"
Ký Ức Vĩnh Cửu - David Baldacci PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ký Ức Vĩnh Cửu - David Baldacci PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
KÝ ỨC VĨNH CỬU
Tác giả: David Baldacci, Quách Cẩm Phương (dịch) Thể loại: Tiểu Thuyết, Trinh Thám
Đánh Máy: Quách Thủy Tiên
—★—
dtv-ebook.com
KÝ ỨC VĨNH CỬU
DAVID BALDACCI
TÁC PHẨM
KÝ ỨC VĨNH CỬU là một tác phẩm điều tra trinh thám hình sự. Độc giả theo chân Amos Decker từng bước giải mã các bí ẩn trong vụ án thảm sát gia đình anh và xả súng trường trung học địa phương. Xuyên suốt câu chuyện là những bi kịch trong và ngoài vụ án cũng như nỗi đau đi cùng với nó, nỗi đau khi mất đi người thân nói chung, khi mất đi con cái của người cha người mẹ, khi bị cha mẹ bỏ rơi, khi không còn là chính mình... Tất cả như đau đáu, như quặn thắt lại, như bóp nghẹt lấy những người đang sống trong cái ngày hôm nay sao mà khác xa ngày hôm qua quá. Bi kịch là thứ làm thay đổi hoàn cảnh, tác động lớn nhất là nó làm thay đổi con người. Nhưng vượt lên tất cả là cách con người đối mặt và vượt qua hoặc sống chung với nó.
“Và con người ai cũng có giới hạn.” Decker nói. “Và anh cứ mặc sức luyên thuyên về việc cuộc đời bất công ra sao, hay về việc những người ở trên đời không được để mình bị chịu tác động bởi những điều tàn ác xảy đến với họ, nhưng mỗi người lại mỗi khác. Một số người vững như bàn thạch, nhưng số khác lại mỏng manh, và anh không bao giờ có thể biết anh sẽ thuộc nhóm nào.”
Cùng với những tình tiết ly kỳ, gợi mở, giật gân và không kém phần rùng rợn, đặc trưng của thể loại trinh thám điều tra, là những đoạn khai thác tâm lý nhân vật sâu sắc, góp phần làm hé mở những nỗi niềm của mỗi con người trong cái cảnh ngộ họ gặp phải. Tất cả được lột tả một cách chân thực thông qua những áng văn rất đỗi bình dị, trong sáng và chân thành của David Baldacci. Đúng như tên gọi của nó, “Kí Ức Vĩnh Cửu” là một tác phẩm sẽ khiến bạn còn nhớ mãi đến nó rất lâu sau khi đã gấp lại trang cuối cùng.
Ả
TÁC GIẢ:
DAVID BALDACCI là một nhà văn người Mỹ gốc Ý sinh ngày 5 tháng 8, 1960. Sinh ra va lớn lên ở Virginia, ông tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Liên bang Virginia và lấy bằng Luật sư tại trường luật Đại học Virginia. Ông có thời gian hành nghề luật sư trong suốt chín năm tại thủ đô Washington.
Ông lần đầu tiên cầm bút sáng tác hồi còn nhỏ, khi được mẹ cho cuốn tập vở kẻ ngang. Sau này ông đều đặn gửi các bài viết của mình cho rất nhiều tạp chí, từ Arlantic Monthly đến cả Playboy, nhưng đều không được xuất
bản. Đến năm 1996, khi còn đang làm tại hãng luật và chuyển sang viết tiểu thuyết, ông có được tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang. Quyền lực tuyệt đối, cuốn sách bán chạy trên toàn cầu và đã được chuyển thể thành phim một năm sau đó. Sau thành công này, ông chính thức bỏ nghề luật chuyển sang cầm bút và từ đó đến nay đã cho ra mắt hơn 42 tiểu thuyết dàn cho người trưởng thành và 7 tiểu thuyết cho thanh thiếu niên.
Các tác phẩm của David Baldacci hiện đã được dịch ra hơn 45 ngôn ngữ trên hơn 80 quốc gia khác nhau, bán được hơn 150 triệu bản trên toàn cầu. Một số tác phẩm của David đã được xuất bản ở Việt Nam gồm: Hoa hồng máu, Bộ sưu tập tội ác, Bí mật núi sát nhân, Truy tìm sự thật...
CHƯƠNG 1
Amos Decker sẽ mãi mãi ghi nhớ cái chết thảm khốc của tất cả ba người đó trong một sắc màu buồn thảm, buồn tê tái nhất, không gì có thể sánh bằng. Kí ức đó sẽ ùa đến với anh vào những khoảnh khắc mà anh không lường trước, như một lưỡi dao móc gan móc ruột được tạo nên từ luồng
sáng mang sắc xanh buồn thảm. Anh sẽ không bao giờ được giải thoát khỏi nó.
ẳ
Cuộc trinh sát kéo ra rất dài mà cuối cùng chẳng thu được kết quả gì. Trên đường lái xe về nhà, anh đã mong chờ được ngủ tạm vài tiếng trước khi quay lại, tiếp tục công cuộc tìm kiếm. Anh đậu xe trên con đường dẫn vào của một căn nhà hai tầng khiêm nhường, vách ngoài ốp nhựa vinyl đã hai mươi lăm năm tuổi và phải mất ít nhất ngần ấy thời gian để trả xong tiền mua căn nhà này. Cơn mưa làm vỉa hè ướt nhẫy, và khi đôi ủng cỡ 44 của anh chạm xuống mặt đất, anh bị trượt nhẹ một chút trước khi kịp khựng lại. Anh nhẹ nhàng đóng cửa xe ô tô, bởi biết chắc ở trong nhà, vào lúc muộn thế này, tất cả mọi người đã ngon giấc. Anh sải bước tiến tới chỗ cánh cửa lưới dẫn vào bếp và đi vào trong.
Tất nhiên ở trong nhà sẽ rất yên tĩnh. Nhưng cái khung cảnh mang cảm giác tĩnh mịch quá đỗi như lúc này thì không bình thường tí nào. Vào thời điểm đó, anh đã không cảm nhận được sự bất thường này và sau này anh vẫn tự hỏi tại sao mình lại không nhận ra nó. Đó là một trong rất nhiều những thất bại mà anh gặp phải đêm hôm đó. Anh đã dừng lại ở trong bếp để lấy một ly nước từ vòi. Anh uống ừng ực, đặt cái ly thủy tinh vào bồn rửa, lau khô cằm, và đi thẳng vào căn phòng bên cạnh.
Chân anh trượt đi trên sàn, và lần này cái thân hình to lớn của anh ngã lộn nhào. Đó là sàn nhà được lát gỗ hình xương cá và trước đây anh đã từng có lần bị trượt ngã vì nó. Ấy thế nhưng lần này thì khác xa, khác ở những gì mà anh chuẩn bị nhìn thấy. Ánh trăng len lỏi chiếu vào từ ô cửa sổ, vừa đủ để anh có thể nhìn thấy rõ.
Khi anh giơ tay lên, nó đã nhuốm một màu sắc khác.
Đỏ. Của máu.
Nó chảy ra từ đâu đó. Và anh đứng dậy để đi tìm.
Anh phát hiện ra nó bắt nguồn từ căn phòng bên cạnh. Johnny Sacks, anh vợ của anh, một người to khỏe, vạm vỡ giống như anh, đang nằm bẹp dưới sàn. Anh cúi người xuống gần hơn, khuỵu gối quỳ xuống, mặt anh chỉ cách mặt Johnny chừng vài ba phân. Cổ họng anh ấy bị cắt đứt một đường kéo dài từ tai bên này sang tai bên kia. Không cần phải kiểm tra xem mạch
ẳ
còn đập hay không; chẳng thể nào còn được nữa. Phần lớn máu của anh ấy đã chảy tràn trên sàn nhà.
Đáng lẽ ra anh nên rút điện thoại và gọi 911 ngay tại giây phút đó. Anh biết là nên làm thế. Anh biết không được đi lại xung quanh hiện trường vụ án, bởi vì với sự xuất hiện của một xác người chết, bị sát hại bằng phương thức tàn bạo, nơi vốn là tổ ấm của anh đã trở thành hiện trường án mạng. Giờ đây nó là một cái bảo tàng; không ai được động chạm vào bất cứ thứ gì. Bản năng chuyên môn của anh đang gào thét lên với anh điều này.
Nhưng đó mới chỉ là một thi thể đầu tiên. Ánh mắt của anh quay ngoắt sang phía cầu thang và tâm trí anh đột nhiên không còn ở lại với anh nữa, một cơn hoảng loạn khủng khiếp dâng tràn, xâm chiếm từng phần nhỏ trên cơ thể anh - trong bụng anh dâng lên một cảm giác rằng ông trời vừa mới tước đoạt đi tất cả những gì mà anh từng có. Thế là anh chạy, đôi bốt của anh đạp lên những vũng máu đã đông, đẩy chúng xô về trước như một cơn thủy triều chuẩn bị ập vào bờ.
Anh đang phá hủy những chứng cứ quan trọng nhất, đường hoàng phá hỏng những gì đáng lẽ ra phải giữ gìn thật nguyên vẹn. Nhưng ngay lúc này, anh cóc quan tâm.
Anh bám theo vết máu của Johnny mà chạy thẳng lên tầng trân, cứ ba bậc một mà chạy. Hơi thở cùa anh hổn hển, tim cùa anh đập rất nhanh, cảm giác như đang căng phồng, căng khủng khiếp, tới mức thật lạ là thành ngực của anh vẫn đủ sức giữ được nó không bị vỡ bung ra. Đầu óc anh dường như đã tê liệt nhưng tứ chi của anh, bằng một cách nào đó vẫn tự nguyện cử động.
Anh phi tới hành lang, thân người anh va vào một bên tường, rồi bắn sang bên đối diện khi anh phóng như bay tới cánh cửa đầu tiên phía bên phải. Anh không hề rút súng, thậm chí còn chẳng buồn nghĩ đến việc có thể tên sát nhân vẫn còn ở trong nhà. Có thể hắn đang chờ anh về.
Anh dùng vai húc mở cánh cửa và điên dại nhìn xung quanh. Chẳng có gì hết.
Không, không đúng.
Anh đứng đờ người ở bậc cửa khi ánh đèn trên chiếc kệ kê đầu giường lờ mờ chiếu rọi một bàn chân trần nhô ra khỏi mặt nệm ở góc phía xa.
Anh biết bàn chân đó. Anh đã từng cầm nó, mát-xa cho nó, và thi thoảng thơm lên nó suốt nhiều năm qua. Bàn chân dài, chiều ngang thì nhỏ, nhưng không biết vì sao vẫn rất xinh xắn, gón chân bên cạnh ngón chân cái dài hơn bình thường một chút. Cạnh bàn chân nổi đầy mạch máu, lòng bàn chân có những vết chai, móng chân sơn màu đỏ, tất cả đều giống như bình thường, chỉ trừ việc đáng lý nó không nên nhô lên trên mặt nệm vào thời điểm đó lúc nửa đêm. Điều đó có nghĩa là những phần thân thể khác của cô ấy đang nằm trên sàn, và tại sao lại như thế, trừ phi...
Cassandra Decker, hay còn được những người thân quen, và quan trọng nhất là anh, gọi thân mật là Cassie, đang hướng mắt nhìn lên chăm chăm từ vị trí mà cô đang nằm ở sàn nhà. Thế nhưng lúc này nhìn chăm chăm là một việc đã nằm ngoài khả năng của cô ấy. Anh loạng choạng lao về phía trước, dừng lại ngay bên cạnh cô, và rồi sau đó chầm chậm quỳ gối xuống, hai đầu gối của quần jean màu xanh anh mặc dần dần quỳ lên vũng máu đọng lại bên cạnh cô.
Máu của cô ấy.
Cổ của cô ấy vẫn nguyên lành, không có vết thương nào ở đó cả. Máu không chảy ra từ đó. Mà từ trán của cô.
Một vết thương do súng gây ra. Dẫu biết rằng không nên chạm vào cô ấy, nhưng anh vẫn dùng cánh tay của mình đỡ đầu của cô lên khỏi mặt sàn và ôm chặt lấy vào lồng ngực đang phập phồng của mình. Mái tóc đen dài của cô xõa ra như phần chóp của một con sóng bạc đầu đã bị đông cứng, phủ lấy cánh tay anh. Vết tròn trên trán của cô thẫm đen và phồng rộp do sức nóng từ viên đạn.
Đó là một vết phỏng vì thuốc súng ngay trước khi trúng đạn, vết phỏng hình thành trong vòng một giây trước khi viên đạn lấy mạng của cô. Lúc đó cô ấy đang ngủ say chứ? Cô ấy có thức dậy không? Cô ấy có phải trải qua
nỗi kinh sợ nhìn thấy kẻ sát hại mình đứng ngay trước mắt không? Anh đã thắc mắc trong đầu tất cả những điều này khi anh ôm người vợ của mình, một lần cuối, trong vòng tay.
Anh đặt cô trở lại nơi anh tìm được cô. Decker nhìn chăm chăm xuống gương mặt lúc này đã trắng bệch và vô hồn, vết tròn đen thẫm ở chính giữa trán sẽ là ký ức cuối cùng của anh về cô, một dấu chấm hết cho một kết thúc thực sự.
Chấm hết của tất cả.
Anh đứng dậy, hai chân của anh có cảm giác đờ đẫn khi anh lảo đảo đi ra khỏi căn phòng và đi dọc theo hành lang, hướng tới căn phòng ngủ duy nhất còn lại ở trên tầng.
Anh không cần cố đẩy mở cánh cửa này. Bây giờ anh chẳng còn phải vội vàng gì nữa. Anh biết anh sắp sửa tìm thấy điều gì. Anh chỉ không biết tên sát nhân đó đã dùng phương thức gì mà thôi.
Đầu tiên là một con dao. Thứ hai là một khẩu súng.
Cô bé không ở trong phòng ngủ, nghĩa là chỉ còn phòng tắm ở ngay sát vách.
Bóng đèn trên trần nhà tắm vẫn đang để mở, sáng như muốn rực cháy. Tên sát nhân rõ ràng muốn anh nhìn thấy thật rõ cảnh tượng cuối cùng này.
Tại đó, cô bé đang ngồi, trên bồn cầu. Được giữ chặt bằng dải dây buộc từ chiếc áo choàng ngủ quấn quanh két nước bồn cầu, nếu không cô bé đã đổ gục. Anh tiến lại gần.
Chân anh không bị trơn trượt. Không có dấu vết của máu. Trên người cô con gái nhỏ của anh không có vết thương rõ ràng nào mà anh có thể thấy bằng mắt thường. Nhưng rồi sau đó khi anh tiến sát hơn và nhìn dấu vết dây xiết trên cổ cô, xấu xí và lấm lem như có kẻ nào đó đã làm cô bé bị
bỏng ở đó. Có thể kẻ đó đã dùng dải dây buộc của chiếc áo choàng ngủ. Cũng có thể hắn đã dùng tay. Decker không biết nữa, cũng chẳng quan tâm.
ẳ
Bị siết cổ đến chết không thể nào không đau đớn. Đau dai dẳng. Và đầy khiếp sợ. Và có lẽ cô bé đã phải nhìn chăm chăm thẳng vào mắt hắn trong lúc hắn từ từ bóp nghẹn, lấy đi sinh mạng của mình.
Chỉ ba ngày nữa là Molly sẽ tròn mười tuổi. Một bữa tiệc đã được sắp xếp xong, khách khứa đã mời, quà đã mua, và một chiếc bánh sinh nhật có nhân chocolate đã được đặt. Anh đã xin nghỉ để giúp Cassie, bởi cô làm việc toàn thời gian, và cũng quán xuyến gần như tất cả mọi công việc trong nhà bởi vì công việc của anh không phải là công việc theo giờ hành chính, không theo giờ cố định. Họ đã từng đùa nhau về chuyện này. Anh biết gì về chăm lo cuộc sống gia đình chứ? Mua sắm đồ dùng tạp hóa ư? Thanh toán các loại hóa đơn ư? Đưa Molly đi bác sĩ ư?
Hóa ra là chẳng biết gì hết. Không biết một cái cóc gì luôn. Hoàn toàn gà mờ.
Anh ngồi xuống sàn nhà, ngay phía trước đứa con đã chết, bắt chéo đôi chân dài giống như cô con gái nhỏ của anh vẫn thích làm, để lỏng mỗi bàn chân gác lên bắp đùi trong của chân đối diện. Anh to con, nhưng người khá mềm dẻo. Tư thế kiết già, anh lờ mờ nghĩ. Hoặc cái gì đó tương tự như thế. Anh thậm chí chẳng biết tại sao anh lại đang nghĩ đến chuyện này nữa. Anh nhận ra chắc hẳn anh đang bị sốc.
Đôi mắt của cô bé mở to, nhìn đáp lại anh chăm chăm, nhưng không thấy anh. Giống như Mẹ. Cô bé sẽ không bao giờ nhìn thấy anh lần nữa.
Decker chỉ ngồi nguyên tại đó, lắc lư ra trước rồi về sau, nhìn cô bé, nhưng anh không thực sự thấy cô, cũng giống như cô con gái bé nhỏ của anh chắc chắn cũng không nhìn thấy cha của mình.
Thế đấy. Chẳng còn gì nữa. Mình sẽ không sống một mình đâu. Mình không làm được.
Anh rút khẩu súng chín li đầy đạn từ bao đựng ở thắt lưng ra và kéo khe trượt để đảm bảo một viên đạn đã được đưa vào ổ đạn. Anh cầm chặt khẩu súng giữa hai lòng bàn tay. Một món đồ nhỏ nhắn xinh xắn. Nó chính xác
và có đủ sức mạnh để khiến mục tiêu không thể hoạt động được nữa. Anh chưa từng dùng nó để bắn bất kì ai. Nhưng giờ khắc này anh muốn bắn.
Anh chăm chăm nhìn họng súng qua đầu ruồi. Đã từng có bao nhiêu viên đạn được bắn ra trong những bài tập bắn nhỉ? Một nghìn à? Hay là mười nghìn? Ồ, đêm nay anh sẽ không thể bắn trượt được đâu.
Anh mở miệng và ngậm lấy nòng súng, chỉnh nó hướng lên trên để viên đạn sẽ nhắm thẳng vào não và nhanh chóng kết thúc tất cả. Ngón tay của anh dừng lại tại chốt an toàn. Anh ngước mắt lên nhìn Molly. Đột nhiên cảm thấy hổ thẹn, anh rút khẩu súng ra và đặt nó lên thái dương bên phải
và nhắm chặt hai mắt để anh không nhìn thấy cô bé nữa. Một lần nữa, ngón tay trỏ của anh trượt đến chỗ chốt an toàn. Một khi mở xong chốt an toàn, ngón tay sẽ tìm đến cò súng, rồi sau đó, chậm rãi, đều đều, ngón tay siết cò cho đến khi không còn có thể quay đầu lại nữa. Anh sẽ không bao giờ cảm giác được gì. Não của anh sẽ chết trước khi nó kịp báo cho những bộ phận khác trên cơ thể rằng anh vừa tự nổ súng bắn mình.
Anh chỉ cần siết cò thôi. Siết cò đi, Amos. Mày chẳng còn gì để mất nữa vì mày còn gì nữa đâu. Họ đã đi cả rồi. Họ đã... đi rồi.
Anh giữ khẩu súng ở nguyên đó, tự hỏi anh sẽ nói gì với gia đình của mình khi tất cả sẽ lại được đoàn tụ với nhau.
Anh xin lỗi ư?
Hãy tha lỗi cho bố ư?
Giá như anh đã ở đó để bảo vệ mọi người trước bất cứ kẻ nào đã gây ra chuyện này ư? Đáng lẽ bố phải có mặt ở đó để bảo vệ mọi người ư?
Anh nắm khẩu súng chắc hơn, ghì cái nòng súng bàng kim loại vào thái dương sâu đến nỗi anh cảm nhận được nòng súng trơn nhẵn sắp xuyên qua da. Một giọt máu tứa ra và sau đó thấm vào mái tóc đang ngả bạc dần của anh, anh khá chắc là sau vài phút vừa qua, tóc của anh đã bạc đi thêm ít nhiều.
Không phải anh đang tìm can đảm để làm việc này.
Là anh đang tìm kiếm một sự thăng bằng trong vô vọng. Thế nhưng có lý do nào lại tìm được thăng bằng khi ai đó đang cố gắng tự tướt đoạt tính mạng của mình cơ chứ?
Vẫn giữ nguyên khẩu súng trên tay, anh rút điện thoại ra, gọi 911, đọc tên và số phù hiệu để xác định danh tính của mình, và nói ngắn gọn thêm hai câu miêu tả ba người đã bị sát hại ra sao. Anh thả rơi điện thoại xuống sàn nhà.
Dưới tầng kia là Johnny.
Phía kia của hành lang là Cassie.
Tại đây, trong nhà vệ sinh, là Molly.
Và đột nhiên, không một cảnh báo, anh nhìn thấy tất cả những hình ảnh này hiện ra trong một sắc xanh khiếp sợ nhất có thể. Những thi thể, căn nhà, toàn bộ buổi tối hôm ấy. Những bong bóng đau buồn màu xanh dương; ở khắp mọi nơi. Và anh nghiêng ánh mắt, hướng lên trần nhà và hét lên một câu chửi thề, câu chửi chất chứa mọi cơn giận dữ và mất mát dồn nén mà anh đang cảm thấy trong lúc này. Những sắc màu chết tiệt đó thậm chí dám xâm lấn cả vào trong khoảnh khắc này nữa. Tại sao anh không thể bình thường, chỉ một lần này thôi, trong cái nỗi đau đớn khôn cùng của riêng anh? Anh cúi đầu và ngồi nguyên tại đó, trên sàn nhà, với khẩu súng hướng thẳng vào đầu và trong anh hoàn toàn trống rỗng. Anh đã sẵn sàng để chết, đã sẵn sàng để đi theo họ.
Nhưng vì một lí do nào đó mà chính anh cũng không biết nữa, Amos Decker không bóp cò.
Chính trong tư thế giữ nguyên này mà cảnh sát phát hiện ra anh khi họ đến nơi bốn phút sau đó.
CHƯƠNG 2
Chiếc ghế dài trong công viên được sơn màu đỏ.
Một cơn gió giao mùa từ thu sang đông ớn lạnh như dao cắt. Amos Decker ngồi trên chiếc ghế đỏ, chờ đợi.
Một con chim sẻ liệng qua trước mắt, đột nhiên né chiếc xe hơi đang băng qua trước khi lại bay vút lên, bắt theo một cơn gió rồi vụt bay đi mất. Anh đã ghi nhớ được nơi sản xuất, mẫu xe, biển số xe và các đặc điểm môt tả của chiếc xe đó trước khi nó khuất khỏi tầm mắt. Một chồng một vợ ngồi phía trước, một đứa trẻ nhỏ ngồi trên ghế nâng ở phía sau. Bên cạnh còn một đứa nữa, lớn hơn. Khoảng mười tuổi. Phía thanh cản sau có dán hình sticker, ghi rằng: Con tôi là học sinh ưu tú tại trường tiểu học Thorncrest.
Hay hớm chưa, hai người vừa tiết lộ cho kẻ tâm thần biết địa điểm chính xác để bắt cóc đứa con vô cùng thông minh của mình.
Một chiếc xe bus vừa lăn bánh đến trạm xe gần đó. Anh liếc mắt nhìn sang, vẫn giữ nguyên thái dộ quan sát như vậy. Mười bốn hành khách, hầu như đều trông rất thiểu não và mệt mỏi dù bây giờ mới là giữa trưa. Duy nhất chỉ có một người là năng nổ - một đứa trẻ. Cậu bé nhún nhảy bên cạnh người mẹ trông rất kiệt quệ, đang ngồi vật sang một bên, một chiếc túi to sụ đặt trên đùi. Người lái xe này mới đi làm, khuôn mặt toát ra vẻ lo lắng. Mặc dù đã có tay lái trợ lực nhưng cô vẫn vật lộn với chiếc vô lăng và rẽ vào điểm tiếp theo một cách chậm rãi đến nỗi tưởng rằng động cơ xe bus đã tắt ngóm.
Một chiếc máy bay lao vùn vụt trên đầu, bay đủ thấp để anh có thể nhận dạng được nó là dòng máy bay United 737, mẫu đời sau bởi vì có cánh nhỏ. Đối với anh, con số 737 nổi rõ lên màu bạc lóng lánh. Số 737 trong tâm trí anh là một sự kết hợp tuyệt đẹp. Bóng mượt, màu bạc, nhanh, như một viên đạn. Bất cứ thứ gì bắt đầu bằng con số bảy đều đem cho anh phản
ứng như vậy. Anh cảm kích vô cùng khi hãng Boeing đã đánh số tất cả máy bay bắt đầu bằng số bảy.
Hai người đàn ông trẻ tuổi đi qua. Đã quan sát và ghi nhớ xong. Một người nhiều tuổi hơn, cao lớn hơn, kiểu người dẫn đầu, người còn lại là bạn, chỉ để cười đùa và bắt nạt. Sau đó anh ghi nhớ có bốn đứa trẻ đang chơi trong
công viên đối diện bên đường. Độ tuổi, xếp hạng, số seri, thứ tự và cấp bậc đều được hành thành trước sáu tuổi, như một đàn sói. Đã ghi nhớ.
Tiếp theo là một phụ nữ đi cùng thú cưng. Giống chó becgie Đức. Không đến nỗi quá già nhưng xương hông rất tồi. Chắc chắn là bị loạn sản khớp háng, bệnh thường gặp ở giống chó này. Đã được liệt kê. Một người đàn
ông khác đang nói liến thoắng trên điện thoại. Người mặc bộ âu phục Zegna, chân đi giày lười Gucci, một chiếc vòng vàng đính đá đeo trên tay trái, bự như một cái nhẫn Super Bowl. Một đồng hồ Zenith trị giá bốn nghìn dollar đeo trên cổ tay phải. Trông anh ta quá nhỏ và cơ thể quá sai khác để làm một vận động viên chuyên nghiệp. Phong cách ăn mặc lại quá đẹp để là một tay buôn thuốc điển hình. Có thể là một quản lý quỹ phòng hộ, một luật sư về vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp1 hoặc là một người phát triển bất động sản. Trí nhớ đã lưu lại ngay lập tức.
1.Luật sư về vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp (malpractice lawyer) là luật sư chuyên xử lý các vụ kiện liên quan đến sơ suất trong công việc hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp (thường là trong y khoa)
Ở phía bên kia đường có một người phụ nữ già ngồi xe lăn đang được đưa đễn xe y tế chuyên dụng. Nửa mặt và nửa người bên trái bị liệt. Là do đột quỵ. Đã ghi nhớ. Nhân viên điều dưỡng của bà bị vẹo xương sống nhẹ, bàn chân quắp vào trong. Đã ghi nhớ.
Amos Decker ghi nhớ tất cả những điều đó và ghi nhớ nhiều hơn khi trí não anh phân loại mọi thứ ở trước mắt. Suy luận điểm này rồi điểm kia. Đôi khi là suy xét. Đôi khi là phỏng đoán. Mọi thứ chỉ là việc giết thời gian trong khi chờ đợi. Giống như đếm màu sắc. Đơn giản là anh làm vậy để giết thời gian.
Anh đã mất ngôi nhà với lý do tịch thu để thế nợ. Với mức lương của anh và Cassie gộp lại thì cũng chật vật lắm mới chi trả được tiền nhà. Chỉ với lương của anh thôi thì chẳng thể nào gồng gánh nổi. Anh đã cố gắng bán nó đi, nhưng ai lại muốn ở trong một ngôi nhà đã từng tắm trong máu chứ?
Anh đã sống trong căn hộ vài tháng. Sau đó là nhà nghỉ. Sau đó nữa, khi công việc của anh thay đổi, anh đã phải đổi chỗ ở sang ghế sofa của một người bạn. Sau khi người bạn đó cư xử ít thân hơn, anh đã chọn đến nơi dành cho dân vô gia cư. Thế rồi, quỹ hỗ trợ cạn kiệt, nơi đó bị đóng cửa,
anh “giảm cấp” xuống ở trong túi ngủ ở ngoài công viên. Sau đó là dời sang ở trong hộp giấy carton ở bãi đỗ xe khi cái túi ngủ của anh đã sờn mòn hết cả và đội cảnh sát lùa hết dân vô gia cư ra khỏi công viên.
Anh đã chạm đáy của sự khốn khổ. Người xồ xề, bẩn thỉu, tóc tai rũ rượi, râu ria xồm xoàm, trông anh giống người sống trong hang hốc đâu đó để cố toan tính âm mưu với người ngoài hành tinh. Anh cứ sống thảm hại như thế cho đến một buổi sáng nọ, anh thức dậy trong bãi đỗ xa của Walmart, nhìn chằm chằm vào logo Georgia-Pacific phía bên trong chiếc hộp carton và dâng lên một cảm giác thức tỉnh khuấy động rằng Cassie và Molly sẽ cực kì xấu hổ về anh của hiện tại.
Thế là anh vệ sinh cơ thể sạch sẽ, làm đủ thứ việc vặt vãnh, tiết kiệm được mớ tiền, chuyển đến sống trong một căn phòng ở khu Residence Inn và treo tấm biển Thám tử tư lên. Anh nhận hết bất cứ vụ nào tìm đến mình; hầu hết những vụ án trả công rẻ mạt hoặc trả thấp, nhưng có còn hơn không. Anh chỉ cần có vậy.
Đó là một lối sống vô vị, vô vị như bản thân anh khi ấy. Râu vẫn rậm, tóc vẫn hoang dại, người vẫn còn quá cân, nhưng quần áo tương đối sạch sẽ và anh đã tắm rửa, đôi khi là nhiều hơn hai lần trong tuần. Anh không còn sống trong hộp carton nữa. Trong tâm trí anh, sự tiến triển luôn được đo theo từng bước nhỏ, đặc biệt là khi chẳng có bước nhảy thành công vĩ đại nào để mà khoe mẽ.
Anh nhắm nghiền hai mắt để ngăn chặn hoạt động quan sát đường phố hiện tại, nhưng tất cả quang cảnh đường phố đều còn hiện hữu trước mắt, như
màn hình chiếu phim phía sau mắt anh. Mọi thứ luôn hiện hữu ở đó. Anh luôn muốn quên đi những thứ mà mình đã nhìn thấy. Nhưng tất cả được ghi lại vĩnh viễn trong đầu anh. Kí ức có thể được nhớ lại theo ý muốn hoặc cứ thế mà hiện lên trong tâm trí. Khi cần thì có ích biết bao, nhưng khi không cần thì cũng gây bực bội cũng không kém.
Vào đêm đó, cảnh sát cố thuyết phục anh hãy bỏ nòng súng ra khỏi thái dương. Kể từ đó anh đã nghĩ rất nhiều lần về việc tự sát. Nghĩ rất nhiều khi vẫn còn ở trong lực lượng, nhiều đến nỗi phải đi trị liệu để giải quyết vấn đề “nho nhỏ” đó. Thậm chí anhncofn đứng trước một vòng tròn những người có ý định tự sát như anh vậy1.
1.Phương pháp trị liệu tâm lý thường thấy bên Mỹ là cho những người có chung vấn đề (nghiện ngập, căng thẳng, ám ảnh tâm lý...) ngồi thành vòng tròn để tâm sự với nhau hoặc chia sẻ câu chuyện của bản thân.
Tôi là Amos Decker. Tôi muốn tự sát. Có thế thôi. Hết chuyện. Anh mở mắt.
Mười lăm tháng, hai mươi mốt ngày, mười hai tiếng, mười bốn phút. Vì anh là một thứ quái đản nên đồng hồ vẫn quay đều đặn trong tâm trí anh. Một khoảng thời gian dài đã trôi qua kể từ khi anh phát hiện ra ba thi thể trong nhà mình, kể từ lúc gia đình anh bị xóa sổ. Sáu mươi giây nữa là tròn
mười lăm phút, đủ năm đủ tháng đủ ngày. Kim vẫn quay đều và cứ thế quay đều.
Anh nhìn xuống mình. Một cầu thủ bóng bầu dục trong bốn năm Đại học và lên chuyên nghiệp trong một thời gian cực kì ngắn, anh đã giữ cơ thể cân đối khi làm cảnh sát và sau này là Thanh tra. Nhưng anh đã chẳng còn đoái hoài gì đến chuyện béo gầy sau khi chính thức xác nhận thi thể của vợ, ang vợ và con gái. Anh thừa cân đến những hai mươi ký, chắc chắn nặng hơn. Chắc chắn hơn rất nhiều. Một người đàn ông béo ị cao gần hai mét với hai đầu gối khục khặc. Cái bụng mềm mỡ phệ ra, hai cánh tay và
ẳ
ngực ổn, hai cẳng chân như hai que thịt. Anh không còn có thể nhìn thấy bàn chân dài quá độ của mình nữa.
Mái tóc anh dài, tóc đen xen tóc ngắn, và không sạch sẽ lắm. Nhưng lại có vẻ như phù hợp tuyệt đối để che giấu cái tâm trí không quên được gì cả và luôn khiến anh buồn rầu. Bộ râu thật khiến cho người ta giật mình vì độ độ xồm xoàm cũng như vẻ lờm xờm bù xù, từng búi, từng lọn, từng sợi mọc uốn cong lắt léo khắp nơi, như cây dây leo tìm kiếm đuổi bám lên thứ gì đó. Nhưng anh tự nhủ rằng như thế cũng tốt cho công việc của mình. Anh phải đuổi bắt những kẻ cặn bã, và những kẻ đó, theo định nghĩa, lắm lúc không trông giống như người bình thường chút nào. Thực tế thì chúng thường lảng tránh những kẻ có vẻ ngoài khác chúng.
Anh chạm miếng vải chắp vá mòn cả chỉ trên quần jean rồi nhìn xuống đầu gối, chỗ đó vẫn còn nhìn thấy vết máu.
Máu của cô ấy. Máu của Cassie. Bệnh rồi mới vẫn giữ nó. Đốt cái quần đi, Amos. Phần lớn người thường sẽ làm thế mà.
Nhưng mày đâu có bình thường. Kể từ hồi mày đặt chân lên sân bóng và ăn cú va chạm đó thì mày đã không còn bình thường nữa rồi.
Cú bóng đó là thứ duy nhất anh không bao giờ nhớ được. Thật mỉa mai làm sao vì nó chính là chất xúc tác khiến anh không bao giờ quên được điều gì như bây giờ. Thế nhưng cú bóng đó đã được chiếu đi chiếu lại trên các chương trình thể thao lúc bấy giờ. Thậm chí chương trình thời sự quốc gia cho rằng họ phải làm phóng sự về tính ác liệt anh đã phải trải qua cho toàn thể khán giả truyền hình trên cả nước xem. Có người còn nói với anh rằng có một đoạn ghi hình ngắn đã được đăng lên YouTube vài năm trước và đã có hơn tám triệu lượt xem. Thế nhưng anh vẫn không bao giờ xem nó. Anh không cần phải xem. Anh đã ở đó. Anh đã cảm nhận cú va chạm đó. Thế là đủ rồi.
Tất cả những gì anh đã làm để đáng nhận được sự chú ý vớ vẩn này là chết trên sân bóng, không chỉ một lần mà hai lần.
Anh liếc trộm xuống chiếc quần jean, gần như bẽ bàng. Bụng anh trào ra khỏi vùng thắt lưng bởi vì ngày xưa anh gầy hơn nhiều. Anh đã giặt nó, nhưng vết máu vẫn không gột rửa được. Thế thì chiếc quần này khác chi bộ não của anh, cùng luôn bị quá khứ bám dính lấy? Chiếc quần này đáng lẽ có thể - nên là bằng chứng. Cảnh sát nên mang nó đi, nhưng họ đã không làm vậy và anh cũng không đề nghị. Anh giữ nó lại, vẫn mặc nó. Một cách ngu xuẩn để nhớ. Thực sự ngu như lừa. Một cách rùng rợn kinh người để giữ Cassie lại với anh. Giống hệt nnư mang tro của cô đặt trong hộp cơm hình Scooby - Doo. Nói đi cũng phải nói lại, anh không thực sự ổn. Mặc dù anh đã có nơi để sống, đã có một công việc và đang sinh hoạt bình thường, gần như thế. Nhưng anh thực sự không ổn. Dù thế nào thì anh sẽ không bao giờ ổn.
Về lý mà nói thì anh cũng đã từng là một nghi phạm trong vụ án này, vì những vụ kiểu như thế này thì người chồng luôn vào diện bị nghi ngờ. Nhưng anh không bị nghi quá lâu. Thời gian tử vong đã chứng minh anh trong sạch. Anh có người làm chứng. Anh không quan tâm đến những người làm chứng. Anh biết mình không động đến một sợi tóc trên đầu họ và cũng cóc thèm để ý dẫu có người nghĩ ngược lại.
Vấn đề thực sự là không ai bị bắt vì tội giết gia đình anh. Cũng chẳng có bất cứ nghi phạm nào, không có lấy một manh mối để tìm kiếm. Không có gì cả.
Khu vực gia đình anh sinh sống là khu của tầng lớp lao động, yên ắng lắm, hàng xóm thì thân thiện, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác bởi vì người ở đây không có nhiều của cải, ai cũng sẽ có cần hỗ trợ vào lúc này lúc kia. Sửa xe hoặc lò sưởi, hoặc đóng đinh lên một cái bảng, hoặc nấu một bữa ăn vì mẹ bị ốm, hoặc để mắt đến lũ trẻ trên phương tiện đi lại công cộng, dựa trên niềm tin và nhu cầu.
Cũng có vài người điên rồ khó chịu sống ở đây nhưng anh vẫn chưa phát hiện ra người nào có dáng dấp của kẻ giết người trong đám này. Hầu hết là hội xe mô tô và hội hút cần. Anh đã kiểm tra. Anh chẳng làm gì khác ngoài việc điều tra tội phạm dù họ đã có lời chính thức yêu cầu anh không tham
gia vào vụ này. Thế nhưng không có đầu mối nào xuất hiện, dù anh đã lục soát mọi chi tiết một cách như điên.
Có cả cơ hội và thách thức trong việc thực hiện loại tội ác này. Các cánh cửa không hề khóa, người đến người đi. Nên rất dễ ra vào nhà. Các ngôi nhà cứ san sát nhau, vì vậy phải nghe thấy âm thanh gì chứ. Nhưng không có một âm thanh nào được nghe thấy từ số 4305, đại lộ Boston vào đêm đó. Làm thế nào mà ba người chết lặng lẽ như vậy? Không phải cái chết bất đắc kì tử sẽ có chống trả hay sao? Tiếng thét? Tiếng vật lộn? Tiếng gì đó chứ? Thế nhưng lại không có. Tiếng súng? Đêm đó lặng như tờ. Hay là cả khu dân cư đã bị điếc vào đêm hôm đó. Còn bị mù, bị câm nữa.
Nhiều tháng sau đó vẫn không có gì lộ diện, rất lâu sau vết máu đã nguội lạnh, khả năng giải quyết vụ án và truy bắt hung thủ đã giảm xuống gần như là con số không. Sau đó anh rời khỏi lực lượng bởi anh không còn có thể xử lý giấy tờ, đi điều tra những vụ án khác và phiền nhiễu với những chuyện diễn ra ở đồn được nữa.
Cấp trên nói rằng họ rất tiếc khi để anh đi nhưng không ai buồn xin anh ở lại. Sự thật là, anh đã trở nên bừa bãi và khó kiểm soát. Anh đã hoàn toàn trở nên như vậy. Bởi anh không còn quan tâm đến điều gì khác.
Ngoại trừ một điều.
Anh vẫn luôn đến thăm mộ của mọi người. Cả nhà được chôn ở mảnh đất mà anh đã mua vội mua vàng, đâu có ai mua sẵn một mảnh cho một người đàn ông, một người phụ nữ mới đầu bốn mươi và cho một đứa trẻ mười tuổi chứ? Sau đó anh ngừng đến thăm mộ bởi anh không thể nào đối diện với những người đang nằm dưới ba tấc đất. Anh vẫn chưa báo thù cho gia đình. Anh có làm gì đâu ngoài việc xác nhận thi thể. Chỉ có cảm giác ăn năn hối lối vì đã để gia đình chết. Chúa sẽ chẳng thấy cảm kích nổi.
Cái chết của mọi người hẳn phải có liên quan đến những gì anh đã làm. Bao nhiêu năm qua, anh đã tống biết bao kẻ vào tù. Một vài kẻ giờ đã ra tù. Số khác thì có đồng bọn có thể tiếp tay. Ngay trước khi vụ thảm sát xảy ra ở số 4305, đại lộ Boston, anh đã hỗ trợ dẹp tan một ổ buôn bán thuốc đang cố gắng biến tất cả mọi người ở khu vực tàu điện trở thành người nghiện
và vì thế cung thành “khách hàng trung thành”, trẻ có, già có, độ tuổi nào cũng có. Những tên này đều rất xấu xa ác độc, sẽ giết ngay khi nhìn thấy. Chúng có thể đã tìm thấy nơi anh sống. Quá dễ. Anh không sống ẩn dật. Có lẽ bọn chúng đã trút hết thù hằn lên vợ con anh và người anh vợ đã chọn sai thời điểm đến thăm họ ngày hôm đó. Ấy thế mà chẳng có một tí bằng chứng nào chống lại ổ nhóm đó. Không bằng chứng đồng nghĩa không có bắt giữ. Không xét xử. Không phán quyết. Không thi hành án.
Là lỗi của anh. Là tội của anh. Có thể chính anh đã dẫn chúng tới gia đình anh và giờ anh không còn gia đình.
Cộng đồng đã tổ chức gây quỹ cho anh. Thu thập được vài nghìn dollar. Toàn bộ vẫn nằm nguyên vẹn trong tài khoản ngân hàng. Đối với anh mà nói, nhận lấy số tiền đó chẳng khác nào hành động phản bội những người mà anh đã đánh mất, vì vậy số tiền vẫn ở đó, dù anh chắc chắn có thể sử dụng nó. Anh đang sống chật vật, khắc khổ. Nhưng với anh thế là đủ. Bởi vì khắc khổ là thứ làm nên toàn bộ con người anh của hiện tại.
Anh dựa lưng lên lưng ghế gỗ dài và xốc lại vai để chỉnh áo khoác bên ngoài. Anh không tình cờ xuất hiện ở đây.
Anh ở đây vì công việc.
Khi anh quay sang bên trái, anh nhận ra đã đến lúc bắt tay vào việc rồi. Anh đứng dậy và đi theo hai người mà anh đã ngồi chờ họ nãy giờ.
CHƯƠNG 3
Quán bar đó cũng tương tự như bao quán bar khác mà Decker từng ghé.
Tối, lạnh, có mùi mốc, mùi ám khói, ánh đèn cho ta cảm giác hư ảo khiến tất cả mọi người trong quán đều nhìn có vẻ như là người mà ta quen biết
hoặc muốn làm quen. Hoặc, phần nhiều hơn, là muốn quên. Đó là nơi tất cả mọi người đều là bạn bè của nhau cho tới khi biến thành kẻ thù và phang thẳng cây gậy chọc billiard vào sọ đối phương. Đó là nơi mọi thứ rất bình lặng cho tới một lúc nào đó thì không còn bình lặng nữa. Là nơi bạn có thể dốc mọi thứ để làm vơi đi mọi nỗi niềm trong cuộc sống. Là nơi mà hàng ngàn kẻ ôm mộng trở thành nghệ sĩ dương cầm vĩ đại Billy Joel sẽ đệm nhạc đưa bạn sanv ngày mới.
Chỉ có mỗi mình là uống cả ngàn ly rượu mà vẫn cóc quên được cái gì cả. Mình sẽ lại còn ghi nhớ từng chi tiết của cả ngàn ly rượu đó, nhớ đến cả hình thù của mỗi viên đá.
Decker ngồi xuống một ghế ở quầy bar, tại đây anh có thể nhìn hình ảnh phản chiếu của mình trong chiếc gương lớn phía sau cái kệ xếp từng hàng từng hàng các loại rượu, nào Bearm nào Beef, nào Glen nào Sapphire.
Anh gọi một vại bia tươi, ôm chặt cái cốc đựng bia trong lòng đôi bàn tay to và rắn chắc, và chăm chú nhìn vào gương. Ở góc phía sau, bên tay phải là chỗ ngồi của đôi trai gái mà anh đã đi theo vào quán.
Người nam ước chừng cuối bốn mươi, người nữ được một nửa con số đó. Người nam mặc bộ đồ đẹp nhất mà hắn ta có. Một bộ comple len kẻ sọc đồng bộ từ trên xuống dưới, cái cà vạt màu vàng điểm những chấm xanh nước biển có hình thù trông như mấy con tinh trùng đang tìm trứng để thụ tinh, và một cái khăn tay đút túi trông rất bảnh tỏn để hợp với bộ đồ. Mái tóc vuốt ngược ra sau để lộ đôi lông mày thẳng và rậm - đôi lông mày trông hấp dẫn trên mặt người đàn ông, nhưng sẽ không mấy đẹp dẽ nếu ở trên mặt người phụ nữ, song cuộc sống vẫn luôn thiếu công bằng như thế đấy. Những chiếc nhẫn kim cương trông rất ấn tượng đeo trên những ngón tay được cắt sửa gọn ghẽ. Có thể là đồ ăn trộm. Hoặc đồ rởm. Rởm như con người hắn ta vậy. Móng chân của hắn có khi cũng được cắt sửa cũng nên. Giày của hắn được đánh bóng, nhưng hắn đã bỏ sót hai gót giày. Gót giày cũng đã bị trầy xướt, điểm này gần giống với bản chất thật sự của hắn ta nhiều hơn. Hắn ta cũng tốt mã giẻ cùi y như thế. Và hắn ta chỉ muốn tạo ấn tượng trên khi mới gặp gỡ chứ không phải lúc từ biệt. Một khi chào tạm biệt rồi, thằng khốn nạn này sẽ lặn mất hút.
Cô gái kia có đôi mắt tròn to ngây thơ và một cái đầu bã đậu. Kiểu khá là ngây ngô, tù mù. Giống như xem một bộ phim 3D mà không dùng đến cặp kính cần đề xem cho rõ; cứ có cảm giác không đúng sau đó. Cô gái đó chung thủy đến mù quáng và mù mờ đến mức một phần trong bạn chỉ muốn bỏ đi và mặc kệ cô ta ra sao thì ra.
Nhưng Decker đang được trả tiền để không làm như thế. Trên thực tế, anh được trả công để làm điều ngược lại.
Cô ta đang mặc một chiếc chân váy cùng áo khoác và áo sơ mi có lẽ còn giá trị hơn chiếc xe ô tô của Decker. Hay đúng hơn là chiếc xe mà Decker từng sở hữu. Ngân hàng đã thu cả chiếc xe đó đi rồi, như họ vẫn thường làm.
Cô ta là con nhà thượng lưu. Cô ta đã qua quen thuộc với cuộc sống sung túc được ban tặng đến mức cô ta không thể nào hiểu được tại sao lại có người cố gắng dùng mọi cách chộp giật từ tay cô ta những thứ mà cô ta đơn giản chỉ phải đón lấy như một điều hiển nhiên. Điều đó khiến từng phút từng ngày trong đời, cô ta đều có khả năng trở thành một nạn nhân.
Tình hình hiện giờ là thế: con cá mập và kẻ khờ. Decker nhìn hắn ta gắn liền với số sáu, một con số bẩn thỉu trong tâm trí của anh. Cô ta là số bốn, tẻ nhạt, chẳng có gì thú vị.
Hai người họ tay chạm tay, rồi sau đó môi chạm mội. Họ cùng dùng chung đồ uống - của hắn ta là một ly whiskey sour, của cô ta là một ly martini hồng.
Đúng như dự đoán.
Decker cầm ly bia trong tay suốt một lúc lâu và chờ đợi thời cơ. Anh nhìn họ nhưng vờ như không nhìn. Ngoài con số gắn liền, đối với anh, hình dáng của cô ta hiện lên trong màu cam, còn gã kia là màu tím, tương tự như màu mà anh liên hệ đến con số không, một con số không được hoan nghênh. Như vậy gã đó đối với anh thực sự đại diện cho hai con số - sáu và không. Nghe có vẻ phức tạp, anh biết, nhưng đối với anh chẳng có gì là
khó phân biệt cả, bởi nó hiện ra trong đầu anh như thế, rõ ràng như hình ảnh trong một tấm gương.
Và không phải là anh nhìn thấy họ chính xác có màu như thế. Đó là nhận thức tri giác rằng có màu như thế. Đó là cách đúng nhất và duy nhất mà anh có thể giải thích vè cảm giác của mình. Chẳng có ai dạy về điều này cả. Và anh cũng tiếp xúc với những thứ này khá là muộn. Anh chỉ đang cố hết sức trong khả năng của mình. Suy cho cùng, anh nghĩ sau khi học xong mầm non, anh sẽ không phải đá động gì đến mấy thứ bút màu nữa.
Hai người họ tiếp tục tình tự với nhau, tay nắm tay, chân cọ vào nhau, những màn mơn trớn, vuốt ve nhau. Rõ ràng là cô gái còn muốn nhiều hơn thế. Nhưng gã đàn ông thì miễn cưỡng đáp ứng, bởi vì còn phải chờn vờn nhau nữa. Dục tốc bất đạt. Và gã này khá giỏi. Không phải là kẻ giỏi nhất mà Decker từng gặp, nhưng đủ dùng. Có khi hắn kiếm ăn khá là dư dả cũng nên.
Dư dả đối với một thằng số không màu tím.
Decker biết gã này đang chờ cơ hội để moi tiền. Một khoản vay để đầu tư vào một vụ làm ăn nhiều triển vọng không thể bỏ lỡ. Một bi kịch mà gia đình đông người của hắn gặp phải, cần dùng đến tiền để vượt qua. Hắn không muốn làm việc này đâu. Hắn căm ghét bản thân vì phải làm thế này. Nhưng đây là phương cách cuối cùng của hắn rồi. Cô là cơ hội cuối cùng của hắn. Và hắn không trông mong cô sẽ hiểu. Hoặc đồng ý. Màn tranh luận sẽ được dựng lên theo cách đó, và cô gái còn biết đáp lại bằng cách nào khác nữa đây? Ngoại trừ, “Em đồng ý, anh thân mến của em. Hãy lấy gấp đôi. Thậm chí là gấp ba. Bố sẽ không bao giờ để tâm đâu. Suy cho cùng đó chỉ là tiền thôi mà. Tiền của bố.
Thêm một tiếng đồng hồ và sau hai ly martini hồng nữa cô ta để hắn ở lại đó. Nụ hôn chia tay âu yếm và cảm động làm sao, và hắn đáp lại tương ứng như thế, cho đến khi cô gái rời đi, và biểu cảm của hắn quay quắt sang hướng khác. Từ một vẻ âu yếm và yêu thương mà đôi lứa dành cho nhau, thành vẻ mặt của một kẻ thắng trận, và một vài người thậm chí còn có thể gọi đó là vẻ tàn ác. Chí ít đối với Decker là như thế.
Decker không thích tiếp xúc với người khác. Anh thích ở một mình hơn. Anh ghét những cuộc nói chuyện phiếm chẳng đi đến đâu, bởi vì anh đã không còn hiểu ý nghĩa của những cuộc nói chuyện đó là để làm gì. Nhưng chuyện phiếm vẫn là một phần trong công việc của anh. Đó là thứ giúp anh thanh toán những hóa đơn. Thế nên anh tự nhủ với bản thân phải vượt qua nó. Chí ít là vào lúc này.
Bởi vì đã đến giờ bắt tay vào làm việc.
Anh cầm theo ly bia đi đến bàn, vừa kịp lúc đặt bàn tay to lớn của mình lên vai gã kia và ấn hắn ngồi trở lại xuống ghế ngay khi hắn chuẩn bị định rời đi.
Decker ngồi đối diện với hắn, nhìn ly whiskey sour mà hắn không hề động đến - kẻ săn mồi không uống rượu lúc làm việc - và tiếp theo anh nâng ly bia của mình lên và khen ngợi hắn.
“Giỏi lắm. Tôi thích xem những tay chuyên nghiệp làm việc.”
Ban đầu, gã đàn ông đó không nói gì. Hắn nhìn Decker, ước lượng cái bề ngoài bù xù của anh, hắn có vẻ có ấn tượng không mấy thiện cảm với anh.
“Tôi quen anh à?” cuối cùng hắn nói, giọng hắn khó chịu. “Bởi vì tôi nghĩ chắc là không có khả năng đấy đâu.”
Decker thở dài. Ạnh đã kì vọng có thứ gì đó độc đáo hơn một chút. Nhưng rõ ràng là không có. “Không, và anh không cần phải biết tôi. Tất cả những gì mà anh phải làm đó là xem những thứ này.”
Anh rút ra một phong bì tài liệu từ trong túi áo khoác và đưa nó sang phía bên kia bàn.
Gã đàn ông ngập ngừng, nhưng rồi sau đó cũng cầm nó lên. Decker uống một ngụm bia và bảo, “Mở ra đi.”
“Sao phải thế?”
“Tốt thôi, vậy thì đừng mở. Không sao hết.”
Anh đưa tay định lấy lại cái phong bì, nhưng gã kia đã giật lấy nó khỏi tầm với của anh. Hắn cởi dây quấn và rút ra năm sáu tấm ảnh.
“Quy tắc số một của một tay lừa đảo, thằng ranh ma ạ,” Decker nói. “Đã vào việc thì đừng có chơi ngoài luồng. Và khi tôi nói rằng anh là một tay chuyên nghiệp, ấy là tôi khen lấy lệ thôi.”
Anh chìa tay ra và gõ gõ lên bức ảnh trên cùng. “Cô ta không mặc đủ quần áo trên người và anh cũng thế. Và nhân tiện, hành động này là vi phạm luật pháp của hầu hết tất cả các bang phía Nam đường phân giới Mason Dixon.”
Gã đàn ông liếc mắt nhìn lên, vẻ mặt hắn rất cảnh giác. “Anh lấy đâu ra những tấm ảnh này?”
Một lần nữa, Decker cảm thấy thất vọng trước lời chất vấn. “Bây giờ chúng ta chỉ quan tâm đến vấn đề đàm phán thôi nhé. Tôi được phép cho anh năm mươi nghìn dollar. Đổi lại anh sẽ bỏ mối này và tìm người khác mà tiếp tục. Ở bang khác.”
Gã đàn ông mỉm cười, đẩy những tấm ảnh ngược trở lại, và nói, “Nếu anh nghĩ đây thực sự là một vấn đề đối với tôi, tại sao không cho cô ấy xem hình? Tại sao lại đến đây và đề nghị dùng tiền để tôi rút lui?”
Decker thở dài một lần nữa, lần thứ ba anh cảm thấy thất vọng. Gã này chẳng có một tí tính thử thách nào cả. Anh nhặt lại những bức ảnh và đặt chúng gọn gàng vào trong phong bì.
“Anh đọc được suy nghĩ của tôi đấy, đồ ranh ma ạ. Chính xác những gì mà tôi đã nói với ông già cô ấy. Cám ơn vì đã công nhận ý kiến của tôi là có giá trị. Mà nhân thể tôi nói này, cô gái đó rất ngoan đạo. Những gì mà anh đang làm với cô gái trong tấm hình thứ ba ấy chính là điểm chết người, chưa kể một thực tế là cô ấy là vợ của anh. Một điểm quá đáng giá luôn.”
Anh đứng dậy định rời đi, nhưng gã kia nắm chặt lấy cánh tay anh. “Tôi có thể làm anh đau đấy,” hắn nói.
Decker nắm lấy những ngón tay của gã và bẻ ngược chúng cho đến khi gã ta thở gấp vì đau, đến tận lúc đó, Decker mới chịu thả tay.
Anh nói, “Tôi béo, nhưng sức tôi gấp đôi anh và xấu tính hơn rất là nhiều. Tôi không cần một gương mặt đẹp trai cho công việc của mình. Nhưng anh thì khác. Thế nên nếu tôi lôi anh ra sau và đập nát cái bản mặt anh, nó sẽ ảnh hưởng thế nào với dòng tiền trong tương lai của anh đây? Hiểu ý của tôi rồi chứ?”
Gã đàn ông cầm bàn tay bị thương, mặt tái mét. “Tôi sẽ nhận tiền.”
“Tốt. Ngay tại đây tôi có sẵn tấm séc trị giá hai mươi lăm ngàn dollar rồi đây.”
“Anh mới nói là năm mươi ngàn cơ mà!”
“Đó chỉ là nếu như anh chịu chấp nhận thỏa thuận khi được đề nghị. Nhưng anh đã không làm thế. Hậu quả là khoản anh nhận được chỉ còn một nửa thôi.”
“Thằng chó này.”
Decker lại ngồi xuống và rút ra một tờ giấy từ trong túi áo. “Vé máy bay. Một chiều. Xa nơi này nhất có thể mà không phải rời khỏi lục địa Hoa Kì. Trong vòng ba tiền nữa phải đi ngay. Một điều kiện để tấm séc có hiệu lực
đó là anh phải lên máy bay. Họ sẽ có người ở đó để xác nhận, thế nên đừng có giở trò ngu xuẩn gì hết.”
“Séc đâu?” gã ta yêu cầu.
Decker rút ra một tờ giấy khác. “Trước tiên anh cần kí cái này đã.”
Anh đưa tờ giấy sang phía đối diện. Gã đàn ông đưa mắt nhìn một lượt. “Nhưng cái này -”
“Cái này để đảm bảo là cô gái sẽ không bao giờ nghĩ đến anh nữa, ngoại trừ nghĩ đến anh với một ấn tượng rất xấu. Điều đó có nghĩa là kể cả nếu anh cô tìm cách lén lút quay về đây, anh cũng sẽ không có cơ hội.”
Trong đầu gã đàn ông đang suy nghĩ về những gì đang xảy ra, tất cả những chuyện này thật ra là như thế nào vậy. “Vậy là anh đang tống tiền tôi bằng những tấm hình này và với sự thật là tôi đã kết hôn để ép tôi phải kí cái này á? Và nếu tôi không kí anh sẽ cho cô ấy xem ảnh và kể với cô ấy là tôi đã kết hôn và tin rằng như thế là đủ để rũ tôi khỏi cô ấy á?”
“Anh đúng là một thiên tài.”
Gã đàn ông nhếch mép cười khinh khỉnh. “Tôi có cả tá đàn bà giống cô ta. Mà còn xinh gái hơn nhiều. Cô ta muốn tôi ngủ với cô ta. Tôi vẫn cố trì hoãn mãi. Anh thấy mấy bức ảnh rồi đó. Ở nhà tôi có thịt bò thượng hạng. Tại sao tôi lại phải chấp nhận một cục thịt băm cơ chứ, kể cả nếu cục thịt đó đi kèm quỹ tín thác? Cô ta là một con đần độn. Và vào những ngày đẹp trời đi nữa cô ta nhìn cũng chỉ tầm thường, kể cả có trát hết tiền của bố lên người.”
“Ông Marks đã lường trước được về anh từ lâu, kể cả nếu cô con gái nhỏ của ông ta không thấy. Nhưng một lần nữa, Jenny đã từng bị một thằng cặn bả như anh lừa lọc. Cô ấy xứng đáng tìm được người tốt hơn.”
Decker đâu có quen biết Jenny Marks và cũng chẳng thể quan tâm gì nhiều đến mấy rắc rối tình ái của cô ta. Anh chỉ đưa ra những lời bình luận này bởi anh cần thằng ranh ma này tiếp tục. Tiếp tục nói. Dốc hết tâm can mà nói.
“Cô ta xứng đáng có người tốt hơn ấy hả? Chết tiệt, tôi chả hiểu tại sao tôi phải bận tâm luôn. Chả cần cố tôi vẫn tìm được con khác ngon hơn Jenny Marks. Mà tôi còn chẳng phải nghe mấy câu chuyện trẻ con của cô ta.”
“Đần độn á? Trẻ con á? Cô gái đó có bằng đại học đấy.” Decker đã có được nhiều hơn những gì anh cần, nhưng anh bắt đầu thấy thích thú việc này.
“Thực sự ấy, cô ta không phải là một con đần độn đâu. Cô ta là một con mất não quái gỡ.”
Được rồi, trò vui đến đây là kết húc nhé.
Decker rút lại tờ giấy chưa kí và nhét nó vào trong phong bì cùng với những bức ảnh. Anh bỏ tất cả vào trong túi áo khoác.
“Anh đang làm cái quái gì vậy hả?” gã kia nói với giọng ngờ vực.
Đáp lại, Decker rút ra một cáu máy ghi âm kỹ thuật số cỡ nhỏ và ấn nút chạy.
“Tôi dám chắc cô ta sẽ rất thích cách anh miêu tả cô ta,” Decker nói. “Mà nhân tiện hỏi này, cục thịt kiểu gì ấy nhỉ? Bò nguyên chất à? Hữu cơ không? Hay chỉ là mất não quái gỡ thôi?”
Gã đàn ông ngồi đó với vẻ mặt sửng sốt.
Decker cất chiếc máy ghi âm đi và đẩy tấm vé máy bay một chiều về phía gã ta. “Chúng tôi sẽ để anh giữ lại cái này. Hãy đảm bảo là sẽ đặt mông lên máy bay nhé. Gã tiếp theo tìm đến sẽ còn to con hơn tôi, và hắn sẽ không chỉ bẻ ngón tay cho anh đâu. Sẽ bẻ cả người anh luôn đấy.”
Gã ta nói với giọng đáng thương, “Vậy là tôi sẽ không nhận được một cắc bạc nào luôn sao?”
Decker đứng dậy. “Như tôi đã nói rồi đó, do anh thiên tài quá đó thôi.” CHƯƠNG 4
Decker ngồi trên giường trong căn phòng bé như cái buồng giam. Để tiếp khách, anh sẽ dùng cái bàn trong phòng ăn của nhà trọ Residence Inn, tại đây tiền thuê phòng theo tháng đã bao gồm bữa sáng tự chọn phục vụ mỗi
ngày. Chắc chắn là họ sẽ bị lỗ khi phục vụ cho anh với cái giá đó. Anh toàn bưng nguyên đĩa đồ ăn phục vụ buffet và mang thẳng về bàn. Có khi anh đã dùng máy xúc thay cho dĩa nếu được.
Anh nhận được tờ sec thanh toán từ sứ giả của ngài Marks. Một người anh em cùng ngành cảnh sát đã giới thiệu Decker cho người đàn ông giàu có đó để giúp giải quyết vấn đề nhạy cảm liên quan đến cô con gái tẻ nhạt luôn luôn si mê mấy thằng không ra gì. Anh chưa từng gặp mặt ông già đó, chỉ gặp những người đại diện. Cũng chẳng sao; anh đồ là ngài Marks cũng chẳng muốn anh làm vấy bẩn mấy món đồ nội thất xa hoa của ông ta. Họ gặp nhau ở quầy ăn sáng - hai thằng ôn nứt mắt trong những bộ comple giá hai ngàn dollars, từ chối dù chỉ nhấp thử một ngụm cà phê. Có lẽ hai đứa đó hào hứng với mấy ly double espresso rỉ ra từ mấy chiếc máy nhỏ sáng bóng do một tay barista vận hành hơn. Nhìn biểu cảm của chúng, anh có thể khẳng định chúng biết rất rõ mình ở đẳng cấp nào, còn Decker thì nghèo hèn tới đâu. Anh đã mặc chiếc áo sơmi đẹp nhất của mình tới cuộc gặp, nghĩa là chiếc áo còn lại trong số hai chiếc áo mà anh có.
Bố Marks đã cho phép được dùng một trăm ngàn dollar để rũ được con đỉa đói bám dính lấy con gái ông ta. Sau khi đánh giá tên lừa đảo đó, Decker đã nói với mấy người đại diện là anh có thể giải quyết được nó mà chỉ cần tốn kém ít hơn rất nhiều. Và đúng là như thế. Thực tế chỉ cần tốn tiền mua tấm vé máy bay một chiều. Vài xu tiền lẻ. Bạn sẽ nghĩ ông bố Warbucks - một người giàu có và rộng lòng nhân ái - có lẽ sẽ thưởng thêm cho Decker ít nhất là một phần trăm trong khoản sáu con số tiết kiệm được. Nhưng ông ta làm đúng theo như giấy tờ thỏa thuận, và Decker chỉ nhận được lương tính theo giờ còm cõi, mặc dù anh cũng đã nâng tiền công lên kha khá và có được một khoảng lương công nhật hậu hĩnh cho bản thân. Thế nhưng có thêm một tí vẫn tốt. Có khi đó là cách để người giàu cứ giàu mãi. Nhưng cũng đáng, xem một thằng lừa đảo bị lừa ngược. Và anh đoán chỉ thêm vài tháng nữa, Jenny Marks sẽ lại ngựa quen đường cũ, và người ta sẽ lại gọi đến anh mà thôi. Có khi lúc đó anh nên yêu cầu bố Warbucks trả trước một khoản đặt cọc.
Anh rời khỏi phòng và đi đến khu vực phòng ăn ở ngay phía bên tay phải của sảnh nhà trọ. Lúc đó vẫn còn sớm và anh là người duy nhất có mặt ở
đó cùng với bà June. Bà lão tám mươi tuổi đang tận hưởng những năm tháng hưu trí quý hơn vàng của mình bằng công việc tiếp đầy món khoai tây chiên kiểu áp chảo đẫm mỡ lên khay đồ ăn ở quầy buffet.
Sau khi lấy đầy dĩa đồ ăn, anh ngồi xuống để dùng bữa ở chỗ cái bàn vẫn thường ngồi.
Anh chuẩn bị đưa dĩa thức ăn đầy ụ thức ăn vào miệng thì nhìn thấy một người phụ nữ bước vào.
Có lẽ bây giờ chị ta bốn mươi hai tuổi, cùng tuổi với anh. Chị ta nhìn già hơn anh. Công việc của chị ta khiến con người trở nên như thế. Anh cũng đã từng như thế.
Anh đánh mắt nhìn xuống dưới và hạ dĩa thức ăn xuống, anh rắc muối lên tất cả những đồ ăn có trong dĩa hơn bốn lần, bao gồm cả những chiếc bánh nướng. Anh đang hi vọng là một người đàn ông với kích thước to lớn như anh có thể teo nhỏ đến mức vô hình đằng sau bức tường được xây từ protein và tinh bột.
“Xin chào, Amos.”
Ồ, rõ là không được rồi.
Anh nhét một muỗng đầy trứng xào khô, cháo ngô, thịt xông khói, khoai chiên và tương cà chua ngập cổ họng. Anh há to miệng mà nhai, hi vọng cảnh tượng đó sẽ thúc giục chị ta quay ngoắt và bỏ về chỗ ban đầu mà chị ta tới.
Chuyện đó không có cửa xảy ra đâu.
Chị ngồi xuống đối diện với anh. Cái bàn rất nhỏ, và chị cũng nhỏ. Nhưng anh thì không. Anh to khổng lồ. Chị ngồi tại đó thôi cũng đủ để anh chiếm gần hết không gian chỗ bàn ăn.
“Anh đang thế nào rồi?” chị hỏi.
Anh nhồi nhét thêm nhiều đồ ăn hơn vào miệng và nhai nhồm nhoàm. Anh không ngẩng đầu nhìn lên. Làm thế để làm gì cơ chứ? Mọi điều chị ta có khả năng thốt ra đều là những điều anh không muốn nghe.
Chị nói, “Tôi có thể chờ được, nếu anh thích chơi như thế. Tôi là tỉ phú thời gian mà.”
Cuối cùng anh cũng chịu nhìn chị. Chị gầy như que củi do hút thuốc và nhai kẹo cao su, đó là những thứ chị dùng để thay thế cho đồ ăn và thức uống. Có khi chỉ riêng bữa này của anh cũng đã nhiều hơn những gì chị nạp vào người trong một tháng.
Tóc của chị màu vàng lợt, làn da của chị nhăn nheo và lấm tấm đồi mồi. Mũi của chị bị vẹo - có người nói rằng chị bị thế do một lần chạm trán với một thằng say hèn hạ khi còn là cảnh sát tuần tra. Cái cằm nhọn, nhỏ của chị trông như kiểu bị khuất hẳn đằng sau cái miệng rộng rất khôg cân đối, trong cái miệng đó, hàm răng cái to cái bé không đều, đã nhuốm màu nicotin và nhấp nha nhấp nhô như những con dơi treo mình trong hang.
Chị không đẹp. Vẻ bề ngoài không phải là thứ khiến người khác ghi nhớ về chị. Điều khiến chị đặc biệt ấy là chị là nữ thanh tra đầu tiên tại Phòng Cảnh sát Burlington. Theo như anh biết cho tới lúc này, chị vẫn là nữ thanh tra duy nhất. Và chị từng là cộng sự của anh. Họ đã bắt giữ, qua đó kết tội, được nhiều kẻ xấu hơn bất kì ai trong lịch sử của phòng cảnh sát. Một số người trong lực lượng nghĩ những gì họ làm được thật tuyệt. Những người khác nghĩ họ là hai kẻ tự phụ. Một đối thủ cạnh tranh từng gọi họ là Starsky và Hutch1. Decker không biết người ta nghĩ anh là ai trong hai người đó, gã tóc vàng hay gã tóc nâu.
1 Starsky và Hutch là hai nhân vật chính trong sê ri truyền hình Mỹ cùng tên của thập niên 70 về đề tài cảnh sát phá án. Nhân vật tóc nâu Starsky có tác phong làm việc phóng khoáng còn nhân vật tóc vàng Hutch thì làm việc có quy cũ hơn.
“Xin chào, Mary Suzanne Lancaster,” anh nói, bởi vì một lí do nào đó anh không thể không nói ra cái tên đó.
Chị mỉm cười, đưa tay sang bên và chọc vào vai anh. Anh hơi cau mặt và lùi ra sau một chút, nhưng chị có vẻ không để ý thấy điều đó. “Tôi không ngờ anh thậm chí còn biết cả tên đệm của tôi cơ đấy.”
Anh nhìn xuống dĩa đồ ăn, hạn mức trò chuyện hạn chế của anh đã dùng hết.
Chị nhìn anh từ trên xuống dưới, và khi đã nhìn xong, Lancaster dường như thầm hiểu ra rằng tất cả những lời đồn đại rằng Decker đã sa cơ lỡ vận là hoàn toàn chính xác.
“Tôi sẽ không hỏi dạo gần đây anh có ổn hay không, Amos ạ. Bởi tự mắt tôi cũng thấy là không ổn.”
“Tôi sống ở đây thay vì ở trong một cái thùng giấy,” anh nói cộc lốc. Ngỡ ngàng, chị nói, “Tôi xin lỗi, tôi không có ý nói như thế.” “Cô cần gì à?” anh hỏi. “Tôi có lịch rồi.”
Chị gật đầu. “Hẳn là thế. Ừm, tôi chỉ ghé qua để nói chuyện với anh.” “Cô đã nói chuyện với ai rồi?”
“Ý anh là tại sao tôi biết anh đang ở đây ấy hả?”
Vẻ mặt của anh nói với cô biết đó chắc chắn là điều anh muốn hỏi. “Bạn cùa một người bạn.”
“Không nghĩ cô lại có nhiều bạn thế,” Decker nói. Đó thật sự không phải là một câu nói đùa, và rõ ràng là anh không hề cười. Nhưng chị vẫn phải cố bật cười khúc khích, biết đâu làm thế có khả năng phá vỡ bầu không khí ảm đạm, nhưng rồi sau dó đột nhiên chị nhận ra có khi làm như thế thì thật là ngu ngốc.
Ừ
“Ừm, tôi cũng là một thanh tra. Tôi có thể tìm ra được. Và Burlington đâu có lớn đến thế. Đây có phải là New York đâu. Cũng chẳng phải L.A.”
Anh vẫn nhồm nhoàm, nhét thêm đồ ăn vào trong miệng, và tâm trí anh bắt đầu vẩn vơ nghĩ tới những con số có màu và những thứ có thể báo hiệu thời gian trong đầu anh.
Chị dường như cảm nhận được anh đang lảng tránh. “Tôi rất lấy làm tiếc về tất cả những gì đã xảy đến với anh. Mất mát của anh rất to lớn, Amos ạ. Anh không đáng phải nhận lấy điều này, không ai đáng phải nhận cả.”
Anh liếc nhìn chị với một vẻ mặt hoàn toàn không thể hiện một chút biểu cảm nào. Anh không hứng thú với việc được người khác đồng cảm. Anh chưa bao giờ đi tìm sự đồng cảm cả, chủ yếu là bởi vì tâm trí của anh không thực sự hiểu được cái cảm giác đặc biệt đó. Ít nhất là không còn hiểu được nữa. Có thể anh biết quan tâm. Anh đã từng quan tâm chu đáo và đầy tình yêu thương với gia đình của mình. Nhưng đồng cảm và người anh em họ thậm chí còn đáng ghét hơn của nó, thấu cảm, đã không còn phải là chuyên môn của anh nữa rồi.
Có lẽ cảm nhận được chị lại sắp sửa để tuột mất anh, chị vội vả nói, “Và tôi còn đến để nói với anh vài điều.”
Anh đưa mắt nhìn chị từ trên xuống dưới. Anh không thể kiềm chế, thế nên anh nói, “Cô đã sút cân. Khoảng hơn hai cân, sút cân sẽ không tốt cho cô. Và có thể cô bị thiếu vitamin D.”
“Sao anh lại nghĩ thế?”
“Dáng bước đi lúc tiến vào của cô cứng đơ. Đau xương là một triệu chứng kinh điển.” Anh chỉ tay lên trán chị. “Và ngoài trời rét mướt nhưng đầu cô vẫn đang nhỏ mồ hôi. Thêm một dấu hiệu kinh điển nữa. Và cô đã bắt chéo
rồi bỏ, bắt chéo rồi bỏ năm lần trong cái khoảng thời gian rất ngắn mà cô đã ngồi ở đó. Có vấn đề với bàng quang. Cũng là một triệu chứng nữa.”
Chị cau mày trước mấy đáng giá mang tính cá nhân này. “Sao nào, anh bắt đầu học trường y hay gì sao?” chị gắt gỏng.
“Bốn năm trước tôi đọc một bài báo như thế trong lúc ngồi chờ ở phòng khám nha sĩ.”
Chị chạm tay lên trán. “Chắc là tại tôi không ra nắng nhiều đấy thôi.”
“Và cô đốt thuốc như cái lò bể, không có lợi một tí nào. Thử dùng thêm thực phẩm bổ sung đi. Thiếu vitamin D sẽ không tốt đâu. Với cả bỏ thuốc đi. Thử dùng miếng dán cai thuốc xem nào.” Anh liếc mắt nhìn xuống và nhìn thấy thứ anh quan sát được ngay khi cô ngồi xuống ngay lúc đầu. Anh nói, “Và tay trái của cô cũng đang run nữa.”
Chị dùng tay phải nắm lấy nó, và trong vô thức xoa xoa vào vị trí đó. “Tôi nghĩ đó chỉ là do dây thần kinh thôi.”
“Nhưng cô bắn bằng tay trái đấy. Thế nên có khi cô phải đi khám thử xem sao.”
Chị liếc nhìn xuống một chỗ hơi phồng ở thắt lưng bên phải của áo khoác, tại đó khẩu súng của chị được gài trong cái bao da gắn trên dây thắt lưng.
Chị mỉm cười. “Còn có thể đọc vị kiểu Sherlock Holmes ra cái gì ở tôi nữa thì nói nốt luôn.. đi xem nào? Muốn kiểm tra đầu gối của tôi không? Xem móng tay nữa? Thử nói xem sáng nay tôi ăn gì?”
Anh nhấp một ngụm cà phê dài. “Đi kiểm tra đi. Có thể sẽ còn gì khác nữa. Không phải chỉ có run rẩy thế đâu. Điềm xấu bắt đầu từ đôi tay và hai con mắt. Đó là “hoàng yến trong mỏ than”1, là dấu hiệu cảnh báo sớm đấy. Và tháng sau là có bài đánh giá định kì kỹ năng bắn súng của phòng rồi. Khó
mà thi qua nếu tay cầm súng cứ chập cheng như thế.”
1 Trong các mỏ than thời xưa người ta thường đem theo một con chim hoàng yến trong lồng. Nếu có khí độc, con chim sẽ chết trước, người hợ mỏ sẽ biết đó là dấu hiệu cảnh báo và rời khỏi hầm ngay tức khắc.
Nụ cười của chị tắt dần. “Tôi chưa nghĩ đến việc đó. Tôi sẽ để ý, cám ơn, Amos.”
Anh nhìn xuống dĩa thức ăn và hít một hơi sâu. Anh đã ăn xong, chỉ đang đợi chị rời đi. Anh nhắm mắt. Có khi anh sẽ ngủ gật ở luôn đây.
Chị vẩn vơ ngồi nghịch mấy cái khuy trên áo khoác, nhìn chăm chăm vào anh. Chuẩn bị để thực hiện mục đích thực sự mà chị tới đây ngày hôm nay. Để nói ra.
“Chúng tôi đã thực hiện một lệnh bắt, Amos ạ. Trong vụ án của anh.” Amos Decker mở mắt. Và cứ mở nguyên không chớp mắt.
CHƯƠNG 5
Decker đặt hai tay lên mặt bàn.
Lancaster để ý thấy hai bàn tay đã nắm lại và ngón tay cái day mạnh vào ngón trỏ, mạnh đến nổi nó để lại cả vết hằn ở trên.
“Tên hắn là gì?” Decker hỏi, nhìn chằm chằm vào ụ trứng bác chưa ăn tới. “Sebastian Leopold. Tên rất lạ. Nhưng hắn khai như thế.”
Decker một lần nữa nhắm mắt và mở lại cái mà anh thường thích gọi là cái đầu ghi hình của anh. Đây là một trong số những điểm tích cực của cái khả năng mà anh có. Các khung hình lướt rất nhanh qua mắt anh, nhanh đến nỗi rất khó để nhìn theo, nhưng anh vẫn có thể nhìn được tất cả mọi thứ trong đó. Nhưng đi hét một lượt cái hoạt động trong trí óc đó, anh vẫn không tìm thấy được bất cứ một manh mối nào.
Anh mở mắt ra và lắc đầu. “Chưa từng nghe đến tên hắn. Cô thì sao?”
“Chưa nghe. Nhưng nhắc lại, đó chỉ là những gì hắn nói với chúng tôi. Đó có thể không phải là tên thật của hắn.”
“Vậy là không có chứng minh thư sao?”
“Không, chẳng có gì. Túi quần túi áo trống không. Tôi tin là hắn không có chỗ ở.”
“Đã kiểm tra dấu vân tay chưa?”
“Như chúng ta đã nói đấy. Chưa thấy manh mối nào cả.” “Lầm thế nào bên cô tìm ra hắn?”
“Rất dễ dàng. Hắn tự đi vào khu nhiệm sở và đầu thú lúc hai giờ sáng nay. Vụ bắt giữ dễ dàng nhất mà chúng tôi từng thực hiện. Tôi vừa mới từ chỗ thẩm vấn hắn về đây.”
Decker nhìn cô bằng một ánh mắt sắc lạnh. “Sau gần mười sáu tháng, gã đó đầu thú và thừa nhận thực hiện vụ sát hại ba người sao?”
“Tôi biết. Hiển nhiên việc này rất hiếm thấy.”
“Động cơ là gì?
Trông chị có vẻ không thoải mái. “Tôi tới đây chỉ để báo trước thông tin cho anh như một phép lịch sự thôi Amos ạ. Đó vẫn là một vụ án đang được cảnh sát điều tra. Anh biết quy trình mà.”
Anh rướn người lên trước, gần như che hết chiều rộng của cái bàn. Bằng một giọng đều và kiên quyết, như thể anh đang nhìn chị chằm chằm qua khoảng cách giữa hai cái bàn dính liền nhau như hồi còn làm việc ở đòn cảnh sát, anh nói. “Động cơ là gì?”
Chị thở dài, rút một thanh kẹo cao su từ trong túi áo, gập nó làm đôi, và bỏ vào trong miệng. Nhai mạnh ba lần và chị nói, “Leopold nói rằng đã có lần anh làm hắn bất mãn. Hắn bực tức.”
Ở
“Ở đâu và khi nào?”
“Ở cửa hàng 7-Eleven. Khoảng một tháng trước... trước khi hắn ra tay. Hiển nhiên gã đó ôm hận trong lòng. Nói riêng giữa anh và tôi, tôi không nghĩ gã đó đầu óc bình thường.”
“Cửa hàng 7-Eleven nào?”
“Sao cơ?”
“Cửa hàng 7-Eleven nào?”
“Ừm, cửa hàng gần nhà của anh, tôi nghĩ vậy.”
“Vậy là ở số 14 trên đường DeSalle rồi?”
“Hắn nói hắn đi theo anh về nhà. Đó là lí do hắn biết anh sống ở đâu.”
“Vậy là hắn vô gia cư nhưng lại có ô tô sao? Bởi vì tôi chưa từng một lần trong đời đi bộ tới cửa hàng 7-Eleven đó.”
“Hiện giờ hắn vô gia cư. Còn hồi đó thì tôi không biết tình trạng của hắn thế nào. Hắn chỉ vừa mới đầu thú thôi, Amos. Còn rất nhiều điều mà chúng ta vẫn chưa biết.”
“Ảnh chụp đâu.” Đó không phải là một câu hỏi. Nếu hắn đã bị bắt, họ phải chụp ảnh và lấy dấu vân tay của hắn.”
Cô giơ điện thoại lên và cho anh xem tấm ảnh. Trên màn hình nhỏ là gương mặt của một người đàn ông. Gương mặt cháy nắng và cáu bẩn. Mái tóc rối bời và râu ria lòa xòa. Và với ngoại hình như thế, Leopold trông cũng thật giống Decker.
Anh nhắm mắt lại và cái máy ghi hình trong óc anh bật trở lại, nhưng lướt hết một vòng, lại một lần nữa, không manh mối.
“Tôi chưa bao giờ gặp hắn.”
Ừ
“Ừm, có thể hắn bây giờ đã khác ngày trước.”
Anh lắc đầu và nói, “Bao nhiêu tuổi?”
“Khó xác định và hắn cũng không khai. Có thể là đầu bốn mươi, có thể thôi.”
“Hắn cao to cỡ nào?”
“Một mét tám và dưới tám mươi kg.”
“Gầy hay béo?”
“Gầy. Khá là khẳng khiu, theo những gì tôi thấy.”
“Anh vợ của tôi áng chừng kích thước ngang tôi, làm công nhân xây dựng, và anh ấy có thể nâng cả một chiếc xe tải. Làm thế nào để Leopold đối kháng tay đôi với anh ấy?”
“Vụ việc vẫn đang được điều tra, Amos ạ. Tôi không thể nói được.”
Một lần nữa anh nhìn thẳng vào cô, nhưng lần này anh để sự im lặng nói thay lời mình.
Chị thở dài, nhai miếng kẹo cao su chóp chép, và nói, “Hắn nói với chúng tôi anh vợ của anh say rượu ở chỗ bàn bếp. Không biết hắn đang áp sát. Thật ra hắn nói hắn nghĩ đó là anh. Chí ít là từ đằng sau.
Hắn nghĩ hắn đang giết mình khi hắn cứa cổ anh vợ của mình sao? “Tôi chẳng giống anh vợ tôi một tí nào cả.”
“Từ đằng sau mà Amos. Và tôi nói anh nghe này, gã Leopold có vấn đề về thần kinh. Óc gã không mở nổi máy chứ đừng nói là nảy số.”
Decker nhắm mắt lại.
Như vậy là thằng thần kinh với bộ não không hoạt động này sau đó đã đi lên tầng trên và bắn chết vợ mình rồi siết cổ con gái mình sao?
Anh mở mắt ra khi Lancaster nhấc người đứng dậy khỏi ghế. “Tôi còn một câu hỏi nữa,” anh nói.
“Ồ, tôi không trả lời thêm được gì nữa đâu. Tôi có thể bị tước phù hiệu vì tới đây và nói cho anh biết những gì tôi vừa nói. Anh biết điều đó mà Amos.”
Anh cũng đứng dậy, dáng người của anh che khuất chị, một người đàn ông to lớn, xồ xề có thể khiến lũ trẻ nhỏ khóc thét mà bỏ chạy vì sợ hãi chỉ cần... bằng cách xuất hiện.
“Tôi cần về đồn để gặp gã này.”
“Không thể được,” Lancaster đã lùi ra xa. Rồi chị để ý tới cái chỗ nhô lên ở thắt lưng của anh.
“Anh có mang theo nó trên người đấy à?” chị nói với giọng nghi ngờ. Anh không liếc nhìn xuống cái chỗ mà chị đang nhìn chằm chằm. “Tôi đã giao nộp lại vũ khí khi rời khỏi lực lượng rồi.”
“Tôi không hỏi chuyện đó. Bất cứ ai đều có thể mua được súng mà. Tôi hỏi lại lần nữa. Anh có mang theo súng đấy à?”
“Nếu có đi nữa, tôi cũng có làm gì trái luật đâu.”
“Mang công khai thì được,” chị chỉnh lại lời anh. “Nhưng có luật cấm giấu kin súng mang theo người, trừ phi là cảnh sát.”
“Tôi có giấu đâu. Cô có thể nhìn thấy nó mà, chẳng phải sao? Từ vị trí mà cô đang đứng?”
“Chuyện đó không giống nhau, Amos, và anh biết điều đó mà.”
Anh giơ hai tay được đặt song song cạnh nhau. “Thế thì còng tay tôi lại đi. Bắt tôi và tống tôi vào cùng cái phòng đang giam Sebastian Leopold ấy. Cô có thể tịch thu súng của tôi. Tôi sẽ không cần đến nó.”
Chị lùi ra sau xa thêm nữa. “Đừng có cố thúc bách. Hãy để chúng tôi làm công việc của mình. Chúng tôi đã tóm được hắn. Hãy để mọi chuyện diễn ra tự nhiên và công bằng. Chúng ta có thể kết án tử hình mà. Hắn có thể sẽ phải nhận một mũi thuốc độc cho những gì hắn đã gây ra.”
“Phải, có khi là sau mười năm nữa. Và như thế là trong cả một thập kỉ hắn có nhà, có giường và cơm ăn ba bữa. Và nếu hắn thực là bị điên và luật sư biết lo liệu giấy tờ, hắn sẽ được cho về ở trọn đời tại một bệnh viện tâm thần đẹp đẽ, thoải mái nào đó, đọc sách, chơi xếp hình, đi tư vấn và được nhận thuốc miễn phí để giúp hắn không phải chịu đau đớn. Nhìn từ góc độ của hắn, thế không tệ chút nào. Thật lòng, nếu là tôi thì sẽ chấp nhận thỏa thuận đó ngay.”
“Hắn nhận tội sát hại ba người đấy, Amos à.”
“Hãy cho tôi gặp hắn.”
Chị đã quay người và bước nhanh quay về chỗ mà có thể là nơi chị đã đậu xe.
Chị quay người lại một lần nữa và hằm hè nói, “Mà nhân thể, không cần cảm ơn đâu, đồ vô ơn!”
Anh nhìn theo cho tới khi chị đi khuất khỏi tiền sảnh.
Anh ngồi xuống tại chỗ bàn của mình. Anh coi cái bàn đó là của mình bởi vì tất cả mọi người đều cần một chỗ nào đó gọi là của mình. Và vị trí đó là dành cho anh.
Sáng hôm nay anh thức dậy, không một mục đích trong đời, ngoại trừ sống tiếp đến sáng hôm sau.
Giờ đây tất cả đã thay đổi.
CHƯƠNG 6
Decker quay lại phòng và rút điện thoại ra. Anh không thích phải trả tiền cho một cái điện thoại có thể truy cập Internet, nhưng nó giống như anh có trong tay một cái thư viện khổng lồ cùng một binh đoàn trợ lý hỗ trợ tìm kiếm với giá rẻ. Anh kiểm tra bảng tin. Chắc hẳn họ bị lệnh hạn chế thông tin về vụ bắt giữ bởi vì anh không tìm được gì cả. Khi anh tìm cái tên trên mạng, có thấy một số kết quả nhưng rõ ràng đó chỉ là những người khác trùng tên mà thôi.
Gã đó đã đầu thú và thừa nhận sát hại ba người. Kể cả nếu gã thực sự biện hộ là mình bị thần kinh, gã vẫn có thể phải sống trọn đời trong trại. Có thật là gã không? Là gã đã làm ư? Cảnh sát đáng lẽ ra có thể đưa ra kết luận rất dễ dàng. Decker biết họ giấu nhiều chi tiết không công khai cho công
chúng về các tội ác. Họ sẽ chất vấn cặn kẽ Leopold, nếu đó là tên thật của gã, và nhanh chóng xác định được là gã đã làm hay gã đang nói dối vì một lí do nào đó.
Nếu đúng là gã, Decker sẽ làm gì đây? Tìm cách phá ngang hệ thống tư pháp hình sự và giết chết gã ư? Và rồi sau đó tự kết thúc đời mình bằng những ngày trong tù à? Nhưng nếu không phải do gã làm, ồ, vậy thì cũng sẽ có nhiều khả năng có thể xảy ra.
Ngay lúc này, anh không thể làm bất cứ điều gì. Không một điều gì có tính xây dựng, ít ra là thế. Leopold có thể sẽ bị buộc tội và chính thức bị khởi tố, hoặc được thả, tùy thuộc vào kết quả thẩm vấn. Nếu hắn bị nhốt lại, hắn sẽ bị đưa ra xét xử, hoặc có thể là không nếu hắn thừa nhận có tội, phần lớn các bị cáo đều làm thế, là do họ nghèo nên không có tiền để thuê luật sư giỏi hoặc đúng thật là họ có tội, hoặc có khi là cả hai. Những gã giàu có thì luôn tìm cách đấu tranh đến cùng, đặc biệt là khi đem thời gian phải ở trong tù lên bàn cân. Bọn họ có quá nhiều thứ để đánh mất.
Nhưng bên nguyên thì chưa chắc đã phải đề nghị bị cáo chủ động nhận tội. Họ có thể muốn xoay kẻ đần độn này để lấy danh tiếng trong nghề. Nếu như thế, Decker sẽ có mặt ở tòa án mỗi ngầy. Mỗi phút. Anh muốn nhìn thấy gã này. Đánh hơi gã. Định lượng gã.
Anh nằm xuống giường. Trông anh giống như đang ngủ, nhưng anh không hề chợp mắt dù chỉ một phút. Anh đang nhớ lại. Anh đang nghĩ lại thời ngày xưa anh đã từng. Và anh của hiện tại. Anh thường xuyên nghĩ về chuyện này, kể cả vào lúc anh không muốn. Đôi khi, phần lớn thời gian, quyết định không nằm trong tay anh. Nó phụ thuộc vào bộ não của anh, bộ não đó, châm biếm làm sao, dường như tự nó cũng có trí óc của riêng mình.
☆☆☆
Tôi là Amos Decker. Tôi bốn mươi hai tuổi và trông già hơn ít nhất mười tuổi (vào một ngày đẹp trời, và tôi chưa từng có một ngày nào như thế trong bốn trăm bảy mươi chín ngày vừa qua), và cảm giác tôi già hơn thế ít nhất cả một thế kỉ. Tôi đã từng là một cảnh sát và sau đó là một thanh tra, nhưng tôi đã không còn kiếm được tiền lương nhờ làm bất cứ nghề nào trong hai nghề đó. Tôi mắc chứng trí nhớ siêu phàm hyperthymesia, nghĩa là tôi không bao giờ quên được bất cứ thứ gì. Tôi không nói tới những kĩ năng ghi nhớ mà bạn có thể tự học để ghi nhớ các thứ tốt hơn, như các mẹo liên tưởng dùng để nhớ thứ tự các lá trong một bộ bài. Không, đối với tôi, cứ như có một bộ não được cường hóa mà bằng một cách nào đó đã giải phóng những khả năng mà tất cả chúng ta đều có nhưng không bao giờ dùng đến. Không có nhiều người có chứng siêu nhớ - cách gọi tắt của tôi cho hội chứng này - trên giới. Nhưng tôi chính thức là một trong số đó.
Và có vẻ các hệ thần kinh giác quan của tôi còn giao với nhau nữa, vì thế tôi nhìn thấy màu sắc và hình dung thời gian như những hình ảnh trong đầu. Thật ra, các màu sắc xâm chiếm suy nghĩ của tôi vào những lúc không cố định. Chúng tôi được gọi là những người mang hội chứng cảm giác kèm synesthesia. Nghĩa là tôi thấy được màu sắc và tôi “nhìn thấy” thời gian, và đôi khi tôi liên hệ màu sắc với người hoặc các đồ vật.
Rất nhiều người có hội chứng cảm giác kèm cũng mắc chứng tự kỷ hoặc hội chứng Asperger. Tôi thì không. Nhưng tôi không còn thích bị người khác chạm vào người. Và những câu chuyện đùa vui không còn thực sự gây ấn tượng với tôi nữa. Nhưng đó có thể là tôi không có ý định bật cười thêm một lần nào nữa.
Tôi đã từng có lúc bình thường, hoặc gần đến mức đủ để được coi là bình thường.
Và giờ tôi không còn như thế nữa.
☆☆☆
Điện thoại của anh rung. Anh nhìn vào màn hình. Anh không nhận ra số gọi đến, nhưng điều đó cũng chẳng sao. Để quảng cáo cho công việc thám tử tư, anh đã cho số điện thoại của mình ở rất nhiều chỗ khác nhau. Ngay lúc này anh không muốn tập trung vào công việc, nhưng rồi một lần nữa, anh cũng không thể ngó lơ các khách hàng sẽ trả tiền cho mình. Nếu anh bị đá đít ra khỏi cái nơi tồi tàn này chỉ vì không thể trả tiền trọ, những ngày sống trong hộp carton sẽ quay trở lại. Và mùa đông đang tới gần. Và mặc dù người anh có rất nhiều mỡ có thể giúp anh giữ ấm, anh vẫn sẽ luôn lựa chọn một mái nhà vững chãi thay vì mấy sản phẩm từ giấy.
“Decker nghe,” anh bắt máy.
“Anh Decker, tôi là Alexandra Jamison từ trang báo News Leader. Tôi có thể hỏi anh một vài câu về những tiến triển gần đây trong vụ án liên quan tới gia đình anh được không ạ?”
“Làm sao cô có số này vậy?”
“Từ một người bạn của bạn tôi.”
“Lần thứ hai tôi được nghe câu đó trong ngày hôm nay đấy. Vòng vo như thế tôi không có thích.”
ẳ
“Anh Decker, đã mười sáu tháng trôi qua. Chắc hẳn anh phải có cảm nghĩ gì đó khi biết rằng cuối cùng cảnh sát cũng đã bắt giữ được một đối tượng.”
“Sao cô biết họ đã bắt được người?”
“Tôi làm việc với đội cảnh sát tuần tra. Tôi có mối riêng. Một nguồn tin tin cậy nói cho tôi biết có kẻ tình nghi đã bị tạm giữ. Anh có biết thêm gì khác nữa không? Nếu có - “
Decker ấn nút kết thúc và giọng của người phụ nữ tắt ngóm. Điện thoại ngay lập tức đổ chuông trở lại, và anh tắt hẳn máy.
Anh không thích giới báo chí từ hồi còn làm thanh tra, mặc dù trong một số trường hợp họ cũng có ích. Tuy nhiên, giờ là thám tử tư, anh chẳng thích thú gì tiếp chuyện mấy người đó. Và đừng hòng bọn họ moi được chuyện hoặc xin xỏ trợ giúp từ anh về vụ án “liên quan” đến gia đình anh.
Anh rời khỏi phòng ở và bắt một chuyến xe bus ở góc phố và đi chặng đó để bắt được chuyến thứ hai, chuyến này đưa anh thẳng vào trung tâm thị trấn. Có một vài tòa nhà chọc trời xen lẫn giữa một mớ các tòa nhà khác với độ cao tầm thấp và trung, một số còn mới, đẹp, số khác thì không. Phố phường đan xen thành hệ thống đường kẻ dày đặc với các góc vuông vức và các con phố lớn thẳng tắp. Anh không qua lại khu trung tâm này nhiều. Tội phạm, chí ít là các tội phạm nghiêm trọng, thì hoặc ở phía Bắc của thị trấn hoặc ở khu vực ngoại ô. Nhưng nơi nhiệm sở nơi anh từng làm việc, và là khu tạm giam cho những kẻ bị bắt giữ thì nằm ở ngay đây, lại tọa lạc ngay chính giữa trung tâm thị trấn này.
Anh đứng trên phố và nhìn chăm chăm vào tòa nhà đối diện, nơi anh từng bước vào mỗi ngày trong suốt một khoảng thời gian dài: Khu nhiệm sở thứ 2. Đó thật ra là Khu nhiệm sở số 1, bởi vì khu nhiệm sở số 1 cũ đã bị thiêu rụi. Nhưng không ai chịu bỏ thời gian đặt lại mấy con số cả. Mà có khi việc đó không nằm trong chi ngân sách.
Tòa nhà được đặt theo tên của Walter James O’Malley, một cảnh sát trưởng xuất chúng từ đâu đó bốn mươi năm trước. Ông ta đột tử bên ngoài một
quán bar với cô nhân tình đang níu chặt trong vòng tay. Nhưng điều đó cũng không ngăn được họ đặt tên tòa nhà theo tên ông ta, điều đó là một minh chứng thuyết phục rằng việc ngoại tình thật ra không gây tổn hại gì đến di sản mà một người để lại. Kể cả nếu mất mạng vì nó.
Phòng làm việc ngày xưa của anh nằm trên tầng ba. Anh có thể nhìn thấy ô cửa sổ mà hồi đó anh chăm chăm nhìn ra ngoài, vào những lúc anh không nhìn Lancaster, người ngồi đối diện thẳng với anh trong cái góc làm việc chật chội. Buồng tạm giam nằm ở tầng hầm và nằm ở mặt nhìn ra con phố này, điều đó có nghĩa là Sebastian Leopold đang cách anh chắc chỉ mười lăm mét.
Anh chưa từng ở gần đến mức này với kẻ được cho là đã sát hại gia đình mình. Nhưng cũng có khi anh đã từng, nếu như theo lời kể anh từng làm hắn bất mãn ở cửa hàng 7-Eleven.
Anh quay đi khi anh nhìn thấy một cảnh sát mặc thường phục và một cảnh sát mặc cảnh phục mà anh biết. Mặc dù anh đã thay đổi rất nhiều kể từ lúc rời khỏi lực lượng, anh đồ rằng họ vẫn có thể nhớ anh. Bước vào trong một con ngõ, anh tựa người lên tường. Mức độ lo lắng của anh đang tăng cao. Những cơn đau đầu đến rồi đi. Bộ não của anh dần trở nên mệt mỏi bởi nó gần như chẳng bao giờ ngừng làm việc. Thậm chí kể cả lúc anh đang ngủ. Nó giống như thể tiềm thức của anh thật ra cũng chính là ý thức của anh. Với một người không bao giờ quên bất cứ điều gì, anh lại thấy khó nhớ được con người ngày trước của mình ra sao. Lẫn những gì anh đã trải qua để trở thành con người của ngày hôm nay.
Anh nhắm mắt lại.
☆☆☆
“Khả năng” này đến với tôi khi tôi mới vừa tròn hai mươi hai tuổi. Tôi đang làm trung vệ trong đội bóng bầu dục của trường đại học, được tuyển lên đội dự giải quốc gia NFL với năng lực cũng thường thường nhưng hừng hực khát khao chiến đấu mãnh liệt. Tôi đặt chân lên sân bóng cho trận đấu đầu tiên của mùa giải sau khi thi đấu hết mình trong suốt các trận đấu trước mùa giải và sóng sót cho tới trận cuối cùng. Tôi nằm trong đội
được giao bóng trước. Công việc của tôi rất đơn giản: hi sinh thân thể để tạo ra hỗn độn và lỗ hổng trong hàng ngũ đối phương để các anh chàng khác có thể cản được người bắt bóng bên họ. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy trên sân đấu. Tôi chuẩn bị gây ra được hỗn độn. Tôi chạy hùng hục, đến mức mà nước mũi, nước dãi bay ra khỏi mũi, khỏi miệng. Tôi sẽ nhận được khoản lương cao nhất mà tôi từng được trả trong đời. Mục tiêu của tôi là kiếm được nó. Tôi chuẩn bị hạ gục một vài anh bạn đây, sẽ đè cho chết ngắc.
Và đó là những gì mà tôi nhớ được. Dwayne LeCroix, một tân binh của đội LSU, thấp hơn tôi chừng mười phân và nhẹ hơn năm mươi cân, nhưng hiển nhiên có một sức mạnh đáng kể, bởi hắn đó đã hạ gục tôi bẹp trên sân thi đấu với một cú húc không ngờ. Anh ta húc bay tôi, như người ta thường nói trong giải NFL. Bốn năm sau ngày đó, anh ta rời khỏi giải khi sụn hai đầu gối thoái hóa sạch, vai bên trái bị teo chẳng còn gì ngoài xương với xẩu, và tài khoản ngân hàng rút quá số tiền gửi. Hiện tại anh ta đang định cư trong một nhà tù an ninh tối cao ở Shreveport vì những tội ác mà anh ta gây ra cho đồng loại của mình, và anh ta đã chết gục trong đó, có thể là vào một ngày gần đây hoặc trong tương lai xa. Nhưng còn ngày hôm đó, anh ta nhởn nhơ, không ai trói cùm, thong thả, ngạo nghễ như con gà trống giữa một đàn gà mái, còn tôi thì nằm bất tỉnh trên sân bóng.
Và sau cú va chạm đó cuộc đời của tôi đã chẳng còn gì giống như trước. Không một thứ gì.
CHƯƠNG 7
Decker mở mắt khi anh nghe thấy tiếng ồn ào ở phía bên kia đường. Các cánh cửa bật mở. Tiếng xe ô tô rít lên do bánh xe cao su ma sát với vỉa hè quá mạnh. Tiếng còi tầm vang rộn. Tiếng người ồn ào huyên náo, tiếng kim loại va đạp vào nhau ken két. Tiếng gót giày nện mạnh trên nền bê tông.
ẳ
Anh bước hẳn ra khỏi con ngõ nhỏ, nhìn sang phía bên kia đường và nhìn thấy các xe tuần tra, với còi tầm rền vang, đổ ra từ cái gara ngầm của khu nhiệm sở. Thêm nhiều sĩ quan cảnh sát và cả những cảnh sát mặc thường phục đang ào ra từ cửa trước của khu nhiệm sở và lao tới những chiếc xe tuần tra và những chiếc xe không gắn phù hiệu cảnh sát đậu con phố.
Anh tiếp tục dõi theo khi một chiếc xe tải đồ sộ của đội đặc nhiệm SWAT nặng nề di chuyển từ con ngõ bên sườn của nhiệm sở, đánh lái, và sau đó người lái xe đạp mạnh chân ga và con tê giác khổng lồ bằng kim loại rầm rầm lao xuống phố.
Decker tiến gần hơn vào con phố, hòa mình vào cùng một nhóm cư dân bỏ dở côg việc làm thường ngày của mình để tụ tập theo dõi quang cảnh hỗn loạn này. Anh lắng nghe những người khác nói chuyện để xem họ có biết chuyện gì đang xảy ra hay không, nhưng tất cả mọi người dường như đều sửng sốt trước những gì mà họ đang chứng kiến.
Decker vội vã chạy sang bên kia đường thì anh nhìn thấy một người đàn ông từ trong nhiệm sở đi ra.
“Pete phải không?” Decker nói.
Người đàn ông mặc một bộ vest với hai ống tay áo lem bẩn. Ông ta khoảng đầu sáu mươi, rất gần đến tuổi nghỉ hưu, lưng hơi gù một chút và mái tóc hoa râm chải hất sang bên. Ông dừng lại và ngước mắt nhìn anh. Decker nhìn thấy Pete Rourke đã rút vũ khí được cấp của mình ra và đang kiểm tra băng đạn.
“Amos à? Anh đang làm cái quái gì ở đây vậy?”
“Tôi chỉ vô tình đi ngang qua. Có chuyện gì thế?”
Mặt Pete tái mét và trông như sắp sửa ngã quỵ xuống vỉa hè. “Có thằng bệnh hoạn nào đó đến trường cấp ba Mansfield. Mang theo súng sẵn sàng gây sự và bắt đầu nổ súng bắn giết tại đó. Nhiều người chết lắm, Decker ạ. Hầu hết là trẻ con. Tôi phải đi đây.” Ông nức nở vài tiếng. “Chết tiệt, cháu
nội cùa tôi học ở trường đó. Nó vừa mới vào trường thôi mà. Không biết liệu thằng bé có...”
Ông quay người và lập tức đi tới chỗ xe ô tô của mình, một chiếc malibu màu nâu nhạt, lao vào xe, nổ máy và phóng đi.
Decker nhìn ông rời đi. Một đội quân cảnh sát đang tiến đến ngôi trường cấp ba bị khủng bố à? Trường cấp ba Mansfield. Đó là trường Decker từng theo học, từ cả nghìn năm trước rồi.
Anh nhìn xung quanh khi tiếng còi tầm đã tan. Những người ở bên kia đường đang giải tán, quay lại với công việc của mình. Rất nhiều người đang mở điện thoại kiểm tra tin tức. Decker cũng làm giống họ, nhưng vẫn chưa có tin gì cả. Mọi việc chỉ vừa mới xảy ra. Tuy nhiên, giới báo chí sẽ đón tin nhanh thôi và sau đó sẽ không ngừng đưa tin về vụ việc này đâu.
Đấy là chừng nào vụ nổ súng mới chưa diễn ra. Khi đó báo giới mới chịu buông tha để rồi cắm đầu cắm cổ đi săn tin vụ tiếp theo.
Chừng nào vụ nổ súng mới chưa diễn ra...
Decker ngước mắt nhìn chằm chằm cánh cửa dẫn vào nhiệm sở. Anh tự hỏi sẽ còn lại bao nhiêu nhân sự ở trong tòa nhà. Chắc chắn họ sẽ để lại một số người. Họ đang giam giữ một tội phạm nghiêm trọng trong nhà giam ở đó.
Anh chạm tay vào chỗ giấu khẩu súng đang phồng lên ở thắt lưng. Đó sẽ là một vấn đề. Có một cửa kiểm soát an ninh ở ngay đằng sau cửa chính. Anh nhìn xung quanh và trông thấy cái thùng rác ở bên cạnh tòa nhà. Anh bước tới và mở nắp thùng. Nó mới đầy chưa đến một phần tư thùng. Lịch lấy
rác sẽ là vào cuối tuần, anh nhớ lại. Có một miếng giẻ rách nằm trên cùng của đống rác. Anh rút khẩu súng ra, gói nó trong tấm giẻ và đặt nó vào thùng.
Anh cúi xuống nhìn áo quần đang mặc trên người. Lại là một vấn đề khác nữa. Anh liếc nhìn xung quanh và trông thấy một cửa tiệm. Trước đây anh đã từng mua một vài thứ ở đó. Rất lâu trước đây.
Cửa hàng dành cho người béo và cao quá khổ của Grady.
Ờ, mình béo và mình cao. Ngay lúc này chiều ngang của mình lớn hơn chiều cao.
Anh rút thẻ tín dụng của mình ra. Thẻ này có hạn mức. Một hạn mức khá thấp. Nhưng có thể là vừa đủ dùng.
Anh đi vào trong cửa hàng và tiếng chuông cửa vang lên khi anh bước vào.
Một người đàn ông ăn mặc đẹp đẽ, tròn trĩnh thoăn thoắt bước đến chỗ anh và sau đó lùi lại một bước cũng nhanh chóng khôg kém.
“Tôi giúp được gì cho anh ạ?” ông ta nói từ một khoảng cách khá xa. Có lẽ ông ta nghĩ Decker là một người vô gia cư và đang định trấn lột ông ta.
Decker rút ví ra và giơ nhanh cho ông ta xem cái phù hiệu thám tử tư. Anh làm rất nhanh để nhìn thoáng qua trông có vẻ giống như một phù hiệu khác. Anh liếc nhìn sang nhiệm sở ở đầu kia con phố để tăng thêm lớp ngụy trang cho màn lừa gạt. Nói dối không phải là một việc anh có thể làm một cách tự nhiên. Và sau cú va chạm trên sân bóng, khả năng giữ gìn ý tứ trong lời nói của anh đã suy giảm đi rất nhiều, thế nên đối với anh, việc không nói lên sự thật là một thách thức to lớn hơn trước. Bản năng nài khẩn có được sự chuẩn xác và không bằng lòng với bất cứ thứ gì thiếu tính chuẩn xác. Ấy thế nhưng là một cảnh sát thường xuyên hoạt động ở khu vực nhạy cảm của thế giới tội phạm, anh đã phải nói dối quanh co nhiều lần. Sau này là thanh tra và giờ là thám tử tư, anh cần phải có khả năng nói lập lờ, nếu không anh sẽ chẳng thể hoàn thành công việc. Và cuối cùng anh tìm được một phương pháp có vẻ là có hiệu quả.
Mình sẽ nói dối, một cách thật hoàn hảo.
Anh nói với người đàn ông, “Tôi làm một nhiệm vụ quá lâu. Bỏ mặc bản thân ghê quá. Muốn bám dấu lũ “chuột” thì trông mình cũng phải giống bọn nó chứ. Giờ tôi phải tìm về với văn minh nhân loại thôi. Hiểu chưa?”
Người đàn ông đã nhìn theo ánh mắt của Decker hướng về khu nhiệm sở và gật đầu. Thái độ của ông ta dãn ra, thoải mái hơn. Ông ta thậm chí còn mỉm cười.
“Anh không phải là người đầu tiên,” ông ta nói với giọng khích lệ. “Chúng tôi có rất nhiều khách hàng từ Phòng cảnh sát Burlington.”
“Ngày trước tôi đã từng mua hàng ở đây,” Decker nói.
“Chắc hẳn là vậy rồi, tôi nhớ anh mà,” người đàn ông nói dối.
Decker lựa hàng nhanh chóng. Áo khoác, một chiếc cỡ XXL. Quần, cỡ XL, mà vẫn hơi chật, thế nên anh để bụng rủ xuống che qua thắt lưng như nhiều người ngoại cỡ vẫn để. Anh bỏ qua không chọn mua thắt lưng nữa. Cái quần chắc chắn không thể tụt xuống được. May mắn là chân của anh cũng dài, và anh tìm được một chiếc quần đã may gấu vừa người. Áo sơmi to như cho voi. Cà vạt, rẻ tiền nhưng đủ xài. Giày, cỡ 48. Anh chọn một đôi da nhân tạo. Chúng bó chặt hai bàn chân của anh. Anh không quan tâm.
“Ở đây không có bàn chải với máy cạo râu nhỉ?” Decker hỏi khi đang nhìn mình trong gương.
“Khu vực đồ dùng nhà vệ sinh của chúng tôi ở đằng kia có.” “Cặp táp thì sao nhỉ?”
“Quầy phụ kiện, đằng kia.”
Anh trả tất cả bằng thẻ tín dụng. Khi Decker hỏi, nhân viên thu ngân bán thêm cho anh một cuốn sổ kẻ ngang và ít bút mà anh ta cất trong một cái hộp đồ văn phòng phẩm ở đằng sau quầy thanh toán.
“Họ cứ cắt giảm ngân sách chi cho chúng tôi,” Decker giải thích. “Làm sao chúng tôi bảo vệ được mọi người khi mà thậm chí còn chẳng có tiền mua bút cơ chứ?”
“Thật đáng buồn,” người đàn ông nói. “Thế giới này sẽ đến ngày tàn mất thôi. Anh muốn một cái kẹp cà vạt hoặc khăn túi ngực khong?”
Decker mang tất cả đồ đạc vào nhà vẹ sinh, dùng bồn rửa mặt rửa ráy sạch sẽ cáu bẩn, thoa lọ khử mùi mà anh đã mua, cạo sạch hầu hết râu ria, chỉ để lại một lớp mỏng ở cằm, hai bên quai hàm và trên mép, cắt tỉa gọn gàng mái tóc, mặc quần áo mới lên người và đi giày mới, và bỏ những đồ cũ vào trong cái túi xách của cửa hàng.
Anh bước ra ngoài mang theo cái túi và quay trở lại khu nhiệm sở. Cái cà vạt thít chặt ở cổ anh, và mặc dù đã dùng lăn khử mùi, anh vẫn cảm thấy hơi có chút mồ hôi đang chảy ra dưới hai cánh tay, mặc dù không khí khá
mát mẻ. Nhưng trông anh không còn giống như hình thù lúc trước nữa. Kể cả cái hồi anh còn là cớm, anh cũng chưa từng trông chỉnh tề đến như thế.
Anh bỏ cái túi đựng quần áo vào trong thùng rác cùng với khẩu súng và tiến lên những bậc thang dẫn vào nhiệm sở. Anh biết làm thế này là ngu ngốc lắm. Là điên rồ. Anh rời khỏi lực lượng chưa lâu đến mức đó. Anh có thể bị nhận ra bất kì lúc nào, giống như Pete Rourke có thể nhận ra anh vậy. Nhưng anh không quan tâm. Anh thật sự không quan tâm. Đây là cơ hội của anh. Có thể là cơ hội duy nhất. Anh sẽ nắm lấy cơ hội này.
Anh vượt qua cái máy kiểm tra an ninh. Có một cậu cảnh sát trẻ ở sảnh để điều hành khu vực lối vào. Decker không quen cậu ta và cậu ta cũng không biết Decker.
Tốt cho cả hai.
Anh đi tới quầy thông tin. Người phụ nữ lớn tuổi đang ngồi ở đó rõ ràng không phải là cảnh sát đang mặc cảnh phục. Chắc hẳn chị ta được tuyển dụng hệ dân sự. Để một cán bộ không phải cảnh sát ngồi ở bàn tiếp đón không phải là một cách điều phối nguồn nhân lực thông minh.
Với câu chuyện bịa đặt đã được hình thành xong trong đầu, Decker cúi xuống nhìn chị ta. Chị ta ngước mắt nhìn anh. Hai mắt chị ta mở to, có thể đơn giản chỉ là để nhìn thấy được hết toàn bộ thân hình của anh.
“Tôi giúp được gì cho anh?” chị ta hỏi.
“Các anh chị đang tạm giữ một phạm nhân, Sebastian Leopold, phải chứ?” Chị ta chớp mắt vì bối rối. “Tôi không biết anh muốn nói đến a -” “Tôi muốn nói chuyện với anh ta.”
“Vậy anh là -”
“Anh ta cần tư vấn. Tôi không nghĩ đã có ai đó được chỉ định tới đại diện cho anh ta.”
“Tôi không chắc -”
“Từ chính án thứ sáu, quyền được tư vấn. Không thể bác bỏ. Chỉ cần một vài phút với anh ấy thôi.”
“Tôi sẽ phải gọi điện -”
“Nếu cần thì cứ gọi. Nhưng tôi biết ngay lúc này quanh đây mọi người đang khá bận rộn và vất vả. Thế nên nếu không có ai bắt máy, tôi chỉ cần vài phút với anh ấy thôi.”
Decker nhấc cái cặp táp lên để chị ta có thể nhìn thấy nó và vỗ vỗ vào cạnh sườn. “Cáo trạng của anh ấy sắp được công bố. Anh ấy cần chuẩn bị để biện hộ. Tôi có một vài ý tưởng.”
“Anh ngồi chờ chút được chứ.”
Decker nhìn xung quanh, nhìn cậu cảnh sát quản lý cái máy an ninh. Cậu ta đang nhìn Decker chằm chằm, thế là không tốt.
Nhận ra có thể anh vừa mới vứt qua cửa sổ cả một mớ tiền mà thật ra không phải là tiền mà mình có cho những áo quần trông giống luật sư, Decker ngồi xuống cái ghế được gắn vào tường và chờ đợi. Người phụ nữ lớn tuổi nhấc điện thoại lên và chậm rãi, chậm quá thể quá đáng, ấn các con số.
Con số. Lại là các con số.
Chúng có tác động thôi miên đối với anh, gợi anh nhớ tới những khoảnh khắc mà không phải lúc nào anh cũng muốn nhớ đến.
Decker nhắm mắt và tâm trí anh bắt đầu quay ngược ... quay ngược về cái ngày hôm đó, không, về chính xác cái khoảnh khắc khi cuộc đời anh thay đổi mãi mãi.
CHƯƠNG 8
Đám đông phát cuồng mỗi lần cú va chạm được tua lại trên màn hình lớn, và việc đó diễn ra thường xuyên, sau này người ta kể lại cho tôi như thế. Mũ bảo hộ văng xa cả mét rưỡi và lăn thêm gần hai mét nữa, rồi dừng lại dưới chân của một trọng tài, ông này đã nhặt chiếc mũ lên và có lẽ đã kiểm tra xem liệu đầu của tôi có còn ở trong đấy hay không.
Tôi nghĩ não của mình bật nảy trong sọ nhiều lần như một con chim cố gắng lao đầu vào cửa sổ cho tới khi cổ nó gãy rời.
Đúng thế, đám đông reo hò và huýt sáo mỗi khi màn hình lớn chạy đoạn băng tua lại.
Rồi tôi được kể lại rằng mọi người không reo hò nữa. Bởi vì tôi không đứng dậy. Bởi vì tôi bất động hoàn toàn. Và rồi sau đó một ai đó nhận thấy tôi đã ngừng thở, và người chuyển sang tím ngắt. Họ kể lại rằng huấn luyện viên trưởng luân phiên thụi vào ngực tôi như một cái máy dập đè lên những tấm kim loại và hà hơi, thổi ngạt cho tôi. Sau này, họ kể với tôi rằng tôi đã chết đi hai lần trên sân đấu, nhưng cả hai lần ông đều mang tôi từ cõi chết trở về. Họ kể với tôi rằng ông thét vào tai tôi, “Cố lên nào, chín mươi lăm. Cố gắng lên.” Tôi là kẻ vô danh tiểu tốt đến mức ông ấy chỉ biết số áo đấu chứ không biết tên tôi. Danh tính cầu thủ bóng bầu dục chuyên nghiệp của tôi là một con số chín và một con số năm được in trước ngực.
Chín và năm. Màu tím và màu nâu trong trí óc đếm màu của tôi. Tôi chưa từng chủ đích gắn màu sắc với con số. Là bộ não làm việc đó mà không cần tôi cho phép.
Cú va chạm đã làm thay đổi tất cả về tôi, bởi vì bản chất nó đã kết cấu lại bộ não cho tôi. Thế là tôi đã chết, hai lần, và sau đó hồi sinh, về cơ bản, thành một con người khác. Và suốt một thời gian dài tôi đã nghĩ đó sẽ là điều tồi tệ nhất từng xảy đến với mình. Nhưng rồi cái đêm với ba thi thể nhuốm màu sắc xanh ánh điện xảy đến, và cú đâm từ sau trên sân đấu đã tụt ngay xuống vị trí thứ hai trong danh sách những điều khủng khiếp nhất từng xảy đến với bản thân.
☆☆☆
“Anh ơi? Thưa anh?”
Decker mở mắt và nhìn thấy người phụ nữ đang cúi nhìn anh chằm chằm. Không phải người phụ nữ lớn tuổi ngồi sau bàn. Cô gái này trẻ hơn nhiều, có lẽ là gần ba mươi, mặc quần âu màu đen và một chiếc áo sơmi màu xanh nước biển nhạt, để mở hai cúc trên cùng. Cô có nước da tươi sáng và từ người cô toát ra một cảm giác lạc quan, làm được việc. Chắc hẳn cô ta vừa mới vào làm gần đây thôi, anh nghĩ. Chỉ một năm nữa thôi là cô ta sẽ không còn như thế này nữa đâu. Hoặc có thể thậm chí chỉ cần sáu tháng thôi. Khi suốt ngày toàn phải lo việc truy đuổi và bắt giam lũ tội phạm cặn bã, bạn sẽ già nhanh hơn cả phơi mình dưới nắng.
Anh nhìn cái bảng tên đeo cổ lủng lẳng ngang hông cô.
Sally Brimmer. Nhân viên quan hệ công chúng. Chắc hẳn cô ta mới vào làm sau khi anh rời ngành. Ngay lúc này, vận may của anh đang rất ổn.
Nói dối cho hay thật là hay vào Amos ạ. Mày có thể làm được. Mày phải làm được. Từng chữ được nói ra đều có giá trị. Bởi vì từng chữ một mày nói ra đều có thể chống lại mày. Từng chữ một... Cố mà làm cho tốt.
Anh đứng dậy và chìa tay ra. “Vâng, cô Brimmer?”
Họ bắt tay. Tay của cô gái nằm gọn trong tay anh, và anh hi vọng cô ta sẽ không diễn giải lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi của cô là bằng chứng làm lộ tẩy rằng anh đang gian dối.
Cô nói, “Tôi được thông báo anh muốn gặp Sebastian Leopold?” “Đúng vậy. Tôi được biết là anh ta cần cố vấn pháp luật.” “Và anh biết việc này từ đâu vậy ạ?”
Decker kìm nén nỗi lo lắng đang lớn dần trong lồng ngực, nhanh chóng chắp ghép chi tiết từ cái máy ghi hình trong đầu để tạo ra một câu trả lời, và diễn đạt nó bằng lời.
“Tôi có liên hệ với tòa soạn báo News Leader, cô Alex Jamison. Từng nghe qua về cô ấy rồi chứ hả?”
“Vâng, tôi có biết. Cô ấy rất giỏi. Có khi cô ấy biết thật. Và anh là luật sư sao?”
Anh đưa cho cô xem một tấm danh thiếp với địa chỉ văn phòng ở đầu kia của thành phố, và đó thực sự là địa chỉ của một công ty luật.
Cô chăm chú cúi nhìn tấm danh thiếp và sau đó đưa trả nó lại. “Chúng tôi đang phải xử lý một tình huống khẩn cấp,” cô nói.
“Tôi có nghe. Pete Rourke đã kể trên đường tôi vào đây. Trường cấp ba Mansfield. Cháu nội của anh ấy học trường đó. Tôi hi vọng thằng bé không sao.”
“Vậy là anh biết Pete sao?”
“Chúng tôi quen biết nhau lâu rồi, cô Brimmer ạ.”
Cô thở dài và nhìn xung quanh. “Thực sự thì tôi không phải là người có thể quyết định việc này.”
“Tôi có thể quay lại sau.” Trước khi cô gái kịp đáp lại lời đề nghị này, anh nhanh chóng nói tiếp. “Nhưng Leopold cần phải bị khởi tố trong vòng bốn mươi tám giờ hoặc nếu không anh ta sẽ được thả. Tôi nghĩ chẳng ai ở đây muốn điều đó xảy ra cả.”
“Không, không ai muốn cả. Chỉ là -”
Những từ ngữ phù hợp nảy ra trong đầu Decker. Nó giống như anh đang đọc từ một cái máy nhắc chữ vậy. “Và đưa anh ta tới buổi luận tội mà không có cố vấn hoặc cố vấn đại khái có thể bị đàm tiếu là thiếu tôn trọng pháp luật mà có khi còn bị đùng để đớp ngược lại Phòng cảnh sát, xin lỗi tôi dùng từ hơi quá đáng. Tôi biết cô cũng không mong muốn chuyện đó. Chẳng có công dân tôn trọng pháp luật nào lại muốn thế cả.”
Cô gái bắt đầu gật gù trước bài diễn văn đầy thuyết phục của anh. “Anh sẽ chỉ cần vài phút thôi phải không?”
“Chỉ cần có thế,” anh nói.
Cô lưỡng lự và anh có thể đọc được sự do dự trong ánh mắt cô.
Cô không muốn dính vào chuyện này và không biết phải đưa ra quyết định như thế nào cho đúng.
Càng đi sâu với lời nói dối này, anh càng bắt đầu cảm thấy bồn chồn nhiều hơn. Anh hít một hơi thật sâu, nén vị đắng của mật đang dâng trong cổ họng theo nhịp thở ra. “Chỉ một vài phút thôi,” anh nói. “Sau đó tôi sẽ ra khỏi đây. Và sau này anh ta chẳng thể khiếu nại gì thêm.”
Đoạn cuối là suy nghĩ thực lòng của Decker.
“Anh có biết anh ta bị cáo buộc tội trạng gì không?” cô hỏi.
“Có, thật tình là tôi biết khá rõ. Nhưng cho dù hành vi của anh ta có tàn ác thế nào, anh ta vẫn có quyền được tư vấn. Và nếu đúng là anh ta có tội,
người ta có thể tiêm thuốc độc cho anh ta mà cô sẽ không nghe thêm bất cứ lời khiếu nại nào từ tôi nữa. Điều này tôi xin hứa.”
Nói thật chắc chắn sẽ giúp mày được giải thoát, Amos ạ.
Sự do dự của cô gái cuối cùng cũng tan biến, như nước trong bọc đã vỡ ra. “Được rồi, đi theo tôi nào.”
Và Amos đi theo cô ta.
CHƯƠNG 9
Họ rẽ vào một góc ngoặc ở cuối sảnh và hắn ta kia rồi, con chuột trong lồng, chí ít trong suy nghĩ của Decker là thế. Nhưng như vậy là chưa đủ. Anh cần phải khẳng định chắc chắn.
Brimmer nhìn Decker và sau đó là Leopold.
“Anh ta đây. Tôi có thể cho anh mười lăm phút, tối đa.”
“Tôi chỉ cần thế thôi,” Decker đáp.
Ở đó có một người canh tù, lại là một người nữa mà Decker khôg biết. Mười lăm năm làm thanh tra, anh không giao thiệp gì nhiều với hội cảnh sát mặc cảnh phục.
“Làm ơn mở cửa đi ạ,” Brimmer nói với người canh tù.
Chìa khóa rút ra và cánh cửa trượt ra sau. Decker tiến vào trong buồng giam và cúi đầu nhìn chăm chăm vào người đàn ông, lúc này đang ngồi co ro như một con mèo trên chiếc giường tầng.
Brimmer nói, “ Mười lăm phút thôi, được chứ?”
Decker gật đầu nhưng không nhìn cô. Tiếng gót giày của cô lọc cọc rời đi. Decker chờ cho tới khi người canh tù quay lại chỗ bàn làm việc của mình ở cuối hành lang trước khi anh tiến lên trước và dành toàn bộ sự tập trrung vào gã tù nhân.
Sebastian Leopold không to lớn như trong suy nghĩ của anh qua lời miêu tả của Lancaster.
Hoặc có khi mình do đã phát phì hơn rất nhiều.
Họ đã thay cho hắn ta bộ áo liền quần màu da cam của tù nhân. Hai tay và hai chân của hắn dều bị còng, và một sợi xích quấn quanh eo gắn chặt vào tường. Thật tiếc làm sao, bởi nếu hắn định tìm cách tấn công Decker, Decker có thể cứ thế mà giết chết hắn với lý do tự vệ.
Cái đầu của hắn quay sang nhìn Decker và anh đã chuẩn bị tâm lý để tên Leopold này nhận mặt anh. Nhưng hắn không có vẻ gì là nhận ra anh cả. Thật kì lạ, bởi vì theo như lời anh được nghe kể, anh làm cho gã này bất mãn khủng khiếp lắm đến mức hắn trả thù bằng cách sát hại cả gia đình của
Decker.
Hai con mắt đỏ ngầu, hai con ngươi giãn căng. Decker đoán cảnh sát đã đưa hắn đi xét nghiệm chất gây nghiện, bắt hắn tiểu vào một cái chai, lấy mẫu nước bọt để xét nghiệm ADN và kiểm tra hơi thở để xác định nồng độ cồn trong máu. Bộ áo liền quần là đồ ngắn tay thế nên hai cẳng tay của hắn ta để hở. Trên cánh tay phải của hắn có một hình xăm hai con cá heo. Đó là một điểm đáng chú ý.
Có cả dấu vết tiêm thuốc. Và trông mấy vết đó tương đối mới. Anh tự hỏi không biết gã này có làm một liều trước khi tung tăng lướt vào đây và nhận tội sát hại ba người hay không. Phải có chút chất kích thích trong người mới dám làm một việc như thế, Decker nghĩ.
Một đoạn đầu ngón tay bên tay trái của hắn đã bị cụt, bị cắt mất đốt đầu tiên. Trên mặt hắn có một vết sẹo. Cái mũi vẹo của hắn bị lệch sang trái khoảng 10 độ. Hai bàn tay chai sạn gồ ghề và trông rất khỏe mạnh. Hắn đã từng làm công việc chân tay.
Liệu đó có phải là đôi bàn tay đã tướt đoạt Molly khỏi mình không? “Anh Leopold?” anh nói.
Leopold tiếp tục hướng mắt vào anh nhưng không thực sự nhìn thấy được gì . Hoặc chí ít là Decker cảm thấy như vậy.
Hắn vẫn không nhận mặt anh. Và sau khi cắt tỉa râu và tóc, trông Decker bây giờ đã gần giống hơn với anh chàng cảnh sát của mười bảy tháng trước đây, khi anh được cho là đã gây bất mãn cho Leopold tại cửa hàng 7- Eleven.
Anh nhìn chăm chú vào gương mặt của gã này và bắt đầu tua máy ghi hình trong đầu. Hết khung hình này đến khung hình khác lướt qua trong tâm trí anh, quay lại chính xác vào khoảng thời gian được cho là anh đã chạm mặt với gã này. Ngày giờ đó hiện lên trong đầu anh gần gũi như thể nó đang ở ngay trước mắt anh. Một tháng trước vụ giết người, theo lời Lancaster đã
nói. Decker đã cộng thêm một tuần cả trước và sau ngày đó để chắc chắn hơn.
Máy ghi hình của anh tua o o và những khung hình lướt qua theo giờ, rồi theo phút. Decker đã ghé qua cửa hàng 7-Eleven ba lần trong khoảng thời gian đó.
Sebastian Leopold hoàn toàn không có mặt trong trí nhớ của anh.
Decker tắt đầu máy ghi hình trong đầu đi và ngồi xuống chiếc ghế được gắn chặt vào tường.
“Anh Leopold,” anh nói bằng một giọng nhỏ nhẹ. “Anh có nhận ra tôi không?”
Leopold có vẻ là đang nghe nhưng không thực sự nghe thấy gì. “Anh có nhận ra tôi không?”
Leopold lắc đầu.
Hắn di chuyển hai tay phía trước mặt theo một cách rất kì cục. Decker quan sát hình thù chính xác mà gã này đang cố vẽ.
“Anh cần một luật sư,” Decker nói, và anh vỗ vỗ tay lên cái cặp táp. Leopold dừng chuyển động tay và gật đầu trước lời này.
Decker lấy tập giấy và cây bút ra.
“Anh nói tôi nghe đã có chuyện gì xảy ra tôi hôm đó được chứ?” “Tại sao?”
Giọng nói đột nhiên có một sắc thái kín đáo khiến Decker cũng hơi bất ngờ. Anh đã thẩm vấn rất nhiều tù nhân, nhiều bị cáo. Rất nhiều tên đần như cục đất và thừa nhận phạm tội vì những lý do còn ngu ngốc hơn bản thân chúng. Nhưng một số thông minh hơn nhiều so với những gì chúng thể hiện. Và có thể Leopold là một trong số đó.
“Anh cần luật sư bào chữa. Anh đã thú nhận sát hại ba người.” “Tôi có tội. Là tôi đã làm.”
“Anh vẫn cần người đại diện pháp luật.”
“Tại sao?”
“Đó là cách mà hệ thống pháp luật hoạt động. Do đó tôi cần biết các thông tin.”
“Họ sẽ xử tử tôi.” Giọng nói này là của một đứa trẻ đang thú nhận hình phạt chờ đợi nó. Gã tù nhân khó gần đã biến thành một đứa trẻ con. Decker tự hỏi không biết đó có phải là do thuốc phiện đang khiến hắn thành ra thế này không, khiến dòng suy nghĩ của hắn nhảy lung tung như bắn bi.
“Đó là điều mà anh muốn sao?”
“Tôi có quyết định được đâu.”
“Anh nói đúng. Phần lớn do thẩm phán và bồi thẩm đoàn quyết định. Nhưng anh vẫn có thể can thiệp được. Vậy nên, anh có muốn kể tôi nghe đã có chuyện gì xảy ra không?”
Decker kiểm tra đồng hồ. Bốn phút đã trôi qua. Và bất kì lúc nào cũng có thể có một ai đó biết anh đi ngang qua đây. Anh quay người để lưng hướng ra cửa buồng giam.
“Tôi đã giết họ,” Leopold nói ngắn gọn. Lúc này hắn đang nhìn Decker chết trân, và Decker đang cố tìm kiếm trong mắt gã bất kì một dấu hiệu nào cho thấy gã nhận ra anh. Nếu nhìn thấy dấu hiệu đó, anh sẽ làm gì đây? Siết cổ gã như cái cách mà có thể là hắn đã làm với con gái anh hay sao?
Leopold lại bắt đầu cử động hai bàn tay. Hắn trông như người chỉ huy đang chỉ đạo cho một dàn nhạc không tồn tại. Decker nhìn theo trong vài giây, rồi tập trung trở lại.
“Và tại sao anh lại làm thế?”
“Gã đó làm tôi bực.”
“Gã nào?”
“Gã đó đó. Cái gã sống ở đó.”
“Hắn làm anh bực thế nào?”
“Chỉ là làm tôi bực thôi.”
“Nhưng bằng cách nào?”
“Không tôn trọng tôi gì cả.”
“Anh làm việc ở đó hả? Hay là một khách mua hàng ở đó? Ở cửa hàng 7- Eleven trên đường DeSalle sao?”
Ừ ẳ
Leopold bỏ qua những câu hỏi này và nói, “Ừm, tôi xử được hắn rồi, chẳng phải sao?”
“Bằng cách nào?”
“Giết người nhà hắn.”
“Không, ý tôi là làm sao anh biết hắn sống ở đâu?”
“Đi theo hắn.”
“Bằng cách nào?”
Giờ thì trong ánh mắt của gã hiện lên sự cảnh giác mà trước đó Decker không nhìn thấy.
“Việc đéo gì phải kể với anh. Anh là cảnh sát đúng không? Đang định lừa tôi à?”
“Anh đã nhận tội rồi, anh Leopold ạ. Còn gì mà phải lừa nữa chứ. Anh hiểu chứ?”
Leopold chớp mắt và xoa xoa cổ. “Ờ, tôi nghĩ là tôi hiểu.”
“Và không, tôi không phải cảnh sát. Vậy là anh đi theo anh ta. Bằng cách nào?”
“Ý anh là sao, cách nào là cách nào?”
“Ô tô, đi bộ, hay xe đạp?”
“Làm chó gì có xe đạp.”
“Vậy là bằng ô tô à?”
“Nếu đã chả có xe đạp thì lấy quái đâu ra ô tô.”
“Vậy là đi bộ rồi?”
Leopold chầm chậm gật đầu và rồi quan sát Decker chằm chằm, có lẽ là để xem phản ứng của anh trước câu trả lời này.
Decker ghi chép gì đó xuống cuốn sổ. Anh lau giọt mồ hôi trên lông mày mặc dù buồng giam dưới tầng hầm khá lạnh. Nếu anh bị phát hiện đang ở trong này, chính anh có thể sẽ phải ngồi tù. Và thật sự anh không thích nói
chuyện với người khác, thế nên cuộc trò chuyện càng vắn tắt càng tốt. Nhưng anh phải làm việc này. Đây có thể là cơ hội duy nhất của anh.
“Vậy là anh tìm ra được ‘gã đó’ sống ở đâu và lên kế hoạch sát hại người nhà anh ta. Nhưng anh đã chờ đâu đó những một tháng liền. Tại sao lại thế?”
“Ai nói tôi đã chờ một tháng?”
“Đó là những gì anh khai với cảnh sát.”
Leopold co người ngồi xổm một góc, con chuột đang tìm chỗ trốn giữa những kẽ hở. Chỉ có điều ở trong này chẳng có nơi nào để trốn.
“Được rồi, đúng là thế. Tôi phải vạch ra kế hoạch chứ. Quan sát chỗ đó, kiểu như là phải xem bố trí các chỗ thế nào.”
Decker liếc nhìn hình xăm. “Anh đi lính hải quân khi nào thế?” Hai mắt Leopold bừng sáng trong giây lát. “Ai bảo tôi từng đi lính?”
Decker chỉ tay vào hình xăm. “Hai con cá heo. Thủy thủ thường xăm hình này. Anh xăm nó ở đây để không bị lộ vì đã có tay áo đồng phục che kín, theo quy định.”
Leopold đưa mắt nhìn xuống hình xăm như thể nó đã phản bội lại hắn. “Tôi không có đi lính hải quân.”
“Vậy là anh nắm được bố trí của căn nhà và rồi đêm ấy đã đi tới đó. Kể chi tiết tôi nghe đi.”
Decker liếc nhìn phía sau khi nghe thấy tiếng động. Nhưng đó chỉ là người canh tù đang đi dọc hành lang. Anh lau thêm một giọt mồ hôi nữa nhỏ trên má.
“Kể chi tiết anh nghe á?” Leopold lặp lại.
“Từ lúc anh đến đó cho tới lúc anh rời đi. Hãy bắt đầu kể xem anh đến đó bằng cách nào.”
“Đi bộ.”
“Địa chỉ nhà ở đâu?”
Leopold chần chừ. “Đó là một căn nhà hai tầng, ốp ván ngoài màu vàng, nhà để xe bên cạnh.”
“Anh vào trong nhà bằng cách nào?”
“Cửa lưới bên ngách đi vào bếp.”
“Còn nhớ chi tiết nào của căn phòng không?”
“Có cái bếp thôi mà, trời ơi. Bếp này, máy rửa bát này, bàn và ghế này.” “Còn nhớ tường sơn màu gì không?”
“Không.”
Decker lại liếc nhìn đồng hồ lần nữa. Anh cần phải đẩy nhanh tiến độ, và nỗi bồn chồn khi có mặt ở đây trong anh đang tăng dần theo từng giây.
“Anh đã giết ai đầu tiên?”
“Gã đó. Cứ nghĩ đó là thằng đã chọc mình. Nhưng té ra là không phải.” “Sao anh biết là không đúng người?”
“Ảnh trên báo. Sau này mới biết.”
“Kể tiếp đi.”
“Hắn đang ngồi ở bàn ăn. Đang uống bia.”
“Sao anh biết?”
Leopold ngước mắt nhìn, rõ ràng là đang rất khó chịu. “Sao cứ hỏi tôi tại sao mãi thế?”
“Bởi vì cảnh sát cũng sẽ hỏi thế. Tòa sẽ hỏi thế. Bồi thẩm đoàn sẽ muốn biết những chi tiết này.”
“Chết tiệt, tôi nhận tội rồi còn gì.”
“Họ vẫn có thể đưa anh ra xét xử.”
Trông Leopold có vẻ sửng sốt trước điều này. “Tại sao?” “Để làm màu cho bọn họ. Sao anh biết là anh ta đang uống bia?” “Có chai bia trên bàn.”
“Anh giết anh ta như thế nào? Anh ta to cao hơn anh rất nhiều.”
“Hắn say mà. Tôi lấy dao của mình và cắt cổ hắn, ngay đây này.” Hắn chỉ tay lên cổ mình.
“Anh ta được phát hiện ở phòng bên cạnh.”
“Phải, phải, đúng là thế. Nhưng, nghe này, hắn bò vào trong đó, sau khi tôi đã cắt cổ. Máu hắn phun ra. Sau đó hắn, thật tình, hắn không cử động nữa.”
“Anh ta có gây ra tiếng động gì không?”
Leopold nói, “Có, nhưng không to tát gì.” Hắn lại chỉ tay lên cổ. “Cắt ở đây này. Không gây ồn ào gì được nhiều.”
“Còn nhớ anh ta mặc gì không?”
Leopold ngây người nhìn anh. “Lâu lắm rồi. Quần à? Hay sơmi nhỉ?” “Sau đó rồi sao?”
“Biết hắn có người nhà. Đi giết nốt.”
“Kể chi tiết đi nào,” Decker bình tĩnh nói, mặc dù trong lòng anh cảm xúc hoàn toàn trái ngược. Tim anh đang đập rất nhanh đến mức anh có thể cảm nhận được nhịp đập trong từng bộ phận của cơ thể anh, như thể có hàng ngàn trái tim nhỏ đang đập điên cuồng khắp thân thể anh.
Sắp xong rồi, bình tĩnh nào Amos, hãy cố giữ bình tĩnh nào. “Tôi đi lên tầng. Phòng đầu tiên ở, ở -”
“Bên trái à?” Decker gợi ý.
Leopold chỉ tay vào anh. “Đúng rồi. Bên trái.”
“Rồi?”
“Rồi tôi đi vào. Cô ta đang trong nhà tắm – không, cô ta trên giường. Đúng rồi, trên giường. Khá xinh xẻo. Cô ta mặc váy ngủ. Nhìn xuyên thấu luôn. Mẹ kiếp, con khốn đấy trong ngon lắm.”
Decker nắm chặt mép của chiếc ghế đang ngồi và giữ ánh mắt nhìn thẳng vào Leopold. Vợ của anh không bị cưỡng hiếp. Điều này đã được xác thực. Nhưng vợ anh còn bị một chuyện khác nữa.
“Vậy là đèn vẫn mở à?” Decker hỏi.
“Gì cơ?”
“Anh nói anh nhìn xuyên được qua váy ngủ của cô ta. Tôi cho thế tức là đèn vẫn sáng.”
Leopold trông mặt có vẻ không chắc chắn. “Không, tôi không nghĩ là đèn còn mở.”
“Rồi sau đó sao nữa?”
“Tôi lại gần sát cô ta.”
“Trong lúc cô ta vẫn đang nằm trên giường sao?”
Leopold cáu kỉnh nhìn anh. “Mẹ kiếp, có để tôi kể hét được không?” “Xin lỗi, anh kể tiếp đi.”
“Tôi lấy súng. Tôi tì súng vào trán và bắn cô ta.”
“Súng loại nào?”
Leopold trả lời ngay tức khắc. “Mười một li. Súng của hãng Smith and Wesson.”
“Anh lấy súng ở đâu?”
“Ăn trộm của một gã.”
“Gã đó có tên không?”
Leopold chỉ nhún vai.
“Kể tiếp đi.”
Xa xa Decker nghe thấy tiếng cửa đang mở và tiếng bước chân đi qua đi lại. Có vẻ như một số cảnh sát đã từ chỗ trường cấp ba quay về.
“Thế là tôi bắn cô ta. Không, chờ đã. Cô ta có tỉnh giấc, nhận ra tôi ở đó. Cô ta ngồi dậy, cô ta bắt đầu la hét. Đúng rồi. Và tôi bắn cô ta. Rồi con khốn đó ngã xuống giường.”
“Ngã bẹp xuống sàn à? Cả người sao?”
Leopold nhìn anh vẻ cảnh giác. “Có thể còn một phần vướng trên giường. Chân hoặc tay hoặc gì đó.”
“Rồi sau đó sao nữa?”
Đây là điểm quan trọng. Một điểm không được lưu trong giấy tờ. Vết thương trên đầu không phải là vết thương duy nhất trên người Cassie. Điều đó đã được phát hiện khi giải phẫu tử thi.
Cô ấy không bị cưỡng hiếp. Nhưng phần ngoài bộ phận sinh dục của cô bị cắt xẻo.
“Biết hắn còn một đứa con gái. Tôi đi theo hành lang tới phòng con bé. Con bé đang ngủ.”
“Vậy là đã xong việc với người phụ nữ à. Không còn làm gì khác với cô ta nữa sao?”
Leopold trợn mắt lên nhìn anh chăm chăm. “Tôi đã kể những gì tôi đã làm. Tôi đã bắn cô ta. Chết tươi!”
“Được rồi.”
“Sau đó tôi đi dọc hành lang tới chỗ đứa con.”
“Chờ chút, tiếng nổ súng không đánh thức đứa con gái à?”
Leopold một lần nữa trông có vẻ lúng túng. “Tôi, không, không nghĩ vậy. Con bé đó đang ngủ.”
“Sau đó rồi sao?”
“Tôi kéo con bé ra khỏi giường.”
“Tại sao?”
“Cứ thế mà làm thôi. Lúc đó đầu óc đâu có nghĩ tỉnh táo đâu. Đưa nó vào trong nhà tắm.”
“Hỏi lại, tại sao? Không suy nghĩ tỉnh táo á?”
“Đúng thế. Có lẽ tôi phải đi đái và không muốn con bé đó chạy mất.” “Anh có đái không?”
“Không nhớ.”
“Và con bé không hét lên khi nó thấy anh sao?”
“Không. Nó sợ quá, tôi đoán thế. Và... và tôi bảo con bé phải im lặng.” “Rồi sao?”
“Rồi tôi siết cổ nó. Để tay quanh cổ nó và siết chặt như là -”
Decker giơ tay lên bảo hắn dừng lại. Anh nhìn sang hướng khác trong giây lát. Một màu xanh sáng chói làm anh lóa mắt. Màu sắc chói quá làm anh nghĩ có khi anh sẽ nôn mất. Cứ như thể như anh đang bị đè chết ngạt giữa màu xanh của ngọc bích.
“Này anh, anh ổn chứ?” Leopold hỏi với một sự quan tâm thực lòng hiện rõ trên gương mặt.
Trán Decker ướt đẫm mồ hôi. Anh chậm rãi lau khô. “Được rồi, anh đã giết con bé, sao đó sao nữa?”
Một lần nữa Leopold trông có vẻ không chắc chắn.
Decker nói, “Anh có làm gì với xác của nó không? Làm gì đó với quần áo của nó chẳng hạn.”
Leopold búng tay. “À đúng rồi,” hắn nói, mặt hắn bừng sáng như thể hắn vừa mới tìm được đáp án đúng trong lớp đại số. “Tôi dựng con bé ngồi lên bồn cầu và buộc nó lại, bằng một cái khỉ gì í.”
“Dây buộc áo choàng ngủ hả?” Decker gợi ý.
“Ờ phải, dây buộc áo choàng ngủ, quanh nó và cái bồn cầu.”
“Tại sao?”
Leopold chỉ nhìn anh chằm chằm. “Tại vì... tại vì lúc đó tôi nghĩ phải làm thế.”
“Anh rời đi như thế nào?”
“Tôi đi ra bằng đường tôi đi vào.”
“Anh có xe ô tô không?”
“Không, tôi đã kể là tôi đi bộ mà!”
“Có ai thấy anh không?”
“Không biết nữa.”
“Anh đã làm gì với khẩu súng?”
“Vứt đi.”
“Ở đâu?”
“Không nhớ.”
“Con dao?”
Leopold nhún vai. “Cũng thế.”
“Anh có kể cho ai những gì mình đã làm không?” Decker hỏi. “Không, cho đến giờ.”
“Tại sao lại chờ đến giờ.”
Leopold lại nhún vai. “Họ sẽ thiêu tôi à?”
“Tiêm thuốc độc. Thiêu là sau.”
“Hả?”
“Dưới địa ngục.”
“À, ờ.” Leopold cười khúc khích giống như hắn nghĩ là Decker đang nói đùa. “Đùa vui đấy.”
“Vậy tại sao bây giờ lại ra thú tội?” Decker hỏi.
Leopold nói, “Còn thời điểm nào tốt hơn nữa đâu. Có còn gì nữa đâu.”
Decker nhìn thấy một cái bướu ở một bên cổ của Leopold. “Cái bướu đó là gì thế? Anh bị bệnh sao?”
Leopold vươn tay và rón rén chạm vào nó. “Chẳng có gì đâu?” “Anh kiểm tra thử chưa?”
Leopold khịt mũi. “Ờ. Đi máy bay riêng đến khám bệnh ở Mayo Clinic1. Thanh toán bằng tiền mặt.”
1 Mayo Clinic là trung tâm y tế học thuật, tổ chức phi lợi nhuận được thành lập từ năm 1889. Nơi đây được xếp hạng là bệnh viện số 1 ở Mỹ về nhiều chuyên khoa hơn bất kì bệnh viện nào khác của Mỹ. Chi phí điều trị ở đây rất đắt đỏ.
Biết nói mỉa nữa cơ à. Thú vị đấy.
“Nếu từng đi lính hải quân, có thể anh được bảo hiểm y tế chứ.” Leopold lắc đầu. “Bị tướt quân tịch.”
“Vậy là anh đã từng đi hải quân?”
“Đúng,” Leopold thừa nhận.
Âm thanh từ phía trên ngày một lớn hơn. Decker kiểm tra đồng hồ. Còn hai phút nữa và Brimmer có vẻ là kiểu người sẽ xuất hiện đúng giờ để hộ tống anh ra ngoài.
“Có gặp phải hậu chấn tâm lý gì không?”
“Có cái gì?”
“Vấn đề ở đâu? Trầm cảm? Do đi chiến đấu?”
“Tôi đã bao giờ ra trận đâu.”
“Vậy là anh chỉ là một thằng chó chết bệnh hoạn xóa sổ cả một gia đình chỉ bởi vì có ai đó làm anh bất mãn thôi sao?” Decker cố giữ giọng bình tĩnh.
Leopold cố gắng nở một nụ cười. “Tôi đoán thế. Tôi là cái thứ xấu xa mà, anh bạn. Luôn luôn là thế. Nếu mẹ tôi còn sống, bà sẽ kể cho anh nghe. Tôi chỉ là một thứ vứt đi. Cả đời này, tôi chỉ phá nát tất cả mọi thứ mà tôi từng động tay vào. Không có nói xạo đâu.”
“Và nếu chúng tôi kiểm tra hồ sơ quân nhân, sẽ tìm được kết quả anh từng ở hải quân với cái tên Sebastian Leopold?”
Leopold gật đầu, nhưng tỏ vẻ lơ đễnh, như thể hắn không thực sự đồng tình với điều nói trên.
Decker ghé sát lại gần. “Để tôi hỏi cho rõ nhé. Sebastian Leopold có phải là tên thật của anh không?”
“Một trong những tên tôi từng dùng.”
“Khai sinh hay mới gần đây?”
“Không phải khai sinh, không.”
“Vậy tại sao lại dùng cái tên đó, nếu đó không phải là tên của anh?”
“Tên họ thì có là gì đâu hả anh bạn? Chỉ là những chữ cái gắn vào với nhau thôi mà.”
Decker rút điện thoại ra và hướng nó vào Leopold, nói, “Cười lên nào.” Anh chụp một bức ảnh của Leopold và sau đó cất điện thoại đi.
Sau đó anh lấy ra một cái bút và một tờ giấy. “Anh viết tên mình ra cho tôi nhé?”
“Tại sao?”
“Để lưu hồ sơ thôi.”
Leopold đón lấy cây bút và chậm rãi viết tên của mình.
Decker cầm lại tờ giấy và cây bút, đứng dậy và nói, “Tôi sẽ giữ liên lạc.”
Anh đi ra cửa và gọi người canh tù. Khi người đàn ông tới và mở cửa, Decker nói, “Theo tôi nhớ, đằng dưới kia có nhà vệ sinh phải không?” Anh chỉ hướng ngược lại với hướng lúc đi vào.
Người canh tù gật đầu. “Phải, phòng vệ sinh nam ở cửa ngoài cùng.”
Decker nhét tập giấy và cây bút trở vào trong cặp táp và nhanh chóng đi dọc hành lang hướng về phía nhà vệ sinh. Kế hoạch của anh bị thay đổi do những tiếng bước chân mà anh nghe thấy đang vang lên từ chỗ cầu thang.
Nhiều hơn một người, nghĩa là Brimmer đã có tiếp viện. Nghĩa là họ biết đã có chuyện bất thường.
Decker đi qua cửa nhà vệ sinh và rẽ trái rồi rẽ phải và đi tới hành lang khác. Anh quen với bố trí ở nơi này hơn bất kì ai khác.
Ở phía cuối cùng của hành lang là một cánh cửa. Anh mở cửa và bước ra, đó là cửa bốc dỡ hàng hóa. Ở đó không có ai. Và chỉ có duy nhất một chiêc xe tải đang quay lưng vào với cửa dỡ hàng, cửa sau thùng xe để mở, bên trong thùng xe để trống.
Decker bước vội xuống bậc cầu thang cho đến khi đôi giày mới cóng và chật ních của anh chạm vào mặt đường. Anh rẽ trái chạy vào trong một con ngõ và phóng ra phố chính mười giây sau đó. Anh rẽ phải một lần nữa và sau đó là rẽ trái ở ngã tư tiếp theo. Ở đó có một cái khách sạn và một bến xe taxi.
Anh nói với người lái taxi đỗ đầu tiên, “Đi về hướng Bắc, hết năm đô thì thôi.”
Một lát sau, chiếc xe thả anh xuống đường. Anh đi bộ đến một bến xe bus, và sau hai chuyến xe anh đã quay lại Residence Inn. Khi bước xuống xe bus, anh đã trông thấy có hai chiếc xe cảnh sát đỗ bên ngoài phía trước nhà trọ, và một chiếc xe công vụ của phòng mà anh biết chủ nhân của nó không chỉ là một cảnh sát tuần tra.
Chết tiệt chưa!
CHƯƠNG 10
Decker thầm nghĩ, điều may mắn duy nhất hiện tại là anh không có cơ hội lấy lại khẩu súng trong thùng rác cùng với mấy bộ quần áo khác của mình. Gặp phải cái tình huống trước mắt mà trong người còn trang bị vũ khí là
không hay tí nào. Anh nghĩ, mình cũng có thể chạy thoát thân, nhưng có thể họ cũng đã dự trù đến tình huống đó. Mà anh cũng không thích bỏ chạy. Lý do đơn giản là cơ thể anh không còn phù hợp với hoạt động này nữa.
Anh nới lỏng cà vạt, bung cúc áo trên cùng, buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm khi cái cổ béo núc được giải phóng khỏi cái thòng lọng người ta cho là đẹp đẽ này, và bước thẳng vào trong sảnh của khu Residence Inn. Ngay lập tức, bốn sĩ quan cảnh sát vây xung quanh anh.
Decker bình tĩnh dò xét họ. “Xét đến chuyện đang xảy ra ở trường Mansfield, tôi không ngờ bên các anh còn nguồn nhân lực cho chuyện này.”
“Thôi diễn kịch đi, Decker,” một giọng nói thân quen cất lên. Decker liếc nhìn sang bên. “A, chào Mac.”
“Gọi là đội trưởng Miller.”
“Tôi có thuộc lực lượng nữa đâu.”
“Thể hiện chút lòng tôn trọng hay là vào ngồi trong bốn bức tường trước khi tôi hết kiên nhẫn với cậu đây.”
MacKenzie Miller cũng phải quá năm lăm gần sáu mươi, cơ thể phì nộn như con ễnh ương, đến màu da cũng giống con vật ấy. Anh ấy vừa cao lại vừa béo, Decker đứng cạnh trông thật bé nhỏ. Anh ấy mặc âu phục, áo khoác mở bung ra theo từng bước chân của Miller sải bước trên sảnh tòa nhà, Decker có thể trông thấy cái dây đeo quần có bán nhan nhản khắp nơi đang giữ chiếc quần của anh ấy lại, mặc dù cái vòng bụng chắc nịch kia, giống như của Decker, cũng tự mình hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ quần rồi.
“Sao lại phải thế?”
Miller ném cho anh một ánh nhìn chiếu cố rồi bỗng hét lên, “Cô Brimmer!”
Cô Sally Brimmer trông có vẻ bẽn lẽn vội vội vàng vàng lao tới từ chỗ đang đứng bên cạnh một cây sanh già, cành lá bị phủ bụi dày cộp.
“Là người này phải không, cô Brimmer?”
“Đúng chính xác là người này, thưa sếp,” cô vội đáp lời, nheo mắt lại và nhìn Decker đầy nham hiểm.
“Cảm ơn cô,” Miller nói, giọng khe khẽ toát lên niềm hân hoan. Anh ấy quay lại nói với Decker. “Anh đã xuất hiện ở đồn cảnh sát trong khi chúng tôi đang bị thiếu lực lượng do tai nạn kinh hoàng xảy ra ở Mansfiled, và lợi dụng tình huống để là trục lợi cho bản thân, anh đã giả dạng danh tính luật sư để được chấp nhận tiếp cận phòng giam của Sebastian Leopold.”
“Chà, đó là một phiên bản của sự việc,” Decker nói.
Brimmer kêu lên, “Đó là phiên bản duy nhất.”
“Không, thực sự không phải,” Decker vẫn bình tĩnh đáp.
Miller xòe rộng hai bàn tay vừa béo vừa ngắn của mình ra. “Thế thì xin anh Decker tường thuật lại sự việc cho tôi nghe. Phải hợp lý đó.”
“Tôi đến khu vực cảnh sát và xin hỏi gặp Sebastian Leopold. Tôi nói hắn ta cần có luật sư. Tôi không bao giờ nói Tôi là một luật sư.”
“Anh còn đưa danh thiếp cho tôi,” Brimmer nói.
Trí não của Decker đã tính trước sáu bước. Giống như anh đang chơi cờ vua còn họ đang chơi cờ đam. “Tôi đưa cho cô một tấm danh thiếp. Đó là của Harvey Walkins. Anh ấy là thành viên của hiệp hội luật sư. Tôi từng làm thám tử riêng cho anh ấy. Anh ấy xử lý các vụ án liên quan đến tội phạm. Anh ấy cừ lắm. Trước đây tôi còn kiếm thêm việc cho anh ta nữa ấy chứ. Không có luật nào cấm.”
“Nhưng anh giới thiệu mình là cái người tên Walkins này mà,” Brimmer kêu lên.
“Cứ cho là cô tự hiểu là thế. Nhưng tôi chưa bao giờ cung cấp thẻ ID nào nói rằng tôi là Harvey cả. Và cô cũng không bao giờ hỏi xem thẻ ID của tôi. Tôi chỉ đưa danh thiếp của anh ấy cho cô khi cô hỏi liệu tôi có phải là luật sư hay không.”
“Nhưng anh còn nói anh quen biết Pete Rourke,” giọng Brimmer ngày càng cáu tiết hơn.
“Tôi thực sự có quen biết Pete. Đã từng làm việc nhiều năm cùng với nhau. Xin nhắc lại lần nữa là không có phạm tội gì khi toàn nói sự thật.”
“Nhưng anh... anh...” Brimmer ấp a ấp úng rồi quay ra nhìn Miller cầu cứu. Nhưng vị đội trưởng vẫn cứ dán mắt nhìn Decker. Hiển nhiên anh ấy muốn xem vở kịch này sẽ hạ màn như thế nào.
Decker tiếp tục nói, “Chắc là do tôi mặc âu phục, thắt cà vạt và mang một cái cặp tài liệu đi cùng, cô đã cho rằng tôi là luật sư. Tôi xin phép cô được phỏng vấn Leopold. Cô nói tôi có mười lăm phút. Tôi hỏi đúng mười lăm
phút được cho đó, sau đó tôi để Leopold ngồi trong phòng giam.” Anh nhìn đám cảnh sát quanh mình một lượt. “Thế nên tôi đang không hiểu tại sao có hẳn một đội cảnh sát đang ở đây.”
Cô Brimmer kinh ngạc. Đội cảnh sát trông cũng lưỡng lự. Miller vỗ tay đầy ngợi khen rồi chỉ tay vào đám người mặc cảnh phục. “Các cậu có thể đi được rồi.” Anh chỉ ngón tay cái về phía Brimmer. “Và đưa có quý cô này quay lại, nhé?”
“Đội trưởng Miller,” Brimmer lên tiếng nhưng anh giơ tay xua cô đi đi. “Để sau, Brimmer. Cứ đi về với mọi người đi đã.”
Tất cả lũ lượt kéo nhau ra ngoài, chỉ còn lại Miller và Decker đang chăm chú nhìn nhau.
Miller lên tiếng trước, “Chúng ta có thể nói chuyện một chút không nhỉ?”
“Anh cần tập trung vào vụ ở Mansfield ấy, Mac. Nếu anh muốn quay lại đây và bắt giữ tôi, tôi sẽ ở nguyên đây.”
Miller gật đầu, một nụ cười cảm kích hiện lên khuôn mặt trước khi lại biến mất. “Ngồi xuống nói chuyện chút đã. Liệu tôi có thể uống được một ly cà phê ngon lành nào ở nơi này không nhỉ?”
Decker dẫn anh vào ngồi bàn quen của mình trong nhà hàng nằm trong sảnh tòa nhà. Sau đó anh rót hai ly cà phê từ một quầy phục vụ đồ uống được kê dựa sát tường, bê chúng quay trở lại bàn, ngồi xuống đối diện với anh sếp cũ.
“Mansfield thế nào rồi?” Decker hỏi.
“Thảm họa kinh hoàng. Chúng tôi vẫn đang phát hiện ra... nhiều thứ. Các thi thể. Số người tử vong được ghi nhận sẽ còn tiếp tục tăng lên. Chắc chắn sẽ tăng.”
“Thế còn cháu trai của Pete thì sao?”
Miller lắc đầu. “Tôi không biết nữa, Amos. Tôi vẫn chưa lập được danh sách tên nạn nhân. Rất nhiều con cháu của đội cảnh sát theo học ở đó. Ngôi trường trung học lớn nhất ở đây.”
“Thế còn kẻ xả súng?”
Miller nghiến răng ken két. “Hắn ta trốn thoát rồi.”
“Làm sao lại thế được?”
“Vẫn chưa biết. Mọi thứ vẫn còn đang... được điều tra.”
“Thường thì mấy gã thế này phải tự sát bằng súng ngay trên hiện trường chứ nhỉ.”
“Nhưng lần này thì không. Thời nay cứ như thể tuần nào cũng có một vụ xả súng ở trườmg học trên khắp đất nước. Đến khi nào chuyện này mới kết thúc, Amos? Cậu là người thông minh. Cậu nói xem?”
“Tôi không thông minh đến thế.”
Miller gật gật gù gù, các đầu ngón tay cứ đập thình thịch lên mặt bàn giả gỗ. Đột nhiên anh ta uống một hơi hết ly cà phê. Tay vừa xoa môi vừa nói, “Sao cậu lại làm thế, Amos? Dùng đễn ba tấc lưỡi để vào gặp cái thằng khốn nạn đó?”
“Muốn tận mắt nhìn hắn.”
“Còn nhiều cách khác ngoài cách cậu đã làm cơ mà.”
“Đừng bắt tội cô Brimmer.”
“Chậc, dù sao cậu cũng dạy cho cô ta một bài học vô cùng đắt giá: Không được tin tưởng bất cứ ai.” Anh nhìn bộ âu phục và cà vạt của Decker. “Tôi nghe phong phanh rằng cậu đã trượt dốc dữ lắm. Tôi nghe vậy có sai không?”
“Tôi thật ra trượt dốc hơn vẻ ngoài hiện tại rất nhiều.”
“Cậu và Mary là một đội xuất sắc. Tiếc thật đấy.”
“Mọi chuyện đều đáng tiếc cả, không phải sao?”
Miller bóp nát ly cà phê giấy đã hết. “Cậu đã nói chuyện gì với Leopold?” “Tôi có ghi chép lại đó, nếu anh muốn xem.”
Miller nới lỏng cà vạt hơn. “Tôi muốn nghe từ miệng cậu hơn.” “Hắn ta là kẻ quái đản.”
“Nếu hắn đã lạnh lùng giết chết ba mạng người thì tôi sẽ nói hắn ta cực kì quái đản. Tôi hi vọng là dù cho thế giới này đã trở nên điên loạn cỡ nào đi chăng nữa thì những kẻ như hắn vẫn luôn được xem là thứ “quái đản”.”
“Hắn ta có nói một chút về hành vi phạm tội, nhưng có thể hắn ta đã mót lượm thông tin đó từ trên báo. Hoặc –”
“Hoặc gì?” Miller nhanh nhảu hỏi, đôi mắt màu xanh dương nhạt vẫn đang kiên định nhìn Decker.
“Hoặc được một kẻ biết chi tiết hơn về hành vi phạm tội kể lại.” “Kẻ ấy là người hoặc nhóm người đã thực sự ra tay á?”
“Anh có thấy Leopold là thủ phạm không?”
“Tôi không thấy hay coi hắn ta là gì hết. Tất cả những gì tôi biết là hắn ta đã bước vào nhiệm sở buổi sớm hôm đó và thú tội. Còn gì nữa?”
Decker nói tiếp, “Hắn đã từng là lính hải quân. Tôi có nhận thấy vết xăm và hắn cuối cùng cũng thừa nhận. Sebastian chắc chắn không phải là tên thật. Kiểm tra thông tin ở Bộ Quốc Phòng là sẽ biết hắn ta là ai. Gã đó có một khối u lồi ở cổ. Nhìn không có vẻ đang làm hắn đau đớn. Nhưng có thể là ung thư. Hắn trông có vẻ rất bối rối trước một vài chi tiết quan trọng ở hiện trường.”
“Ví dụ như?”
“Ví dụ như hắn ta có vẻ không thể nhớ nổi phòng ngủ đầu tiên là nằm ở phía bên nào của hành lang. Tôi thử gợi ý bên trái. Hắn liền thừa nhận. Nhưng thực ra là nằm bên phải. Điểm này chắc chắn không phải vấn đề to tát gì. Nhưng sau đó hắn nói hắn bắn Cassie khi cô ấy đang ngủ, sau đó lại thay đổi câu chuyện là bắn cô ấy sau khi tỉnh dậy. Vết phỏng cho thấy súng bắn khi dí sát trán. Tôi không hiểu hắn ta sao có thể kề súng sát người cô ấy nếu cô ấy tỉnh dậy rồi la hét, có khi còn đánh trả hắn nữa. Cô ấy được tìm thấy nằm trên sàn nhà. Tôi nghĩ hắn ta nhớ điều đó và thay đổi câu chuyện cho phù hợp với chi tiết ấy. Còn lại hắn không hề nhắc đến việc cô ấy còn bị gì khác nữa.”
Miller gật đầu. Anh hoàn toàn hiểu điều Decker đang muốn ám chỉ là gì. “Nói tiếp đi.”
“Gã này có vẻ hơi có ý thoái thác khi trả lời, nhưng không chỉ có thế. Hắn kiểu quên quên nhớ nhớ. Tôi không nghĩ trí nhớ của hắn tốt đến thế. Ngoài
ẳ
ra, hắn còn nghiện nữa. Nhiều vết kim tiêm trên cánh tay hẳn còn mới.” “Tiếp đi.”
Decker đã quyết định không kể cho anh ấy nghe tất cả mọi thứ mà anh đã phát hiện hoặc suy nghĩ của mình. Linh tính mách bảo anh rằng phải giữ kín nhiều điều, để xem xem mọi chuyện diễn biến ra sao. “Hắn bảo rằng tôi đã nói năng thiếu tôn trọng hắn ở cửa hàng tiện lợi 7-Eleven ở khu đấy. Hắn không nói là có làm việc ở đó hay không. Chắc chắn hắn cũng sẽ nói với các anh điều tương tự. 7-Eleven. Cửa hàng đó à? Tôi chỉ lái xe ngang qua đó. Không bao giờ bước vào. Hắn cũng không có xe ô tô. Nhưng lại nói rằng hắn đi theo tôi về tận nhà. Vậy câu hỏi là hắn đi bằng cách nào? Tôi cũng chưa từng gặp hắn trước đó. Tôi sẽ nhớ nếu có ai đó có gây sự với tôi.”
Miller suy ngẫm toàn bộ lời kể, một tay mân mê dọc chiếc cà vạt và nghịch vẩn vơ cái kẹp cà vạt. Cậu không bao giờ quên điều gì cả, có phải không?”
Decker chưa từng kể với ai về chuyện đã xảy ra với anh. Khi được chẩn đoán tình hình sức khỏe xong, anh được chuyển đến một cơ sở nghiên cứu phía ngoài Chicago để làm thêm các xét nghiệm bổ sung. Anh trải qua nhiều tháng liền gặp gỡ những người có khả năng tương tự mình, có cả đàn ông lẫn phụ nữ. Họ đã tham gia biết bao nhiêu buổi nghiên cứu nhóm với nhau. Vài người đã điều chỉnh tốt hơn những người khác. Vài người thực sự gặp khó khăn để điều chỉnh trạng thái hiện tại của mình. Số khác không bao giờ có thể thích ứng nổi. Với những gì anh biết, Decker là người duy nhất không phải có khả năng này một cách bẩm sinh. Những người khác trong nhóm có vẻ đã phải sống chung với nó lâu hơn anh nhiều, điều đó vừa lợi lại vừa hại, anh nghĩ vậy.
“Ai cũng có lúc quên cái này cái kia,” anh nói.
“Tôi đã cho người kiểm tra thông tin của cậu. Tôi đã nói với cậu việc đó chưa nhỉ?”
Decker lắc đầu.
"""