hạ là một người thầy có óc kinh luân, dạy hỗ học trò không biết mệt mỏi. Thầy Bá Hạ đặt niềm hy vọng rất lớn vào Lã Bất Vi – người học trò ông thương yêu nhất. Lã Bất Vi quay đầu lại, cúi chào nói: “Thầy không phải tiễn con nữa, gia phụ bảo hai ba hôm nữa sẽ mở tiệc rượu để cảm tạ công ơn dạy dỗ của thầy”. Thầy Bá Hạ nhẹ nhàng nói: “Bất Vi này, về nói với lệnh tôn đại nhân đừng có lãng phí”. Bất Vi vui vẻ bước đi, bước chân khoan thai nhẹ nhàng. Chàng năm nay mười chín tuổi, to cao khoẻ mạnh, đôi mắt sáng sắc ẩn dưới đôi lông mày lưỡi mác đen và rậm, cánh mũi to tròn chỉ có điều nhân trung hơi dài. Theo thuyết tướng số, con người này phúc hoạ luôn đi liền nhau, vinh quang đấy mà cũng cay đắng đấy. Quanh cằm Bất Vi lún phún ria mép, biểu hiện của sự trưởng thành. Lã Bất Vi là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Trường học của thầy Bá Hạ cách thành Bộc Dương không xa, chỉ qua con sông Bộc Dương xanh biếc hiền hoà là tới. Vì vậy Lã Bất Vi có thể nhanh chóng vào thành, hoà mình vào những con đường phồn hoa náo nhiệt. Rẽ vào một góc đường, Lã Bất Vi thấy rất nhiều người tụ tập. họ ghé tai thì thầmvới nhau dường như là đang bàn luận về một vấn đề gì hiếmlạ kỳ quái! Mười năm nay Lã Bất Vi không hề biết chuyện ngoài xã hội, chỉ toàn tâm toàn ý đọc sách thánh hiền. Mặc dù hàng ngày đều đi qua đường ngang ngõ dọc nhưng không hề dừng chân quan sát tò mò hỏi han. Ngày hômnay việc học đã xong, nên cũng muốn nghe ngóng chuyện hiếu kỳ, bèn thẳng tiến hoà vào đámngười đông vui nhộn nhịp. Rất nhanh Lã Bất Vi đã hiểu ra mọi chuyện. Vào một đêm sáng trăng, một con rắn độc đã cắn chết công tử Nộ Khiên. Con rắn đó thân dài mười trượng, vằn đen trắng, trườn nhanh thoăn thoắt, dưới ánh nến và gươm của hàng trăm quân lính nó lẩn mất không thấy tăm hơi. Vua Vệ Nguyên Quân trong những ngày đau thương buồn bã đã mời thầy mo đến xem bói và đem kết quả dán ở ngoài cổng thành: con rắn này chính là do yêu ma biến hoá thành, hiện vẫn đang ẩn nấp trong thành Bộc Dương, mong rằng quần chúng nhân dân chú ý cảnh giác và tìmbắt. Lệnh thư của vua ban bố chưa được bao lâu thì trong cung lại truyền ra một cách lý giải khác. Có người nói con rắn đó là do An Li Vương của nước Nguỵ thả ra với ý đồ để nó cắn chết Vệ Nguyên Quân, nhưng kết quả lại không như ý muốn. Nguyên do là vào năm thứ 31 đời Vệ Hoài Quân, quốc vương đến nước Nguỵ triều cống. An Li Vương đã tống giam Hoài Quân vào ngục rồi giết chết, đưa con rể của mình là Vệ Nguyên Quân lên làmquốc vương. An Li Vương muốn biến một huệyn nhỏ của nước nGuỵ thành nơi nuôi ngựa nhưng Vệ Nguyên Quân không chấp thuận, vì vậy An Li Vương muốn trả thù đứa con rể vong ơn bội nghĩa này. Lại có người nói con rắn là do mẹ của Quân Giác thả ra. Nguyên nhân là vì bà này phát hiện thấy Hoàng thượng ngày càng thân thiết với công tử Nộ Khiên và xa lánh thái tử Quân Giác, bà lo một ngày nào đó Hoàng thượng sẽ phế truất Quân Giác, lập Nộ Khiên làm Thái tử. Nhưng rốt cuộc con rắn kia do ai thả ra thì không ai rõ cả. Trong cung của Vệ Nguyên Quân luôn được bảo vệ chặt chẽ còn ngoài cung khắp đường cùng ngõ hẻmluôn có đội quân đi tuần tra bất kể ngày đêm. Khi nào tìmcon rắn không chân này họ thường xoi mói vào những người dân qua lại. Lã Bất Vi thấy khi mọi người bàn luận về chuyện này luôn lộ rõ vẻ ưu tư lo sợ trên gương mặt họ. Chàng mang theo hình ảnh con rắn kia về nhà. Phụ thân của Lã Bất Vi là Lã Hâm đỡ hành lý cho con, vui mừng kể với con trai rằng ông đã nhờ một người làm cho quan đại phu Vệ Hoành xin vị trí môn khách trong phủ. Lã Bất Vi biết quan đại phu Vệ Hoành là chỗ thân thích với vua Vệ Nguyên Quân, nếu được Vệ Hoành mến mộ thì có thể đi cùng với vị đại phu này vào triều yết kiến, nắm bắt cơ hội này để trổ tài văn thao võ lược, khiến vua nể phục ắt sẽ được phong hầu phong tướng. Lã Bất Vi đắc ý kể với cha về những điều biết được qua mười năm học tập vất vả và những ý tưởng lớn lao trong tương lai. Lã Hâm liên tục gật đầu say sưa lắng nghe từng lời nói của đứa con trai độc nhất. Sau đó chàng kể cho cha nghe về chuyện con rắn, người cha nói rắn không cắn đến nhà ta thì quan tâm đến nó làm gi, chi bằng ta dắt con đến bái kiến đại phu Vệ Hoành. Lã Bất Vi mãi mãi không quên cảnh tượng huy hoàng khi lần đầu tiên đến bái kiến Vệ Hoành. Khi cha dắt chàng vào trong phòng khách của nhà đại phu, Vệ Hoành với mũ cao đai rộng đang cùng với các môn khách bàn luận chuyện kim cổ. Những chiến đàn sắt được bầy khắp phòng và tiếng của Vệ Hoành cao đàm khoát luận khiến cho chàng có cảm giác bị kìm nén. Sau khi Vệ Hoành ca ngợi một hồi về tài năng của chàng, liền tiện thể hỏi luôn một số điển cố về “Thi Kinh”, “Quốc Ngữ”, chàng đều đối đáp trôi chảy. Vệ Hoành vui vẻ cười nói: nhân tài này có thể lập nên cơ đồ. Lã Bất Vi thấy cha và các vị môn khách đều cùng cười với đại phu. Khi cha của Lã Bất Vi cáo từ ra về, Vệ Hoành nói: lát nữa ta sẽ vào triều yết kiến Hoàng thượng, để Bất Vi đi cùng ta. Lã Hâmvội khấu đầu tạ ơn. Sau khi Lã Hâm đi khỏi, Vệ Hoành lại tiếp tục tán chuyện với các vị môn khách và sai chàng làm một số việc vặt như lấy sách, gọi người hầu. Điều này khiến cho chàng có cơ hội được đi lại trong phủ của đại phu, tận mắt chứng kiến sự xa hoa lãng phí của cuộc sống vương giả, làmcho chàng liên tưởng đến gia cảnh nghèo khó địa vị thấp, ít bổng lộc của cha chàng. Điều đó làmdịu đi cảmgiác kiềmnén, nhưng lại như có đám mây phủ lên tâm tưởng của chàng. Khi được đối mặt với cung điện nguy nga tráng lệ của Hoàng thượng thì chàng vô cùng sửng sốt, chợt hiểu ra thế nào là sự tôn nghiêmvà phú quý thực sự. Các vị hạ thần và môn khách khác đều theo vua Vệ Nguyên Quân vào cung điện, vì Lã Bất Vi là người mới nên đứng đợi ở ngoài cửa cung. Chàng phóng tầm mắt qua cánh cửa rộng mở vào tới khu vườn của Vương cung. Bên trong là những lầu son gác tía. Ở một khoảng đất trống rộng lớn có một đàn tuấn mã kháoc những chiếc áo màu muôn tía nghìn hồng, thỉnh thoảng chúng lại phát ra tiếng phì phì trong mũi. Bên cạnh là những chiếc xe lọng vàng của Hoàng thượng, của các đại phu, ngoài ra còn có chiếc xe mui của người Hậu Kì xinh đẹp, tất cả đều được vẽ vời cầu kỳ. Hai bên cổng thành là những võ sĩ thân đeo kiếm đầy vẻ cương nghị. Các thái giám, cung nữ đi lại như mắc cửi, thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng cười lanh lảnh của họ. Lã Bất Vi than thở nói: “Đại trượng phu phải được hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý như vậy”. Bóng của mái hiên ngoài hành lang ngày càng dài ra, mặt trời đang lặn dần. Lã Bất Vi đã đợi khá lâu mới thấy Vệ Hoành và các môn khách chuyện trò vui vẻ từ cung đi ra. Câu chuyện về rắn độc cắn chết công tử Nộ Khiên lam đi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến thành Bộc Dương. Trong lúc lòng người đang lo lắng hoang mang thì có hai gia đình hàng xóm ở phía đông và tây trong một ngõ hẻm rất sâu của thành Bộc Dương lại đón nhận tin vui thật đáng chúc mừng. Cụ ông họ Tống trong gia tộc họ Tống ở phía đông làm lễ mừng thọ tròn bảy mươi tuổi. Công tử Bất Vi trong gia đình họ Lã ở phía tây hoàn thành nghiệp học hành, trở thành môn khách trong phủ của đại phu. Cụ ông họ Tống là Tống Nhưng tước vị không cao, chỉ là quan bát phẩm nhưng vì có cửa hàng tơ lụa ở thành Bộc Dương làm ăn rất phát đạt nên kiến được nhiều tiền trở thành người giàu có nhất vùng. Tống Nhưng ở vào tuổi xưa nay hiếm lại giàu có nên cũng muốn tổ chức linh đình. Sáng sớmcổng nhà Tống gia đã chăng đèn kết hoa, giết lợn mổ dê và dựng một bàn tiệc lớn ở ngoài cửa, đoàn nhạc công chơi không biết mệt mỏi, làmcho cả ngõ nhỏ nhộn nhịp vui vẻ hẳn lên. So với nhà họ Tống thì lễ chúc mừng của nhà họ Lã lại có phần trầm lặng và tẻ nhạt hơn. Lã Hâm lòng đầy hoan hỉ tổ chức vài mâm rượu cho con trai mình, mời bạn bè tụ tập để họ thấy con trai ông là một nhân tài đã trở thành môn khách trong phủ của quan đại phu. Lã Bất Vi đứng trước phòng khách lịch sự lễ phép nghênh đón các vị khách đến. Đúng hẹn, bạn bè người thân đã đông đủ, chỉ thiếu mỗi sư phụ Bá Hạ. Chàng lưỡng lự một hồi bèn ra cửa đứng ngóng. Chàng vừa ra cửa thì thấy khách của gia đình họ Tống ra vào nhộn nhịp, xe ngựa kiệu võng choán hết cả ngõ; trước cửa nhà họ, người tấp nập khiến hoa cả mắt. Các vị khách đến chúc mừng nhà họ Tống đa phần là các quan thần có thân phận cao quý, các nho sĩ và thương gia, họ không đi xe thì cũng cưỡi ngựa. Sau khi họ vào nhà Tống gia thì đều để xe ngựa chặn kín trước cửa nhà họ Lã, khiến cho con đường to như vậy mà không còn một chỗ đứng. Bọn súc vật lại còn thi nhau bậy ra hết lượt này đến lượt khác, mùi tanh khai đậm đặc của nước giải bao bọc lấy chàng. Chàng nghĩ đến thầy Bá Hạ khi đến đây sẽ không khỏi khó chịu. Trong lú Lã Bất Vi đang trông ngóng thì một con ngựa lắc đầu vẫy đuôi, sau khi thả ra một nhát rắm rất kêu liền ị ra một đống phân lớn ngay trước bậc thềm của nhà chàng. Chàng vô cùng khó chịu liền với cây gậy ở trên mái nhà quật vào mông con ngựa. Con ngựa bị đánh bất ngờ giật mình hí lên một tiếng rồi lồng lên chạy như điên, phi qua con đường đầy xe và người. Người và ngựa trước cổng nhà họ Lã và họ Tống nháo nhác tạo thành một mớ hỗn độn. Con ngựa ban nãy hùng hổ vọt lên phía trước, phóng qua bàn tiệc và hội nhạc công. Lúc này gậy gỗ loạn xạ, người ngã ngựa đổ. Chiếc xe điểm vàng quý giá đặt trước cửa để dành riêng cho ông cụ Tống Nhưng ngồi bị đè bẹp rúmró bởi chân ngựa và người. Cảnh hỗn loạn này sớm được những người canh cổng của gia đình họ Tống nhìn thấy, họ vội vàng hốt hoảng vào báo với chủ nhân. Tống Nhưng đang cùng với bè bạn chén tạc chén thù, nghe người hầu bẩm báo vội nói với quản gia đây là do Lã Bất Vi cố tình gây ra, phải phạt tiền. Sau khi người quản gia hoa chân múa tay chỉ trích Lã Bất Vi một hồi liền đòi phạt năm trăm lượng vàng. Lã Bất Vi dùng lý để cãi, nói là đuổi súc vật trong phạm vi đất nhà mình không phải là phạm pháp nên không thể bị phạt. Trong lúc chàng và quản gia nhà họ Tống đang đỏ mặt tía tai tranh luận thì khách khứa của hai nhà cũng tham gia, ai cũng thi nhau nói phía mình có lý. Lã Bất Vi thấy đối phương ngang ngược vô lý nên yêu cầu chờ trưởng Châu Bá đại nhân đến giải quyết. Người quản gia dương dương tự đắc nói, đây là do công tử nói đấy nhá. Châu Bá đại nhân đang cùng với đại gia của chúng tôi uống rượu trong nhà, mời công tử vào. Lã Bất Vi phẫn nộ bừng bừng tiến vào phòng khách tìm Châu Bá đang say bí tỉ. Châu Bá mắt lờ đờ sau khi nghe xong lời biện bạch của Lã Bất Vi và quản gia liền phán quyết: “Phạt Lã Bất Vi 500 lượng vàng”. Lã Bất Vi không phục lại tranh luận với Châu Bá đại nhân, lúc này Tống Nhưng đang ngồi bên bàn rượu đứng lên hoà giải nói: “Lã Bất Vi gia đình nghèo hèn, quả thật là không có số tiền lớn như vậy, hãy để Bất Vi đến cửa hàng tơ lụa của ta làm một tháng coi như là hoà”. Châu Bá lè nhè nói: “Tội nặng phạt nhẹ, thật lương thiện tốt bụng”. Lã Bất Vi đang tủi thân vì oan ức thì thấy một gương mặt thanh tú ngồi ở mâm rượu khác. Chàng nhận ra đó là Vệ Hoành liền chạy lại nhờ vị hoàng thân quốc thích này lấy lại công bằng cho mình. Vệ Hoành đã ngà ngà say, thờ ơ nói: “Phán quyết của Châu Bá rất sáng suốt không thể thay đổi”. Chàng đứng ngây ra ở đó không hiểu chuyện gì đang xảy ra, hôm qua còn khen mình là nhân tài có thể dựng nên cơ đồ mà sao hôm nay lại lạnh nhạt thờ ơ như vậy. Cha của Lã Bất Vi sau khi biết môi chuyện thấy việc đi làm công một tháng vẫn hơn là nộp năm trăm lượng vàng. Nếu nộp năm trăm lượng vàng thì đem đầu của bốn người trong gia đình cân lên cũng không đủ, chi bằng đi làm công một tháng. Lã Hâm còn nói với con, gia đình còn phải tiêu một khoản lớn: vua Vệ Nguyên Quân hạ chỉ Thiên thần sắp đến thàng Bộc Dương nên mỗi nhà phải xây Thần đường để đón tiếp. Lã Bất Vi cũng đành bó tay không còn cách nào khác. Cửa hàng tơ lụa của Tống Nhưng nằm ở đoạn đường phồn hoa náo nhiệt nhất của thành Bộc Dương, mặt ngoài của cửa hàng trải dài và tráng lệ, tổng cộng có mười mấy người làmcông cho cửa hàng, họ luôn luôn bận bịu. Lã Bất Vi làm ở cửa hàng tơ lụa là chuyện bất ngờ nên có phần lúng túng, đo vải tính sổ không thạo, có lúc còn rối loạn lung tung. May mà trong cửa hàng có một người tên là Vương Khuê rất thông minh lanh lợi thạo về buôn bán đã giúp đỡ chàng không ít. Đến đây mua vải đa số là phụ nữ đầy mùison phấn, chàng không dámnhìn thẳng vào họ. Đột nhiên ở một nơi cách cửa hàng không xa có một đámđông tụ tập hò hét rất to. Lã Bất Vi dõi nhìn thì thấy tại nơi buôn bán súc vật và nô lệ có một người con gái bị cắm cọc tiêu bằng cỏ đang bị mọi người xét nét bình phẩm từ đầu đến chân. Vương Khuê và một vài người làm công khác dừng việc bán hàng, thích thú hoà vào đám đông. Hồi lâu mới quay lại, họ hết lời khen ngợi: “Tuyệt sắc giai nhân, thật là nghiêng nước nghiêng thành”, bảo Lã Bất Vi ra xem để mở rộng tầm mắt. Chàng thấy một người nô lệ là phụ nữ chẳng có gì đáng xem. Vương Khuê lại tiếp tục khen ngợi: “Nói về tướng mạo thì tất cả phụ nữ trong thành Bộc Dương này không aisánh bằng. Chỉ mỗi tội thời vận không tốt, số phận long đong phải bán thân làmnô lệ. Không biết sẽ bọ ai mua về sử dụng và làmnhục đây”. Nghe vậy, chàng rời khỏi cửa hàng tiến về phía đám đông. Trông thấy trước đầu gối của người nô lệ nữ dựng một tấm thẻ tre viết dòng chữ: “Giá của người nô lệ tuyệt hảo này là mười lạng vàng”. Chàng thấy người con gái đó dáng vẻ duyên dáng nhưng mặt mũi bẩn thỉu tóc tai bù xù, giữa hai lông mày có một cái chấm màu đỏ to bằng đầu ngón tay. Mọi người đều bảo cô ta xinh đẹp, xinh đẹp ở điểm nào cơ chứ. Chàng ngắm kỹ, qua lớp bụi bẩn quả thật vẫn giấu một gương mặt thanh tú, người con gái này quả là có một khuôn mặt rất đẹp. Chàng ngắm đi ngắm lại bỗng dưng nảy sinh tâm tình thương hoa tiếc ngọc, thở vắn than dài: “Con gái nhà ai lại rơi vào cảnh đáng thương như vậy”. Khi Lã Bất Vi quay về cửa hàng, Vương Khuê hỉ hả cười hỏi: “Thế nào?”. Chàng trả lời: “Rất tuyệt! Rất tuyệt!”. Những người làm công trêu đùa nói: “Lã Bất Vi mua cô gái này về…làmvợ hay thiếp đi”. Chàng châmbiếmlại; “Để làmvợ hay thiếp các anh thì có”. Không biết tự lúc nào đoàn người tụ tập lúc nãy đã tản hết. Lã Bất Vi lại chợt nghĩ tới cô gái nô lệ khi nhìn thấy một gương mặt thiếu nữ được trang điểm rực rỡ, không biết giờ đây cô ta đang bị rao bán nơi góc phố nào, hoặc giả đã rơi vào tay bậc nho tướng giàu sang nào… Lã Bất Vi đóng chặt cửa hiệu, kết thúc một ngày buôn bán bình thường như bao ngày khác, rảo bước về nhà với một tâm trạng phấn chấn. Con đường nhấp nhô sáng rực trong ánh hồng của buổi chiều tà. Những làn khói toả lên từ mái bếp của các ngôi nhà loang ra, quyện lấy bầu không gian đang dần thẫm màu, lơ lửng như mơ ảo. Trước cửa nhiều nhà đã chất đầy gỗ, gạch, có nhà đang hối hả xếp gỗ, vọng lại những tiếng lách cách vui tai. Lã Bất Vi biết, mọi người đều tuân theo chiếu lệnh của Vệ Nguyên Quân, chuẩn bị xây điện rước thần. Về tới nhà, qua bờ rào nhìn vào phía trong, Lã Bất Vi cũng thấy ngổn ngang những cột gỗ, hai bên là hàng đống gạch. Cha Lã Bất Vi cho hay, ngày mai nhà chàng sẽ động thổ xây điện rước thần. Chàng để ý, từ phía Tây Viện Tống Gia cũng đang vọng lại tiếng cưa gỗ hối hả, và trong ánh sáng chiều tà nhập nhoạng lờ mờ những dáng người đang kéo gỗ dựng cột. Ăn cơmxong thì trờ đã tối, mặc dù ngày mai đã là ngày động thổ, cha chàng vẫn cần phải nghỉ ngơisau một ngày đã quá bận rộn mệt mỏi, nên Lã Bất Vi một mình cứ ra ra vào vào để tính toán trước công việc. Khi đi ngang qua một đống gỗ, chợt nhìn thấy một bụi cỏ đang nằm ở giữa trông rất vướng mắt, sợ sẽ ảnh hưởng đến việc xâu dựng của ngày mai, Lã Bất Vi liền cúi xuống giật bụi cỏ lên. Đúng lúc đó, Lã Bất Vi nhìn thấy lờ mờ hình dáng của một người con gái đứng bật dậy, sau đó, vẫn cái hình dáng lờ mờ ấy lại quỳ thụp xuống, giọng khản đặc cầu xin: “Công tử, xin hãy cứu tôi!”. Không biết là bởi lạnh hay đói mà cái hình hài cứ không ngớt run lên bần bật. Lã Bất Vi cầm cây đèn dầu ra, cái đầu tiên đập vào mắt chàng là vết dấu đỏ rõ nét giữa hai hàng lông mày của cô gái. Tim chàng thót lại: đây chẳng phải là cô gái nô lệ bị buộc cỏ đembán sáng nay sao? Tạisao cô ta lại đến đây lúc nửa đêm? Chàng đưa cô gái vào trong nhà kho chứa lương thực và đồ đạc linh tinh hỏi han sự tình. Cô gái nước mắt lã chã kể cho Lã Bất Vi hay, gia đình cô vốn là bồi thần cảu đại phu nước Tấn, cha cô là Hoàng Phủ Hồ, cô là Hoàng Phủ Kiều và một người anh trai là Hoàng Phủ Thượng Nghĩa. Mùa hè nămngoái, Vệ Nguyên Quân dẫn mười vạn đại quân tiến công nước Tấn, khi đi qua nhà cô đã giết chết cha cô và bắt cô cùng người anh trai. Nửa đường anh trai cô tháo chạy được, còn cô bị đemvề, tặng cho một vị tướng quân lập nhiều công trạng để làmnô lệ. Người này rất ghét kẻ nô lệ suốt ngày khóc lóc vì cảnh nhà tan cửa nát nên ngày hômsau đã đembán cô lấy mười dật vàng cho một thương nhân giàu có trong thành tên là Phàn Bình. Cha của Phàn Bình mắc bạo bệnh mà chết, muốn được mai táng cùng hai người con trai và hai người con gái, Hoàng Phủ Kiều chính là một trong hai người con gái được mua về để đem chôn cùng. Hoàng Phủ Kiều không camtâmvùi chôn sinh mạng tuổi trẻ của mình vĩnh viễn hầu hạ cái xác khô của kẻ có tiền kia, và thế là nhân lúc tên gia đinh giữ cô đi vệ sinh, cô đã bỏ trốn ra ngoài. Lã Bất Vi an ủi Hoàng Phủ Kiều đôi câu, đoạn lẻn vào nhà mang một bát cơmra, để Hoàng Phủ Kiều ăn một chút cho ấmbụng rồi mới bàn cách giải cứu cô ra sao. Chàng thấy cô gái ăn ngấu nghiến. Thân hình mảnh mai của cô dưới ánh đèn dầu, in lên trên bức tường. Hoàng Phủ Kiều có lẽ bị nhịn đói rất lâu rồi nên chả mấy chốc, thức ăn đã hết sạch. Cô gái ngước đôi mắt lấp lánh, ánh mắt ấmáp khẽ nói: “Xin hỏi, vị đại ca tên họ là gì?” Lã Bất Vi nói tên mình cho Hoàng Phủ Kiều. Hoàng Phủ Kiều liền đứng dậy cáo từ: “Ơn sâu của Lã công tử, kẻ hèn mọn này sẽ mãi mãi khắc lòng tạc dạ, sau này có dịp, nhất định sẽ báo đáp!” Lã Bất Vi hỏi: “Hoàng Phủ cô nương định đi đâu bây giờ?” Hoàng Phủ Kiều đáp: “Tôi không thể làm phiền gây liên luỵ đến công tử nữa. Tôi phải đi tìm anh trai của tôi, hai anh em gặp nhau sẽ báo thù cho cha tôi!” Lã Bất Vi nói: “Sau khi cô bỏ trốn, nhà Phàn Bình quyết không bỏ qua đâu, nếu chúng không báo quan dán cáo thị thì cũng sẽ sai người đi bắt. Cô một thân con gái yếu ớt thế này, lại đang là kẻ mang tội, e là còn chưa tìmđược anh trai thì đã bị bắt rồi!” Hoàng Phủ Kiều đáp: “Tôi đã sa vào bước đường cùng rồi, cũng đành phải vậy!” Lã Bất Vi nói: “Cứ htử nghĩ kỹ xem, không lẽ hết cách rồisao?” Hoàng Phủ Kiều nói: “Bây giờ chỉ còn cách lấy mười dật vàng đến nhà họ Phan chuộc tôi thì mới yên chuyện, đổi được tự do cho tôi. Nhưng mà…” Lã Bất Vi nói: “Hoàng Phủ cô nương, cô cứ tạmlánh trong nhà kho này đã, đợi tôisuy nghĩ thêm, ngày mai ta bàn tiếp”. Hoàng Phủ Kiều cảmđộng dập đầu cảmtạ rồi nép mình nơi góc tường đợi ngày mai. Ánh trăng sáng soi tỏ Lã Bất Vi đang trằn trọc trên giường. Cứ nghĩ đến cô gái Hoàng Phủ Kiều đang nằmtrong nhà kho kia, người đã khiến chàng hành động như một bậc anh hùng trượng nghĩa sẵn sàng ra tay cứu giúp kẻ gặp nguy khốn là lòng chàng lại dậy lên một cảm giác tự hào. Chàng thậm chí còn tưởng tượng ra viễn cảnh tươi đẹp sau khi Hoàng Phủ Kiều đã được chàng cứu, khi ấy có thể nàng sẽ được tự do không một chút sợ sệt đi khắp bốn phương để tìmanh trai mình, cũng có thể sẽ gửi gắmđời mình cho chính chàng để cùng chàng kết tóc xe tơ, mà cũng có thể nàng sẽ trở thành thê thiếp cho một bậc thương gia và mang vàng bạc tới trứơc cửa nhà chàng xin cảmtạ…Nhưng, khi cái viễn cảnh về một hạnh phúc xa xôi làmrung động lòng người ấy vỡ tan thì Lã Bất Vi lòng đầy lo lắng khi phải đối mặt trước câu hỏi tìmđâu cho được mười dật vàng. Chính chàng cũng biết, ngoàisố tiền dùng để xây điện rước thần ra thì nhà chàng gần như không còn tiền nữa. Cha chàng ngày nào cũng run rẩy sờ soạng mười dật vàng giấu trong chiếc rương nhỏ, đây là món tiền dàng dụmcuối cùng phòng lúc ông cụ trămtuổi. Cha chàng không thể hào phóng mở hầu bao chỉ để giải cứu một cô gái nô lệ cho chàng, thậm chí ông cụ hẳn còn cho rằng hành động của chàng là to gan và hoang đường. Lã Bất Vi nghĩ đến đôi ba người họ hàng nghèo của mình, nghĩ đến sư phụ Bá Hạ nghĩ đến đôi ba người anh emlàmtrong cửa hàng tơ lụa mà chàng mới quen… Mặt trời đỏ ối nhô lên từ phương đông, tiếng rìu đẽo gỗ từ nhà họ Tống bên cạnh vang lên nghe tựa một bản nhạc. Lã Bất Vi vội vã bật dậy đến nhà kho, Hoàng Phủ Kiều vẫn đang ngủ say sưa. Chàng lấy vài manh áo khẽ đắp lên người cô. Lã Bất Vi trầm tư nghĩ ngợi hồi lâu trong nhà kho. Chàng không hay biết giờ đây vừng đông nhô cao đang toả những tia nắng chói chang và phủ sáng lấp lánh lên số phận của Hoàng Phủ Kiều… Lã Bất Vi là người đầu tiên đến cửa hiệu tơ lụa, chàng vừa vẩy nước quét nhà vừa quan sát mọi người đang lục đục kéo đến. Lã Bất Vi để mắt tìm Vương Khuê. Mới gặp chàng đã có cảm giác đây là con người có thể gửi gắm tâm sự được. Đợi Vương Khuê đến, chàng sẽ đem chuyện mượn tiền nói với anh ta xem sao. Rất nhiều người đã tụ tập trò chuyện trước quầy mà vẫn chưa thấy bóng Vương Khuê. Lã Bất Vi đang nghĩ không biết có nên đợi nữa không hay đi tìm chỗ khác. Đúng lúc chàng đang do dự, chợt một bà lão trông rất chậm chạp cầm theo một mảnh gấm màu nho tới nói: ‘Hôm qua tôi mua mười thước gấm ở đây, về nhà thử đo lại trước khi đem may áo thì thấy thiếu một thước, mong anh bù lại cho tôi”. Lã Bất Vi hỏi bà lão rằng bà mua gấm do ai bán, bà lão nhìn quanh rồi nói: “Là cái anh đứng sát anh đấy, mắt to, trông rất nhanh nhẹn. Sao hômnay không thấy anh ta nhỉ?” Lã Bất Vi biết đó là Vương Khuê. Chàng lại nói: “Quả thực có việc này sao?” Bà lão thề thốt nói: “Tôi ngần này tuổi đầu mà lại có thể đi lừa gạt vì một thước gấmhay sao?” Lã Bất Vi nghĩ, thấy lời bà lão cũng có lý, lại nhìn đôi mắt hiền hậu của bà, quả không giống với loại người đi lừa bịp. Chàng liền giữ lại mảnh gấmmàu nho trong tay bà lão rồi đo lại đầy đủ mười thước mới đưa cho bà. Bà lão vừa đi thì Vương Khuê miệng thở hổn hển chạy đến. Lã Bất Vi kéo anh ta qua một bên, hạ giọng hỏi: “Sao huynh lại bán gấm thiếu cho người ta?” Vương Khuê giật thót người, hỏi lại: “Sao đệ biết?” Lã Bất Vi lại nói: “Nói thật đi, có phải có một bà lão mua mười thước gấmmàu nho và huynh đã đo thiếu một thước không?” Vương Khuê bất đắc dĩ phải nhận: “Đúng vậy?” Lã Bất Vi đưa lại mảnh gấm đã gấp lại cho Vương Khuê xem, Vương Khuê vội hỏi với giọng hỏi lo lắng: “Thế đệ đã nói cho ông chủ chưa?” Lã Bất Vi lắc đầu. Vương Khuê vỗ vai chàng nói thế mới là tình nghĩa huynh đệ, mời chàng buổi trưa đi uống rượu. Lã Bất Vi quả thực đang muốn nói với Vương Khuê mượn tạm mười dật vàng, nhưng chàng lại nghĩ, đem chuyện này ra nói khi mình vừa bắt “thóp” được bạn thì cứ như là chàng lợi dụng bạn vậy. Lã Bất Vi im lặng hồi lâu, đắn đo không biết phải mở miệng ra sao với Vương Khuê. Cứ mấy lần định nói, rồi lại không thốt nên lời. Sau cùng, chàng quyết định đi vay tiền ở chỗ khác. Người làm ở hiệu tơ lụa luân phiên nhau đi ăn cơm trưa. Lã Bất Vi đang định đi ra thì Vương Khuê kéo chàng bắt đi uống rượu, Lã Bất Vi nói mình có việc phải đi. Vương Khuê nói uống với nhau đôi ba chén đâu mất nhiều thời gian, uống xong Lã Bất Vi đi cũng chưa muộn. Lã Bất Vi lần đầu tiên được đến tiệmăn ngào ngạt hương vị các món ăn như thế này. Chàng không hiểu sao cứ có cảmgiác hơi xa hoa. Vương Khuê khoản đãi chàng rất thịnh tình. Anh ta ra sức nài Lã Bất Vi uống thoải mái, còn nói đây là loại rượu ngon hảo hạng. Vương Khuê uống mặt đỏ tía tai, tâm sự rất cởi mở với Lã Bất Vi rằng, đã là buôn bán thì phải có thủ đoạn để kiếm lợi cho mình. Bán lụa mỗi lần chỉ cần đo thiếu đôi ba tấc thì dần dần cũng được một món lớn. Lã Bất Viừa nghe vừa thầm nghĩ: “Quả đúng như người ta vẫn nói, vi thương bất gian bất vi thương”. Vương Khuê thao thao một mạch về kinh nghiệmbuôn bán của anh ta rồi hỏi Lã Bất Vi hômnay dường như có tâmsự gì đang lo lắng. Lã Bất Vi thở dài, Vương Khuê sa sầm nét mặt nói: “Lã Bất Vi, huynh đã coi đệ như bạn tâm giao, có chuyện gì nếu đệ không cho huynh biết, thì chứng tỏ đệ không thật lòng, đệ mau nói ra đi, nếu huynh không ra tay giúp đỡ thì huynh không phải kẻ trượng nghĩa”. Lã Bất Vi đành kể lại cho Vương Khuê chuyện chàng muốn cứu Hoàng Phủ Kiều nhưng đang lực bất tòng tâm. Vương Khuê nghe xong, chân thành nói: “Ai da, đệ đã mắc vào chuyện hồng nhan, việc này huynh có thể giúp”. Vương Khuê nói đoạn rảo bước về nhà mang đến cho mười dật vàng, nói với Lã Bất Vi: “Khi nào có trả hết cũng được, nếu không có thì trả dần ít một, hà tất phải bận tâm!” Lã Bất Vi lao như bay về nhà, chạy thẳng đến nhà kho, định gọi Hoàng Phủ Kiều cùng chàng đến nhà Phàn Bình giao tiền chuộc thân. Nhưng chàng tìm khắp nơi trong nhà kho mà không thấy bóng Hoàng Phủ Kiều. Lã Bất Vi biết chuyện này không tiện dò hỏi cha chàng nên quyết định một mình mang tiền chuộc đến phủ họ Phàn, sau đó sẽ tìmHoàng Phủ Kiều. Phàn phủ chìm trong không khí tang thương, Lã Bất Vi gặp Phàn Bình nói: “Có một nô lệ tên là Hoàng Phủ Kiều bỏ trốn, nhờ tôi đem mười dật vàng chuộc thân trao cho đại nhân”. Phàn Bình vốn đang sai người đi tìm Hoàng Phủ Kiều mà chưa thấy tăm hơi gì, nay nghe người thay cô ta mang tiền chuộc đến, nghĩ rằng mua đâu chả được một nô lệ khác đem mai táng cùng cha nên nhận lấy mườu dật vàng của Lã Bất Vi và trao lại cho chàng tờ khế ước bán thân của Hoàng Phủ Kiều viết trên tấmtrúc. Lã Bất Vi trở về nhà lúc trời nhập nhoạng tối, cứ nhìn đăm đăm vào cánh cửa nhà kho trầm tư suy nghĩ: “Hoàng Phủ Kiều có thể đi đâu được cơ chứ?” Cha Lã Bất Vi đang chỉ bảo đámthợ xây điện rước thần, thấy Lã Bất Vi cứ thẫn thờ nhìn vào nhà kho liền gọi chàng lại dặn dò: “Bất Vi, sau này nhà ta sẽ có các vị thần bảo vệ. Sáng nay, cha đã phát hiện một kẻ nô lệ bỏ trốn trong nhà kho, cha đã đuổi đi rồi!” Lã Bất Vi vờ như không để ý lơ đãng hỏi lại: “Không biết cô ta đi đâu nhỉ?” Lã Hâmnói: “Ai mà biết được”. Lúc trưa nay khi về đến nhà, Lã Bất Vi để ý thấy trước cửa nhà họ Tống có mấy cỗ xe trông rất sang trọng với những con tuấn mã phủ đệm rực rỡ, lại còn có cả một đội kỵ binh oai vệ. Chàng dò hỏi mới biết, thì ra điện rước thần của nhà họ Tống xây rất đẹp, có người đã bẩmbáo với Vệ Nguyên Quân, Vệ Nguyên Quân rất khen ngợi, họmnay ngự giá đến Tống gia ngự lãmban thưởng. Lúc này Lã Bất Vi mới để ý, khoảng đất phía Tây Bắc Tống gia đã được dựng một toà lầu rường cột chạm trổ sơn son thiếp vàng cao vút tới tận trời xanh. Lã Bất Vi chưa từng được thấy long nhan Vệ Nguyên Quân nên đứng nấp sau cánh cửa nhà chờ đợi. Một lát sau, chàng nghe thấy tiếng nhạc vang lên rộn rã, rồi tiếng hô “vạn tuế” rền vang. Lã Bất Vi nghĩ: “Có lẽ Quốc vương chuẩn bị hồi cung”. Chàng liền thò đầu ra nhìn về phía cổng nhà Tống gia. Ngay lúc ấy, chàng chỉ kịp nhìn thấy một người chừng tuổi trung niên đầu đội vương miện đính chuỗi ngọc, tư thế uy phong bước ra. Lã Bất Vi đoán chừng, đây hẳn là Vệ Nguyên Quân. Chuỗi ngọc đính trên vương miện khiến Lã Bất Vi kông nhìn rõ mặt Vệ Nguyên Quân. Mũ mạo rữc rỡ của quân vương được gọi là “diên”, vốn là chiếc mũ hình ống tròn được cách điệu. “Diên” trước cao sau thấp, hơi nghiêng về phía trước thể hiện cái tư thế của bậc quân vương đứng từ trên cao mà nhìn xuống thiên hạ. Bên ngoài quan diên là màu đen, bên trong màu hồng ngọc. Phần trước của diên được trang điểm bởi những dây tua mảnh màu sắc sặc sỡ được đính bởi những viên ngọc trân châu lóng lánh, gọi là “chuỗi ngọc”. Thiên tử có mười hai chuỗi ngọc, mỗi chuỗi có mười hai viên ngọc, tổng cộng là một trăm bốn bốn viên. Đây là mũ mạo từ thời Châu Thiên tử quen đội. Rồi lễ nhạc bị băng hoại nhiều nhưng các bậc quân vương vẫn cứ mô phỏng kiểu mũ ấy, có khác chăng chỉ là số lượng những viên ngọc. Những viên ngọc rực rỡ sắc màu buông phía trước diên ấy không chỉ là lối phục sức của bậc hào hoa mà còn thể hiện cho sắc thái thần bí và vẻ tôn nghiêm của bậc quân vương. Khi tiếp kiến các hạ thần, quốc vương có thể quan sát thần thái của họ qua những khe hở giữa các chuỗi ngọc nhưng kẻ hạ thần thì không thể nhìn rõ thái độ của nhà vua. Khi chiếc mũ miện đính các chuỗi ngọc lúc lắc của Vệ Nguyên Quân cùng đoàn vệ binh rầm rộ đã khuất nơi cuối phố, Lã Bất Vi run lên thầmnghĩ: “Tiền bạc có thể đemlại cho con người ta thật nhiều thứ!” Chẳng mấy chốc một tháng vui vẻ ở cửa hiện tơ lụa đã trôi qua, Lã Bất Vi lại phải quay trở về chỗ đại phu Vệ Hoành tiếp tục làm môn khách. Chàng hoàn toàn không ngờ rằng, chàng bị cấm cửa. Môn dịch của Vệ Hoành lạnh lùng cho chàng hay, Vê đại phu nói chàng đã đánh ngựa trước cửa phủ Tống Kỳ làm kinh động phủ nội, hành vi thất lễ, nếu chàng tiếp tục làm môn khách ở đây sẽ làm tổn hại đến danh tiếng của Vệ đại phu, nay chàng hãy tìmnơi chốn khác. Lã Bất Vi đâu ngờ cảnh ngộ u ám này của đời mình, lảo đảo đi về nhà. Cái tin này khiến Lã Hâm vô cùng đau đớn, nước mắt cứ thế giàn giụa trên gương mặt in hằn bao sóng gió cuộc đời của ông. Lã Bất Vi an ủi cha: Cha à, đừng đau lòng nữa, trời đã cho con sinh mạng ắt chẳng bạc đãi con. Vệ Hoành từ chúng ta nhưng đâu thể tuyệt đường của cha con ta. Muốn làmbồi thần môn khách mong hưởng bổng lộc chứ không vì tiền bạc ở cái thành HàmDương rộng lớn này thì ông trời quyết không th6ẻ tuyệt đường của con người ta! Ánh trăng sáng và bóng cây rợp bao trùmđình viện nơi Lã Bất Vi đang ngồisuy ngẫmday dứt. Những sự việc xảy ra trong một tháng nay mang lại cho chàng biết bao cảm xúc. Đánh ngựa làm kinh động ư, tại sao không phạt chàng tiền công một tháng thôi? Hay là tại bởi vì Tống gia có tiền, có thế, kết giao với các bậc quyền quý, đến Vệ Hoành đại phu và Châu Bác đều đến Tống gia ăn cơm chúc thọ; Vệ Nguyên Quân hà tất lại ngự giá đến Tống gia, làmrạng danh tổ tiên, được hưởng lộc triều đình, đây chẳng phải là vì Tống gia có tiền nên mới xây điện rước thần mái cao thân lượn, khắc phượng chạm rồng, sơn dầu dát bạc đấy sao! Lã gia nhà ta nếu lưng dắt vạn quan thì cũng có thể xâu được điện rước thần mang màu sắc hoàng gia như thế, Vệ Nguyên Quân khi ấy lại cũng sẽ chẳng ngự giá đến Lã gia sao! Hoàng Phủ Kiều đi về đâu không rõ, sao chẳng thấy chút tăm hơi? Hay nàng vẫn mang nỗi xấu hổ trong lòng, nếu ta cũng giàu có như Tống gia thì đừng nói là mười dật vàng, đến một trăm dật vàng cũng dễ như trở bàn tay, cũng sẽ chẳng đến nỗi bỏ lỡ thời cơ mà dễ dàng kết giao được với Hoàng Phủ Kiều! Tiền bạc có thể làmcho con người ta được tôn quý, hiển vinh, tiền bạc có thể mua được tước vị, tiếng tăm, tiền bạc có thể trải ra con đường tiến thân đầy những gấm hoa dẫu cho con người ta đang ở trong cũng lầy đen tối… Người khác, trước là mưu cầu quan chức, tước vị, sau dựa vào quan tước để tranh điền ấp, bổng lộc, rồi tích tụ tiền của, giàu có vang danh. Ta lại muốn đi một con đường ngược lại, làmkẻ buôn bán, tích luỹ bạc tiền, sau đó mới tranh quan đoạt tước, phong hầu bái tướng. Hoài bão về tiền đồ mà chàng tự vẽ nên khiến cho Lã Bất Vi háo hức đến không ngủ được. Sáng sớm hômsau, Lã Bất Vi điềm tĩnh nói với cha rằng hôm nay chàng rỗi rãi nên muốn đi thăm sư phụ Bá Hạ. Chàng muốn tạm thời không để người cha già đang rất khổ tâm lại thêmmột lần nữa phải nhọc lòng suy nghĩ bởi những toan tính được mất chỉ vì những ý tưởng còn rất mơ hồ, mung lung của chàng. Lắng nghe một câu từ miệng người quân tử hơn cả đọc sách cả mười năm. Lã Bất Vi vừa đi vừa phỏng đoán không biết Bá Hạ tiên sinh sẽ tỏ thái độ ra sao trước sự lựa chọn của chàng. Đã một tháng Lã Bất Vi mới lại đặt chân đến chốn này, gia cảnh Bá Hạ tiên sinh vẫn vậy, nhà nhỏ dậu thưa, bụi gai che cửa sổ. Tất cả cảnh vật nơi đây đều mang lại cho Lã Bất Vi một cảm giác rất đỗi thân quen. Thấy chàng đến, Bá Hạ mừng rỡ ra đón. Rồi, một bình trà đặc, hai thầy trò ngồi trên đất, Lã Bất Vi rủ rỉ tâmsự với thầy về ý tưởng từ bỏ con đường mưu cầu quan tước để dấn thân vào chốn buôn bán, thương nhân. Bá Hạ chăm chú nghe, nghe xong, ông trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Bất Vi, ta rất khâm phục cốt cách và hoài bão biết nhìn xa trông rộng của con”. Lã Bất Vi vội vàng đứng dậy, khẽ cúi người lo lắng nói: “Thầy nói vậy, con quả xấu hổ vô cùng”. Bá Hạ vẩy tay ra hiệu cho Lã Bất Vi ngồi xuống, rồi cất giọng chân tình nói: “Bất Vi, đừng vì lễ nghi khách khí thầy trò. Suy nghĩ của con quả thực là cờ cao một nước hơn người, hợp thời thuận thế. Con cũng biết Khổng Khâu tiên sinh vốn là quan đại thần nước Lỗ từ thời hơn hai trăm năm về trước, trước đây ta vô cùng bái phục văn chương đạo đức của ông ta. Đặc biệt là khi nghiền ngẫm tập “Luận ngữ”, mỗi câu mỗi chữ trong đó đều soi rạng thứ ánh sáng hiền triết, đều là những danh ngôn chí lý. Nhưng bỗng gần đây, khi đọc những trước tác cảu Khổng tiên sinh, ngẫm nghĩ suy tư thì tình cảm sùng bái của ta dành cho ông ấy đã bị dao động, nói cách khác, ta nhận thấy, không phải tất cả những lời của Khổng tiên sinh đều là những chân lý bất di bất dịch. Ví như, Khổng Tử nói, bậc quân tử trượng nghĩa còn kẻ tiểu nhân hám lợi; bậc quân tử lo việc đạo nghĩa chứ không vì bần hàn mà bận tâm. Ta không cho là như vậy. Cớ sao có thể nói mưu cầu lợi ích vật chất, tránh cảnh cơ cực bần cùng tất thảy đều là bụng dạ, suy nghĩ của kẻ tiểu nhân? Không có bạc tiền, nghèo hèn khốn khó mà nói đến đạo, đến nghĩa há chẳng phải viễn vông sao? Ta có vừa được nghe một câu nói của Quản Trọng, vốn từng làm đến chức thượng khanh cho Tề Hoàn Công, rằng: “Gạo đầy kho mới hiểu lễ tiết, áo ấm thân mới thấu nhục vinh”. Đó quả là một lời răn dạy sâu sắc mà mới mẻ, người d6an chỉ có thể hiểu được lễ tiết là gì khi họ đã được ăn no, chỉ có thể biết cái gì là vinh, cái gì là nhục khi họ đã được mặc ấm. Cho nên quân tử phong lưu thì dễ lòng hành đức, tiểu nhân no đủ thì dốc sức dốc công. Bậc quân tử khi đã rương cao hòmđầy thì có thể thi ân hành đức, còn kẻ bình dân khi đã có chút của dư thừa thì có thể thêmsức cần lao. Cũng giống như nơi nước sâu mới có cá lội, chốn núi cao mới có thú về, có giàu sang mới tính được chuyện nhân nghĩa. Kẻ giàu có tiền có thế, dang tiếng càng bay xa, mất tiền mất thế, môn khách cũng sẽ đều quay gót bỏ đi, bởi vậy đã có người nói rằng: thiên hạ nô nức, khi còn lợi, thiên hạ quạnh hiu, lợi chẳng còn. Ôi, bậc quân vương nghìn cỗ xe, kẻ chư hầu vạn mái nhà, bậc khanh tướng trămphòng thất chẳng vẫn sợ bần hàn sao, trách chi được kẻ thất phu với đôi gian nhà chật?” Từng lời của Bá Hạ thâm thuý diệu kỳ, khiến Lã Bất Vi mở mắt bao điều, chàng vội nói: “Những lời rao giảng của tiên sinh khiến cho đệ tử thấy được những việc chưa từng thấy, nghe được những điều chưa từng nghe.Xin tiên sinh chậm rãi từng lời để đệ tử chắp bút ghi lại, treo nơi đầu giường, bên cạnh án thư mà răn dạy bản thân”. Bá Hạ cười lớn mà rằng: “Ấy, hà tất phải câu nệ như vậy. Hôm nay con tới, ta rất vui mừng; Con muốn thay đổi sự lựa chọn về sự nghiệp của mình, quả là điều trọng đại. Thế nên ta mới góp nhặt đôi câu, nhiều lời một chút, vị tất đã khúc chiết chỉn chu, có chăng chỉ là bàn bạc cùng con để con thamkhảo”. Lã Bất Vi vô cùng thành tâm nói: “Không, từng câu từng lời của tiên sinh đều là lời khuyên quý báu, khiến cho tâm tư mơ hồ cảu con như được rạng soi”. Bá Hạ nói tiếp: “Nếu quả thực như vậy, thì thầy sẽ lại có đôi lời dông dài cùng con. Tử Hạ là một trong những đệ tử xuất sắc nhất trong số bảy hai đệ tử của Khổng Tử. Tử Hạ có một học trò rất nổi tiếng, tên là Lý Khôi. Nguỵ Vương Nguỵ Văn Hầu chiêu mộ nhân tài, đã phong cho Lý Khôi làm tể tướng. Trong thời gian chấp chính, Lý Khôi đã thực thi biện pháp tấc đất tấc vàng, phá bỏ ranh giới canh điền, phát triển điền canh thuỷ lợi, thậm chí còn tính toán giúp Nguỵ Văn Hầu. Có một lần Lý Khôi đã tính toán cho Nguỵ Vương xem về một mảnh đất vuông vức rộng trăm lý, có chín vạn hecta ruộng, nếu trừ đi diện tích rừng núi, hà trạch, thành ấp, làng mạc thì thực tế diện tích canh tác chỉ còn được sáu vạn mẫu. Nếu lúc thuận thời, cần cù canh tác, mỗi mẫu tăng sản ba đấu thì sáu vạn hecta cũng tăng được một trăm tám mươi thạch. Nguỵ Vương vốn là bậc hiền minh rất nghe theo lời Lý Khôi, tiếp thu kế sách hoa màu: quốc cường dân phú của ông, Nguỵ quốc nhờ vậy nhanh chóng cường thịnh. Hay chuyện Sở Vương tin dùng Ngô Khởi, Tần Hiếu Vương tín nhiệm Thương Ương, những nước chư hầu này đã thực thi biến pháp, tích của tụ tài, trở nên cường thịnh, từng bước hoàn thành bá nghiệp. Thời thay đổi, sách lược trị quốc của các bậc quân vương cũng phải thay đổi, thế gọi là thức thời vậy. Thời thượng cổ thiên vị đạo đức, trung cổ xem trọng trí mưu, cận kim phát huy vũ lực và đương thời trọng thị kinh tế. Thời nhà Thuấn, có bộ lạc Miêu không chịu khuất phục, tướng Vũ xin chinh phạt, Thuấn nói: làm vậy không được, chúng ta không dùng đức trị người mà nay lại dùng lực, há chẳng phải bất đạo hay sao? Suốt ba năm, vừa thuyết giáo, vừa răn đe, người Miêu mới khuất phục. Bất Vi, con xem, Thuấn phái quân tay cầmrìu cầmkhiên nhưng lại cùng người Miêu ca hát, thế người Miêu mới khuất phục, thật diệu kỳ biết bao, dùng đạo cảmhoá lòng người thời ấy quả có sức mạnh vô biên. Đến thời cận đại thìsao? Có một lần, nước Tề toan tiến công nước Lỗ, Lỗ Vương liền phái Tử Cống - một môn sinh xuất sắc của Khổng Tử đi thuyết giáo, hòng dùng đạo đức mà cảm hoá nước Tề bãi binh hoà hiếu. Tử Cống lý lẽ sắc sảo tới nước Tề diễn thuyết một hồi, người nước Tề nghe xong liền cười mà rằng: “Tử Cống tiên sinh, không phải tiên sinh nói lời vô lý, nhưng cái chúng ta cần là đất đai chứ không phải những lời căn vẻ bùi tai”. Và, quân đội nước Tề tấn công nước Lỗ, khuyếch trương biên giới đến cánh cửa thành nước Tề có năm trăm mét. Bất Vi, thử so sánh mà xem, thời thượng cổ, dùng đạo đức đi giáo hoá đã hàng phục được cả một bộ lạc, đến thời cận đại, lại dùng đạo đức đi thuyết giáo thì suýt dẫn đến hoạ diệt vong cho cả một quốc gia! Thời thế nay, chư hầu đua tiếng, mưu đồ thôn tính đối phương, độc dựng cơ hồ, theo ta, gốc rễ là kinh tế hưng thịnh, nước phú quân mạnh”. Sau một hồi thao thao bất tuyệt, Bá Hạ ngừng lời, chậmrãi nhấp trà. Lã Bất Vi nói: “Trước kia nghe kẻ bình dân quê mùa nói: Lời châu ngọc không kén chọn sang hèn; vẫn cho là lời phi lý. Giờ mới thấy, lời kẻ tiện nhân cũng đâu kémsâu xa”. “Chính vì vậy nên ta ủng hộ hoài bão của con, Bất Vi ạ! Hãy can đảmlên!” “Có sự khích lệ của thầy, con thấy mình vững vàng biết bao!”. Lúc chia tay, Bá Hạ tháo chiếc vòng ngọc khắc rồng chạm phượng đang đeo trên mình trao cho Bất Vi, chân tình nói: “Rồi đây con đặt chân vào chốn thương trường. đi Nam về Bắc, thầy trò thật chẳng dễ gặp mặt nhau, con hãy giữ miếng ngọc bội này bên mình nhé! Có thể nó sẽ giúp con nhớ đến ta!” Lã Bất Vi lưu luyến từ biệt Bá Hạ. Trên đường trở về nhà, chàng đã biết nên thổ lộ với cha chàng ra sao về những toan tính của mình. Về tới nhà, chàng thấy cha đang một mình với chén rượu, thẫn thờ. Bất Vi không biết cha đang uống rượu mừng vì điện rước thần đã hoàn tất, hay đang uống rượu giải sầu vì chuyện chàng đã bị khước từ cho làm môn khách ở nhà Vệ Hoành. Bất Vi nghĩ, bất luận là cha đang uống rượu gì thì bây giờ chàng vẫn phải nói cho ông hay về ý tưởng của chàng. Nghĩ vậy, Bất Vi ngồi xuống giường, rót đầy chén rượu cho cha. Rồi chàng kể hết một mạch cho cha những diễn biến trong lòng cháng một tháng nay, ý nghĩ của Bá Hạ tiên sinh và ý tưởng rời bỏ con đường mưu cầu tước vị, dấn thân vào chốn thương trường của mình. Lã Bất Vi nói xong, nhìn cha không chớp mắt. Thoạt tiên chàng thấy cha tỏ ra vô cùng kinh ngạc, sau đó lại hết sức bối rối. Chén rượu trong tay ông nghiêng đi khiến rượu tràn xuống. Nhưng rồi Lã Hâm cầm chén rượu ngay lại, đôi mắt ưu tư nhìn Bất Vi nói: “Những lời của con cũng có đạo lý. Nhưng việc này có can hệ đến tương lai của đời con và sự hưng suy của Lã gia, bởi vậy hãy để cha suy nghĩ rồisẽ trả lời con”. Suốt đêm, Lã Bất Vi cảm thấy mình như rơi vào trạng thái mơ màng, mung lung. Sớm hôm sau tỉnh dậy, đầu tiên đập vào mắt chàng là một thỏi vàng sáng chói được đặt nơi đầu giường. Lòng chàng rộn lên vì sung sướng: cha chàng đã đồng ý. Cha chàng bước tới, đặt tay nắmchặt vai Bất Vi nói: “Đây là số tiền mà ta và mẹ con dành dụmđể lo chuyện hậu sự, con hãy dùng nó!” Lã Bất Vi cầmlấy thỏi vàng, trông nó tựa chiếc khánh đá. Thỏi vàng ánh lên muôn ngàn tia sáng lấp lánh, như làmhiển hiện trước mặt chàng một không gian rực rỡ tựa gấmhoa. Chàng nhủ thầm: “Có tiền rồi, trước tiên ta phải trả mười dật vàng cho Vương Khuê”. * * * Một kẻ tha hương lòng mang hy vọng làmgiàu đang xuôi thuyền trở lại cố hương. Kẻ đó chính là Lã Bất Vi. Chàng đã đem đổi thỏi vàng thành một nghìn tiền xu tới vùng sơn cước nước Lỗ mua trái đào nước, mua nửa đồng một cân, về Bộc Dương có thể bán được ba đồng, rất có lời lãi. Một thuyền chất đầy những trái đào tươi toả hương thơm ngọt cả lòng người. Lã Bất Vi đang ngược dòng, chỉ còn hai ngày đường nữa là chàng sẽ về tới nhà. Sông rộng nước lặng, chỉ có tiếng mái chèo hối hả. Ông lão chèo thuyền vừa khua mái chèo vừa khen ngợi Lã Bất Vi, rằng chàng là con nhà giàu có mà chịu thương thịu khó. Lã Bất Vi cay đắng không biết nên khóc hay cười, hỏi ông lão tại sao có thể biết được chàng là con cái nhà có của. Ông lão bảo chàng mặc đồ xa hoa, chỉ riêng đôi ủng chàng đi cũng đáng giá trăm đồng. Lã Bất Vi nói, lão bá tuổi cao mắt kémrồi, đôi ủng này đâu phải đồ quý, chẳng qua cũng chỉ là thứ rách nát tầmthường, có chăng chỉ là màu sắc hoa văn trông vừa mắt chứ chẳng đáng giá là bao. Lã Bất Vi từ trong khoang ngắm nhìn con thuyền chở hàng của mình đang xuôi mái rẽ sóng trên dòng Bộc Dương. Hai bên bờ sông núi cao trùng điệp, rừng xanh mênh mông. Tình cờ thay có một người con gái xiêmy rực rỡ đang ngắt lá đùa cành. Lã Bất Vi tức cảnh sinh tình, ý thơ dào dạt, cất giọng trầmbổng ngâmbài “Cô gái háisắn dây”. Hỡi cô hái rau Một ngày không gặp Ba tháng xa nhau Hỡi cô hái rau Một ngày không gặp Ba nămxa nhau Hỡi cô hái rau Một ngày không gặp Mùa thu xa nhau. Trong giây lát, Lã Bất Vi bỗng chợt nhớ tới Hoàng Phủ Kiều, cô gái nô lệ mà chàng đã từng phải đi mượn bạn số tiền chuộc cô. Giờ đây không biết cô đang lưu lạc phương nào, nương thân nhờ ai, hơi người con gái dễ khiến lòng người xao động! Cái vết dấu đỏ hằn lên giữa hai hàng lông mày như một ký ức khó quên lưu lại trong lòng người. Bắt đầu nghiệp thương nhân từ những trái đào, ta sẽ phải tích tiểu thành đại, kiến tha lâu ắt đầy tổ, rồi tiền bạc ắt sẽ như dòng nước này chảy về Lã Bất Vi ta. Ta phải đi tìm Hoàng Phủ Kiều để thổ lộ lòng ta với người con gái xinh tươi tựa hoa nguyệt này. Dẫu cho không tìm được nàng, ta cũng sẽ phải cưới một người con gái tàisắc vẹn toàn làmvợ, rồi ta sẽ mua thêmmột, hai nô thiếp xinh đẹp, lễ phép, dịu dàng làmbầu bạn, cuộc sống ngát hương, phong lưu hạnh phúc. Hoàng hôn buông xuống bao phủ một màu xanh mênh mang lên núi đồi đen sẫm. Trời chẳng mấy chốc tối hẳn. Thuyền neo bờ, Lã Bất Vi cùng ông lão chèo thuyền ăn cơm tối trong khoang thuyền. Quãng nửa đêm, tiếng sấm ì ầm chợt vang lên, dội xuống mặt sông. Lã Bất Vi bừng tỉnh, thấy trời đang trút mưa ào ào. Chàng nghiêng tai lắng nghe tiếng nước vỗ mỗi lúc một to, biết rằng mưa đang lúc một dữ dội trong đêm. Trời sáng, Lã Bất Vi cũng chỉ đành ngồi nhìn không chớp mắt vào màn mưa trắng xoá đến tận buổi trưa mà chưa hề có ý dứt. Lã Bất Vi vội giục ông lão chèo thuyền khởi hành nhưng ông lão nhìn dòng nước chảy xiết đục ngầu nói, đỉnh lũ ở thượng nguồn quá mạnh, thuyền không xuôi nổi, Lã Bất Vi lấy hai trái đào từ sọt lên nhìn, đào đã nhũn do bị nóng. Chàng hiểu, nếu nhỡ nhàng ở đây chờ đợi hai ngày thì cả thuyền đào tươi của chàng e là nẫu như cháo mất. Lòng chàng nóng như lửa đốt, khẩn khoản xin ông lão khởi hành mặc trời mưa. Ông lão cho chàng hay ông chưa bao giờ chèo thuyền giữa lúc nước cuộn dữ dội như thế này, nếu mạo hiểm lên đường thì đừng có nói là đào chứ đến cả hai con người trên thuyền này cũng làm mồi cho hà bá. Sau buổi trưa, mưa to hơn, dòng nước cuộn sóng gầm lên nghe như tiếng trâu rống. Sau một ngày một đêm đợi chờ trong mưa, Lã Bất Vi như đứng trên đống lửa ngồi trên đống than. Chàng muốn lên bờ bán tống bán tháo số đào nhưng hỏi ông lão chèo thuyền mới biết thị trấn gần nhất cũng cách đây đến ba mươi dặm. Đường thì trơn, ngựa khó đi. Hy vọng bán đào của chàng cũng tan như bong bóng. Lại thêmmột ngày trôi qua, sau cơn mưa trờisáng dần, mây tan trời quang. Chàng thấy ông lão chèo thuyền đang trút sạch đống đào nhũn nhoét đầy khoang của chàng xuống sông, nhẹ nhàng thoải mái như đấy là một đống phân thải vậy. Và rồisau đó con thuyền lướt đi tựa như chiếc lá trôi. Lã Bất Vi bắt đầu lê những bước chân nặng nề trên mặt đường đầy bùn nước hướng về phía Bộc Dương. Lòng trĩu nặng buồn đau, chàng thấy con đường như dài thêm. Mãi đến lúc chiều tà, Lã Bất Vi mới đến một thị trấn nhỏ có bóng người. Tìm một lữ điếm, ăn một chút lót dạ, chàng hỏi thăm và biết Bộc Dương còn cách đây chừng chín mươi dặm đường, thân thể rã rời, chàng cũng chỉ còn cách trú chân ở đây một đêm, đợi sáng mai lên đường sớm. Chỉ kịp đặt lưng xuống giường, Lã Bất Vi ngủ say một mạch, sáng hôm sau lúc mặt trời đã lên cao ba con sào mới tỉnh giấc. Chàng sờ khắp người, chỉ còn sót lại vài đồng bạc. Bất Vi sợ toát mồ hôi, lấy gì để trả tiền ăn ngủ đây? Chẳng lẽ đào tẩu ư? Chàng khẽ gạt bức mành nhìn ra, chủ tiệm cùng đám gia nhân đang bận rộn làm việc. Giá có đào tẩu mà bị tóm lại thì chắc hết chốn dung thân, cầm chắc bị dẫn lên quan phủ. Đã đến nước này thôi thì đành mặt dạn mày dày mà đi tìm chủ tiệm xin khất nợ. Chủ tiệmcười khẩy nói, khất nợ ư? Thế ngươi không trả thì ta biết tìmngươi ở đâu? Chủ tiệmlướt ánh mắt khinh thị nhìn từ đầu xuống chân Lã Bất Vi một lượt bảo, nói không đủ tiền thì lột đôi ủng dưới chân ra mà trả. Lã Bất Vi đành tháo ủng trước con mắt của bao nhiêu kẻ vây quanh, vội vã bước đi, ngậmđắng nuốt cay trước ánh mắt giễu cợt cảu những con người xa lạ. Lã Bất Vi thất thểu tới bờ sông Bộc Dương, ấp điền nơi chàng sống đã hiện ra trước mắt, chàng cảm thấy hai chân rã rời. Sông Bộc Dương chảy uốn lượn theo thành ấp, vừa là mạch đường thuỷ vận, vừa là nơi người dân trong thành ra giặt giũ tắm rửa. Vào những ngày nóng nực, khắp bờ sông rộn rã tiếng hồ đập quần áo, tấp nập những cánh buồm và râm ran tiếng cười nói. Giờ đây, trước mắt chàng là mấy cô gái má thắmmôi hồng, váy dài lướt thướt đang đuổi nhau nô đùa trên bãi cát. Lã Bất Visợ người khác trông thấy cái bộ dạng thảm hại của chàng, vội vàng ẩn mình trong đám rau khao tử um tùm bên bờ sông. Chàng cảm thấy hai bàn chân rát như phải bỏng, liền nằm xuống bãi cỏ nhìn lên bầu trời. Lã Bất Vi khẽ ngước đầu lên, trên kia, những đám mây trắng nhẹ nhàng trôi, lúc thì chụm lại, lúc lại tản ra, tựa hồ như cuộc đời phiêu du của con người. Chàng từ chỗ là một môn khách của nhà Vệ Hoành đại phu tiền đồ sáng lạn bỗng chốc trở thành một tay buôn đào đắc ý tiền nhiều để rồi cuối cùng chỉ trong nháy mắt trở thành một kẻ khốn nạn bần cùng gục ngã. Người cha già vì chàng mà dốc cạn hầu bao với bao kỳ vọng về chàng, dõi theo từng bước chàng đi và mong ngày khải hoàn, vậy mà chàng đã làmtiêu tan hy vọng của cha, đã bỏ sông bỏ bể số tiền mà cha mẹ chàng dành dụm, chàng còn phụ những lời răn dạy chí tình của Bá Hạ tiên sinh và trở thành trò cười cho Tống Kỳ, cho đámbè bạn, anh emở tiệmtơ lụa. Đường đường một đại trượng phu sống nhục nhã với đời chẳng bằng chết đi hay sao. Nghĩ quẩn quanh một hồi, Lã Bất Vi quyết định nhảy xuống sông tự vẫn, đặt dấu chấmhết cho cuộc đời mình - một chàng trai mới mười tám tuổi. Dòng sông êm ả trôi, siêu nhiên thoát tục, rồi linh hồn chàng cũng sẽ dạt trôi nơi chân trời, tìm đến với sự giải thoát và bình yên. Lã Bất Vi biết lòng mình đã quyết, chàng cố sức lê đôi chân giờ đã rã rời không còn muốn nghe theo sự điều khiển của chàng nữa khó nhọc bước tới bên bờ sông. Đúng vào lúc chàng đang cúi nhìn những gợn sóng lăn tăn và những xoáy nước trên mặt sông để tìm nơi trẫm mình, bỗng chàng nghe thấy có tiếng ai tựa như tiếng chuông ngân đang gọi tên chàng. Bất Vi ngỡ là mình đang mơ. Chàng hướng mắt về phía tiếng gọi, và đập vào mắt chàng là một vết dấu đỏ xinh xắn đến nao lòng. Là Hoàng Phủ Kiều, chính là Hoàng Phủ Kiều, đích xác là Hoàng Phủ Kiều! Bất Vi nhìn thấy Hoàng Phủ Kiều mặc một chiếc váy mới tinh, hoa văn sặc sỡ, gương mặt nàng hồng hào, tràn trề sức sống, chàng không còn nhận ra đó là cô gái nô lệ hômnào phải lánh nạn trong kho thóc ở nhà chàng nữa. Lã Bất Vi vội hỏi Hoàng Phủ Kiều về những chuyện đã xảy ra sau khi nàng rời khỏi nhà chàng. Hoàng Phủ Kiều nhìn Bất Vi hồi lâu, ánh mắt như nói bao điều, rồi kể, sau khi rời khỏi nhà chàng, nàng đã đi khắp nơi để tìm anh trai, sau đó, nàng được một người tốt bụng tên là Phùng Quân Úy cứu giúp và nàng đã nhận ông làmnghĩa phụ. Khi Phùng tiên sinh mang mười dật vàng đến nhà Phàn Bình định chuộc thân cho nàng mới được người ta cho hay đã có một người trả tiền chuộc cho Hoàng Phủ Kiều rồi. Nàng đoán người đó hẳn là Lã công tử. Hai ngày trước đây đến nhà chàng hỏi thăm mới hay Lã công tử đã đi buôn bán đào rồi. Lã Bất Vi xấu hổ kể lại cho Hoàng Phủ Kiều nghe chuyện buôn bán đào của mình, đoạn nói: “Buôn bán đến trắng tay, lòng như lửa đốt, chẳng thà chết đi còn hơn!” Hoàng Phủ Kiều vội nói: “Sao Lã công tử lại nói năng hồ đồ đến vậy! Như thiếp phận gái liễu yếu đào tơ, lâm vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc mà vẫn chẳng nghĩ đến cái chết. Buôn bán lỗ lãi là lẽ tự nhiên, đâu có gì là lạ? Công tử đợi ở đây một lát, thiếp đisẽ quay lại ngay!” Một lát sau, Hoàng Phủ Kiều ung dung ngồi trên một chiếc xe ngựa lớn quay lại, từ trên xe bước xuống, tay ôm một bộ quần áo với mũ, giày mới tinh trao cho Lã Bất Vi, còn có hai mươi dật vàng, mười dật là trả lại cho chàng tiền chuộc thân của nàng, còn mười dật là chút bù đắp cho số tiền lỗ vì buôn đào lần này của Lã Bất Vi. Lã Bất Vi hỏi: “Nàng mang những thứ này đi, nghĩa phụ của nàng có biết không?” Hoàng Phủ Kiều vô cùng tự hào nói: “Thiếp đã kể cho nghĩa phụ nghe về nhân cách của công tử cùng việc buôn bán rủi ro lần này, nghĩa phụ rất ngưỡng mộ chàng, lại còn chuẩn bị tiệc mời chàng đến nữa!” Lã Bất Vi vội xua tay nói: “Đâu dán, đâu dám!” Trước khi chia tay Hoàng Phủ Kiều cho biết nơi nàng đang ở. Lã Bất Vi tháo chiếc vòng ngọc khắc hình rồng bay mà chàng mang bên mình tặng Phủ Kiều. Nhìn theo bóng Hoàng Phủ Kiều cùng chiếc xe ngựa thong dong theo con đường uốn lượn khuất dần, Lã Bất Vi cứ ngỡ ngàng không tin nổisố mệnh con người ta lại có thể đổi thay không ngờ đến vậy. Lã Bất Vi quần áo chỉnh tề, tay cầm hai mươi dật vàng gặp lại cha trong tư thế ngẩng cao đầu. Lã Hâm nghĩ rằng con trai trận đầu đã thắng lợi, nhẹ nhàng kiếm được nhiều tiền đến vậy nên mừng vui khôn xiết, không ngớt hỏi han. Không muốn để cha phải bận tâm, không an lòng, Bất Vi không đả động đến câu chuyện buôn đào thất bại thảm hại của mình thay vào đó, chàng thêm thắt đôi câu, nào là chàng đã thắng lớn một cách bất ngờ ra sao, nào là chàng đã mã đáo thành công thế nào, những lời chàng nói khiến cho gương mặt người cha rạng ngời niềmhạnh phúc. Bất Vi cầm mười dật vàng đến hiệu tơ lụa tìm Vương Khuê trả nợ bạn. Vương Khuê hỏi chàng lần này đi buôn đào hẳn là phát tài lớn, Bất Vi lắc đầu kể lại sự tình cho bạn nghe. Vương Khuê hỏi thế sau này chàng định tính toán ra sao, Bất Vi nói chàng cũng chưa nghĩ được gì cả. Vương Khuê động viên Bất Vi đừng nản lòng thối chí, rằng vạn sự khởi đầu nan, và khuyên bạn một cách là mở một cửa hiệu tơ lụa ở gần hiệu này; đầu tiên thì làm ít vốn, thuê một gian cửa hàng, hai người giúp việc, một người thu mua hàng, một người đảm trách việc bán hàng, Bất Vi làm chủ hiệu. Cửa hiệu này bán giá bao nhiêu thì hiệu cảu Bất Vi cũng bán ngần ấy, cầm chắc có lãi mà lại không rủi ro gì. Bất Vi nói có lẽ cũng phải thử xemsao. Lòng tràn đầy niềm tin, Bất Vi chạy ngược chạy xuôi, lo liệu sắp đặt, và chỉ sau vài ngày, hiệu tơ lụa của chàng đã treo biển đón khách. Mặc dù hai cửa hiệu chẳng khác gì nhau chỉ cách nhau có vài bước chân, cửa hiệu cảu Bất Vi vẫn nhộn nhịp. Vương Khuê còn bí mật giới thiệu khách hàng cho bên cửa hiệu của chàng, giúp cho việc làmăn của chàng trở nên phát đạt. Nhưng vài ngày sau, cửa hiệu của Lã Bất Vi bỗng vắng tanh vắng ngắt. Nguyên do là vì cửa hiệu bên kia bán giá rẻ hơn bên chàng. Vương Khuê cho chàng hay, Tống Kỳ thấy chàng ăn nên làm ra nên cố tình ép giá, hòng khiến Bất Vi lâm cảnh lụn bại. Vương Khuê khuyên Bất Vi hãy tính nước cờ khác, bởi lẽ chàng tiền ít vốn mỏng, sẽ không ép giá lại nổi với Tống Kỳ. Lã Bất Vi đâu dễ nhún nhường, Tống Kỳ muốn ép chàng nhưng sẽ ép không nổi. Làmăn ở đây khó bề vượt mặt hắn ta thì chàng sẽ đi tứ phương làm ăn, sẽ bán hàng ngay nơi thôn quê chợ làng vậy. Thế là, Bất Vi cùng hai gia nhân vai vác tơ lục, leo lên một gò đất cao, quan sát bốn phía, hễ thấy ai cũng lập tức mời chào, hễ có cơ hội làm ăn là chụp lấy không bỏ sót. Năm ấy, chính Mạnh Kha đã gọi loại hoạt động buôn bán này là “lũng đoạn” và ghi chép lại trong cuốn “Mạch Tử - Công Tôn thiên”. Buôn bán kiểu này lãi ít mà vất vả, quanh năm dầm dãi nắng mưa, chịu sương chịu gió, vậy mà Lã Bất Vi cùng hai gia nhân vẫn kiên trì thức khuya dậy sớm vác lụa trên vai in từng bước chân trên những bờ ruộng dọc ngang khúc khuỷu. Chương 3: HÀNH TRÌNH TỚI HUNG NÔ Lã Bất Vi cùng hai gia nhân chờ đón từng người qua lại trên khắp mọi nẻo đường để bán lụa. Giờ đã là mùa thu. Những thửa ruộng sau mùa gặt giờ chỉ còn trơ ra những gốc rạ. Chưa có sương rơi, vẫn còn có thể trông thấy sắc màu xanh non của vàisợi cỏ ngọn cây lưa thưa giữa những khoảng đất rộng trên những thửa ruộng. Những cơn gió thu xào xạc cuốn theo từng đợt lá vàng rơi. Vài gốc cây khô trụi lá gầy guộc bất lực nhìn sắc trời cuối thu âmvang tiếng lá rụng mang theo hơi mùa đông tới. Trời se lạnh, Lã Bất Vi nhóm lửa sưởi ấm, hâm nóng vài ngụm rượu để uống cho huyết mạch lưu thông, người ấm áp lên. Thời gian này, rất ít ai đi về vùng ruộng đồng ngoài thành ấp vì sợ cái lạnh tê người nơi đồng không hoang vắng ấy. Và chuyện làm ăn kiểu “lũng đoạn” của Lã Bất Vi cũng lắng nhạt đi tựa như sự tiêu điều của thời tiết vậy. Một hôm, Lã Bất Vi tình cờ gặp người biểu diễn rắn cưỡi một con ngựa, lưng đeo kiếm. Không biết tại bởi đã quá mệt hay do quần áo mặc trên mình quá mỏng mà vừa nhìn thấy đống lửa trước mặt Lã Bất Vi, anh ta liền nhảy xuống ngựa, co mình sưởi ấm. Lã Bất Vi nhận thấy đó là một chàng trai nhiều hơn mình dămtuổi, dáng vẻ cương nghị, trầmtĩnh. Anh ta không hề bắt chuyện với Lã Bất Vi và hai gia nhân mà ngồi sưởi ấm một lát rồi tháo bầu rượu đeo bên sườn ra, định hớp vài ngụm. Lã Bất Vi liền giữ tay anh ta lại, đoạn đưa cho anh ta một ly rượu đã được hâmnóng, nói: “Uống rượu lạnh hại tỳ sinh bệnh, uống rượu ấmnày đi”. Người biểu diễn rắn không từ chối, cũng chẳng cám ơn, cầm lấy ly rượu tu ừng ực hai ngụm, chùi mép rồi đưa lại chiếc ly cho Lã Bất Vi. Lã Bất Vi cảmthấy thật kỳ lạ, không lẽ người này bị câmhay sao? Chợt con ngựa đứng bên cạnh hý lên một tiếng dài. Lúc này Lã Bất Vi mới để ý, con ngựa của người biểu diễn rắn là thuộc giống long mã mặt sư tử. Con tuấn mã lông đỏ thẫmcó điểmnhững đốmđen đang lúc lắc cái bờmtrông tựa một tấmlụa đỏ. Bốn chân cao, khoẻ đứng tựa hồ còn vững hơn cả bốn cột chống nhà. Toàn thân nó láng bóng như bôi mỡ. Mặc dù phải thồ theo xe đựng mấy con rắn nhưng bốn chiếc móng ngựa như đá chôn xuống đất, vững vàng không nhúc nhích. Lã Bất Vi không ngớt miệng khen: “Con ngựa tuyệt quá! Con ngựa tuyệt quá!” Hai gia nhân cũng nói: “Ở Bộc Dương chưa bao giờ được thấy một con tuấn mã to khoẻ như thế này, đến con ngựa dùng để kéo xe vàng cho Vệ Nguyên Quân e là cũng không sánh kịp!” Lã Bất Vi tò mò hỏi người biểu diển rắn: “Con ngựa quý này là giống ở đâu vậy?” Người biểu diễn rắn rốt cục cũng mở miệng: “Hồ Địa”. Lã Bất Vi hỏi tiếp: “Đó chẳng phải là quốc gia của người Hung Nô ở phương bắc đó sao?” Người biểu diễn rắn gật đầu. Lã Bất Vi lại hỏi: “Anh đến đó rồi ư?” Anh ta lại gật đầu. Lã Bất Vi nghe nói, ở nước Triệu, kể từ khi Triệu Võ Linh đề xướng: “Hồ phục kỳ lạ”, ở thành Hàm Đan nơi đâu cũng thấy người mặc trang phục của người Hồ, học cưỡi ngựa bắn cung. Bởi vậy, ở đó, ngựa và trang phục của người Hồ rất đắt. Đã có người đến Hồ Địa mang theo lục là ngọc trân châu vốn rất rẻ đổi lấy ngựa tốt, quần áo bằng da thú đem về bán rất đắt trong thàng, kiếmlãi kếch xù. Lã Bất Vi cũng từng có ý tưởng này trong đầu nhưng ngặt nỗi đường sá không thuộc, ngôn ngữ không thông nên đành nhìn mà nuối tiếc. Người biểu diễn rắn đã từng đi tới quốc gia Hung Nô đang đứng trước mặt chàng đây chợt trở nên đầy lôi cuốn với Lã Bất Vi. Lã Bất Vi đến gần hơn một chút, thân mật hỏi: “Xin hỏi vị đại ca, nghe nói mười thước lụa như chúng tôi đang bán đây có thể đổi được mười mấy con ngựa của người Hồ có đúng không?” Người biểu diễn rắn đáp: “Đúng. Người Hồ đặc biệt thích lụa.” Lã Bất Vi lại hâmnóng thêmmột ly rượu mời người biểu diễn rắn uống. Lã Bất Vi thấy ánh mắt lạnh lùng của anh ta giờ đã trở nên ấm áp hơn đôi chút. Cũng có thể là sự nhiệt tình của chàng đã làm anh ta cảm động. Chợt, người biểu diễn rắn lên tiếng trước: “Ba người các anh can đảm, nhiệt huyết ở đây dầm mưa dãi nắng kếim chẳng nổi vài đồng. Chi bằng các anh mang vải lụa của mình tới chỗ người Hung Nô, cầm chắc đổi được 180 con ngựa tốt đem về Hàm Dương bán thì có thể kiếm được bằng với số lãi các anh kiếm ở đây 18 năm!” Lã Bất Vi vội đỡ lời nói tiếp: “Chúng tôi đâu phải không muốn như vậy! Hiềmnỗi núi cao, đường xa, lại không biết lối, ngôn ngữ chẳng thông, bởi vậy không dámmạo hiểmlên đường”. Nói xong câu này, Lã Bất Vi nhìn chằm chằm, quan sát sắc mặt của người biểu diễn rắn, đoạn thăm dò tiếp: “Nếu mà được một người đã từng đi tới Hung Nô dẫn đường cho chúng tôi thì quả thực chẳng còn gì bằng!” Người biểu diễn rắn nhận thấy ý bóng gió trong lời nói của Bất Vi, do dự một lát rồi nói: “Như thế này vậy, ta sẽ đưa các anh đi một chuyến”. Lã Bất Vi không giấu nỗi vui mừng hỏi: “Thật sao?” Người biều diễn rắn đứng dậy, đập đập vào chiếc áo cho bụi đất bay xuống, nói: “Sáng ngày kia hẹn gặp tại đây, anh phải có một con ngựa để cưỡi và thồ hàng”. Nói rồi nhảy lên ngựa, lao vút đi. Con người đến tên cũng không để lại mà nhận lời giúp đỡ một cách dễ dàng đến vậy khiến cho Lã Bất Vi vừa cảm thấy ngạc nhiên, vừa có cảm giác nghi hoặc. Nhưng rồi chàng nghĩ anh ta trông thật thà, nghĩa hiệp hẳn sẽ không đến nỗi hứa hươu hứa vượn, lời nói gió bay. Về tới nhà, Lã Bất Vi kiểm tra lại toàn bộ số hàng, còn bảy trăm thước lụa, mua vào thêm ba trăm thước là vừa đủ một nghìn thước. Có việc vào thành mua ngựa là khiến chàng đau đầu một chút bởi lẽ chàng chưa hề cưỡi ngựa, nhìn thấy những con tuấn mã to khoẻ hung dữ mà phát run. Bất Vi cưỡi thử vài con, sau cùng cũng mua được một con có vẻ ngoan ngoãn vâng lời và dắt về nhà. Ngay tối hôm ấy, Lã Bất Vi tìm đến nhà Phùng Quân Úy để từ biệt Hoàng Phủ Kiều. Kể từ lần chia tay trước nên bờ sông Bộc Dương, chàng và Hoàng Phủ Kiều mới gặp lại nhau một lần. Đó là vào ngày đầu tiên Lã Bất Vi đi buôn bán tơ lụa, chàng đã cắt ra một mảnh vải bông hình lá nho đẹp nhất tốt nhất và mua thêm một chiếc thoa cài đầu bằng vàng mang đến trước cửa nhà Phùng Quân Úy, vội vàng gặp rồi vội vàng chia tay với Hoàng Phủ Kiều. Lần đầu tiên Lã Bất Vi nhìn thấy Phùng Quân Úy, vị lão tướng đã bao phen mặc giáp cầmgươmnamchinh bắc phạt với phong thái cởi mở, râu dài, nét mặt đôn hậu. Phùng Quân Úy vui mừng nói: “Con gái nuôi của ta thường nhắc đến công tử, ngợi ca công tử, hôm nay được gặp mặt quả là bậc hào hoa phong nhã, khí khái hơn người. Lần trước công tử đi mua đào từ vùng sơn cước trở về, lão phu vốn định bày tiệc tiếp công tử, tiếc một nỗi là phải tháp tùng Tể tướng đại nhân đi tuần thị vùng biên ải nên lỡ mất, quả thựa đáng tiếc. Hôm nay nhất định lão phu phải bày mâm đãi công tử!” Nói đoạn, không cần biết Lã Bất Vi có đồng ý hay không, liền sai quản gia chuẩn bị rượu thịt. Lã Bất Vi mặc dù vừa dùng bữa xong nhưng thấy lão Quân Úy chân thành nhiệt tình đến vậy nên chẳng tiện nói lời từ chối. Lã Bất Vi cùng lão Quân Úy thưởng thức những món ngon vật lạ bên Hoàng Phủ Kiều đi tới đi lui tiếp rượu hầu thịt, chàng đã có một buổi tối đầy mãn nguyện. Sáng sớm ngày hôm sau, một con ngựa tắm mình trong ánh nắng ban mai mang trên lưng chàng thanh niên ôm mộng tới Hung Nô quyết liều mình một phen, chẳng mấy chốc đã ra khỏi thành Bộc Dương. Lã Bất Vi vừa phi ngựa tới điểm hẹn vừa nghĩ: “Không có lẽ nào anh ta lại không tới!”, chỉ đến khi chàng nhìn thấy từ xa bóng một người đang dắt ngựa đứng đợi ở đó, chàng mới trút được gánh nặng âu lo trong lòng. Lã Bất Vi cùng người biểu diễn rắn trèo đèo vượt suối, ngày đi đêm nghỉ. Tới mỗi thành ấp, người biểu diễn rắn lại dựng rạp mời gọi người xemxiếc rắn đi thu tiền. Người biểu diễn rắn thâmtrầmít nói, biểu diễn xong quay về lữ điếmcũng không chuyện trò gì cùng Lã Bất Vi, mà một mình tới khoảng đất trống để đi quyền múa kiếm. Lã Bất Vi đã mấy lần hỏi quý tính đại danh của anh ta song anh ta đều cười nhạt mà rằng, công tử cứ gọi tôi là người biểu diễn rắn. Thấy anh ta nói vậy, Lã Bất Vi cũng không hỏi thêm nữa. Người biểu diễn rắn này kiệm lời nhưng rất hào phóng, anh ta thường lấy tiền biểu diễn để trả chi phí ăn ngủ dọc đường, điều này khiến Lã Bất Vi trong lòng áy náy. Cuối cùng, hôm đó, Lã Bất Vi theo người biểu diễn rắn đến vùng biên giới gió thổi lồng lộng, có đồng cỏ rộng trải dài tít tắp. Người biểu diễn rắn thở phào thốt lên: “Đến rồi!” Khi Lã Bất Vi cùng người biểu diễn rắn đặt chân lên mảnh đất hàn bắc, đi nghìn dặm chưa thấy bóng người. Là tác giả mà tài mọn, tôi không có cách nào miêu tả cho bạn đọc bức tranh sinh động về cuộc sống của dân tộc du mục Hung Nô này. May thay, đã có nhà sử học, nhà văn học Tư Mã Thiên, đành trích đôi lời thần diệu của ông để miêu tả phong tục, sinh hoạt của người Hung Nô thời bất giờ hầu bạn đọc. Thuỷ tổ Hung Nô là hậu duệ họ Hạ Hậu, gọi là Thuần Duy. Trước thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, có Sơn Tuấn, Hiển Doãn, Hồn Châu… sinh sống ở Bắc Nam, di chuyển theo sự chăn nuôi gia súc. Số lượng gia súc của họ phần lớn là ngựa, bò, dê, một số gia súc đặc thù như lạc đà, lừa… Họ tìm đến những nơi có nước và cỏ, do vậy thường xuyên di chuyển. Không có thành quách và nơi ở cũng như vùng đất nông nghiệp nhất định, nhưng cũng có những khu đất không có văn tự thư tịch, dùng ngôn ngữ làmước thúc. Trẻ con biết cưỡi dê, bắn chimthú, lớn một chút có thể săn bắn cáo, thỏ làmthức ăn. Đàn ông của họ đều biết bắn cung, cưỡi ngựa. Tập tục của họ là: bình thường vô sự, thì theo đàn gia súc, lấy việc săn bắn để duy trì cuộc sống; gặp tình hình nguy cấp, mọi người đều tập luyện binh sĩ, dàn trận, đi xâm lược người khác là thiên tính của họ. Binh khí mà họ thường dùng là cung tên, binh khí ngắn là dao kiếm, mâu, thuẫn. Khi tác chiến, nếu thuận lợi thì tiến công, không lợi thì rút lui, bỏ chạy không cho là nhục. Chỉ cốt có lợi, không để ý đến lễ tiết. Từ vua cho đến thường dân, ai cũng ăn thịt súc vật mặc áo da thú, khoác chăn lông. Thanh niên khoẻ mạnh được ăn thức ăn ngon, người già ăn những thức dư thừa. Họ coi trọng trai tráng khoẻ mạnh, coi thường người già cả yếu đuối. Bố chết, con có thể lấy mẹ kế làmvợ; anh emchết, anh em của người đó có thể lấy vợ cảu người chết làm vợ mình. Tập tục của họ là mỗi người đều có tên, không kiêng kị, lại không có họ và chữ… Phóng tầm mắt ra xa trên bình nguyệ trải rộng bao la, Lã Bất Vi thấy có những túp lều nho nhỏ tựa như những hạt đậu được vãi ra tứ phía. Hai con ngựa phi lên phía trước mặt cho từng đợt gió táp, những túp lều nhỏ mỗi lúc một rõ nét và trở nên to hơn. Lã Bất Vi nhìn rõ trước mặt chàng có nămtúp lều vải, trong đó một lều trướng cao và to hơn hẳn những lều khác, trên vải lều có hình hoạ đẹp đẽ, trên đỉnh lều, một lá cờ đỏ thắmviền xanh đang tung bay trong gió. Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn nhảy xuống ngựa, mở túi ra, dùng một thứ mực đen đựng trong túi xoa lên mặt. Người Hung Nô quy định, sứ thần và khách thương người Hán nếu không theo phong tục mà bôi đen lên mặt sẽ không được phép vào nhà họ. Người biểu diễn rắn cho Lã Bất Vi hay, lều trướng lớn trước mặt là của Hữu Cốc Lãi Vương quan tước tương tự như Tể tướng cảu nước Vệ và bảo Lã Bất Vi cùng anh ta vào triều kiến ông ta. Người biểu diễn rắn bảo Lã Bất Vi đừng sợ, đã có anh ta nói giúp chàng. Hai bên cửa lều là hai tên lính lưng dắt dao, sau khi bẩmbáo, Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn được đưa vào trong. Khi tấmdạ trên cửa buông cũng là lúc mùi tanh khét ở đâu hầmhập bao lấy Lã Bất Vi, trong giây lát, Bất Vi cảmthấy lạnh toát sống lưng. Đây là lần đầu tiên đến Hung Nô. Trước mặt chàng giờ là một toán người đang ngồi trên một tấm thảm dạ, ở giữa là một người trông rất cao lớn vạm vỡ mình khoác da thú, hai bên là một vài vị quan thần và thê thiếp. Lã Bất Vi nghĩ, người này hẳn là Hữu Cốc Lãi Vương rồi. Người biểu diễn rắn quỳ lạy Hữu Cốc Lãi Vương theo nghi lễ của người Hung Nô, Lã Bất Vi cũng làm theo, quỳ xuống thảm. Lã Bất Vi nghe thấy người biểu diễn rắn dùng một thứ ngôn ngữ lai tạo giữa tiếng Hồ và tiếng Hán rất khó nói để bẩ, với Hữu Cốc Lãi Vương về mục đích chuyến đi của họ. Sau đó, người đã dùng tiếng Hồ trò chuyện cùng vị thủ lĩnh của người Hung Nô. Hai người nói chuyện say sưa, Hửu Cốc Lãi Vương cười phá lên khoái trá. Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn được một trưởng bộc có bộ râu quai nón đưa ra khỏi lều. Người biểu diễn rắn cho hay, chuyện làm ăn đã bàn bạc xong mười thước lụa sẽ đổi một con ngựa. Lã Bất Vi giao một nghìn thước lụa cho vị trưởng bộc này. Đổi lại chàng sẽ được nhốt trên một bãi đất bao quanh bởi hàng rào gỗ, trong đó những con ngựa đang hý vang ầm ĩ như một dàn đồng ca, màu lông sặc sỡ như một bức tranh dưới hoàng hôn tuyệt đẹp. Vị trưởng bộc mời Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn kiểmtra những con ngựa. Lã Bất Vi đếm nhanh, nhưng cứ đếm chưa được hơn mười con thì lại bị những con khác nhảy nhót xung quanh làm hoa cả mắt, đếm không nổi. Người biểu diễn rắn nói, không cần phải đếm, hơn vài con thiếu vài con cũng chẳng sao, trâu ngựa đối với người Hung Nô cũng chỉ như gà vịt đối với chúng ta mà thôi. Bên cạnh chuồng ngựa có độc một chiếc lều, bên trong có giường đệm, thức ăn và bếp lửa. Vị trưởng bộc nói, nơi này được chuẩn bị cho những thương gia người Hán tới Hung Nô. Người biểu diễn rắn nói: “Sáng mai phải đưa hết số ngựa này đi, về đến chợ ở thành Hàm Dương rồi, chúng chỉ cần hý mấy tiếng thôi là lập tức đã biến thành tiền trong túi Lã đại thương gia rồi!” Đây là cấu nói dài nhất, hài hước nhất mà người biểu diễn rắn thần bí, khó hiểu nói với Lã Bất Vi trên suốt chặng đường dài nghìn dặm mà hai người cùng đi bên nhau. Trên mảnh đất hoang vu giữa cái lạnh tê tái của trời đất Lã Bất Vi chợt nghĩ: vận mệnh con người, chớp mắt vạn biến. Việc mà mới đây thôi còn tưởng là chỉ biết nhìn mà tiếc, không với tay nổi thì trong chốc lát, tựa hồ như trăm nghìn đoá sen chợt nở bừng trước mắt ta! Nửa tháng trước đây, chuyện đổi lụa lấy ngựa đối với ta vẫn còn rất lờ mờ, không rõ nét, vậy mà bây giờ thì sao? Ôi, một món tiền lớn đã ở gần trong tầmtay rồi, thật dễ như trở bàn tay vậy! Ở nơi thảo nguyên mênh mang, khoáng đạt này, màn đêm buông xuống nhanh hơn ở thành Bộc Dương. Khi mặt trời vừa lặn, trời vẫn còn hơi sáng, nhưng rồi sau đó, rất nhanh, ánh hoàng hôn lẫn sắc thần bí ùa xuống bao phủ bốn xung quanh những túp lều. Từng cơn gió tây thổi rào rào, tựa hồ như những cô thiếu nữ xấu hổ, chỉ khẽ làm lay động cỏ cây vàng khô bên ngoài lều trướng, tạo nên những âm thanh trống trải và xa xôi. Lúc đi ngủ, người biểu diễn rắn thái độ rất lạ ra hiệu cho Lã Bất Vi rằng, đêm ở đất Hung Nô này có thể có những hiểm nguy khó lường, và anh ta thì thầm: “Chúng ta mặc áo vào nhưng phải nằm dưới gầm giường”. Sau này Lã Bất Vi nhớ lại, đêm ấy, chàng đã bị đánh thức. Có hai vệt lửa quét sáng trong lều rồi tắt ngay. Sau đó chàng nghe thầy có tiếng Hung Nô loáng thoáng chen lẫn tiếng gió. Chàng nín thở hồi lâu, rồi một cánh tay kéo chàng ra khỏi gầmgiường. Trong bóng tối đen như mực, Lã Bất Vi nghe thấy giọng nói run run của người biểu diễn rắn: “Có người muốn giết chúng ta, chúng ta phải đi mau thôi”. Bên ngoài lều tối mù mịt. Dưới ánh sao yếu ớt, Lã Bất Vi nhìn thấy một lưỡi dao trắng đang lay động trông như một con rắn, thanh kiếm sắc trong tay người biểu diễn rắn càng làm cho chàng cảm thấy dường như sắp có một trận quyết tử diễn ra. Đằng xa, có hai quầng lửa soisáng cả một khoảng tối. Hai kẻ Hung Nô tay cầmđuốc, tay cầmdao tìmkiếm. Người biểu diễn rắn nhẹ nhàng không một tiếng động tiến lại sau lưng chúng, chỉ kịp nghe thấy hai tiếng kêu khô khốc “Ai a”, “Ai a”, rồi hai bó đuốc rơi xuống đất. Lã Bất Vi kinh hãi nghĩ: “Có lẽ anh ta đã giết chết cả hai tên rồi”. Người biểu diễn rắn đang lật giở quần áo của hai tên Hung Nô đã hồn lìa khỏi xác, Lã Bất Vi vội vàng lao tới nói: “Tìmgì vậy? Chúng ta mau chạy thôi!” “Tù và” Người biểu diễn rắn có lẽ đã tìmthấy, đứng dậy nói với Lã Bất Vi: “Công tử cưỡi ngựa của tôi, tôi cưỡi ngựa trong chuồng, mau!” Lã Bất Vi dắt con ngựa màu đỏ thẫm đang buộc ngoài lều, người biểu diễn rắn mở cửa chuồng ngựa, phóng mình nhảy lên lưng con ngựa lao ra trước, nói với Lã Bất Vi: “Chạy nhanh theo tôi, kiểu gì cũng phải ghìmđược cương ngựa cho chắc!” Hai con ngựa lao đi trong đêm tối. Người biểu diễn rắn thổi tù và, những tiếng “tu…tu…tu…” giục gọi hơn một trăm con ngựa trong chuồng cùng lao ra vùn vụt. Lã Bất Vi nắm chặt bờm ngựa, người tung lên tung xuống. Lúc đầu chàng còn nghe thấy tiếng gió thổi vun vút, sau đó chỉ còn tiếng vó ngựa rầmrập tựa tiếng gió thét mưa gào làmrung chuyển mặt đất. Màn đêmdày đặc vùng hàn bắc dần lùi lại sau lưng họ… Hai cánh cửa lớn hai thành Hàm Dương của nước Triệu vốn đã bị thời gian làm cho phai màu đỏ thẫm, giờ trước dòng cuộn chảy của hơn một trăm con ngựa tiền hô hậu ủng dường như đã trở nên chật chội. Bụi cuốn dưới vó ngựa tựa như một lớp mây mù dày đặc phủ trên nóc nhà. Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn đang gò mình trên lưng ngựa trong lớp gió bụi như đang cưỡi mây vờn sương vậy. Mọi người nhìn thấy một đội quân người ngựa lao tới vùn vụt như giông bão kéo đến trước cơn mưa đều vội vàng nhường đường. HàmĐan là đô thành nổi tiếng từ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Theo sự giải thích của chú giả Trương Yến trong cuốn “Hán thư” thì Hàm, là tên núi; Đơn, nghĩa là tận cùng. Bởi lẽ núi Hàm cao vô cùng tận cho nên được gọi là Hàm Đơn. Thành bắt nguồn từ ấp, bởi vậy thêm chữ ấp vào chữ “Đơn” thành chữ “Đan”. Mảnh đất người đông vật nhiều này, phố phường chằng chịt, xóm ngõ giăng giăng. Đi men theo các đường phố dọc ngang, hai bên đường lần lượt hiện ra rất nhiều nơi buôn bán, nào là các cửa hiệu cờ bay phấp phới, nào là các quán trà, tiệm ăn, tiệm rượu. Cách một đoạn phố lại xuất hiện một lầu các cao vút có vọng lâu với rường cột chạm trổ, thoáng nhìn biết ngay là một nhà dòng dõi trâm anh thế phiệt. Trên phố người đi lại như mắc cửi, thỉnh thoảng lại có xe ngựa lộng lẫy của một bậc vương hầu khanh tướng nào đó hoặc những chiếc xe có đính tua cờ của các tiểu thư đi qua, quả là “xe ngọc ngà của bậc vương hầu tấp nập lại qua, dây cương vàng của bậc khanh tướng rộn ràng lui tới”. Còn có biết bao thiếu nữ xinh đẹp, cổ đeo vòng ngọc, xiêm áo thanh thoát, gương mặt thắm hồng. Ngoài ra còn có một vài người mặc trang phục của người Hung Nô, đây là vết tích của chủ trương “Hồ phục kỳ lạ” do Triệu Linh Vương từng khởi xướng. Ngồi trên lưng ngựa, Lã Bất Vi không biết nên nhìn ngắm gì trước biết bao cảnh đẹp của một đô thành phồn hoa thịnh vượng như thế này. Khi chàng và người biểu diễn rắn dẫn đoàn ngựa tiến vào cổng chợ, Bất Vi càng cảm thấy hoa mắt trước bao nhiêu là thứ đẹp. Được bày bán có ngọc trân châu, lụa là gấm vóc, rồi giày da, đồ gốm, dao găm, xe ngựa. Người bán người mua chen chúc, tiếng mời gọi vang lên rộn ràng. Người đi không có chỗ vòng lại, ngựa xe chẳng có chỗ quay đầu. Hơn một trăm con ngựa của Lã Bất Vi chả mấy chốc bán hết. Bất Vi cùng người biểu diễn rắn tìm một nhà trọ loại hảo hạng để nghỉ ngơi, tính ra được lãi trọn hai trăm dật vàng. Lã Bất Vi chia đôi số vàng đưa cho người biểu diễn rắn một nửa, anh ta nói đưa cho anh ta quá nhiều, anh ta lại chẳng phải bỏ vốn nên kiên quyết không nhận. Lã Bất Vi cau mày nói, nếu đại ca từ chối không nhận, hẳn là chê kẻ tiểu đệ đền ơn không xứng chăng? Lần này đi lên vùng đất của người Hồ ở miền Bắc, may mà có đại ca dẫn đường chỉ lối, chuyển nguy thành an, nếu không, đừng có nói là hai trăm dật vàng chứ đến hai mươi dật cũng không kiếm nổi. Tiểu đệ nhận một trăm dật, cũng cảm thấy hổ thẹn vô cùng! Người biểu diễn rắn thấy Lã Bất Vi không phải hạng người thamlamgian xảo nên cũng không từ chối nữa! Lã Bất Vi dặn chủ quán cẩn thận làm mấy món ăn thơm phức, mua một hũ rượu, muốn cùng người biểu diễn rắn nâng ly chúc mừng, uống cho thoả sức. Rượu thịt đã được mấy hồi, Lã Bất Vi và người biểu diễn rắn đều đã ngà ngà say. Lã Bất Vi không úp mở nói thẳng những lời bấy lâu nay vẫn giấu trong lòng: “Huynh đệ sống chết có nhau đã được hơn một tháng. Đệ thấy huynh là bậc quân tử hiệp nghĩa, trung dũng, đệ cũng chẳng phải kẻ tiểu nhân thamtiền vô đạo, huynh đệ chúng ta cũng coi như là duyên phận trời ban, tâmđầu ý hợp. Nhưng, quý tính đại danh, xuất xứ lai lịch của đại huynh ra sao, đối với đệ vẫn là điều bí ẩn, điều này khiến cho tiểu đệ suy nghĩ, day dứt”. Người biểu diễn rắn vẫn lặng thinh không nói. Lã Bất Vi hỏi: “Huynh tên họ là gì?” Người biểu diễn rắn đáp: “Người biểu diễn rắn”. Lã Bất Vi nổi giận: “Đệ không hiểu, tạisao huynh lại phải giấu kín tên họ của mình?” Người biểu diễn rắn đỏ mặt tía tai nói: “Bởi vì ta là kẻ đã thả rắn trong cung của Vệ Nguyên Quân cắn chết công tử Nộ Khiên, có lẽ Vệ Nguyên Quân giờ đang sai thích khách đến các nước chư hầu truy bắt ta!” Thì ra vụ án mạng mà dân chúng đang bàn tán xôn xao xảy ra ngay chốn hoàng cung lại do người biểu diễn rắn thâm trầm ít nói đang đứng trước mặt chàng đây gây ra. Lã Bất Vi hỏi: “Huynh và Vệ Nguyên Quân có thù oán gì?” Người biểu diễn rắn nói:”Kể ra thì dài lắm! Công tử có biết cũng chẳng để làm gì! Lời của bậc quân vương mới đáng giá nghìn vàng, quân vương đâu có thể là kẻ gian xảo, vô đạo, cạn nghĩa được! Tôi có một bảo vật, có thể sẽ giúp ích cho việc buôn bán của công tử. Ớ phía tây bắc nước Tề có một thái ấp nhỏ, nhà tôi ở đó. Trong vườn tử có một cây thân cong, dưới cây này có chôn bảo vật đó, công tử hãy đi đào lấy nó”. Người biểu diễn rắn nói xong, vòng tay chào từ biệt Lã Bất Vi. Lã Bất Vi lưu luyến rơi lệ hỏi: “Đại huynh đi thế này, chẳng biết về phương nào, huynh đệ còn có cơ họi gặp lại không?” Người biểu diễn rắn cảm động mà rằng: “Bốn bể là nhà, giang hồ phiêu bạt. Bao giờ được gặp lại nhau, còn phải xem chúng ta có duyên phận không đã!” Lã Bất Vi tiễn người biểu diễn rắn ra cửa lữ điếm, nhìn theo cái bóng đơn độc cho đến khi đã chìm vào dòng người qua lại mới quay gót về phòng. Lòng chàng chợt cảm thấy hơi hối hận, nếu chàng không cố tình căn vặn tên họ thân thế của người biểu diễn rắn thì anh ta hẳn sẽ không bất đắc dĩ mà nói chuyện thả rắn cắn chết công tử Nộ Khiên. Có lẽ anh ta thấy hối hận vì đã nói ra, sợ bị sát hại, vội vàng bỏ đi. Lã Bất Vi tự quyết với lòng rằng, rồi sẽ có một ngày, chàng sẽ trở thành một thương gia ở cái thành HàmĐan này. Về tới nhà, Lã Bất Vi đem câu chuyện chàng mạo hiểm đi đến Hồ Đại bắc hàn làm ăn kể cho cha mẹ nghe, không quên thêm đôi ba chi tiết cho sinh động. Hai vịsong thân nghe mà giật mình kinh sợ. Nghe xong, cả hai nhìn Lã Bất Vi với một ánh mắt lạ lùng. Có lẽ nào chàng trai râu ria đã mọc lởm chởm đầy mặt kia lại là con trai của họ? Đây chính là đứa con đã bất chấp hiểm nguy, đùa giỡn cái chết đến tận vùng Hồ Địa của họ đó sao? Ánh mắt hiền từ không rời khỏi khuôn mặt, niềm tự hào dâng tràn trong lòng họ: “Đây đích thực là con trai Lã Bất Vi của chúng ta rồi!” Tiếc là họ không được gặp mặt người biểu diễn rắn tốt bụng ấy. Bảo vật của người biểu diễn rắn rốt cục là cái gì? Chắc chắn nó phải kích thích sự tò mò ghê gớm nên mới khiến cho Lã Bất Vi quyết băng ngàn dặmđường đến nơi thành ấp nước Tề. Khi đến nơi rồi, họ cảm thấy đây là một mảnh đất thần bí. Khi đã đặt chân vào vườn tử, Lã Bất Vi không lập tức chạy tới gốc cây thân cong để đào bới tìm kiếm mà đưa mắt nhìn khắp quang cảnh đổ nát, từng đống gạch ngói ngổn ngang - hậu quả cảu ngọn lửa chiến. Lã Bất Vi cản thấy, nơi đây, khi loạn lạc chưa xảy ra, cũng là nơi ở của một gia đình giàu sang có địa vị. Giữa cảnh hoang tàn này, có mấy con chim lông cánh sặc sỡ nhìn thấy Lã Bất Vi tới liền cất giọng hót vang khắp nơi rồi bay đi. Lã Bất Vi dõi nhìn đàn chim dần bay xa, thầm nghĩ: “Chủ nhân ngôi nhà nay liệu có được bình an vô sự như những con chim này không, có tìmđược nơi khác nương thân không?” Nghĩ đến đây, chợt Lã Bất Vi đoán rằng, nhất định trong đó chủ nhân của ngôi nhà này có một người là người ấy! Lã Bất Vi là người đầu tiên xắn tay áo dùng chiếc xẻng sắt sắc nhọn đào xuống lớp đất sét mềmdưới gốc cây tử thân cong, lòng chàng chợt run lên hồi hộp: một lát nữa thôi, ở đây sẽ lộ ra ngọc ngà châu báu, hay tiền đồng tiền bạc, hay là vô số tơ lụa?… Lã Bất Vi thấy mấy người cùng đến với mình thi nhau đào bới. Lộ dưới lớp đất đầu tiên là mấy cái hộp miệng nhỏ bụng phìng to, miệng bịt bằng da thú. Lã Bất Vi bóc miếng da thú, lấy ở trong ra một quyển sách. Bên trong mấy cái hộp còn lại cũng đều là những thẻ tre. Lã Bất Vi sai người nhấc những cái hộp để sang một bên, tiếp tục đào bới sâu rộng dưới tán cây tử cành lá lưa thưa. Đất bùn ẩm ướt dưới gốc cây chất dần thành gò. Chẳng có gì ngoài những con giun đỏ hỏn. Mọi người mồ hôi đầmđìa, có người ngồi thở hổn hển. Lã Bất Vi ngồi nghỉ tại đó, trong lòng nghĩ: “Hay là chúng ta đào không đúng chỗ?” Ông căng mắt nhìn xung quanh chỉ có chỗ này có mấy cây tử và chỉ có cây này chếch ngọn. Hay là đào chưa tới nơi? Người biểu diễn rắn nói với mình, đây là vật quý mình có thể dùng cả đời không hết, nó nhất định có giá trị rất lớn. Là vật có giá trị như vậy, ông ta càng không thể chôn một cách qua loa đại khái được. Huống hồ, ở đây lại không có người canh giữ, nên phải chôn thật sâu. Tục ngữ nói, đào sâu ba thốn, bây giờ cũng không còn kém bao nhiêu nữa! Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi lại ra lệnh cho mọi người đào tiếp. Càng đào xuống dưới, lượng nước trong đất càng lớn, giày cũng bị nước ướt sũng. Đào một chập nữa, chân của mọi người đều sũng dưới bùn đất. Nhìn thấy đất bùn đen nhão, Lã Bất Vi nghĩ: người biểu diễn rắn này có lừa dối mình không? Xem anh ta xương cốt cứng cỏi, mi mắt ngay ngắn. Không thể giảo quyệt đưa mình chui vào bẫy. Anh ta có thể hứng lên mà nói vậy thôi, lấy câu chuyện làm quà. Hai người không quen biết gặp nhau, người ta dựa vào cái gì mà tặng những thứ quý giá cho mình. Lã Bất Vi nghĩ đi nghĩ lại, cho rằng người biểu diễn rắn chỉ thuận miệng nói ra mà thôi. Ông nhìn những người phía trước mình mẩy đầy đất và mồ hôi, giống như những con rắn vừa chui ở trong hang ra, bị người biểu diễn rắn làmtrò chơi. Lã Bất Vi nghĩ đến đây, vung tay nói: “Đừng đào nữa”. Mấy người từ trong hố đất sâu rộng mệt mỏi chui lên. Chàng bảo mọi người nghỉ ngơi một lát, sau đó về Bộc Dương. Lã Bất Vi ngồi đó hết sức chán ngán, thò tay vào trong hộp lấy ra một tấm thẻ tre tiện tay lật xem, giở đi giở lại. Lã Bất Vi như bừng tỉnh: “Người biểu diễn rắn nói muốn tặng mình vật quý vô giá dùng cả đời không hết, chính là bộ sách này đây!” Bộ sách này có tên là “Kế Nhiên”. Lã Bất Vi nhớ khi còn đi học nghe thầy giáo giảng qua. Kế Nhiên… bảy thiên, Phạm Lãi mới dùng năm thiên đã khiến cho người nước Việt hưng thịnh, xưng bá Trung Nguyên. Sau này Phạm Lãi từ quan đi buôn, vận dụng sách “Kế Nhiên” trở thành người giàu có ức triệu. Mãi về sau này, Lã Bất Vi hết lòng hâm mộ quyển sách này, nhưng chưa được đọc qua. Không ngờ, hômnay vô tình lại được nó ở đây. Người soạn sách “Kế Nhiên” chính là Kế Nhiên trong “Ý LÂM” của Mã Thông viết: Kế Nhiên, người Khâu Bồ Thượng đất Thái, họ Tân Thị, tự văn Tử, vốn là công tử nước Tấn. Sau nam du xuống nước Việt, Phạm Lãi theo học. “Kế Nhiên” là một bộ trước tác bao quát muôn vật, kế sách dân giàu nước mạnh. Tư Mã Thiên trong “Sử Ký Hoá Thực Liệt Truyện” viết: Trước kia Việt vương Câu Tiễn bị khốn trên núi Hội Kê mới sử dụng Phạm Lãi, Kế Nhiên. Kế Nhiên nói: “Biết sẽ đánh nhau thì phải chuẩn bị chiến tranh, biết mùa vụ của hàng hoá và nhu cầu của mọi người mới được coi là biết hàng hoá. Nắmvững quan hệ giữa mùa vụ với nhu cầu, tình hình cung cấp và nhu cầu hàng hoá trong thiên hạ thì có thể thấy được rõ ràng. Nămở hành “Kim” thì được mùa, ở hành “Thuỷ” thì mất mùa, ở hành “Mộc” sẽ mất mùa, khó khăn, ở hành “Hỏa” sẽ khô hạn. Khi trời hạn thì phải chuẩn bị thuyền, khi ngập lụt phải lo chuẩn bị xe. Đây là nắm vững đạo biến hoá của vạn vật. Thông thường cứ sáu nămmột lần được mùa, sáu nămmột lần hạn hán, mười hai nămcó nạn đói lớn. Thóc gạo bán ra mỗi đấu giá hai mươi tiền, nông dân chịu thiệt; mỗi đấu giá chín mươi tiền, người làm nghề thủ công, buôn bán sẽ chịu thiệt. Người làm nghề công thương bị tổn thất, ruộng sẽ bỏ hoang, không ai đi khai khẩn. Đo đó giá ngũ cốc cao nhất cũng không được quá tám mươi tiền, thấp nhất không thể dưới ba mươi tiền, như vậy công, nông, thương đều có lợi. Giá ngũ cốc bán ra cũng có sự điều chỉnh với giá các mặt hàng khác. Thu thuế chặt chẽ và cung cấp thị trường đều không thể thiếu. Đây là đạo lý trị quốc. Ngay như tích luỹ hàng hoá, cần phải tích trữ chắc chắn, có thể để được lâu dài, để tiêu thụ, mới không lo lỗ vốn. Trong buôn bán, hàng hoá dễ hư hỏng thì không nên tích trữ chờ giá. Nghiên cứu hàng hoá dư thừa hay thiếu thốn thì biết được xu hướng gái cả của hàng hoá. Giá cao đến đỉnh điểmthìsẽ hạ, giá thấp đến kịch điểm thì sẽ tăng. Khi giá cả tăng đến điểm cao nhất thì phải đem hàng hoá tích trữ ra bán ngay, khi giá hành thấp nhất thì phải nhanh chóng thu mua vào. Phải để cho đồng tiền chu chuyển giống như dòng nước chảy không ngừng.” Việt Vương Câu Tiễn theo sách lược của Kế Nhiên thực thi trong mười năm, đất nước cường thịnh, dùng tiền bạc đi mua quân sĩ, các chiến sĩ xung phong lâm trận, không sợ tên đạn, giống như khi khát muốn uống nước, Việt Vương rút cục đã báo được thù, tiêu diệt nước Ngô hùng mạnh. Sau đó lại dẫn quân lên phía bắc vào Trung Nguyên, thị uy chư hầu, xưng là một trong ngũ bá thời Xuân Thu. Sau khi Phạm Lãi giúp nước Việt rửa sạch mối nhục ở núi Hội Khê, thở dài nói: “Sách lược của Kế Nhiên có bảy điều, nước Việt mới dùng năm điều đã báo được thù. Sách lược đó trong trị quốc rất hữu hiệu, ta phải dùng nó trị gia”. Vậy là làm một chiếc thuyền nhỏ vượt sông lớn, thay tên đổi họ. Đến nước Tề, tự gọi là: “Xích Di Từ Bì”; đến đào ấp gọi là “Chu Công”. Chu Công cho rằng đào ấp là trung tâm của thiên hạ, thông với các nước chư hầu, là yếu địa trong giao dịch hàng hoá, ông liền đặt mua sản nghiệp, tích trữ hàng hoá, tuỳ cơ ứng biến, không khắt khe với mọi người - Sở dĩ giỏi về kinh doanh sản nghiệp, biết dùng người tài, lại nắmvững thời cơ. Trong mười chín năm, ba lần kiếm được cả ngàn vàng, hai lần phân tán tài sản cho bạn bè khó Khăn và các huynh đệ ở xa. Đây chính là khi giàu có thì thực thi ân đức, sau khi PhạmLãi già yếu, giao cho con cháu nắmgiữ cơ nghiệp, con cháu kế thừa sự nghiệp của ông, không ngừng phát đạt, cho tới khi già yếu lên tới triệu lạng vàng. Do đó, khi nói đến phú hào, mọi người đều nhắc đến Chu Công. Lã Bất Vi như vật được chi bảo, bê bộ “Kế Nhiên” đã đem đến cho ông biết bao sự tin tưởng và bí quyết về Bồ Nương. Sự vui sướng của thành công ban đầu đã đem đến cho vị thương nhân trẻ tuổi lần đầu bước chân vào sự sinh nhai mạo hiểm một sự phấn khích và cổ vũ to lớn. Lã Bất Vi mong muốn được gặp Hoàng Phủ Kiều, kể cho người con gái đã khiến ông xao xuyến từ lâu này quá trình buôn ngựa mang đầy màu sắc thần bí, kể về người biểu diễn rắn đối với ông ân trọng như núi nhưng bây giờ không biết ở đâu, lại cho nàng xem bộ sách dày kể những chuyện về buôn bán này, cuối cùng sẽ trao tặng nàng những vàng bạc tế nhuyễn đã mua cho nàng ở Hàm Đan. Hoàng Phủ Kiều sẽ đưa ánh mắt say sưa, đầy vẻ phấn khích nhìn mình, và không ngừng kêu lên: “Chà, nguy hiểm thế!”… Khi nàng trông thấy những món quà hậu hĩnh mà chàng mang về, nàng sẽ càng vuisướng và… Nghĩ tới những điều này, Lã Bất Vi thấy trái tim mình rạo rực. Chỉ có điều chàng muốn những điều này sẽ diễn ra tại nhà mình. Chàng nghĩ: hay là mời Hoàng Phủ cô nương đến nhà, vừa thân mật lại thuận tiện, như vậy hai ngườisẽ không có cảmgiác không tự nhiên thoải mái như ở nhà Phùng Quân Uý. Chàng có thể khua chân múa tay, có thể thoải mái bộc bạch… Lã Bất Vi ôm ấp giấc mộng đẹp này trong suốt lúc đi dạo trong buổi chiều tà. Lã Bất Vi nhìn lên nền trời phía tây rộng lớn, những đám mây hình thù kỳ lạ, nhiều màu sắc, có cả hình long li quy phượng. Lã Bất Vi phấn chấn, rảo bước nhanh hơn trong ngõ nhỏ đang nhập nhoạng tối. Đã có kế sách để làmgiàu, hơn lúc nào hết Lã Bất Vi càng khao khát thứ tình cảmngọt ngào với một người con gái. Lã Bất Vi cùng Hoàng Phủ Kiều vai kề vai thong dong bước bên nhau. Hoàng Phủ Kiều hômnay trang điểmrất kỹ lưỡng, hương thơm từ nàng toả ra khiến Lã Bất Vi thấy lòng xao xuyến, mơ màng. Chưa bao giờ chàng có cảmgiác gần gụi với một người con gái như thế này, gần đến mức chàng cảmnhận được cả hơi thở lẫn nhịp timcủa nàng. Bất Vi lắng nghe Hoàng Phủ Kiều nói, chàng cảmnhận được sự lo âu tận đáy lòng qua giọng nói run rẩy của nàng. “Lần này chàng đi biệt hơn hai mươi ngày, thiếp quả vô cùng lo lắng” “Ta và người biểu diễn rắn ấy đều cưỡi ngựa, nếu đi bộ thì phải mất đến một nămrưỡi ấy chứ”. “Gặp bọn Hung nô ấy, chàng có sợ không?” “Sợ chứ, bọn chúng kẻ nào cũng cao to vạm vỡ, tanh hôi khủng khiếp. Khi ta và gã thích khách vào được hang ổ của Hữu Cốc Lãi Vương, ta thấy quân hung nô kẻ nào cũng dao gươm sáng loáng, mắt mũi trợn trừng. Người bình thường trông thấy ắt phải sợ đến hồn bay phách lạc, chẳng khác gì nơi hang hùm miệng cọp! Nhưng ta vẫn bình thản, không chút kinh hãi, đường hoàng tự tin tranh luận với chúng, đối đáp sắc sảo. Sau cùng, tất cả bọn chúng đều tròn mắt há miệng, ngoan ngoãn lặng im nghe ta nói. Lã Bất Vi cảm thấy những lời khoa trương tự mãn này của chàng, nói được cho Hoàng Phủ Kiều nghe, chàng thật hạnh phúc biết bao! Ánh trăng như dát bạc soi rọi bóng chàng và nàng bên nhau trên con đường mờ ảo. Bước chân vào sau cánh cửa nhà mờ tối, Lã Bất Vi chợt cất giọng run run khẽ gọi “Hoàng Phủ cô nương”! Chàng biết, ngay lúc này và chính tại đây, tất cả đã chín muồi đủ để Hoàng Phủ Kiều đáp lại tấm tình cảm mà chàng sẽ biểu lộ với nàng. Và quả vậy, Phủ Kiều lặng lẽ quay nghiêng sang phía Bất Vi. Chàng biết, giờ đây, đôi tay chàng đang sắp đón đợi một niềmhạnh phúc. Bất Vi giang tay ôm Hoàng Phủ Kiều vào lòng và cảm thấy bờ môi mình khao khát. Gương mặt Hoàng Phủ Kiều, từ sống mũi, nét môi đều nổi bật sáng rõ dưới ánh trăng. Bất Vi không kìm nổi lòng mình, áp khuôn mặt thô ráp bởi những sợi râu vào mặt Hoàng Phủ Kiều và đặt lên môi nàng một nụ hôn. Hai đôi môi nồng nàn gắn chặt vào nhau. Họ say đắmtrong nụ hôn đầu… Ánh đèn dầu soi tỏ tất cả căn phòng. Lã Bất Vi sau khi đã trấn tĩnh lại chậm rãi kể cho Hoàng Phủ Kiều nghe về quãng thời gian mà chàng đi buôn lụa kiểu “lũng đoạn” bất chấp bao khó khăn cực nhọc. Và đương nhiên, đối với Lã Bất Vi, anh chàng đã khổ luyện với văn chương thơ phú mười năm thì thêm thắt đôi lời khoa trương cho câu chuyện của mình thì không khó. Lã Bất Vi thấy Hoàng Phủ Kiều chăm chú lắng nghe, mắt mở to không chớp. Đến đoạn chàng đi tới vườn tử ở một thành ấp nghèo nọ, Bất Vi chợt cảm thấy dường như trống ngực Hoàng Phủ Kiều bỗng đập dồn dập, rồi nàng bật khóc, nức nở thành tiếng. Lã Bất Vi ngạc nhiên, imbặt hỏi Phủ Kiều: “Hoàng Phủ cô nương, có chuyện gì vậy?” Hoàng Phủ Kiều đứng dậy, bước tới bên cuốn sách “kế nhiên” đang mở, tay khẽ khàng vuốt nhẹ từng mặt trúc trơn láng, gọi: “Đại ca ơi, đại ca ơi!” Lã Bất Vi càng kinh ngạc không hiểu, hỏi: “Đại ca? Ai là đại ca của nàng?” Hoàng Phủ Kiều đáp: “Chính là người biểu diễn rắn ấy” Lã Bất Vi bán tín bán nghi hỏi: “Anh ta đích thực là đại ca của nàng ư?” Hoàng Phủ Kiều thổn thức kể: “Cái vườn tử nơi thành ấp nghèo nàn ấy chính là nhà thiếp. Thiếp còn nhớ ngày nhỏ thường cùng đại ca Hoàng Tử Nghĩa chơi đùa dưới cây tử thần cong ấy. Có một lần, anh ấy nhanh thoăn thoắt như khỉ leo lên trốn trên cây làm thiếp sợ phát khóc tìm kiếm khắp nơi… Bộ “kế nhiên” này là do một người bạn tên Tư Không Mã tặng đại ca thiếp bởi lẽ anh ấy vốn là người không hamhố chuyện buôn bán làmgiàu mà chỉ thích đao thương kiếmthuật, dạy chó luyện rắn… Lã Bất Vi áy náy: “Giá mà anh nàng không giấu tên giấu họ thì ta đã sớmgiúp được hai người đoàn tụ rồi”. Hoàng Phủ Kiều đáp: “Thiếp nghĩ, đại ca thiếp hẳn sẽ đi tìm Vệ Nguyên Quân báo thủ rửa hận, phanh xác, băm thây Nguyên Quần, con trai của hắn, thê thiếp của hắn làm trăm mảnh! Chúng tôi là gia tộc Hoàng Phủ, sống ở nước Tấn, ở cả nước Vệ, đại ca e liên luỵ đến họ và liên luỵ đến cả thiếp nữa!”. Lã Bất Vi hiểu ra gật đầu, cảmthấy thương cho hoàn cảnh của hai anh emHoàng Phủ Kiều. Hoàng Phủ Kiều hỏi: “Khi chia tay với chàng ở HàmĐa, đại ca không nóisẽ đi đâu ư?”. Lã Bất Vi đáp: “Ta cũng hỏi nhưng anh ấy chỉ bảo, bốn bể là nhà, phiêu bạt giang hồ”. “Thiếp phải đi tìmđại ca của thiếp” Hoàng Phủ Kiều quả quyết. Lã Bất Vi phát hiện, trong đôi mắt tuyệt đẹp của Hoàng Phủ Kiều ánh lên tia nhìn sắc nhọn mà chàng chưa từng bắt gặp. Lại một lần nữa, Lã Bất Vi lang thang giữa thành Hàm Đan tấp nập người xe để tìm kiếm Hoàng Phủ Kiều, những ngọn lạnh buốt làm tuyết trắng bay đầy trời mang đến cho đô thành của nước Triệu một mùa đông đáng nhớ. Khi mới nghe Hoàng Phủ Kiều nói: “Thiếp nhất định phải đi tìm đại ca của thiếp!” Lã Bất Vi cho rằng đó chỉ là lời nói gío bay của một nữ nhi dễ xúc động, đâu ngờ Hoàng Phủ Kiều lại nóisao làmvậy. Hômđó là buổi chiều sau khi Hoàng Phủ Kiều đã rời nhà chàng đi được 3 ngày, có một người nô bộc của Phùng Quân Uý hớt hải đến tìm chàng. Phùng Quân Uý gửi cho Lã Bất Vi một mảnh lụa bạc, trên đó là dòng chữ nhỏ nhắn nắn nót: “Con đi Hàm Đan đây”. Phùng Quân Uý vừa giận vừa thương người con gái nuôi đã ra đi mà không một lời từ biệt. Lã Bất Vi miện an ủi Phùng Quân Uý nhưng trong lòng chàng đang nghĩ đến cảnh người con gái một thân một mình lang thang trên từng con phố nhỏ nơi đô thành rộng lớn xa lạ với bao mối hiểmnguy. Lã Bất Vi biết rõ khắp đường phố ngõ ngách ở cái thành Hàm Đan đất rộng người đông này để hỏi một cô gái tên là Hoàng Phủ Kiều thì chẳng khác gì mò kim đáy bể. Mấy ngày trời đội mưa đội tuyết tìm kiếm mà dã tràng xe cát. Chàng vừa cảm phục ý chí người con gái trọng tình anh em, vừa giận hành động bướng bỉnh điên rồ của nàng khiến chàng phải lao tâmkhổ tứ như thế này. Có điều, Lã Bất Vi hoàn toàn chẳng thể ngờ rằng, chính bước chân tìm kiếm của chàng in dấu trên con đường phủ tuyết trắng đang dẫn chàng đến với một mảnh đất mới cho cái nghiệp làmthương nhân của chàng. Khi ta men theo dòng chảy thời gian, cùng bước chân của Lã Bất Vi trên con đường tìm kiếm kế sinh nhai, tìm kiếm những mốc đáng chú ý của lịch sử, ta rút ra kết luận Lã Bất Vi là kiểu thương nhân luân có khả năng có phát hiện mới cho công việc buôn bán của mình. Khi Lã Bất Vi đang ở HàmĐan thì nước Triệu xảy ra một sự kiện chính trị quan trọng. Chính sự kiện này đã khiến cho Bất Vi hiểu được thế nào là món lời kếch sù do một viên ngọc nhỏ đem lại. Sự kiện xảy ra ở nước Triệu chính là cuộc đấu tranh ngoại giao xung quanh viên ngọc - ngọc bích họ Hoà. Về lai lịch viên ngọc bích họ Hoà, “Hàn Phi Tử, Hoà Thị Bích”. Có viết như sau: trước kia có người nước Sở, tên là Biện Hoà, nhặt được ở núi KimSơn một viên ngọc quý vẫn chưa mài rũa mang hiến cho Sở Lệ Vương, Sở Lệ Vương sai người thợ ngọc xemthử, thợ ngọc nói là đá. Sở Vương cho rằng, Biện Hoà mang ngọc giả đến lừa dối mình, phán xử Biện Hoà tội hình, chặt của anh ta chân phải. Sau khi Lệ Vương chết, Sở Vũ Vương kế vị, Biện Hoà lại đem hiến viên ngọc, Vũ Vương sai thợ ngọc kiểm tra, thợ ngọc lại nói đây là một hòn đá, Vũ Vương lại chặt chân trái của Biện Hoà. Sau khi Sở Vũ Vương chết, Sở Văn Vương kế vị, Biện Hoà không dám mang ngọc đi tặng nữa mà ôm viên ngọc khóc ở núi Kinh Sơn ba ngày ba đêm, chảy khô cả nước mắt, chảy cả ra máu. Sở Văn Vương nghe được tin này cho người đến hỏi tạisao lại khóc thống thiết như vậy? Biện Hoà trả lời: “Tôi không phải bị chặt mất hai chân mà đau buồn. Tôi đau buồn vì tôi hiến ngọc cho đại vương rành rành là một viên ngọc quý, lại nói nó là đá; rõ ràng là kẻ trung thần thì lại nói là lừa dối. Đây là cái cớ vì sao tôi đau buồn!” Vậy là Sở Văn Vương đem cho người thợ mài ngọc rũa, quả là một viên bảo ngọc màu sắc loá mắt, trên đời chỉ có một. Gọi nó là Ngọc Bích họ Hoà. Thấm thoắt thoi đưa, đến năm 283 trước CN, Ngọc bích họ Hoà đã trở thành báu vật trong tay Huệ Văn Vương nước Triệu. Các nước chưa hầu và sứ thần của họ khi đến Hàm Đan đều yêu cầu Huệ Văn Vương mang Ngọc Bích họ Hoà cho họ xem, lấy làm no mắt. Phàm những ai đã xemqua viên ngọc này đều không ngớt lời ca tụng. Khi đó nước Tần đã trở thành một trong thất hùng thời Chiến Quốc. Tần Chiêu Tương Vương rất ao ước có được Ngọc Bích họ Hoà, vì vậy ông ta phái sứ giả mang quốc thư sang bái kiến Huệ Văn Vương nước Triệu, nói muốn đổi mười năm thành trì lấy viên ngọc đó. Huệ Văn Vương xem xong bức thư bèn cùng đại tướng quân anh dũng thiện chiến Liêm Pha cùng các đại thần bàn bạc, muốn đem Ngọc Bích họ Hoà mang sang nước Tần nhưng lại sợ Tần Vương bội tín không giao mười năm thành trì, sẽ bị lừa; nếu không đem viên ngọc sang Tần lại sợ bị Tần Vương đánh. Huệ Văn Vương cùng bá quan văn võ bàn bạc đi bàn bạc lại nhưng vẫn không đưa ra được một kế sách vẹn toàn. Trong khi đó, việc đồng ý hay không đồng ý đem viên ngọc đổi mười năm thành trì nước Tần cũng phải trả lời sớm. Chọn đi chọn lại cũng không tìm ra ai đi sứ nước Tần. Huệ Văn Vương vô cùng lo lắng. Chính lúc đó, quan Tổng quản Diệu Hiền tiến cử một người với Huệ Văn Vương: “Môn khách tại hạ có Lạn Tương Như trí dũng song toàn, tôi thấy để người đó đi sứ nước Tần là hợp lý nhất”. Huệ Văn Vương bèn cho triệu kiến Lạn Tương Như tại cung tấu Dương, Huệ Văn Vương nói: “Tần Vương muốn đổi viên Ngọc Bích họ Hoà lấy mười nămthành trì, ông thấy thế nào?” Lạn Tương Như thẳng thắn nói: “Nước Tần mạnh, nước Triệu yếu. Chúng ta không thể không đồng ý”. Huệ Văn Vương lo lắng hỏi: “Điều quả nhân lo lắng là nếu Tần Vương có được ngọc quý của quả nhân rồi lại không giao thành trì cho chúng ta nữa, lúc đó làm thế nào?”. Lạn Tương Như đã có chủ định sẵn nói: “Nước Tần dùng mười năm thành trì đổi lấy viên Ngọc Bích họ Hoà của nước Triệu, Triệu không đồng ý tức là Triệu đuối lý, Triệu đem ngọc bích sang Tần, Tần không trao mười năm thành trì cho Triệu, vậy thì nước Tần đuối lý. Hai cái này cái nào hay hơn? Tôi thấy đem viên Ngọc Bích họ Hoà sang nước Tần vẫn là thượng sách. Tôi phụng chỉ đi sứ, nếu quả thật nước Tần đem mười năm thành trì trả cho Triệu, tôi sẽ để viên ngọc lại Tần và đem bản đồ mười năm thành trì về; nếu Tần không giao mười nămthành trì, tôisẽ đemviên ngọc về nguyên vẹn”. Huệ Văn Vương thấy Lạn Tương Như nói năng trôi chảy, có chủ kiến liền phái ông làmsứ thần mang ngọc đisứ nước Tần. Tần Chiêu Vương triệu kiến Lạn Tương Như trong Chương Đài, Lạn Tương Như mang Ngọc Bích họ Hoà trình lên, Chiêu Tương Vương nhận lấy viên ngọc yêu thích không muốn rời tay, ngắm đi ngắm lại, rất vui sướng. Sau đó đưa cho bọn thị tì, cung nữ và ái thiếp xem. Mọi người đều vô cùng tán thưởng, đồng loạt chúc mừng TầnVương. Một mình Lạn Tương Như bị bỏ quên dưới điện, đứng đợi rất lâu không thấy Tần Vương nhắc tới chuyện giao cắt mười nămthành trì. Lạn Tương Như nghĩ: “Tần Vương quả nhiên muốn chiếm đoạt viên ngọc họ Hoà này”. Ông bèn nói với Tần Vương: “Trên viên ngọc có một chút vết, xin để tôi chỉ cho Đại Vương xem”. Tần Chiêu Vương đemviên ngọc đưa cho Lạn Tương Như nói: “Viên ngọc hoàn mĩ như thế này, sao quả nhân không thấy vết nứt của nó?” Lạn Tương Như nắm chặt viên ngọc, lui lại mấy bước, sát vào cây cột trong cung, phẫn nộ nói với Tần Vương: “Đại Vương muốn có được viên ngọc quý này, sai người đưa thư cho Triệu Vương tôi, Triệu Vương triệu tập bá quan văn võ bàn bạc, mọi người đều nói: “Nước Tần lòng tham vô đáy, dùng thế mạnh bức người, muốn dùng mấy lời nói suông để lừa bịp nước Triệu lấy viên ngọc”. Vậy nên sau khi bàn bạc không muốn đem viên ngọc này đi. Nhưng tôi cho rằng, dân thường khi giao kết với nhau còn biết giữ tín nghĩa, không đến nỗi lừa dối nhau, huống hồ đường đường là quân vương nước lớn! Và lại vì một viên ngọc mà để mất hoà khí với nước Tần, như thế không tốt. Triệu Vương nghe lời tôi, trai giới năm ngày, trên triều đình đích thân giao quốc thư cho tôi, sai tôi mang ngọc bích sang Tần. Đây là Triệu Vương tôn trọng uy vong của đại vương, biểu thị đặc biệt tôn kính! Giờ tôi đã đến quý quốc, Đại Vương không tiếp kiến tôi tại triều đình mà ở cung thất tầm thường, lễ tiết đơn giản, thái độ ngạo mạn còn đưa ngọc cho bọn mỹ nhân làm trò đùa với tôi. Tôi thấy ý Đại Vương không muốn giao cắt mười năm hành trì, muốn đoạt không lấy viên ngọc. Nếu Đại Vương nhất định muốn bức ép tôi, tôi tự nguyện mang cả đầu mình lẫn viên ngọc đập nát trước cây cột này”. Nói xong, Lạn Tương Như bê viên ngọc, nghiêng mắt nhìn cây cột, nộ khí bừng bừng, dường như sắp lao vào cây cột. Tần Chiêu Tương Vương vô cùng hoảng sợ, sợ rằng sẽ vỡ mất viên ngọc quý vội tạ tội với Lạn Tương Như, khuyên ông không nên làm như vậy. Lại giả nhân giả nghĩa sai người mang bản đồ đến, chỉ cho Lạn Tương Như xem, mười năm toà thành từ chỗ này tới chỗ này sẽ trả về Triệu. Lạn Tương Như biết Tần Vương lòng dạ gian trá, ông nói với vua Tần: “Ngọc Bích họ Hoà là vật báu trong thiên hạ, Triệu Vương tuy rất yêu quý nó nhưng sợ thế nước Tần mạnh nên không dám không hiến cho đại vương. Trước khi Triệu Vương giao viên ngọc này đã từng trai giới năm ngày, bây giờ Đại Vương cũng cần trai giới năm ngày, cử hành nghi lễ long trọng trong triều, khi đó tôi sẽ dâng viên ngọc lên Đại Vương”. Tần Chiêu Tương Vương không thể chiếmđoạt, đành phải đồng ý. Lạn Tương Như biết rằng, Tần Chiêu Tương Vương nhất định sẽ bội ước, đêm đó ông sai một tên tuỳ tùng mặt quần gai áo ngắn giả làmdân thường, bí mật đemviên ngọc họ Hoà trở về nước Triệu. Năm ngày sau, Tần Chiêu Tương Vương cử hành nghi lễ trọng thể tại Triều đình, chuẩn bị tiếp nhận viên ngọc. Lạn Tương Như hiên ngang đi vào triều, nói với Tần Vương: “Quý quốc từ Tần Mục Công đến nay, trước sau đã hai mươi mấy vị quân vương, chưa ai giữ tín bao giờ. Tôi cũng sợ bị đại vương lừa gạt cho nên đã sai người đem ngọc về Triệu. Tần là nước mạnh, Triệu là nước yếu. Chỉ cần nước Tần có thành ý đổi mười năm thành trì lấy ngọc thì hãy sai sứ thần sang Triệu, Triệu Vương không thể không đồng ý. Tôi biết đã lừa gạt Đại Vương, không coi trọng Đại Vương, xin Đại Vương cứ trị tội tôi!”. Tần Vương và các đại thần nghe xong nhìn nhau, vừa tức giận nhưng cũng không biết làmthế nào. Đành phải thả Lạn Tương Như về Triệu. Lạn Tương Như trở về. Vua Trịêu thấy ông là người có công đi sứ sang nước lân bang không để nhục quốc thể bèn phong ông là Thượng Đại Phu. Mặc dù cả ngày đi tìm kiếm trong xóm nhưng tối về tệ xá ông lại nghiền ngẫm chuyện Lạn Tương Như. Giá của một viên ngọc bằng mười nămtoà thành, là một vị thượng đại phu, là danh tiếng lưu truyền muôn thuở…Lã Bất Vi quyết định buôn bán vàng ngọc. Mấy đêm nay, dưới ánh sáng bập bùng của ngọn nến, với chất giọng trầm bổng, Lã Bất Vi ngâm lại bài thơ mà ông đã đọc trong Kinh Thi miêu tả về ngọc. Trong đêmkhuya thanh vắng ở HàmĐan, giọng ngâmthơ càng thêmsâu lắng, một cảnh tượng đẹp đẽ chiếu rọi lòng ông, nó làmnảy sinh những cảmgiác mãnh liệt với những viên ngọc lạnh lẽo kia. Nước sông Ki chảy bên trái Bên phải là đầu của con suối Chàng thiếu niên xinh đẹp Tiếng ngọc réo rắt vang Bốn con ngựa to khoẻ Cao lớn khí hiên ngang Hân Hầu vào triều kiến Dâng ngọc khuê làmquà Quỳ phục bái Chu Vương Thưởng cho người lễ vật bằng ngọc Người có Quốc Bảo phóng quang minh Đi đi, Quốc Cữu đang chinh chiến Giữ cho miền nammãi thanh bình. Ngâmxong, Lã Bất Vi lại nghĩ đến những thủ thuật cần phải có sau này khi buôn bán ngọc, nó khiến ông cả đêmkhông ngủ. Bản thân Lã Bất Vi rất cẩn thận, ít khi làm việc gì một cách phiêu lưu, thiếu suy nghĩ. Trong khi đi tìm Hoàng Phủ Kiều ở Hàm Đan, ông đã đến các tiệmchâu ngọc để khảo sát việc buôn bán. Đây là một tiệmhàng buôn bán vàng bạc lớn nhất thành HàmĐan. Những gì bày trí ở đây lộ rõ sự hưng thịnh của cửa hàng. Lã Bất Vi bước vào bên trong, màu sắc, ánh sáng của vàng bạc, ngọc ngà bao bọc ông, ông thấy như đang đứng giữa thiên thường với các cây cối toàn là vàng ngọc. Các loại ngọc được bày trí theo thứ tự, lấp lánh trong tủ, Lã Bất Vi thấy loá mắt. Sự bày trí, sắp xếp các loại ngọc chứng tỏ chủ tiệm là người rất sành sỏi trong kinh doanh. Dãy đầu là các loại ngọc dùng trong tế lễ như Khuê Bích, Hoàng Bích, chúng thường dùng làm vật làm tin và đem lại sự may mắn như khi vào triều kiến vua, minh ước, dẫn cưới, phúng viếng… Loại khác là vật trang sức như Quyết, Hoàng, Xuyến…Ngoài ra còn có một số loại ngọc khác. Có người đã mô tả thế giới ngọc mà Lã Bất Vi đã xemnhư sau: Hồng Bảo Thạch như ánh lửa đỏ rực, LamBảo Thạch như trời xanh biển biếc, Thạch Lưu Thạch màu vàng pha đỏ, ánh sáng rực rỡ, Thuỷ Tinh Thạch lung linh trong suốt, đá mắt mèo mai vàng xanh, Ngọc Dương chỉ trắng như tuyết, Trân Châu hạt nhỏ trong suốt, giống đẩu tinh đầy trời, Ngọc Phỉ Thuý màu xanh bích ngưng lại như muốn níu giữ mùa xuân, Mã Não màu sắc rực rỡ như bảy sắc cầu vồng, San Hô cành lá rậm rạp, giống cây quỳnh cành ngọc… nhìn những viên ngọc được chạmkhắc tinh tế, tỉ mỉ khiến ta liên tưởng tới: Ông Bàn Cổ khai thiên lập địa, vũ dũng dựng càn khôn. Nữ Oa luyện đá vá trời, nhi nữ vá trời xanh. Nghệ bắn cung chín mặt trời, chống hạn cứu muôn loài. Để giết Xuy Long, ngăn gió mưa, giết ác thú. ChimVệ ngậmđá lấp biển, nghĩa trùmbể đông. Na Tra nức tiếng anh hùng, bắt yêu long giết hà bá Thái Công câu cá, thần sắc thư nhà, chí ở ngàn dặm. Vũ Vương kéo xe, ôn tồn cung kính, lễ đãi hiền sĩ. Những ngọc phẩmnày hàmchứa những câu chuyện thần kỳ. Những truyền thuyết đẹp. Ngoài ra còn có công tử đisăn, ngự giả đánh xe, võ sĩ chinh chiến, nông dân đi cày, quý nhân vày nước, mĩ nhân dạo chơi, lưỡng long chầu mặt ngọc, tam dương khai thái, lồng ngọc gà vàng, du long hí phượng… Lã Bất Visau một lúc choáng ngợp, tươi cười đến bên người bán hàng trẻ tuổi, hỏi giá cả, nguồn gốc và tính chất của từng món hàng. Lã Bất Vi thấy chàng trai này mặt mũi thanh tú, khi nói chuyện gần gũi dễ gần. Trong tiếng ồn ào của người mua kẻ bán, Lã Bất Vi cố gắng thâu tómtất cả các lời lẽ mà người làmcông này nói. Theo Lã Bất Vi nó là kỹ xảo bán hàng. Lã Bất Vi chú ý nghe chàng trai nói về sự khác nhau giữa hai viên ngọc: viên chuyền ngọc này được làmra ở nước Ngô, loại ngọc này được tạo hình đẹp đẽ, mài mã tinh vi, đó là đồ ngự dụng trong cung đình nước Ngô. Đặc điểm cơ bản của loại ngọc hiện nay là hình rắn cuộn, chim muông và hoa văn mây tụ trên bề mặt. Ngọc cứng được chế tác dưới thời chu thiên tử thường thô ráp, phần lớn thường trang trí hình con quỳ. Lát sau chàng trai này lại chỉ cho Lã Bất Vi một bộ ngọc bội nói, tốt nhất là tiêu thụ một nhómngọc bộísáu chiếc, bán một bộ hai chiếc. Nghe người này nói năng rất lưu loát, trôi chảy, Lã Bất Vi trong lòng rất khâm phục. Lã Bất Vi nghĩ mình mở cửa hàng vàng bạc tiền vốn nhờ bán ngựa cũng tạm đủ, tính toán quản lý mình có thể tự lo. Bây giờ chỉ thiếu một người hiểu biết về ngọc, nếu thiếu điều này thì buôn bán khó mà phát đạt được. Nghĩ đến đây, trong đầu Lã Bất Vi nảy ra suy nghĩ: mời chàng trai này theo mình về Bồ Dương mở cửa hàng vàng bạc. Trong cửa hàng người ra vào đông đúc, hơn nữa vì có chủ tiệm ở đây nên không tiện nói ra lời này. Lã Bất Vi tin rằng, chỉ cần trả tiền công thật cao thì có thể mời chàng trai này về chỗ của mình. Đã đi làm thuê ai chẳng muốn kiếm được nhiều tiền; sau khi cảm ơn chàng trai, Lã Bất Vi mang những suy nghĩ của mình rời khỏi cửa hàng. Ông ngước nhìn mặt trời đang treo trên đỉnh đầu, biết giờ đóng cửa của cửa hàng còn lâu mới tới, ông liền đi lang thang trên phố, vào những cửa hàng khác thăm thú và nhân tiện kiếm tìm Hoàng Phủ Nghĩa. Mặt trời chếch về phía tây, Lã Bất Vi biết trời đã về chiều, ông bèn tới một góc khuất của tiệm vàng kia dõi mắt hướng về phía cửa hàng. Người mua thưa vắng dần, nhà hàng bắt đầu đóng cửa. Những người làm công từng tốp nhỏ vừa ra về vừa chuyện trò vui vẻ. Lã Bất Vi chăm chú tìm kiếm những nét quen thuộc của chàng thanh niên kia, ông như kẻ vô công rồi nghề nhìn theo những người làm tan vào trong ngõ vắng. Cuối cùng thì ông cũng nhận ra chàng thanh niên trên con đường tuyết ngập chân người. Tiếng bước chân của những người đi làm về đã xa dần. Lã Bất Vi và chàng trai. Kẻ trước người sau đi trên con đường đầy tuyết. Trời mỗi lúc một tối, khoảng cách giữa Lã Bất Vi và chàng trai càng lúc càng gần. Những áng mây chiều gom lại những tia sáng cuối cùng, trên nền trời, những vì sao bắt đầu lấp lánh. Chàng trai đã về đến nhà. Anh đẩy cánh cửa đi vào một gian nhà cỏ, Lã Bất Vi cũng lập tức vào theo. Người thanh niên đã sớm quên người khách trong cửa hàng ban ngày vì hàng ngày anh tiếp xúc với rất nhiều khách hàng, rất nhiều gương mặt mà anh đã gặp nhanh chóng trở nên xa lạ. Với vị khách không mời mà đến này, anh cảmthấy rất kinh ngạc. Với vẻ mặt hồ nghi, anh ta nói với Lã Bất Vi: “Tôi không biết ông là ai?”. Lã Bất Vi giới thiệu với anh ta về mình. Chàng trai hỏi: “Lã tiên sinh có việc gì cần tôi giúp đỡ chăng?” Lã Bất Vi nói rõ ý định của mình và khẩn thiết mong anh ta chấo nhận. Cuối cùng ông nói: “Tôi sẽ trả công cho anh cao”. Chàng trai nói: “Lã tiên sinh thật biết người, tôi là Triệu Khả Tín, là người ông có thể tin cậy, tôi đồng ý đi theo ông”. Một buổi sớm cuối đông đầu xuân, người dân Hàm Đan không để ý đến hai người sau khi rời khỏi thành, băng đi trong gió tuyết mịt mù. Không ai biết trước được rằng, một trong hai người đó sau này chính là người sẽ đem đến sự diệt vong cho nước Triệu của họ - Lã Bất Vi Trong cái lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông, Lã Bất Vi và cha mình là Lã Hâm ngồi nói chuyện với nhau về việc buôn bán ngọc. Có lẽ vì cái lạnh hay vì xúc động khiến cho những lời Lã Bất Vi nói thiếu đisự mạch lạc, Lã Bất Vi hỏi: “Làmruộng có thể thu lãi mấy lần?” Người cha nói: “Mười lần”. Lã Bất Vi lại hỏi: “Buôn bán vàng ngọc lãi bao nhiêu lần?” Lã Hâmnói: “Trămlần” Quả thực với việc buôn bán vàng ngọc sắp tới, trên đường đi, dưới sự giúp đỡ của Triệu Khả Tín, Lã Bất Vi đã suy đi tính lại nhiều lần. Sở dĩ ông bàn bạc lại với phụ thân là vì ông không muốn để cha buồn, cho ông là đứa con độc đoán. Thấy Lã Bất Vi không đưa được Hoàng Phủ Kiều về, Lã Hâm rất buồn rầu, uất hận. Vậy mà khi nghe kế hoạch buôn bán vàng ngọc quy mô mà Lã Bất Vi nói nỗi buồn hận trong ông đã vơi đi phần nào. Một thời gian sau, cửa hàng buôn bán vàng ngọc của Lã Bất Vi đã được khai trương trên một con phố đông người qua lại ở thành Bồ Dương, bên ngoài treo một tấm biển đem lại sự may mắn: “Long xướng quảng”. Lã Bất Vi mua được hàng với giá rẻ nhưng lại bán với giá cao, ông mua ngọc cũ của người trong thành, đem về chế tác lại sau đó bán ra. Ông còn đisang các mỏ vàng ngọc tại các nước chư hầu, mua về những món đồ hợp với nhu cầu của mọi người. Công việc của Lã Bất Vi ngày càng trở nên bận rộn, ông đi tìm mua ngọc khắp nơi, cứ ba ngày lại phải tính toán hàng hoá kiểm tra sổ sách. Trong con mắt của người dân Bồ Dương, người môn khách từng bị đại sư Vệ Hằng không nhận khi xưa, nay đang làm trò ảo thuật kiếm được tiền nhiều như nước, họ căng mắt nhìn tài sản của Lã Bất Vi đang đầy lên. Tất cả đã thay đổi cách nhìn với Lã Bất Vi. Cứ ba ngày lại có chiếc xe chở hòm to hòm nhỏ nặng nề dừng trước “Long xướng quảng”. Lã Bất Vi ra hiệu, chỉ trỏ cho những người làm của mình nhanh chóng vận chuyển vào trong. Chỉ ít lâu sau, người đến cửa hàng mua bán đông nghịt. Lã Bất Vi cũng thường dùng những kỹ xảo nhỏ khuyếch trương hàng hoá, ví như mua một món ngọc quý được tặng một gói trà sen thơ… phàm mua một bộ ngọc bội hai chiếc thì một chiếc chỉ bán một nửa giá; nếu không có tiền mặt thì cũng có thể đổi bằng lúa, gạo, đồ sứ, mai đồi mồi… Sau đó ông đem tất cả những hàng hoá đổi với giá thấp này bán ra với giá cao. Việc buôn bán ngọc quý của Lã Bất Vi không ngừng phát đạt, vậy mà ông vẫn cảm thấy chưa thoả mãn. Ông không phải hạng phú thương chỉ biết bo bo giữ của, ông có thamvọng dựa vào tiền bạc để làmchính trị. Lã Bất Vi đã chọn đất xây thêm một khu nhà mới, bên trong cùng là lầu son gác tía, chín khúc hồi lang rồi đến đó ở. Lã Bất Vi nhìn thấy ánh mắt khó chịu của chủ tơ lụa họ Tống đối với nhà mình. Cuộc sống hào hoa phú quý, áo lông, ngựa béo, mâm ngọc, sơn hào hải vị đã khiến ông vĩnh viễn từ biệt với cuộc sống quẫn bách và lạnh lẽo trước kia. Vị môn khách trước kia mà nhà Vệ Hằng không dùng thì giờ đây cũng đã có môn khách. Điều ông thấy buồn nhiều nhất là vàng bạc càng lúc càng nhiều thì thời gian trong tay mỗi lúc một ít. Mặc dù thời gian nhàn rỗi rất ít, ông vẫn tiếp tục nghiền ngẫm, nghiên cứu quyển “Kế nhiên”. Mỗi khi ngồi trước cuốn sách, Lã Bất Vi lại nghĩ tới người biểu diễn xiếc rắn Hoàng Phủ Nghĩa. Không biết bây giờ anh ta cùng con rắn của mình lăn lộn ở góc phố nào, biết đến bao giờ mới gặp lại vị hạo nhiên quân tử này? Mỗi khi đọc được một thiên “Kế nhiên…” Lã Bất Vi đều thấy được sức mạnh và tác dụng của sách vở. Từ sớm Lã Bất Vi đã manh nha ước vọng soạn sách, ông muốn cùng môn khách viết một bộ sách bao quát tất cả mọi sự vật trong thiên hạ, tập hợp mọi chước tác của bạch gia chư tử, lưu lại cho muôn đời sau. Chẳng phải đã có một bộ “Án Tử Xuân Thu” của học sĩ Nha Tử đã truyền tụng hay sao, ta cần phải viết một bộ sách như thế, sẽ lấy tên “Lã Thị Xuân Thu”. Ông thấy trong thời đại trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng này, có thể đưa ra được một giọng điệu riêng trong tư tưởng, cũng như một cuộc buôn bán vốn mỏng lãi lớn khiến ta sung sướng, ngây ngất. Có một việc khác khiến Lã Bất Vi trong lòng bối rối, lo lắng không yên. Đó chính là Hoàng Phủ Kiều bỏ đi không để lại chút tin tức gì. Ông vừa mua bán vừa tìm kiếm. Thậm chí còn phái một số môn khách tới các nước chư hầu dân biển tìm kiếm. Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng, Lã Bất Vi đã đến cái tuổi lấy vợ sinh con, hơn nữa làmăn buôn bán lại đang hết sức hưng thịnh. Lã Bất Vi biết có ba thê bảy thiếp cũng là thói phong lưu thường tình của các bậc đại trượng phu. Vậy mà, Lã Bất Vi muốn đem vị chí danh chính ngôn thuận của người vợ chính cho người mà ông ngày đêm mộng tưởng – Hoàng Phủ Kiều. Nếu không tìm được tin Hoàng Phủ Kiều, Lã Bất Visẽ phải chọn người nào vào vị trí đó? Một hôm, một người khách diện mạo bí hiểm đến cửa hàng, xem cách ăn mặc và giọng nói giống như người nước Triệu đến từ thành Hàm Đan. Ông ta kéo Lã Bất Vi sang một bên nói nhỏ: “Có ngọc khuê không?”. Lã Bất Vi lắc đầu. Người kia nói: “Tôi có thể trả giá cao”. Lã Bất Vi hỏi: “Ông có thể mua được bao nhiêu?”. Người kia trả lời: “Nămkiệu”. Chà! Lã Bất Vi kinh ngạc. Như vậy phải dùng đến nămngàn lạng vàng! “Ông mua nhiều ngọc khuê như thế để làmgì?” Người kia cũng nhìn thái độ bán tín bán nghi của Lã Bất Vi nói rất thần bí: “Nói cho ông biết nhé, tôi đến từ Hàm Đan, phụng chiếu lệnh của Triệu Vương đi mua ngọc khuê, vì Triệu Vương sắp phong quan phong ấp”. Lã Bất Vi trầmtư nói: “Được, một tháng nữa ông đến lấy hàng”. Người kia nói: “Được”. Lã Bất Vi nói: “Tốt nhất ông để lại chút vàng làm tin”. Người kia lôi trong ngực ra một trăm lạng vàng. Lã Bất Vi nghe nói có nợ là Lạc Phượng Ba sản xuất ra loại ngọc khuê này, quyết định cùng Triệu Khả Tín đến đó. Thương hải tang điền, trời đất đổi thay. Thân Hầu ngươi đã vì thiên tử năm nào vào sinh ra tử giúp đỡ thái tử Nghi Cữu làm chủ giang sơn xã tắc, bây giờ đã tuyệt tự. Mỏ ngọc đã trở thành sản nghiệp trong đất phong của một vị đại phu nước Tề. Ở đây bán cả loại ngọc thô và ngọc đã qua chế tác. Vị đại phu nước Tề này, trên bãi đất rộng rãi và bằng phẳng trước Lạc Phượng Ba đã cho xây thêm một kỳ đình mái hiên, đó là trụ sở quản lý các hoạt động chợ búa. Đứng trên kì đình có thể nhìn thấy xe cộ của thương nhân các nước qua lại không dứt, bụi bay mù mịt. Đây là lần đầu Lã Bất Vi thấy một mỏ ngọc sản xuất sầm uất đến thế. Không thể kìm được sự trầm trồ thán phục. Triệu Khả Tín từ lâu đứng bên cạnh nói, hai nămtrước qua đây, vẫn chưa thấy có sự thịnh vượng như vậy. Trong nhà hàng để mẫu, Lã Bất Vi bị ánh sáng chiếu rọi của các loại ngọc xếp tầng tầng lớp lớp làm hoa cả mắt. Lã Bất Vi nhắm mắt bình tâmlại, sau đó mới tập trung được ánh mắt của mình quan sát vào thế giới của các loại ngọc. Lã Bất Vi đang chămchú quan sát một lô ngọc khuê đắt tiền. Quan sát hồi lâu, ông xoa xoa lên bề mặt những viên ngọc, chúng phát ra những âmthanh vang dài. Lã Bất Vi dùng mắt nói cho Triệu Khả Tín biết, ông đã tìmđược chỗ ngọc ưng ý. Triệu Khả Tín thì thầm với Lã Bất Vi một hồi lâu, Lã Bất Vi đã biết, Triệu Khả Tín nhắc Lã Bất Vi rằng chỗ ngọc này dùng để định tước vị vương công quý thích. Ở đây buôn bán thoải mái nhưng ở nước Vệ nghiêm cấm việc buôn bán và vận chuyển ngọc. “Chu Lễ, Xuân Quan, Đại Tông Bá” quy định: “Dùng ngọc định ra sáu bậc, phân loại quý tộc: Vương Cầm Trần Khuê, Công Cầm Hằng Khuê, Hầu Cầm Tín Khuê, Bá Cầm Cung Khuê, Tử Cầm Cốc Bích, Nam Cầm Bạch Bích… Qua đó cho thấy những ngọc khuê này không thể tuỳ tiện mua bán mà ngoài Vương, Công, Hầu, Bá, Tử, Namra thì những người khác cũng không được đeo và sở hữu. Lã Bất Vi nói: “Ta có cách, mua về chúng ta sẽ không bán ở thành Bồ Dương”. Lã Bất Vi thấy khi ông và Triệu Khả Tín nói chuyện với nhau, có ánh mắt thỉnh thoảng liếc xéo về phía họ. Lã Bất Vi chăm chú nhìn đôi mắt lia láu trên khuôn mặt kia một hồi lâu, ký ức bị ngủ quên mới tỉnh lại. Đó là một khuôn mặt dường như đã quen, Lã Bất Vi lục tìm trong ký ức một hồi lâu, cuối cùng vẫn không nhớ ra đó là ai. Triệu Khả Tín không chú ý đến biểu hiện của Lã Bất Vi và người kia, anh ta nói với Lã Bất Vi: “Lã tiên sinh, buôn bán khuê bích dĩ nhiên là một vốn bốn lời. Nhưng ngộ nhỡ bị kiểmtra, hàng hoá bị thu, vốn đã mất lại còn chịu phạt nữa”. Lã Bất Vi nói: “Người không phải lo trờisập như thế, ta khắc có cách”. Lã Bất Vi đã bỏ ra một khoản tiền lớn để mua đầy hòm khuê bích. Vào một buổi sáng còn đẫm hơi sương ông cho xuất lên xe ngựa nhằmhướng Bồ Dương xuất phát. Khi chiếc xe ngựa của Lã Bất Vi đang đi trên con đường núi quanh co thì một con tuấn mã cũng đang theo hướng đó phóng như bay. Người cưỡi trên ngựa chính là người đã nhìn trộm Lã Bất Vi ở tiệm ngọc, Lã Bất Vi không biết rằng, người này chính là em của Tống Kì, hàng xómcũ của ông. Anh ta tên là Tống Hoảng. Vì người emnày có nhiều đặc điểmgiống anh trai của mình, cho nên Lã Bất Vi cảmthấy Tống Hoảng có nét gì đó rất quen. Nhà nạp thần Tống Kì xây được mọi người tán thưởng. Vệ Nguyên Quân rất hài lòng, phong tặng cho con của ông ta Tống Hoảng làm Tề nhân chuyên đặt mua các đồ ngọc khí cho cung đình. Do tính chất công việc khiến ông ta thường xuyên qua lại giữa các mỏ ngọc ở Lạc Phượng Ba và thành Bồ Dương. Lã Bất Vi vừa tới đấy, Tống Hoảng đã nhận ngay ra ông. Ông ta trước mặt vua thì sợ hãi rụt rè nhưng, trong con mắt người khác lại là hình tượng uy quyền. Vừa thấy Lã Bất Vi trong nơi để hàng mẫu, ông ta đã thấy kẻ đối đầu với nhà mình trước kia đang mua ngọc mà nhà vua đã cấm. Ông ta quan sát rất lâu, không bỏ qua một cử động nhỏ nào của Lã Bất Vi. Đợi cho xe của Lã Bất Vi về gần tới thành Bồ Dương. Vị Tư Khấu nắmhình phạt dẫn một nhómquân sĩ đứng hai bên cổng thành đang chămchú đợi xe của Lã Bất Vi chạy tới cổng thành thì bị chặn lại. Người có bộ mặt uy nghiêmlà Tư Khấu chưa từng giáp mặt Lã Bất Vi mà mới chỉ nghe qua sự miêu tả của Tống Hoảng, giờ nhìn thấy một vị thương nhân có thân thể nở nang ngồi trên xe ngựa, thì nhận ra ngay là Lã Bất Vi. Từ trên xe bước xuống, Lã Bất Vi kéo Triệu Khả Tín đang run rẩy ra phía sau lưng, sau khi chắp tay hành lễ, ông thẳng thắn hỏi: “Tư Khấu đại nhân, sao lại truy hỏi người thương gia như tôi?” Tư Khấu nói: “Tôi muốn đợi xemxemquý thương gia mua được những thứ ngọc quý gì từ dốc Lạc Phượng”. Lã Bất Vi chỉ tay vào hòmhàng trên xe nói: “Tuân mệnh”. Sau khi Lã Bất Vi để cho Triệu Khả Tín mở nắp hòmhàng, đámlính tay chân khua khoắng, cởi bỏ sợi dây buộc túi, tất cả ngọc đều bị đổ xuống nền đất; sau đó từng thùng, từng thùng cũng được mở ra. Những cơn gió mềmmại thổi lướt qua những viên ngọc lấp lánh ánh sáng, óng ánh như những dải lụa đang rủ xuống. Lã Bất Vi nhìn thấy vẻ mặt đắc ý tự mãn của Tư Khấu cùng ánh mắt sắc nhọn ác hiểmcủa y. Tư Khấu nói: “Những thứ ngọc khí này, vua đã cấm, các người đã phạmvào điều cấm, hãy đi theo bọn ta!”. Lã Bất Vi cười khẩy nói: “Tư Khấu đại nhân, hòm hàng của tôi có hai tầng, không thể chỉ kiểm tra lớp thứ một mà không kiểm tra lớp thứ hai. Dưới lớp vách ngăn còn có món hàng nữa đấy!” Tư Khấu có chút ngạc nhiên, sai đám lính lục soát lại lần nữa. Quả nhiên, một tên lính nhìn thấy có một lớp vách ngăn, sau khi mở ra thì không thấy vật gì cả, chỉ thấy một miếng thẻ tre. Tư Khấu lấy lên xemqua, chỉ thấy những nét chữ rất chỉnh tề viết: “Xin kính dâng lên đấng tối cao Vệ Nguyên Quân một chút ngọc mọn, gọi là có chút ít biểu thịsự chúc phúc. Đại phu Tề Quốc Trịnh Doanh. Tư Khấu mơ hồ hỏi: “Đại phu Tề Quốc Trịnh Doanh là ai vậy?” Lã Bất Vi cười lớn nói: “Tư Khấu đại nhân hiểu biết ít cũng chẳng đáng trách, người có tiếng tăm lừng lẫy của dốc Lạc Phượng chính là ấp của ông ấy. Ông ấy do bận việc không có thời gian nên bảo ta chuyển lên cho Vệ Nguyên Quân. Tư Khấu đại nhân nghĩ xem, số ngọc khí này sẽ do tôi trình lên hay do đại nhân đưa vào cung đây?” Trên mặt Tư Khấu có một chút ngượng ngùng, ấp úng nói: “Vẫn là người trình lên chứ”. Lã Bất Vi lại thấy những viên quan uý đó cẩn thận liệmnhững viên ngọc đóng gói cẩn thận và xếp lại vào trong hòm. Trên đường đi đến tiệm ngọc “Long xương quảng”. Triệu Khả Tín trong lòng chưa hết sợ hãi nói: “Tôi sợ toát cả mồ hôi thay cho Lã tiên sinh! Ngộ nhỡ bị bại lộ thì không dễ gì kết thúc chuyện này đâu”. Lã Bất Vi nói: “Ngươi thử nghĩ xen, có ai lại dám đi hỏi vua, là có hay không đại phu nước Tề Trịnh Doanh đem ngọc quý cho đại vương”. Triệu Khả Tín nói: “Ngược lại, tôi chỉ cảmthấy chuyện này rất nguy hiểm”. Lã Bất Vi nói: “Làm ăn chân chất, há có mấy ai phát tài được? Muốn vơ vét của cải để trở nên giàu có thì phải dám lao vào chỗ mạo hiểm. Có những cái mạo hiểm nhìn từ bên ngoài thì kinh sợ, vào sinh ra tử, nhưng nếu từ bên ngoài quan sát kỹ xuyên vào bên trong, thì lại không phải là như vậy. Cứ nói đến chuyến đi đến dốc Lạc Phượng để mua những thứ ngọc quý này của chúng ta thì cũng chẳng giống như những hậu quả không thể tưởng tượng nổi mà ngươi lo lắng. Trừ những điều ta vừa nói, thì không có ai dámtới chỗ vua để hỏi xem có nhận được tặng vật của đại phu Tề Quốc Trịnh Doanh hay không? Ngươi thử nghĩ mà xem, Trịnh Doanh sống ở trong thành ấp của ông ta, cách dốc Lạc Phượng mấy trămdặmthì việc điều tra cũng chẳng lấy gì làmdễ cả! Dù cho nhà vua có cho rằng đúng là có việc Trịnh Doanh tặng biếu ông ta ngọc bích, thì chỉ cần chúng ta bỏ ra vài kiệu biếu tặng ông ấy là có thể chuyển hoạ thành tốt. Lã Bất Vi cũng chẳng đưa số ngọc bích trên về tiệm “Long xương quảng” mà lại ngầm mang về giấu ở đệ phủ của mình. Chỉ vài ngày sau là Trung Thứ Tử của nước Triệu sẽ cho người tới lấy số ngọc bích này, thế là Lã Bất Vi lại kiếmđược khoản tiền lớn. Được mấy ngày sau, tên quan uý họ Phùng hấp tấp chạy đến phủ đệ của Lã Bất Vi và nói với Lã Bất Vi rằng có người đặt lời gièmpha trước mặt Vệ Nguyên Quân, nói rằng ngài buôn bán phi pháp, vận chuyển ngọc bích mà vua cấmbán, Vệ Nguyên Quân vẫn còn chưa xác định được đúng hay sai. Nhân tình hình này, hãy cao chạy xa bay, tới các nước chư hầu khác để buôn bán. Chỉ cần có bản lĩnh thì tới đâu cũng có thể làmăn phát tài được. Nhân tiện, còn có thể nghe ngóng tin tức của Hoàng Phủ Kiều. Lã Bất Vi hỏi: “Không biết kẻ tiểu nhân ấy là ai?” Viên quan uý họ Phùng nói: “Nghe nói là người giúp Vệ Nguyên Quân đặt mua ngọc bích của Tề nhân Tống Hoảng, anh ta có thể gặp vua bất cứ lúc nào, nói không ngoa với ngài rằng, ngài có đề phòng cũng không thắng được đâu. Không chừng, nếu lần này Vệ Nguyên Quân tin cho là phải mà giáng tội thì có hối cũng muộn rồi”. Lã Bất Vi nói: “Lời của quan uý nói rất có lý. Thế giới vô biên, đất trời rộng lớn, chắc sẽ có chỗ để ta làmăn chứ!” Tên quan uý họ Phùng nói: “Vậy bây giờ ngài định đi đâu, việc này phải quyết sớmchứ không thể muộn được”. Lã Bất Visau một hồisuy ngẫm, ông nói một cách quả quyết rằng: “Vậy thì tôisẽ đi Đô thành Dương Trác nước Hàn!” Tên quan uý họ Phùng nói: “Khi nào có tin tức của Hoàng Phủ Kiều, hãy lập tức báo cho tôi biết”. Tổ tiên của người Hàn cùng với Chu Thiên Tử, cùng có họ Cơ. Con thừa kế của ông ta sau này phụng dưỡng vua nước Phổ, được phong Hàn Nguyên, gọi là “Hàn Vũ Tử”. Hàn Vũ Tử truyền ngôi được ba đời, Hàn Quyết làmthống soái ba quân cho nước Phổ giúp Phổ Cảnh Công đánh bại Tề Khoảnh Công và trở thành quan uý một trong sáu công thần hiển hách. Bắt đầu từ Hàn Quyết dùng phong ấp làmhọ, không còn dùng họ Cơ nữa. Khi Lã Bất Vi tới nước Hàn buôn bán, lúc bấy giờ Thái tử Cữu lên làm vua, chính là Hàn Li Vương. Đô thành Dương Trác của nước Hàn cũng là một thành ấp rất phồn hoa của thời Chiến Quốc. Lã Bất Vi chuyển tiệm bán ngọc của mình đến Dương Trác, ông vẫn dùng cái tên vốn có của nó là cửa hiệu “Long Xương Quảng”. Sống ở đất khách quê người, Lã Bất Vi vẫn kiên trì trên con đường làmgiàu. Lịch sử làm giàu của Lã Bất Vi như là đề tài sống động dưới ngòi bút của rất nhiều nhà lịch sử học. Những nhà du thuýêt tung hoành thời Chiến Quốc đã viết: “Chiến Quốc sách. Người Bộc Dương Lã Bất Vi, nhà buôn ở Hàm Đan”. Tư Mã Thiên đời Hán viết cuốn “Sử ký. Lã Bất Vi liệt truyện”. Mã Túc đời Thanh viết cuốn “Dịch sử. Tướng Tần Lã Bất Vi”. Trong những điển tích này đều không thể thiếu được những câu chuyện kể sinh động về những việc buôn bán của Lã Bất Vi ở Dương Trác và sự tích luỹ hàng ngàn lạng vàng của ông cho gia đình. Nhưng ở tại Đô thành của người Hán, những truyền kỳ về sự gặp gỡ tình cờ giữa Lã Bất Vi và Hoàng Phủ Kiều càng làm xúc động lòng người hơn so với cuộc làmăn buôn bán của ông. Vừa mới tới, Lã Bất Vi vẫn chưa dốc toàn sức vào việc đi tìm Hoàng Phủ Kiều, người mà lâu rồi ông không được gặp mặt. Không phải là ông đã quên lãng người con gái có dáng vẻ dong dỏng, phong thái nhẹ nhàng đó mà là ông đang chìm sâu trong tình sâu nghĩa nặng với một người. Đối với việc cần phải thay đổi từ một phú ông giàu có tới một chức quan trong triều đình, ở vào hoàn cảnh không thân không sơ này thì Lã Bất Vi không thể dễ dàng bỏ qua một người khách thân cận với nhà vua tới từ nước Hàn được. Ánh nắng của mùa đông giống như dòng nước lười nhác chảy vào cửa hiệu, những chiếc tủ kính bày bán ngọc trai lạnh lẽo được trùmlên một luồng khí ấmáp. Khi cánh cửa tiệmđược mỏ ra, một vị khách ăn mặc lịch lãmbước vào. Lã Bất Vi nhìn ra phía ngoài, vị khách này tuổi tác có lẽ chỉ bằng ông hoặc hơn ông vài tuổi. Ông ta có dáng vẻ gày guộc, trắng xanh của một nho sĩ. Sau một hồi đi đi lại lại, Lã Bất Vi đã biết được tên ông ta là Hàn Trọng Anh. Ông ta là khách khanh kề cận bên cạnh Hàn Li Vương. Ở các nước chư hầu thì hạng khách khanh như thế này không được coi trọng lắm, nhưng ở nước Hàn thì lại có thể nhận được rất nhiều bổng lộc, chính vì thế trong bảng “quan chức tiên tần” viết: “Người nước Hàn rất coi trọng khách khanh và chức này chỉ có dưới Tướng quốc”. Vị khách khanh có lối ăn nói trau chuốt này dường như có điều gì bí ẩn. Ông ta là người đến “Long Xương Quảng” nhiều nhất. Ông ta không cò kè thêm bớt giống với bất kỳ một người khách nào. Sau khi quan sát kỹ một hồi và hỏi rõ giá cả và trả tiền ngay. Ngày này qua ngày khác, Lã Bất Vi phát hiện ra rằng số ngọc bích mà ông ta mua toàn là thứ hàng rẻ nhất. Có một lần Lã Bất Vi lấy một viên ngọc quý - ngọc Toàn Cơ - và bán cho ông ta bằng giá của một viên ngọc bích. Ông ta từ chối nhiều lần vì lý do ông ta chẳng có công cán gì nên không tiện nhận. Để báo đáp tấmthịnh tình của Lã Bất Vi, ông ta đã mời Lã Bất Vi tới phủ đệ của mình dự yến tiệc. Phủ đệ của Hàn Trọng Anh so với tưởng tượng của Lã Bất Vi thì rất khiêm tốn hơn nhiều và giản dị hơn nhiều so với ngôi nhà của ông. Trong cái bất ngờ đó, Lã Bất Vi vô hình chung lại có một cảm giác ưu việt. Sau khi vào tới phòng khách, thì ông mới thấy những tiên đoán của mình là đúng. Vị khách khanh mua ngọc khi này thực chất là để thu gom. Nhìn gia cảnh và những gì ông ta mua được, Lã Bất Vi mới biết được vị khách khanh này là người rất giàu có nhưng khiêm nhường. Hàn Trọng Anh dường như đã hiểu rõ nội tâm của Lã Bất Vi. Ông ta tự phân trần giảng giải: “Chút bổng lộc mọn ấy mà”. Tuy không có gì là quý báu đẹp đẽ nhưng những người hầu của Hàn Trọng Anh vẫn bày ra một bữa tiệc khác thường. Trên bàn ăn thịnh soạn đầy rượu và thức ăn. Trong lúc Lã Bất Vi và Hàn Trọng Anh ngồi đàm đạo với nhau, từ chuyện bảo ngọc tới đạo đức văn chương, từ tình hình nước Hàn tới cục thế của thiên hạ, hai người đều cảmthấy đối phương của mình tài cán hơn người, là trụ cột của đất nước. Hàn Trọng Anh thật thà nói: “Dựa vào những tài cán kinh doanh và học thức của Lã hiền đệ, hai chân không thể đi tới triều đình, chỉ có thể quanh quẩn vài bước trong ngoài quầy hàng, đúng là không được thoải mái, trí không được phát triển!”. Lã Bất Vi trầm tư: “Ở đời ai chẳng thích được tiến thẳng tạo công lập nghiệp, nhưng khổ nỗi là không có đường tiến và cũng không có chỗ bám dựa!”. Hàn Trọng Anh nói: “Nếu như hiền đệ thực sự muốn chen chân vào chốn cung đình, bước lên cửa rồng, có một người sau này sẽ giúp hiền đệ được!” Lã Bất Vi hỏi: “Người ấy là ai vậy?” Hàn Trọng Anh nói: “Lý Triển, con người này rất có chí hướng, văn võ song toàn, từng làm thầy dạy cho thái tử Hoàn, là người vạch mưu sách, tìm mưu kế cho thái tử, tình như thủ túc. Có một lần do sơ ý có lời đắc tội với Đại Vương đã bị bãi xuống làmdân thường. Rồi một ngày núi non như sụp đổ, đại vương băng hà, thái tử Hoàn lên làmvua, trao cho Lý Triển ấn Tướng quốc. Bây giờ Lý Triển phải sống ở nơi sông núi khốn quẫn, lấy việc kiếm củi câu cá làm nghề. Nếu như bây giờ hiền đệ khẳng khái mở hầu bao, lúc đói cho cơm, một ngày nào đó con rồng ở núi đông uốn mình trỗi dậy trở lại, tất sẽ phải báo đáp tri ân, tiến cử người hiền có năng lực, lúc đó cuộc sống quân thần của hiền đệ chắc chắn sẽ nhiều triển vọng lắm!”. Lã Bất Vi nói: “Nên làm như thế nào, xin huynh trưởng chỉ giáo cho vài điều”. Hàn Trọng Anh nói: “Lý Triển bây giờ đang ngụ tại thôn Tuyết Nê, đông thành Dương Trác. Trước tiên hiền đệ hãy đến hỏi thăm, dốc bầu tâm sự, kề gối nói chuyện với nhau là được rồi”. Lã Bất Vi nói: “Đến đó với hai bàn tay trắng thì còn gì là có ý kính trọng người ta nữa. Vậy nếu mang theo lễ vật đến có đường đột hay không?” Hàn Trọng Anh cười lớn và nói: “Các người là dân buôn bán, lời đi đôi với lợi, chuyện gì cũng lấy tiền bạc ra để nói. Nhưng vị Lý Triển tiên sinh này không giống như những người phàmtục khác, coi chuyện phú quý và quyền lực như cỏ rác. Hiền đệ đi tới đó, chỉ cần mang theo những lời thành thực là được rồi. Sau này hãy nói chuyện biếu xén, tuỳ cơ mà hành sự!” Lã Bất Vi hỏi: “Bèo nước gặp nhau, huynh trưởng có thể vì hiền đệ mà tiến cử một lần nữa được không?” Hàn Trọng Anh nói: “Có những cái hiền đệ chưa biết, Lý Triển tiên sinh dường như không xemtrọng những khách khanh và hoạn quan kề cận bên cạnh Hoàng thượng. Ta và ông ấy không có hiềm khích cũng không có mối thâm giao. Nếu như tuỳ tiện tiến cử, sợ rằng lợi bất cập hại”. Trời đã tối, Lã Bất Vi muốn đi nghỉ nhưng những lời nói trên cứ trở đi trở lại trong đầu ông. Khi ông thấy Hàn Trọng Anh không nói gì, hai mí mắt nhắmkhép lại, ông nhớ lại ngày xưa hồi còn nhỏ ông đi bắt ngọc traisông ở Bộc Dương. Lắc lư cùng với chiếc xe ngựa đi trên con đường nhỏ gập ghềnh của bờ ruộng trong sương khói lờ mờ. Lã Bất Vi nhìn thấy mặt trời giống như lòng đỏ trứng gà cũng đang run rẩy lay động. Tiết trời khá lạnh, thỉnh thoảng ông lại thở ra đánh khà một tiếng, những hạt nước nhỏ giống như những hạt ngọc nhanh chóng đọng lại trên bộ ria cắt ngắn, cạnh khoé mép của ông. Khi chiếc xe ngựa của Lã Bất Vi tiến vào thôn Tuyết Nê, ông thầm nghĩ: “Mảnh đất này đúng là giống với cái tên của nó, mỗi căn nhà giống như bị chôn vùi trong tuyết sương vậy”. Cái đầu tiên mà Lã Bất Vi nhìn thấy trong sân vườn nhà Lý Triển là con chó vàng rất béo. Cùng với tiếng sủa vang dội của nó, một vị trưởng giả bước ra. Khuôn mặt ông nề nề khiến người ta rất khó nói ra nét đặc trưng trên khuôn mặt ông. Trên chiếc áo thì vá chằng vá đụp giống như những cánh bèo nổi phồng phềnh trên mặt nước. Nhìn cách ăn mặc này, cũng lộ rõ thân phận dân thường ăn đói mặc rét của ông ta. Lã Bất Vi cảm thấy kỳ lạ ở chỗ: từng bước chân của ông ta vẫn mạnh mẽ và nhanh nhẹn, mỗi lần ông bước, tuyết ở dưới chân ông phát ra những tiếng chút chít, như những tiếng kêu cò vạc khi bị trói chân vậy. Đợi khi vị trưởng giả tới gần, Lã Bất Vi nhìn thấy mắt ông ta rất sáng, hàm răng trắng tinh. Giọng nói của vị trưởng giả lạnh lùng như tuyết: “Tìm ai?” Lã Bất Vi đáp: “Lý Triển” Vị trưởng giả lại hỏi: “Người là bạn của ông ta” Lã Bất Vi đáp: “Không phải” Vị trưởng giả vẫn hỏi: “Người không quen cậu ta, không thân thiết với cậu ta, vậy tới tìm cậu ta có chuyện gì?” Lã Bất Vi nói: “Tôi ngưỡng mộ danh của ông ta mà tới, tôi muốn kết thành bạn của ông ta”. “Lý Triển không có nhà”. “Tôi sẽ đợi”. “Không biết khi nào cậu ta mới trở về”. “Ông ấy đi đâu vậy?”. “Rất khó đoán được. Nếu không lên núi đốn củi thì vào trong thành bán than”. “Vậy thì phiền lão bá phải tiếp tôi rồi. Tôi sẽ ở lại đây đợi Lý Triển tiên sinh”. “Tôi đã nói với ông rồi, không biết khi nào cậu ấy trở về đâu!”. “Vậy thì tôi sẽ cung kính đứng đây chờ đợi, mạn phép hỏi lão bá, ông là người như thế nào với Lý Triển?” “Ta là Lý Trọng, huynh trưởng của cậu ta!” Lã Bất Vi cởi con ngựa ra khỏi xe rồi buộc nó vào gốc cây trong sân vườn. Lã Bất Vi thấy chỗ ở của Lý Triển giống như một lò than, có một cái võng vải giống như một chiếc lưới đánh cá được treo ở góc tường. Đây có thể nói là mảnh đất không yên ổn với hai anh em, ăn uống cũng chỉ là gạo nứt với đậu, lê, rau cỏ. Mức độ nghèo đói như thế này, quả là quá sức tưởng tượng của Lã Bất Vi. Lý Trọng rất lạnh nhạt với Lã Bất Vi, chỉ ngồi trước cửa lò để đốt than, bên cạnh chẳng còn có ai nữa. Lã Bất Vi lấy một cái đôn bằng gỗ để làm ghế, ông ngồi lên đó và nhìn vào những tia sáng được hắt ra từ cửa lò; dưới sự phản chiếu của những tia sáng đó, Lã Bất Vi thấy mặt Lý Trọng đầy vết nhăn. Khi trời nhập nhoạng tối, cũng chẳng thấy bóng dáng của Lý Triển đâu. Cho dù Lã Bất Vi bụng đói cồn cào nhưng cũng khó có thể nuốt được bát cơm thô kém mà Lý Trọng mang cho ông. Đợi Lã Bất Vi cố gắng nuốt hết bát cơm, Lý Trọng nằm vào trong chiếc võng vải ngửa mặt nhìn ra tứ phía. Lã Bất Vi nghĩ, người ngủ bên cạnh chiếc võng vải của Lý Trọng buổi tối hôm nay là một người buôn giàu có đến từ Dương Trác. Buổi sáng hôm sau, Lã Bất Vi vẫn cứ chờ đợi trong sự suốt ruột và khô khát. Lã Bất Vi vẫn ngồi trên chiếc ghế đôn đối mặt với ánh sáng của bếp lò và một khuôn mặt dưới sự phản chiếu của thứ ánh sáng kia. Lã Bất Vi không thể chờ đợi hơn nữa. Ông tỏ ra rất bất bình với người có tên là Lý Trọng kia, người được coi là huynh trưởng mà không biết Lý Triển em trai mình đi đâu. Lã Bất Vi biết câu hỏi của mình có ý vị như hồi chuông báo thức: “Lý huynh trưởng, rút cục Lý Triển tiên sinh đã đi đâu, ông không thể đoán ra sao?” Lý Trọng nói: “Tối hôm qua ta đã nói rồi, nếu không lên núi đốn củi thì vào thành bán than”. Lã Bất Vi hỏi: “Lý huynh trưởng vừa nói, nếu không lên núi đốn củi thì vào thành bán than. Vậy thì xin mạn phép hỏi: ngọn núi đó là núi nào, thành đó là thành nào?” Lý Trọng nói: “Đó là núi Hùng Thoán Lĩnh và thành Dương Trác”. Lã Bất Vi lại hỏi: “Núi Hùng Thoán Lĩnh cách đây bao nhiêu dặm và đi bằng cách nào?” Lý Trọng nói: “Đi ra cửa, hướng về phía tây, có một khe hẻm to, đi tới đầu hẻm là đến, chừng khoảng mười dặm”. Lã Bất Vi vẫn hỏi: “Đã là anh emthì như da với xương, môi hở răng lạnh, xin lỗi tôi nói thẳng, tôi thấy Huynh trưởng không mấy quan tâmđến việc lành dữ của anh emmình lắm!” Lý Trọng chỉ cười đáp lại lời chỉ trích của Lã Bất Vi và phớt lờ như không có chuyện gì. Lã Bất Vi buộc ngựa vào xe, và lại ngồi lên chiếc xe ngựa của ông chuẩn bị ra khỏi nhà họ Lý, hướng về phía Tây, đến Hùng Thoán Lĩnh xem sự thể rút cục là thế nào. Sau khi Lý Trọng biết được dụng ý của Lã Bất Vi ông nói với Lã Bất Vi đợi khi em ta về ta sẽ nói lại với cậu ấy. Lã Bất Visau khi nói rõ mình là ai, liền quất ngựa cho xe chạy. Hai chiếc bánh quạnh quẽ, mòn vẹt lại bắt đầu chuyến đi hướng về phía trước, trên con đường phủ tuyết đầy gian nan. Khi Lã Bất Vi quay đầu lại để cáo biệt ngôi nhà như chiếc lò than ấy, ông nhìn thấy trên bộ mặt như hun khói của Lý Trọng xuất hiện một nụ cười rất khó hiểu. Một con người kỳ quái. Con đường nhỏ rất bằng phẳng, tuyết trên đường đã bị ánh nắng mặt trời làm rắn kết lại, khiến chiếc xe ngựa như chạy nhanh hơn. Chiếc xe lắc lư như người say, phải khó khăn mới tới được đầu của khe hẻm, một chiếc dốc lớn, thẳng đứng đã cắt đứt con đường đi, Lã Bất Vi nghĩ, chẳng lẽ đây chính là Hùng Thoán Lĩnh mà Lý Trọng đã nói đó sao. Lã Bất Vi nhìn xung quanh, trên đỉnh núi trắng mờ chỉ toàn là cây cối màu xám. Lã Bất Vi gọi lớn, tiếng gọi vang vọng khắp núi rừng: “Lý Triển”. Chốn thâm sơn cùng cốc vang vọng đáp lại lời của chính mình: “Lý Triển”. Lã Bất Vi cảm thấy chút cô đơn, lẻ loi. Lã Bất Vi đánh xe chạy chầm chậm, men theo đường núi, đảo mắt tận thu cảnh vật xung quanh. Khi Lã Bất Vi thất vọng tay không quay về Viên Lạc (nơi ở của Lý Triển), Lý Trọng dường như đã đoán ra được sự việc, tươi cười ra tận cửa đón Lã Bất Vi. Lã Bất Vi ngạc nhiên, hỏi: “Lý Trọng tiên sinh, hình dáng anh emngài như thế nào? Ngày mai đến bán than ở thành Dương Địch, tôi nhất định đi tìm bằng được!”. Lý Trọng trả lời: “Cùng một mẹ sinh ra, ngài xem hình dáng phải như thế nào? Giống như tôi vậy!” Hai ngày sau, Lã Bất Vi lại chở than lên thành Dương Địch tìm Lý Triển. Bán hơn mấy chục xe than mà khuôn mặt Lý Triển vẫn biệt tăm. Lã Bất Vi quay về, vừa ra cửa thành thì gặp Lý Trọng, chào hỏi một hồi rồi hỏi Lý Trọng đến thành Dương Địch này có việc gì. Lý Trọng nói cũng đi tìmem. Bất Vi về phủ ngồi chưa ấmchỗ, đã thấy Lý Trọng theo phía sau, Bất Vi hỏi: “Vẫn chưa tìm thấy em ngài sao?” Lý Trọng trả lời: “Tìm thấy rồi” Lã Bất Vi hỏi: “Ở đâu vậy?” Lý Trọng nói: “Ở trước mặt tiên sinh đó” Lã Bất Vi quay mắt nhìn xung quanh, trong phòng chỉ có Lý Trọng vội hỏi: “Là tiên sinh định trêu đùa tôi à?” Lý Trọng nghiêng mình thi lễ, trịnh trọng nói: “Người đang nói cùng Lã tiên sinh là Lý Triển đây” Lã Bất Vi ngẩn người hỏi: “Ngài không phải là anh của Lý Triển sao?” Lý Trọng nói: “Họ Lý nhà tôi cô quả, làm gì có anh em. Tôi thân mang trọng tội, ẩn mình nơi sơn dã, muốn tránh điều phiền phức nên phải lấy tên là Lý Trọng. Hai ngày nay thấy Lã tiên sinh hao tâm tổn lực, thành tâm tiếp kiến, giao tiếp bạn hiền, ngài vì tôi mà nhọc người mệt sức, thực bụng muốn tới tạ tội với ngài!” Lã Bất Vi thận trọng nói: “Lý Triển tiên sinh, xin ngài cẩn thận!” Rồi mời Lý Triển ngồi, sai người đem áo hoa lụa gấm cho Lý Triển thay, bày yến tiệc, mời cả Hàn Trọng Anh, ba người chén tạc chén thù, rất tâm đầu ý hợp. Lã Bất Vi mời Lý Triển chuyển đến phủ của mình, rũ bỏ khó khăn, thiếu thốn. Lý Triển nói: “Tôi ở triều đường có bao nhiêu kẻ thù, nhất thủ nhất động đều bị người ta chú ý. Nếu thân ở Dương Địch, tiếng tăm thị phi tất sẽ lọt tới triều đường, quan quân lấy làm hiềm khích có khi không tránh nổi hoạ vào thân. Ẩn mình ở Tuyết Nê thôn, sinh sống đạm bạc có thể tránh khỏi mọi sự dòm ngó, càng thuận lợi cho việc hành sự sau này”. Hàn Trọng Anh cho biết Lý Triển nhìn xa trông rộng. Lã Bất Vi cũng cảm thấy rằng việc nhỏ không biết nhịn sẽ tổn hại tới đạisự, Lý Triển tính toán sâu xa quả là bậc kỳ tài. Lúc chia tay, Lã Bất Vi phái người đánh xe đưa Lý Triển về tận thôn Tuyết Nê, trên xe chở nhiều lương thực và tiền bạc. Quay trở về, Lý Triển cởi bỏ áo gấm, khoác trên mình bộ quần áo rách rưới, bôi mặt nhọ nhem bẩn thỉu. Để tránh phiền phức, hàng tháng vào lúc nhá nhemtối hoặc đêmkhuya Lã Bất Vi mới tới thôn Tuyết Nê. Cha của Lã Bất Vi là Lã Hâmthấy con giao kết với hạng người khố rách áo ôm, nghèo nàn thì trách con: “Con nên bỏ công sức tiền tài vào việc buôn bán mới sinh lời phát đạt được” Bất Vi nói: “Xin cha tin con! Con giao kết với Lý Triển tiên sinh cũng là một vụ buôn bán hời đấy” Lã Hâm nói: “Vị đại công tử này chẳng phải là người bán than sao? Lẽ nào con dùng tâm sức, hy vọng sinh lời trong việc buôn bán than củi?. Lã Bất Vi mỉm cười, kể cho cha biết lợi ích thực tế việc kết bạn với Lý Triển. Lã Hâm cảm thấy lo lắng: “Con làm việc này không từ thủ đoạn, mưu cầu quan tước. Mai này nếu bại lộ, e miệng thế chê cười”. Lã Bất Vi rành rọt nói: “Ngày mai, giở mọi mưu kế, tìm trămphương ngàn cách giành chức quan không phải là việc của phường tiểu nhân vong ơn bội nghĩa. Ngày xưa, người ta luôn kính trọng vua Nghiêu Thang Tuấn Vũ, tôn kính như bậc thánh thần, bây giờ xem ra chỉ như trò đùa thôi!”. Thấy con ngang nhiên chỉ trích, Lã Hâm kinh ngạc nói: “Từ cổ tới kim, chưa có ai nói Nghiêu Thuấn không tốt bao giờ”. Bất Vi nói tiếp: “Vua Nghiêu khi trị vì thiên hạ, sống ở nhà cỏ không che nổi sương gió, ăn lương khổ, uống canh rau rừng. Ông ta mặc cái gì? Quá lắm là tấm lông thú tránh rét mùa đông, tấm vải không choàng tạm mùa hè. Bây giờ hạng người bần cùng trong thiên hạ cũng còn sang hơn nhiều. Vua Nghiêu trị vì thiên hạ, tự tay cầm cuốc kiếm sống, nhọc công mệt sức không có nổi thịt ăn, tay dài hơn chân, so với bọn nô tì hầu hạ bây giờ còn kém vài phần. Vì thế có thể nói là, thời cổ đại, người ta trao ngôi thiên tử cho người khác dễ dàng vì cuộc sống của họ cũng chẳng khác mọi người, cũng phải lao động làmlụng nên ngôi báu trao tay không tiếc nuối. Bây giờ tình hình đã khác xa rồi. Một huyện lệnh - chức quan thấp nhất cũng có ai bì được, không chỉ bản thân hưởng vinh hoa phú quý và ân trách còn lưu cho hậu thế, con cái đời sau được lên xe xuống ngựa, nên ai cũng xem trọng ngôi vị này. Vì thế, theo chuyện này mà nói, thời xưa nhường ngôi thiên tử dễ dàng, thời nay theo đuổi huyện lệnh cũng khó. Đó là chuyện lợi ích thực tế hoàn toàn khác nhau. Làmthiên tử chẳng lợi lộc, lại chịu khổ, ai muốn làm? Làmhuyện lệnh lại khác hẳn, chắc chắn mọi người ai cũng cố theo đuổi. Người sống nơi núi cao, phải xuống khe suối sâu lấy nước, mỗi lần gặp dịp lễ tiết lấy nước làm quà biếu tặng, người sống nơi ngập úng, chuyên khổ vị bị thuỷ tai lại muốn tiêu bớt nước đi. Vì thế đến mùa giáp hạt, đến cả anh em cũng không cho nhau nổi bữa cơm, mùa thu hoạch lương đống đầy đồng thì khách sơ giao cũng đãi tiệc, chẳng phải họ có lòng tốt hiếu khách quên tình cốt nhục mà vì của cải quá nhiều; ngày nay người ta sống phải tranh giành nhau không phải tâm địa hẹp hòi mà vì tài vật hiếm quý. Cổ nhân dễ thoái bỏ ngôi vị không phải vì lòng cao thượng mà vì quyền lợi ít ỏi, ngày nay tranh quan vô chức không phải hạng vô sỉ mà vì bổng lộc dồi dào”. Lã Hâm ban đầu cảm thấy kinh ngạc sửng sốt, càng nghe càng thấy thán phục ý chí lớn lao của con, luôn miệng tán thưởng: “Diệu kế, thật diệu kế!” Bất Vi nói tiếp: “Xin cha đừng quá khen con, có một chút lời lãi nào đáng kể gì; chút lời ấy chỉ là tạm thời thôi, chưa có tiền đồ lớn nhưng phải buông câu được con cá lớn, có như thế lãi lời mới không đếm xuể được!” Lã Hâm hỏi: “Lý Triển có phải là con cá lớn không?” Lã Bất Vi dương dương tự đắc: “Tất nhiên rồi!” Công lao của Lã Bất Vi quả là không uổng phí. Năm273 trước CN, liên quân hai nước Triệu, Nguỵ tiến công Hoa Dương nước Hàn, tình hình nguy cấp. Nước Hàn cầu viện nước Tần, xin binh ứng cứu, lúc đầu, nước Tần khoanh tay đứng nhìn, án binh bất động. Hàn Tướng quốc nói với Trần Thệ đang bị ốm nằm trên giường rằng: “Nay việc quân gấp gáp, hy vọng ngài dù lâm bạo bệnh cũng xin đêm tối đến Tần một phen”. Trần Thệ đến nước Tần gặp Nhương hầu Nguỵ Nhiễm. Nhương hầu nói: “Chẳng phải việc binh khẩn cấp sao? Vì thế mới cho ông đến đây!” Trần Thệ đáp lời: “Không gấp gì cả”. Nhương hầu nổi giận: “Ngài tới đây không phải làmsứ giả cho quân vương nước mình hay sao? Nước Hàn cho sứ giả đến không ngừng, báo với tệ quốc tình hình rất khẩn cấp, thế là tại sao?” Trần Thệ nói: “Nước Hàn muốn là khẩn cấp thì có thể thay đổi tình hình thuận theo quý quốc. Chính là vì chưa có nghiêm trọng mới sai tôi tới đây”. Nhương Hầu nghe xong lập tức nói: “Ngài không cần đến gặp Tần vương, tôi lập tức cho quân tiếp ứng”. Quả nhiên, tám ngày sau, quân Tần đã tới núi Hoa Dương, đánh bại liên quân Triệu, Nguỵ. Năm ấy, Trịêu Li Vương qua đời, con là Hoàn Huệ Vương lên ngôi. Ngày hôm sau, Hoàn Huệ Vương lập tức đến thôn Tuyết Nê đón thầy giáo Lý Triển hồi cung. Khổ tận cam lai, Lý Triển được phong làm Thái tể, đức cao trọng vọng. Lã Bất Vi trở thành khách khanh, hưởng hàm Tam phẩm, có thể ra vào cung vua. Hôm thiết triều, Lã Bất Vi thấy Hoàn Huệ Vương oai nghiêmkhí phách, trong lòng xốn xang, ông biết, tự mình sẽ bước lên đài cao phay hầu bái tướng. Lã Bất Vi tuy chỉ có tước hầu, không có quan chức nhưng được đoàng hoàng ra vào triều đường. Hoàng Huệ Vương bày yến tiệc, mời các chư hầu và sứ thần, có lúc mời cả Lã Bất Vi; vì thế chẳng bao lâu Lã Bất Vi thiết lập được quan hệ khá tốt với vài người trong triều, cho dù cẩn trọng trong từng lời nói song trước mắt vua, rốt cuộc vẫn chỉ là khách thương tầm thường. Ngày trước khi vào thành buôn bán, không ai chú ý tới Lã Bất Vi, chỉ nghỉ ở quán trọ thường hạng, bây giờ mọi việc đã khác mỗi lần tới đây đều có bè bạn. Ngoài việc buôn bán, Bất Vi thường vào cung vương hoặc nghỉ ngơi trong phủ tướng hầu. Đây chính là cơ hội để Lã Bất Vi nắm vững tình hình các nước chư hầu. Bất Vi không còn là thương nhân giống người khác nữa. Sau khi chia tay ở Dương Quang, Bất Vi vẫn tiếp tục buôn bán châu ngọc ở xưởng “Long Xương Quảng” Một hôm, khi Lã Bất Vi đang ngồi tính toán, có hai người một gày một béo cầm ngọc hỏi bán. Lã Bất Vi đồng ý mua nhưng muốn xem qua đồ bán. Người béo nhẹ nhàng lấy trong mình chiếc vòng ngọc đưa cho Lã Bất Vi. Bất Visửng sốt, đây chính là chiếc vòng ngọc mà Bá Phụ tặng mình. Chính Lã Bất Vi đemtặng cho Hoàng Phủ Kiều, cớ sao lại lọt vào tay hai gã này? Bất Vi giật mình lo sợ, xemđi xemlại, đích thực là tín vật đã đưa cho Hoàng Phủ Kiều. Bất Vi biết đã có chuyện xảy ra, cố nén nỗisợ hãi, lấy giọng trấn tĩnh hỏi: “Chiếc vòng này có phải đích thực của các ông không?” Người béo vội hỏi lại: “Không phải của chúng tôi. Hay là các ông không mua?” Bất Vi lại hỏi: “Thế ở đâu ra?” Người gầy gạt đi: “Ông không phải là quan phủ, không phải hỏi gốc tích ngọn nguồn, có không can hệ gì tới ông. Ông xem qua ngọc rồi, cuối cùng ông có mua hay không?” Bất Vi nói: “Tất nhiên là mua”. Sau một hồi ngã giá, Lã Bất Vi trả tiền. Hai người mừng rỡ, cầmtiền ra về. Họ vừa bước chân ra khỏi cửa, Lã Bất Vi cùng một người gia nhân bước vội theo sau. Bất Vi theo hút bóng áo đen của người béo, qua một lối rẽ, đột nhiên bóng áo ấy bước nhanh vào quán rượu ven đường. Hai người bán ngọc sung sướng hả hệ gọi bày rượu thịt, bắt đầu chúc tụng nhau. Bất Vi và người hầu ngồi kế bên cạnh, cũng vờ gọi cơmrau, lắng nghe từng lời hai người béo – gày nói chuyện. Họ nói rất nhỏ nhưng Lã Bất Vi không bỏ sót lời nào. Người gày nói: “Anh, anh thật tinh đời, vừa nhìn biết cô gái ấy là con nhà trâmanh, lại còn mang ngọc quý bên mình”. Người béo nói: “Cô gái ấy thật kiều diễm. Ôi! Đôi mày thanh thoát, thật đáng quý tướng đài các!” Người gày nói: “Anh không cưới được cô ấy thà để em bán quách cho xong”. Người béo nói: “Nói dễ làm sao! Mày không nhìn thấy cô ấy chống cự quyết liệt thế nào à, chết cũng không thuận, chẳng phải đợi lên thành, trên đường mà thấy thì quan phủ sẽ gô cổ bọn mình hỏi tội đấy!”. Người gày nói: “Thế thì đem trói rồi nhốt nó vào nhà kho là thượng sách” Người béo: “Sự việc không thành, ta bắt nó phải chết, chiếc vòng này cũng đủ dùng rồi”. Hai người thì thầmnhỏ to, hồi lâu đứng dậy trả tiền ra về. Bất Vi và người hầu nhẹ nhàng theo gót, thấy hai người liêu xiêu trên đường rồi rẽ vào sân bao quanh bởi bức tường rêu phong. Bất Vi quan sát rồi nhớ kỹ vị trí ngôi nhà, bảo người hầu đứng đó canh chừng rồi chạy như bay đến phủ Tư Khấu, đưa ra vòng ngọc Long Vân, trình báo mọi chuyện đã nghe được. Tư Khấu biết Lã Bất Vi là khách khanh, hưởng hàm tam phẩm, lại muốn gần gũi hơn, vội phái người đến Dương Địch điều tra. Rất nhanh chóng, đầu lĩnh mang quân đến bao vây ngôi nhà Bất Vi kể, bắt hai người một béo một gày về tra xét. Ban đầu, hai kẻ trốn tránh, quanh co chối cãi, sau khi đối chất với Lã Bất Vi đành cung khai nhận tội. Hôm qua đã vào nhà cô gái cướp bóc của cải, bắt cóc cô gái về làmvợ nhưng bị chống trả quyết liệt bèn trói cô giamvào trong nhà kho. Bất Vi cùng vài tên lính tới nhà kho, chỉ thấy một mùi ẩm mốc xộc vào mũi. Bất Vi gọi liền mấy tiếng: “Hoàng Phủ Kiều, Hoàng Phủ Kiều”. Không có ai đáp lời. Bất Vi khomlưng chui vào trong, chỉ thấy mạng nhện giăng đầy, nhìn kỹ từng góc nhà cũng không thấy bóng dáng Hoàng Phủ Kiều đâu. Quan binh trong kho nổi giận, thét hỏi anh em gày béo dấu cô gái chỗ nào. Hai người than khóc thấu trời, thề thốt rằng không biết việc gì xảy ra, không biết ai đã giúp cô trốn thoát. Bất Vi quắc mắt nhìn họ, quan binh xin Lã Bất Vi giảmcơn thịnh nộ, xin giải hai tên giamvào ngục, nghiêmtrị cực hình, xét xử bọn điêu dân xảo trá. Thất vọng nặng nề, Lã Bất Vi lặng lẽ quay về phủ. Con đường vắng lặng lạnh lẽo nhưng càng làm tăng thêm nỗi mệt mỏi chán chường. Vừa vào tới cửa, gia nhân báo có hai người xin gặp. Một người là Hoàng Phủ Kiều, người kia tự xưng là Dương Tử đang nóng lòng đợi trong phòng khách. Thật là tạo hoá khéo xoay vần, Lã Bất Vi vội bước, mọi việc xảy ra như sóng cồn gió dập, cuộc sống với bao điều ngẫu nhiên dễ thay đổi. Bước vào phòng khách, Lã Bất Vi vội đưa mắt nhìn hai người trong phòng. Đầu tiên, Lã Bất Vi nhìn thấy Hoàng Phủ Kiều, ánh mắt rưng rưng chảy lệ chạy tới, rồi bóng dáng mảnh mai như lá mùa thu ào tới bên mình. Trên khuôn mặt còn vương nỗi sợ hãi của bao chuyện xảy ra, Hoàng Phủ Kiều kể cho Lã Bất Vi nghe. Cô vừa đến Dương Địch tìm anh thì bị hai người một béo một gày bắt giữ, trói rồi giamvào nhà kho. Cô lấy hết sức bình sinh kêu cứu, một lúc lâu sau, có Dương Tử nghe thấy, chạy tới giải thoát cho cô. Cô từ lâu đã nghe thấy trong thành có một vị buôn bán vàng ngọc giàu lòng nhân nghĩa là Lã Bất Vi. Lúc đó, Lã Bất Vi mới nhìn rõ người thanh niên gọi là Dương Tử. Đôi mày rậm, khuôn mặt lanh lợi hồng hào, bờ vai rộng dường như có thể mang tròn khối đá vạn cân. Bất Vi nói, nếu anh ta đồng ý sẽ lưu anh ta lại trong phủ làm người giúp việc với tiền công hậu hĩnh. Dương Tử gật đầu mỉmcười. Hoàng Phủ Kiều nói, cô cũng muốn ở lại, nhưng để vừa lòng cô, không phải là chút tiền công. Câu nói mang bao ý tứ sâu xa khiến môn khách trong nhà Lã Bất Vi đều bật cười. Đêm dài nhiều mộng, tiết đông lạnh lùng dường như cũng chuyển sang xuân. Đêm ấy, người con gái xuân sắc hoa nhường nguyệt thẹn trở thành vợ của Lã công tử hào hoa. Chương 4: SỐ PHẬN KHÓ LƯỜNG Độc giả đọc tới chương này, giống như người đang xem một vở kịch mà trên sân khấu dần chuyển tới bối cảnh mới. Thành Hàm Đan năm năm sau, Lã Bất Vi đã khác xa với anh buôn ngựa xưa kia. Theo ngòi bút, tới những con phố lớn, bạn có thể gặp nhiều cửa hiệu của dân thường rất nguy nga. Ngựa xe tấp nập, thanh nữ ngày thêm nhuận sắc, tất cả đều nồng thắm, nét mặt ánh lên niềm hứng khởi. Từ quán lầu lớn vọng ra tiếng nhạc réo rắt mê hồn như ru lòng người vào cõi mộng. Tiếng rao bán của gánh hàng rong trên phố lại càng khiến người ta như muốn lạc bước ngơ ngẩn hồn xiêu phách lạc. Cuộc sống giàu có phù hoa khác hẳn với nước Hàn nghèo nàn vắng lặng. Cuộc sống đã làm thay đổi cả cuộc đời Lã Bất Vi. Trong ngõ phố phồn hoa nhất thành Hàm Đan, một cửa hiệu biển hàng phấp phới, tấp nhập kẻ ra vào, nhìn kỹ là biển hiệu rất quen thuộc, không nói cũng hiểu, Lã Bất Vi đã tới thành Hàm Đan buôn bán, sinh lời bội phần ở xưởng “Long Xương Quảng”. Bất Vi ở nước Hàn có chỗ đứng vững chãi, vây cánh đông đảo, tạisao còn dời tới nước khác, bỏ công phísức làmgì? Chính vì Lã Bất Vi là người có nhãn quang chính trị rất sâu rộng. Lúc đó ở nước Tần, Chiêu Tương Vương tuổi cao, cầm quyền khá lâu, sủng ái vị Tướng quốc PhạmThư. PhạmThư thực hiện chiến lược “Viễn giao cận công” (gần thì đánh, xa thì giữ mối giao hảo). Bất Vi dự đoán, nước Hàn sẽ là mục tiêu đầu tiên để Tần quốc thực hiện đường lối này. Nước chư hầu này giống như chiếc lá vàng trong gío thu sớm muộn sẽ bị cuốn trôi. Vị trí nước Tần là: phía Bắc là nước Nguỵ, nước Sở phía Nam, nước Thục phía Tây, nước Hàn phía Đông. Trong bốn nước chư hầu này, đất đai giữa nước Hàn và nước Tần đan cài xen chéo, núisông một dải vì thế nước Hàn trở thành mối hoạ bên trong của Tần quốc. Vì thế, nếu Tần khởi binh, nước Hàn sẽ là nước đầu tiên cần tiến đánh. Năm 265 trước CN, sau khi chiếm được Tiểu Khúc và Cao Bình của nước Hàn, Bạch Khởi được cử làm Nguyên soái thống lĩnh binh Tần. Đây là vị Tả đô Trưởng đa mưu túc trí, tàn sát không ghê tay, quyền lực lớn mạnh dưới Chiêu Tương Vương. Triều Tần nếu nào có quan hệ huyết thống, tông tộc với vua gọi là Đô Trường, còn không có họ hàng gì gọi là Tả Đô Trường. Vị Tả Đô Trường này có công lớn trong việc dẹp tan liên quân Hán, Sở, Nguỵ được phong là Vũ An quân. Mấy mươi vạn quân dướisự thống soái của Bạch Khởi tiến quân ra trận làmquân Hàn chưa đánh đã tan, ùn ùn tháo chạy. Lã Bất Vi biết rõ, lòng binh sĩ nước Hàn dao động, bất yên, lòng dân li tán. Nam đinh trong thành Dương Địch đều bị sung vào quân đội, số trẻ emphụ nữ còn lại lo sợ hoang mang. Có không ít người đã bỏ nhà, dời đến các nước chư hầu khác. Lã Bất Vi không thể khoanh tay nhìn bao châu báu ngọc ngà của mình bị mất. Bất Vi thấy rằng ở nước Hàn, đừng nói là phong hầu bái tướng mà kể cả quân vương, rốt cuộc cũng trở thành vị vua vong quốc “mỏi mắt trông tin nhạn, nơi miếu từ hát khúc bi ca” mà thôi. Cho dù nước Hàn đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng, chỉ cần nhìn thấy lợi, Lã Bất Vi vẫn không bỏ cơ hội kiếm tiền. Bây giờ, Lã Bất Vi đang cùng Triệu Khôi Tử bắt tay vào vụ buôn bán lương thực lớn. Một hôm, người đến mua hàng lương thực vẫn ra vào tấp nập như mọi ngày, mấy người gia nhân mồ hôi như tắm đang tính toán giá cả lên xuống, gạo kê trong các thăng trắng như ngọc, long lanh như giọt mồ hôi của đám người làm. Bụi cám gạo, kê bốc lên như bụi đường, càng thu hút ánh mắt mọi người. Mấy ngày nay, mấy vạn thạch lương đã chất đầy trong kho của Triệu Khôi Tử. Người ở thành Hàm Đan luôn nhìn thấy dáng vẻ phương phi của Lã Bất Vi và dáng điệu gày ốm của Triệu Khôi Tử đứng nhìn kho lương thực, ánh mắt thoả thuê như người đàn bà chửa vớ được của chua. Chưa đầy vài ngày sau, giá lương thực bán ra đã cao vọt. Đầu mùa xuân, hạn hán kéo dài làmcho đất đai nước Hàn khô cằn nứt nẻ, người dân nước Hàn chỉ tuyệt vọng nhìn đồng ruộng hoang tàn, thu về những hạt thóc lép. Ở nước Hàn, đặc biệt tại thành Dương Địch, giá lương thực tăng vọt. Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử đã không bỏ lỡ dịp này. “Không nhận nữa, không nhận nữa!”, một tiếng nói đanh gọn vang lên trong kho. Mấy người lau mồ hôi ngoảnh ra mới biết là tiếng của lão quản gia. Đó là Triệu Thành, mấy chục năm nay, chân chất phục dịch cho nhà Triệu Khôi Tử. Triệu Thành nhìn xung quanh với ánh mắt ngờ vực rồi dõng dạc nhắc lại một lần nữa: “Không nhận nữa, không nhận nữa!”. Đám gia nhân hiểu đó là chủ ý của Triệu Khôi Tử. Họ rút tay khỏi đấu thăng, đứng thẳng dậy, thở hổn hển. Những xe lương xếp đống, xếp hàng trước cửa, theo lời của Triệu Thành không nhận lương thực, tiếng xì xào bàn tán rộ lên, lẽ nào họ thức khuya dạy sớmđể xếp hàng bán đồ lại trở về tay không, tạisao lại không mua lương thực nữa? Triệu Thành rỉ tai đám gia nhân vài câu rồi vội vàng quay về. Triệu Thành biết là Lã Bất Vi và chủ nhân của hắn đang nóng lòng chờ tin tức. Quả nhiên, lúc này, Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử như đang ngồi trên lửa, họ ngồi trong phòng khách của Triệu phủ nhâm nhi chén trà, mỏi mắt chờ trông Triệu Thành đi phát lệnh trở về. Khi ấy lưu truyền lại câu nói: “Xiêmáo ưa hát, tiền bạc mong buôn”. Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử vốn là những thương nhân giỏi giang, lại cùng nhau sinh lợi thật như hổ thêm cánh, rồng thêm vây. Hai người đang tính toán tiền lời trong vụ bán mua lương thực này, có một vị hộ vệ ngày đêm bên thành Triệu Hiếu Thành Dương, ngày thường cũng qua lại với Lã Bất Vi, báo cho Bất Vi một tin động trời: Nước Tần chuẩn bị xuất binh tiến đánh nước Hàn. Vua Trần Chiêu Tương Vương sai sứ giả đến nước Trịêu và các nước chư hầu không được cấp lương thảo và binh khí cho nước Hàn, nếu ai dámgiúp nước Hàn, binh lính Tần sẽ quay lại tấn công ngay nước ấy. Lã Bất Vi biết rõ, cho dù hiện tại Triệu Hiếu Thành Vương chưa chính thức tuyên triệu, cũng chưa xuất binh và lương thực giúp Hàn nhưng vị vua này không dám chống lại vua Tần bạo sát, uy danh lừng lẫy thiên hạ. Việc tuyên triệu làm theo ý chỉ của Tần Vương chỉ là chuyện sớmchiều mà thôi. Tình hình thay đổi khiến Triệu Khôi Tử nao núng, lóng ngóng hỏi Lã Bất Vi: “Chúng ta giữa đường đứt gánh, không mua nữa nhé?” Nói xong, Triệu Khôi Tử nóng lòng như lửa, đi đi lại lại trong phòng. Bất Vi nhìn thấy vị thương nhân thường ngày đĩnh đạc nay sốt ruột như kiến gặp mưa thì cảm thấy buồn cườn. Nhưng Lã Bất Vi biết, lúc này mà cười sẽ khiến người ta tức giận, không chừng sẽ hỏng mọi việc, Bất Vi muốn thay đổi tình hình nhưng cố nén không muốn bộc lộ cảmxúc. Bất Vi nói: “Còn mua gì nữa? Bây giờ còn chưa biết phảisắp xếp hơn trămthạch lương ra sao đây?” Triệu Khôi Tử nói: “Chúng ta không thể đứng giương mắt trông bụi phủ kho được!” Bất Vi nói: “Triệu huynh đừng đùa! Không mất triệu thạch lương sao được? Theo lão đệ, trừ khi Triệu Vương không tuyên triệu, may ra mới đemsố lương này về nước Hàn, chỉ còn cách bán lỗ để giữ vốn thôi”. Triệu Khôi Tử nói: “Bán lỗ giữ vốn, định giở vai cho trời xemsao, hai lần tiền bỏ xuống sông biển à?” Lã Bất Vi thấy thật hài hước, chỉ nói tới lỗ vốn, thì vị công tử ăn nói nho nhã hàng ngày đã biến thành hạng thô tục rồi. Triệu Khôi Tử thấy Lã Bất Vi như vậy bèn trách: “Lẽ nào Lã huynh lại ung dung tự tại, ngồi chờ buông câu! Tình thế này lại còn cười đùa. Theo ý tôi, nên dùng một số xe ngựa, mau chóng chuyển số lương này đến Dương Địch”. Bất Vi nói: “Việc này không thể tuỳ tiện như vậy. Điều xe đánh ngựa chuyển hàng đi xa, sẽ không tới được cổng thành, Triệu Vương hạ lệnh bắt quay về thì mất cả chì lẫn chài!” Triệu Khôi Tử nói: “Từ Hàm Đan đến Dương Địch, quá lắm cũng chỉ mất bốn ngày đường, lệnh của Triệu Vương không thể tới nơi nhanh như thế!” Bất Vi nói: “Đây là lời nói của quân vương, chỉ hạ lệnh thì nửa ngày cũng tới”. Thấy Bất Vi dùng dằng, Triệu Khôi Tử nói: “Nếu là tôi thì ngay bây giờ sẽ điều chuyển xe chở lương” Lã Bất Vi nói: “Không thể hồ đồ! Không thể hồ đồ như vậy! Nếu kháng lệnh chỉ, lời lãi đâu chưa thấy, còn nguy đến tính mạng”. Khi Lã Bất Vi và Triệu Khôi Tử đang bàn đi tính lại cho việc bán buôn, thì nghề ca xướng kỹ nữ vẫn tiếp tục thịnh hành như không có chuyện gì xảy ra. Đây là nghề kỹ nữ kinh doanh thân xác phụ nữ, đem thân làm món hàng lại qua, song chỉ vài ba năm hương phấn đã phai tàn. Ca kỹ vẫn là ca kỹ. Thời cổ đã có nhiều “xóm đào” kiểu này. Người đặt nền móng cho nghề này là Tề Hoàn Công. “Sách Đông Chu Chiến Quốc” viết: “Tề Hoàn Công quản năm sáu thành, xóm liễu đào có tới 700 nơi; sách “Hàn Phi Tử - Thuyết nan cũng viết: “Chư hầu Tề Hoàn Công quản hai thành với 300 xómnữ ca. Xóm nữ ca mà Tề Hoàn Công đặt ra là có thật, chỉ có điều số lượng ghi trong cách sách không giống nhau. Ban đầu, nghề ca kỹ vốn chỉ ý là những người chuyên mua vui cho thiên hạ, họ sống trong các kỹ viện hoặc các “xóm liễu đào” gọi là kỹ nữ. Cư Chử Nhân “Kiên Hồ tập tục” có nói: “Quân tử trị tề, tri nữ lư tam bách, chinh kỳ dạ hợp chi tư, dĩ tư quốc dụng. Ti Khước giáo phường hoa phấn tiền chi thuỷ dã” ý chỉ là mục đích của Quản Trọng trong việc đặt ra xóm chị em đã chưng thuế làm giàu đất nước. Việc này cũng thường thấy ở các nước Quy Từ, Vu Điền (Tây Vực) và một số nước chư hầu sau này. Theo “Thập tamchâu chí” ghi: “Phía Đong thông linh, con người háo sắc, Quy Từ, Vu Điền đặt xóm nữ thu tiền. “Nguỵ Thư – Quy Từ Tuyền” cũng nói: “Quy Từ thông thục, đặt chức quan thu thuế phường ca kỹ”. Đây là Lạc Dương Cốc thay Triệu Hiếu Thành Vương quản lý kỹ viện. Người này thường mua lương thực cho xóm chị em nên cũng biết Triệu Khôi Tử song chưa từng gặp Lã Bất Vi. Triệu Khôi Tử giới thiệu: “Vị tiên sinh này là thương nhân buôn châu ngọc…”, không đợi Triệu Khôi Tử nói hết, Dương Cốc kính cẩn nói: “Nếu như tôi không nhầm, vị này chính là Lã Bất Vi danh bất hư truyền”. Triệu Khôi Tử bật cười sảng khoái: “Đúng là Dương cốc tiên sinh có con mắt tinh đời!” Bất Vi vội cúi mình hành lễ, nói với Dương Cốc: “Hân hạnh, hân hạnh được biết”. Dương Cốc nói: “Lã tiên sinh phong thái đường hoàng, từ trước tới giờ chưa từng lui đến xóm liễu đào này, thật đáng mặt một vị chính nhân quân tử”. Bất Vi cười, khiêmtốn trả lời: “Thực không dám. Lã Bất Vi không phải là chính nhân quân tử như lời Dương Cốc ngợi khen, chỉ là thương nhân tầmthường, không xứng với lời của Lạc tiên sinh”. Lạc tiên sinh nói: “Chỉ cần Lã huynh có nhã hứng, sau này có tuyệt sắc giai nhân tôi xin tặng lại cho Lã tiên sinh”. Hàn huyên một hồi, Lạc Dương Cốc và Triệu Khôi Tử quay ra ngã giá lương thực. Vị này mỗi tháng đến mua một lần cho xóm chị em. Bất Vi thấy nét mặt phốp pháp, trơn bóng của Dương Cốc, dường như tự mình tìm được viên ngọc quý hiếm. Bất Vi biết tên “đại trân châu” này sẽ giúp mình tới bên Triệu Hiếu Thành Vương dễ như trở bàn tay. Vì chỉ là người thân tín của Thành Vương mới được giao trọng trách này. Bất Vi thấy cuộc nói chuyện giữa hai người gần kết thúc, không bỏ lỡ dịp may hỏi Lạc Dương Cốc: “Nghe nói vua Tần đưa thư cho Triệu Vương, không cho phép xuất binh và lương thảo giúp nước Hàn, không biết Đại Vương chúng ta dự định như thế nào?” Dương Cốc nói: “Trong cung chưa thấy động tĩnh gì, nhưng xemra Đại Vương không thể kháng lại ý chỉ của Tần Vương”. Sau khi Dương Cốc ra về, Khôi Tử mời Bất Vỉ ở lại phủ uống rượu, bàn tính về cách giải quyết cho hơn một trăm thạch lương. Suy đi tính lại vẫn chưa có lối thoát. Tiệc rượu sắp tàn. Khôi Tử gọi con gái độc nhất của mình là Triệu Cơ ra múa hát mua vui. Triệu Cơ chỉ trang điểmqua loa, thoa chút phấn hương, nhẹ nhàng bước ra, tới trước yến tiệc, phất nhẹ tay áo, múa nhẹ như bay. Năm nay Triệu Cơ mười tám tuổi, đang lúc dậy thì khoe hương. Lã Bất Vi nhìn sắc mặt hồng hào của Triệu Cơ tưởng như đá mã não mịn màng, đôi lông mày thanh tú, đôi mắt như hớp hồn người khác, đôi môi chúm chím hoa đào, chiếc mũi cao nhỏ nhắn, tất cả như nét điêu khắc tinh xảo trên khuôn mặt trái xoan kiều diễm. Cổ áo hơi rộng để lộ khoảng ngực trắng ngần gợi cho người ta lạc vào cõi mê với bao liên tưởng kỳ bí. Triệu Cơ dùng tiếng hát ngọt ngào ngân lên điệu ca réo rắt thu hồn Lã Bất Vi. Bất Vi biết từng tế bào trong con người đang thay đổi. Trước đây khi đến Triệu phủ cũng từng gặp mấy vị ở vườn hoa hay trong phòng khách. Không biết do tâm ý thô thiển hay do mải buôn bán mà Lã Bất Vi không hề có ấn tượng gì. Hômnay Bất Vi mới phát hiện vẻ đẹp quyến rũ của Triệu Cơ. Triệu Cơ vừa hát vừa múa: Quan quan tư cưu Tại hà tri châu Yểu điện thục nữ Quân tử hảo cầu Thamsai hạnh thái Tả hữu lưu chi Yểu điệu thục nữ Ngộ mị cầu chi… Khoảng 23 năm sau, Triệu Cơ với Trường Tín Hầu thông dâm làm loạn nội cung, sau khi bình định phản loạn, Triệu Cơ bị chính Tần Vương Doanh Chính con đẻ của mình đày sang đất Ung hoang sơ vắng vẻ, cô độc với ngọn đèn thâm cung. Ba trăm lính hầu như một hàng rào vững chắc, Triệu Cơ trở thành vị thái hậu bị gông cùm. Lúc ấy, Lã Bất Vi cũng bị bãi chức Thừa tướng, sức tàn lực kiệt quay về thực ấp ở Hà Nam. Trước khi đi, một mình lặng lẽ tới Hàm Dương, muốn cáo biệt với người con gái bao lần chung chăn gối. Bất Vi nghe trong gió như lời ca của Triệu Cơ như oán như than, đúng là tiếng hát của Triệu Cơ. Tuy không còn trong trẻo như hồi trẻ nhưng tiếng ca vẫn réo rắt như dạo nào: Quan quan tư cưu Tại hà tri châu Yểu điện thục nữ Quân tử hảo cầu Thamsai hạnh thái Tả hữu lưu chi Yểu điệu thục nữ Ngộ mị cầu chi… """