" Lá Bài Chủ - Jeffery Deaver PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lá Bài Chủ - Jeffery Deaver PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo LÁ BÀI CHỦ JEFFERY DEAVER Nguyễn Quang Huy dịch TÁC GIẢ: Sinh ngày 6 tháng 5 năm 1950 tại ngoại ô thành phố Chicago, bang Illinois. Ông là một cựu nhà báo, luật sư và ca sĩ hát nhạc dân gian. Trong sự nghiệp văn chương của mình, ông đã sáng tác hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm của ông được bán tại hơn một trăm năm mươi quốc gia và được dịch ra hai mươi lăm ngôn ngữ khác nhau. Ông đã giành được: - Giải Tác giả viết truyện hình sự. - Giải Độc giả Ellery Queen - Giải British Thumping Good Read - Giải Anthony, giải thưởng văn học cao quý dành cho các tác giả viết truyện trinh thám - Đề cử giải Edgar của tổ chức Các tác giả viết truyện trinh thám Mỹ. TÁC PHẨM: Khi một thám tử trong thành phố Washington trở thành mục tiêu của Henry Loving, ngay lập tức chính phủ đã đưa anh ta và gia đình của anh vào chương trình bảo vệ nhân chứng. Henry Loving là “kẻ moi tin” xảo trá và độc ác, hắn có thể sử dụng bất cứ thủ đoạn nào để moi được thông tin từ những nạn nhân của hắn. Gia đình thám tử được bảo vệ bởi sĩ quan Corte, người biết rõ sự tàn nhẫn của “kẻ moi tin” Henry Loving - kẻ mà sáu năm trước đã tra tấn và sát hại người thầy và cũng là người bạn thân thiết của anh. Khi không khí giữa những thành viên trong gia đình thám tử ngày càng căng thẳng cũng là lúc cuộc đấu trí giữa người bảo vệ và “kẻ moi tin” trở nên quyết liệt và cam go hơn. Loving càng tiến gần về phía nạn nhân hơn, Corte buộc phải đưa ra quyết định giữa việc bảo vệ nhân chứng hay dùng họ làm mồi nhử dưới danh nghĩa trả thù cá nhân. Tháng Sáu, 2004 LUẬT CHƠI: Kẻ muốn giết người phụ nữ trẻ ngồi cạnh tôi đang ở sau lưng chúng tôi hơn một cây số, khi chúng tôi lái xe qua một khung cảnh đồng quê với các cánh đồng bông và thuốc lá, vào buổi sáng ẩm ướt này. Liếc nhìn gương chiếu hậu, một chiếc xe hơi đang thong dong hòa vào dòng xe cộ, cầm lái là người đàn ông trông chẳng khác gì so với hàng trăm tài xế khác trên xa lộ mới được phân làn và rải nhựa. “Sĩ quan Fallow?” Alissa mở lời. Giống như tôi đã cố nài cô ta suốt tuần qua: “Abe?” “Vâng.” “Hắn ta còn đó không?” Cô ta nhìn thẳng vào mắt tôi. “Còn. Và cái đuôi của chúng ta cũng thế,” Tôi nói thêm để trấn an. Đệ tử của tôi đang bám theo kẻ sát nhân, cách hai hoặc ba thân xe. Cậu ta không phải là người duy nhất từ tổ chức của chúng tôi tham gia nhiệm vụ này. “Được rồi,” Alissa thì thầm. Cô gái trẻ, ngoài ba mươi tuổi này là người đứng lên tố giác một nhà thầu chính phủ đã làm rất nhiều việc cho quân đội. Công ty cương quyết cho rằng họ chẳng làm gì sai và họ sẵn sàng tham gia cuộc điều tra. Tuy hiên đã xuất hiện âm mưu muốn đoạt mạng sống của Alissa tuần trước - và vì tôi đã từng nhập ngũ với một trong các tư lệnh cấp cao tại Bragg - nên Bộ Quốc phòng đã cho gọi tôi để bảo vệ cô ta. Là người đứng đầu tổ chức, tôi không còn đảm nhận công tác thực địa nữa nhưng tôi rất mừng khi được ra ngoài, được nói sự thật. Một ngày điển hình của tôi là mười tiếng giam mình trong văn phòng ở Alexandria. Và trong một tháng qua đã lên tới gần mười hai hay mười bốn tiếng khi chúng tôi hợp tác với nhau bảo vệ năm người cấp tin về tội ác có tổ chức cấp cao, trước khi bàn giao họ cho Chương trình Bảo vệ Nhân chứng để thay đổi dung mạo. Thật vui khi lại được chiến đấu, dù chỉ hơn một tuần. Tôi ấn phím quay số nhanh, gọi cho đệ tử của tôi. “Abe đây,” tôi nói vào điện thoại trên xe. “Giờ hắn đâu rồi?” “Cách nửa dặm. Đang di chuyển chậm rãi.” Sát thủ chưa rõ nhân dạng đang lái chiếc sedan hiệu Hyundai màu xám, chẳng có gì nổi bật. Tôi đang đi sau một chiếc xe tải dài hơn năm mét, dòng chữ CÔNG TY CHẾ BIẾN THỊT DA CẦM CAROLINA sơn trên sườn xe. Nó trống không và người cầm lái là nhân viên vận tải của chúng tôi. Chạy trước nó là một chiếc xe tương tự kiểu xe tôi đang lái. “Còn hai dặm nữa chúng ta sẽ trao đổi,” tôi nói. Bốn giọng nói xác nhận qua bốn thiết bị liên lạc được mã hóa. Tôi ngắt kết nối. Tôi nói với Alissa mà không nhìn cô ta. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi.” “Tôi chỉ...” cô ta thì thầm. “Tôi không biết.” Cô ta chợt im lặng nhìn chằm chằm vào gương chiếu hậu như thể kẻ muốn giết cô ta đang ở ngay sau lưng chúng tôi. “Mọi chuyện sẽ y như chúng ta lên kế hoạch.” Khi những người vô tội lâm vào tình cảnh đòi hỏi sự xuất hiện và bảo vệ của những người như tôi, phản ứng thường thấy của họ là sợ hãi nhiều hơn là bối rối. Cái chết là vấn đề rất khó đương đầu. Nhưng bảo vệ họ an toàn, giữ mạng sống cho họ cũng là một nghề như bất kì nghề nào khác. Tôi thường hay nói thế với đệ tử của mình và những người khác trong văn phòng, có thể khiến họ vô cùng khó chịu vì việc nhắc đi nhắc lại quá nhiều cùng với cả tông giọng nhàm chán. Nhưng tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại vì đó là điều không được phép quên, không bao giờ. Đó là một nghề, với những quy trình cứng nhắc tới nỗi chúng tôi phải nhiên cứu cách bác sĩ phẫu thuật học kĩ thuật xẻ thịt chuẩn xác, cách phi công học kĩ thuật giữ hàng tấn kim loại lơ lửng an toàn trên không trung. Những kĩ thuật này được mài sắc dần theo năm tháng và chúng hiệu quả. Nghề... Đương nhiên, ngay cả tên sát thủ lúc này đang ở sau lưng chúng tôi, kẻ nuôi ý định giết chết người phụ nữ đang ngồi kế bên tôi đây, cũng xem công việc của hắn như một nghề. Một điều này mà tôi chắc như đinh đóng cột. Hắn cũng nghiêm túc hệt như tôi, cũng nghiên cứu các quy trình cần cù như tôi, cũng thông minh, có chỉ số IQ cao và thông thạo ngón nghề lưu manh đường phố, và hắn có lợi thế hơn tôi. Những quy tắc của hắn không bị cản trở bởi những ràng buộc giống như của tôi - Hiến pháp và những điều luật được ban hành kèm theo đó. Dẫu vậy, tôi tin rằng làm điều đúng đắn cũng là lợi thế. Trong suốt bao nhiêu năm làm nghề này tôi chưa bao giờ để thân chủ nào của mình phải chết. Và tôi sẽ không để mất Alissa. Một nghề... nghĩa là phải bình tĩnh như bác sĩ phẫu thuật, bình tĩnh như phi công. Alissa thì không bình tĩnh được, tất nhiên rồi. Cô ta đang thở gấp, lo lắng vân vê cổ tay áo và nhìn chằm chằm cây hoa mộc lan xum xuê ki chúng tôi đi ngang qua, cái cây như một người canh gác cánh rừng hạt dẻ, bao quanh một cánh đồng bông lớn là những bụi cỏ đang mọc dày đặc. Cô ta lo lắng xoay xoay chiếc vòng kim cương mỏng manh - món quà cô tự tặng mình vào ngày sinh nhật vừa qua. Cô liếc nhìn món trang sức rồi lại nhìn hai lòng bàn tay, chúng đang đổ mồ hôi, cô đặt hai bàn tay lên chiếc chân váy màu xanh hải quân. Khi tôi làm nhiệm vụ chăm sóc Alissa, cô chỉ mặc trang phục tối màu. Là một cách ngụy trang, nhưng không phải vì cô là mục tiêu của một sát thủ chuyên nghiệp; mà là vì cân nặng, kẻ thù mà cô đã đánh vật suốt từ thời niên thiếu. Tôi biết điều đó khi chúng tôi dùng bữa và tôi tận mắt chứng kiến cuộc chiến ấy. Cô ta thỉnh thoảng có nhắc đến vấn đề về cân nặng của mình với một sự e ngại. Vài thân chủ không cần hoặc không muốn quá thân thiết. Những người khác, như Alissa, lại cần chúng tôi làm bạn với họ. Tôi không giỏi trong vai trò ấy nhưng tôi vẫn cố gắng và nói chung là có thể đảm bảo tròn vai. Chúng tôi đi qua một biển báo. Lối ra còn cách một dặm rưỡi nữa. Một nghề đòi hỏi phải lên kế hoạch thông minh, đơn giản. Bạn không thể đối phó với kiểu công việc như thế này và cho dù tôi ghét cái từ “chủ động” (từ trái nghĩa là gì ấy nhỉ, phản chủ động à? ), nhưng khái niệm này có tầm quan trọng sống còn với công việc của chúng tôi. Trong nhiệm vụ này, muốn đưa Alissa an toàn và bình yên đến gặp công tố viên để cung cấp bằng chứng, tôi cần phải để mắt đến tên sát thủ. Vì đệ tử của tôi đã và đang theo dõi hắn mấy tiếng đồng hồ rồi, nên chúng tôi biết hắn ở đâu và có thể tóm hắn bất kì lúc nào. Nhưng nếu làm thế, kẻ bỏ tiền thuê hắn sẽ chỉ đơn giản là gọi một tên khác hoàn thành công việc này. Tôi muốn giữ chân hắn trên đường đến cuối ngày - đủ lâu để Alissa đến được Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ1 cung cấp thông tin đầy đủ để không còn bị nguy hiểm nữa. Một khi lời khai được ghi chép lại, tên sát thủ sẽ không còn muốn loại bỏ nhân chứng nữa. 1. The U. S Attorney’s office: Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ đại diện cho Hoa Kỳ trong các vụ án liên quan, phát sinh từ luật liên bang do Quốc hội ban hành. Kế hoạch tôi đã vạch ra, với sự giúp sức của đệ tử, là tôi phải vượt qua chiếc xe tải Thịt Gia cầm Carolina kia và ddi trước nó. Tên sát thủ sẽ tăng tốc để không mất dấu chúng tôi nhưng trước khi hắn kịp đến gần, chiếc xe tải và xe của tôi sẽ thoát ra đồng thời. Vì khúc cua trên con đường và bờ dốc tôi đã chọn, tên sát thủ sẽ không thể trông thấy xe của tôi và nhận nhầm chiếc xe chim mồi. Alissa và tôi sau đó sẽ đi theo một tuyến đường phức tạp tới một khách sạn ở Raleigh, một vị ủy viên công tố đang chờ, trong khi chiếc xe chim mồi tới một tòa án tại Charlotte, cách địa điểm kia ba giờ đi xe. Vào lúc tên sát thủ nhận ra mình bám theo một mục tiêu giả, thì đã quá muộn. Hắn sẽ gọi cho kẻ thuê - ông chủ của hắn - và nhiều khả năng thỏa thuận sát thủ sẽ bị hủy bỏ. Sau đó chúng tôi sẽ tiến vào, bắt giữ tên sát thủ rồi cố gắng truy ngược về kẻ thuê hắn. Khoảng một dặm nữa là đến lối rẽ. Chiếc xe tải chở thịt gà cách khoảng chín mét trước mặt. Tôi để ý Alissa, lúc này cô đang nghịch sợi dây chuyền bằng vàng và thạch anh tím. Mẹ cô đã tặng nó cho cô vào ngày sinh nhật mười bảy tuổi, món quà quá đắt đỏ so với khả năng kinh tế của gia đình nhưng là phần thưởng an ủi không lời sau khi không có ai mời cô đến vũ hội. Người ta thường hay chia sẻ rất nhiều với những người đang cứu vớt với sự sống của mình. Điện thoại của tôi đổ chuông. “Allo?” Tôi trả lời cuộc gọi của đệ tử. “Đối tượng đã tiến gần hơn một chút. Cách chiếc xe tải khoảng hai trăm mét.” “Chúng tôi gần tới nơi rồi,” tôi nói. “Đi thôi.” Tôi nhanh chóng vượt qua chiếc xe tải chở thịt gia cầm rồi lách vào phía sau chiếc xe mồi - rất sát nhau. Cầm lái chiếc xe mồi là một người trong tổ chức, hành khách là một đặc vụ FBI trông rất giống Alissa. Văn phòng đã rất nâo nhiệt khi chúng tôi chọn ra người đóng giả tôi. Đầu tôi tròn và đôi tai hơi nhô ra một chút mà tôi không thích lắm. Tóc tôi cứng và có màu đỏ, dáng tôi không cao. Thế nên ở văn phòng họ đã dành hẳn vài giờ đồng hồ thi tuyển để tìm ra sĩ quan nào giống yêu tinh nhất đề đóng giả tôi. “Tình hình thế nào?” Tôi nói vào điện thoại. “Hắn đã đổi làn và đang tăng tốc một chút.” Tôi suy nghĩ, hắn sẽ muốn trông thấy tôi. Tôi nghe thấy, “Chờ chút... chờ chút.” Tôi sẽ phải dặn dò đệ tử của mình để ý tới những từ thừa thãi; dù những lời trên điện thoại của chúng tôi được mã hóa, nhưng thực tế việc truyền tin này vẫn có thể bị phát hiện. Cậu ta sẽ học được bài học này nhanh thôi và phải ghi nhớ nó. “Tôi sắp tới lối ra rồi. Được rồi. Chúng ta đi thôi.” Vẫn đang đi ở tốc độ sáu mươi dặm một giờ, tôi dễ dàng nhập vàl làn thoát rồi ngoặt ở khúc quanh, bao quanh là những cái cây to. Chiếc xe tải chở thịt bám ngay sau tôi. Đệ tử của tôi báo cáo, “Tốt. Đối tượng thậm chí không nhìn về phía anh. Hắn vẫn đang chú ý tới xe mồi và đang giảm dần về tốc độ giới hạn.” Tôi dừng xe trước đèn đỏ nơi đoạn đường dốc dẫn tới Đường 18, rồi rẽ phải. Chiếc xe tải chở thịt rẽ trái. “Đối tượng đang tiếp tục đi trên tuyến đường đã định,” tiếng đệ tử tôi vang lên. “Mọi chuyện có vẻ rất ổn thỏa.” Giọng cậu ta bình tĩnh. Tôi thường không để cảm xúc ảnh hưởng khi làm nhiệm vụ, nhưng cậu ta còn làm tốt hơn cả tôi. Cậu ta hiếm khi mỉm cười, không bao giờ đùa cợt và thực sự tôi không hiểu nhiều về cậu ta, cho dù chúng tôi đã làm việc cùng nhau, thường xuyên hợp tác chặt chẽ, trong vài năm. Tôi muốn thay đổi điều ấy ở cậu ta - cái vẻ buồn rầu ấy - không phải vì công việc, vì cậu ta thực sự, thực sự rất giỏi, mà đơn giản chỉ vì tôi ước gì cậu ta thấy vui vẻ hơn một chút với việc chúng tôi đang làm. Việc nỗ lực bảo vệ an toàn cho mọi người có thể rất thỏa mã, thậm chí là vui sướng. Đặc biệt là khi bảo vệ các gia đình, việc chúng tôi làm khá thường xuyên. Tôi dặn cậu ta cập nhật tin tức cho tôi rồi ngắt liên lạc. “Vậy chúng ta an toàn rồi à?” Alissa hỏi. “Chúng ta an toàn rồi,” tôi đáp, tăng tốc độ lên năm mươi dặm một giờ trên đoạn đường giới hạn là bốn mươi lăm. Trong mười lăm phút, chúng tôi đi quanh co dọc ngoại ô Raleigh, nơi chúng tôi sẽ gặp gỡ công tố viên để cung cấp lời khai. Bầu trời u ám phủ đầy mây và khung cảnh nơi đây có lẽ đã như thế suốt bao nhiêu năm rồi, những trang trại bằng gỗ một tầng, những cái lán, các xe moóc vầ xe có động cơ trong tình trạng khá tệ nhưng vẫn hoạt động được nếu còn được chăm sóc tốt và có chút may mắn song hành. Một trạm xăng đang quảng cáo thương hiệu tôi chưa từng nghe nói đến. Lũ chó đang lười nhác ngồi gặm bọ chét. Đàn bà mặc quần bò bó sát, đang trông con. Đàn ông có gương mặt thèm bia và những cái bụng tròn, đang ngồi trên ghế dài, chẳng chờ đợi điều gì. Hầu hết bọn họ đều tò mò nhìn về hướng xe của chúng tôi - đang chở theo kiều người họ không hag thấy ở vùng này: đàn ông mặc áo sơmi trắng, complet đen, đeo cravat còn đàn bà cắt tóc theo lối công sở. Sau đó chúng tôi đi qua các khu dân cư, tiếp tục xuyên qua những cánh đồng. Tôi thấy các cây bông bị rụng lá trong kì tăng trưởng giống cây ngô, và tôi nghĩ 150 năm trước trên chính mảnh đất này đã phủ đầy những loại hoa màu tương tự như thế nào; cuộc Nội chiến, và những người đã tham gia chiến đấu, sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí bạn khi bạn ở miền Nam. Điện thoại reo vang, tôi trả lời. Giọng đệ tử của tôi rất khẩn cấp. “Abe.” Hai vai căng lên, tôi hỏi, “Hắn rời khỏi đường cao tốc chưa?” Tôi không quá lo lắng, chúng tôi đã rời khỏi đường cao tốc nửa tiếng trước rồi. Giờ này tên sát thủ hẳn đã cách xa chúng tôi bốn mươi dặm. “Không, hắn vẫn bám theo chiếc xe mồi. Nhưng vừa xảy ra một chuyện. Hắn đã gọi một cuộc gọi trên di động. Sau khi tắt máy thì có chuyện lạ. Hắn đang lấy tay lau mặt. Tôi tiến lên cách khoảng hai thân xe. Có vẻ như hắn đang khóc.” Tôi nhanh chóng thở hắt ra khi cân nhắc những lí do cho chuyện này. Cuối cùng cái viễn cảnh khó tin, rắc rối này là khả thi nhất: Nếu tên sát thủ đã nghi ngờ chúng tôi dùng xe mồi nên cũng sử dụng xe mồi của hắn thì sao? Hắn đã ép ai đấy đóng giả mình - hệt như người giống yêu tinh trong chiếc xe mồi của chúng tôi - để bám theo chúng tôi. Cuộc gọi mà đệ tử của tôi vừa chứng kiến có thể là giữa người lái xe và tên tội phạm thực sự, là kẻ có lẽ đang nắm trong tay tính mạng vợ hoặc con cái của người đàn ông này. Nhưng nếu vậy, thì tức là hung thủ thực sự có thể đang ở chỗ khác và... Một vệt ánh sáng trắng phóng như bay về phía chúng tôi, khi chiếc xe bán tải Ford xuất hiện từ lối vào của trạm xăng ế ẩm, hoang vắng bên tay trái đâm bổ vào cao tốc. Đang trang bị các thanh càng đẩy phía trước, chiếc xe tải đâm sầm vào bên ghế tài xế xe chúng tôi, đẩy chúng tôi qua hàng cỏ dại cao về phía hẻm núi nông một cách gọn gàng. Alissa thét lên còn tôi gằm gừ trong đau đớn và nghe thấy đệ tử gọi tên tôi, rồi chiếc di động và điện đàm của tôi bay về phía sau, bị túi khí phình ra hất văng. Xe chúng tôi lao xuống con đường dốc khoảng mét rưỡi rồi dừng lại dưới một con lạch nông, đáy mềm như xốp. Ôi, hắn đã canh thời điểm tấn công rất chuẩn và khi tôi còn chẳng kịp tháo dây an toàn để lấy súng thì hắn đã giáng một nhát búa xuống kính xe ghế tài xế, làm nó vỡ tan rồi khiến tôi choáng váng bằng một cú đánh. Khẩu Glock của tôi bị hắn giật ra khỏi đai súng và bỏ vào túi. Khớp vai tôi bị trật, tôi nghĩ, không chảy nhiều máu lắm. Tôi nhổ miếng kính vỡ khỏi miệng và nhìn Alissa. Cô ta quá choáng váng nhưng có vẻ không bị thương nặng. Tên sát thủ đang không cầm súng, mà chỉ cầm búa, nên tôi nghĩ rằng nếu bỏ chạy ngay bây giờ cô ta sẽ có cơ hội trốn vào lùm cây và trốn thoát. Không hẳn là một cơ hội nhưng vẫn đáng để tận dụng. Nhưng cô ta phải di chuyển ngay bây giờ. “Alissa, chạy đi, về phía bên trái! Cô làm được mà! Đi ngay!” Cô ta mở tung cửa và lăn ra ngoài. Tôi quay nhìn lại con đường. Tất cả những gì tôi thấy là chiếc xe tải màu trắng đậu trên lề đường gần con lạch nơi người ta thường săn ếch làm mồi câu, như hàng tá xe tải khác tôi đã thấy trên tuyến đường. Nó chắn hết tầm mắt khi nhìn từ phía con đường. Hệt như thể tôi dùng chiếc xe tải để chặn lối thoát của chính mình. Tôi chán nản nghĩ. Tên sát thủ lúc này vươn tay ra mở khóa cửa xe tôi. Tôi liếc nhìn trong đau đớn, thầm biết ơn sự chậm trễ của hắn. Thế nghĩa là Alissa có thể chạy xa thêm nữa. Người của tôi sẽ biết vị trí chính xác của tôi qua GPS và có thể gọi cảnh sát tới đây trong mười lăm hoặc hai mươi phút nữa. Cô ta có thể làm được. Làm ơn, tôi nghĩ khi quay lại nhìn con đường mà cô sẽ chạy thoát thân, lòng con lạch nông. Ngoại trừ việc cô ta chẳng chạy đi đâu cả. Những giọt nước mắt rơi lã chã xuống má, cô ta đứng cạnh chiếc xe gục đầu xuống, hai cánh tay khoanh lại trên ngực. Phải chăng cô bị thương nặng hơn tôi nghĩ? Cánh cửa xe bên tôi mở ra và tên sát thủ kéo lê tôi ra ngoài, hắn thành thạo trói hai tay tôi lại bằng dây thít. Hắn buông tay ra , tôi ngã gục xuống lớp bùn mùi chua chua, bên cạnh những con dế. Dây thít ư? Tôi tự hỏi. Tôi lại nhìn Alissa, giờ đang đứng tựa người vào xe, không thể nhìn về phía tôi. “Làm ơn”. Cô ta đang nói chuyện với kẻ tấn công chúng tôi. “Còn mẹ tôi?” Không, cô ta không choáng váng và không bị thương nặng, tôi đã nhận ra lí do tại sao cô ta không chạy, bởi vì cô ta chẳng có lí do gì mà phải chạy. Cô ta không phải là mục tiêu. Mà là tôi. Toàn bộ sự thật khủng khiếp đã rõ ràng. Kẻ đang đứng cạnh tôi bằng cách nào đó đã tiếp cận với Alissa từ vài tuần trước và đe dọa sẽ làm tổn thương mẹ cô ta - buộc Alissa phải bịa ra một câu chuyện về việc tham nhũng của nhà thầu chính phủ. Bởi vì chuyện này có liên quan tới một căn cứ quân đội mà tôi quen biết tay tư lệnh, nên kẻ săn mồi này đã cá rằng tôi sẽ ngoan ngoãn đi theo bảo vệ cô ta. Suốt tuần trước Alissa đã cung cấp cho tên này thông tin chi tiết về các quy trình an ninh. Hắn không phải là sátthủ, hắn là một kẻ moi tin, kẻ được thuê để lấy thông tin từ tôi. Tất nhiên, là thông tin về vụ án hình sự có tổ chức tôi vừa đảm nhận. Tôi biết các nhân dạng mới của năm nhân chứng trước tòa. Tôi biết Chương trình Bảo vệ Nhân chứng đã sắp xếp chỗ ở cho họ ở đâu. Cố gắng thở qua làn nước mắt, Alissa đang nói, “Anh đã bảo tôi…” Không thèm chú ý tới cô ta, kẻ moi tin xem đồng hồ đeo tay và gọi một cuộc. Tôi cho rằng hắn gọi cho người đàn ông trong chiếc xe mồi, đang bị đệ tử của tôi theo dõi, cách đó năm mươi dặm. Cậu ấy không đi được đến cùng. Chiếc xe mồi chắc phải tấp vào lề đường, ngay sau khi vụ đâm xe được ghi nhận thông qua cuộc gọi trên di động. Thế nghĩa là kẻ moi tin biết hắn không có nhiều thời gian như hắn muốn. Tôi tự hỏi mình có thể chịu đựng được đòn tra tấn trong bao lâu. “Làm ơn,” Alissa lại bắt đầu thút thít. “Mẹ tôi. Anh đã nói nếu tôi làm theo anh… Làm ơn, bà ấy có sao không?” Kẻ moi tin liếc mắt về phía cô ta, dường như sau khi nghĩ lại, hắn rút khẩu súng ngắn từ trong đai súng ra bắn hai phát vào đầu cô ta. Tôi nhăn nhó, cảm thấy tuyệt vọng đến nhức nhối. Hắn rút một phong bì giấy tả tơi trong túi áo khoác ra, mở nó ra, quỳ xuống bên cạnh tôi, đổ hết những thứ bên trong xuống đất. Tôi có thể thấy chúng là gì. Hắn tháo giày và hai chiếc tất của tôi ra. Bằng giọng nhẹ nhàng, hắn hỏi, “Mày biết thông tin mà tao cần chứ?” Tôi gật đầu xác nhận. “Mày sẽ nói tao nghe chứ?” Nếu tôi có thể chịu đựng được trong mười lăm phút thì có khả năng cảnh sát địa phương sẽ tới đây kịp khi tôi vẫn còn sống. Tôi lắc đầu phản dối. Bình thản, như thể câu trả lời của tôi chẳng tốt cũng không tệ, hắn bắt tay vào việc. Chịu đựng trong mười lắm phút, tôi tự nhủ với mình. Tôi bật lên tiếng thét đầu tiên ba mươi giây sau đó. Một tiếng thét khác theo ngay sau rồi từ ấy cứ sau mỗi hơi thở ra là một tiếng thét chói tai. Kèm theo là nước mắt và nỗi đay đớn dữ dội như ngọn lửa bao trùm khắp người tôi. Mười ba phút, tôi suy nghĩ. Mười hai… Nhưng cho dù tôi không thể đoán chắc, có lẽ còn chưa kịp trôi qua sáu, bảy phút sau tôi đã thở hồng hộc, “Dừng lại, dừng lại!” Hắn làm theo. Và tôi cho hắn biết chính xác điều hắn muốn biết. Hắn ghi chép nguệch ngoạc thông tin rồi đứng dậy. Trong bàn tay trái là chùm chìa khóa xe tải lúc lắc. Tay phải là khẩu súng lục. Hắn nhắm khẩu tự động giữa trán tôi và tôi cảm thấy gần như là nhẹ nhõm, một sự nhẹ nhõm khủng khiếp, rằng ít nhất đau đớn sẽ chấm dứt. Người đàn ông lùi lại khẽ nheo mắt tính toán phát súng, và tôi nhận ra chính mình… Tháng chín, 2010 THỨ BẢY Mục đích của trò chơi là đột nhập và chiếm lấy Lâu đài của đối thủ hoặc thảm sát Hoàng thân quốc thích của hắn… NHỮNG HƯỚNG DẪN CỦA TRÒ CHƠI BOARD GAME PHONG KIẾN CHƯƠNG 1 “Corte, chúng ta đang có một vụ rất tệ.” “Nói tiếp đi,” tôi nói vào chiếc micro cổ ngỗng. Tôi đang ngồi tại bàn làm việc, trong chế độ điện thoại rảnh tay. Tôi bỏ mảnh giấy viết tay cũ đang đọc xuống. “Thân chủ và gia đình anh ta đang ở Fairfax. Có một lệnh thi hành gửi cho kẻ moi tin và có vẻ như hắn đang chịu sức ép về thời gian.” “Bao lâu?” “Hai ngày.” “Ông biết ai thuê hắn không?” “Cái này thì chịu, con trai ạ.” Hôm đó là thứ Bảy, hẵng còn sớm. Trong công việc này, chúng tôi thường làm việc vào những giờ giấc và tuần làm việc bất thường dài ngắn khác nhau. Giờ làm việc của tôi mới bắt đầu hai ngày trước và cuối chiều hôm qua tôi vừa kết thúc một vụ nhỏ. Tôi dành cả ngày để dọn dẹp giấy tờ, một công việc tôi yêu thích, nhưng trong tổ chức, tất cả chúng tôi đều sẽ liên tục bị gọi. Nói tiếp đi, Freddy? “Tiếp tục theo dõi nhé, Freddy.” Có điều gì đó trong tông giọng của ông ấy. Mười năm làm việc cùng ai đó, ngay cả chỉ là thi thoảng đi nữa, với kiểu công việc này, bạn sẽ nắm rõ những dấu hiệu. Một đặc vụ FBI, vốn nổi tiếng vì cá tính quả quyết, giờ thì lại ngần ngừ. Cuối cùng: “Được rồi, Corte, vấn đề là…” “Là gì?” “Kẻ moi tin là Henry Loving… Tôi biết, tôi biết. Nhưng thông tin đã được xác nhận rồi.” Một lúc sau, tôi chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim mình và tiếng mạch máu trong hai tai tôi. Tôi tự động trả lời, mặc dù là vô nghĩa, “Hắn chết rồi. Rhode Island.” “Đã chết. Được báo cáo là đã chết.” Tôi liếc nhìn những cái cây ngoài khung cửa sổ, xao động trong cơn gió nhẹ tháng Chín, rồi nhìn bàn làm việc của mình. Gọn gàng nhưng nhỏ và làm bằng thứ gỗ rẻ tiền. Trên bàn là vài mảnh giấy, mỗi mảnh đều khiến tôi chú ý ít nhiều, cũng như một chiếc hộp bằng carton nhỏ mà FedEx đã giao đến căn nhà trong thị trấn, chỉ cách văn phòng tôi vài tòa nhà sáng hôm đó. Đó là món hàng trên eBay mà tôi đã rất mong mỏi được nhận. Tôi đã lên kế hoạch xem xét kỹ đồ trong hộp vào bữa trưa ngày hôm nay. Giờ tôi phải gạt nó sang một bên. “Nói tiếp đi.” “Tại Providence à? Còn một người nữa trong tòa nhà.” Freddy lấp đầy thông tin còn thiếu, cho dù gần như tôi đã suy luận được ra ngay chính xác chuyện gì đã xảy ra - nhờ bản mô tả của đặc vụ. Hai năm trước căn nhà kho nơi Henry Loving lẩn trốn, sau khi thoát khỏi cái bẫy tôi đã giăng ra chờ hắn, đã cháy thành tro bụi. Chuyên gia pháp y đã thu được một mẫu AND trùng khớp trên cái xác bên trong. Ngay ra khi đã bị bỏng nặng, một xác chết sẽ để lại khoảng mười triệu mẫu acid nucleic khó chịu. Thứ mà bạn không thể che giấu hoặc tiêu hủy thế nên nỗ lực là vô nghĩa. Nhưng sau đó việc bạn có thể làm là mang nó đến cho các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm ADN và ép họ nói dối - để chứng minh rằng cái xác ấy là của bạn. Loving chính là kiểu người sẽ đoán được cái bẫy mà tôi bố trí. Trước khi bám theo các thân chủ của tôi, chắc chắn hắn phải có một kế hoạch dự phòng: bắt cóc một người đàn ông vô gia cư hoặc đang chạy trốn và giấu trong căn nhà kho, đề phòng hắn phải tẩu thoát. Đe dọa một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, đúng là một ý tưởng thông minh, không hề nói quá nếu bạn biết môn nghệ thuật độc đáo của Henry Loving là thao túng người khác làm những chuyện họ không muốn làm. Thế nên, bất thình lình, một kẻ mà rất nhiều người khác thấy hài lòng - tôi nghĩ nên dùng từ “hạnh phúc” - khi được thấy hắn bị thiêu chết giờ lại đang sống sờ sờ. Một cái bóng trên ngưỡng cửa phòng tôi. Đó là Aaron Ellis, người đứng đầu tổ chức của chúng tôi, người mà tôi trực tiếp báo cáo. Tóc vàng và đôi vai rất rộng. Đôi môi mỏng của ông ta há ra. Ông ta không biết tôi đang gọi điện. “Cậu nghe tin gì chưa? Rhode Island - hóa ra cóc phải là Loving.” “Tôi đang nói chuyện với Freddy đây.” Tôi hất đầu về phía điện thoại. “Vào văn phòng tôi lúc mười giờ nhé?” “Vâng.” Ông ta biến mất trên đôi chân nhanh nhẹn đi đôi giày da nâu trang trí tua rua, không ăn tiệp với chiếc quần màu xanh sáng. Tôi nói chuyện với đặc vụ FBI, trong văn phòng của ông ta cách văn phòng tôi mười dặm, “Đó là Aaron.” “Tôi biết,” Freddy đáp. “Sếp của tôi nhắn tin cho sếp của cậu. Giờ tôi nhắn tin cho cậu. Chúng ta sẽ làm việc với nhau đấy, con trai. Gọi tôi khi cậu có thể nhé.” “Chờ đã,” tôi nói. “Các thân chủ đang ở Fairfax à? Ông có gửi đặc vụ nào tới trông trẻ không?” “Chưa đâu. Chuyện này mới xảy ra mà.” “Cử ai đó xuống đấy đi chứ.” “Rõ ràng Loving không ở gần đó.” “Thì cứ làm đi mà.” “Ừ thì…” “Làm đi.” “Như cậu muốn, vân vân và mây mây.” Freddy ngắt máy trước khi tôi kịp nói thêm câu gì. Henry Loving… Tôi ngồi im một lúc rồi lại nhìn ra ngoài cửa sổ trụ sở tổ chức, một nơi không hề có điểm gì nổi bật tại Old Town Alexandria, tòa nhà này xấu xí thậm tệ, cái xấu xí từ những năm 1970. Tôi nhìn chằm chằm bãi cỏ, một cửa hàng đồ cũ, một quán Starbucks và vài bụi cậy ở bãi đậu xe. Những bụi cây xếp hàng theo kiểu so le hướng về phía Ngôi đền Masonic, như thể được nhân vật của Dan Brown trồng để gửi một thông điệp bằng cảnh quant hay vì bằng email. Tôi lại quay về nhìn cái hộp FedEx và những tài liệu trên bàn làm việc. Một chồng giấy tờ quan trọng là hợp đồng thuê nhà an toàn gần Silver Spring, Maryland. Tôi đã phải đàm phán hạ giá tiền thuê xuống, lấy thân phận giả để làm điều đó. Một tập tài liệu là lệnh phóng thích dành cho thaanh chủ mà hôm qua tôi đã giao trả thành công cho hai người đàn ông nghiêm túc, trong hai bộ đồ nghiêm túc như nhau, có hai văn phòng đều ở Langley, Virginia. Tôi đã ký lệnh rồi cho vào mục Thư gửi đi. Mảnh giấy cuối cùng, mà tôi đang đọc khi Freddy gọi tới, tôi đã mang nó theo hoàn toàn vô tình. Trong nhà, tối qua tôi đã tìm thấy một bộ đồ chơi, tôi muốn đọc lại hướng dẫn nên đã mở hộp ra để tìm - một danh sách những việc phải làm cho bữa tiệc vào ngày nghỉ, với tên các khách mời, các mặt hàng tạp phẩm và đồ trang trí phải mua. Tôi lơ đãng nhét tờ giấy màu vàng vào túi mãi sáng nay mới thấy. Bữa tiệc đã được tổ chức nhiều năm trước. Đó là điều tôi không hề muốn mình phải nhớ lại lúc này. Tôi nhìn dòng chữ viết tay nhạt nhòa trên mảnh giấy hình chữ nhật rồi nhét nó vào máy hủy tài liệu, nó sẽ bị biến thành pháo giấy. Tôi đặt hộp FedEx vào trong két an toàn phía sau bàn làm việc - chẳng có gì đặc biệt, không có quét võng mạc, chỉ là khóa số lách cách - rồi đứng dậy. Tôi vận áo complet tối màu bên ngoài áo sơmi trắng, trang phục tôi thường mặc khi đến văn phòng, ngay cả khi làm việc vào những ngày cuối tuần. Tôi bước ra khỏi văn phòng, rẽ trái tới văn phòng của sếp, bước dọc theo tấm thảm dài trải sàn màu xám, lốm đốm ánh nắng, hơi phai màu qua những ô cửa sổ chống đạn phản chiếu. Tâm trí tôi không còn tập trung vào những giá trị bất động sản tại Maryland hay các kiện hàng giao nhận hoặc những ký ức không mong muốn từ quá khứ, mà hoàn toàn tập trung vào sự tái xuất của Henry Loving - kẻ mà sáu năm trước, đã tra tấn và sát hại người thầy và là người bạn thân thiết của tôi, Abe Fallow, trong một con mương cạnh cánh đồng bông Bắc Carolina, khi tôi nghe những tiếng kêu của ông qua điện thoại vẫn kết nối. Bảy phút la hét cho đến khi phát súng ân huệ vang lên, không chút thương xót, mà chỉ đơn giản là sự chuyên nghiệp. CHƯƠNG 2 Tôi ngồi trên một cái ghế mòn xơ trong văn phòng của sếp, cạnh một người đàn ông rõ ràng là biết tôi, vì anh ta gật đầu tỏ vẻ quen biết khi tôi bước vào. Tuy nhiên, ngoài việc biết anh ta là công tố viên liên bang thì tôi không thấy anh ta có điểm gì quen thuộc. Khoảng tầm tuổi tôi - bốn mươi - người lùn, hơi xanh xao, mái tóc cần cắt tỉa. Và đôi mắt xếch. Aaron Ellis để ý ánh mắt tôi. “Cậu nhớ Jason Westerfield, làm việc ở Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ chứ.” Tôi không giả vờ là mình biết và cố gắng phản ứng nên chỉ bắt tay anh ta. “Freddy đã tóm tắt cho tôi.” “Đặc vụ Fredericks ư?” Westerfield hỏi. “Đúng vậy. Ông ấy nói rằng chúng tôi có thân chủ tại Fairfax và một kẻ moi tin muốn lấy thông tin trong vài ngày tới.” Giọng Westerfield cao và bỗng lớn đầy khó chịu: “Biết ngay mà. Chúng tôi cũng nghe thế. Đến giờ chúng tôi vẫn chưa có thêm thông tin gì, ngoài việc kẻ moi tin đã nhận được lệnh thi hành. Kẻ nào đó cần thông tin từ đối tượng vào cuối ngày thứ Hai nếu không tình hình sẽ rất khủng khiếp. Mặc dù chẳng hiểu cái chuyện chết mẹ 1.” gì. Pardonnez moi 1. Xin lỗi – ND (các chú thích của người dịch sẽ được ký hiệu là ND) Dù tôi ăn mặc như công tố viên chuẩn bị hầu tòa, Westerfield lại mặc đồ cuối tuần. Không phải trang phục công sở cuối tuần mà là đồ đi cắm trại, quần may bằng vải bông thô, sơmi kẻ sọc carô và áo gió. Không thường thấy ở District, nơi các giờ làm việc vào ngày thứ Bảy và Chủ Nhật không phải hiếm. Qua trang phục tôi nghĩ anh ta có thể là cao bồi. Tôi cũng để ý cả việc anh ta đang ngồi ghé trên mép ghế và kẹp chặt các hồ sơ bằng những ngón tay thô lỗ. Không căng thẳng - trông anh ta có vẻ không phải típ người căng thẳng - nhưng phấn khích. Sự trao đổi chất mạnh mẽ đang cháy bên trong anh ta. Giọng nói khác, là nữ, vang lên sau lưng chúng tôi: “Xin lỗi, tôi đến trễ.” Một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi nhập bọn cùng chúng tôi. Qua kiểu cúi đầu đặc biệt tôi biết cô ta là trợ lí của Westerfield. Kiểu tóc cột chặt đến ngang vai, màu vàng hoe. Quần bò xanh mới mua hoặc mới được giặt khô, áo len dài tay trắng mặc trong áo khoác thể thao màu nâu vàng nhạt và một sợi dây chuyền ngọc trai màu kem ấn tượng. Đôi bông tai của cô ta cũng là ngọc trai và kèm theo mấy viên kim cương cũng hút mắt không kém. Cặp kính ba tròng gọng tối màu, dù tuổi cô hẵng còn trẻ, tôi có thể nhận ra từ cách cô ta khẽ cúi đầu chậm rãi khi bước vào văn phòng và chào tôi. Một người hướng dẫn phải biết các thói quen mua sắm của thân chủ - điều này rất hữu ích trong việc thấu hiểu họ - và theo bản năng tôi đã nhận ra Chanel, Coach và Cartier. Một cô gái con nhà giàu có khả năng là đứng gần đầu lớp luật tại trường Yale hoặc Harvard. Westerfield nói, “Đây là Trợ lí Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ, Chris Taesley.” Cô ta bắt tay tôi và cảm ơn Ellis. “Tôi chỉ đang giải thích tình huống Kessler với họ thôi.” Rồi quay sang chúng tôi. “Chris sẽ cùng hợp tác với chúng ta trong vụ này.” “Cùng nghe các chi tiết nào,” tôi nói, để ý mùi hương trên người Teasley đang tỏa đầy không gian, hương hoa thơm dịu. Cô ta mở cặp công văn với những miếng khóa cứng bảo mật rồi trao cho sếp cô ta một bộ hồ sơ. Khi anh ta đang đọc, tôi để ý thấy một bức vẽ phác thảo trên tường văn phòng của Ellis. Văn phòng nằm trong góc của ông ta tuy không lớn nhưng được trang trí một số bức tranh, vài tấm poster từ các gallery nhỏ, vài bức ảnh cá nhân và tranh do con ông vẽ. tôi nhìn bức tranh màu nước vẽ một tòa nhà trên sườn đồi, không tệ chút nào. Trên tường văn phòng tôi chẳng có gì ngoại trừ các danh mục số điện thoại. “Ngồi đi.” Westerfield quay sang Ellis và tôi. “Sáng nay tôi có nghe tin từ văn phòng thực địa Charleston của FBI, Tây Virginia. Tóm lại câu chuyện là thế này, cảnh sát bang đang tiến hành một vụ giăng bẫy buôn ma túy đá ở các vùng hẻo lánh thì bắt gặp mấy dấu vân tay trên một chiếc điện thoại công cộng, hóa ra là của Henry Loving. Vì lí do nào đó các trát theo dõi và bắt giữ nghi phạm giết người không bị hủy sau khi hắn chết. À được cho là đã chết, có vẻ như vậy.” “Họ gọi cho người của chúng tôi đến tiếp quản, phát hiện ra Loving đã bay đến Charleston một tuần trước, dưới tên giả và chứng minh thư giả. Không ai biết hắn kiếm ở đâu ra. Cuối cùng, họ truy theo dấu hắn tới một nhà nghỉ tại Winfield sáng hôm nay. Tuy nhiên hắn đã trả phòng - mới hai tiếng trước, khoảng lúc tám rưỡi. Lễ tân không biết hắn đã đi đâu.” Nhận được cái gật đầu của sếp, Teasley nói tiếp, “Theo luật mà nói, các trát theo dõi vẫn còn hiệu lực, thế nên các đặc vụ đã kiểm tra các email tại khách sạn. Một thư gửi đến và một thư gửi đi: Mệnh lệnh thi hành và xác nhận của Loving.” Ellis hỏi, “Hắn sẽ làm gì tại Tây Virginia nhỉ?” Tôi biết Loving rõ hơn bất kì ai trong phòng, nên bèn lên tiếng, “Hắn thường làm việc cùng một đồng bọn; hắn có thể đang chọn người ở đó. Cả vũ khí nữa. Hắn sẽ không thể lên máy bay nếu mang theo vũ khí. Trong bất kì trường hợp nào, hắn cũng sẽ tránh các sân bay quanh vùng D. C. Rất nhiều người ở đây vẫn còn nhớ nhân dạng của hắn sau… sau chuyện đã xảy ra vài năm trước.” Tôi nói thêm, “Địa chỉ Internet của người gửi thư là gì?” “Định tuyến qua các proxy. Không lần ra được.” “Còn các cuộc gọi đến và đi từ phòng hắn trong nhà nghỉ thì sao?” 1.” “Mais non 1. Cũng như vậy - ND Tiếng Pháp thật bực mình. Westerfield vừa quay về từ kỳ nghỉ trọn gói hay anh ta đang học gạo nhằm truy tố một kẻ khủng bố người Algeria thế? “Chính xác thì cái lệnh ấy đã nói gì, Jason?” Tôi kiên nhẫn hỏi. Nhận được cái gật đầu của anh ta, Chris Teasley đảm nhận vinh dự này. “Như các anh đã nói, nó chỉ đơn thuần là lệnh thi hành. Vậy là bọn chúng đã nói chuyện trước với nhau, cùng soạn ra các chi tiết.” “Làm ơn nói tiếp đi,” tôi nói với cô. Cô ta liền đọc, ‘“Gửi Loving - Nội dung: Kessler. Được phép thi hành. Cần các chi tiết, theo thỏa thuận, vào nửa đêm ngày thứ Hai, hoặc những hậu quả không chấp nhận được, như đã giải thích. Ngay khi có thông tin, đối tượng phải bị trừ khử. ’ Hết trích dẫn. Địa chỉ là tại Fairfax.” Những hậu quả không chấp nhận được… mọi chuyện sẽ rất khủng khiếp. “Có audio không?” “Không.” Tôi thất vọng. Phân tích giọng nói có thể cho biết rất nhiều về kẻ gọi đến: giới tính, phần lớn là về chủng tộc và vùng miền, bệnh tật, thậm chí có thể đưa ra những suy luận hình thái học hợp lí về hình dạng mũi, miệng và cổ họng. Tuy nhiên, ít nhất chúng tôi cũng biết tên của thân chủ được xác nhận, là một điểm cộng. “Kessler là một cảnh sát trong District1. Ryan Kessler, một thám tử,” Westerfield giải thích. 1. The District: The District of Columbia (Washington D. C) “Còn câu trả lời của Loving?” ‘“Đã xác nhận. ’ Chỉ có vậy.” “Kẻ chủ mưu muốn ‘các chi tiết’” - Westerfield vẽ dấu ngoặc kép trong không khí - “vào cuối ngày thứ Hai. Các chi tiết…” Tôi đề nghị được xem bản in ra. Nhận thấy Teasley hơi ngần ngừ, rồi cô ta đồng ý cho tôi xem khi Westerfield không phản ứng gì. Tôi đọc qua đoạn văn bản ngắn ngủi. “Ngữ pháp, chính tả và dấu chấm câu đều ổn. Cách sử dụng từ ‘theo’ rất thích hợp.” Teasley nhăn mặt trước quan sát này. Tôi không giải thích rằng cái chữ “theo như” đó, như mọi người hay nói, là thừa, cô ta không phải là đệ tử của tôi. Tôi nói tiếp, “Và những dấu phẩy thích hợp sau đồng vị ngữ, sau chữ ‘các chi tiết’, mà cô gần như không nhận thấy.” Lúc này ai cũng nhìn tôi chằm chặp. Rất lâu trước đây tôi đã nghiên cứu ngôn ngữ học. Cả một chút ngữ văn nữa, nghiên cứu các ngôn ngữ khi phân tích văn bản. Phần lớn là để cho vui, nhưng môn học này thi thoảng cũng tỏ ra hữu ích. Ellis vặn vẹo cổ sang một bên. Ông ta từng thi đấu vật thời đại học nhưng giờ không chơi thể thao nhiều nữa, tuy vẫn giữ được thể hình như tam giác sắt. Ông ta hỏi, “Hắn rời đi vào lúc tám rưỡi sáng hôm nay. Nhiều khả năng vì có mang vũ khí nên hắn sẽ không bay… và hắn không muốn có rủi ro bị phát hiện tại một sân bay ở đây, như cậu vừa nói, Corte. Hắn mới đi được khoảng bốn tiếng thôi.” “Xe của hắn?” Tôi hỏi. “Vẫn chưa thấy gì. Phía FBI đã cử một nhóm đi tìm khắp các nhà nghỉ và các nhà hàng quanh thị trấn.” Ellis nói: “Tay Kessler này có biết kẻ chủ mưu muốn moi thông tin gì từ phía anh ta không?” “Không có đầu mối gì,” Westerfield đáp. “Chính xác thì tay Kessler này là ai?” Tôi hỏi. “Tôi có vài chi tiết đây,” Teasley nói. Khi nàng luật sư trẻ lật qua bộ hồ sơ, tôi tự hỏi tại sao Westerfield lại tìm đến chúng tôi, vốn được coi là giải pháp cuối cùng (ít nhất thì Aaron Ellis cũng thường nói về chúng tôi như thế tại các phiên điều trần ngân sách, khiến tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng rõ ràng là nó gây ấn tượng tốt trên đồi Capitol). Lực lượng Mật vụ và An ninh Ngoại giao của Bộ Ngoại giao bảo vệ các quan chức Hoa Kỹ và nguyên thủ nước ngoài. Bộ phận Bảo vệ Nhân chứng che giấu những kẻ cao quý hoặc nhơ nhuốc bằng danh phận mới và khiến họ cùng hòa nhập vào thế giới. Mặt khác, chúng tôi giải quyết các tình huống xuất hiện bất ngờ chống lại thân chủ. Ngoài ra chúng tôi còn được gọi là đội Phản ứng Khẩn cấp về an ninh cá nhân. Tiêu chuẩn thì mơ hồ, nhưng vì nguồn lực hạn chế, chúng tôi thường chỉ nhận lời khi thân chủ có liên quan tới những chuyện như an ninh quốc gia - như tên gián điệp tôi vừa chuyển giao cho các quý ông CIA hôm qua - hoặc y tế công cộng, như bảo vệ nhân chứng tố giác hầu tòa xử vụ bán thuốc nhiễm khuẩn không cần toa năm ngoái. Nhưng câu trả lời đã rõ ràng khi Teasley cung cấp tiểu sử tay cảnh sát. “Thám tử Ryan Kessler, bốn mươi hai tuổi. Đã kết hôn, có một con. Anh ta phụ trách các vụ án tài chính trong hạt, mười lăm năm trong nghề, được tặng huy chương… Có thể anh đã nghe nói về anh ta.” Tôi liếc nhìn sếp của mình, ông lắc đầu với cả hai chúng tôi. “Anh ta là một người hùng. Vài năm trước từng được tôn vinh trên truyền thông. Anh ta hiện đang làm cảnh sát ngầm tại D. C. và vướng vào một vụ cướp trong cửa hàng bán thức ăn tại North West. Anh ta đã cứu mạng các khách hàng nhưng bị trúng đạn. Lên các bảng tin, và chương trình về cảnh sát trên kênh Discovery đã làm một số bản tin về anh ta.” Tôi không xem tivi nhiều lắm. Nhưng tôi thừa hiểu tình hình bây giờ. Một cảnh sát anh hùng bị kẻ moi tin như Henry Loving nhắm tới… Westerfield đã nhìn thấy một cơ hội trở thành anh hùng ở đây - chỉ đạo một vụ chống lại kẻ chủ mưu, có lẽ là vì âm mưu bất thường về tài chính nào đó mà Kessler đang điều tra. Ngay cả nếu vụ án ngầm này không lớn - cho dù nó có thể lớn - chỉ riêng việc nhắm mục tiêu vào sĩ quan cảnh sát D. C. cũng là quá đủ để có mặt trong chương trình nghị sự của Westerfield. Trong chuyện này, tôi không nghĩ nhiều về anh ta cho lắm, Washington là một nơi diễn ra các hoạt động chính trị vừa riêng tư vừa công khai. Tôi cũng không quan tâm nếu sự nghiệp của anh ta sẽ lên hương sau khi đảm nhận vụ này. Tất cả những gì quan trọng với tôi đó là đảm bảo gia đình Kessler an toàn. Và vì kẻ moi tin đặc biệt này đã nhúng tay vào. “Alors, 1” Westerfield nói. “Giờ chúng ta biết rồi. Kessler đang chõ mũi vào chỗ không nên chõ. Chúng ta cần phải tìm hiểu ở đâu, cái gì, ai, khi nào và tại sao. Sau đó tống gia đình Kessler vào nhà tù thật nhanh rồi tiếp tục từ đó.” 1. Được rồi. “Nhà tù ư?” Tôi hỏi. “Vâng, thưa ngài,” Teasley nói. “Chúng tôi đang nghĩ tới Trại giam Hansen tại D. C. Tôi vừa nghiên cứu và thấy rằng HDC vừa đổi mới các hệ thống báo động và tôi đã nhận được các hồ sơ nhân viên của từng lính gác nhà tù, những người rất thân thiện. Đó là một lựa chọn tốt.” “C’est vrai. 2” 2. Đúng vậy. “Một nhà tù sẽ không khả thi đâu,” tôi nói. “Hả?” Westerfield thắc mắc. Giam giữ phòng ngừa, tại một nơi hẻo lánh trong trại giam, có thể hiệu quả trong vài vụ nhưng vụ này không nằm trong số đó, tôi giải thích. “Hừm,” ủy viên công tố nói, “chúng tôi đang nghĩ anh nên cử một người của mình vào đó cùng họ, được chứ? Hiệu quả hơn. Đặc vụ Fredericks và anh có thể thẩm vấn anh ta. Các anh sẽ có được thông tin chất lượng. Tôi đảm bảo. Khi ở trong nhà tù, các nhân chứng có xu hướng nhớ lại những chuyện mà trong hoàn cảnh khác thì họ sẽ thường không nhớ. Bên nào cũng có lợi.” “Tôi chưa hề có kinh nghiệm trong những hoàn cảnh như thế này.” “Chưa ư?” “Anh tống ai đó vào trong tù, thông thường một kẻ moi tin từ bên ngoài không thể vào. Và” - hất đầu về phía Teasley, thừa nhận bài tâp về nhà siêng năng của cô ta - “tôi chắc chắn các nhân viên đều được tuyển chọn kỹ. Nếu có bất kì kẻ moi tin nào khác, thì tôi đồng ý. Nhưng chúng ta đang phải đương đầu với Henry Loving. Tôi biết hắn làm việc như thế nào. Chúng ta đưa nhà Kessler vào trong đó, hắn sẽ tìm kiếm lá bài chủ trong số các lính gác. Hầu hết bọn họ đều là nam giới, trẻ trung. Nếu tôi là Loving, tôi sẽ chỉ cần tìm ai đó có vợ đang mang thai - đứa con đầu lòng của họ, nếu có thể - và ghé thăm cô ta.” Teasley chớp mắt trước tông giọng thản nhiên của tôi. “Tay lính gác sẽ làm theo bất kì điều gì Loving muốn. Và một khi gia đình bên trong không có đường thoát, nhà Kessler sẽ bị mắc bẫy.” “Như những chú thỏ con,” Westerfield nói, cho dù không mang tính mỉa mai như tôi mong đợi. Anh ta chỉ đang cân nhắc ý kiến của tôi. “Thêm nữa, Kessler là một cảnh sát. Chúng ta sẽ gặp rắc rối nếu muốn anh ta đồng ý. Anh ta có thể đã tống cổ cả đống thẳng vào HDC rồi.” “Thế anh định giấu bọn họ vào đâu?” Westerfield hỏi. “Tôi chưa biết, còn phải nghĩ đã.” Tôi đáp. Westerfield cũng nhìn chằm chằm bức tường, cho dù tôi không thể đoán chắc anh ta đang nhìn bức tranh, giấy chứng nhận hay tấm bằng. Cuối cùng anh ta nói với Teasley, “Đưa cho anh ta địa chỉ nhà Kessler đi.” Người phụ nữ trẻ ghi nguệch ngoạc bằng thứ chữ còn dễ nhìn hơn chữ của sếp cô ta. Khi đưa địa chỉ cho tôi, phả vào mũi tôi là một làn hương nước hoa khác. Tôi nhận lấy tờ giấy, cảm ơn cả hai người họ. Tôi là kẻ có máu ăn thua - ở tất cả mọi dạng trò chơi - và tôi đã học được cách khiêm nhường và cao thượng trong chiến thắng, một lí thuyết tôi đã thực hành trong suốt sự nghiệp của mình. Một vấn đề phép lịch sự, tất nhiên rồi, nhưng tôi cũng biết rằng là một người chiến thắng cũng cho tôi chút lợi thế tâm lý khi gặp lại đối thủ trong tương lai. Họ đứng dậy. Ủy viên công tố nói, “Được rồi, cứ làm những gì anh có thể đi - tìm hiểu xem ai đã thuê Loving và tại sao.” “Ưu tiên số một của chúng tôi,” tôi đảm bảo với anh ta, cho dù không phải thế. “Au revoir1…” Westerfield nói rồi cùng Teasley đi ra cửa, tay ủy viên công tố thì thầm nhỏ to các mệnh lệnh cho cô ta. 1. Tạm biệt. Tôi cũng đứng dậy. Tôi phải ghé qua căn nhà trong thị trấn để lấy vài thứ cho nhiệm vụ. “Tôi sẽ báo cáo từ địa điểm,” tôi nói với Ellis. “Corte?” Tôi dừng chân ở ngưỡng cửa, ngoái nhìn lại. “Không đưa nhà Kessler vào tù… là đúng đắn, phải không? Cậu muốn đưa họ đến nhà an toàn rồi phá vụ này từ đó à?” Ông ta sẽ hỗ trợ tôi - Aaron Ellis sẽ chẳng là gì nếu không hỗ trợ lính của mình - và sẽ đồng hành về chuyên môn với tôi. Nhưng nói thật, ông ta không yêu cầu sự đảm bảo rằng không đưa họ vào diện giam giữ có ý nghĩa về mặt chiến thuật. Điều ông ta thực sự muốn hỏi là thế này: Có phải ông ta đã quyết định đúng khi bổ nhiệm tôi, chứ không phải ai khác, cho công việc bảo vệ các thân chủ khỏi Henry Loving? Nói ngắn gọn, liệu tôi có thể khách quan khi kẻ săn mồi vài năm trước đã từng sát hại người thầy của tôi và đã thoát khỏi cái bẫy tôi giăng ra chờ hắn? “Một nhà an toàn là cách tiếp cận hiệu quả nhất,” tôi nói với Ellis rồi quay về văn phòng mình, tìm chìa khóa mở ngăn kéo bàn làm việc nơi tôi cất giữ vũ khí của mình. CHƯƠNG 3 Nhiều cơ quan chính phủ kết hợp các chữ viết tắt hoặc các chữ cái đầu để miêu tả nhân viên hoặc phòng ban của họ, nhưng ở cơ quan chúng tôi, vì lí do nào đó, các biệt danh lại căn cứ theo thứ tự trong ngày, như “kẻ moi tin” và “sát thủ”. Các vệ sĩ được huấn luyện cơ bản trong tổ chức của chúng tôi là các sĩ quan bảo vệ thân cận, những người chúng tôi gọi là “cái bóng” , bởi vì họ bám sát theo thân chủ như hình với bóng. Phòng Thông tin Liên lạc và Hỗ trợ Kỹ thuật nhân viên toàn “phù thủy”. Có những “máy quét đường” - các sĩ quan Chiến thuật và Phân tích Phòng thủ, họ có thể nhận ra một kẻ bắn tỉa cách đó một dặm và một quả bom giấu trong điện thoại di động của thân chủ. Không có gì ngạc nhiên, khi nhân viên trong tổ chức chịu trách nhiệm giám sát được gọi là “gián điệp”. Tôi làm ở Phòng Bảo vệ Chiến Lược (Strategic Protection Department, viết tắt là SPD) , nhân viên cao cấp nhất trong số tám sĩ quan của tổ chức SPD. Chúng tôi là những người lên kế hoạch và bảo vệ cho các thân chủ mình khi được phân công. Chính vì nhiệm vụ này, và các chữ cái đầu của phòng ban, mà chúng tôi được biết tới như những người chăn cừu. Phòng không có biệt danh là phòng Hỗ trợ Nghiên cứu, đối với tôi đây là đơn vị quan trọng nhất trong số tất cả các bộ phận liên quan. Một người chăn cừu không thể đảm đương được công tác an ninh cá nhân nếu không có nghiên cứu điều tra kỹ lưỡng. Tôi thường xuyên giảng cho các sĩ quan trẻ hơn rằng nếu anh tiến hành nghiên cứu thực địan càng kỹ lưỡng, anh về sau sẽ càng ít có khả năng cần dùng đến các chiến thuật hỏa lực. Và tôi thật sự may mắn khi có người đệ tử mà tôi xem là giỏi nhất trong phòng này. Giờ tôi gọi cho cô ấy. Một hồi chuông. Rồi: “DuBois nghe,” một giọng nói phát ra từ tai nghe của tôi. Tôi đã gọi bằng di động bảo mật, thế nên nhận được chính thức tiêu chuẩn của cô ấy. Có nguồn gốc từ tiếng Pháp, bạn sẽ nghĩ từ ấy sẽ được phát âm là doo-bwah nhưng gia đình cô ấy toàn gọi là doo-boys. “Claire. Có chuyện rồi đây.” “Vâng?” Cô mạnh mẽ đáp. “Loving vẫn còn sống.” Cô nghĩ một lúc. “Còn sống ạ?... Tôi không chắc chuyện này có thể xảy ra.” “Chà, nó xảy ra rồi đấy.” “Tôi đang nghĩ về chuyện này,” cô trầm ngâm, như thể nói với chính mình. “Tòa nhà bị cháy… Có ADN trùng khớp. Tôi vẫn còn nhớ bản báo cáo. Có vài lỗi đánh máy trong đó, anh nhớ không?” Claire duBois có ngữ điệu thanh nhiên nghe trẻ hơn tuổi thật, dù cô ấy cũng không lớn tuổi lắm. Tóc ngắn màu nâu, gương mặt hình trái tim thanh tú, một thân hình mà có thể nói là rất đẹp - và tôi rất hiếu kì với thân hình ấy như bất kì người đàn ông nào - nhưng cô thường xuyên che giấu nó bằng bộ complet nữ công sở, trong khi tôi thích cô mặc váy và đầm hơn. Ý tôi là do tính thực tiễn của trang phục. “Không quan trọng đâu. Cô có đang trong thị trấn không? Tôi cần cô.” “Ý anh là tôi có đi đâu vào dịp cuối tuần không chứ gì? Không. Kế hoạch thay đổi rồi. Anh muốn tôi tham gia không?” Cô hỏi bằng giọng đều đều. Tôi hình dung cô ấy đang ăn sáng dưới ánh nắng tháng Chín chiếu xuyên qua ô cửa sổ căn nhà yên tĩnh của cô tại Arlington, Virginia. Có thể cô đang mặc quần thun, áo ấm dài tay hoặc áo ngủ bó sát nhưng hình dung cả hai thì bất khả. Có thể cô đang ngồi đối diện một thanh niên râu ria lởm chởm đang tò mò nhìn cô qua tờ Washington Post để võng xuống. Hình ảnh này cũng khó hình dung. “Hắn đang truy đuổi một thân chủ tại Fairfax. Tôi không biết chi tiết. Thời gian rất gấp.” “Được. Đợi tôi thu xếp vài thứ đã.” Tôi nghe thấy vài tiếng cạch cạch - cô có thể gõ phím nhanh hơn bất kì ai trên trái đất này. Cô lầm bầm, “bà Glotsky, nhà kế bên… Rồi nước… Được rồi, tôi sẽ có mặt trong hai mươi phút nữa.” Tôi nghi ngờ duBois hơi hơi bị rối loạn giảm chú ý. Nhưng điều này lại thường phù hợp với ưu điểm của tôi. “Tôi đi cùng các thân chủ nhưng sẽ giao nhiệm vụ cho cô.” Chúng tôi ngắt kết nối. Tôi đăng kí một chiếc Nissan Armada từ phòng giao thông vận tải rồi lấy nó trong nhà để xe lớn bên dưới tòa nhà. Tôi lái xe tới King Street sau đó đi qua các đại lộ hẹp và kì lạ ở Old Town Alexandira, bên dòng sông Potomac, phía Virginia, cách Washington D. C không xa. Chiếc SUV không phải đen tuyền mà hơi ngã xám, đầy bụi và kêu om sòm. Ô tô là một phần quan trọng trong công tác an ninh cá nhân, và như tất cả xe cộ của chúng tôi, chiếc Nissan này đã được chỉnh sửa để tích hợp kính chống đạn, bọc thép các cửa xe, lốp chống xịt và một bình xăng chứa đầy bọt đặc biệt. Billy, anh chàng thợ sửa xe của tôi, đã hạ thấp trọng tâm để giúp xe ngoặt nhanh hơn và gắn thêm cả lưới sắt, mà anh ta gọi là khố của vận động viên, một tấm chắn bọc thép giúp bảo vệ động cơ. Tôi đậu xe cạnh một xe khác rồi chạy vào trong ngôi nhà liền kề bằng đá kết nâu, vẫn ngửi thấy mùi cà phê tôi đã pha bằng máy mới một tiếng trước. Tôi vội vã gói ghém đồ đạc vào một cái túi thể hình to. Không giống như văn phòng, bốn bức tường trong căn nhà này treo đầy bằng chứng về quá khứ của tôi: các bằng cấp, giấy chứng nhận hoàn tất các khóa học nâng cao bồi dưỡng nghiệp vụ, chứng nhận từ các cựu nhân viên và khách hàng hài lòng, bao gồm cả Bộ Ngoại giao, CIA, FBI và ATF, MI5 tại Anh nữa. Ngoài ra là vài bức ảnh từ những năm tháng đầu đời của tôi, chụp tại Virginia, Ohio và Texas. Tôi không chắc tại sao mình lại trưng hết cả đống hào nhoáng này lên tường. Tôi hiếm khi ngắm nhìn chúng, và tôi không bao giờ tiếp đón mọi người ở đây. Tôi nhớ vài năm trước mình từng nghĩ rằng có vẻ đây là cách bạn sẽ làm khi chuyển vào sống một mình trong một căn nhà phố rộng rãi. Tôi thay quần jean và áo gió xanh hải quân cùng áo polo màu đen. Xong tôi khóa cửa, đặt hai chuông báo động rồi quay ra xe. Tôi tăng tốc di chuyển lên đường cao tốc, quay một số điện thoại rồi đặt máy vào chế độ rảnh tay. Ba mươi phút sau tôi đã có mặt tại nhà các thân chủ. Fairfax, Virginia là một khu ngoại ô dễ chịu với nhiều loại bất động sản nhà ở, từ các căn nhà gỗ một tầng hai phòng ngủ hay một dãy nhà liền kề đến các lô đất rộng mười mẫu lộng lẫy với các rào chắn khu vực phi quân sự bằng những hàng cây giữa các nhà. Ngôi nhà của gia đình Kessler, ở giữa những thái cực này, nằm trong một khu đất rộng một mẫu Anh, nửa trống trơn, nửa rậm rịt cây cối, ngay lúc này lá cây đang đánh mất đi sức sống mùa hè, sắp đổi màu - tôi để ý thấy đám cây cối cung cấp nơi trú ẩn hoàn hảo cho kẻ bắn tỉa hỗ trợ Henry Loving. Tôi quay đầu xe, đậu chiếc Armada trên lối để xe vào nhà, rồi xuống xe. Cá nhân tôi không nhận ra các đặc vụ FBI bên kia đường nhưng tôi từng thấy ảnh họ, do trợ lý của Freddy tải lên, Tôi đến gần chiếc xe. Hẳn là họ cũng xem qua mô tả về tôi nhưng tôi giữ hai tay bên sườn cho đến khi họ trông thấy tôi là ai. Chúng tôi trình thẻ cho nhau. Một người nói, “Không thấy ai đi qua trước nhà kể từ khi chúng tôi tới đây.” Tôi cất thẻ đi. “Có biển số xe nào lạ không?” “Không thấy bất cứ xe nào.” Cách trả lời khác của “Không.” Một mật vụ chỉ tay vào con đường rộng bốn làn xe gần đó. “Chúng tôi trông thấy hai chiếc SUV, cỡ lớn, phía đằng đó. Chúng đi chậm rãi, nhìn về phía chúng tôi rồi đi tiếp.” Tôi hỏi, “Họ đi về phía Bắc à?” “Vâng.” “Có một ngôi trường cách đây nửa dãy nhà. Hôm nay ở trường có trận bóng. Mới đầu mùa nên tôi đoán chắc là phụ huynh chưa đến sân vận động bao giờ nên chắc không biết rẽ lối nào thôi.” Cả hai có vẻ ngạc nhiên khi tôi biết điều này. Claire duBois đã cung cấp thông tin này cho tôi trên đường tới đây. Tôi đã hỏi cô về các sự kiện diễn ra trong vùng. “Nhưng hãy cho tôi biết ngay nếu còn gặp lại họ nhé.” Tôi trông thấy các chủ nhà đang xén lớp cỏ cuối mùa hoặc dọn các lá rụng sớm phía đầu phố. Hôm nay trời ấm áp, không khí khô. Tôi đã rà soát qua khắp khu nhà này đến hai lần. Tôi hay bị mô tả như một kẻ hoang tưởng. Có lẽ tôi như thế thật. Nhưng đối thủ ở đây là Henry Loving, một chuyên gia biến mình thành vô hình… cho đến tận phút cuối, tất nhiên, là lúc hắn hiện nguyên hình. Lại nghĩ đến Rhode Island, hai năm trước, khi hắn đã hiện hình, có vũ khí, từ một chiếc xe mà không ai tin nổi hắn lại ngồi trong đó. Ngoại trừ việc hắn đã thực sự ở trong xe. Kéo cao chiếc túi đeo vai, tôi quay lại chỗ chiếc Nissan và để ý hình phản chiếu của mình trên cửa kính xe. Tôi cho rằng vì Ryan Kessler là một thám tử, trông giống cảnh sát ngầm sẽ dễ chiếm lòng tin của anh ta hơn so với hình ảnh đặc vụ liên bang lầm lì như vẻ ngoài của tôi. Với bộ đồ mặc thường ngày, mái tốc ngả nâu lưa thưa, cắt tỉa gọn gàng và gương mặt mày râu nhẵn nhụi, có lẽ tôi trông giống một trong số hàng tá ông bố doanh nhân tuổi bốn mươi đang la hét cổ vũ con mình trong trận bóng ở đầu phố vào đúng lúc ấy. Tôi gọi một cuộc bằng điện thoại bảo mật riêng. “Phải cậu không?” Freddy hỏi. “Tôi đang ở nhà Kessler đây.” “Cậu gặp mấy anh chàng của tôi rồi chứ?” “Rồi. Họ giỏi và ăn nói rành mạch lắm.” “Họ sắp làm gì thế, nấp sau mấy cái tượng thần lùn giữ vườn à? Đây là ngoại ô đấy, con trai.” “Không phải là phê bình đâu. Nếu Loving cử một kẻ chỉ điếm tới nơi này, tôi muốn hắn biết chúng ta sẽ nhận ra hắn.” “Cậu nghĩ kẻ nào đó đã tới trước rồi à?” “Có khả năng. Nhưng sẽ không ai được hành động cho đến khi Loving tới đây. Có thêm tin gì về vị trí của hắn hoặc áng chừng giờ hắn xuất hiện không?” “Không.” Loving giờ đang ở đâu? Tôi tự hỏi, và hình dung đường cao tốc từ West Virginia. Chúng tôi đã có một ngôi nhà an toàn và tốt tại Luray. Tôi tự hỏi, hắn lúc này liệu có đang lái xe gần đó hay không. Freddy nói, “Chờ chút, vừa nhận được tin… Mừng vì cậu đã hỏi, Corte. Đã có vài thông tin từ nhóm tại nhà nghỉ. Được rồi, hắn lái chiếc sedan sáng màu. Đời xe, hình dáng, mẫu xe không ai biết cả. Henry Loving luôn kích thích gen quên. Nhưng cũng đúng là con người ta chỉ đơn giản là cực kỳ thiếu óc quan sát. Freddy nói tiếp, “Tôi cho là còn ít nhất ba tiếng nữa trước khi hắn tới được khu này. Và hắn sẽ phải mất chút thời gian chuẩn bị trước khi tới nhà Kessler.” Tôi nói, “Ông có nợ bất kỳ ân huệ nào không đấy - những chàng lính bang Virginia à?” “Không, nhưng tôi là một gã dễ mến, họ sẽ làm những gì tôi yêu cầu.” Tôi hơi khó chịu với sự khiếm nhã của Freddy. Nhưng dù là cái gì giúp bạn trải qua một ngày trong cái nghề khó khăn này thì cũng tốt. “Ông có thể gửi ảnh hắn cho cảnh sát bang được không? Ảnh hắn đã được gửi đến tất cả các xe từ đây đến West Virginia với mức cảnh báo màu cam rồi.” Các sĩ quan đi tuần sẽ lập tức nhận được ảnh trên máy tính của họ, sau đó họ sẽ truy tìm các xe sáng màu và tài xế nào khớp với miêu tả của Loving. Mã cảnh báo màu cam chứng tỏ hắn nguy hiểm. “Tôi sẽ làm nhưng tôi biết rằng cậu là một phù thủy toán học, Corte.” “Và?” “Chia một triệu xe cho bốn mươi lính. Kết quả là bao nhiêu?” “Cám ơn nhiều, Freddy.” Chúng tôi ngắt kết nối, tôi gọi cho Ryan Kessler. “Allo?” Tôi giới thiệu bản thân và nói rằng mình đã đến. Tôi sẽ đến ngay trước cửa nhà anh ta một hai phút nữa thôi. Tôi muốn anh ta gọi cho Freddy và kiểm tra nhân dạng của tôi. Đây là biện pháp an toàn hiệu quả nhưng tôi cũng muốn làm thế để tăng độ hoang tưởng của anh ta. Tôi biết Kessler, là cảnh sát - một cảnh sát đường phố được tặng huy chương - sẽ là một thân chủ miễn cưỡng và tôi muốn anh ta cảm nhận tính thực tế của mối đe dọa này. Im lặng. “Anh có đó không, thám tử Kessler?” “Thưa ngài, tôi đã nói với Đặc vụ Fredericks và mấy người bên ngoài… Tôi thấy ngài cũng ở ngoài đó, Đặc vụ Corte. Tôi đã bảo họ là điều này không cần thiết đâu.” “Tôi vẫn muốn nói chuyện với anh, làm ơn. Nếu anh không phiền.” Anh ta không cố gắng che giấu sự bực mình. “Đúng là phí thời gian.” “Tôi sẽ rất biết ơn,” tôi dịu dàng nói, không muốn tỏ ra lịch thiệp thái quá – hoặc cứng nhắc, như nhiều người nói. Nhưng một thái độ bình tĩnh, rõ ràng khiến người khác hợp tác tốt hơn là hăm dọa ầm ĩ, mà tôi vốn cũng chẳng giỏi làm thế. “Được rồi, tốt thôi. Tôi sẽ gọi cho Đặc vụ Fredericks.” Tôi cũng hỏi anh ta có vũ khí không. “Có. Đó là vấn đề sao?” Anh ta gắt gỏng. “Không,” tôi đáp. “Không hề.” Tôi muốn anh ta không có vũ khí hơn, nhưng là sĩ quan cảnh sát thì anh ta có quyền, đòi hỏi một sĩ quan cảnh sát không được dùng vũ khí chắc chắn sẽ gây ra xung đột. Tôi cho anh ta chút thời gian để gọi Freddy, trong khi tôi xem xét ngôi nhà. Gần như toàn bộ các ngôi nhà liền kề đều không có khả năng phòng thủ. Dễ nhận ra, kết cấu dễ xâm nhập, dễ bắt lửa. Chúng đều không được lắp các cảm biến nhiệt trong khí các lối thoát hiểm thì chật hẹp. Ẩn náu chiến thuật chỉ là trò đùa. Chỉ cần một viên đạn cũng có thể ngắt hết điện. Lời quảng cáo đầy kiêu hãnh về thời gian phản ứng năm phút từ trung tâm giám sát của các công ty an ninh chỉ có nghĩa là kẻ moi tin biết hắn có quá đủ thời gian để bắt cóc. Đó là chưa kể dấu vết từ giấy tờ sở hữu nhà, xe và giấy tờ tài chính sẽ dẫn kẻ săn mồi tìm đến tận cửa nhà của công dân sống kín đáo bậc nhất chỉ trong tích tắc. Tất nhiên, các thân chủ lúc nào cũng muốn nhà mình phủ kín thiết bị an ninh, nhưng tôi sẽ tháo chúng ra ngay khỏi ngôi nhà yêu thích càng nhanh càng tốt. Nhìn thấy ngôi nhà của Ryan Kessler tôi hạ quyết tâm khuyến khích anh ta và gia đình anh ta dọn đi ngay khỏi lãnh địa hai tầng thiếu chắc chắn này sớm nhất có thể. Tôi bước đến cửa trước, kiểm tra các cửa sổ. Ryan mở cửa ra. Tôi biết trông anh ta ra sao sau khi xem các hồ sơ cá nhân và các nghiên cứu khác của tôi. Tôi liếc qua anh ta tới không gian dưới nhà trống trải và bỏ tay khỏi thắt lưng. Anh ta cũng bỏ tay ra khỏi bao súng trên hông. Tôi tự giới thiệu bản thân. Bắt tay anh ta. Tôi trình thẻ, có in ảnh tôi, tên và logo chính phủ liên bang trên đó, có hình con đại bàng như logo của Bộ Tư pháp nhưng là thương hiệu ôi chỉ được miêu tả đơn giản là “Sĩ quan Hoa Kỳ”. Anh ta liếc qua thật nhanh, không hỏi những câu mà tôi hẳn sẽ hỏi. “Anh gọi cho Đặc vụ Fredericks để kiểm tra về tôi không?” “Không.” Có thể anh ta cảm thấy bản năng cảnh sát của mình đủ để xác nhận uy tín của tôi. Có lẽ trông không ra dáng nam nhi cho lắm. Ryan Kessler có vóc người vạm vỡ, đôi vai rộng, tóc đen, trông già hơn tuổi thật. Khi anh ta cúi đầu xuống, việc anh ta phải làm vì tôi lùn hơn và đứng dưới một bậc, cái cằm chẻ nhô ra phía trước. Cái bụng tròn vo phía trên phần hông và cặp đùi thon gọn. Đôi mắt anh ta đen láy và rất tập trung. Thật khó hình dung một nụ cười trên gương mặt anh ta như trên mặt tôi. Anh ta sẽ rất lợi hại khi thẩm vấn, tôi đoán vậy. “À, Đặc vụ Corte…” “Gọi Corte thôi được rồi.” “Một tên thôi à? Nghe như ngôi sao nhạc rock ấy.” Thẻ của tôi có hai chữ cái đầu nhưng tôi hiếm khi dùng hay có bất kì chữ đệm nào khác ngoài Corte. Ryan dường như dè chừng thói khoe khoang này. Tôi không giải thích với anh ta rằng đây chỉ đơn giản là một chiến lược thông minh, liên quan đến công việc của tôi, nguyên tắc là cung cấp cho mọi người - những người tốt, người xấu hoặc trung lập - càng ít thông tin về bản thân mình càng tốt. Càng nhiều người biết về bạn, bạn càng dễ bị hại hơn và công việc bảo vệ các thân chủ của bạn trở nên kém hiệu quả đi. “Đặc vụ Fredericks đang trên đường tới,” tôi bảo anh ta. Một tiếng thở dài. “Tất cả chuyện này đúng là lộn xộn. Chắc là nhầm người rồi. Chẳng ai lại muốn đe dọa tôi hết. Không như việc tôi truy đuổi băng J-Eights.” Một trong số những băng nhóm Latin nguy hiểm nhất tại Fairfax. “Dù sao tôi vẫn muốn vào nếu có thể.” “Vậy anh là, sao nhỉ, như kiểu bảo vệ tiểu tiết ấy hả?” “Chính xác đấy.” Anh ta nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi cao dưới 1m82 một chút và nặng khoảng 77 cân, hơn kém hai cân phụ thuộc vào tính chất của nhiệm vụ và độ yêu thích dành cho bánh sandwich trong tháng. Tôi chưa từng nhập ngũ. Chưa bao giờ tham gia khóa học nào của FBI tại Quantico. Tôi biết chút võ phòng vệ cơ bản nhưng không quá đam mê võ thuật. Tôi không có hình xăm. Tôi rất thích đi ra ngoài, chạy và đi bộ đường dài, nhưng không thích chạy marathon hoặc làm Iron Man. Tôi thích chống đẩy và ngồi gập bụng, có thể không đúng lắm nhưng tôi cho rằng tập thể dục giúp cải thiện tuần hoàn và nhờ thế tôi có thể gọi pho-mát thêm vào sandwich mà không cảm thấy tội lỗi. Tôi cũng là một tay súng giỏi và hiện đang mang khẩu Glock 23-sử dụng đạn cỡ 40 - trong bao súng nằm trong quần của hãng Galco Royal Guard và một chiếc dùi cui gấp lại được hiệu Monadnock. Cho dù anh ta không biết điều này, và với Ryan Kessler, gói dụng cụ bảo vệ trông sẽ sơ sài hơn một chút. “Kể cả họ.” Anh ta đánh mắt về phía chiếc xe FBI bên kia đường. “Tất cả những gì họ đang làm là quấy rầy vợ và con gái tôi. Thực sự quá dễ nhận ra bọn họ, anh không nghĩ thế à?” Tôi thích thú khi chúng tôi có cùng nhận định. “Đúng vậy. Nhưng họ sẽ khiến hắn nản chí.” “Một lần nữa tôi xin lỗi vì đã làm anh phí thời gian. Tôi đã nói chuyện này với sếp của mình rồi.” “Thám tử trưởng Lewis. Tôi cũng đã nói chuyện với ông ta trên đường tới đây rồi.” Ronald Lewis, ở Phòng Cảnh sát Đô thị1 hạt Columbia. Mập lùn, gương mặt tròn, làn da nâu sậm. Nói chuyện oang oang. Tôi chưa bao giờ gặp trực tiếp ông ta nhưng nghe nói ông ta rất giỏi khi góp phần làm thay đổi một vài khu nguy hiểm trong hạt, là một trong những thành phố nguy hiểm nhất cả nước. Ông ta đã leo cao trong MPD từ vị trí tuần tra đường phố tại South East, xét về mặt nào đó ông ta cũng được xem là anh hùng, như Ryan Kessler. 1. Metropolitan Police Department, viết tắt là MPD Ryan dừng lại, hiểu rằng tôi đang làm nhiệm vụ của mình, “Vậy chắc ông ta phải bảo anh rằng ông ta cũng chả hiểu tại sao tôi lại là mục tiêu. Giờ tôi thực sự phải bảo anh về đi thôi, Xin lỗi vì đã làm mất thời gian của anh.” Tôi nói. “Anh Kessler, cứ giúp tôi đi được không? Làm ơn. Cứ để tôi vào bố trí vài thứ. Mười phút thôi.” Tôi tỏ ra mềm mỏng, không có một tí dấu hiệu bực mình nào. Tôi không nói gì nữa, chẳng viện ra thêm lí do nào nữa - những tranh luận dùng dằng trên ngưỡng cửa sẽ rất khó thắng, đối thủ của bạn có thể bước lùi lại và đóng sập cửa. Lúc này tôi chỉ đơn giản là ngước mắt lên nhìn anh ta đầy trông đợi. Đôi mắt tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta. Anh ta lại thở dài. Lớn tiếng. “Tôi cũng đoán vậy. Vào đi. Năm phút thôi.” Anh ta quay người, đi khập khiễng, dẫn tôi vào ngôi nhà ngoại ô ngăn nắp, toát lên mùi chanh của nước tẩy đồ nội thất và mùi cà phê. Tôi không thể rút ra kết luận nào về anh ta hay gia đình anh ta từ các quan sát nhưng có một thứ nổi bật là trang nhất viền khung đang ngả vàng của tờ Washington Post treo trong căn phòng nhỏ: CẢNH SÁT ANH HÙNG ĐÃ CỨU SỐNG HAI NGƯỜI TRONG VỤ CƯỚP. Một bức ảnh Ryan Kessler thời trẻ đăng kèm câu chuyện. Trên đường lái xe đến đây, như một cái đồng hồ chạy tốt, Claire duBois đã cung cấp cho tôi thông tin cơ bản về Ryan Kessler. Có bao gồm các chi tiết về vụ giải cứu của tay sĩ quan này. Một tên say rượu nào đó đi cướp một nhà hàng ở khu buôn bán kinh doanh trong hạt, hốt hoảng và bắt đầu nổ súng. Ryan lúc ấy đang chuẩn bị đi gặp gỡ nguồn tin của mình và vô tình có mặt trong con hẻm phía sau của nhà hàng. Anh ta nghe thấy mấy tiếng súng bèn rủt vũ khí ra rồi lẻn vào qua cửa sau, không kịp cứu được ông chồng và bà vợ chủ cửa hàng, nhưng anh ta đã cứu được các khách hàng bên trong, lĩnh một viên đạn vào chân trước khi kẻ cướp bỏ chạy. Câu chuyện kết thúc bằng một cú ngoặt gây tò mò: Một khách hàng nữ đã giữ liên hệ với anh ta sau đó. Họ bắt đầu đi chơi cùng nhau. Cô gái giờ trở thành vợ anh ta, Joanne. Ryan có một bé gái với người vợ đầu đã qua đời vì ung thư buồng trứng khi con gái họ mới sáu tuổi. Sau khi cung cấp tiểu sử, duBois nói chuyện với tôi trong xe, “Nghe cũng khá lãng mạn nhỉ. Anh ta cứu mạng cô ấy. Chàng hiệp sĩ áo giáp sắt.” Tôi không đọc nhiều tiểu thuyết nhưng thích lịch sử, gồm cả lịch sử Trung cổ. Tôi có thể cho cô ấy biết rằng áo giáp hiệp sĩ là hệ thống phòng thủ tệ hại nhất từng được tạo ra: trông thì đẹp mắt, bảnh bao đấy nhưng chỉ tổ khiến chiến binh dễ bị tổn thương hơn vả một cái khiên bình thường, với mũ sắt và áo giáp lưới hoặc chẳng có gì hết. Tôi cũng cho rằng bị ăn đạn vào chân có vẻ không phải là cách lãng mạn cho lắm để kiếm vợ. Khi chúng tôi đi qua phòng sinh hoạt gia đình lộn xộn, Ryan nói, “Thế đấy, một ngày thứ Bảy tuyệt vời. Chẳng nhẽ anh không thích được cùng vợ con mình đi chơi sao?” “Thực ra tôi sống một mình. Và tôi không có con.” Ryan im lặng một lúc, phản ứng quen thuộc. Thái độ thường thấy của những người đã có tuổi sống ở ngoại ô, khi biết rằng họ đang nói chuyện với một người chưa kết hôn, chưa lập gia đình ở tuổi bốn mươi. “Xin mời vào đây.” Chúng tôi bước vào bếp và các mùi mới trộn lẫn với các mùi khác: một bữa sáng lớn cho ngày cuối tuần, không phải là bữa ăn tôi yêu thích. Nơi này thật hỗn loạn, bát đĩa bẩn thỉu chất gọn trong bồn rửa. Các áo khoác và áo len vắt trên các ghế ăn kiểu từ thời thuộc địa màu trắng xếp quanh chiếc bàn màu vàng. Tựa vào tường là một số túi giấy Safeway rỗng, nhiều hơn hẳn số túi giấy của Whole Foods, một so với bốn. Các cuốn sách giáo khoa, giày chạy và mấy hộp đĩa CD, DVD. Hòm thư rác và mấy tờ tạp chí. “Cà phê không?” Ryan hỏi vì anh ta muốn uống một chút và không muốn tỏ ra thô lỗ, chỉ là không khuyến khích. “Không, cám ơn.” Anh ta rót một cốc trong khi tôi bước tới cửa sổ nhìn ra ngoài sân sau như mười nghìn sân sau gần đó. Tôi quan sát các cửa sổ và cửa ra vào. Nhận thấy tôi đang do thám, Ryan nhấp một ngụm, thưởng thức vị cà phê. “Đặc vụ Corte này, tôi thực sự không cần ai phải đứng gác đâu.” “Thực ra tôi muốn đưa anh và gia đình anh chuyển vào nhà an toàn cho đến khi chúng tôi tìm ra những kẻ đứng sau chuyện này.” Anh ta chế giễu, “Dọn ra ngoài ư?” “Nhiều nhất chỉ là vài ngày thôi.” Tôi nghe thấy những âm thanh từ trên gác nhưng không trông thấy ai ở tầng trệt. Claire duBois đã cung cấp cho tôi thông tin về cả gia đình của Ryan. Joanne Kessler, ba mươi chín tuổi, làm nhân viên thống kê khoảng tám chín năm rồi, sau khi gặp gỡ và kết hôn với anh chàng góa bụa Ryan, cô đã bỏ việc và trở thành bà mẹ nội trợ cho con gái riêng của chồng, lúc này đã mười tuổi. Cô con gái, Amanda, đang học trường phổ thông cơ sở. “Con bé đạt điểm rất cao và đã tham gia ba chương trình xếp lớp nâng cao. Lịch sử, tiếng Anh và tiếng Pháp. Con bé có tên trong kỷ yếu của trường, tham gia tình nguyện rất nhiều.” Tôi tự hỏi có phải con bé xung phong vào các tổ chức như bệnh viện hay trung tâm chăm sóc sưc khỏe vì cái chết của mẹ không. DuBois nói tiếp, và con bé chơi bóng rổ. Đó là môn thể thao của tôi. Anh sẽ không nghĩ thế đâu. Nhưng anh không cần thiết phải cao lắm. Thật đấy. Quan trọng là phải sẵn sàng để bật nhảy. Thật mạnh. Lúc này Ryan nói, “Nghe này, tôi chỉ là một cảnh sát đang giải quyết vài vụ phi bạo lực theo lệ thường. Không khủng bố, không mafia, không âm mưu gì cả.” Anh ta nhấp thêm ngụm cà phê nữ, kín đáo liếc nhìn ra cửa sổ rồi bỏ thêm hai viên đường, khuấy nhanh. “Đặc vụ Fredericks nói rằng thằng cha này cần thông tin, không cần biết là thông tin gì, vào đêm thứ Hai à? Chẳng có vụ nào mà tôi đang làm lại có hạn chót như thế cả. Thực ra, dạo này âm trạng tôi đang không được tốt lắm. Suốt tuần vừa rồi hoặc hơn thế, tôi hầu như chỉ phụ trách mấy nhiệm vụ hành chính của cơ quan. Ngân sách. Thế thôi. Nếu tôi nghĩ có chuyện gì liên quan, tôi sẽ cho anh biết. Nhưng chắc không có đâu. Một sự lầm lẫn,” anh ta nhắc lại. “Năm ngoái tôi phải bảo vệ một thân chủ.” Anh ta không mời tôi ngồi nhưng tôi vẫn ngồi xuống một chiếc ghế đẩu xoay. Anh ta vẫn đứng. “Tôi đã mất năm ngày chơi trò mèo vờn chuột với một sát thủ - kẻ giết người chuyên nghiệp - kẻ đã được thuê, để dụ hắn ra. Hóa ra tất cả hoàn toàn là sai lầm. Tên sát thủ đã cung cấp tên giả. Nhưng hẳn hắn sẽ giết chết thân chủ của tôi hệt như thế. Trong vụ này, kẻ săn đuổi anh không phải là sát thủ, mà là một kẻ moi tin. Anh đã từng nghe nói về thuật ngữ đó chưa?” “Tôi nghĩ là rồi. Một kẻ thẩm vấn, đúng không? Dân chuyên nghiệp.” Gần đúng rồi đấy. Tôi gật đầu. “Giờ sát thủ là một chuyện. Dù hắn có nhầm hay không, anh vẫn là người duy nhất chịu rủi ro. Nhưng một kẻ moi tin… thì hắn sẽ nhắm vào gia đình anh, nhắm vào bất kì điều gì để nắm thóp anh - vài tác động đủ sức ép buộc anh phải nói cho hắn biết điều hắn muốn. Vào lúc hắn nhận ra đó là sai lầm, người gần gũi với anh có thể bị tổn thương nghiêm trọng. Hoặc tệ hơn thế.” Suy nghĩ một chút về những lời nói của tôi, anh ta hỏi. “Hắn là ai?” “Tên hắn là Henry Loving.” “Từng nhập ngũ ư? Lính đặc nhiệm à?” “Không. Thường dân thôi.” “Trong băng nhóm? Tội ác có tổ chức?” “Chuyện đó chúng tôi chưa tìm hiểu được.” Thực ra chúng tôi không biết nhiều về Henry Loving, ngoài việc hắn sinh ra tại miền bắc Virginia, gần hết tuổi vị thành niên hắn bỏ nhà và hạn chế tiếp xúc với hầu hết mọi người trong gia đình. Các hồ sơ học tập của hắn đang bị thất lạc. Lần cuối cùng hắn bị bắt là khi bản án liên quan tới trại giáo dưỡng. Một tuần sau khi hắn được thả, thẩm phán tòa sơ thẩm trong vụ án bỏ ghế thẩm phán vì những lí do chưa rõ và rời khỏi địa phương. Có thể chỉ là sự trùng hợp. Nhưng tôi không nghĩ vậy. Cùng lúc đó phiên tòa xử Loving và các hồ sơ cảnh sát cũng biến mất. Hắn đã tốn rất nhiều công sức để che giấu gốc rễ của mình vào bảo vệ danh tính. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ một lần nữa. Sau một quãng ngừng khó hiểu và cái liếc mắt vào tiền sảnh trống không, tôi nói tiếp, thậm chí còn nhẹ nhàng hơn, “Nhưng còn một chuyện nữa tôi phải nói. Chuyện này hoàn toàn giữa anh và tôi thôi.” Anh ta nắm chặt cốc cà phê đã hết vị ngon. Tôi tiếp tục, “Henry Loving đã bắt cóc thành công ít nhất mười hai thân chủ để thẩm vấn. Đó chỉ là những vụ mà chúng tôi biết được. Hắn chịu trách nhiệm cho cái chết của nửa tá người ngoài cuộc nữa. Hắn đã giết hoặc làm bị thương nặng các đặc vụ liên bang và cảnh sát địa phương.” Ryan thoáng nhăn mặt. “Tôi đang cố… tổ chức của chúng tôi và FBI đã cố gắng suốt nhiều năm để tóm được hắn. Thế nên được rồi, tôi thừa nhận điều đó: Phải, chúng tôi ở đây để bảo vệ anh và gia đình anh. Nhưng anh là món quà thượng đế gửi cho chúng tôi, thám tử ạ. Anh là một cảnh sát được tặng huân chương, một người đã quen thuộc với phản ứng chiến thuật, với các vũ khí.” “Chà, đã là vài năm trước rồi.” “Những kỹ năng ấy sẽ không phai tàn qua năm tháng. Anh không nghĩ vậy sao? Như đi xe đạp ấy.” Ánh mắt khiêm nhường hướng xuống. “Tôi hay rời nhà tới trường bắn mỗi tuần.” “Tốt mà.” Tôi có thể nhìn thấy sự thay đổi trong đôi mắt đen của anh ta. Chút ánh lửa trong đôi mắt. “Tôi đang đề nghị anh giúp tóm cổ thằng cha này. Nhưng chúng ta không thể làm thế ở đây. Không phải trong ngôi nhà này. Quá nguy hiểm cho anh và gia đình anh, thậm chí là quá nguy hiểm cho hàng xóm của anh nữa.” Anh ta vỗ vào khẩu súng ngắn của mình. “Tôi được trang bị súng Glaser.” Những viên đạn an toàn. Những phát súng mạnh mẽ có thể giết người, nhưng sẽ không không xuyên qua được lớp vữa làm bị thương người đi đường. Chúng được gọi là những viên đạn ngoại ô. “Nhưng Loving sẽ không làm thế đâu. Hắn sẽ tới, mang theo các khẩu M4 hoặc MP-5. Sẽ là một sự tàn sát. Sẽ có những thiệt hại rất khủng khiếp cho dân chúng.” Anh ta đang cân nhắc tất cả những gì tôi đã nói. Đôi mắt anh ta bắt gặp những đĩa bát bẩn, dường như giờ mới nhận ra chúng. “Anh có gợi ý gì không?” “Anh cùng một sĩ quan khác và tôi sẽ lên khung chi tiết kế hoạch. Chúng tôi sẽ đưa anh cùng gia đình anh vào nhà an toàn để mang lại cho chúng ta lợi thế phòng thủ trước Loving. Người của tôi và FBI sẽ cố gắng hạ hắn trên phố hoặc tại nơi hắn lẩn trốn, nếu họ có thể tìm thấy hắn. Nhưng nếu hắn vượt qua được, và hắn có thể làm thế, tôi sẽ cần tới anh. Tôi có một nhà an toàn mà theo tôi nghĩ nó hoàn toàn phù hợp.” Hiện tôi đang nói rất nhẹ nhàng, khẳng định rõ ràng rằng những gì tôi đang nói là nằm ngoài hồ sơ. “Nghe anh nói như là anh đã từng đụng độ cha này rồi.” Tôi ngừng lại. “Phải, đã từng.” Khi anh ta phân vân, một giọng nữ từ tiền sảnh cất lên, “Ryan, mấy người này vẫn còn ngoài kia. Em đang…” Cô rẽ ở góc nhà rồi chợt dừng khựng, liếc nhìn tôi với đôi mắt nâu nheo lại. Tôi nhận ra gương mặt cô ngay lập tức từ những bức ảnh duBois đã gửi cho tôi. Joanne Kessler. Đi đôi giày chạy, mặc quần jean và áo len có khóa kéo tối màu đã xổ sợi, Joanne có gương mặt ưa nhìn, cho dù không xinh xắn hoặc đẹp đến kì lạ. Cô là người hay ra ngoài, những nếp nhăn và vết tàn nhan do phơi nắng, tôi đoán là làm vườn, căn cứ vào những móng tay ngắn, hai móng đã gãy. Trông cô không có vẻ ưa thể thao lắm, cho dù dáng người cô mảnh mai chứ không giống như chồng mình. Mái tóc màu vàng sậm, quăn và buông dài, cột lại thành đuôi ngựa. Cô đeo kính, rất phong cách, nhưng hai mắt kính khá dày, gợi nhắc về sự nghiệp trước kia của cô. Nếu nói đến một người trông như nhà thống kê ở Bộ Giao thông Vận tải, thì đó chính là Joanne Kessler. Gương mặt cô lưu dấu khoảnh khắc quá bất ngờ khi nhìn thấy tôi - rõ ràng cô không hề nghe thấy tiếng tôi đến - rồi nét mặt trở lại ráo hoảnh. Không nhìn chằm chằm hay lạnh lùng trong giận dữ. Cô thất thần - một phụ nữ ưa sách vở bị ném vào những sự kiện này, tôi phỏng đoán. “Đây là Đặc vụ Corte. Anh ấy làm việc cho Bộ Tư pháp. Là một vệ sĩ.” Tôi không chỉnh Ryan nói cho đúng về chức vụ hoặc nơi tôi làm việc. Tôi bắt bàn tay mềm mại của cô ấy và nở một nụ cười. Đôi mắt cô vẫn lạnh lùng. “Bà Kessler…” “Joanne.” “Bà đã quen với tình huống này?” “Ryan bảo tôi rằng đã có nhầm lẫn gì đó. Ai đó cho rằng anh ấy đang bị đe dọa.” Tôi liếc nhìn Ryan, vừa gật đầu thay cho câu trả lời. Tôi giữ vẻ mặt bình tĩnh và nói với Joanne, “Có thể có sự nhầm lẫn, phải, nhưng chắc chắn rằng một kẻ đã được thuê để lấy thông tin từ chồng bà.” Gương mặt cô suy sụp. Cô thì thầm, “Anh nghĩ chúng tôi thực sự bị nguy hiểm à?” “Vâng.” Tôi giải thích về những kẻ moi tin và Henry Loving. “Một kẻ thẩm vấn tự do.” Tôi tóm tắt. “Nhưng ý anh nói là hắn tra tấn mọi người hay tương tự thế đúng không?” Joanne nhẹ nhàng hỏi, đôi mắt cô vô cảm đến kì lạ, khi nhìn chằm chằm chồng mình. Tôi nói, “Vâng, ý tôi chính xác là thế đấy.” CHƯƠNG 4 “Vài kẻ moi tin hối lộ, vài kẻ đe dọa, vài kẻ thì tống tiền bằng thông tin nhạy cảm,” tôi giải thích. “Nhưng kẻ đang theo đuổi Ryan, phải, hắn chuyên khai thác bằng tấn công thể chất.” “Tấn công thể chất,” Joanne lẩm bẩm. “Chuyên gia,” Nghe anh nói cứ như thể hắn là luật sư hay bác sĩ ấy.” Tôi không nói gì. Trong nghề này bạn tìm kiếm mọi thứ giúp bạn làm được việc. Như các trò chơi tôi hay chơi - đặc biệt là các trò board game. Tôi thích được ngắm nhìn đối thủ của mình. Tôi học hỏi được nhiều điều, nhận ra ngôn ngữ cơ thể, ngôn ngữ giọng nói, tiếp xúc mắt, quần áo. Thậm chí cả thói quen hô hấp nữa. Tôi phải thuyết phục nhà Kessler rằng họ cần tôi. Tôi ra quyết định dựa trên những gì tôi biết được ngay lúc này. Tôi nói chuyện với bọn họ, cho dù hầu hết sự chú ý của tôi đã chuyển sang cô vợ. Tôi nói, giọng đều đều, “Loving là kẻ chuộng phong cách cũ. Thông thường hắn chà giấy nhám và rượu lên các bộ phận nhạy cảm của cơ thể. Nghe có vẻ không có gì nhưng nó thực sự hiệu quả.” Tôi cố gắng không hình dung các bức ảnh hiện trường thi thể người thầy của tôi, Abe Fallow. Nhưng không thành công lắm. “Ôi trời,” Joanne thì thầm đưa tay lên che đi làn môi mỏng. “Kỹ năng cơ bản của kẻ moi tin là ‘nhắm vào lá bài chủ’, để chiếm được lợi thế hơn so với anh. Có vụ khi tôi đang bảo vệ một người khỏi tay hắn, Loving đột nhập vào và tra tấn đứa bé ngay trước mặt người cha mà hắn muốn moi tin.” “Không,” Joanne hổn hển. “Nhưng… Amanda. Chúng tôi có một cô con gái. Đây là…” Mắt cô nhìn hết từ căn phòng này sang căn phòng khác, rồi dừng lại ở bồn rửa và đống bát dĩa bẩn. Gần như khẩn cấp, cô bước về phía trước, chụp lấy một đôi găng tay màu vàng dùng trong bếp, đeo chúng vào rồi vặn mở vòi nước nóng. Chuyện này xảy ra rất nhiều, các thân chủ đang tập trung - đôi khí đến mức ám ảnh - vào những thứ nhỏ nhặt. Những thứ họ có thể kiểm soát được. Ryan nói, “Chúng ta nên làm như Đặc vụ Corte nói. Rời khỏi căn nhà này một thời gian.” “Bỏ đi ư?” “Vâng,” tôi đáp. “Chỉ để phòng ngừa thôi.” “Bây giờ sao?” “Đúng vậy. Càng sớm càng tốt.” “Nhưng đi đâu? Một khách sạn à? Một trong những người bạn của chúng tôi!... Chúng tôi còn chưa gói ghém đồ đạc. Đi luôn sao?” “Bà chỉ cần gói ghém vài thứ thôi. Và bà sẽ tới một trong các căn nhà an toang của chúng tôi. Cách đây không xa đâu. Đó là một nơi rất đẹp.” Tôi không nói cụ thể hơn về địa điểm. Tôi chưa bao giờ làm thế. Tôi không bịt mắt các thân chủ trước khi đưa họ đến nhà an toàn, để họ có thể có khái niệm sơ bộ ngôi nhà ấy nằm ở đâu, nhưng tôi chưa bao giờ cho họ biết địa chỉ. “Bây giờ, tôi có thể đề nghị bà gói ghém đồ…” “Amanda,” Joanne ngắt lời, và có lẽ quên mất mình đã từng nói chi tiết này rồi, cô nói, “Chúng tôi có một cô con gái. Con bé mười sáu tuổi. Ryan! Con bé đâu rồi? Nó tan trường về nhà chưa?” Các thân chủ thường xuyên rơi vào trạng thái tăng động, tâm trí họ liên tục chuyển từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác. Ban đầu tôi đoán rằng cô ta đã quên hôm nay là sáng thứ Bảy, nhưng hóa ra con bé đang theo học một khóa học thêm máy tính tại một trường trung học cộng đồng gần đó vào những ngày cuối tuần. “Anh nghe tiếng con bé về nhà nửa giờ trước rồi,” Ryan nói. Joanne đang nhìn chằm chằm vào đôi găng tay vàng tươi. Cô cởi chúng ra, vặn đóng vòi nước lại. “Tôi đang nghĩ…” “Vâng?” Tôi khuyến khích. “Tôi không muốn nó tới đó, ý tôi là Amanda. Tôi không muốn con bé ở cùng chúng tôi tại nhà an toàn.” “Nhưng con bé cũng bị nguy hiểm ngang với Ryan. Vậy bà có… điều tôi nói lúc nãy, về lá bài chủ mà Loving muốn.” “Không, làm ơn.” Cô nói. Có vẻ điều quan trọng đối với Joanne đó là con bé phải được tách ra khỏi bố mẹ. Tôi nhớ rằng Amanda là con riêng của Ryan và tôi tự hỏi tại sao nhà Kessler lại không có thêm bất kì đứa con nào. Có thể do anh ta đã làm phẫu thuật thắt ống dẫn tinh trong cuộc hôn nhân đầu tiên, hoặc có thể Joanne không có khả năng mang thai hoặc có thể đơn giản là họ lựa chọn không sinh con chung. Muốn được biết tất cả những gì mình có thểbiết về các thân chủ của mình, tôi luôn cân nhắc mọi thông tin. Nó có thể tạo ra sự khác biệt. Joanne nhìn chằm chằm đống bát đĩa rồi bỏ đôi găng tay xuống. Ryan cũng đang cân nhắc chuyện này. “Anh đồng ý. Hãy đưa con bé đến chỗ nào đó an toàn hơn.” Tôi nhận ra anh ta đang suy nghĩ điều tôi vừa nói - về khả năng đấu súng ác liệt với Loving. Joanne nói, “Chúng ta sẽ tới nhà an toàn. Nhưng con bé phải ở một nơi khác. Đó là cách duy nhất để tôi đồng ý.” Rồi Ryan nói với vợ, “Em và Amanda đi đi.” “Không,” cô cứng cỏi nói. “Em sẽ ở lại với anh.” “Nhưng…” “Em sẽ ở lại.” Cô nắm lấy tay anh. Tôi lại bước tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Joanne đã để ý hành động này, cũng như chồng cô ấy lúc trước, và cô thấy khó chịu trước sự lo lắng rõ ràng của tôi. Tôi quay người lại. “Về lí thuyết tôi không phiền nhưng tôi không có đủ người nếu con gái hai người không ở chung trong nhà an toàn. Hai người có thể gửi con bé tới chỗ khác sao? Miễn là nơi con bé đến không hề có mối liên kết nào với hai người hoặc gia đình hai người, và tên con bé không xuất hiện trên các giấy tờ đi lại hoặc các giao dịch mua bán bằng thẻ tín dụng. Loving và những kẻ moi tin chuyên nghiệp sẽ xoay xở để có được quyền tiếp cận tự do các thông tin khai phá dữ liệu. “Bill,” Joanne bất ngờ nói. “Ai cơ?” Ryan đáp, “William Carter. Ông ấy là một người bạn của gia đình. Ông ấy làm cùng cơ quan với tôi. Đã nghỉ hưu mươi năm trước. Con bé có thể ở cùng ông ấy.” Tôi tự hỏi liệu Loving có thể lần ra ông ấy không vì mối liên kết trong quá khức của Ryan. “Ông ấy là đồng nghiệp của anh à, hai người có làm chung nhiệm vụ với nhau không? Có phải là cha đỡ đầu của Amanda không?” “Không. Chỉ là bạn bè thôi. Chúng tôi chưa bao giờ làm cùng một vụ. Ông ấy đã tìm được một ngôi nhà trên mặt hồ tại hạt Loudoun, gần White’s Ferry. Họ có thể tới đó. Amanda yêu mến ông ấy. Con bé xem ông ấy như ông bác.” Anh ta nhắc lại. “Và ông ấy là cựu cảnh sát.” “Anh hoàn toàn chắc chắn không ai có thể lần ra hai người chứ? Hai người không sở hữu bất kì thứ gì chung với nhau, một chiếc thuyền đánh cá, một chiếc xe ư? Ngay cả vay tiền nhau thôi cũng là một phần của tài liệu công khai, có mua bất động sản của nhau không?” “Không. Chẳng có gì cả.” “Ông ấy có thể tới đây trong vòng mười phút không?” “Năm phút thôi. Ông ấy sống cách đây một khu. Nhẽ ra chiều hôm nay ông ấy sẽ qua chơi nhưng rồi lại thay đổi kế hoạch ngay lập tức vì chuyện này.” Tôi mở túi lấy laptop ra. Tôi bật máy và bắt đầu gõ lệnh vào một cửa sổ mới. Tôi xem xét các thông tin, bỏ qua phần cơ sở dữ liệu bảo đảm của tổ chức chúng tôi. Không có thông tin gì về William Carter hoặc sự nghiệp của ông ấy hoặc những hoàn cảnh trong đời sống nào khiến tôi phải lo lắng. Tôi tiếp tục tìm kiếm về con bé. Amanda Kessler là một đứa trẻ mới lớn điển hình, hoạt động tích cực trên Facebook, MySpace và các trang blog nhưng thông tin cá nhân ở mức tối thiểu. Điều này khiến tôi thấy nhẹ nhõm. Các trang mạng xã hội khiến công việc của chúng tôi trở thành cơn ác mộng, vì tất cả các thông tin cá nhân người ta ném lên tầng ozon. Tôi cũng để ý Amanda chưa bao giờ đăng bất kì điều gì về William Carter hay căn nhà của ông ấy hoặc về hạt Loudoun. Tôi hài lòng trước việc Loving sẽ không thể tìm ra bất kì mối liên kết nào. “Gọi cho ông ấy đi.” Tôi trao cho Ryan một chiếc di động, loại nắp gập, màu đen, hơi to hơn mẫu điện thoại Nokia hoặc Samsung thông thường một chút. “Cái gì đây?” “Điện thoại bảo mật. Đã mã hóa và định tuyến qua proxy. Từ giờ trở đi, cho đến khi tôi bảo anh dùng loại khác, thì anh chỉ được dùng điện thoại này thôi.” Tôi thu lại di động của họ rồi tháo pin ra. Ryan xem xét chiếc điện thoại - Joanne nhìn chằm chằm vào nó như thể là một con rắn có độc - sau đó anh ta gọi một cuộc rồi nói chuyện với Carter. Anh ta tắt máy. “Ông ấy đang trên đường tới.” Tay thám tử ngừng lại một lúc, cân nhắc những gì mình định nói, rồi quay về phía cửa, gọi lớn, “Amanda? Xuống dưới này đi, con yêu. Bố mẹ muốn nói chuyện với con.” Một lúc sau một cái bóng xuất hiện ở cửa và con gái họ bước vào bếp. Cô bé đeo cặp kính có gọng màu đỏ, mái tóc đen dài và rối bù xù. Cô bé mang đặc trưng của cha mình: cặp hông hẹp và đôi vai rộng. Một cầu thủ bóng rổ. Đôi mắt cô bé linh hoạt, và cho dù có thể cô bé đã nghe được gì đó từ những gì các đặc vụ đang làm bên ngoài nhưng có vẻ cô bé không sợ hãi. Cô bé thận trọng nhìn tôi. Mẹ kế cô bé nói, “Amanda, đây là Đặc vụ Corte. Chú ấylàm việc với chính phủ. Giống như FBI ấy.” “Chào Amanda,” tôi nhẹ nhàng nói. “Xin chào.” Cô bé có vẻ quan tâm tới chiếc laptop ấn tượng của tôi hơn cả chính tôi. Nói với trẻ con rằng chúng đang bị nguy hiểm là một nghệ thuật (tôi phát hiện, trẻ em gái thường phản ứng với các tin xấu tốt hơn con trai). Tôi có kỹ năng đối thoại nhưng nói chung tôi thích để phụ huynh nói chuyện với chúng trước. Ryan giành quyền nói. “Mandy, chúng ta đang có một rắc rối nhỏ.” Con bé gật đầu, đôi mắt ngày càng sắc sảo hơn. “Có vẻ như ai đó không vui vì một vụ án của bố và mấy chàng trai ở phòng và FBI sẽ bắt giữ hắn. Nhưng cho đến khi họ làm được thế, chúng ta sẽ dọn đi khỏi căn nhà này một thời gian.” “Do ai đó bố đã bắt giữ ạ?” Amanda thản nhiên hỏi. “Bố mẹ không rõ.” “Bố đã nói dạo này bố không làm nhiều vụ rồi mà.” Ryan ngừng lại trước khi nói tiếp. “Có thể là từ trong quá khứ. Bố mẹ vẫn chưa biết.” Tôi nói với con bé, “Bọn chú không rõ hắn đang có âm mưu gì nhưng bọn chú biết hắn nguy hiểm.” “Mẹ con và bố sẽ hợp tác với Đặc vụ Corte để bàn về vụ án. Cố gắng giúp đỡ họ tìm ra ke đứng đằng sau vụ này.” “Vậy là biệt giam ạ?” Ryan mỉm cười. Tôi tự hỏi con bé học được từ này từ chương trình truyền hình nào. “Không hẳn đâu, nhưng sẽ tốt hơn nếu chúng ta rời khỏi nhà này. Trong khi bố mẹgiúp đỡ các chú đặc vụ liên bang con sẽ ở tạm nhà bác Bill ở bên hồ vài ngày nhé.” “Thôi mà bố,” con bé than vãn. Gương mặt tròn trĩnh, xinh xắn của nó điểm chút mụn trứng cá, xịu xuống vì thất vọng, tôi nghĩ con bé hơi phóng đại quá. “Con không thể nghỉ học được.” Con bé thuật lại các lí do: kì thi vấn đáp đầu tiên của học kì ở lớp sinh học, luyện tập bóng rổ, nhiệm vụ của nó trên đường dây nóng trung tâm tư vấn học sinh, một ủy ban diễu hành về nguồn. Cô bé tung chúng ra thật nhanh, hi vọng một trong số này sẽ hữu ích. “Ý con là con không thể.” Trẻ con… không thể bị tổn thương, bất tử. Và, bằng sự tính toán của riêng chúng, trở thành trung tâm vũ trụ. “Con sẽ phải nghỉ học ở trường tối đa vài ngày. Như một kì nghỉ thôi.” “Kì nghỉ ạ? Eo, thôi mà bố.” “Chuẩn bị đồ đạc đi. Ngay bây giờ.” “Bây giờ ư?” Tôi cũng đưa cho con bé một chiếc điện thoại bảo mật rồi thu điện thoại của nó. Con bé miễn cưỡng chấp nhận. Tôi nói thêm với con bé, “Đến chừng nào chú nói tất cả đã ổn, chú e rằng cháu sẽ không thể lên mạng được đâu.” “Cái gì?” Với một đứa trẻ tuổi thiếu niên, đây có lẽ là sự tướt đoạt tồi tệ nhất. “Sẽ không lâu lắm đâu. Nhưng kẻ này có khả năng biết cách lần ra máy tính của cháu.” “Chán vãi.” “Amanda,” cha con bé nghiêm giọng nói. “Con xin lỗi. Nhưng con phải lên mạng. Ý con là, ít nhất là Facebook và Twitter. Con còn viết blog hàng ngày nữa. Con chưa từng bỏ…” Joanne nói, “Không được, đến chừng nào Đặc vụ Corte nói rằng tất cả đã ổn. Con có thể phải chịu cảnh thiếu thốn tại nhà bác Bill. Xem tivi, đọc sách, chơi điện tử. Con có thể đi câu cá. Con thích câu cá lắm mà.” “Ôi, chuyện này đúng là…” Con bé nhăn mặt lại, tỏ ra bực tức. “Con sẽ thấy vui thôi. Giờ thì chuẩn bị đi. Bác Bill sẽ tới ngay đấy.” “Vui,” con bé lẩm bẩm châm biếm. Khi cô con gái đi rồi, tôi hỏi nhà Kessler, “Còn họ hàng thân thiết nào khác trong vùng không?” Joanne chớp mắt ngạc nhiên. “Ôi lạy Chúa. Em gái tôi. Tôi quên bén mất Maree.” Đó là một cái tên lạ, Mar-ee. “Suốt một tháng qua nó ở đây. Nó sẽ phải đi cùng chúng tôi.” “Cô ta đi ra ngoài sao?” Tôi hỏi. Tôi không thấy cô ta trong nhà. “Không, nóvẫn đang ngủ.” “Em vợ tôi là một cú đêm,” Ryan giải thích. “Đánh thức cô ta dậy đi,” tôi nói. “Chúng ta phải đi… Ồ, và đừng để cô ta sử dụng di động đấy.” Joanne chớp mắt trước những chỉ dẫn gấp gáp. Cô hất đầu về phía khay trên bếp. “Điện thoại của nó ở đó.” Tôi tắt nó đi, lấy pin ra rồi bỏ tọt vào túi. Joanne bước vào trong sảnh, tôi nghe thấy bước chân cô trên gác. Ryan bước vào căn phòng nhỏ, bắt đầu nhét toàn bộ giấy tờ vào một chiếc vali to cùng một cái túi đeo vai. Logo cảnh sát Thành phố xuất hiện trên rất nhiều tài liệu. Tôi tiếp tục hỏi han về những người thân khác có thể bị xem là lá bài chủ. Bố mẹ của Ryan đều đã qua đời. Anh trai anh ta ở bang Washington. Cha của Joanne cùng vợ hai - ông ta góa bụa - sống trong vùng này nhưng đang đi nghỉ tại châu Âu. Maree là chị em gái duy nhất của cô ta. Joanne chưa từng kết hôn với bất kì ai trước đây. “Joanne có con riêng không?” Tôi hỏi. Anh ta ngần ngừ cân nhắc vài giây. “Không.” Nhà Kessler sẽ có nhiều bạn bè, tất nhiên rồi, tuy nhiên những kẻ moi tin thường rất ít khi thành công khi xem những ai không có quan hệ máu mủ ruột rà là lá bài chủ. Tôi lại đưa mắt nhìn ra ngoài, qua sân sau. Cách đó hai nhà, một người đàn ông đang cuộn lại vòi nước tưới vườn màu xanh, lười nhác kẹp hờ nó dưới khuỷu tay và nắm trong lòng bàn tay. Một người hàng xóm khác đang buông rèm xuống. Một ngôi nhà gần đó tĩnh lặng, cho dù rèm cửa khẽ lay động. “Ngôi nhà sau nhà anh, nằm chéo góc, bên trái ấy? Anh có biết ai đang ở nhà không thế?” Ryan nhìn theo hướng tay tôi chỉ. “Có, sáng hôm nay tôi thấy Teddy trên đường đến Starbucks.” Rồi anh ta liếc nhìn ra cửa xem vợ mình đã ra khỏi tầm nghe chưa. “Anh biết đấy, Corte, thế giới này… tôi và anh nên làm gì bây giờ? Joanne không thể xoay xở được đâu. Mọi chuyện khiến cô ấy rất khiếp sợ, những chuyện chúng tôi còn không dám nghĩ đến. Đôi khi cô ấy còn rời khỏi phòng khi đến giờ tin tức. Tôi sẽ rất biết ơn nếu anh lưu ý chuyện này.” e vào nhà, “Xin lỗi. Tôi chắc chắn sẽ lưu ý.” “Cảm ơn.” Ryan mỉm cười rồi đi lên gác gói ghém đồ đạc. Thực ra, tôi đã nói toạc móng heo với Joanne nhạy cảm nhiều hơn mức cần thiết - thế nên Ryan sẽ làm điều anh ta vừa mới làm: cầu xin đúng cái ân huệ đó, mà tôi đồng ý. Chỉ nhằm mục đích kéo anh ta gần hơn về phía mình. Chuông điện thoại của tôi vang lên, hệ thống nhận diện người gọi bằng giọng nói lên tiếng qua tai nghe của tôi, “Fredericks.” Tôi ấn nút TRẢ LỜI. “Freddy.” “Tôi đang lên lối xe vào nhà, Corte. Đừng có bắn tôi đấy.” CHƯƠNG 5 Tôi không tài nào hiểu được cái thói đùa cợt của đám đặc vụ FBI. Có lẽ ông ta muốn bảo vể chính mình, việc không đùa cợt đối với tôi như một dạng khiên chắn. Tôi thấy bực mình, nhưng vì không phải sống chung như bà vợ và năm đứa con của ông ta, thế nên tôi cố gắng không để điều đó làm phiền mình. Tôi đáp. “Vào bằng cửa trước đi,” rồi ngắt máy. Ngoài cửa, tôi chào đón một đặc vụ cao ráo, tóc bạc. Claire duBois, với trí tuệ kì quặc, thường kích thích cô ta đưa ra những nhận xét lạ lùng nhưng chính xác, từng nói về Freddy như sau, “Có bao giờ anh để ý các đặc vụ FBI giỏi nhất trông như mấy thằng trùm Mafia trên truyền hình, còn mấy thằng trùm Mafia xuất sắc nhất lại trông giống các đặc vụ trên phim chưa?” Tôi chưa thấy nhưng điều này thì đúng. Rắn chắc và thẳng thóm, dù có khi chậm chạp, nhưng Paul Anthony Xavier Fredericks năm mươi lăm tuổi là một chuyên gia lâu đời tại FBI; ông ta chưa từng làm việc tại bất ki nơi nào khác sau khi tốt nghiệp đại học. Ông ta bước vào nhà, đi kèm theo là một đặc vụ trẻ hơn. Cả hai đi theo tôi vào bếp. Đặc vụ Rudy Garcia gần ba mươi tuổi. Gai góc và bảo thủ, rõ ràng cậu ta từng nhập ngũ trước khi vào cục. Đôi mắt nhanh nhạy, không mỉm cười và đã kết hôn, tôi phán đoán, cậu ta không phải kiểu người có thể rủ đi uống bia. Nhưng rồi, tôi cũng nghe người khác nói điều tương tự về mình. “Nhà Kessler đang gói ghém đồ đạc. Có tin gì mới từ West Virginia chưa?” Cái nhún vai đã nói lên tất cả. Tôi không mong đợi nhiều. Một chiếc xe khó nhận diện, một tuyến đường bí ẩn. Loving đang vô hình. “Ít nhất hai giờ nữa cho tới khi hắn đến được Fairfax, đó là sớm nhất,” tay đặc vụ vừa nói vừa đọc câu chuyện tin tức đóng khung về người anh hùng Ryan. “Tôi còn nhớ vụ này. Chắc rồi.” Garcia đang dạo bước dưới tầng trệt, liếc nhìn qua các ô cửa sổ. Cậu ta giỏi, cẩn thận không hé lộ bất cứ thông tin gì cho bất kì ai bên ngoài. Và không bao giờ tự biến mình thành mục tiêu. Joanne và Ryan xuống nhà, vali trong hai bàn tay lực lưỡng của cảnh sát. Họ dừng lại ngoài tiền sảnh, anh ta đặt vali xuống. Họ nhập hội cùng chúng tôi trong bếp, tôi giới thiệu họ với các đặc vụ. “Phá hỏng ngày nghỉ cuối tuần của mọi người rồi.” Freddy nói. “Xin lỗi nhé.” Tôi hỏi, “Maree dậy chưa? Chúng ta phải đi rồi.” “Nó sẽ xuống ngay thôi.” Tôi gợi ý, “Amanda có thể cảm thấydễ chịu hơn nếu dì của nó đi cùng nó đến nhà của bạn hai người ở Loudoun.” Vì lí do nào đó Ryan đáp, sau một chút ngần ngừ, “Có lẽ là không.” Joanne đồng ý. Radio của Freddy vang lên lạo xạo. “SUV đang tới gần. Đăng kí tên William Carter.” Tôi nói với ông ta. “Một người bạn. Con gái của Kessler sẽ ở nhà ông ta.” Một lúc sau Bill Carter xuất hiện ngoài cửa. Ông ta bước vào mà không gõ cửa rồi nhập hội với chúng tôi, ôm xiết lấy Joanne, rồi nồng nhiệt bắt tay Ryan. Ông già tóc bạc mới đầu sáu mươi, da rám nắng và vạm vỡ, sáu mươi hai tuổi hoặc hơn. Gương mặt ông ta u ám và đôi mắt xám sắc sảo, ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân qua cặp kính phi công to và siết chặt tay tôi. Ông ta cũng chàocả Freddy và Garcia, cẩn thận xem xét tất cả thẻ của chúng tôi. Tôi bắt gặp chóp của bao súng và báng súng của một khẩu súng lục sáng lóa dưới áo khoác của ông ta. “Vậy ra chuyện này là thật,” ông ta lẩm bẩm. “Khủng khiếp lắm anh Bill,” Joanne nói. “Một ngày tất cả tưởng chừng đã ổn giờ lại… chuyện này.” Tôi trao cho Carter một chiếc điện thoại bảo mật rồi giải thích với ông ta. “Kẻ nào bám đuổi cậu vậy?” Ông ta hỏi Ryan. “Hiện thân của ác quỷ” là câu trả lời khô khốc. Tôi trả lời câu hỏi rất cơ bản của Carter - cựu cảnh sá sẽ muốn nghe những chi tiết: “Tên hắn là Henry Loving. Hắn da trắng, ngoài bốn mươi tuổi, nặng khoảng chín mươi cân, tóc đen. Có một vết sẹo trên thái dương. Có khả năng giờ không còn nữa.” Tôi gõ phím máy tính. “Có một bức ảnh cũ đây. Hắn rất giỏi thay đổi hình dạng nhưng tôi sẽ cung cấp cho ông mô tả sơ bộ.” Các thân chủ của tôi và Carter đều chìm trong im lặng, ngắm nhìn gương mặt hiền lành của Henry Loving. Cho hắn ta mặc đồ cổ cồn và hắn có thể biến thành một bộ trưởng. Một bộ đồ xanh hải quân, hắn có thể thành kiểm toán hay người bán hàng tại thương hiệu bán lẻ Macyis. Gương mặt hắn lạnh lùng như mặt tôi, khác chăng là hắn tròn trịa hơn chút. Trông hắn không hề giống một kẻ sát nhân, tra tấn và bắt cóc. Điều này tạo cho hắn lợi thế. Tôi nói với Carter, “Tôi nghĩ chúng tôi đã kiểm soát được tình hình và hắn không quen biết ông. Nhưng hắn rất cảnh giác. Ông có thiết bị không dây nào trong nhà ở Loudoun không?” “Có, thưa ngài.” “Ông có vô hiệu hóa nó được không?” “Tất nhiên.” Tôi nói thêm, “Và phải chắc chắn Amanda không được sử dụng máy vi tính của ông để gọi điện thoại.” “Con bé biết làm thế à?” “Con bé đã là thiếu niên rồi,” tôi đáp. “Con bé có thể tạo ra cả một cái máy vi tính từ đống đồ dùng trong bếp đấy.” “Cứ cho rằng cậu nói đúng đi,” ông ta nhìn nhà Kessler. “Cậu đã cho con bé biết nhiều đến chừng nào rồi?” Ryan đáp, “Hầu như là mọi chuyện. Nhưng không quá mức đâu.” “Con gái cậu rất can đảm đấy. Không dễ làm con bé sợ thế đâu. Nhưng tôi sẽ làm con bé phân tâm.” “Cảm ơn ông nhiều, Bill.” “Và khi ông đi rồi,” tôi nói với ông ta, “luôn giữ con bé cúi thật thấp. Bảo nó tìm kiếm cái gì đó mà ông bị mất ở ghế trước ấy. Chỉ một hai khu phố thôi.” Có thể Carter cho rằng việc này là quá đáng, nhưng ông ta vẫn đồng ý. Amanda lao xuống cầu thang, tay túm chặt một cái gối vải bông kẻ hai màu đỏ trắng. Dường như thiếu niên nào cũng phải mang theo gối thì mới gọi là đi du lịch, ít nhất là với bọn con gái. Có thể là những tấm chăn an toàn. “Cháu chào bác Bill!” Con bé ôm chầm lấy người đàn ông rồi dò xét Freddy và Garcia, những kẻ mới đến. “Này, đây sẽ là một chuyến phiêu lưu lạ lùng đấy, cháu yêu,” Carter nói. “Vâng ạ.” “Tốt hơn là chúng ta đi thôi,” vị cựu cảnh sát nói. Tôi thấy thích thú, cô bé vận động viên thể hình rắn rỏi tuổi thiếu niên này khoác trên vai một cái xắc hình con gấu bông, với mặt cười ngớ ngẩng phía trước và khóa kéo đằng sau. Joanne ôm con bé thật chặt, mặc kệ cô con gái rieêg của chồng tỏ vẻ ngại ngùng. Cha cô bé cũng làm tương tự. Cả anh ta cũng phải nhận cái ôm đáp lại cứng nhắc. “Nào, làm ông già này vui lên đi,” Ryan nồng nhiệt nói. “Bố… vâng ạ.” Con bé bước lùi lại, cho dù người cha vẫn đặt hai tay lên vai nó. “Cứ gọi cho bố mẹ bất kì lúc nào. Về bất kì chuyện gì nhé.” “Vâng, được ạ.” “Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi, con yêu.” Nói rồi viên thám tử to lớn nới lỏng vòng tay, rõ ràng thấy lo lắng thái độ nâng niu, chiều chuộng của mình có thể khiến con gái thêm lo âu. Anh ta mỉm cười. “Tạm biệt nhé,” kéo mạnh cái gối ôm, balô và cái xắc hình con gấu, Amanda chạy về phía chiếc SUV của Carter. Một lần nữa ông già cựu cảnh sát lại ôm chặt Joanne rồi siết chặt tay Ryan bằng cả hai bàn tay mình. “Tôi sẽ chăm sóc con bé thật tốt. Yên tâm nhé. Chúa phù hộ hai người.” Nói rồi ông rời đi. Ryan quay vào phòng khách rồi bước ra cùng vali và một balô khác. Nó nặng nề và tôi cho rằng bên trong là đạn dược và có khả năng là một vũ khí khác. Freddy gọi cho người của mình bên ngoài qua radio. Chúng tôi nghe thấy một trong số họ trả lời, “Carter đi rồi. Không có đuôi bám theo. Không nhìn thấy con bé. Sau đó tôi nghe thấy những tiếng bước chân trên gác, và một phụ nữ, khá quyến rũ, xuất hiện ở cửa nhà bếp. Cô ta đang chớp mắt, như thể vừa thức dậy, cho dù cô ta đã ăn mặc đẹp đẽ và trang điểm xong. Trông cô ta hơi hơi giống Joanne, trẻ hơn tầm sáu đến tám tuổi. Cao hơn nhưng yểu điệu, không rắn rỏi. “Đây là Maree,” Joanne nói. “Chà, nhìn này,” cô ta nói. Dường như cô ta không hoàn toàn tin những gì chị gái đã nói. Chắc vậy rồi. “Em còn tưởng chị đang đùa em chứ, Joanne. Ý em là,” nhìn thấy Freddy và Garcia, “chẳng phải tôi đã thấy ông trên Soprano sao?” Cô ta rót ít nước cam rồi thêm vào chút bột thảo dược tự chế. Cô ta uống cạn rồi nhăn nhó. Các đặc vụ nhìn thẳng vào cô ta. Maree có mái tóc dài hơn và thẳng hơn tóc chị gái, có màu vàng, gần như chứ không hoàn toàn, hoặc có vẻ như không phải màu sắc thật. Cô ta mặc váy dài bằng da lộn và một áo khoác thêu hoa bằng vải mỏng màu vàng xanh. Trang sức bạc. Không đeo nhẫn cưới. Tôi luôn luôn nhìn dấu hiệu này, tất nhiên không phải là xác định họ còn độc thân hay không, mà vì tình trạng hôn nhân cho tôi thông tin về các lựa chọn của kẻ moi tin hòng nắm được yếu điểm của thân chủ. Một chiếc máy ảnh đẹp mắt treo tòng teng trên cổ cô ta, và tôi có thể thấy trong phòng nghỉ là hành lí của cô ta. Có một chiếc xe đạp cỡ lớn, một balô to và một túi laptop, như thể cô ta sắp đi vắng đâu đó trong hai tuần. Maree cầm một chồng thư nằm trên bàn gần cửa bếp lên. Các thư đã được gửi đến cho cô nhưng địa chỉ đánh máy - ở khu vực góc phần tư phía Tây Bắc của D. C - đã bị gạch chéo và nhà Kessler bị phong tỏa, nên phải chuyển tiếp về đây. Có thể cô đã mất việc và bị buộc phải dọn về đây ở cùng chị gái và anh rể. Khi lật giở xem các lá thư, tôi để ý người phụ nữ hơi nhăn nhó; cô ta di chuyển cánh tay trái thận trọng hơn cánh tay phải. Tôi nghĩ mình trông thấy một miếng băng gần phía khuyru tay, bên dưới lớp quần áo mỏng. Cô ta lấy chiếc áo khoác từ trên giá áo, nắm chặt lấy rồi quay sang phía chị gái. “Có vẻ như một bữa tiệc lớn đang hình thành sắp diễn ra nhưng em xin kiếu nhé. Tối nay em sẽ ở lại đặc khu.” “Cái gì?” Joanne hỏi. “Dì sẽ đi với anh chị.” “Em chẳng thấy lựa chọn đó có gì vui. Em chọn cửa sổ ba.” “Maree, xin dì đấy… Dì phải đi. Dì sẽ đi đâu?” “Em đã gọi Andrew rồi. Em sẽ ở lại với anh ấy.” “Gọi cho anh ta ư?” Tôi lo cô ta có chiếc di động khác. “Bằng điện thoại cố định trong nhà à?” “Vâng.” Điều này khiến tôi bớt lo lắng, trong khi theo dõi và truy dấu các di động là một phần của nhiệm vụ, thì nghe lén điện thoại cố định là rất khó, và ngay cả nếu Loving có cấp dưới đảm nhận chuyện đó, Maree cũng chẳng để lộ bất kì thông tin cơ bản nào liên quan đến công việc. Cô ta đang nhìn quanh. “Em không tìm thấy di động. Chị biết nó đâu không?” “Tôi cầm rồi.” Tôi giải thích về rủi ro bị truy dấu. “Tôi cần nó mà.” Cô ta không vui khi tôi bảo phải chấp nhận tình trạng không liên lạc được. Tôi không còn bất kì chiếc điện thoại bảo mật nào nữa để đưa cô ta. “Trời… cơ mà em vẫn phải ra phố.” Joanne nói, “Không, dì không được làm thế đâu.” “Em…” Tôi nói, “Tôi e rằng cô sẽ phải ở lại với chị gái và anh rể. Mà tôi cũng muốn đi luôn đây. Chúng ta đã phải chờ đợi quá lâu rồi. Ý tôi là đi ngay bây giờ.” Maree vẫy vẫy một bàn tay với những móng tay lấp lánh hình trăng lưỡi liềm màu trắng, tôi nghĩ chúng được gọi là sơn trắng đầu móng tay, hoặc có thể là tôi nhầm. Cô ta nói với tôi, hất đầu về phía chị gái, “Tôi không muốn ở lại với chị ấy. Lạy Chúa, chị ấy như khúc gỗ ấy.” Rồi cười phá lên. “Tôi đùa thôi. Nhưng tôi sẽ ổn thôi, thật mà.” “Không được,” tôi cương quyết nói. “Cô phải đi với chúng tôi và…” “Các người cứ đi đi. Cho mượn con Honda xài đỡ nhé, nếu ông anh không phiền.” Cô ta nhìn tôi. “Xe tôi nằm ở xưởng rồi. Anh có biết người ta đòi bao nhiêu thì mới chịu bơm thêm dầu mới không?... Này, anh làm cái gì đấy?” Garcia đang vác hành lí ra chỗ chiếc Armada đậu ở ngoài. Cậu ta quay vào bếp rồi gật đầu với tôi, nghĩa là sân sai đã không có ai. Quay sang Maree, Freddy nói, “Cô sẽ phải nghe lời Corte. Cô cần phải đi. Ngay bây giờ.” Maree trợn tròn hai mắt. “Chờ đã, chờ đã… Tôi biết ông anh.” Cô ta nhìn tôi chăm chú với cái nhíu mày. Tôi phải chớp mắt ngạc nhiên. Chúng tôi đã gặp nhau rồi ư? Cô ta nói thêm. “Ông anh xuất hiện trên số truyền hình thực tế. Kì Nghỉ Từ Địa Ngục. Ông anh làm hướng dẫn viên.” “Maree, làm ơn đi.” Joanne nói. Em gái cô bĩu môi. “Anh ta xấu tính lắm. Anh ta ăn cắp điện thoại của em.” Đúng lúc aấy tôi đang nhìn ra sân sau lần nữa qua cửa sổ bếp, xem có gì khác với lúc nãy không. Có một thứ nhìn thấy rõ hơn mà nửa tiếng trước không thấy, nhờ góc chiếu sáng của mặt trời tháng Chín cuối buổi sáng. Tôi gọi Ryan sang một bên rồi chỉ tay, “Kia có phải lối đi không?” Một vệt cỏ bị giẫm đạp nằm giữa nhà của Kessler và ngôi nhà mà tôi đã nhắc tới lúc nãy, nằm xế cửa phía bên trái. Tôi nhới lại, nhà của Teddy, người đàn ông đã ra ngoài uống cà phê. “Phải, dẫn đến nhà Knox. Họ ra ngoài rồi, tôi đoán vậy, những người bạn thân nhất trong vùng. Chúng tôi đi chơi với họ suốt mà.” Lối đi này đã được tạo ra qua mùa hè, từ việc tới lui để vận chuyển các món thịt nướng, vay mượn nguyên liệu và dụng cụ nấu ăn, các bữa tiệc sinh nhật. “Chuyện gì thế?” Joanne hỏi. “Hai người đang khiến em khó chịu đấy.” “Chà, nhìn ông anh thực sự căng thẳng đấy,” Maree nói. “Corte?” Freddy càu nhàu. Nhăn nhó, tôi gật đầu. “Chết tiệt,” tay đặc vụ lẩm bẩm. Ông ta thở dài, cởi cúc áo khoác. “Garcia!” “Tắt đèn đi,” tôi nói. Freddy và Garcia kéo hết tất cả rèm cửa và mành cửa sổ trong phòng xuống, cả phòng khách và bếp. Ryan căng thẳng còn Joanne, hai mắt mở to, buột miệng, “Đang xảy ra chuyện gì? Cho tôi biết đi.” Tôi có thể thấy lòng bàn tay Freddy nắm quanh báng súng khẩu Glock của ông ta. Chúng tôi làm điều này để tái định hướng các cơ bắp và dây thần kinh, để biết chính xác các vũ khí của mình nằm đâu. Như tôi đã để ý sức ép của khẩu Baby Glock, ở thắt lưng. Tôi đã bỏ nó vào bao súng được một lúc. Ryan bước về phía cửa sổ. “Không,” tôi cương quyết nói. “Quay lại. Loving đang ở đây.” Tôi dẫn tất cả mọi người quay vào trong tiền sảnh không có cửa sổ. “Hắn làm thế bằng cách nào?” Freddy hỏi. “Lẽ ra hắn vẫn đang trên đường quay về từ West Virginia cơ mà.” Tôi không đáp. Có vài lời giải thích khả dĩ, cho dù chẳng hề liên quan tới mục tiêu của chúng tôi vào lúc này: bảo vệ các thân chủ sống sót và rời khỏi khu vực này ngay lập tức. “Sếp có ý tưởng gì không” Garcia hỏi tôi. “Ngôi nhà mà lối đi dẫn tới? Cửa sổ gần nhất với nơi này? Các rèm cửa được kéo xuống mười phút trước. Lúc này chúng được kéo lên chỉ khoảng sáu phân thôi. Kéo rèm lên kiểu đó chẳng có nghĩa lí gì với họ cả, trừ phi là để theo dõi.” “Một kẻ nhận dạng à?” “Không phải,” tôi đáp. “Một kẻ nhận dạng hẳn sẽ phải chọn căn nhà có tầm nhìn tốt nhất. Đó là căn nhà ngay đối diện phía sau nhà này, hoặc chếch về phía bên phải. Loving chọn căn nhà bên trái vì hắn nhận thấy lối đi và cho rằng gia đình sống ở đó hẳn là những người bạn tốt nhất về anh, và có thể biết chiếc SUV của tô đang làm gì trên lối vào nhà anh và chiếc sedan đậu trước nhà.” “Teddy và Kath!” Joanne thốt ra. “Ý anh là hắn đang ở đó với họ sao?” “Cậu chắc không, Corte?” Freddy hỏi. Tức là, chúng tôi đã bắt đầu chuyện này, có khả năng cái giá của nó sẽ khá đắt đỏ và biến thành đống hỗn độn. “Chắc… Tôi muốn mọi người ở đây ngay. Hạt Fairfax và những người bạn bè của ông, bất kì ai ở gần đây.” “Gọi họ đi,” Freddy ra lệnh cho Garcia, cậu ta rút di động ra khỏi bao và ấn một số gọi nhanh. “Tôi xin lỗi, chuyện này quá lạ lẫm với tôi,” Maree nói bằng tiếng cười bực bội. “Hướng dẫn viên đang làm chúng ta chết khiếp vì ai đó vừa mở cửa sổ? Chúc may mắn nhé, các chàng trai.” Cô ta cầm chùm chìa khóa xe lên từ một cái đĩa trên bàn ăn gần đó. “Tôi xuống phố đây.” Cô ta tiến thẳng ra cửa trước. “Không được,” tôi nói dứt khỏa. “Và tất cả mọi người, hãy…” Những hướng dẫn còn lại của tôi bị cắt ngang bởi tiếng nổ chói tai từ ngoài phố. Joanne thét lên. Maree thở hổn hển đứng như trời trồng ngay trước cửa. Tôi nhanh chóng lao về phía trước, túm chặt lấy cổ áo khoác của người phụ nữ trẻ kéo tuột cô ta về phía sau, chúng tôi cùng ngã nhào xuống sàn, khi những viên đạn bắt đầu xuyên qua ô cửa sổ lớn ở mặt tiền phòng khách. CHƯƠNG 6 Joanne định thần lại, cô quờ quạng bò về phía trước bằng đầu gối, túm chặt lấy em gái kéo lùi sâu nữa vào trong, tránh xa các cửa sổ. Cô gái trẻ đánh rơi xấp thư xuống sàn thành một đống màu trắng. Máy ảnh của cô ta cũng rơi và cô ta kêu lên, tuyệt vọng vươn tay ra lấy lại. “Mặc kệ nó đi!” Joanne lẩm bẩm, ngăn cản cô ta. Ryan cũng đã rút vũ khí và giờ đang bò. Tôi vẫn chưa rút súng vì chưa thấy mục tiêu, phần nữa tôi còn đang bận nhét máy tính vào túi. Thêm vào đó, là người dẫn dắt, tôi có xu hướng để những người có kinh nghiệm hơn giải quyết chuyện đấu súng. Thêm vài tiếng súng nữa bắn vào trong phòng khách. Các viên đạn bắn trúng vào một ngọn đèn, một khung ảnh, bức tường. Những phát súng nhẹ nhàng, nhưng tiếng kính vỡ thì đinh tai. Freddy đang gọi điện thoại cho các đặc vụ của ông ta ở bên ngoài, nhưng không thấy ai trả lời. Họ chết rồi sao? “Garcia!” Tôi gọi. Cậu đặc vụ trẻ theo bản năng đã chạy đến các ô cửa sổ bên nhìn ra những cái cây, yểm hộ bên sườn chúng tôi. “Cậu thấy gì rồi?” “Không thấy gì,” cậu ta thét lên. “Lối vào duy nhất là từ mặt tiền.” Tôi ra hiệu mọi người lùi sâu hơn nữa vào trong hành lang đèn tối mờ sau đó lẻn vào phòng tắm nhỏ dành cho khách phía trước rồi liếc qua cửa sổ. Một chiếc Ford màu bạc đâm sầm vào phía sau xe của các đặc vụ, khiến nó trôi về phía trước ba mét hoặc hơn. Không thắt đai an toàn, hai người đàn ông hết bị giật về phía sau rồi lại bị xô mạnh về phía trước, cuối cùng gục xuống ghế trước. Tôi không thể đoán chắc họ còn sống hay chết. “Không!” Tôi quát lên, túm chặt lấy anh ta kéo anh ta lùi lại. “Anh đang làm cái gì thế?” viên cảnh sát kêu lên. “Tôi có mục tiêu rồi mà.” “Chờ đã,” tôi đáp khi đã bình tĩnh lại hết sức có thể. “Garcia, theo dõi sân bên. Đừng rời mắt đấy nhé.” “Nhận lệnh.” “Freddy, phía sau thế nào?” Tôi gọi tay đặc vụ cấp cao, người đang ở trong bếp. “Đến giờ vẫn không có gì.” Thêm hai phát đạn nữa bắn vào phòng khách. Maree lại thét lên. Ryan nói, “Ra phía sau! Chúng ta có thể đánh thọc sườn hắn. Tại sao anh lại không cho tôi bắn hả, Corte?” Maree bắt đầu bò về phía cánhcửa bếp phía sau, nức nở, vẻ khiếm nhã của cô ta giờ biến thành hốt hoảng thật sự. “Tôi sợ quá, Chúa ơi, tôi sợ quá.” “Quay lại,” tôi nói, túm chặt vai và ngăn cô ta lại. Joanne rơi vào trạng thái như bị thôi miên, nhìn trừng trừng đám kính vỡ, chắng nói năng gì. Đôi mắt vô hồn. Tôi tự hỏi liệu chúng tôi có phải bế cô ta đi không, chuyện như thế cũng xảy ra đôi lần. Tôi bình tĩnh nói, “Không ai đi đâu hết.” Freddy nhận một cuộc gọi. “Corte! Năm phút trước, ai đó vừa gọi đến báo có hai kẻ xả súng tại trường Đại học George Mason. Mười sinh viên đã trúng đạn. Toàn bộ đội Chiến thuật hạt Fairfax đang trên đường tới đó. Tôi đang cố gắng kéo một đội tới đây nhưng sẽ chẳng có ai rảnh đến cứu chúng ta đâu.” “Một vụ xả súng học đường à? Không, không, là giả thôi. Loving đã gọi đấy. Garcia?” “Bên sườn vẫn không thấy gì.” “Được rồi, chúng ta di chuyển. Ra cửa trước.” “Hắn đang ở ngoài đó!” Ryan kêu lên. “Không, không phải hắn,” tôi đáp. “Cặp vợ chồng sau nhà anh, nhà Knox - họ lái xe gì?” “Một xe Lexus và một xe Ford.” Anh ta liếc mắt ra ngoài rất nhanh, rồi rút lại. “Đó là xe của họ! Hắn đã giết họ rồi! Ôi chết tiệt.” “Chúa ơi, không…không,” Joanne thì thầm, ôm chặt lấy em gái, người đang nức nở, hai cánh tay cô ta vòng quanh cái máy ảnh, cô ta đã lấy được nó và ôm ấp như một hài nhi. “Chính Teddy Knox đang ngồi trong xe, không phải Loving đâu,” tôi nói. “Ý anh là sao?” Ryan hỏi. “Anh ta bị bắt làm con tin à?” “Không, anh ta là người bắn.” “Teddy sẽ không làm thế. Ngay cả nếu Loving ép buộc anh ta.” “Loving đang ép buộc anh ta. Hắn đã đe dọa vợ anh ta, người đang ở phía sau nhà. Nhưng Teddy không chủ ý bắn trúng ai. Anh ta chỉ bắn bừa, để hướng chúng ta ra phía sau nhà. Đó là nơi Loving đang đợi chúng ta. Trong nhà của họ, hoặc có thể là sau các bụi cây. Hắn sẽ có một đồng bọn. Hắn sẽ không cố gắng tàn sát công khai một mình. Chúng ta cứ tiến ra cửa trước. Freddy, ông cùng Garcia ở lại trong nhà và yểm trợ phía sân bên, phía có cây cối, và phía sau nha. Ryan, khi chúng ta đi, anh sẽ yểm hộ phía sân bên kia. Đừng nổ súng trừ khi thấy ai đó đang giơ vũ khí lên. Chúng ta sẽ thu hút sự chú ý của dân thường. Tôi không muốn có thương vong ngoài dự kiến.” Ryan ngừng ngừ, nhìn về phía trước nhà. Anh ta đang đấu tranh: có nên làm theo lệnh hay không? Joanne nói, “Làm theo những gì anh ấy nói, Ryan! Hãy làm như anh ấy bảo, làm ơn đi!” “Ra chỗ chiếc SUV của tôi thật nhanh nhưng đừng nhanh quá kẻo bị thương đấy. Được chứ?” “Tự làm chúng tôi bị thương vì ngã sao?” Ryan buộc miệng thốt ra, trước nỗi lo lắng kì lạ của tôi. Sự chậm trễ do một cái cổ chân sái khớp có thể giết chết tất cả chúng tôi. “Thế nếu Loving đang ngồi trong xe, ở ghế sau thì sao?” Freddy hỏi. “Không logic,” tôi gọi, rồi quay sang Ryan. “Sân bên thế nào? Loving có thể ẩn nấp và đang trườn bò. Anh đã xem ảnh của hắn. Nếu anh có thể xác nhận đó là hắn, hãy cố gắng bắn đạn nhựa nhé . Chúng tôi cần biết kẻ nào đã thuê hắn.” “Tôi có thể ghim một viên vào vai hoặc cổ chaân hắn,” Ryan nói. “Tốt. Tốt hơn nên nhắm thấp thôi. Tránh xương đùi. Tôi muốn hắn ngừng lại nhừng đừng để hắn chảy máu tới chết.” “Đã hiểu.” Tôi ấn nút trên khóa tự động khởi động và mở khóa cửa xe Nissan, sau đó mở cửa trước ngôi nhà ra vài phân, nhắm vào người lái chiếc Ford màu bạc, đang đậu một nửa trên phần vạch đậu xe, nửa còn lại ngoài phố. Anh ta đội mũ bóng chày và đeo kính râm, những giọt nước mắt đang chảy xuống hai má anh ta. Miệng anh ta như đang muốn nói, “Tôi xin lỗi, tôi xin lỗi.” Một khẩu súng lục đen ngòm dán chặt vào bàn tay anh ta bằng băng keo to. Khóa nòng đã bật về phía sau; anh ta đã dùng hết đạn. “Teddy!” Joanne gọi. Khốn khổ thay, người đàn ông lắc đầu. Nghĩ đến vợ minh, lá bài chủ, ở nhà - đang bị Loving dí súng vào đầu, hoặc anh ta nghĩ như vậy. Loving nhiều khả năng đã giết chết cô ta vào lúc người chồng cho xe rời khỏi nhà. Kế hoạch của kẻ moi tin rất ổn. Đó là việc mà tôi sẽ làm nếu tôi ở vào địa vị của Loving, một thân một mình cố gắng bắt lấy một thân chủ từng là cớm có vũ trang, với vài nhân viên hành pháp bên trong, giữa ban ngày ban mặt, không hơn. Tôi nhìn quanh rồi đẩy Ryan, Joanne và Maree ra ngoài. Chúngtôi di chuyển nhanh đến chỗ chiếc Armada, cách khoảng bảy mét. Cho dù tôi tự tin rằng Loving và bất kì tên đồng bọn nào đang đợi phía sau nhà, tôi vẫn kiểm tra nhà để xe trước. Không có gì. Chúng tôi đi tiếp. Như một con sói đói, Ryan không ngừng rời mắt khỏi sân bên, vũ khí giơ lên ngón tay nằm trên cò khẩu súng lục. Chúng tôi tới chỗ chiếc Armada, đợi mọi người vào trong tôi khóa hết cửa xe. Maree vẫn đang khóc lóc và run rẩy, Joanne chớp mắt, đôi mắt mở to, còn Ryan đang tìm những người lính đang trườn bò về phía chúng tôi. “Thắt dây an toàn vào!” Tôi kêu lên. “Sẽ phải mất vài phút đấy.” Tôi quay đầu xe thành vòng rộng quanh sân nơi Ryan đang bảo vệ, tiến lên bãi cỏ nhà hàng xóm rồi ra phố, tăng tốc độ xe lên sáu mươi, ngồi về phía trước và thận trọng xem xét các khách bộ hành, người đi xe đạp hoặc có chiếc xe nào đang lùi không. Tôi không ngạc nhiên khi chẳng nghe thấy tiếng súng nào từ phía những kẻ thù hoặc từ phía Freddy hoặc Garcia. Kẻ moi tin và bất kì tên đồng lõa nào hẳn cũng sẽ thấy kế hoạch không hiệu quả và sẽ chạy thoát thân càng nhanh càng tốt. Giá như Loving không gọi điện thông báo vụ xả súng giả ở trường học, thì chúng tôi hẳn sẽ có thêm nhieều Cảnh sát Hạt Fairfax đến khu vực này thiết lập các rào chắn và ngăn chặn chúng, nhưng chuyện ấy sẽ không xảy ra nữa. Tôi giảm vận tốc, tránh gây sự chú ý, tôi sẽ không muốn Loving vòng lại theo hướng này, trình ra cái thẻ giả rồi hỏi có ai trông thấy một chiếc SUV Nissan màu xám hay không. Ryan ngồi lại, tra súng vào bao. “Anh chắc chắn đó là Loving à?” “Đúng. Đó chính xác là kiểu chiến lược mà hắn sẽ chọn. Không nghi ngờ gì nữa, đó là hắn.” Tôi đã nhận thức được hậu quả tất yếu của kết luận đó: Loving cũng sẽ biết - vì chiến lược bỏ trốn - rằng tôi chính là đối thủ giờ đây hắn phải đương đầu. CHƯƠNG 7 Ba mươi phút sau - đã quá trưa nửa giờ rồi - tôi đang dõi theo chiếc xe màu be đi sau xe chúng tôi một quãng, di chuyển cùng tốc độ với xe chúng tôi, khi chúng tôi len lỏi qua những con đường tại hạt Prince William, một nơi có rất nhiều người khác nhau. Dân số có bao gồm cả các con buôn chính trị, doanh nhân, nhà nông, những kẻ nhà quê kiêu ngạo, những kẻ chật vật mới vào nghề và rất nhiều dân mới nhập cư dạo gần đây. Hầu hết đá ở khu Bắc Virginia đều được pha chế tại PW (Prince William). Tôi không thể đoán chắc hình dáng hoặc mẫu xe của chiếc xe nhưng nhận thức rõ ràng rằng nó rẽ ngoặt giống hệt chúng tôi hai dặm trước đó, trống trải của nhóm lao động chân tay, một lối tắt chẳng dẫn đến đâu. Hoặc bạn sống ở Heavenly Lane hoặc bạn đi vòng qua nó để xem mình có đang bị bám đuôi không. Dù là kẻ nào trong chiếc xe màu be đi nữa cũng không sống tại đó; nó vẫn bám theo sau chúng tôi. Sedan sáng màu. Không rõ năm sản xuất, không rõ kiểu dáng, không rõ đời xe… Tôi đoán rằng Loving có thể đã đổi xe. Thế nhưng có thể hắn sẽ giữ lại chiếc xe kia… bởi vì chúng tôi sẽ không ngờ được điều ấy. Tôi đã đấu tranh nhưng quyết định không gọi radio yêu cầu trợ giúp, chưa được; một lần nữa, tôi không muốn thu hút sự chú ý. Tôi chỉ giữ một mắt theo dõi cái bóng màu be. Nhà Kessler lúc này đã bình tĩnh lại, không nhìn, nhưng được một chút. Ở ghế khách phía trước Ryan đang chú ý ra bên ngoài, còn trạng thái dao động của Maree đã luân chuyển một cách kì lạ từ cuồng loạn quay về đáng yêu và e lệ. Cô ta không ngừng gọi tôi là “Hướng dẫn viên” , khiến tôi còn thấy bực mình hơn cả việc cô ta hốt hoảng gào thét nửa tiếng trước. Một lần nữa Joanne thu mình lại và đang vô hồn nhìn chằm chằm ra ngoài qua cửa xe. Tôi tự hỏi cô ấy lúc nào cũng nhút nhát như thế này hay phải chăng do biến cố tại cửa hàng thức ăn sáu năm trước - đối mặt với cái chết, thấy Ryan và những người chủ cửa hàng bị bắn - đã ảnh hưởng nặng nề đến cô ấy. Mức độ trạng thái cảm xúc của Joanne có thể là cực đoan nhưng bản thân trạng thái tâm sinh lí thì không. Phản ứng của các thân chủ khi bị một kẻ moi tin hoặc sát thủ truy đuổi thường diễn ra theo các giai đoạn như đau khổ, phủ nhận, tức giận, thuyết phục, trầm cảm và chấp nhận. Sự xa cách của Joanne là một dạng phủ nhận. Khi chúng tôi ra khỏi khu nhà Kessler, qua một tuyến đường nhỏ, Joanne chỉ nói hai chuyện. Thứ nhất, cô ấy nhận xét chính xác rằng ít nhất cô con gái và Bill Carter đã an toàn, vì họ đã rõ nơi mà Loving cùng bất kì tên đồng loã nào của hắn đang lẩn trốn. Tiếp theo cô đưa ra suy luận rằng có thể vợ của Teddy Knox cũng không sao. Nếu Loving giết chết cô ấy rồi, điều này sẽ giảm nhẹ đi ảnh hưởng - lợi thế - hắn nắm giữ đối với Teddy để khiến anh ta nản chí không dám làm chứng chống lại hắn. Đây cũng là một khả năng, phải. Tuy nhiên, vẫn còn một khả năng nữa rằng Loving không quan tâm Teddy biết những gì và có thể làm chúng chống lại hắn hay không, vì hắn chỉ cần giết chết cô vợ đi là xong. Đó là ý kiến của tôi nhưng tôi không nói ra. Ryan đề nghị tôi gọi cho Freddy và tìm hiểu xem cô vợ có bị làm sao không, nhưng có thể ông ta, Garcia và các đặc vụ khác - nếu họ còn sống và đang hoạt động - đã đụng độ Loving hoặc đang truy đuổi theo hắn và tôi không muốn khiến họ phân tâm. Freddy sẽ gọi khi ông ấy có chuyện cần nói. Tôi nói điều này với Ryan và anh ta gật đầu, cho dù có vẻ bực mình vì tôi sẽ không gọi. Anh ta quay về trạng thái theo dõi ứng biến. Tôi đột ngột rẽ vào bãi đậu xe của Burger King rồi dừng lại. Maree nói nhanh, khiến tôi giật mình, “Này, tôi biến đi độ một hút được không. Có điện thoại công cộng kìa.” “Không được. Ở yên trong xe đi.” “Làm ơn đi mà?” Nghe như đứa trẻ tuổi thiếu niên đang van nài được đi đến siêu thị. “Không được,” tôi nhắc lại. “Nhưng sẽ không truy dấu truy diếc gì được. Thật đấy. Tôi biết hết chuyện này mà.” “Về chuyện gì cơ?” Chị gái cô ta hỏi. “Theo dõi ấy. Emó xem tập này trên NCIS? Các gián điệp sử dụng điện thoại di động cho an toàn. Ngắt khỏi mạng lưới. Họ nói vậy mà.” “Xin lỗi, không gọi điện,” tôi nói. “Ôi, ông anh chẳng vui gì cả. Tôi cần có luật sư!” Cô ta trề môi giận dữ như đứa trẻ nít. Càng khiến tôi bực mình thêm và lờ cô ta đi luôn. Tôi chờ chiếc xe màu be đi lướt qua chúng tôi. Nhưng nó không làm thế. Sau mười phút, tôi quay xe ra đường và tăng tốc, cố gắng bắt kịp đèn giao thông, phát ra một hai tiếng còi. Cũng là một cách chửi thề. Nhưng không trông thấy chiếc xe màu be đâu. Điện thoại rảnh tay trên xe của tôi báo rằng Freddy đang gọi. Cuối cùng… Tôi hỏi, “Người của ông trong xe đậu ngoài nhà, họ không sao chứ?” “Ừ, tả tơi. Lẽ ra họ nên thắt dây an toàn vào. Họ đã học được một bài học rồi.” “Còn vụ xả súng tại trường thế nào rồi?” Tôi đã nghĩ vụ này là giả nhưng không dám chắc. Tôi hẳn sẽ thấy phiền muộn về những thương vong, chắc chắn rồi. Tuy nhiên, tôi thấy hứng thú nhiều hơn khi biết rằng phải chăng báo động giả là một kỹ năng Henry Loving bổ sung thêm vào chùm kỹ năng của hắn. Một điều khác nữa về hắn cần phải ghi nhớ. “Cậu nói đúng, con trai. Ba đô nhé. Chẳng có gì hết. Nhưng cũng khiến sáu mươi lính đặc nhiệm và các đặc vụ bận rộn gần một tiếng.” “Được rồi, còn Loving?” “Trốn sạch rồi. Không có đầu mối. Không thấy xe đâu hết.” “Có ai nhìn thấy chiếc xe màu be nào từng ở đó nhưng rồi biến mất không? Chiếc sedan.” “Màu be à? Không, và chúng tôi đã vượt qua rồi. Nhưng một người của chúng tôi bên kia phố đã nhìn thấy đồng bọn của hắn. Ở sân bên, chỗ đám cây cối, nơi Garcia đang yểm trợ. Cao, gầy còm, tóc hung hung đỏ, mặc áo gió màu xanh thẫm hoặc áo khoác thể thao.” “Vũ khí là gì?” “Khẩu bán tự động màu đen. Không đoán được loại gì. Gã đang chạy vắt chân lên cổ ra khỏi rừng, sau đó cậu đi khỏi.” Chúng tôi băng qua các khu dân cư đông đúc vây xung quanh là các cánh đồng, nhà cửa và một số khu thương mại với các mặt hàng bán ế hoặc bị bỏ rơi trên bờ sông. Lúc này tôi giảm tốc độ chiếc SUV xuống mức trung bình. “Teddy Knox có nhận diện được Loving không?” “Có.” Abe Fallow đã không còn áp dụng phương pháp cũ rích tự biến mình thành trò cười với những giả định ngớ ngẩn, nhưng anh ấy lại ghim trong đầu chúng tôi chính các nguyên tắc ấy. Cho dù Loving có thể được nhận diện tại West Virginia là kẻ được thuê nhắm vào Kessler, nhưng chúng tôi không có bằng chứng độc lập nào thực sự cho thấy hắn là kẻ tấn công, cho đến lúc này. Freddy nói thêm, “Chúng tôi còn thu được vài dấu vân tay trên cuộn băng dính hắn dùng với Knox và vợ anh ta. Chỉ một phần thôi nhưng đó là hắn.” Các thân chủ của tôi. Tôi có thể nhìn thấy hoặc cảm thấy, tất cả đang nhìn tôi trừng trừng, thèm muốn thông tin. “Nhà Knox sao rồi?” Tôi chắc chắn không muốn nghe tin người vợ đã chết. “Cả hai sẽ ổn cả thôi, nếu đó là điều cậu muốn hỏi.” “Đúng vậy.” Tôi nói cho nhà Kessler tin tức này. “Ôi,” Joanne thở hắt ra cúi đầu xuống. Cô thì thầm, “Cảm ơn anh.” Gia đình này không theo đạo nhưng tôi có ấn tượng rằng bản thân cô ấy thì có thể và đang gửi lời nguyện cầu lên đấng tối cao. “Và?” Tôi hỏi Freddy, ý là: “Hai người họ có nói thêm điều gì nữa không?” “Ngoài việc nhận diện, béo lùn. Chúng ta có thể đưa họ vào một căn phòng có loa gắn chi chít trên tường đang phát bài Captian and Tennille ầm ĩ, nhưng họ sẽ chẳng biết nói gì thêm." “Ấn tượng thế nào?” Tôi hỏi, tảng lờ đi lời chế nhạo vô ích. “Họ thực sự chẳng biết trò lừa gạt đâu. Chúng ta có thể phát hiện hắn mặc quần áo gì nhưng điều ấythì giúp được gì? Tôi chịu rôi, không được.” Tôi hỏi ông ta vũ khí trong tay Knox có thể dẫn chúng tôi đến đâu được không. Ông ta bật lên tiếng cười cay đắng. “Bị thó từ năm nào rồi. Thời gian Phản hồi Bằng chứng đã hết, kiểm tra dưới gầm xe rồi cả trong xe, trong sân, các đống phân và các thùng rác tái chế trong toàn bộ cái khu chó chết ấy rồi. Khu rừng - nơi tên đồng bọn bị nhận diện cũng thế. Không có đầu mối. Số không, thưa sếp. Thậm chí họ còn chẳng biết Loving và tên bạn trai của hắn đậu xe ở đâu nữa kìa. Chẳng có một vết bánh xe hay sợi vải nào hết. Tới đây tôi đã phải chửi thề tại sao hắn không chịu nán lại đó thêm hai tiếng nữa. Tôi đã hiểu sai hay sao?” Tôi tin mình có câu trả lời cho việc Loving sớm xuất hiện ở Fairfax. “Tôi đoán hắn đã nắm được lá bài chủ của tay lễ tân nhà nghỉ ở West Virginia, khiến anh ta khai rằng Loving đã trả phòng vào lúc 8h nhưng kì thực hắn trả phòng vào lúc 4h hoặc 5h sáng hôm nay.” “Cậu thắng được thêm điếu xì gà đấy, Corte. Tất cả những gì hắn phải làm là nhắc tên cô con gái của tay lễ tân và ngôi trường trung học cơ sở con bé theo học.” Loving cũng làm một số bài tập về nhà như Claire duBois đã làm. Và vì tôi đã có kinh nghiệm nhiều năm, nên cảm thấy thực sự ngưỡng mộ phương pháp luận và tính tỉ mỉ của hắn. Tôi nói tiếp, “Nhưng chiếc sedan sáng màu là của hắn, hợp pháp, vì có các nhân chứng khác tại nhà nghỉ đã từng nhìn thấy nó.” “Chính xác,” rồi ông nói thêm rằng văn phòng địa phương Charleston đã khám xét căn phòng rất kĩ càng. “Chẳng thấy gì.” Tôi nhìn về phía sau lưng rồi tiếp tục ngoặt thêm mấy vòng để lẩn tránh. Không thấy chiếc xe màu be. Chẳng có gì bất bình thường. Người dân đang làm những gì họ hay làm vào ngày thứ Bảy. Lái xe đến các cửa hàng, các nhà hàng đồ ăn nhanh để tự đãi mình sau những giờ làm việc mệt nhọc, đi xem phim, mua sắm đồ thể thao cho bọn nhóc hay đưa chúng đến các lớp học võ. “Ông nghĩ gì không, Freddy? Là thật hay chỉ là đánh lạc hướng?” Tôi không thể xác định được chiến lược của Loving tại ngôi nhà ấy. Phải chăng hắn muốn giết chúng tôi hay chỉ muốn bắt Ryan và gia đình anh ta làm con tin? Hay chỉ là đòn nghi binh? Hắn còn nghĩ tới điều gì khác nữa mà tôi không thể phát hiện ra?” Freddy suy ngẫm, “Thực sự hả?... Tôi dám nói vậy. Tôi nghĩ hắn muốn đột nhập vào thật nhanh, bắt Ryan rồi thoát ra ngoài. Hắn có thể cũng muốn làm cho xong. Nếu chúng ta thoát ra bằng cửa sau, như hắn muốn, thì sẽ là thế thật. Ngay lúc này hẳn là bọn chúng đang viết điếu văn cho chúng ta và xiên cọc tre vào dưới móng tay của Kessler. Hoặc nhiều khả năng hơn là vợ anh ta sẽ phải chịu đựng điều đó… À tôi cho cậu biết ý kiến của mình về cô em gái nhé, con trai. Đúng là sỉ nhục cho giới tóc vàng hoe đấy.” “Bước tiếp theo là gì?” “Tìm kiếm kẻ chủ mưu.” Tôi sẽ nói với Ryan rằng có thể anh ta bị biến thành mục tiêu do nhầm lẫn, nhưng tôi không tin. Henry Loving sẽ không phạm phải một sai lầm như thế. Tôi muốn tìm ra kẻ nào đã thuê hắn và thông tin gì Ryan có mà lại quan trọng với hắn hoặc với chúng. Tôi bảo Freddy sẽ bắt đầu tìm hiểu điều đó khi tới nơi rồi ngắt máy. Vừa ngắt máy xong, điện thoại tôi rung lên và tôi lắng nghe các số gọi đến qua hệ thống nhận diện người gọi bằng giọng nói. Đó là công tố viên liên bang, Jason Westerfield. Anh ta hẳn đã nghe được tin - rằng người cảnh sát anh hùng của anh ta, một nhân chứng ngôi sao trong vụ án còn chưa hề tồn tại, xém chút bị bắt cóc giữa một trận đấu súng tại hạt Fairfax. Lúc này tôi không hề muốn nói chuyện với Westerfield một chút nào. Tôi không nhấn vào nút TRẢ LỜI. Tôi để ý Ryan đang nhìn trừng trừng gương chiếu bên. Tôi nói, “Thám tử Kessler?” “Cứ gọi tôi là Ryan.” “Được rồi, Ryan. Cảm ơn vì đã yểm trợ bên sườn cho chúng tôi ở nhà nhé. Anh từng gia nhập đội SWAT à?” “Chưa bao giờ. Chỉ làm việc trên phố thôi. Chọn lấy vài thứ.” Anh ta khẽ khàng nói chuyện - suýt nữa thì anh ta bắn chết hàng xóm của mình rồi. Anh ta tiếp tục nhìn ra sau lưng chúng tôi. Cái cách anh ta túm chặt báng khẩu súng ngắn hệt như cách tôi nắm chặt vô lăng. Bầu không khí trong xe nghiêm trang, tĩnh lặng. Lúc này tôi cũng đã bình tĩnh hơn, suy ngẫm về hoạt động, cố gắng bước vào tâm trí của Henry Loving và quyết định chiến lược tiếp theo của hắn. Tôi để ý rằng trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, hắn đã có chuyến đi bí mật đến một bang khác, tìm được một đồng bọn đáng tin cậy, kiếm được các vũ khí, ngụy trang thành công chuyến đi của mình tới vị trí mục tiêu, tiến hành theo dõi khu vực nơi nạn nhân của mình sinh sống, nhắm mục tiêu vào các hàng xóm biết nhiều nhất và cố gắng mở cuộc tấn công mạo hiểm giữa ban ngày ban mặt sau khi báo cáo giả một vụ xả súng tại trường học để đánh lạc hướng lực lượng hỗ trợ. Hắn đã thi hành một “đòn nghi binh thân thiện” - khiến một trong các đồng minh của bạn quay mũi giáo tấn công bạn, hoặc là vì anh ta nhầm hoặc vì anh ta bị ép phải làm thế, trong khi hung thủ thật sự tiếp cận bạn từ hướng khác. Hắn không hề sợ hãi khi trao vũ khí cho mối rủi ro tiềm tàng - Teddy Konx. Phân tích này hữu ích, nhưng giống như khi ta nhìn vào bàn cờ ở thời điểm khai cuộc, kế hoạch của đối thủ chúng ta chỉ nắm được mơ hồ; vẫn còn vô vàn chiến lược khác hắn có thể lựa chọn. Joanne đang lắc đầu, tay túm chặt lấy cái túi, mà tôi cũng nhận ra điều này rất hay xảy ra với các thân chủ. Những vật dụng quen thuộc tạo cảm giác an ủi. Cô nói với tôi, bằng giọng trầm, “Nếu anh không có mặt ở đó…” Tôi hình dung, cô đang nói về số phận của cả gia đình nhưng rồi nhận ra, rằng lời nhận xét cũng là lời chỉ trích người chồng, vì đã phản đối sự giúp đỡ ấy từ đầu, và cô đã im lặng về chủ đề này. Nếu Ryan chịu để ý, anh ta đã không phản ứng như vậy. Một lúc sau, anh ta quay sang tôi. “Tôi muốn gọi cho Amanda.” “Được. Chỉ cần không nhắc đến địa chỉ của chúng ta.” Anh ta rút điện thoại bảo mật ra. Tôi giải thích về thiết bị trước khi anh ta gọi. Anh ta được nối máy với con bé ngay lập tức, cố gắng giữ giọng tuyệt đối bình tĩnh, anh ta hỏi han về chuyến đi. Cuối cùng anh ta giải thích rằng có chút rắc rối nhỏ ở nhà. Dù có nghe được bất kì điều gì trên các bản tin, thì mọi người vẫn đang ổn cả. “Rắc rối nhỏ,” Maree nói và cười mỉa mai. “Thuyền trưởng tàu Titanic đã nói thế đấy.” Người phụ nữ trẻ mở cái túi to trên vai, lấy xấp ảnh đen trắng ra và bắt đầu phân loại. Tốt, tôi suy nghĩ. Nó khiến cô ta bận rộn. Đếm cừu. Tìm kiếm các biển số xe địa phương. Ryan trao điện thoại cho vợ, Joanne cũng tìm cách nói giảm nhẹ với cô con gái của chồng, cho dù cô khó khăn hơn khi trưng ra bộ mặtvui vẻ. Một quãng ngừng khi ô lắng nghe, “Mẹ không biết tại sao, con yêu ạ. Bố mẹ sẽ tìm ra. Chú Corte…Đặc vụ Corte sẽ tìm ra…” Cô lắng nghe thêm nữa rồi cả hai mẹ con chìm vào cuộc đối thoại vô nghĩa về trường trung học, mấy đứa bạn, một kì nghỉ trượt tuyết họ đã lên kế hoạch vào Giáng sinh. Tôi rẽ ngoặt rất nhanh. Một lần nữa liếc mắt nhìn gương: không có ai theo dõi. Tôi cũng thấy Maree nhăn nhó và tôi nghĩ cô ta đã bị thương khi trốn thoát. Nhưng rồi tôi nhớ lại từng nhìn thấy miếng băng Ace quấn quanh cánh tay cô ta. Cô ta kéo tay áo lên và xem nó. “Maree, cô không sao chứ?” Tôi hỏi. “Cánh tay tôi mới bị đụng mạnh tuần trước.” “Có tệ lắm không?” Tôi tỏ ra cảm thông nhưng thực ra tôi chỉ muốn biết liệu chấn thương này có ảnh hưởng tới công việc bảo vệ của mình không. Những kẻ moi tin, như lũ thú hoang, sẽ truy đuổi những con mồi bị thương. Những vết đứt gãy cần ít nhất sáu tuần mới lành. “Không. Bác sĩ nói chỉ là bị tụ máy hơi nhiều thôi. Từ nghiêm trọng ghê. Nghe gợi cảm hơn ‘bầm tím’ nhỉ” “Đau nhiều không?” “Một chút. Không tệ lắm đâu. Nhưng tôi sẽ tận dụng nói đến cùng.” Cô ta phá lên cười rồi giải thích. “Tôi đang chụp mấy hình ảnh ở trung tâm D. C. thì thằng khốn đi mô tô đó đâm sầm vào tôi, khiến tôi bị trượt mấy bước. Nó còn chẳng thèm xin lỗi, thực sự cóc thèm nói gì luôn. Như kiểu mày đứng đây chụp ảnh làm quái gì trong khi bao người đang phải đi kiếm việc thực sự kia kìa?” Tôi không quan tâm lắm đến lí do cô ta chấn thương, cái tôi lo lắng là tình trạng sức khỏe của cô ta thôi, nhưng Maree vẫn thao thao bất tuyệt, to tiếng và phẫn nộ, “Mấy ngày sau đó tôi không thể chụp ảnh được. Tôi bị chóng mặt. Nhẽ ra tôi phải biết được tên hắn. Và kiện hắn.” Giọng cô ta lạc đi. Rồi cô ta nhìn về phía tôi. “Này, Anh hướng dẫn viên? Tôi có thể gọi cho bạn mình không? Làm ơn đi? Thực sự làm ơn đi mà?” Lại ê a. “Cho ai?” “Anh chàng mà hôm nay tôi sẽ ở cùng. Trước khi kẻ hủy diệt phá hỏng các kế hoạch của mình, tôi sẽ gặp anh ấy vào lúc 6h. Nếu tôi không xuất hiện, anh ấy sẽ lo.” Joanne hỏi, “Maree, em không nghĩ tốt hơn là không nên gọi à?” Andrew sẽ hiểu thôi. Ý chị là Đặc vụ Corte không muốn em gọi từ điện thoại công cộng.” “Không,” tôi nói, “đó là vì tôi không muốn nấn ná thêm chút nào ở đó nữa. Nhưng nếu cô muốn thì cứ gọi đi. Đó không phải là một ý tồi. Chúng ta không muốn cậu ta trở nên hiếu kì rồi lại tới ngôi nhà đó, giờ thì Loving biết nó ở đâu rồi.” Tôi trao cho cô ta điện thoại bảo mật của mình. “Nói ngắn gọn thôi. Đừng lộ gì hết về việc chúng ta đang ở đâu hoặc đã xảy ra chuyện gì. Hiều chứ?” “Rồi.” Nói xong, Maree bỗng rũ bỏ nhân cách nhẹ dạ, phù phiếm lột xác thành miễn cưỡng - tôi đoán là vì cô ta nhận ra cuộc trò chuyện sẽ bị chúng tôi nghe hết. Hoặc có thể cô ta thực sự không muốn thay đổi kế hoạch. Cuối cùng cô ta cũng gọi. Tôi liếc nhìn vào gương chiếu hậu thấy đôi vai cô ta cứng lại vì căng thẳng. Cho dù một lúc sau, ngôn ngữ cơ thể của cô ta thay đổi - thoải mái hơn - tôi cho rằng cô ta gọi vào hộp thư thoại của Andrew. Giọng cô ta trở lại là giọng của đứa trẻ vị thành niên. “Chào, là em đây… Ừ em thấy rất tệ. Em thật sự, thật sự muốn gặp anh nhưng rồi rốt cuộc không đến được… Ừ thì có chuyện đã xảy ra. Nghiêm trọng lắm. Với gia đình. Cực kì quan trọng, thế nên tối nay em không qua được. Em sẽ gọi anh sớm nhất có thể. Được rồi, chúc một ngày tốt lành. Em xin lỗi.” Cô ta ngắt máy rồi trả điện thoại lại cho tôi. Bàn tay cô ta có vẻ đang run rẩy. Cô ta hỏi Joanne điều gì đó về các kế hoạch cho lễ Tạ ơn, một câu nói lạc lỏng, câu chuyện của hai chị em khiến tôi không còn muốn lắng nghe nữa. Giao thông thưa dần và tôi tăng tốc - nhưng lúc này khi chúng tôi không còn bị truy đuổi tôi vẫn giữ kim đồng hồ không quá giới hạn, chỉ ở mức sáu dặm một giờ. Tổ chức của tôi không sử dụng các biển kiểm soát của chính phủ - toàn bộ xe đều được đăng kí với một trong mười hai doanh nghiệp, cả thương mại cũng như phi lợi nhuận - thế nên nếu cảnh sát giao thông nào muốn bắn tốc độ chúng tôi, anh ta sẽ phải bắt chúng tôi tấp xe vào lề, có thể vừa bất tiện vừa nguy hiểm. Lời thì thầm từ phía Ryan: “Hỏi anh một câu được không?” “Được mà.” “Có phải hai tên bọn chúng đã ở trong nhà không? Loving cùng tên đồng bọn của hắn?” “Có khả năng. Có thể là ba hoặc thậm chí hơn nhưng hồ sơ của Loving cho biết hắn hầu hết chỉ cộng tác với một người thôi.” “Đúng là thế… có đến năm đặc vụ ở đó, cộng thêm cả tôi. Chúng ta có thể đã hạđượcc hắn.” Anh ta đang nghĩ đến kế hoạch tôi đã từng soạn ra lúc trước, để hạ Loving. Tôi ném sang anh ta một cái nhìn hiểu biết, rồi quay lại nhìn đường. “Các đặc vụ trong xe à? Họ bị loại khỏi vòng chiến rồi mà.” “Đúng. Nhưng mà…” Tôi nói tiếp, “Tôi đã cân nhắc việc hạ hắn nhưng đó không phải là một chiến trường thuận lợi. Tôi đã lo lắng hắn lôi kéo bà Knox vào cuộc chiến hoặc có thể các con tin khác từ khu nhà đó. Lúc nào hắn cũng lôi người vô tội vào hết. Đó là một trong những thương hiệu của hắn.” Anh ta chậm rãi nói,” Tôi đoán vậy. Tôi đã không nghĩ tới chuyện đó.” Ryan quay lại với vị trí ngồi cạnh tài xế. Tôi liếc nhìn về phía anh ta, chắc rằng anh ta không biết mình đang bị thứ gì đeo bám. Như thầy tôi đã dạy tôi và tôi dạy duBois, anh phải luôn luôn hỏi chính mình. Mục đích của anh là gì và cách nào hiệu quả nhất để đạt mục tiêu? Chẳng còn điều gì quan trọng hơn thế. Đó là quy tắc trong giới kinh doanh, y học, khoa học và giáo dục. Và đó là quy tắc trong lĩnh vực bảo vệ, vốn cũng là một ngành nghề. Abe Fallow thường xuyên nói như thế. Những cảm xúc tức giận, đau đớn, hận thù, hoan hỉ, tự hào…Tất cả đều chẳng liên quan. Cậu biến mất. Cậu không có cảm xúc, không có ham muốn, không thấy bị sỉ nhục. Cậu chẳng là gì cả. Cậu chỉ là không khí thôi. Một phần để làm người dẫn dắt đó là bình tĩnh chọ chiến lược tốt nhất để làm sao các thân chủ của mình làm theo ý mình. Vài người cậu phải chỉ dẫn họ luôn miệng, và họ cảm thấy thoải mái hơn khi cậu làm thế. Vài người cậu phải nói lí với họ. Với số khác bạn phải chơi chiêu. Câu chuyện tôi kể cho Ryan Kessler rằng nhờ anh ta giúp tôi bắt Henry Loving là vô nghĩa. Cho dù điều này là thật - tất nhiên. Tôi muốn tóm cổ Loving - chỉ là chiến lược tôi bày ra để chiếm được cảm tình của Ryan. Tôi đã quyết định cách tiếp cận sau khi tôi gặp gỡ anh ta, và qua duBois, tôi biết được các chi tiết về biến cố tại cửa hàng bánh ngọt, biến cố khiến anh ta trở thành người hùng. Việc giải cứu các khách hàng và theo đuổi một câu chuyện tình bản thân mà chúng chẳng liên quan gì tới tôi, điều quan trọng là cái cách mà sự kiện ấy ảnh hưởng tới Ryan. Một con người trước kia vốn hoạt bát, giờ đây anh ta phải xa rời con phố mình yêu thương, với một cái chân hỏng và phải chuyển sang điều tra các vụ án tài chính, với công việc chủ yếu trên bàn giấy, và nghiền ngẫm các bảng cân đối tài sản, tôi nghĩ vậy. Tôi cần phải chơi ở nơi anh ta đặt trái tim của bậc đại trượng phu, mặt nam tính kiểu cao bồi của anh ta. Thế nên tôi trao cho anh ta vai trò của đồng đội. Vì tôi chắc chắn anh ta không bao giờ phải diễn vai đó, bạn có thể nghĩ rằng chiến lược của tôi có vẻ trịch thượng, thậm chí là ích kỉ. Theo cách nào đó thì đúng. Nhưng: Mục tiêu là gì, cách hiệu quả nhất để đạt mục tiêu là gì? Tôi phải khiến anh ta tin rằng tôi không thể tóm Lovong một mình. Tôi nghĩ mình đang quá hăng hái, nhưng rõ ràng anh ta đã tin toàn bộ câu chuyện. Cú lừa này - khai thác những khao khác và điểm yếu của thân chủ để sai khiến họ làm điều chúng ta muốn - được gọi là mồi lật lọng. Abe Fallow đã dạy tôi kĩ thuật này. Tất nhiên, đi chiêu mộ một thân chủ để giúp mình tóm một kẻ thù đúng là kì lạ, nhưng sự khác biệt giữa thám tử Ryan Kessler - người tôi gặp ngoài cửa mới nửa tiếng trước và người đàn ông đang ngồi cạnh tôi là rất lớn. Đúng lúc này tôi cảm thấy anh ta căng thẳng. Tôi liếc nhìn vào kính chiếu hậu. Chiếc xe màu be lại xuất hiện sau lưng chúng tôi. Nó đi gần bằng với tốc độ của chúng tôi, lúc này chỉ trên mức giới hạn ba dặm một giờ. Maree thấy cả hai chúng tôi nhìn về phía sau cũng nhiều không kém khi nhìn đường phía trước. “Chuyện gì thế?” Cô ta hỏi, giọng nói bối rối của cô ta càng tăng lên khi ngồi dậy, hai mắt mở to. “Có một chiếc xe có thể đã bám theo chúng ta từ trước. Biến mất một lúc rồi. Giờ nó lại xuất hiện. Ryan đang nhìn sang tôi với vẻ sốt ruột. Đã đến lúc ra quyết định. Tôi quyết định. Nới nhẹ chân ga, tôi chạy chậm lại, thế nên chiếc xe màu be tới gần hơn. Rồi liếc nhìn ra phía sau, tôi cứng rắn nói, “Làm đi nào! Bắn!” CHƯƠNG 8 Ryan Kessler chớp mắt, rút súng ngắn ra, “Tôi có nên nhắm vào bánh xe không? Hay tài xế?” “Không, không!” Tôi nói nhanh. Không phải tôi đang nói với anh ta mà là với người phụ nữ đang nhìn vào mắt tôi trong kinh chiếu hậu. “Maree, lấy máy ảnh của cô. Chụp biển số đi.” Người phụ nữ có thấu kín hồng ngoại tầm xa gắn trên máy ảnh Canon. Tôi muốn biển số của chiếc xe đó. Nó các quá xa ở đằng xau, không thể nhìn bằng mắt thường. “Ồ,” Ryan ngồi lại. Anh ta có vẻ thất vọng. Maree đùa nghịch mấy nút điều khiển máy ảnh, xoay một vòng rồi chụp, với tiếng tạch-rè của các máy ảnh chụp hình phản xả thấu kính đơn. Với các loại máy ảnh số, vốn nhan nhẳn ngày nay, tôi tự hỏi có phải chúng chỉ ăn nhau ở khoản hiệu ứng hình ảnh và âm thanh không. Một lúc sau, cô ta nhìn vào màn hình. “Tôi có thể đọc được biển số.” “Giỏi lắm. Chờ chút.” Tôi gọi cho Freddy bảo rằng mình cần rà soát biển số ngay lập tức. Maree đọc cho tôi nghe một dãy số và chữ cái để tôi gõ trên điện thoại. Ryan đang nhìn xung quanh, tay lại nắm chặt khẩu súng. Chưa đầy sáu mươi giây sau, Freddy gọi lại. Ông ta đang cười. “Đăng kí dưới tên Jimmy Chung. Chủ một nhà hàng tại Prince William. Con trai ông ta đang lái xe đi vòng quanh, thả tờ rơi cho nhà hàng. Tôi có được số của ông ta và nói chuyện với thằng nhóc rồi. Nó nói mình đang chạy xe phía sau một chiếc SUV - à mà chiếc xe cần đi rửa lắm rồi - trông như thể ai đấy vừa chụp ảnh nó, khiến nó chẳng vui vẻ gì. Họ có một thực đơn ngon lành đấy, Corte. Món gà của Tướng Tso đúng là đặc sản. Mà có đúng là Tướng Tso không đấy?” “Cảm ơn nhiều, Freddy.” Tôi ngắt máy, để ý các hành khách đang nhìn mình chằm chặp. “An toàn rồi, không có vấn đề gì. Xe giao hàng đồ ăn Tàu.” """