" Kokoro - Những Ám Thị Và Âm Vang Trong Đời Sống Nội Tại Nhật Bản PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kokoro - Những Ám Thị Và Âm Vang Trong Đời Sống Nội Tại Nhật Bản PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo KOKORO - NHỮNG ÁM THỊ VÀ ÂM VANG TRONG ĐỜI SỐNG NỘI TẠI NHẬT BẢN Tác giả : Lafcadio Hearn. Dịch thuật : Như Lôi. NXB: Thế Giới Thể loại: Văn hóa nghệ thuật, Văn hóa - Xã hội Ebook : Cuibap Một khảo cứu về Kokoro - Những ám thị và âm vang trong đời sống nội tại Nhật Bản Lafcadio Hearn thấu hiểu Nhật Bản đương đại tốt hơn, và khiến chúng ta thấu hiểu Nhật Bản tốt hơn bất kì người viết nào khác, bởi lẽ ông yêu nước Nhật sâu sắc hơn. K — Basil Hall Chamberlain — ẻ du tử Lafcadio Hearn (1850 – 1904) có lẽ là người con nuôi được ưu ái của Nhật Bản thời Minh Trị. Trong mười bốn năm cư ngụ ở Nhật từ năm 1890 đến khi ông mất, ông trước tác khoảng mười hai cuốn sách, bao gồm các hồi kí, những bản kể mới về các câu chuyện dân gian, những nghiên cứu về Nhật Bản, và những phác thảo về đời sống người Nhật. Ông cũng đã giảng dạy văn học Anh tại Đại học Hoàng gia Tokyo, kết hôn rồi sinh con với một phụ nữ Nhật, và nhập tịch thành công dân Nhật, lấy tên là Koizumi Yakumo. Suốt đời mình, ông nổi tiếng ở phương Tây nhiều hơn là ở Nhật. Độc giả tìm thấy trong những quan sát của ông một xúc cảm thấm thía và đẹp đẽ về một “Nhật Bản đang tan biến”. Sau khi mất, tiếng tăm ông sa sút dần. Điều này có lẽ có hệ quả từ việc chủ nghĩa đế quốc càng ngày càng hung hãn ở Nhật, một sự vu khống quả quyết nào đấy trong một cuốn tiểu sử trước đó, đã lên án cả nhân vật và tác phẩm văn học của ông, và cũng bởi sự thay đổi các cảm thức văn học.1 Ở Nhật, trái lại, tiếng tăm của ông theo thời gian qua đi chỉ càng thêm tăng. Ngày nay, ông được ngưỡng mộ vì những diễn tả đồng cảm của mình về đời sống Nhật Bản “truyền thống”, cùng các diễn tả về những mẩu chuyện ma và truyện dân gian, đa phần chúng đã được dùng như là những văn bản nguồn cho các mô phỏng. Chẳng hạn, bộ phim đẹp ớn lạnh Quái đàm (Kwaidan) của đạo diễn Kobayashi Masaki năm 1964 được dựa trên những diễn tả của Hearn trong những câu chuyện ma Nhật Bản. Nhưng điều này không phải để nói rằng khối công trình của Hearn trên đất Nhật là vô giá trị với các độc giả phương Tây đương đại, những người có thể thấy các quan sát của ông là sắc bén và có tính tiên tri. Kokoro: Những ám thị và âm vang trong đời sống nội tại Nhật Bản, một tuyển tập mười lăm tiểu luận xuất bản lần đầu năm 1896 cung cấp cho độc giả một thị kiến chiết trung về “những đặc tính của người Nhật và những nguồn căn mà từ đó họ nhảy vọt”.2 Bởi lẽ các tiểu luận này được đặt chính xác ở trung tâm điểm của Thời kì Minh Trị, độc giả đương đại có thể học biết nhiều thứ về sự thay đổi những khái niệm quốc gia, hiện đại hóa và truyền thống, qua đôi mắt của một người đã có mặt để làm chứng cho các chuyển giao đó. (1) Tác giả George Milbury Gould, trong cuốn Concerning Lafcadio Hearn (Về Lafcadio Hearn), Philadelphia: NXB George W. Jacobs and Company, 1908. (2) Điểm sách Kokoro của New York Times, ngày 4 tháng Tư năm 1896. Patricio Lafcadio Tessima Carlos Hearn sinh ra tại Đảo Leucadia năm 1850, là con thứ hai của Charles Bush Hearn, một bác sĩ phẫu thuật mang hai dòng máu Ireland-Anh đồn trú tại đó với Quân đội Anh, và Rosa Antonio Cassimati. Cuộc hôn nhân bí mật của họ, tiến hành năm tháng sau khi đứa con đầu tiên của họ chào đời (rồi sau đó Rosa nhận ra bà đã mang thai lần thứ hai), là một thất bại gần như ngay từ đầu. Ba tháng sau khi cưới, Hearn rời vợ vì bị điều chuyển đến vùng Tây Ấn Anh, chưa hề đăng kí cuộc hôn nhân của mình với Văn phòng Chiến tranh Anh quốc. Hơn nữa, nhận thức được ác cảm của mẹ ông đối với khối liên hiệp, ông đã chọn không dời Rosa về Dublin. Người mẹ trẻ mất đứa con đầu lòng ngay trước khi Lafcadio được hai tháng tuổi, và bà dồn hết tình thương vào đứa trẻ còn lại. Những kí ức sớm nhất của Lafcadio là việc lang thang qua những con phố của Leucadia với mẹ mình. Năm 1852, Charles Hearn, vẫn đóng quân ở Tây Ấn, cuối cùng đã dời vợ con về Dublin. Việc này cũng lại là một thất bại: gia đình Ireland-Anh danh giá của Hearn sững sờ phát hiện ra rằng Rosa bị thất học, và sự va chạm văn hóa giữa đạo Tin lành thuần thành của họ với đức tin của Rosa về các hồn ma cùng những vị thánh hẳn sẽ nực cười nếu không phải là những hậu quả bi thảm. Rosa và con của bà đã nương náu ở dinh thự của Sarah Brenane, dì góa của thiếu tá Hearn, người đã cải đạo theo Công giáo La Mã khi kết hôn. Rosa có một cuộc hội ngộ ngắn ngủi với chồng mình khi anh quay về Dublin nghỉ ốm, dẫu nó chỉ để khẳng định rằng cuộc hôn nhân thực tế gần như đã kết thúc. Khi hồi phục, Thiếu tá Hearn rời Rosa lần cuối, dù bà hãy còn chưa biết điều này. Rosa – lại có thai – quay về Hi Lạp, để Lafcadio Hearn (lúc ấy được gọi là Patrick hay Paddy) lại với Sarah Brenane. Ở đó, bà biết rằng chồng mình đã hủy hôn. Lafcadio chẳng bao giờ gặp mẹ lần nào nữa. Lafcadio vẫn ở với bà-dì Sarah, cùng người em sơ sinh đã được đưa về Ireland nuôi dưỡng bởi người cha nhân chuyến về Dublin của ông. Suốt đời mình, Hearn luôn cảm thấy bị người cha – kẻ đã bỏ rơi mẹ ông – phản bội, dù ông tiếp tục tôn vinh kí ức về mẹ mình. Bà-dì Sarah Brenane sáu mươi bốn tuổi, không con và giàu có khi bà trở thành người giám hộ của Lafcadio. Theo như được kể, bà đã chăm lo cho Lafcadio hết khả năng của mình: về học vấn, đầu tiên là gia sư tại nhà rồi tiếp đến là một loạt những trường nội trú; mùa hè thì dành thời gian ở biển. Vả chăng, cả hai mến nhau, một cách lúng túng. Lớn lên, Hearn, người luôn cảm thấy mình như một kẻ ngoài cuộc, nỗ lực chống lại phong thái Victoria khắc nghiệt của bà cùng những cung cách Công giáo La Mã nghiêm ngặt của kẻ cải đạo. Ông ẩn náu trong những câu chuyện dân gian và những truyện ma được kể bởi các vú nuôi, các ngư dân, và những người khác, cũng như trong những cuốn sách minh họa về thần thoại cổ điển mà ông phát hiện trong thư viện hiếm khi được dùng tới của bà-dì. Những nguồn đa tạp này đã di dưỡng ông về mặt thẩm mĩ và xúc cảm. Mặc dù Sarah Brenane đã định giao tài sản cho người thừa tự chính của mình, nhưng bà đã rơi vào vòng ảnh hưởng của Henry Hearn Molyneax, một doanh nhân tuyên bố mình là họ hàng xa của người chồng quá cố của Sarah. Đầu tiên bà thu xếp một khoản trợ cấp thường niên cho hôn thê của Henry, rồi kế đó chuyển giao phần lớn tài sản của mình cho anh ta và vợ sau khi họ cưới. Khi họ lấy được lòng của bà Brenane, cậu bé nổi loạn bị đẩy ra xa dần. Ban đầu, cậu bé được gửi đến một trường nội trú xa xôi, nơi chấn thương làm mù mắt trái của cậu xảy tới. Rồi việc kinh doanh nhập khẩu của Molyneax thất bại, gần như làm bà-dì của Lafcadio phá sản. Cậu Hearn trẻ tuổi từ trường về nhà để hồi phục chấn thương mắt. Cậu nhanh chóng bị tống cho một cựu nhân viên ở London, và thế nào đó về sau lại tới Hoa Kì. Sau khi bà- dì của cậu mất, Hearn không hoàn toàn bị sốc khi biết rằng cậu thậm chí còn chẳng được nhận khoản trợ cấp thường niên được hứa dành cho mình sau khi bà đã thay đổi bức chúc thư theo chiều hướng có lợi cho Molyneax. Một khi tới Hoa Kì, Hearn, kẻ đã đối mặt với vô số lần bị từ chối trong đời bắt đầu khẳng định được sự độc lập của mình. Nhanh chóng bỏ cái tên Patrick; từ đó trở đi, ông nhấn mạnh việc được gọi là “Lafcadio”, kẻ du tử. Ông cực kì phấn đấu trong những năm đầu ở Hoa Kì, nhưng rốt cuộc tìm thấy chính mình ở Cincinnati, Ohio, nơi ông bắt đầu học nghề (in ấn) và theo đuổi thiên tư (viết văn). Sự nghiệp báo chí của ông khởi đầu năm 1872 với những phác họa chi tiết về đời sống bên lề, các khu vực của người da đen, và các địa khu của kiều dân ở Cincinnati. Những bài viết gợi mở này thu hút độc giả đương thời. Mặc dù một số bài – chẳng hạn câu chuyện dài về Sát nhân Tanyard trong đó những kẻ giết người cố gắng đốt xác phi tang – quả là đáng sợ, ông được hâm mộ bởi khả năng gợi lên thời gian, địa điểm và động cơ thông qua những tính cách đầy màu sắc và những mô tả “đậm đặc”. Hơn nữa, không giống đa số những người viết xử trí các chủ đề nguy hiểm vào thời đó, ông không chỉ phá vỡ những quy chuẩn thượng lưu, mà còn có khả năng làm vậy theo cách không hoàn toàn phản ánh những quan điểm thông thường cho rằng những kẻ bị đẩy ra ngoài lề là hạ tiện. Ông ném mình vào trong tác phẩm của mình, hệt như một nhà dân tộc học dự phần trong những cuộc đời mà ông mô tả. Kinh ngạc, với những bạn bè thông thường hơn của ông, Hearn phát triển “một thị hiếu” với những mảnh đời và văn hóa của tầng lớp dưới ở Cincinnati. Năm 1874, trước sự không hài lòng của hầu hết bạn bè cả da đen và da trắng, ông cưới Alethea “Mattie” Foley, đầu bếp lai chủng ở nhà trọ nơi ông sống. Với các đạo luật về hôn nhân khác sắc tộc của Ohio tại thời điểm đó, cuộc hôn nhân này không được phép; và chỉ bằng việc lờ đi Mattie là người da trắng, ông thuyết phục một mục sư da đen làm lễ kết hôn cho họ. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân này kéo dài không lâu. Vụ tai tiếng, khi nó bị lộ ra, dẫn tới hậu quả Hearn bị sa thải khỏi tờ Enquirer, dù ông đã nhanh chóng được tuyển dụng bởi tờ Commercial, một tờ báo đối thủ. Khi lời đồn về cuộc hôn nhân lại trồi lên sau cái chết của ông, một lần nữa nó lại là tin tức gây tai tiếng. Háo hức với những cuộc phiêu lưu mới, và mỏi mệt vì mùa đông lạnh thấu xương ở Ohio, Hearn dời đến New Orleans sau kì bầu cử Tổng thống năm 1876 để làm phóng viên chính trị cho tờ Commercial, dù ông cũng sớm bị thải hồi khỏi tòa báo vì thực hiện thiếu bản tin theo hợp đồng. Đúng hơn, ông thấy mình bị mê hoặc bởi con người và văn hóa lai của thành phố New Orleans này, điều ông bắt đầu xem như là một kiểu mẫu cho tương lai của nước Mĩ. Ông gia nhập lực lượng với George Washington Cable, một nhà văn hóa dân gian tiên phong, và cùng nhau, họ tuyển tập những câu chuyện của người Creole bản địa và những bài tình ca Mĩ-Phi. Trước Hội chợ Thế giới 1884 ở New Orleans, Hearn đã biên soạn nhiều tài liệu của ông về văn hóa của người Creole bản địa. Thú vị là, cũng chính khoảng thời gian này ông bắt đầu viết về Nhật Bản: một vài tiểu luận trên tờ Harper’s về Gian hàng Nhật Bản tại Hội chợ New Orleans. Ông quyết định rằng mình sẽ viết một cuốn sách về Nhật Bản, dù ít năm trước ông đã xoay xở để du lịch đến Nhật. Sau khi rời New Orleans, ông trải qua thời gian ở bờ vịnh Mississippi, hai năm ở Martinique, và ở New York, một thành phố ông ghét cay ghét đắng vì những thứ ông xem như là những hệ quả tiêu cực của sự đề cao về doanh thương và chủ nghĩa vật chất của nước Mĩ. Trong những năm sau khi rời Cincinnati, ông phát hiện thấy chuyên môn của mình như là một nhà văn. Dù vẫn tiếp tục viết báo khi có dịp, xuất phẩm của ông bao gồm nhiều bài viết cho tạp chí (chủ yếu cho tờ Harper’s), những bản dịch văn chương Pháp thuần thục, và sáu cuốn sách dài, kể cả hai tiểu thuyết ngắn. Trong khi các tiểu thuyết ngày nay chủ yếu được đọc như là những đoạn thời gian gợi mở, những tác phẩm báo chí có tính dân tộc học của ông về văn hóa của người Creole bản địa bấy giờ được xem là đột phá, gần như là cách mạng trong tương quan của nó với tính lai tạp, và sự khước từ phần nào của nó với những mô hình tiến hóa của văn hóa nổi trội vào thời ấy. Theo lời của Simon Bronner, người đã bàn rất rộng về các văn bản của người Creole của Hearn, thì Hearn: “đã nhìn thấy trong văn học dân gian một cửa sổ tới cái ông gọi là “đời sống nội tại”, hay là ý nghĩa của sự biểu cảm ở tầng lớp bình dân. Là một người bên ngoài các học viện ưu tú, Hearn tiên cảm những ưu tư về đô thị hay là lĩnh vực văn học dân gian “hiện đại”, và là một người bên ngoài nước Mĩ, ông trình bày sự lai hóa như là tiến trình và phép ẩn dụ, từ đó đối diện với di sản chủng tộc của quốc gia trong sự phát triển về văn hóa của nó”. (Bronner trang 146) Dù ngày nay sẽ chẳng đáng kể, nhưng vị thế này đã đặt ông vào chỗ bất hòa với nhiều nhà văn hóa dân gian thời kì đầu. Hơn nữa, trái ngược với nhiều tác giả dân tộc học người Mĩ khác, nhưng cùng chí hướng với những nhà văn hóa dân gian Pháp, Hearn coi tài liệu của ông là xác thực và cố hữu, tài sản đích thực của những người bản địa, và không chỉ đơn thuần là những bắt chước theo văn hóa tinh hoa. Cuối cùng, bằng việc xem xét tầm quan trọng của bối cảnh xã hội trong việc ảnh hưởng đến cách thức và lí do con người và văn hóa có thể ứng xử theo những lối nhất định để phản ứng lại các tác nhân kích thích nhất định, Hearn báo trước sự xuất hiện của những nhà văn như Oscar Lewis. Cuối cùng Lafcadio đã khởi hành đến Nhật Bản, du lịch đường bộ trước khi lên một con tàu hướng về phía Yokohama. Ông đến nơi ngày 12 tháng Tư năm 1890, dự định chỉ ở lại một thời gian đủ để viết một cuốn sách về phong tục, tôn giáo, và triết lí Nhật Bản. Ngay cả thế, trong bức thư gửi cho nhà xuất bản đề cập đến dự án của mình cũng cho thấy rằng ông đã đề xuất việc tiếp cận chủ đề của mình từ góc độ khác với nhiều người tạm trú Tây phương khác. Ông viết: Trong nỗ lực viết một cuốn sách về một quốc gia rất mực dè dặt như Nhật Bản, tôi không thể hi vọng – cũng như sẽ không xem xét điều đó trong nỗ lực thận trọng – khám phá ra những điều hoàn toàn mới mẻ, mà chỉ xem xét những thứ đó theo một cách hoàn toàn mới mẻ thôi… Mục đích nghiên cứu sẽ nhằm tạo ra, trong tâm trí độc giả, một ấn tượng sống động về đời sống tại Nhật – không đơn thuần là một người quan sát mà như một người dự phần vào cuộc tồn tại hàng ngày của quần chúng, và nghĩ cùng thứ họ nghĩ.(3) (3) Gửi Tạp chí Harper’s, 1889. Trích từ Những bài viết về Phật giáo của Lafcadio Hearn (The Buddhist Writings of Lafcadio Hearn, Santa Barbara, CA: NXB Ross-Erikson), 1977; vii. Vậy nên có lẽ, chẳng mấy ngạc nhiên khi việc lưu trú của ông ở Nhật đã kéo dài đến cuối đời – năm 1904, và là cuộc lưu trú dài lâu nhất ông đã sống ở bất cứ đâu khác, hơn cả những năm tháng phần nhiều bất hạnh của ông ở Ireland khi còn bé. Lúc định cư ở Nhật, ban đầu Hearn dạy tiếng Anh ở Matsue, một dinh trấn cũ ngái ngủ gần Biển Nhật Bản. Ở đó ông gặp Setsu, con gái của một võ sĩ đạo sa sút, người đã trở thành vợ ông. Ông dọn đến Kumamoto để giảng dạy ở trường Trung học Fifth Higher. Kumamoto, cũng là một dinh trấn cũ, có một cảm thức rất khác biệt với Matsue. Nó đã trở thành một nơi dành cho các lực lượng vũ trang mới của Nhật, rồi sau bị hỏa thiêu trong cuộc nổi dậy Satsuma năm 1877. Năm 1895, sau thời gian tạm trú ở Kobe, một thành phố cảng mở có tô giới của người nước ngoài sôi động, nơi ông đã viết Biên niên sử Kobe, Hearn được mời giữ chức giáo sư Anh ngữ tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Dù không mấy quan tâm đến Tokyo, ông đã nhận thức được tầm quan trọng của nó trong công cuộc hiện đại hóa của Nhật. Hearn tiếp tục dạy ở Đại học Hoàng gia Tokyo cho đến năm 1903, khi nghiệp chủ đề xuất chuyển hợp đồng của ông thành một hợp đồng địa phương. Điều này liên quan đến một sự cắt giảm tiền lương đáng kể. Từ đó cho đến ngày mất, ông thuyết giảng ở Đại học Waseda và cũng đã soạn hàng loạt bài giảng được chuyển giao cho Đại học Cornell. Thật không may, các giảng viên đã chẳng bao giờ hiện thực hóa nó. Ông chết vì suy tim vào tháng Chín năm 1904. Trong suốt mười bốn năm định cư tại Nhật, Hearn trước tác sung sức đáng kể. Ông đã viết mười hai cuốn sách, bao gồm Kokoro, Đại cương về Nhật Bản không quen thuộc, Quái đàm, và Cổ vật, thêm vào đó là những bài báo, tiểu luận khác, cùng vô số thư từ với bạn bè cả trong và ngoài Nhật Bản. Qua những địa phương mà ông sinh sống, và đời sống của ông cùng gia đình mở rộng của vợ, Hearn đã có một quan điểm tương đối khác biệt về Nhật Bản trong suốt một thời đại đầy biến cố xã hội rộng lớn so với đa số những du khách ngoại quốc khác. Trong những năm 1890, Nhật Bản là – diễn lời người kể chuyện vô danh đã về già trong tiểu thuyết Tâm của Natsume Soseki khi đề cập đến thời tuổi trẻ của mình – “một bí ẩn ngay cả với chính nó”. Trong không gian của một thế hệ, tiếp theo cuộc Cải cách Minh Trị, Nhật Bản đã trải nghiệm một thời đoạn thay đổi xã hội nhanh chóng gần như vô song trên thế giới, khi nó nỗ lực để chuyển mình thành một quốc gia công nghiệp hóa, có khả năng sánh vai với các cường quốc phương Tây. Quốc gia mới ấy đòi hỏi nhiều ở công dân của nó, và các công dân mới đó hưởng ứng mạnh mẽ, nhưng nhịp tiến triển và sức ép của những thay đổi gây ra những căng thẳng nội tại trong cá nhân, và ức chế trong xã hội. Về mặt ý thức, phần nào, các thay đổi đó đã được thúc đẩy thông qua việc hoạch định một hệ thống nhà nước định hình lại những mối quan hệ xã hội theo Khổng giáo với sự hưng khởi của kỉ nguyên hiện đại, như nó được bộc lộ trong Hiến pháp Minh Trị, Bộ luật Dân sự, và Công lệnh Hoàng gia về Giáo dục, tất cả đã được soạn thảo vào thời điểm Hearn đến Nhật. Mỗi người đều có trách nhiệm lao động chăm chỉ với quốc gia mới, bằng bất cứ giá nào. Về mặt khách quan, Nhật Bản đang gặp phải nhiều thách thức của hiện đại hóa với sự hào nhoáng bề thế, mặc dù các chi phí cá nhân với nhiều người là rất lớn. Những năm thứ 20 của thời Minh Trị, nói cách khác, thời điểm Hearn đến Nhật, chứng kiến sự tích lũy và chủ nghĩa quốc gia lớn mạnh, mầm mống xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, trong khi nhịp tiến của thay đổi xã hội vẫn không giảm sút. Hearn, với khả năng quan sát và đồng cảm lớn lao có thể nắm bắt phong phú những tâm trạng mâu thuẫn của thời đại ấy. Mười lăm bài trong Kokoro: Những ám thị và âm vang trong đời sống nội tại Nhật Bản, bao gồm các phác thảo, tiểu luận, thiền định, và truyền thuyết. Với Hearn, mỗi một tác phẩm này phát lộ điều gì đó về tâm trí dân tộc hoặc đời sống nội tại của Nhật Bản, điều gì đó mà ông tin nó có tồn tại. Tuyển tập dường như mang đặc tính riêng, song có thể thấy được một số hình mẫu sáng nghĩa. Gần như những hình mẫu này phát lộ nhiều điều về vị thế trí tuệ của Hearn giống như chúng phát lộ về Nhật Bản. Có một hình mẫu liên quan đến sức mạnh của tình yêu gia đình: tình yêu của cha mẹ dành cho con cái, hay con cái dành cho cha mẹ. Điều này có thể thấy trong bài đầu tiên, “Ở ga xe lửa”, thuật lại cuộc chạm trán giữa một kẻ giết người và đứa trẻ con nạn nhân của y ở ga xe lửa. Cuộc gặp đó, hiện ra như nó là một chuyện tình cờ Hearn chứng kiến, đạt tới sự sáng nghĩa lâu dài với mọi người hiện diện khi tên tội phạm có đôi mắt hoang dã đổ sụp và bày tỏ sự hối tiếc về hành động bạo lực của mình. Trước sự ngạc nhiên của người kể chuyện phương Tây (hư cấu), lời thú tội làm thỏa mãn đám đông nhốn nháo. Trong phần đầu của “Thời thổ tả”, Hearn viết một cách thấm thía về sự tàn phá của một trận dịch tả với gia đình và cộng đồng; trong phần thứ hai, hồn ma của một người mẹ trẻ mớm sữa cho con nàng bên trên ngôi mộ. Tình yêu trường cửu của nàng dành cho con mình, và sự tôn trọng của chồng nàng với ước nguyện lúc lâm chung của nàng khiến phép màu này thành khả dĩ. Và trong tiểu luận thứ ba, “Ni cô chùa A di đà”, là một người đàn bà trẻ liên tiếp mất cả chồng lẫn con. Linh hồn tan nát vì buồn đau, cuối cùng cô kết nối với cậu bé con mình thông qua một nghi thức bí truyền ở một ngôi chùa. Cậu bé kể với cô rằng cậu đã chết để cô có thể sống; và dù thông điệp của cậu giúp cô trụ vững, chính cô trở nên giống hệt như một đứa bé. Chấp nhận điều đó, song thân đã có tuổi của cô cho cô làm ni cô, dù là trong một “ngôi chùa rất nhỏ”, với một “ban thờ rất nhỏ”. Mọi người đều chăm sóc cho ni cô vô tội ấy, và nhiều lứa trẻ con quanh ngôi chùa về cơ bản hiểu nỗi lòng mất con của cô đã biến đổi cô thế nào; chúng chấp nhận cô như một trong số chúng, và chơi đùa cùng cô như thể chúng đang chơi cùng bạn bè mình. Sau khi cô mất chúng đề nghị dành cho cô một “mộ chí rất, rất nhỏ” để có thể an táng tro cốt của cô. Các tiểu luận còn lại trong tập ít kì dị hơn. Chúng nỗ lực truyền đạt sự hiểu biết của Hearn về các ý niệm tôn giáo và triết lí Nhật, cái ông xem như là sự báo hiệu cho muôn mặt của cuộc đời. Trong những tiểu luận này, Hearn bắt đầu tiến hành diễn giải những khái niệm ban đầu của ông về sự nối kết giữa tâm linh, tự ngã, và chủ thể. Chủ đề đó đã mê hoặc ông suốt phần đời còn lại. Hearn, một tín đồ của thuyết tâm lí tiến hóa của Herbert Spencer (1820 – 1903), bị thuyết phục rằng lí thuyết của Spencer không phải là không tương thích với đạo Phật. Spencer, người đề ra cụm từ “sự sống sót của loài thích hợp nhất” thường được quy cho Charles Darwin, là một tín đồ nhiệt thành của tiến hóa. Trọng tâm tư tưởng của ông là quan niệm gây tranh cãi thời bấy giờ về “kí-ức-chủng- tộc”. Đối với Hearn, xúc cảm và trực giác là những ví dụ khởi nguyên của kí ức được kế tục hay là “kí-ức-chủng-tộc”. Xúc cảm liên kết các cá nhân với quá khứ chưa được biết, điều họ hiểu ở chừng mực căn bản nào đó. Hearn viết trong “Người hát dạo” về việc ông đã khóc thế nào khi nghe ca khúc ai oán của một người xẩm mù: Kí ức được kế tục tạo ra sự quen thuộc ngay cả với trẻ sơ sinh cái ý nghĩa của âm điệu âu yếm này. Cũng vậy, không nghi ngờ gì, tri thức của chúng ta được kế tục những âm điệu của cảm thông, của buồn đau, của lòng trắc ẩn. Vậy nên lời ca của một người đàn bà mù ở thành phố vùng Viễn Đông này thậm chí có thể thức tỉnh xúc cảm trong tâm trí của một người Tây phương sâu hơn cả hiện hữu của cá nhân – nỗi thống thiết nghẹn ngào mơ hồ về những u sầu đã bị lãng quên – các xao xuyến yêu thương mơ màng về những lớp người không được nhớ đến. Cái chết chẳng bao giờ chết tuyệt đối. Kí ức ngủ quên trong những tế bào thẳm tối nhất của con tim mỏi mệt và bộ não bận rộn, để rồi giật mình vào những khoảnh khắc hiếm hoi nhất chỉ bằng âm vang của giọng nói nào đó triệu hồi quá khứ của chúng. Dù không hiểu lời bài hát, nội dung xúc động của nó vẫn tự động được truyền đạt tới ông ở cấp độ cơ thể. Ý niệm về kí ức được kế tục được phát triển hơn nữa trong những tiểu luận như “Từ nhật kí du hành”, “Buổi hoàng hôn của những thần tượng”, “Ý niệm về tiền kiếp”, “Nghiệp lực” và “Một số ý tưởng về tục thờ cúng tổ tiên”, và ông bắt đầu liên kết nó với những quan niệm của Phật giáo về nghiệp. Cái được coi là kí-ức chủng-tộc ở Spencer, Hearn tin là nó tương ứng với nghiệp của Phật giáo Nhật Bản. Đối với Hearn, nghiệp (nhân duyên/ innen) không chỉ đơn thuần hợp lí về mặt tâm lí, mà còn khả dĩ về mặt khoa học vì những cách thức nó được sẻ chia và kế tục. Trong phần giải thích của mình, ông chỉ ra cách người Phật tử loại bỏ “những khái niệm của phương Tây về linh hồn” như là độc nhất và đơn nhất, bởi vì họ hình dung linh hồn như là “một toàn thể hay một kết tập của cái phức hợp bất khả giải, – cái tổng thành được huân tập từ những ý nghĩ đã tạo tác trong những kiếp trước vượt ra ngoài mọi tính đếm”. Tức là, với Hearn, linh hồn của người theo đạo Phật vừa siêu-cá-nhân – vượt ngoài tính cá nhân – vừa có khả năng kế tục. Hơn nữa, như đã đặt ra, nó không phải là không tương thích với những ý niệm khoa học hiện đại, có liên quan đến tiến hóa, “kí ức được kế tục”, và trực giác. Ông viết: Bản năng, trong ngôn ngữ của tâm lí học hiện đại, nghĩa là “kí ức được tổ chức”, và bản thân kí ức chính là “bản năng phôi thai”– tổng số những ấn tượng được kế tục bởi cá nhân kế sau trong xâu chuỗi đời sống. Như vậy khoa học công nhận kí ức được kế tục: không phải trong ý nghĩa ma quái của việc nhớ lại các chi tiết ở kiếp trước, mà như là sự tích lũy từng chút vào đời sống tâm lí kết hợp với những thay đổi từng chút trong cấu trúc của hệ thống thần kinh được kế tục. Bộ não của mỗi cá nhân là một sự tổng hợp các trải nghiệm riêng thân và các trải nghiệm được kế tục từ tổ tiên của cá nhân đó. Sự cần thiết phải phá vỡ ảo tưởng về cái tôi cá nhân, trong đạo Phật, được biểu lộ một cách nghịch lí là lưỡng lợi về mặt luận lí. Nó cũng biểu lộ là không đối nghịch với tiến hóa, hay chủ trương hiện đại hóa trong thời Minh Trị của Nhật – tốt hay xấu – dẫu cho chẳng may có lẽ như vậy. Trong tiểu luận “Ý niệm về tiền kiếp”, Hearn đã gợi ý xa hơn nữa rằng cùng với sự chấp nhận rộng lớn hơn của các lí thuyết khoa học về tiến hóa, việc diễn giải khái niệm của phương Tây về Tự ngã sẽ tiến tới mức gần như tương đương với việc diễn giải khái niệm của người Nhật, và cái ý niệm về “sự tan rã của Cái Tôi” không phải là không tương thích với những gì ông miễn cưỡng xem như là mục tiêu tối thượng của Ki-tô giáo. Tuy nhiên, điều thú vị nhất là những quan sát của Hearn về chủ đề Minh Trị thông qua các tiểu luận như “Thiên tính của Văn minh Nhật Bản”, “Hậu chiến”, “Đại cương về các xu hướng” và “Người thủ cựu”. Thi thoảng, cho dù Hearn bị bác bỏ khi lãng mạn bám lấy một thị kiến nhân tạo về một “Cựu Nhật Bản”, hình ảnh một người thu nhặt được thông qua những tiểu luận này không phải là hình ảnh của một ai đó bám lấy thị kiến về một quá khứ tưởng tượng được lí tưởng hóa một cách hoài cổ, mà đúng hơn là một người có óc thực tế nhìn thấy cả những lợi ích của công cuộc hiện đại hóa cũng như giá trả của nó. Những tiểu luận này phát lộ những âu lo, sự kiêu ngạo, cùng những căng thẳng của chủ thể Nhật Bản trong những năm thứ 20 của thời Minh Trị, mà ông thường đặt nó bên cạnh sự kiêu ngạo và đánh giá thấp người Nhật của chính những người phương Tây. Lòng yêu mến của Hearn dành cho nhiều tập tục và truyền thống của Cựu Nhật Bản tốt nhất nên đọc dưới ánh sáng của sự ghê tởm kéo dài của Hearn với chủ nghĩa vật chất kiểu Mĩ tại Mĩ, thứ mà ông xem là làm mất phẩm giá, vô hồn, và gây chết chóc. Trong một lá thư viết gửi George Gould trước khi tới Nhật, ông đã viết, “Mĩ đã sa lầy trong sự ám ảnh của mình với doanh thương” theo cách mà doanh thương đã tước lấy về mặt tâm linh cùng đức lí và Hearn đã chán nản nó rồi.(4) (4) Jonathan Cott, 1991. Hồn ma lang thang: Thiên du kí của Lafcadio Hearn (Wandering Ghost: The Odyssey of Lafcadio Hearn, New York: NXB Alfred A. Knopf, tr. 228). Hơn nữa, việc ông sốt sắng giải quyết những căng thẳng chủng tộc ở Nhật phản ánh sự quan tâm của ông về những điều kiện xã hội tồn tại từ lâu trước ngày ông định cư ở đó. Theo quan điểm của Hearn, chủ nghĩa đế quốc phương Tây đã có những thay đổi cần thiết tại Nhật, và đặc tính Nhật cũng đã có những thay đổi thành công khả dĩ (khi được đo lường bởi các tiêu chí bên ngoài), nhưng các cạm bẫy, nhất là sự hủy diệt tự nhiên, là không thể tránh khỏi. Trong những tiểu luận này, những nhận định của Hearn phức hợp một cách đáng ngạc nhiên. Là một người kiên tín với tiến hóa, ông chấp nhận rằng sự lựa chọn lao đầu lặn sâu vào cuộc Tây hóa giữa thế kỉ XIX của Nhật là cốt yếu nếu nó duy trì được sức mạnh để sống sót. Thực tế, chính di sản của đặc tính đạo đức của dân tộc Nhật – ông tin vậy – đã mang lại khả năng thay đổi cấp tốc đến vậy. Tuy nhiên, ông cũng lo sợ bóng ma của một Nhật Bản bị Tây hóa trong sự thiếu vắng một cảm thức thực thụ tương xứng về tính cá nhân. Từ điều này ông cảm thấy những rắc rối có thể kéo tới trong tương lai. Ông cũng lo sợ sự kiêu ngạo qua lại giữa phương Tây và Nhật Bản, mỗi bên đều tự tin vào tính ưu việt ở xã hội của riêng mình, và như vậy khó lòng đạt tới những đỉnh điểm của sự thấu hiểu đích thực. Vị thế của Hearn, bởi vậy, là mâu thuẫn: Nhật Bản phải hiện đại hóa, nếu nó muốn sống sót; nó phải khao khát chủ nghĩa cá nhân thực sự nếu muốn bảo vệ được độc lập của mình; và nó phải bảo thủ bám lấy một số truyền thống quốc gia nếu muốn duy trì cốt lõi đức lí của mình, không giống như các nước phương Tây đã thất tán tâm linh lúc đó. Cuối cùng, cũng lo ngại cả về tồn vong của phương Tây bởi sự bành trướng và lãng phí buông tuồng của nó, ông thấy trong truyền thống quên mình của người Nhật một nền tảng đạo đức cho xã hội mà phương Tây có thể song tranh có lợi. Hearn truyền đạt những ý niệm này bằng nhiều tiểu luận rất khác nhau. “Thiên tính của Văn minh Nhật Bản”, “Hậu chiến”, “Đại cương về các xu hướng” và “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” được viết từ góc độ của một du khách nước ngoài nhìn mọi thứ với đôi mắt cảm thông nhưng không phải là không có tính phê bình khi lưu trú ở Nhật. “Người thủ cựu”– được cho là dựa trên cuộc đời người bạn tốt của Hearn là Amenomori Nobushige, người được đề tặng đầu tập sách này – được trình bày như một kiểu dụ ngôn. Tuy nhiên, tính duy nhất của chủ đề thống nhất các văn bản khác loại. Trong “Hậu chiến”, Hearn trình bày một loạt đoản văn về cách người Nhật tưởng niệm chiến thắng của họ trước người Trung Hoa trong chiến tranh Thanh-Nhật 1895. “Sự phục hưng quân sự của Đế chế – chiến thắng thực sự của Tân Nhật Bản –”, ông viết, “bắt đầu với cuộc chinh phục Trung Hoa”. Ông viết về cách mọi thứ đã chung tay nhằm vào một mục đích duy nhất, tin chắc vào sức mạnh quân sự của Nhật, và cách chiến thắng đó được tưởng niệm với những món trang sức bình dân của thị trường đại chúng cùng những hàng hóa chất lượng lâu bền, những bản khắc gỗ cầu kì, và quan trọng nhất là, những lời cảm ơn của quốc gia hướng tới những người đã chiến đấu. Song, bức tranh toàn cảnh của ông về niềm hoan hỉ tầm cỡ quốc gia được làm dịu đi với một nhận định gượng gạo rằng sự tự tin sáng suốt đã góp phần vào chiến thắng của Nhật với Trung Hoa, có thể sẽ sớm dẫn đến những xung đột quốc tế với những kết quả thảm khốc hơn nhiều. Trong “Đại cương về các xu hướng”, tiêu điểm của ông mở rộng để bao gồm cả “sự xấu xí ngăn nắp” của những tô giới cho người nước ngoài, chứa trong chúng mọi tòa nhà và các hoạt động theo tập quán của một thị trấn phương Tây thông thường. Rồi ông tiết lộ rằng chúng giống hệt như “những thành phố nấm”, ở miền Tây nước Mĩ, trong tính chất không nền tảng của chúng. Tin chắc một cách kiêu ngạo về tính ưu việt của chính mình, những thương nhân phương Tây ban đầu xúc phạm và lảng tránh người Nhật trong khi lên lớp với sự kiêu ngạo rất mực rằng Nhật Bản ắt cần tự cứu lấy mình thông qua việc tiếp nhận các phương thức kinh doanh và thương mại của phương Tây. Rồi, Hearn viết, cán cân quyền lực đã bắt đầu chuyển biến, và ông gợi ý rằng ắt tới một ngày sự tiến hóa sẽ đảm bảo các cửa hàng của người ngoại quốc về những mặt hàng phổ biến sẽ ngưng tồn tại. Tuy nhiên, đáng lo hơn nữa, ông đã cho thấy rằng cuộc tranh giành quyền lực đã góp phần làm tăng những căng thẳng giữa người Nhật và những người Tây phương, và ông trách đa số những người phương Tây về việc đánh giá thấp người Nhật. Trái lại, trong “Buổi hoàng hôn của những thần tượng”, sử dụng ví dụ về một thương lái đồ cổ chuyên buôn bán các “vị thần” Nhật Bản, ông chĩa cái nhìn của mình vào những người Nhật đã quay lưng lại với các vị thần thánh của quá khứ. Khi nhìn vào bộ sưu tập lớn của thương lái đồ cổ rất thực dụng kia (“Trả tôi năm mươi ngàn đô-la.”) – kẻ chỉ thấy các hình tượng Phật giáo với giá trị tiền tài ước định – ông nhận ra rằng giá cả thực sự chỉ là “giá để họ quên đi lòng mộ đạo” trong một thời đại của đổi thay. Có lẽ cái nhìn bi quan của ông về tiến hóa được thấy rõ nhất trong “Người thủ cựu”. Truyện ngắn này trình bày một ngụ ngôn về cuộc đời của một thanh niên Nhật Bản, con trai của tầng lớp võ sĩ đạo, chỉ nhận ra những giá trị truyền thống trong chính quốc gia của mình sau nhiều năm học tập ở phương Tây và đắm mình trong đời sống bên ngoài nước Nhật. Là con trai của một võ sĩ đạo, anh đã được huấn luyện về kỉ luật và sự hiến mình, dù anh đủ tuổi thành nhân trong một thời đại đầy biến cố lớn. Theo thời gian, anh học tiếng Anh, cải đạo sang Ki-tô giáo (rồi bỏ nó). Ở mỗi bước trong hành trình của mình, anh cố gắng điều hòa di sản và quá trình huấn luyện Nhật Bản của mình với kiến thức mà anh thủ đắc dọc đường đi. Cuối cùng anh đi tới việc nhận ra rằng: Vẻ uy nghiêm thực sự của phương Tây chỉ là duy trí; những cao điểm giá lạnh dốc đứng xa xôi của tri thức thuần túy, bên dưới lớp tuyết bất tuyệt của nó xếp lớp những lí tưởng về xúc cảm đã chết cứng… Tính ưu việt của Tây phương không phải là đạo đức. Nó nằm trong những sức mạnh về trí năng phát triển thông qua khổ đau vô kể và được những kẻ mạnh dùng để hủy diệt những kẻ yếu. Đồng thời anh phải công nhận rằng công cuộc hiện đại hóa là cần thiết, và nếu Nhật Bản muốn sống sót cả về mặt vật chất lẫn tinh thần thì sẽ phải tập trung nỗ lực của mình vào cuộc hiện đại hóa và “việc bảo tồn mọi thứ tốt nhất trong đời sống cổ xưa”. Những đoạn văn trong câu chuyện kể về người võ sĩ đạo hậu duệ chạm trán với “cuộc đấu tranh tàn ác” ở thành phố của nước Mĩ với sự thô bạo, đạo đức giả và hôi thối của nó, gợi nhắc đến một mô tả trước đó trong “Thiên tính của Văn minh Nhật Bản” về một thành phố có khả năng là New York. Ở đoạn văn trong “Người thủ cựu”, cựu võ sĩ đạo kia cuối cùng bị choáng vì sự xa lạ cùng cực với văn minh Tây phương: Anh đánh giá nền văn minh như vậy chỉ có thể như một người tuyệt chẳng có một xúc cảm nào khi hòa điệu với nó… Nền văn minh đó xa cách với tâm hồn anh như đời sống ở một hành tinh khác dưới một mặt trời khác. Nhưng anh hiểu được giá trả của nó trong tương quan với tổn thương về nhân tính, cảm thấy sự uy hiếp từ sức nặng của nó, và tiên đoán được phạm vi ảnh hưởng rộng lớn của sức mạnh trí năng trong nó. Và anh ghét nó – ghét những cỗ máy kì lạ, cồng kềnh và được tính toán hoàn hảo; ghét sự kiên định vị lợi; ghét những quy ước, thói tham lam, sự tàn bạo mù quáng, thói đạo đức giả kinh khủng, sự thối nát trong mong muốn và vẻ xấc láo về sự giàu có của nó. Về mặt luân lí, nó thật quái đản; về mặt thông tục, nó thô bạo. Vực thẳm của sự thoái hóa khôn lường mà nó bày ra với anh, mà chẳng hề có lí tưởng nào đáp ứng được những lí tưởng tuổi trẻ của anh. Đó hoàn toàn là một cuộc đấu tranh tàn ác; và thậm chí nếu anh có tìm thấy điều tốt lành thực thụ nào trong nó, với anh có vẻ chắc chắn là ít hơn cả phép màu. Hãy đối chiếu điều này với một đoạn trong “Thiên tính của Văn minh Nhật Bản” ở phần trước của tuyển tập. Trong tiểu luận này, người tường thuật, áng chừng là chính Hearn, bị choáng bởi sự thô cứng của thành phố Tây phương hiện đại mà ông đối chiếu với một thành phố Nhật Bản cổ kính: Và toàn bộ sự khuếch trương này là thô cứng, hung tợn, trì độn; đó là sự khuếch trương sức mạnh toán học áp lên các mục đích vị lợi về sự vững vàng và bền chắc. Các tổ hợp gồm những cung điện, nhà kho, cơ sở kinh doanh, những tòa nhà có thể mô tả và không thể mô tả này, chẳng đẹp đẽ gì, mà còn dữ dằn. Người ta cảm thấy thất vọng bởi cảm giác nhỏ nhoi về đời sống khổng lồ đã tạo ra họ, đời sống không có sự cảm thông; sự thị uy kì lạ về sức mạnh, sức mạnh mà không có lòng trắc ẩn. Chúng là lời phát biểu về kiến trúc của thời đại công nghiệp mới. Sự kề cận của hai đoạn văn này cho thấy sự ghê tởm cực kì mạnh mẽ của Hearn đối với thành phố hiện đại vô hồn, nhưng đọc kĩ hơn những tiểu luận triết học của ông cho thấy rằng ông phê phán cả Tây lẫn Đông. Một mặt ông thấy thuyết duy ngã của phương Tây là vô hồn và ngông cuồng; mặt khác, ông thấy cần có nhiều tự do cá nhân hơn ở Nhật. Là một lí thuyết gia tiến hóa thực hành, Hearn hi vọng rằng người Nhật sẽ tiếp cận nhu cầu tiếp tục hiện đại hóa cả về mặt lí trí lẫn đạo đức. Năm 1896, khi Kokoro được xuất bản, Hearn đã ở Nhật gần sáu năm, đã kết hôn và làm cha. Ở một mức độ nào đó, sự phấn khích về cuộc sống tại Nhật đã nguôi dịu, và ước muốn lang thang vĩnh cửu của ông đã quay lại. Song, Hearn đã chọn ở lại với gia đình mình tại quốc gia ông đã chọn làm tổ quốc cho đến ngày ông qua đời. Những tiểu luận trong Kokoro nằm trong số những tác phẩm hay nhất của Hearn về Nhật Bản, vì những góc nhìn đa dạng của chúng, và còn vì sự nhận xét với nhãn quan sáng tỏ của ông về những giá trả và lợi ích trong cuộc lao mình vào tính hiện đại trong không gian của một thế hệ. Thật chẳng may khi Hearn thường bị bác bỏ như là một kẻ lãng mạn ngây thơ, dù tác phẩm của ông cung cấp nhiều dưỡng chất cho tư duy, thông qua những suy tư thấu suốt đi sâu vào một buổi giao thời. Patricia Welch Đại học Hofstra Những bài viết soạn trong tập này luận giải về đời sống bên trong hơn là bên ngoài Nhật Bản, vì lí do ấy chúng được tập hợp lại dưới tựa đề là Kokoro (Tâm). Được viết với những nét như trên, chữ này cũng biểu thị cho tâm trí, theo nghĩa xúc cảm; tinh thần; dũng khí; kiên quyết; tình cảm; tấm lòng; và ý nghĩa nội tại – “tâm của hết thảy”. Kobe, ngày 15 tháng Chín năm 1895 H 1 Ở GA XE LỬA Ngày thứ bảy của tháng Sáu – năm thứ hai mươi sáu Minh Trị ôm qua một bức điện tín từ Fukuoka thông báo rằng một tên tội phạm liều lĩnh bị bắt ở đó sẽ được chuyển tới Kumamoto hôm nay để xét xử, trên chuyến tàu vào chính Ngọ. Một cảnh sát Kumamoto đã đến Fukuoka để phụ trách giám sát người tù. Bốn năm trước một tên trộm khỏe mạnh đã đột nhập nhà nào đó trên phố Wrestlers, đe dọa và bắt trói những người trong nhà, rồi mang đi một số tài sản có giá trị. Bị cảnh sát khéo léo theo dõi, hắn đã bị bắt chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ, thậm chí trước khi hắn có thể xử lí tang vật. Nhưng khi bị giải đến đồn cảnh sát hắn đã phá cùm, giật thanh gươm của người bắt giữ mình, giết người ấy, rồi tẩu thoát. Không nghe thêm được gì về hắn mãi đến tận tuần trước. Lúc ấy một thanh tra ở Kumamoto, tình cờ đến thăm nhà tù Fukuoka, nhìn thấy trong đám khổ sai một gương mặt đã được chụp lên não ông bốn năm trước. “Người kia là ai thế?” ông hỏi cảnh vệ. “Một tên trộm”, cảnh vệ đáp, “trong sổ ghi ở đây là Kusabe”. Người thanh tra bước đến trước người tù và bảo: “Tên anh không phải là Kusabe. Nomura Teiichi, anh bị truy nã ở Kumamoto vì tội giết người”. Kẻ trọng tội đã thú nhận tất cả. Tôi đi cùng một đoàn người đông đảo để chứng kiến chuyến tàu đến ở ga. Tôi đã chờ nghe và thấy sự phẫn nộ; thậm chí tôi còn sợ có khả năng xảy ra bạo lực. Người sĩ quan bị giết được nhiều người yêu mến; họ hàng của anh ấy nhất định sẽ có mặt trong các khán giả; và một đám đông ở Kumamoto thì chẳng dịu dàng gì mấy. Tôi cũng nghĩ sẽ thấy nhiều cảnh sát thi hành nhiệm vụ. Các dự liệu của tôi đã sai. Chuyến tàu dừng lại trong cảnh vội vã và huyên náo thường lệ – sự hối hả và tiếng lốc cốc của những hành khách mang guốc, tiếng rao lớn của những cậu bé bán báo Nhật và nước chanh Kumamoto. Chúng tôi chờ bên ngoài rào chắn gần năm phút. Rồi, bị đẩy qua cánh cửa xép bởi một trung sĩ cảnh sát, người tù xuất hiện – một người đàn ông trông hoang dã lực lưỡng, đầu cúi gằm, với hai cánh tay bị trói ngoặt sau lưng. Cả người tù và viên cảnh vệ dừng lại trước cánh cửa xép; và người ta xô tới trước để nhìn – nhưng trong im lặng. Rồi viên sĩ quan gọi lớn: “Chị Sugihara! Sugihara O-Kibi! Chị có đây không?” Một người phụ nữ nhỏ nhắn mảnh dẻ đang đứng cạnh tôi, cõng một đứa trẻ trên lưng, đáp lời, “Vâng!” và tiến đến qua đám đông đẩy tới. Đây chính là người vợ góa của người bị sát hại; đứa trẻ cô mang theo là con trai của anh ấy. Viên sĩ quan xua tay ra hiệu đám đông lùi lại, chừa một khoảng trống quanh người tù và người hộ tống. Trong không gian ấy, người phụ nữ với đứa trẻ đứng đối diện với kẻ giết người. Sự im lặng chết chóc. Rồi viên sĩ quan cất tiếng, không phải với người phụ nữ, mà chỉ hướng tới đứa trẻ. Anh nói chậm, nhưng rõ ràng đến mức tôi có thể nghe rõ mọi âm tiết: “Cháu bé, đây là người đã giết cha cháu bốn năm trước. Lúc ấy cháu còn chưa ra đời; cháu hẵng còn trong bụng mẹ. Bây giờ cháu không còn cha để yêu cháu là do việc làm của người đàn ông này. Nhìn hắn đi,” – đến đây, viên sĩ quan đặt một tay lên cằm của người tù, cương quyết buộc hắn ngẩng mắt lên – “nhìn thật kĩ vào, cháu bé à! Đừng sợ! Đau đớn đấy; nhưng đó là nghĩa vụ của cháu. Nhìn hắn đi nào!” Cậu bé nhìn chăm chăm qua vai người mẹ với đôi mắt mở to, như sợ hãi; rồi cậu bắt đầu thút thít; rồi rơi lệ; nhưng cậu vẫn nhìn – nhìn – nhìn – một cách kiên định và ngoan ngoãn thẳng vào khuôn mặt khúm núm kia. Đám đông dường như đã ngừng thở. Tôi thấy vẻ mặt của người tù méo xệch đi; tôi thấy hắn đột nhiên quỳ sụp xuống trên hai đầu gối mình bất chấp những chiếc gông, và đập mặt mình vào bụi đường, trong khi khóc to khản giọng với một nỗi hối hận mãnh liệt làm rúng động lòng người: “Tha tội! Tha tội! Tha tội cho tôi, cháu ơi! Việc tôi đã làm... không phải vì tôi oán ghét đâu, mà chỉ vì sợ đến mất trí, vì khát vọng muốn trốn thoát của mình thôi. Tôi cực kì, cực kì xấu xa; việc tôi đã làm với cháu thật là một sai lầm to lớn không thể nói nổi! Nhưng vì tội lỗi của mình, giờ đây tôi sẽ chết. Tôi mong được chết; tôi sung sướng được chết! Thế nên, cháu ơi, hãy rủ lòng!... Tha thứ cho tôi!” Đứa bé vẫn im lặng khóc. Viên sĩ quan nâng tội nhân run rẩy kia đứng dậy; đám đông nghẹn lời rẽ lối hai bên để họ đi qua. Rồi, hoàn toàn đột ngột, hết thảy mọi người ở đó bắt đầu thổn thức. Và khi viên cảnh vệ da rám nắng ấy ngang qua, tôi đã thấy điều mà tôi chưa bao giờ thấy trước đó – điều vài người có lẽ từng thấy, điều hẳn tôi sẽ chẳng bao giờ thấy nữa – những giọt lệ của một cảnh sát người Nhật. Đám đông rút đi, và để lại tôi mơ màng về cái đức lí lạ lùng của cảnh tượng ban nãy. Đây chính là công lí không thể lay chuyển mà vẫn từ bi – việc thúc đẩy sự hiểu biết về một tội ác bởi người làm chứng đầy lòng cảm thương về hậu quả đơn giản nhất của tội ác ấy. Đây là sự hối hận tuyệt vọng, chỉ cầu mong được thứ tha trước khi chết. Và đây là một công chúng – có lẽ là công chúng nguy hiểm nhất ở Đế chế khi họ nổi giận – cảm thông trọn vẹn, bị xúc động với mọi chuyện, hài lòng với sự ăn năn và nỗi xấu hổ, và được thỏa mãn, không phải với thịnh nộ, mà chỉ với nỗi buồn lớn lao về tội lỗi ấy – thông qua trải nghiệm sâu sắc giản dị về những khó khăn của cuộc đời và sự yếu đuối trong bản tính của con người. Nhưng sự kiện ý nghĩa nhất, vì mang tính phương Đông nhất, của tình tiết chính là lời thỉnh cầu đầy hối hận đã được thực hiện thông qua ý thức của tên tội phạm về tình cha – tình yêu tiềm tàng với trẻ con là một phần rất lớn trong tâm hồn của mọi người Nhật. Có một câu chuyện kể về tên cướp nổi tiếng nhất trong tất cả những tên cướp Nhật, Ishikawa Goemon, có lần ban đêm đột nhập vào một ngôi nhà để giết và trộm đồ, đã bị mê hoặc bởi nụ cười của một đứa bé chìa tay ra với hắn, hắn đã nấn ná chơi cùng sinh linh bé bỏng kia cho đến khi mọi cơ hội tiến hành mục đích của hắn bị bay biến. Chẳng khó để tin câu chuyện này. Năm nào hồ sơ cảnh sát cũng kể về lòng từ bộc lộ với trẻ em của những tên tội phạm chuyên nghiệp. Vài tháng trước có một vụ giết người kinh khiếp được tường thuật trên các tờ báo địa phương – cuộc đồ sát toàn gia của bọn cướp. Bảy người đã bị phân thành nhiều mảnh theo nghĩa đen trong khi say ngủ; nhưng cảnh sát phát hiện một cậu bé hoàn toàn không hề hấn gì, đang khóc một mình trong bể máu; và họ tìm thấy những bằng chứng không thể nhầm lẫn rằng những kẻ thủ ác đã phải cực kì cẩn thận để không làm tổn thương đến đứa trẻ. 2 THIÊN TÍNH CỦA VĂN MINH NHẬT BẢN K I hông mất một con tàu hay thua một trận chiến nào, Nhật Bản đã bẻ gãy quyền lực của Trung Hoa, tạo ra một Hàn Quốc mới, mở rộng lãnh thổ và thay đổi toàn bộ diện mạo chính trị phương Đông. Về mặt chính trị việc này dường như thật đáng kinh ngạc, nhưng về mặt tâm lí còn đáng kinh ngạc hơn nhiều; bởi việc này tượng trưng cho kết quả của một tuồng kịch rộng lớn về những năng lực mà với nó chủng tộc ấy chưa bao giờ được công nhận ở nước ngoài – những năng lực thuộc về một thứ hạng rất cao. Nhà tâm lí biết rằng cái gọi là “sự tiếp nhận văn minh phương Tây” trong một quãng thời gian ba mươi năm không có nghĩa là sự bổ sung vào não trạng Nhật Bản bất kì cơ quan hay sức mạnh nào trước kia vắng mặt trong não trạng ấy. Nhà tâm lí biết rằng việc tiếp nhận ấy không đồng nghĩa với bất kì sự thay đổi đột ngột nào trong đặc tính về tinh thần hay đức lí của chủng tộc đó. Những thay đổi như thế không được tạo ra chỉ trong một thế hệ. Văn minh được chuyển giao hoạt động chậm hơn nhiều, thậm chí còn đòi hỏi hàng trăm năm mới sản sinh được những hệ quả tâm lí ổn cố nhất định. Chính ở góc độ này Nhật Bản có vẻ là quốc gia phi thường nhất trên thế giới; và điều tuyệt vời nhất trong toàn bộ hồi đoạn của “cuộc Tây hóa” đó là não trạng của chủng tộc ấy có thể chịu đựng một cú sốc nặng đến vậy. Tuy nhiên, dù sự kiện kia là vô song trong lịch sử loài người, thực chất nó có nghĩa gì? Chẳng có gì hơn là sự sắp xếp lại một phần trong cơ chế tư duy đã tồn tại trước đó. Ngay cả thế đi nữa, đối với hàng ngàn thanh niên tài trí quả cảm, điều đó là cái chết. Việc tiếp nhận văn minh phương Tây gần như không phải là một vấn đề dễ dàng như những kẻ thiếu suy nghĩ đã tưởng. Và khá hiển nhiên là những điều chỉnh lại về mặt tinh thần kia, tác động với cái giá vẫn còn được kể tới giờ, chỉ đem lại các kết quả tốt theo những hướng mà chủng tộc ấy đã luôn phô bày những năng lực ở những loại hình đặc thù. Theo đó, những thiết bị phát minh về công nghiệp của phương Tây đã được vận hành một cách đáng ngưỡng mộ dưới đôi tay của người Nhật, đã đem lại nhiều kết quả xuất sắc trong những nghề thủ công mà quốc gia ấy vốn đã thiện nghệ, với những cách thức khác và cổ xưa hơn, suốt nhiều thế hệ. Không hề có biến thể nào – chẳng gì hơn ngoài việc chuyển những tố chất cũ vào những kênh mới và rộng lớn hơn. Những ngành chuyên về khoa học cũng nói lên chuyện tương tự. Đối với các dạng khoa học nhất định, như là y khoa, giải phẫu (trên thế giới không có nhà phẫu thuật nào tốt hơn các nhà phẫu thuật người Nhật), hóa học, công nghệ kính hiển vi, thiên tính Nhật Bản thích nghi một cách tự nhiên; và trong tất cả các lĩnh vực này đã có nhiều công trình vang danh thế giới. Trong chiến tranh và nghệ thuật quản lí nhà nước, thiên tính Nhật Bản cũng bộc lộ quyền năng tuyệt diệu; mà trong suốt lịch sử của mình người Nhật đã được đặc trưng bởi năng lực quân sự và chính trị tuyệt vời. Tuy vậy, chẳng có gì đáng chú ý đã được thực hiện, mà lại xa lạ với thiên tính quốc gia ấy. Trong sự nghiên cứu, chẳng hạn, về âm nhạc Tây phương, nghệ thuật Tây phương, văn học Tây phương, thời gian dường như chỉ bị hoài phí.(1) Những thứ này tạo nên sức lôi cuốn phi thường với đời sống xúc cảm của chúng ta; song chúng lại chẳng hề có chút lôi cuốn nào với đời sống xúc cảm của người Nhật. (1) Trong một nghĩa giới hạn, nghệ thuật phương Tây có ảnh hưởng đến văn học và kịch nghệ Nhật; nhưng đặc tính của ảnh hưởng đó chứng tỏ những khác biệt về chủng tộc với điều tôi đề cập. Những vở kịch Âu châu đã được cải biên trên sân khấu Nhật, và các tiểu thuyết Âu châu cũng được viết lại cho độc giả Nhật. Một phiên bản y theo nghĩa đen hiếm khi được thử nghiệm; bởi các tình tiết, tư tưởng, và xúc cảm ở nguyên tác sẽ gây khó hiểu đối với độc giả và khán giả hâm mộ tầm trung. Cốt truyện được tiếp nhận; cảm thức và tình tiết thì biến thể hoàn toàn. Gái hoàn lương (The New Magdalen) trở thành một cô gái Nhật kết hôn với một chàng Eta. Những người khốn khổ của Victor Hugo trở thành một câu chuyện về nội chiến Nhật Bản; và nhân vật Enjolras là một sinh viên Nhật. Có một vài ngoại lệ hiếm hoi, gồm cả thành công đáng lưu ý của một bản dịch y theo từng chữ của Nỗi đau của chàng Werther. Mọi nhà tư tưởng nghiêm túc đều biết rằng sự biến thể về xúc cảm của cá nhân thông qua giáo dục là bất khả. Tưởng rằng đặc tính xúc cảm của một chủng tộc phương Đông có thể bị biến dạng trong quãng thời gian ba mươi năm ngắn ngủi, bởi sự tiếp xúc với các ý niệm phương Tây, là ngớ ngẩn. Đời sống xúc cảm, xưa cũ hơn đời sống trí năng, và sâu hơn, không thể bị biến đổi đột ngột bởi sự thay đổi của hoàn cảnh hơn bề mặt của một tấm gương có thể bị thay đổi bởi những phản chiếu thoáng qua được. Nhật Bản đã có khả năng thực hiện mọi thứ rất tốt đẹp mà không có bất cứ sự tự biến thể nào; và những ai tưởng rằng ngày nay về mặt xúc cảm nàng gần gũi với chúng ta hơn ba mươi năm trước đã lờ đi những sự kiện về khoa học vốn không có chỗ cho sự tranh luận. Sự đồng cảm được hạn định bởi nhận thức. Chúng ta có thể đồng cảm trong cùng mức độ mà chúng ta hiểu. Một người có thể tưởng tượng rằng mình đồng cảm với một người Nhật hoặc một người Hoa; nhưng sự đồng cảm không bao giờ có thể thực có nhiều hơn một mức độ nhỏ ngoại trừ các phương diện đơn giản nhất trong đời sống xúc cảm chung – những phương diện trong ấy trẻ em và người lớn đều như nhau. Những cảm xúc phức tạp hơn của người phương Đông đã được làm nên từ sự kết hợp các trải nghiệm, thuộc về tổ tiên và cá nhân, điều không có sự tương xứng chuẩn xác thực thụ ở đời sống phương Tây, và là điều mà bởi thế chúng ta không thể biết đầy đủ được. Vì nhiều lí do trái ngược, người Nhật không thể, dẫu họ sẽ, trao cho người Âu châu sự đồng cảm tột bậc của mình. Nhưng trong khi người Tây phương vẫn không thể phân định được sắc thái đích thực của đời sống Nhật, dù là trí năng hay xúc cảm (bởi cái này đan dệt vào cái kia), đúng là không có cách nào để họ thoát ra khỏi sự xác tín rằng, so với chính mình, đời sống Nhật quá nhỏ bé. Thanh nhã; nó ẩn chứa những tiềm năng vi tế về tầm quan trọng và giá trị hiếm thấy nhất, nhưng mặt khác nó nhỏ đến mức mà đời sống phương Tây, tương phản với nó, gần như trở nên có vẻ siêu nhiên. Bởi vì chúng ta cứ phải đánh giá thông qua những biểu hiện hữu hình và có thể đo lường được. Sự đánh giá như thế, đúng là một tương phản về thế giới xúc cảm và trí năng giữa phương Đông và phương Tây! Chẳng nổi bật tí gì nếu so những con phố lát gỗ mỏng manh ở thủ đô Nhật Bản với sự vững chắc đồ sộ của một đại lộ thênh thang ở Paris hoặc London. Khi so sánh những biểu lộ mà phương Đông và phương Tây đã đưa ra với những mơ mộng, những khát vọng, và các cảm thức của họ – một giáo đường Gothic với một ngôi đền Thần đạo, một vở nhạc kịch của Verdi hoặc một tam tấu khúc của Wagner với màn trình diễn của một geisha, một sử thi châu Âu với một bài thơ Nhật – khác biệt biết bao nhiêu mà kể về khối lượng xúc cảm, về sức mạnh tưởng tượng, về tổng quan nghệ thuật! Đúng, âm nhạc của chúng ta về cơ bản là nghệ thuật hiện đại; nhưng nhìn lại xuyên suốt quá khứ của chúng ta, sự khác biệt về hiệu lực sáng tạo hiếm khi được chỉ ra là nhỏ hơn – chắc chắn không phải trong giai đoạn nguy nga thời La Mã, với những cầu trường bằng đá cẩm thạch và hệ thống cống nước trải dài khắp các tỉnh, càng không phải trong giai đoạn Hi Lạp về thần tính trong điêu khắc và về cái tối thượng trong văn học. Và điều này dẫn đến chủ đề về một sự kiện tuyệt diệu nữa trong sự phát triển đột biến của quyền lực Nhật Bản. Những dấu hiệu vật chất bên ngoài của sức mạnh vô hạn mới đó đang được bộc lộ ở đâu trong cả năng lực sản xuất và chiến tranh? Chẳng đâu cả! Điều chúng ta không thấy trong đời sống xúc cảm và trí năng cũng vắng mặt trong đời sống công nghiệp và thương mại của nàng – sự rộng lớn! Đất đai vẫn như trước; diện mạo của nó chẳng bị biến đổi mấy bởi tất cả những biến chuyển của thời Minh Trị. Những đường ray nhỏ nhắn và những cột điện báo, những cây cầu cùng những đường hầm, hầu hết có thể thoát khỏi sự chú ý trong màu xanh cổ xưa của phong cảnh. Trong mọi thành phố, trừ các cảng mở và những khu định cư nhỏ của người nước ngoài, gần như không có một cảnh phố nào gợi lên giáo huấn của các ý niệm Tây phương. Bạn có thể du hành qua suốt hai trăm dặm nội địa của quốc gia này, để tìm trong vô vọng những biểu hiện lớn của nền văn minh mới. Quả chẳng ở đâu bạn thấy được ngành thương mại đang trưng ra tham vọng của mình với những nhà kho khổng lồ, hoặc ngành công nghiệp đang bành trướng cơ cấu bên dưới hàng mẫu mái nhà. Một thành phố Nhật vẫn, như chính nó mười thế kỉ trước, nhỏ hơn cả một vùng điền dã gồm những nhà xưởng bằng gỗ – đẹp lung linh, thực vậy, hệt những chiếc đèn lồng bằng giấy, nhưng hẳn là ít mỏng manh hơn. Và chẳng hề có sự xáo động và ồn ào nào lớn ở bất cứ đâu – chẳng ùn tắc giao thông, không rùm beng rầm rập, chẳng gấp rút nộ cuồng. Chính ở Tokyo bạn có thể tận hưởng, nếu muốn, sự thanh bình của một làng quê. Sự thiếu đi những dấu hiệu có thể thấy và nghe được của lực lượng mới này – lực lượng mà giờ đây đang đe dọa những khu chợ của người Tây và đang thay đổi bản đồ vùng Viễn Đông – cho người ta một cảm giác lạ lùng, thậm chí còn có thể nói là kì cục. Điều đó gần giống với cảm thức thu nhận được lúc, sau khi leo hàng dặm dài trong im lặng để đến được một điện thờ Thần đạo nào đó, bạn chỉ thấy rỗng rang và cô tịch – một cấu trúc nhỏ trống trải, thấp tè, đang đổ bóng xuống ngàn năm. Sự mạnh mẽ của Nhật Bản, hệt như sự mạnh mẽ trong đức tin cổ xưa của nàng, ít cần sự phô trương về vật chất: cả hai tồn tại ở chốn tồn tại quyền năng thực thụ thâm sâu nhất của bất cứ dân tộc nào – Hồn thiêng của Giống nòi đó. II Khi tôi mơ màng, hồi ức về thành phố to lớn nọ quay lại trong tôi – một thành phố tường xây bít bùng lên tận trời và gầm gào hệt biển. Kí ức về tiếng gầm đó quay lại trước tiên; rồi tầm nhìn vạch rõ: một khe nứt sâu, là đường phố, giữa những ngọn núi, là những tòa nhà. Tôi mệt lử, vì đã cuốc bộ nhiều dặm giữa những vách đứng của khối nề đó, và chẳng hề giẫm chân lên mặt đất – chỉ toàn những phiến đá lát – và chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng sấm náo động xô bồ. Sâu bên dưới những vỉa hè khổng lồ đó tôi biết có một thế giới hang hốc bao la: lớp lớp hệ thống những đường lối được trù liệu cho nước, hơi nước và lửa. Mọi mặt tiền của những ngọn tháp bị rạch nát bởi tầng tầng cửa sổ – những vách dựng kiến trúc chặn đứng mặt trời. Bên trên, vệt xanh nhạt của bầu trời bị cắt vụn bởi một mê lộ những đường tơ nhện – một mạng lưới bủa dây điện vô tận. Chín ngàn linh hồn cư ngụ trong khối bên phải; còn những người thuê cấu trúc đồ sộ đối diện nó phải trả một triệu đô-la tiền mướn nhà hằng năm. Bảy triệu đô hầu như cũng chẳng đủ để chi trả những khối lù lù đang phủ bóng đến quảng trường phía xa kia – và có hàng dặm công trình như vậy. Những cầu thang bằng thép và xi- măng, bằng đồng và đá, với những hàng tay vịn đắt giá bậc nhất, cất cao suốt hàng mười và hai mươi tầng lầu; nhưng chẳng có bàn chân nào bước lên. Bằng thủy lực, bằng hơi nước, bằng điện, người ta đi lên đi xuống; các cao điểm quá chóng mặt, những khoảng cách quá lớn, không thể leo bộ được. Bạn tôi trả năm ngàn đô-la để thuê phòng cho mình trên tầng mười bốn của một khối quái dị không xa lắm cũng chưa bao giờ đặt chân lên cầu thang. Tôi đang đi bộ một mình vì hiếu kì; nếu vì một mục đích nghiêm túc, hẳn tôi sẽ không cuốc bộ: không gian quá rộng, thời gian quá quý giá, với sự gắng sức chậm chạp đến thế – người ta du hành từ quận này sang quận kia, từ nhà đến văn phòng, bằng hơi nước. Các đỉnh quá cao, tiếng nói không thể băng ngang được; các mệnh lệnh được ban ra và tuân thủ bởi máy móc. Bằng điện, những cánh cửa được mở từ xa; với một cú chạm hàng trăm căn phòng được thắp sáng và sưởi ấm. Và toàn bộ sự khuếch trương này là thô cứng, hung tợn, trì độn; đó là sự khuếch trương sức mạnh toán học áp lên các mục đích vị lợi về sự vững vàng và bền chắc. Các tổ hợp gồm những cung điện, nhà kho, cơ sở kinh doanh, những tòa nhà có thể mô tả và không thể mô tả này, chẳng đẹp đẽ gì, mà còn dữ dằn. Người ta cảm thấy thất vọng bởi cảm giác nhỏ nhoi về đời sống khổng lồ đã tạo ra họ, đời sống không có sự cảm thông; sự thị uy kì lạ về sức mạnh, sức mạnh mà không có lòng trắc ẩn. Chúng là lời phát biểu về kiến trúc của thời đại công nghiệp mới. Và chẳng hề có sự ngơi nghỉ trong cơn sấm động của bánh xe, trong dòng bão cuốn của móng guốc và chân người. Để hỏi một câu gì, người ta phải hét vào tai người được hỏi; để nhìn, để hiểu, để di chuyển trong môi trường áp lực cao đó, cần có kinh nghiệm. Những cảm giác không quen thuộc, ý thức về hiện hữu trong một cơn hoảng loạn, một cơn giông tố, một cơn lốc xoáy. Nhưng tất cả điều này lại là trật tự. Những con đường quái dị băng qua những dòng sông, vắt qua những eo biển, với những cây cầu bằng đá, bằng thép. Xa mút tầm mắt, một đống rối nùi những cột, một công trình sắp dựng chằng chịt, che đi những bờ biển, là những vách đứng của các khối nề. Cây cối trong rừng ít rậm rạp, cành nhánh đan xen vào nhau ít san sát hơn là những cột và trụ của cái mê cung khôn lường kia. Nhưng tất cả những thứ đó lại là trật tự. III Nói chung, chúng ta xây dựng hòng trường tồn, người Nhật lại vì vô thường. Rất ít thứ dùng phổ biến được làm ra ở Nhật với ý muốn bền lâu. Những đôi dép rơm mòn hỏng và được thay ở mỗi chặng hành trình; y phục gồm một vài khổ vải đơn giản cột lỏng lẻo với nhau để mặc, và không cần tháo rời từng phần để giặt, đũa mới phục vụ cho từng vị khách mới ở khách sạn; vách shoji bọc giấy mỏng để lấy sáng cùng lúc được dùng ở cả cửa sổ và tường, và được dán lại hai lần mỗi năm; chiếu thảm được thay mới mỗi mùa thu – tất cả những thứ này chỉ là những ví dụ ngẫu nhiên trong vô số những thứ nhỏ nhặt của đời sống thường nhật minh họa cho sự bằng lòng của quốc gia ấy với tính vô thường. Còn chuyện chỗ ở phổ biến của người Nhật thì sao? Rời nhà mình vào buổi sáng, tôi quan sát, khi tôi băng qua góc phố giao với con phố tôi ở, một số người đang dựng những cây cột tre trên lô đất trống nơi đó. Quay về sau năm giờ vắng mặt, tôi thấy trên cũng lô đất ấy bộ khung của một ngôi nhà hai tầng. Hết sáng hôm sau tôi thấy các bức vách gần như đã hoàn thiện – bằng bùn và liếp tre. Mặt trời gần lặn thì mái nhà đã được lợp xong. Sáng kế đó tôi quan sát thấy các tấm chiếu đã được trải xuống, và việc trát tường bên trong đã hoàn thành. Nội trong năm ngày ngôi nhà đã hoàn thiện. Dĩ nhiên, đây là công trình ít tiền; một công trình tốt sẽ mất thời gian dựng lên và hoàn thiện lâu hơn. Nhưng các thành phố Nhật đa phần đều xây dựng những công trình phổ biến như vậy. Chúng ít tốn kém như sự đơn giản của chúng vậy. Bây giờ tôi không nhớ lần đầu tôi gặp được lời nhận xét rằng mái nhà của người Trung Hoa có thể bảo lưu kí ức của căn lều du mục. Ý niệm đó đã ám ảnh tôi mãi sau khi tôi đã vô ơn quên đi cuốn sách mà tôi tìm thấy điều đó; và vào lần đầu tiên tôi thấy, ở Inzumo, cái cấu trúc độc đáo của những ngôi đền Thần đạo cũ, với những phần nhô ra theo đường chéo ở những đầu hồi và trên những sống mái, gợi ý của nhà tiểu luận đã bị lãng quên nọ về khởi nguyên có thể có của những hình thức ít cổ xưa hơn nhiều quay trở lại trong tôi với sự thôi thúc to lớn. Nhưng bên cạnh đó, ở Nhật có nhiều truyền thống kiến trúc nguyên thủy chỉ ra một tổ tiên du mục với chủng tộc này. Luôn luôn và ở khắp nơi có một sự vắng mặt hoàn toàn cái chúng ta sẽ gọi là vững chắc; và dường như những đặc tính của vô thường ghi dấu ở hầu hết mọi thứ trong đời sống ngoại diện của dân tộc này, ngoại trừ, quả vậy, trang phục có từ xưa của người nông dân và hình dáng công cụ lao động của họ. Không phải nhắc lại thực tế rằng ngay cả ở những giai đoạn tương đối ngắn trong sử sách Nhật Bản đã có hơn sáu mươi thủ đô, trong đó một số lượng lớn đã hoàn toàn biến mất, đại khái có thể phát biểu rằng mọi thành phố Nhật được tái thiết chỉ trong thời gian của một thế hệ. Một số ngôi đền và một vài thành lũy khổng lồ cung cấp những ngoại lệ; nhưng, như là một quy luật phổ quát, thành phố Nhật thay đổi nền tảng của nó, nếu không nói là hình dạng của nó, trong một đời người. Hỏa hoạn, động đất, và nhiều nguyên nhân khác phần nào giải thích cho điều này; tuy nhiên, lí do chính là những ngôi nhà ấy không được xây dựng để trụ lâu. Dân chúng bình thường không có nhà tổ. Chốn khắng khít với tất cả, không phải nơi sinh, mà là nơi chôn cất; và ít có sự lưu giữ vĩnh cửu những nơi yên nghỉ của người chết và những điện thờ của tổ tiên. Tự thân mảnh đất ấy là một mảnh đất của vô thường. Những con sông chuyển dòng, những bờ biển phác ra hình dáng bên ngoài, những bình nguyên bằng phẳng; những ngọn núi lửa trồi lên hoặc sụp xuống, những thung lũng bị phong tỏa bởi dòng dung nham hay sạt lở đất; những ao hồ xuất hiện rồi biến mất. Ngay cả hình dáng vô song của núi Phú Sĩ, cái phép màu phủ tuyết đã truyền hứng cho các nghệ sĩ suốt nhiều thế kỉ ấy, cũng được cho là đã thay đổi chút ít từ khi tôi có mặt ở đất nước này; và không chỉ một vài ngọn núi khác trong cùng quãng thời gian ngắn ngủi ấy đã khoác lên những hình dạng hoàn toàn mới. Chỉ những đường nét khái quát của dải đất, diện mạo khái quát của thiên nhiên nơi ấy, những đặc điểm khái quát của bốn mùa, là còn cố định. Thậm chí chính vẻ đẹp của các phong cảnh phần lớn cũng huyền ảo – một vẻ đẹp của những sắc màu biến hóa và sương mù chuyển dịch. Trong lịch sử của quần đảo này, chỉ những ai quen thuộc với những phong cảnh ấy mới có thể biết những ngọn núi hư ảo của họ chế nhạo những biến đổi thực sự đã xảy ra, và các tiên đoán mơ hồ về những biến đổi khác còn chưa đến như thế nào thôi. Những vị thần, quả vậy, vẫn năng lui tới nhà của họ trên những ngọn đồi, loan truyền một nỗi kính sợ tôn giáo mềm mại qua ánh sáng nhá nhem ở các mộ phần của mình, có lẽ bởi họ không có hình thể và thực chất. Các điện thờ của họ hiếm khi hoàn toàn rơi vào quên lãng, hệt như những chốn trú ngụ của con người. Nhưng mọi ngôi đền Thần đạo đều nhất thiết phải trùng tu ít nhiều ở những khoảng thời gian ngắn; và nơi thiêng liêng nhất – Thần cung Ise – phải được dỡ bỏ mỗi hai mươi năm, và gỗ xây dựng nên nó được cắt thành hàng ngàn mảnh bùa nhỏ, phân phát cho khách hành hương. Từ miền Bắc Ấn Độ, qua Trung Quốc, đạo Phật đã đến, với giáo lí bao la về vô thường. Những người kiến thiết các ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Nhật Bản – các kiến trúc sư của một chủng tộc khác – đã xây dựng tốt: bằng chứng là những cấu trúc Trung Hoa ở Kamakura đã sống sót qua nhiều thế kỉ, trong khi những thành phố lớn từng tồn tại quanh chúng chẳng còn một dấu tích nào. Nhưng sự ảnh hưởng về tâm lí của Phật giáo không nằm ở chỗ đẩy tâm trí người ta vào tình yêu với sự ổn cố về vật chất. Lời dạy rằng vũ trụ là một ảo tượng; rằng cuộc đời chỉ là một trạm dừng chốc lát trên một hành trình vô tận; rằng mọi chấp trước vào con người, vào địa điểm, hoặc vào những thứ ắt gây chồng chất đau buồn; rằng chỉ thông qua sự chế ngự mọi khát vọng – ngay cả chính khát vọng về Niết Bàn – loài người mới có thể đạt tới bình an vĩnh cửu, chắc chắn đã hòa điệu với cảm thức về chủng tộc xa xưa hơn nữa. Dù dân chúng không bao giờ để chính họ bị choán đầy với triết lí thâm sâu hơn của đức tin ngoại quốc, giáo lí về vô thường của nó, theo dòng thời gian, nhất định đã ảnh hưởng sâu sắc đến đặc tính của quốc gia ấy. Nó giải thích và an ủi; nó truyền cho năng lực mới cái ý hướng để dũng cảm chịu đựng mọi chuyện; nó củng cố một điều rằng nhẫn nại là một nét tiêu biểu của chủng tộc ấy. Thậm chí trong nghệ thuật Nhật Bản – dưới ảnh hưởng của Phật giáo, đã phát triển, nếu không phải sáng tạo thực thụ – giáo lí về vô thường cũng để lại dấu vết của mình. Đạo Phật dạy rằng tự nhiên là một giấc mộng, một huyễn tưởng, một ảo ảnh; nhưng cũng dạy con người làm thế nào để nắm bắt những ấn tượng thoáng qua của giấc mộng đó, và làm sao để giải thích chúng trong mối liên hệ với chân lí tối thượng. Và người Nhật đã học tốt. Trong vẻ xán lạn rạng rỡ căng tràn mãn khai của mùa xuân, trong cuộc đến rồi đi của ve sầu, trong sắc đỏ thẫm phai dần của tán lá mùa thu, trong vẻ đẹp ma mị của tuyết, trong sự dịch chuyển huyễn hóa của sóng nước hoặc mây trời, họ đã thấy những ngụ ý xưa cũ của ý nghĩa vĩnh hằng. Ngay cả những thiên tai – hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, dịch bệnh – cũng không ngừng giải thích cho họ giáo lí về sự Tiêu vong vĩnh cửu. Vạn hữu tồn tại trong Thời gian đều phải tiêu vong. Rừng, núi – vạn hữu tồn tại như thế. Trong Thời gian vạn hữu được sinh ra đều có dục vọng. Mặt Trời và Mặt Trăng, chính cả thần Sakra, cùng hết thảy các quần thể tùy tùng của ngài, đều sẽ tiêu vong, không có ngoại lệ; chẳng có ai sống mãi. Ở khởi đầu mọi thứ được gắn kết; khi kết thúc chúng lại rã riêng: những tổ hợp khác nhau làm nên những thực thể khác; bởi trong tự nhiên không có nguyên lí đồng nhất và bất biến nào cả. Vạn hữu được hợp thành đều phải già đi; vô thường chính là vạn hữu được hợp thành. Thậm chí tới một hạt mè cũng chẳng có gì như là một hợp chất thường còn. Tất cả đều nhất thời; hết thảy đều mang tính chất cố hữu của tan hoại. Vạn hữu được hợp thành, không có ngoại lệ, đều vô thường, bất định, đáng xem nhẹ, chắc chắn phải giã từ, đang tan rã; hết thảy đều tạm bợ như một ảo giác, một bóng ma, hoặc như bọt nước… Y hệt mọi chiếc bình đất nung được nặn ra bởi người thợ gốm cuối cùng đều bị vỡ, đời người cuối cùng cũng như vậy. Và một niềm tin vào tự thân vật chất là không nên nhắc đến và không thể diễn tả – đó không phải một thứ mỏng manh, cũng không phải hư vô: và điều này thậm chí đến trẻ em và những người thất học cũng biết đến. IV Bây giờ đáng để hỏi xem liệu có giá trị bù đắp nào đó gắn liền với tính vô thường và tính nhỏ bé này trong đời sống của quốc gia không. Đời sống ấy không có gì đặc trưng hơn là tính lưu động cực hạn của nó. Cư dân Nhật đại diện cho một môi trường có những phần tử lưu thông thường xuyên. Sự chuyển dịch nằm trong tính độc hữu tự thân nó. Nó lớn rộng và kì đặc hơn sự chuyển dịch của cư dân các nước phương Tây, dù mỏng yếu hơn về nhiều điểm. Nó cũng tự nhiên hơn nhiều – tự nhiên đến mức nó có thể tồn tại trong nền văn minh phương Tây. Tính di động tương đối của một khối cư dân châu Âu và cư dân Nhật có thể được biểu lộ qua một so sánh giữa những tốc độ dao động cao nào đó với những cái thấp hơn. Nhưng các tốc độ cao sẽ đại diện cho, trong một so sánh như vậy, hệ quả của áp lực nhân tạo; còn các dao động chậm hơn thì không. Và sự khác biệt về loại hình này sẽ có ý nghĩa nhiều hơn những chỉ dấu trên bề mặt có thể tuyên bố. Theo hướng nào đó, những người Mĩ có thể đúng với việc nghĩ họ là những lữ khách lớn. Theo hướng khác, chắc chắn họ sai; như là một lữ khách, người dân Mĩ không thể so được với người dân Nhật. Và đương nhiên, khi xem xét tính di động tương đối của dân số, chính yếu người ta phải xét đến những khối lớn – những người lao động, chứ không phải những tầng lớp giàu có nhỏ. Ở đất nước mình, người Nhật là những lữ khách lớn nhất trong bất cứ dân tộc văn minh nào. Họ là những lữ khách lớn nhất bởi lẽ, ngay trong một vùng đất chủ yếu gồm nhiều dãy núi, họ nhận thấy chẳng có chướng ngại nào để du hành. Người Nhật du lịch nhiều nhất không phải là người cần đến các tuyến hỏa xa hay các đầu máy hơi nước để mang mình đi. Hiện giờ, người lao động thông thường của chúng ta ít tự do hơn người lao động thông thường ở Nhật một cách không thể so nổi. Họ ít tự do vì cơ chế phức tạp hơn ở các xã hội phương Tây, nơi có các áp lực mang khuynh hướng dồn tụ và tích hợp thống nhất. Họ ít tự do hơn vì guồng máy xã hội và công nghiệp mà họ tùy thuộc vào biến đổi họ với các yêu cầu đặc thù của riêng nó, và luôn luôn nhằm vào việc tiến triển một năng lực cá biệt và nhân tạo nào đó với giá trả là năng lực vốn có khác. Họ ít tự do hơn vì họ phải sống ở mức tiêu chuẩn khiến họ không thể giành được sự độc lập về tài chính bằng cách tiết kiệm đơn thuần. Để đạt được bất kì sự độc lập nào như vậy, họ phải sở hữu đặc điểm ngoại lệ và những khả năng ngoại lệ lớn hơn hẳn hàng ngàn đối thủ ngoại lệ cũng đang háo hức thoát khỏi tình trạng áp chế tương tự. Vắn tắt, thì, họ ít độc lập hơn vì đặc tính cá biệt của nền văn minh nơi họ sống làm tê liệt sức mạnh tự nhiên của họ để sống không cần đến sự trợ giúp của guồng máy hoặc vốn tư bản lớn. Sống nhân tạo thế kia có nghĩa là để mất, sớm hay muộn, quyền di chuyển một cách độc lập. Trước khi di chuyển, một người Tây phương có quá nhiều thứ phải cân nhắc. Còn một người Nhật thì không hề. Người ấy chỉ đơn giản rời bỏ nơi mình không thích, rồi tới chỗ mình muốn, chẳng có bất kì rắc rối nào. Không có gì ngăn cản người ấy hết. Nghèo khó không phải là một trở ngại, mà là một kích thích. Hành lí chẳng có gì, hoặc chỉ là thứ người ấy có thể bỏ gói trong vài phút. Những khoảng cách chẳng nghĩa lí gì với họ. Tự nhiên đã ban tặng họ đôi chân hoàn hảo có thể băng qua năm mươi dặm một ngày mà chẳng hề đau đớn; một cái dạ dày có hóa chất chiết xuất được nguồn dinh dưỡng phong phú từ thực phẩm mà với nó không người Âu châu nào sống nổi; và một cấu tạo cơ thể xem thường nhiệt, lạnh, và ẩm ướt như nhau, vì vẫn chưa bị suy sút bởi quần áo không lành mạnh, bởi những tiện nghi thừa mứa, bởi thói quen tìm kiếm sự ấm áp từ bếp lò và lò sưởi, và bởi thói quen mang giày da. Dường như với tôi đặc điểm giày dép của chúng ta biểu thị nhiều điều hơn nó thường được gán cho. Tự thân giày dép đại diện cho một sự cản trở tự do cá nhân. Nó biểu thị điều này ngay trong giá cả; nhưng về hình thức còn nhiều hơn vô cùng. Nó đã làm bàn chân người phương Tây biến dạng so với hình dáng ban đầu, và khiến cho bàn chân mất đi cái công năng vận hành mà bởi đó nó được tiến hóa. Những hệ quả thể chất không chỉ giới hạn ở bàn chân. Bất cứ hành động nào như là một sự cản trở, trực tiếp hay gián tiếp, lên các cơ quan vận động phải mở rộng các ảnh hưởng của nó lên toàn bộ cấu tạo thể chất. Cái xấu có phải chỉ dừng ngay đó thôi không? Có lẽ chúng ta chấp nhận những quy ước phi lí nhất hiện tồn trong bất kì nền văn minh nào bởi vì chúng ta đã chấp nhận sự chuyên chế của những thợ đóng giày quá lâu rồi. Có thể có nhiều khiếm khuyết trong chính trị, trong đạo đức xã hội, trong hệ thống tôn giáo của chúng ta, ít nhiều liên quan đến thói quen mang giày da. Khuất phục cái gò bó của cơ thể nhất định phải hỗ trợ cho việc phát triển sự khuất phục trước cái gò bó của tâm trí. Người dân Nhật – người lao động có tay nghề có thể chịu giá thấp mà không cần cố gắng so với bất cứ thợ thủ công phương Tây nào trong cùng ngành công nghiệp – vẫn vui vẻ độc lập với cả thợ đánh giày lẫn thợ may. Chân họ nhìn vẫn tốt, cơ thể họ vẫn khỏe, và trái tim họ tự do. Nếu muốn lên đường thiên lí, họ có thể sẵn sàng cho hành trình của mình trong vòng năm phút. Toàn bộ trang bị của họ không cần đến bảy mươi lăm xu Mĩ; và toàn bộ hành lí của họ có thể gói gọn trong một chiếc khăn tay. Với mười đô-la họ có thể du lịch cả năm mà không làm việc, hoặc có thể du lịch bằng khả năng làm việc của mình, hoặc có thể du lịch như một khách hành hương. Có lẽ bạn sẽ đáp trả rằng bất cứ kẻ man dã nào cũng có thể làm chuyện tương tự. Đúng, nhưng bất cứ người văn minh nào cũng không thể; và người Nhật lại là một dân tộc có nền văn minh cao chí ít cũng đã ngàn năm. Bởi thế năng lực hiện tại của họ đe dọa những nhà sản xuất Tây phương. Chúng ta đã quá quen với việc liên tưởng kiểu di động độc lập này với đời sống của những người ăn xin và lang thang của chính chúng ta để có bất cứ quan niệm đúng đắn nào về ý nghĩa thực chất của nó. Chúng ta cũng đã nghĩ về nó trong mối liên kết với những điều khó chịu – những thứ không sạch sẽ và có mùi hôi. Nhưng, như giáo sư Chamberlain đã nói rõ, “một nhóm người Nhật là điều dễ chịu nhất thế giới”. Kẻ lang thang người Nhật của bạn tắm nước nóng hàng ngày, nếu người ấy có một vài hào để trả cho việc đó, hoặc tắm nước lạnh, nếu không. Trong chiếc đãy nhỏ của mình họ có đủ lược, tăm, dao cạo, bàn chải đánh răng. Họ không cho phép mình trở nên khó ưa. Đến đích, họ có thể biến mình thành một vị khách tác phong chỉnh tề, và không sai sót dù ăn vận giản dị.(2) (2)Các nhà phê bình đã cố giễu lời nhận xét của Ngài Edwin Arnold rằng một đám đông Nhật có mùi như mùi hoa phong lữ. Tuy nhiên sự ví von đó là chính xác! Nước hoa được gọi là jako, hiếm khi được dùng, có thể dễ dàng bắt được mùi của loài phong lữ xạ hương. Hầu như trong bất cứ cuộc họp mặt kiểu Nhật nào có phụ nữ cũng có thể nhận ra được một mùi nước hoa jako phảng phất; vì những bộ trang phục ấy được xếp trong những ngăn tủ chứa một vài hạt jako. Ngoại trừ hương thơm thanh tao này, một nhóm người Nhật tuyệt đối không có mùi gì. Khả năng sống không có trang thiết bị, không có đồ đoàn, với lượng quần áo gọn ghẽ ít nhất có thể, cho thấy nhiều lợi thế được dân tộc Nhật duy trì trong cuộc đấu tranh với đời sống; nó cũng cho thấy đặc tính thực sự của một số yếu kém trong nền văn minh của chính chúng ta. Nó buộc chúng ta nhìn nhận lại sự đa dạng vô dụng trong những nhu cầu hàng ngày của chúng ta. Chúng ta phải có thịt và bánh mì và bơ; cửa sổ kính và lò lửa; mũ, áo sơ-mi trắng, đồ lót len; ủng và giày; rương, túi, hộp; khung giường, nệm, ga trải, và chăn: tất cả những thứ đó một người Nhật có thể không cần có, và thực sự tốt hơn là không nên có. Thử nghĩ một chút xem chỉ riêng một món trang phục Tây phương đắt giá là sơ-mi trắng thì quan trọng đến đâu nào! Tuy nhiên ngay cả sơ-mi vải lanh, cái được gọi là “huy hiệu của một quý ông”, tự thân nó là một món y phục vô dụng. Nó chẳng đem đến sự ấm áp cũng như thoải mái. Trong các kiểu cách của chúng ta nó đại diện cho sự sống sót của cái gì đó từng là một sự phân biệt đẳng cấp sang trọng, nhưng ngày nay thì vô nghĩa và vô ích như những chiếc nút áo khâu bên ngoài tay áo khoác vậy. V Sự tuyệt nhiên thiếu vắng các dấu hiệu khổng lồ trong những thứ thực sự khổng lồ mà Nhật Bản đã làm là bằng chứng cho cách thức rất đỗi kì đặc mà nền văn minh của nàng đang vận hành. Không thể vận hành như vậy mãi mãi; nhưng nó đã vận hành như thế cho đến nay với thành công kì diệu. Nhật đang sản xuất mà không có vốn tư bản, trong nghĩa rộng của chúng ta về từ này. Nàng đã trở nên công nghiệp mà hồn cốt không trở nên máy móc và nhân tạo. Vựa gạo bao la được trồng cấy trên hàng triệu những trang trại bé xíu; vụ lụa, trong hàng triệu những căn nhà nhỏ khiêm nhường; vụ trà, trên vô số rẻo đất ít ỏi. Nếu bạn viếng thăm Kyoto để đặt mua món gì đó từ một trong những nhà sản xuất đồ sứ lớn nhất thế giới, có các sản phẩm được biết tiếng ở London và Paris thậm chí còn nhiều hơn ở Nhật, bạn sẽ thấy công xưởng chỉ là một nếp nhà gỗ mà ắt chẳng một nông dân Mĩ nào chịu sống ở đó. Nhà chế tạo bình pháp lam lớn nhất, có thể đòi bạn hai trăm đô-la cho vật gì đó cao chừng hơn mười phân, sản xuất những phép màu của họ dưới một mái nhà hai tầng có khoảng sáu căn phòng nhỏ. Những chiếc đai lụa làm tại Nhật, và vang danh khắp Đế chế, được dệt trong một ngôi nhà hầu như không tốn tới năm trăm đô-la để dựng lên. Dĩ nhiên, tác phẩm được dệt tay. Nhưng các công xưởng đang dệt bằng máy – và đang dệt tốt đến mức tàn phá các kĩ nghệ ngoại quốc có năng suất rộng lớn hơn nhiều – hầu như cũng không gây ấn tượng hơn mấy, với rất ít trường hợp ngoại lệ. Chúng là các nhà xưởng dài, gọn nhẹ, thấp chừng một hoặc hai tầng, giá thành xây dựng chỉ ngang với một dãy chuồng ngựa bằng gỗ của chúng ta. Song các nhà xưởng như thế này xuất ra những thứ lụa bán đi khắp thế giới. Thỉnh thoảng chỉ bằng cách hỏi, hoặc bằng tiếng vo vo của máy móc, bạn mới có thể phân biệt được một công xưởng với một yashiki (ốc phu – khu nhà ở) hoặc một ngôi trường Nhật Bản theo kiểu cổ, trừ phi bạn thực sự có thể đọc các Hán tự trên cổng khuôn viên. Một số công xưởng và nhà máy bia xây bằng gạch lớn có tồn tại; nhưng rất ít, và thậm chí khi đứng gần các khu định cư của người nước ngoài chúng dường như không tương hợp với cảnh quan. Những khối kiến trúc kì dị và những ngọn tháp máy móc đồ sộ của chúng ta tồn tại nhờ vào những tích lũy vô hạn về vốn tư bản công nghiệp. Nhưng các tích lũy như vậy không tồn tại ở vùng Viễn Đông này; thực vậy, vốn tư bản làm nên chúng không tồn tại. Và giả sử trong quá trình một vài thế hệ đó có hình thành ở Nhật những kết hợp tương xứng với tài lực, không dễ để cho rằng có những tương xướng trong công trình kiến trúc. Ngay cả những dinh thự hai tầng bằng gạch cũng đã đem lại những hậu quả xấu ở các trung tâm thương mại hàng đầu; và động đất dường như phán quyết rằng Nhật Bản phải vĩnh viễn đơn giản trong xây dựng. Chính đất đai đã nổi lên chống lại sự áp đặt của kiến trúc phương Tây và thậm chí đôi khi còn phản đối luồng giao thông mới bằng cách đẩy những tuyến đường sắt ra khỏi đồng bằng và uốn lượn. Không chỉ công nghiệp vẫn giữ sự không hội nhập như vậy; mà tự thân chính phủ cũng phơi bày một trạng thái y hệt. Không có gì cố định ngoại trừ Ngai vàng. Sự thay đổi thường xuyên đồng nhất với chính sách nhà nước. Các bộ trưởng, thống đốc, tổng quản nhiệm, thanh tra viên, mọi công viên chức dân sự và quân sự cấp cao, đều được chuyển đổi với những quãng thời gian ngắn bất thường và đáng ngạc nhiên, và hàng loạt những công viên chức nhỏ hơn phân tán đi mỗi lúc cùng cơn lốc xoáy. Tỉnh lị nơi mà tôi đã trải qua mười hai tháng đầu tiên trong quá trình cư ngụ của mình ở Nhật đã có bốn thống đốc khác nhau trong năm năm. Trong thời gian tôi lưu lại Kumamoto, và trước khi cuộc chiến bắt đầu, quân lệnh về chức vụ quan trọng đó đã thay đổi ba lần. Học viện chính phủ trong ba năm có tới ba quan đốc chính. Đặc biệt, trong giới học thức, tốc độ của những thay đổi như vậy đã thành hiện tượng. Có đến năm bộ trưởng giáo dục khác nhau nội trong thời của tôi, và hơn năm chính sách giáo dục khác nhau. Hai mươi sáu ngàn trường công có sự quản lí liên quan tới các hội đồng địa phương, đến mức thậm chí không có ảnh hưởng nào khác về công việc, việc thay đổi thường trực là không thể tránh khỏi vì những thay đổi trong các hội đồng ấy. Các đốc chính và các giáo viên luân phiên giữ chức vụ; có nhiều người ít hơn ba mươi tuổi nhiều đã từng dạy ở hầu hết mọi tỉnh thành trong cả nước. Bất kì hệ thống giáo dục nào có thể đã sản sinh ra bất kì kết quả lớn lao dưới những điều kiện thế này dường như tương đương với phép màu. Chúng ta đã quen với suy nghĩ rằng mức độ ổn định nào đó là cần thiết với mọi tiến bộ thực sự, mọi phát triển to lớn. Nhưng Nhật Bản đã đưa ra bằng chứng không thể bác bỏ rằng sự phát triển phi thường ấy là có thể mà không cần bất cứ sự ổn định nào hết. Lời giải thích nằm trong đặc tính chủng tộc – một đặc tính chủng tộc có nhiều hơn một cung cách rất trái ngược với đặc tính riêng của chúng ta. Chuyển động thống nhất, và bởi thế gây ấn tượng thống nhất, quốc gia ấy đã di chuyển một cách thống nhất hướng tới những kết quả tuyệt vời; toàn thể lực lượng bốn mươi triệu người của nó đồng thuận được hun đúc bởi các ý niệm của nhà cầm quyền, hệt như cát hay nước được định hình bởi gió. Và sự đồng thuận định hình lại này thuộc về những tâm thế cũ trong đời sống tinh thần của nó – những tâm thế cũ về sự bất vị kỉ hiếm có và lòng trung thành hoàn hảo. Sự vắng mặt tương đối của đặc tính quốc gia về chủ nghĩa cá nhân ích kỉ đã cứu vớt một đế chế; đã kích hoạt một dân tộc vĩ đại để bảo tồn sự độc lập của mình trước những xung đột dị thường. Do đó Nhật Bản có thể hàm ơn hai tông giáo lớn của nàng, những đấng sáng tạo và những đấng bảo hộ sức mạnh luân lí của nàng: với Thần đạo, giáo huấn cá nhân nghĩ đến Thiên hoàng và quốc gia trước khi nghĩ đến gia đình riêng hoặc chính bản thân mình; và với đạo Phật, rèn luyện họ làm chủ sự hối tiếc, chịu đựng đau thương, và chấp nhận sự tan biến của những thứ được yêu và sự bạo ngược của những điều bị oán ghét như là quy luật vĩnh cửu. Ngày nay có thể thấy một khuynh hướng cứng nhắc – một nguy cơ của những thay đổi đang dẫn đến sự tích tụ của một chế độ quan liêu y hệt như thứ đã chứng minh sự nguyền rủa và bạc nhược của Trung Hoa. Các kết quả về luân lí của nền giáo dục mới đã không thích đáng với các kết quả về vật chất. Sự dồn thúc của nhu cầu về “tính cá nhân”, theo nghĩa chấp nhận sự vị kỉ thuần túy, gần như sẽ gây bất lợi cho người Nhật trong thế kỉ tới. Ngay cả các bài luận của sinh viên cũng đã phản ánh quan niệm mới về sức mạnh trí năng chỉ như là một vũ khí tấn công, và cảm nghĩ mới về chủ nghĩa tự đại hung hăng. “Vô thường”, một người viết, với một kí ức Phật giáo đang phai nhạt trong đầu mình, “là bản chất của cuộc đời chúng ta. Chúng ta thường thấy nhiều người hôm qua giàu có, và hôm nay nghèo khó. Đây chính là kết quả từ sự cạnh tranh của con người, theo như luật tiến hóa. Chúng ta bị lột trần trước cuộc cạnh tranh đó. Chúng ta phải chiến đấu với nhau, dù chúng ta không có chiều hướng muốn làm thế. Chúng ta sẽ chiến đấu với thanh kiếm nào? Với thanh kiếm của tri thức, được rèn trong lò giáo dục.” Vâng, có hai hình thức tu luyện Bản thể. Một cái dẫn đến sự phát triển ngoại lệ những phẩm chất cao quý, cái còn lại biểu thị điều gì đó về cái mà ít người bảo là tốt hơn. Nhưng hình thức kể trước kia không phải là thứ mà Tân Nhật Bản bây giờ mới bắt đầu học. Tôi thừa nhận mình là một trong những người tin rằng trái tim con người, ngay cả trong lịch sử của một dân tộc, có thể vô vàn đáng giá hơn trí năng con người, và sớm hay muộn điều đó sẽ tự chứng tỏ mình có khả năng tốt hơn để giải đáp các bí đề tàn bạo của bức tượng Nhân sư Đời sống. Tôi vẫn tin rằng người Nhật cũ đã đến gần với giải pháp cho các bí đề ấy hơn là chúng ta, chỉ vì họ công nhận rằng vẻ đẹp đạo đức lớn lao hơn vẻ đẹp trí năng nhiều. Và, để kết luận, tôi có thể mạo muội trích dẫn từ một bài viết về giáo dục của Ferdinand Brunetière: “Mọi phương sách giáo dục của chúng ta sẽ chứng tỏ là vô hiệu, nếu không có nỗ lực để dồn thúc vào tâm trí, và để gây ấn tượng sâu sắc lên nó, ý nghĩa trong những lời tốt đẹp này của Lamennais: ‘Xã hội loài người được dựa trên nền tảng của việc truyền trao lẫn nhau, hoặc trên sự hi sinh của người dành cho người, hoặc của mỗi người dành cho mọi người còn lại; và sự hi sinh chính là cốt tủy của mọi xã hội chân chính.’ Đó là điều chúng ta chưa học được suốt gần cả một thế kỉ; và nếu chúng ta phải đặt chân đến trường lần nữa, sẽ là điều để chúng ta có thể học lại. Không có hiểu biết như thế có thể sẽ không có xã hội và nền giáo dục nào cả – ít nhất là không, nếu mục tiêu của giáo dục là định hình con người cho xã hội. Chủ nghĩa cá nhân ngày nay là kẻ thù của giáo dục, cũng chính là kẻ thù của trật tự xã hội. Không phải đã luôn luôn như thế; nhưng nó đã trở nên như thế. Sẽ không như vậy mãi mãi; nhưng bây giờ nó là như vậy. Và không phấn đấu để tiêu diệt nó – đồng nghĩa với việc rơi từ một thái cực này sang một thái cực khác – chúng ta phải thừa nhận rằng, bất kể chúng ta muốn làm vì gia đình, vì xã hội, vì giáo dục, và vì quốc gia, chống lại chủ nghĩa cá nhân chính là việc sẽ phải làm.” 3 NGƯỜI HÁT DẠO N gười phụ nữ mang theo một cây đàn samisen, và đi cùng một cậu bé chừng bảy hay tám tuổi, đã đến hát ở nhà tôi. Nàng ăn mặc theo lối nông phu, với một chiếc khăn màu xanh thắt quanh đầu. Nàng xấu; và vẻ xấu xí tự nhiên còn bị tăng thêm bởi một cuộc tấn công tàn bạo của bệnh đậu mùa. Đứa trẻ mang theo một bó giấy in những tình ca. Lúc đó hàng xóm đang tụ đông trong sân trước nhà tôi – đa số là những bà mẹ trẻ và các cô bảo mẫu với các em địu trên lưng, ngoài một số đàn ông và đàn bà lớn tuổi – những người về hưu (inkyo) ở lân cận. Những người phu kéo xe (jinrikisha) cũng đến từ chỗ họ đứng ở góc phố bên cạnh; và chẳng mấy chốc đã chật kín chỗ bên trong cổng nhà. Người phụ nữ ngồi xuống bậc cửa nhà tôi, chỉnh dây, chơi một nhịp nhạc đệm, và một thần chú được gieo xuống đám đông; và họ nhìn nhau chăm chăm trong nụ cười kinh ngạc. Bởi từ đôi môi biến dạng xấu xí kia trào tuôn róc rách một phép màu của một chất giọng – trẻ trung, sâu lắng, xúc động không thốt nên lời với sự ngọt ngào buốt lòng. “Phụ nữ hay tiên nữ chứ?” một người dự thính hỏi. Chỉ là phụ nữ – nhưng là một nghệ sĩ rất đỗi tuyệt vời. Cái cách nàng điều khiển nhạc cụ của mình có thể làm một geisha thiện nghệ nhất sửng sốt; nhưng chưa ai từng được nghe một chất giọng như thế, và ca khúc như thế, từ bất kì geisha nào. Nàng chỉ hát như một nông phu hát – có lẽ, với các âm điệu học hỏi từ loài ve sầu và những loài sơn ca hoang dã – và với những quãng được chia rất nhỏ trong những cung âm chưa bao giờ được viết ra trong ngôn ngữ âm nhạc phương Tây. Và khi nàng hát, người nghe bắt đầu lặng lẽ khóc. Tôi không hiểu hết lời ca; nhưng tôi cảm nhận được nỗi u hoài và sự ngọt ngào cùng sự nhẫn nại của đời sống Nhật theo chất giọng của nàng truyền sang tim mình, cuộc kiếm tìm não lòng thứ gì không bao giờ có đó. Một sự êm ái vô hình dường như đang dồn tụ và run rẩy quanh chúng tôi; và những cảm thức về các địa điểm và thời điểm đã lãng quên dịu dàng trở về, hòa quyện với những cảm giác mơ hồ hơn – những cảm giác không thuộc về bất cứ chốn nào và thời điểm nào trong kí ức sống động. Rồi tôi nhận thấy rằng người ca nương ấy bị mù. Khi bài hát kết thúc, chúng tôi đã cố mời người phụ nữ vào nhà, và hỏi thăm nàng. Nàng từng làm ăn khấm khá, và đã học đàn samisen thời thiếu nữ. Cậu bé là con trai nàng. Chồng nàng bị bại liệt. Đôi mắt nàng bị hỏng vì bệnh đậu mùa. Nhưng nàng khỏe mạnh, và có thể đi bộ rất xa. Khi đứa trẻ mệt, nàng sẽ cõng con trên lưng. Nàng có thể hỗ trợ cậu bé, cũng như người chồng nằm liệt giường, vì khi nào nàng hát người ta cũng khóc và biếu nàng tiền và thức ăn… Chuyện của nàng là vậy. Chúng tôi biếu nàng một số tiền và mời nàng dùng bữa; rồi nàng rời đi, với cậu bé dẫn đường. Tôi mua một bản sao của tình ca ấy, nói về một vụ tự tử đôi gần đây: “Đoản khúc buồn thương về Tamayone và Takejiro – Takenaka Yone Đệ thập tứ của Đệ tứ phường Nipponbashi ở Nam quận, thành phố Osaka”. Rõ ràng nó được in từ một bản khắc gỗ; và có hai bức tranh nhỏ. Một bức cho thấy một đôi thanh niên nam nữ đang buồn rầu bên nhau. Bức kia – một kiểu họa tiết – miêu tả một bàn tay đang cầm bút, một ngọn đèn sắp tàn, một bức thư để ngỏ, hương trầm đang tỏa bay trong một chiếc đỉnh nhỏ, và một lọ đựng hương hồi (shikimi) – loài cây thiêng liêng được sử dụng trong lễ cúng cầu siêu của người Phật tử. Văn bản bằng chữ thảo lạ lẫm, trông như chữ tốc kí được viết vuông vắn, chỉ cho phép dịch mấy dòng như thế này: “Trong Đệ Nhất phường của quận Nichi-Hommachi, ở thành Osaka lừng danh – Ôi nỗi sầu của câu chuyện shinjù (thần ban) này! Tamayone, mười chín thanh xuân – thoạt trông đã phải lòng nàng Takejiro, người làm công trẻ. Họ đã trao nhau lời thề son sắt suốt đời – Ôi nỗi sầu tình yêu của kẻ cầu hôn! Trên đôi cánh tay mình họ xăm hình Ám Long, và chữ ‘Trúc’– chẳng khi nào ưu tư về những rắc rối của cuộc đời… Nhưng chàng không thể trả năm mươi lăm yên cho tự do của nàng – Ôi nỗi thống khổ trong tim nàng Takejiro! Cả hai bèn thề quyên sinh cùng nhau, bởi chẳng đời nào họ có thể nên duyên vợ chồng ở thế gian này… Phó thác cho bạn bè nàng với hương và hoa – Ôi thương thay cuộc ra đi như sương của họ! Tamayone cạn chén rượu chỉ chứa đầy thứ nước của lời nguyện chết bên nhau… Ôi náo động vì sự tự vẫn của đôi lứa yêu nhau! Ôi thương thay cho những mảnh đời đã sớm lìa trần kia!” Tóm lại, chẳng có gì quá bất thường trong câu chuyện kia, và không có gì đáng lưu ý trong lời thơ. Tất cả sự kinh ngạc trong phần biểu diễn nằm ở chất giọng của người phụ nữ ấy. Nhưng người ca nương ấy đã đi lâu rồi mà chất giọng ấy dường như vẫn còn ở lại – để lại trong tôi một cảm thức về sự ngọt ngào và buồn bã lạ thường đến mức tôi không còn cách nào khác là phải cố tự mình giải thích cái bí ẩn của những cung âm ma thuật ấy. Và tôi nghĩ rằng điều ấy được diễn giải như sau: Mọi bài hát, mọi giai điệu, mọi âm nhạc, nghĩa là chỉ có một tiến hóa nào đó trong sự tỏ bày tự nhiên sơ khai về cảm giác, trong sự diễn nói tự phát về nỗi buồn, niềm vui, hoặc đam mê, là những lời có âm điệu. Cũng như vậy, nếu các thứ tiếng kia bất đồng, thì ngôn ngữ của những kết hợp về âm điệu này cũng bất đồng. Bởi thế các giai điệu làm chúng ta xúc động sâu sắc chẳng có mấy ý nghĩa với những đôi tai Nhật Bản; và các giai điệu chẳng chạm đến chúng ta lại làm nên sức thu hút mạnh mẽ với xúc cảm của một chủng tộc có đời sống tâm hồn khác với chúng ta như màu xanh khác với màu vàng… Tuy nhiên, lí do của những cảm giác sâu hơn đã gợi lên trong tôi – một người ngoại quốc – bởi khúc ca phương Đông mà thậm chí tôi có thể chẳng khi nào học được này, bởi bài hát bình thường của một phụ nữ mù thuộc dân tộc ấy là gì? Chắc chắn rằng trong chất giọng của người ca nương ấy đã có những phẩm chất có thể tạo nên sức hút với cái gì đó lớn hơn tổng số trải nghiệm của riêng một chủng tộc, với cái gì đó rộng rãi như đời sống nhân loại, và cổ xưa như sự hiểu biết về thiện và ác. Một tối mùa hè, hai mươi lăm năm trước, trong một công viên ở London, tôi đã nghe một cô gái nói “Chúc ngủ ngon” với ai đó ngang qua. Không gì ngoài mấy chữ này – “Chúc ngủ ngon”. Tôi không hề biết cô là ai, tôi thậm chí chưa từng thấy mặt cô; và tôi cũng không bao giờ nghe giọng nói ấy lần nữa. Tuy nhiên, sau khi đã đi qua trăm mùa mưa nắng, kí ức về câu “Chúc ngủ ngon” của cô đem lại một cảm giác chấn động kép khó hiểu về hoan hỉ và đau thương – đau thương và hoan hỉ, không nghi ngờ gì nữa, chẳng phải về tôi, chẳng phải về tồn tại của riêng tôi, mà về những tiền kiếp xa xăm và những vầng dương đã tắt. Bởi thế, cái làm nên sự quyến rũ của một giọng nói chỉ nghe một lần như vậy không thể thuộc về đời sống này. Nó thuộc về vô số cuộc đời đã bị lãng quên. Nhất định chẳng đời nào có hai giọng nói có phẩm chất giống nhau y hệt. Nhưng trong sự tỏ bày tiếng lòng có một sự êm ái của âm sắc chung cho muôn triệu giọng nói của toàn thể nhân loại. Kí ức được kế tục tạo ra sự quen thuộc ngay cả với trẻ sơ sinh cái ý nghĩa của âm điệu âu yếm này. Cũng vậy, không nghi ngờ gì, tri thức của chúng ta được kế tục về những âm điệu của cảm thông, của buồn đau, của lòng trắc ẩn. Vậy nên lời ca của một người đàn bà mù ở thành phố vùng Viễn Đông này thậm chí có thể thức tỉnh xúc cảm trong tâm trí của một người Tây phương sâu hơn cả hiện hữu của cá nhân – nỗi thống thiết nghẹn ngào mơ hồ về những u sầu đã bị lãng quên – các xao xuyến yêu thương mơ màng về những lớp người không được nhớ đến. Cái chết chẳng bao giờ chết tuyệt đối. Kí ức ngủ quên trong những tế bào thẳm tối nhất của con tim mỏi mệt và bộ não bận rộn, để rồi giật mình vào những khoảnh khắc hiếm hoi nhất chỉ bằng âm vang của giọng nói nào đó triệu hồi quá khứ của chúng. C 4 TỪ NHẬT KÍ DU HÀNH I ĐƯỜNG SẮT TUYẾN OSAKA – KYOTO ngày 15 tháng Tư năm 1895 ảm thấy buồn ngủ trong một phương tiện công cộng, và không thể nằm xuống được, một phụ nữ Nhật sẽ nâng ống tay áo dài lên che mặt trước lúc mình bắt đầu gà gật. Ở toa xe lửa hạng hai này có ba người phụ nữ đang ngủ trong một hàng ghế, đều với khuôn mặt được phủ dưới ống tay áo, và đều đong đưa bên nhau cùng với sự lắc lư của con tàu, hệt như những đóa sen trong một dòng chảy mềm mại. (Việc sử dụng ống tay áo trái là ngẫu nhiên hoặc theo bản năng; hẳn là bản năng, khi tay phải sẽ phục vụ tốt nhất cho việc bám vào dây níu hoặc vào ghế trong trường hợp có biến cố.) Cảnh tượng vừa đẹp mắt vừa vui nhộn, nhưng đặc biệt đẹp mắt, như một ví dụ điển hình cho sự duyên dáng mà với nó một phụ nữ Nhật làm mọi việc, luôn luôn với cách thức thanh nhã ít vị kỉ nhất có thể. Cũng thật cảm động, vì thái độ ấy cũng là thái độ của nỗi buồn, và đôi khi là của nguyện cầu mòn mỏi. Tất cả đều bởi cái ý thức đã được huấn luyện về nghĩa vụ chỉ bộc lộ khuôn mặt hạnh phúc nhất của mình với thế giới mà thôi. Sự kiện ấy nhắc tôi nhớ về một trải nghiệm. Với tôi, một người tớ trai phục vụ trong nhà đã lâu dường như là con người hạnh phúc nhất. Lúc nào cậu ấy cũng cười tươi khi nói chuyện, trông luôn luôn sảng khoái khi làm việc, có vẻ chả biết tí gì về những rắc rối nhỏ nhặt của cuộc đời. Nhưng một ngày nọ tôi ghé mắt nhìn lúc cậu ngồi tư lự riêng một mình, và khuôn mặt lúc nghỉ ngơi của cậu khiến tôi giật mình. Đó chẳng phải là khuôn mặt tôi đã biết. Những nét rắn đanh của đau đớn và giận dữ xuất hiện trên đó, khiến nó dường như già thêm hai mươi tuổi. Tôi hắng nhẹ giọng thông báo sự hiện diện của mình. Khuôn mặt lập tức mềm đi, dịu lại, sáng bừng lên như có một phép màu làm cho trẻ lại. Phép màu, thực vậy, của sự tự chủ vô vị kỉ thường trực. II KYOTO, ngày 16 tháng Tư Cánh cửa chớp bằng gỗ trước căn phòng nhỏ trong khách sạn tôi ở được mở ra; và nắng sớm lập tức vẽ lên bức vách shoji, qua các ô vuông sáng vàng, bóng dáng sắc nét hoàn hảo của một cây đào nhỏ. Không một họa sĩ trần gian nào – ngay cả người Nhật cũng thế – có thể trội hơn bóng đổ đó! Được tô bằng màu xanh dương sẫm chồng lên ánh sáng vàng, hình ảnh diệu kì kia thậm chí thể hiện được những sắc đậm và nhạt hơn tùy theo khoảng cách biến thiên của những cành nhánh không thấy được ở bên ngoài. Nó khiến tôi nghĩ đến ảnh hưởng khả dĩ với nghệ thuật Nhật Bản về việc sử dụng giấy cho các mục đích chiếu sáng trong nhà. Ban đêm một ngôi nhà Nhật với các bức vách giấy shoji khép kín trông hệt như một chiếc đèn lồng giấy vĩ đại, một chiếc đèn cù ảo diệu khiến những chiếc bóng chuyển động bên trong, thay vì phía ngoài nó. Ban ngày những chiếc bóng trên vách shoji chỉ đến từ bên ngoài; nhưng chúng có thể tuyệt đẹp vào lúc vầng dương vừa mọc, nếu những tia sáng được chiếu ngang, như trong trường hợp này, qua không gian của một khu vườn cổ kính. Chắc chắn chẳng có gì phi lí trong câu chuyện Hi Lạp cổ tìm ra nguồn gốc của hội họa trong cái nỗ lực tự phát đầu tiên với việc đồ lại trên bức tường nào đó bản phác họa chiếc bóng của người tình. Rất có thể mọi tri cảm về nghệ thuật, cũng như mọi tri cảm về siêu nhiên, đã có những khởi đầu đơn giản trong việc học hỏi những chiếc bóng. Nhưng những bóng in trên vách giấy shoji đáng lưu tâm đến mức gợi ra lời giải thích về những năng lực Nhật Bản nào đó trong hội họa chẳng có ý nghĩa nguyên thủy nào, mà phát triển vượt ngoài mọi cái tương đương, và nói cách khác là khó lòng kết toán được. Dĩ nhiên, phải xét đến, chất lượng của giấy Nhật, bắt bóng tốt hơn bất cứ loại kính mờ nào, cũng như đặc điểm của chính những chiếc bóng ấy nữa. Thảo mộc phương Tây, chẳng hạn, hầu như không thể cho ra những bóng đổ thanh tao như cây cối trong vườn Nhật, tất cả được uốn nắn qua nhiều thế kỉ chăm sóc chỉn chu để trông đáng yêu hệt như được Tự nhiên chiếu cố vậy. Tôi ước gì giấy của bức vách shoji có thể, hệt như một tấm phim, bắt nhạy cái ấn tượng tuyệt khoái đầu tiên đó được đúc ra bởi vầng dương chiếu ngang. Tôi đã tiếc với những biến dạng: chiếc bóng đổ đẹp đẽ kia đã bắt đầu dài ra. III KYOTO, ngày 16 tháng Tư Trong tất cả những điều đẹp đẽ đặc hữu ở Nhật, đẹp nhất là việc tiếp cận những cao điểm của thờ phượng hoặc yên nghỉ, những Đạo lộ dẫn đến Vô xứ và những bước đi hướng về Vô sự. Chắc chắn, sự hấp dẫn đặc biệt của những nơi đó là sự hấp dẫn tự sinh, cái hiệu ứng của hành động con người trong sự hợp nhất với những trạng thái thanh khiết nhất của Tự nhiên về ánh sáng và hình thức và màu sắc, một sự hấp dẫn biến mất vào những ngày mưa; nhưng chẳng hề ít đẹp đi vì gián đoạn. Có lẽ hành trình hướng thượng bắt đầu với một đại lộ lát đá thoải dốc, dài nửa dặm, vạch ra bởi những hàng cây cổ thụ. Những linh thú bằng đá bảo vệ con đường với những khoảng cách đều đặn. Rồi bạn sẽ đến những bậc cấp lớn nào đó hướng lên qua bóng tối sẫm của lá cây đến một chỗ nghỉ chân bằng phẳng được che mát bởi những tán cây cổ hơn và xum xuê hơn; và nhiều bậc khác nữa từ đó dẫn đến những chỗ nghỉ chân khác nữa, đều nằm trong bóng râm. Rồi khi bạn cứ leo và leo và leo nữa, đến cuối cùng, vượt qua một cánh cổng torii (điểu cư) xám màu, mục tiêu xuất hiện: một điện thờ bằng gỗ không sơn phết, trống trải, bé nhỏ – một Thần cung. Như thế sự chấn động của Tánh Không được lĩnh hội, trong sự tịch lặng cao độ và những bóng đổ, tột cùng sự uy nghiêm của cuộc tiếp cận dài lâu, chính là tính chất u linh trong tự thân nó. Vô số những trải nghiệm Phật giáo tương tự thảy đều chờ đợi những ai quan tâm tìm kiếm chúng. Chẳng hạn, tôi có thể gợi ý một chuyến thăm những khu đất ở Higashi Otani, nằm ở cố đô Kyoto. Một đại lộ rộng lớn dẫn đến sân một ngôi chùa, và từ sân đó, một dãy những bậc cầu thang rộng những năm mươi bộ – đồ sộ, xanh rêu, với hàng lan can tráng lệ – dẫn đến một chỗ nghỉ chân có xây tường. Cảnh tượng khiến người ta nghĩ đến việc tiếp cận khu-vườn-hạnh-phúc nào đó trong truyện Mười ngày (Decameron) của Boccaccio. Nhưng, đến chỗ nghỉ chân đó, bạn chỉ thấy một cánh cổng, rộng mở – dẫn vào một nghĩa trang! Phải chăng nghệ nhân làm vườn cảnh Phật giáo kia muốn nói cho chúng ta rằng mọi vẻ nguy nga cùng quyền lực và sắc đẹp cuối cùng rồi chỉ đều dẫn đến một sự tịch lặng thế thôi? IV KYOTO, ngày 19 – 20 tháng Tư Tôi đã dành phần lớn thời gian trong ba ngày ở Triển lãm quốc gia – hầu như không đủ để nhận thức hết tính chất và ý nghĩa tổng quát của cuộc trưng bày này. Cốt yếu là về công nghiệp, thế mà, gần như đều đáng thích thú, vì sự áp dụng khéo léo đến thần kì với mọi loại hình sản xuất. Những thương nhân ngoại quốc và những quan sát viên sắc sảo hơn tôi tìm thấy ở nó ý nghĩa khác hơn và ác hại hơn – sự đe dọa đáng gờm nhất từng được tạo ra bởi phương Đông với thương mại và công nghiệp phương Tây. “So với Anh quốc,” một phóng viên của tờ Thời báo London viết, “đó hoàn toàn là những đồng fa-đinh đọ với những đồng pen-ni(1)… Chuyện Nhật Bản xâm lăng vùng Lancashire thì cũ hơn chuyện xâm lăng của Hàn Quốc và Trung Hoa. Đó đã là một cuộc chinh phạt hòa bình, một quá trình rút kiệt không đau đớn gần như đã đắc thủ… Cuộc trưng bày ở Kyoto này là bằng chứng cho một sự phát triển xa vô hạn của doanh nghiệp công nghệ… Một quốc gia có tiền thuê lao động là ba si-linh(2) một tuần, với mọi chi phí quốc nội khác theo tỉ lệ tương xứng, phải – những thứ còn lại là cân bằng – giết các đối thủ cạnh tranh có phí tổn gấp bốn lần quy mô nước Nhật.” Chắc chắn đòn nhu thuật (jiujutsu) trong công nghiệp này hứa hẹn những kết quả không ngờ. (1) Pen-ni: đồng xu Anh, bằng 4 đồng fa-đinh – ND. (2) Si-linh: đồng xu Anh, bằng 12 đồng pen-ni – ND. Mức giá để tham gia cuộc Triển lãm này cũng là một vấn đề đáng kể. Chỉ năm xu Nhật! Tuy nhiên, ngay với con số này thì một số tiền vô kể cũng có thể nhận ra – lượng khách là vô cùng lớn. Hằng hà nông dân đang đổ xô vào thành phố mỗi ngày – đa phần là đi bộ, hệt như một cuộc hành hương. Và thực sự là một cuộc hành hương với hàng vạn chuyến hành trình, vì lễ khánh thành ngôi chùa phái Chân Tông (Shinshu) lớn nhất nơi này. Tôi nghĩ cuộc trưng bày nghệ thuật đích thực ở mức thấp hơn nó nhiều là Triển lãm Tokyo năm 1890. Có những thứ tinh xảo, nhưng ít. Có lẽ, đây là bằng chứng về sự háo hức của quốc gia đang chuyển dồn mọi năng lượng và tài nghệ vào những phương hướng làm ra tiền; bởi trong những cuộc trưng bày lớn hơn, nơi nghệ thuật được kết hợp với công nghệ ấy – như là gốm, men, đồ khảm, đồ thêu – có những tác phẩm tinh xảo hơn và đắt giá hơn từng được xuất hiện trước đó nhiều. Thực vậy, giá trị cao của những món hàng nhất định ở cuộc bày bán gợi ra phản hồi với một quan sát viên là người bạn Nhật của tôi, trầm ngâm rằng, “Nếu Trung Hoa đi theo những phương pháp công nghiệp phương Tây, họ sẽ có thể cho giá thấp hơn chúng ta ở mọi thị trường trên thế giới.” “Có lẽ giá thành sản xuất rẻ”, tôi trả lời. “Nhưng chẳng có lí do gì Nhật Bản lại nên phụ thuộc toàn bộ vào giá thành rẻ cả. Tôi nghĩ Nhật có thể dựa một cách bảo đảm hơn vào tính ưu việt trong nghệ thuật và thị hiếu hảo hạng. Thiên tính nghệ thuật của một dân tộc có thể có một giá trị đặc biệt chống lại mọi sự cạnh tranh, bởi lao động rẻ mạt là vô ích. Giữa các quốc gia Tây phương, Pháp cho ta một ví dụ. Sự thịnh vượng của họ không nằm đúng ở khả năng cho giá thấp hơn các quốc gia láng giềng. Hàng hóa của họ được mến chuộng nhất thế giới: họ bán nhiều thứ sang trọng và đẹp đẽ. Nhưng họ giao dịch với mọi quốc gia văn minh vì các món ấy là tốt nhất trong loại hàng đó. Tại sao Nhật không nên trở thành nước Pháp ở vùng Viễn Đông chứ?” Phần yếu nhất trong cuộc trưng bày nghệ thuật này dành cho tranh sơn dầu, tranh sơn dầu theo lối Âu châu. Không tồn tại lí do vì sao người Nhật không thể vẽ tranh sơn dầu một cách tuyệt mĩ với việc theo đuổi những phương pháp biểu hiện nghệ thuật đặc thù ấy bằng cách riêng. Nhưng các nỗ lực của họ để theo đuổi những phương pháp Tây phương chỉ tăng tiến ở mức bình thường trong những ngành học đòi hỏi sự giải quyết rất thực tế. Tác phẩm lí tưởng trong sơn dầu, theo các tiêu chí Tây phương về hội họa, vẫn nằm ngoài tầm với của họ. Có lẽ họ vẫn có thể phát hiện cho mình một cửa ngõ mới tới cái đẹp, ngay với tranh sơn dầu, bằng cách khế hợp phương pháp ấy với những nhu cầu đặc thù trong thiên tính dân tộc mình; nhưng vẫn chưa có dấu hiệu nào của một khuynh hướng như vậy. Một bức vẽ thể hiện một phụ nữ hoàn toàn trần truồng đang nhìn chính mình trong một tấm gương cực lớn tạo ra một ấn tượng bất mãn. Báo chí Nhật đang yêu cầu gỡ bỏ bức ấy, và phát biểu những bình luận không hề vui tai về các ý niệm nghệ thuật phương Tây. Tuy nhiên, bức vẽ là của một họa sĩ Nhật. Là một bức bôi bác; nhưng nó được táo bạo đề giá tới ba ngàn đô-la. Tôi đứng gần bức tranh một lúc để quan sát hiệu ứng của nó với dân chúng, tuyệt đại đa số là nông dân. Họ sẽ nhìn chằm chằm vào nó, cười to khinh bỉ, thốt ra đôi lời miệt thị nào đó, rồi quay đi xem xét bức tranh lụa (kakemono), cái thực sự là đáng chú ý hơn nhiều, dù đưa ra các mức giá dao động từ mười tới năm mươi yên. Những lời bình phẩm chủ yếu chĩa vào những ý niệm về thị hiếu “nước ngoài” (nhân vật đã được vẽ với một cái đầu Âu châu). Dường như chẳng ai xem vật ấy như là một tác phẩm Nhật Bản. Nếu nó thể hiện một phụ nữ Nhật, tôi nghi hoặc tự hỏi liệu đám đông thậm chí có khoan dung cho sự tồn tại của nó không. Hiện tại tất cả khinh thị này đối với chính bức hình là đúng. Chẳng có lí tưởng gì trong tác phẩm đó cả. Nó chỉ đơn thuần tái hiện một phụ nữ trần truồng đang làm điều mà chẳng người phụ nữ nào có thể thích bị nhìn thấy làm thế. Và một bức tranh về một phụ nữ trần truồng thuần túy, dù nó được thực hiện khá, chẳng đời nào là nghệ thuật nếu nghệ thuật nghĩa là chủ nghĩa lí tưởng. Chủ nghĩa hiện thực của vật đó là sự xúc phạm của nó. Sự trần trụi lí tưởng có thể là thiêng liêng – điều thần thánh nhất trong những mộng ước của toàn thể loài người về siêu nhân. Nhưng một con người trần truồng thì chẳng thiêng liêng chút nào. Sự khỏa thân lí tưởng chẳng cần che đậy, bởi sự quyến rũ đó thuộc về những đường nét quá đẹp để giấu đi hoặc ngăn che. Cơ thể con người sống thực sự không có hình thể thần thánh như vậy. Vấn đề là: Một người nghệ sĩ có chính đáng trong việc tạo ra sự trần truồng vì lợi ích của chính mình, trừ phi người ấy có thể gạt bỏ mọi dấu vết của những thứ hiện thực và cá nhân ra khỏi sự trần truồng đó không? Có một văn bản Phật giáo thực thụ diễn bày rằng người biết sống một mình là thông tuệ khi có thể thấy rằng vạn vật không có bản chất cá nhân trong chúng.Và chính lối nhìn nhận Phật giáo này là điều làm nên sự vĩ đại của nghệ thuật Nhật Bản đích thực. V Những suy nghĩ này đã đến: Sự trần trụi thiêng liêng, là sự trừu tượng về vẻ đẹp tuyệt đối, trao cho người xem một sự chấn động kinh ngạc và khoái thích, chẳng phải không xen lẫn chút ưu tư. Rất ít tác phẩm nghệ thuật đem lại được điều này, vì rất ít tiếp cận hoàn hảo. Nhưng cũng có những phiến cẩm thạch và đá quý làm được thế, cùng các khảo cứu tinh tế nhất định về chúng, như là những bản khắc được ấn hành bởi Hiệp hội Dilettanti(3). Càng nhìn lâu, người ta càng ngạc nhiên thêm, bởi ở đó không xuất hiện một nét vẽ, thậm chí một phần nét nào, mang vẻ đẹp không vượt trội mọi sự hồi tưởng. Thế nên cái bí mật về nghệ thuật như vậy là tư tưởng siêu phàm lâu dài; và, trong chân lí cùng độ, ý nghĩa vẻ đẹp mà nó truyền tải là vượt qua con người – là siêu nhân, trong ý nghĩa của cái nằm ngoài đời sống hiện tồn, bởi thế là siêu nhiên như bất cứ cảm giác nào mà con người có thể biết tới. (3) Hiệp hội Dilettanti: thành lập năm 1734 ở Anh, là hiệp hội các quý tộc và học giả bảo trợ nghiên cứu về nghệ thuật Hi Lạp – La Mã cổ đại, bảo trợ việc sáng tạo các tác phẩm mới – BT. Sự chấn động đó là gì? Nó tương tự một cách kì lạ, và nhất định là na ná với sự chấn động tâm lí đến cùng trải nghiệm đầu tiên về tình yêu. Plato đã giải thích sự chấn động của vẻ đẹp như là sự hiện diện của sự bán-hồi-tưởng đột ngột của Tâm hồn về Thế giới các Ý niệm Thiêng liêng. “Người ta thấy ở đây bất cứ hình ảnh hoặc sự tương tự nào đó về những thứ mà ở đó chứa đựng một sự chấn động hệt như một tiếng sét, và, bằng một cách nào đó, được bốc thoát khỏi chính mình.” Schopenhauer đã giải thích sự chấn động của tình yêu đầu đời như là sức mạnh Ý chí trong Linh hồn của Chủng tộc. Tâm lí học tích cực của Spencer ở thời của chính chúng ta tuyên bố rằng đam mê mạnh mẽ nhất của con người ấy, khi nó xuất hiện lần đầu, là tiền đề tuyệt đối với mọi trải nghiệm cá nhân. Cho nên tư duy cổ xưa và hiện đại – các siêu hình học và khoa học – đồng ý công nhận rằng cảm giác sâu sắc đầu tiên về vẻ đẹp con người được biết đến với một cá nhân không hề cá nhân chút nào cả. Chẳng phải cái chân lí tương tự như thế nắm giữ sự chấn động mà nghệ thuật tối thượng đem lại sao? Lí tưởng của con người bộc lộ trong nghệ thuật như vậy chắc chắn thu hút trải nghiệm về mọi thứ mà Quá khứ đã kí thác trong đời sống xúc cảm của người xem, với cái gì đó được kế tục từ vô số tổ tiên. Quả thực là vô số! Cho rằng ba thế hệ là một thế kỉ, và giả dụ không có hôn nhân cận huyết, một nhà toán học người Pháp ước tính rằng mỗi cá nhân hiện sống ở đất nước của mình sẽ mang trong huyết quản dòng máu của hai mươi triệu người sống cùng thời ở năm 1000. Hoặc tính từ năm đầu tiên của kỉ nguyên chúng ta, tổ tiên của một người ngày nay sẽ tương ứng với tổng số mười lũy thừa mười tám. Hãy còn chưa kể hai mươi thế kỉ đối với thời gian của đời người là thế nào! Vâng, xúc cảm về cái đẹp, hệt như mọi xúc cảm của chúng ta, chắc chắn là sản phẩm được kế tục của vô số những trải nghiệm không hình dung nổi trong một quá khứ vô biên. Mọi cảm thức thẩm mĩ đều là sự khuấy trộn của vô lượng vô biên những kí ức u linh vùi lấp trong vùng đất huyền diệu của não bộ. Và mỗi người mang theo trong mình một lí tưởng về cái đẹp chỉ là một sự huân tập vô hạn những tri cảm đã qua về hình thức, màu sắc, vẻ duyên dáng, ai đó từng yêu quý trong nhìn nhận. Nó ngủ đông, cái lí tưởng này – tiềm tàng trong tinh tủy – không thể được gợi ra tùy ra trước sự tưởng tượng; mà chỉ có thể được thắp sáng như điện với bất cứ tri cảm nào nhờ những cảm giác bên ngoài sống động của ái lực mơ hồ nào đó. Lúc ấy cảm thấy thật kì lạ, buồn bã, rùng mình mê mẩn, đi kèm với dòng hồi chuyển của lớp lớp thủy triều đời sống và thời gian; lúc ấy những cảm thức của một triệu năm trước và của muôn vạn thế hệ dồn cả vào trong cảm giác xúc cảm của một khoảnh khắc. Lúc bấy giờ, những nghệ sĩ của một nền văn minh độc đáo – những người Hi Lạp – có thể trình diễn một phép màu giải phóng Lí-tưởng-Dân tộc về cái đẹp từ chính tâm hồn của họ, và khắc ghi đường nét lượn sóng của nó vào ngọc và đá. Sự trần trụi họ làm nên thần thánh; và họ vẫn buộc ta cảm thấy sự thần thánh gần giống như chính họ cảm thấy nó vậy. Có lẽ họ làm được điều này vì, như Emerson đề xuất, họ sở hữu các giác quan toàn hảo. Nhất định chẳng phải vì họ đẹp ngang ngửa với các bức tượng của mình. Không người thực nào có thể như vậy. Duy điều này thì chắc chắn, – rằng họ đã lãnh ngộ được và khắc ghi lại rõ ràng lí tưởng của mình – sự huân tập của triệu triệu hồi ức khôn kể xiết về nét duyên dáng đã mất trong những đôi mắt và mí mắt, cổ và gò má, miệng và cằm, cơ thể và tứ chi. Tự thân tượng cẩm thạch Hi Lạp cho ta bằng chứng rằng chẳng hề có tính cá nhân tuyệt đối, rằng tâm trí là một sự huân tập của các tâm hồn cũng y như cơ thể là sự kết tập những tế bào vậy. VI KYOTO, ngày 21 tháng Tư Những gương mẫu nguy nga nhất của kiến trúc tôn giáo trong toàn đế chế vừa được hoàn thành; và Thành phố của các Đền chùa giờ đây được phong phú thêm với hai công trình xây dựng chắc hẳn chưa bao giờ vượt trội đến thế trong mười thế kỉ tồn tại của mình. Một cái là lễ vật của Chính phủ Hoàng gia; cái kia, lễ vật của đại chúng. Lễ vật của chính phủ là Đại Kí Ức Điện(4), được dựng lập để tưởng niệm đại lễ của Thiên hoàng Kanmu, vị hoàng đế thứ năm mươi của Nhật, và là người sáng lập nên Thần Thành (Kyoto). Bình An Thần Cung được đề tặng cho Anh linh của vị Hoàng đế này: như vậy nó chính là một đền thờ Thần đạo, và nguy nga nhất trong mọi đền thờ Thần đạo. Tuy nhiên, nó không phải kiến trúc Thần đạo, mà là một bản sao cố cung của Thiên hoàng Kanmu theo đúng quy mô ban đầu. Cái tác động tới tình cảm quốc gia trong sự đi lệch khỏi những hình thức thông thường một cách tráng lệ này, và tính thi vị thâm thúy của cảm giác tôn kính đã đề xuất ra nó, chỉ có thể lĩnh hội đầy đủ với những ai biết rằng thực tế Nhật Bản vẫn được cai trị bởi người đã khuất. Những dinh cơ trong Bình An Thần Cung đẹp hơn nhiều. Chúng làm ta giật mình ngay cả trong thành phố cổ xưa nhất Nhật Bản này; mọi nét nghiêng ở những mái ngói cong vút của chúng tiết lộ với bầu trời câu chuyện về một thời đại khác và kì tuyệt hơn. Những phần gây ấn tượng dị biệt nhất trong toàn thể cấu trúc là những cánh cổng hai tầng và tháp ngũ cấp – những giấc mộng rất đỗi Trung Hoa, người ta hẳn sẽ nói thế. Về màu sắc, công trình đó hấp dẫn một cách dị kì không hề ít hơn hình thức, và điều này đặc biệt do việc sử dụng tinh tế làm nên từ những viên ngói lưu ly xanh trong lớp mái đa sắc. Chắc hẳn Anh linh của Thiên hoàng Kanmu sẽ rất hoan hỉ với cuộc gọi hồn quá khứ quyến rũ nhờ lời triệu thỉnh kiến trúc này! (4) Dai-Kioku-Den: còn có tên khác phổ biến hơn là Bình An Thần Cung (平安神宮, Heian Jingū), được xây dựng nhân kỉ niệm 1100 năm thành lập thủ đô Kyoto – ND. Nhưng lễ vật của dân chúng dâng tới Kyoto còn kì vĩ hơn. Nó được thể hiện qua Higashi Honganji (Đông Bổn Nguyện Tự), còn gọi là chùa Bổn Nguyện phía Đông (phái Chân Tông). Các độc giả phương Tây có thể hình thành ý niệm nào đó về đặc điểm của nó từ lời phát biểu đơn giản rằng nó tốn mất tám triệu đô-la và cần tới mười bảy năm để xây dựng. Chỉ xét kích thước thì nó bị phần lớn các công trình khác rẻ hơn ở Nhật vượt qua; nhưng bất cứ ai quen thuộc kiến trúc chùa Phật giáo của Nhật có thể dễ dàng nhận thức được sự khó khăn trong việc xây dựng một ngôi chùa cao một trăm hai mươi bảy bộ, rộng một trăm chín mươi hai bộ, và dài hơn hai trăm bộ. Do hình thức đặc hữu, và nhất là do những đường nét trải dài mênh mang trên mái, Bổn Nguyện Tự thậm chí trông còn lớn hơn cả chính mình – trông như một ngọn núi. Nhưng dù ở bất kì đất nước nào nó vẫn sẽ được xem là một cấu trúc tuyệt diệu. Có những xà ngang dài bốn mươi hai bộ và dày bốn bộ; và có các cột chu vi lên đến chín bộ. Người ta có thể đoán được đặc điểm trang trí nội thất từ phát biểu rằng chỉ riêng bức họa những bông sen trên các bình phong đằng sau ban thờ chính có giá tới mười ngàn đô-la. Gần như toàn bộ tác phẩm tuyệt diệu này được hoàn thiện với những đồng tiền xu hiến cúng bởi những nông phu làm việc cần cù. Và thế mà vẫn có nhiều người nghĩ rằng đạo Phật đang hấp hối! Hơn một trăm ngàn nông dân đến xem đại lễ khánh thành. Họ ngồi sánh vai trên hàng vạn tấm chiếu trải lên cả mẫu sân lớn. Tôi thấy họ chờ ở đó như vậy vào ba giờ chiều. Tuy nhiên toàn bộ đám đông ấy đã hiện diện để chờ cho đến bảy giờ tối mới khai lễ, không có nước giải khát, dưới nắng nóng. Tôi thấy ở một góc sân một nhóm chừng hai mươi cô gái trẻ, mặc tuyền một màu trắng, đội những chiếc mũ trắng đặc hữu; và tôi hỏi họ là ai. Một người cùng đứng xem trả lời: “Do mọi người phải chờ ở đây nhiều giờ, thật đáng ngại nếu chẳng may có ai đó phát ốm. Bởi thế những y tá chuyên nghiệp đã túc trực ở đây để chăm sóc cho bất kì người nào bị bệnh. Cũng vậy nên có nhiều cáng và người khiêng chờ sẵn. Cũng có nhiều đại phu nữa.” Tôi ngưỡng mộ sự nhẫn nại và đức tin ấy. Nhưng những nông phu đó có thể đã yêu ngôi chùa tráng lệ này lắm – quả thực đây đúng là tác phẩm của chính họ, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Chẳng một phần nhỏ nào trong lao động xây dựng thực tế đã được thực hiện duy chỉ vì tình yêu; và những xà ngang đồ sộ đỡ mái kia đã được kéo đến Kyoto từ những sườn núi xa xôi, với những sợi thừng bện bằng tóc của những tín nữ Phật giáo. Một sợi thừng lớn như vậy, được bảo quản trong chùa, dài hơn ba trăm sáu mươi bộ, và có đường kính tới gần ba in-sơ. Với tôi bài học từ hai công trình tưởng niệm tráng lệ của tình cảm tôn giáo quốc gia này gợi ra sự gia tăng nhất định trong tương lai về sức mạnh đạo đức và giá trị của tình cảm đó, đi đôi với việc gia tăng sự phồn thịnh quốc gia. Tình trạng nghèo khó tạm thời là lời giải thích thực sự cho đà sa sút tạm thời của đạo Phật. Nhưng một kỉ nguyên đại thịnh vượng đang bắt đầu. Một số hình thức bên ngoài của Phật giáo phải tiêu vong; một số thứ mê tín của Thần đạo phải chết. Những chân lí sống động và những sự công nhận sẽ chỉ mở rộng, tăng cường, bám rễ sâu hơn vào trái tim của dân tộc ấy, và chuẩn bị cho nó tinh lực để giải quyết những thử thách của đời sống rộng lớn và khắc nghiệt hơn mà nó phải bước vào. VII KOBE, ngày 23 tháng Tư Tôi vừa thăm triển lãm cá và nghề cá ở Hyogo, trong một khu vườn cạnh biển. Tên nó là Hòa Lạc Viên, nghĩa là, “Khu vườn của Vui thú và Hòa bình”. Nó được bố trí như một vườn cảnh thời cổ, và thật xứng với danh xưng. Nhìn qua rìa vườn bạn sẽ mục kích một vùng vịnh lớn, ngư dân trên những con thuyền, và những cánh buồm trắng ngoài xa đang lượn lấp lánh dưới ánh sáng, và hơn hết, chặn cuối chân trời là một dải những đỉnh núi đẹp đẽ sừng sững, có màu hoa cà vì khoảng cách. Tôi đã thấy những cái ao có hình dạng kì lạ, đầy nước biển trong veo, cá đủ màu đẹp đẽ đang bơi trong đó. Tôi bước đến bể nuôi, nơi những loài cá lạ đang bơi đằng sau lớp kính, nhiều loài có hình dáng hệt như những con diều giấy, như những lưỡi kiếm, và những loài dường như lộn ruột ra ngoài, cùng những loài xinh xắn, vui nhộn có màu của những con bướm, di chuyển hệt như các vũ nữ, đang phe phẩy những chiếc vây có hình như ống tay áo. Tôi đã thấy mô hình của mọi kiểu thuyền và lưới và móc câu và bẫy cá cùng những giỏ đuốc dành cho việc câu đêm. Tôi đã thấy hình ảnh của mọi kiểu bắt cá, và cả những mô hình và bức tranh về những người săn cá voi. Một bức hình khiếp đảm – cái chết quằn quại của một con cá voi mắc kẹt trong chiếc lưới khổng lồ, và những con thuyền nhấp nhô trong một đống bọt nước đỏ ngầu hỗn độn, và duy chỉ có một người đàn ông trần truồng trên lưng con thú to lớn – một dáng người đơn độc in trên nền trời – đang đâm cá với một thanh thép lớn, và máu phọt thành vòi theo cú đâm đó… Tôi nghe bên cạnh mình một đôi cha mẹ người Nhật giải thích bức tranh với cậu con trai nhỏ của họ; và người mẹ đã nói: “Khi cá voi sắp chết, nó cất tiếng; nó khóc nài Đức Phật cứu giúp – Nam mô A di đà Phật!” Tôi đến góc vườn khác nơi nuôi hươu nai đã thuần hóa, và một con “gấu vàng” trong chuồng, cùng chim công trong lồng, và một con khỉ cộc đuôi. Người ta nuôi hươu nai và gấu bằng bánh, và cố dụ con công xòe đuôi của nó ra, và giày vò con khỉ cộc đuôi trầm trọng. Tôi ngồi nghỉ chân bên hiên của ngôi-nhà-vui-vẻ gần chuồng chim, và những người Nhật đã nhìn bức tranh đánh bắt cá voi tìm được đường tới cùng mái hiên đó; và ngay bấy giờ tôi nghe cậu bé nói: “Cha ơi, có một ông lão, một ông lão đánh cá trong thuyền của mình. Sao ông ấy lại không đi đến Cung điện của Long Vương dưới biển, như Urashima hở cha?” Người cha đáp: “Urashima bắt được và thả một con rùa mà thực ra không phải rùa, mà là Công chúa, con của Long Vương. Nên chàng được khen thưởng vì lòng tốt của mình. Còn ông lão đánh cá đó không bắt được con rùa nào cả, và cho dù ông ấy có bắt được một con, ông ấy cũng quá già để kết hôn rồi. Bởi thế ông ấy sẽ không đi đến Long Cung.” Rồi cậu bé ngắm nhìn những bông hoa, những suối nước, và mặt biển nắng lóa với những cánh buồm trắng, cùng những ngọn núi màu hoa cà phía xa xa, kêu lên: “Cha ơi, cha nghĩ khắp thế giới có chỗ nào đẹp hơn chỗ này không?” Người cha mỉm cười thích thú, và chừng như sắp trả lời, nhưng trước khi ông mở lời thì đứa trẻ đã la lớn, và nhảy cẫng lên, rồi vỗ đôi tay bé nhỏ vì khoái chí, bởi con công đột nhiên xòe rộng chiếc đuôi lộng lẫy của nó. Và mọi người đổ xô đến chuồng chim. Cho nên tôi chẳng bao giờ nghe được câu trả lời cho câu hỏi thú vị đó. Nhưng về sau tôi đã nghĩ rằng câu trả lời đó có thể như vầy: “Con à, chốn này rất đẹp. Nhưng thế giới đầy cái đẹp; và có thể có nhiều khu vườn đẹp hơn cả chốn này. Nhưng khu vườn bình an nhất không nằm ở thế giới của chúng ta. Nó là Khu vườn của đức Phật A di đà, ở Tây phương Cực lạc. Và bất cứ ai không làm điều sai trái trong đời mình khi còn sống thì sau khi chết sẽ ngụ ở Khu vườn đó. Nơi ấy có Khổng tước, loài chim thần chốn thiên đường, hát nói về Thất Bồ Đề Phần và Ngũ Lực, xòe đuôi của mình như một mặt trời. Nơi ấy có những ao nước bằng bảy báu, và hoa sen trong các ao ấy có một vẻ yêu kiều không thể đặt tên nổi. Và từ những bông hoa đó liên tục phát ra những tia sáng cầu vồng, cùng anh linh của những vị Phật mới sinh. Và nước, thầm thì giữa những chồi sen, nói chuyện cùng những linh hồn trong ao về Tàng thức Vô lượng và Thị kiến Vô lượng, và về Tứ Vô lượng Tâm. Và trong cõi nước ấy không có sự phân biệt giữa các vị thần và con người; ngoại trừ dưới sự sáng ngời của đức Phật A di đà, ngay cả các vị thần cũng phải cúi mình; và tất cả đều ngân nga bài tụng ca, ‘Ôi Ngài có Vô lượng Quang minh!’ Nhưng Tiếng của Dòng sông Trời hòa tụng mãi mãi, hệt như ngàn lời cầu kinh đồng tụng lên rằng: ‘Thậm chí nơi đây còn chưa cao; vẫn còn một chốn Cao hơn! Đây không phải thực; đây không phải Hòa bình!’” K 5 NI CÔ CHÙA A DI ĐÀ I hi chồng của Toyo – một người họ hàng xa, đã được nhận nuôi vào gia đình nàng vì tình thương – bị lãnh chúa triệu tập đến kinh đô, nàng đã chẳng thấy lo lắng gì về tương lai. Nàng chỉ thấy buồn. Đó là lần đầu tiên họ từng bị chia tách kể từ khi cưới. Nhưng nàng đã có cha mẹ nàng bầu bạn cùng, và, còn yêu quý hơn cả hai người ấy nữa – dù nàng sẽ không đời nào thú nhận điều đó ngay cả với chính mình – là con trai bé bỏng của nàng. Bên cạnh đó, nàng luôn luôn có nhiều việc để làm. Có nhiều bổn phận trong gia đình phải thực hiện, và có nhiều quần áo phải dệt – cả lụa lẫn bông. Mỗi ngày một lần vào giờ cố định, nàng sẽ dọn cho người chồng vắng mặt, trong căn phòng ưa thích của anh ấy, những món ăn nhỏ hoàn mĩ dọn trên những chiếc mâm bằng sơn mài thanh nhã – những bữa ăn nhỏ gọn như vậy được dâng tới linh hồn của tổ tiên, và những vị thần.(1) Những món ăn này được dọn ở phía đông của căn phòng, và chiếc nệm để quỳ của anh được đặt trước chúng. Lí do chúng được dọn ra ở phía đông là vì anh đã đi về hướng đông. Trước lúc dẹp thức ăn đi, nàng luôn nhấc nắp của bát canh nhỏ bằng sơn mài để xem có hơi nước đọng trên mặt trong của nó không. Bởi người ta bảo rằng nếu có hơi nước đọng bên trong nắp đậy thức ăn được dâng lên như vậy, sự vắng mặt của người mình yêu thương vẫn yên ổn. Nếu không có gì cả, thì người ấy đã chết, bởi vì đó là một dấu hiệu cho thấy linh hồn của người ấy đã tự mình quay lại để tìm kiếm thực phẩm. Ngày qua ngày nàng Toyo thấy hơi nước đọng thành giọt dày kín trên lớp sơn mài. (1) Một món ăn như thế, dâng lên anh linh của người yêu vắng mặt, được gọi là một Âm thiện (Kage-zen); nghĩa đen là “mâm-cúng-bóng”. Từ thiện (zen) cũng được dùng với nghĩa là bữa ăn được dọn trên mâm sơn mài có chân, hệt như một chiếc bàn nhỏ, nên thuật từ “mâm cỗ” sẽ là cách dịch tốt hơn cho từ Kage-zen. Đứa trẻ là nguồn vui thường trực của nàng. Cậu bé đã lên ba, và ưa hỏi những vấn đề mà không ai ngoài các vị thần biết câu trả lời đúng. Khi cậu muốn chơi đùa, nàng gác công việc sang một bên để chơi cùng con. Khi cậu muốn nghỉ ngơi, nàng kể cho con nghe những câu chuyện thần kì, hoặc đưa ra những câu trả lời khá sùng kính cho những câu hỏi về những thứ mà chẳng ai có thể hiểu bao giờ đó. Buổi tối, khi những ngọn đèn nhỏ đã được thắp sáng trước những linh vị và những linh ảnh, nàng dạy con mở môi nói những lời cầu nguyện hiếu thảo. Khi cậu đã nằm ngủ, nàng sẽ làm việc ở gần con, và ngắm khuôn mặt vẫn còn nét bụ bẫm đó. Thỉnh thoảng cậu bé sẽ mỉm cười trong mơ; và nàng biết rằng Bồ tát Quán Thế Âm đang chơi đùa cùng bóng của cậu bé, và nàng sẽ thầm thì lời khấn nguyện Phật giáo với Nữ thánh “mãi mãi nhìn xuống và nghe thấy mọi lời cầu nguyện” đó. Thỉnh thoảng, trong mùa có những ngày trời quang đãng, nàng sẽ leo núi Dakeyama, địu theo con trai trên lưng. Một chuyến đi như thế làm cậu bé rất khoái, không chỉ vì điều mẹ cậu đã dạy cậu nhìn, mà còn bởi những thứ mẹ cậu đã dạy cậu nghe. Con đường dốc xuyên qua những lùm bụi và rừng thưa, và băng qua những dốc cỏ, rồi vòng qua những tảng đá hình thù kì dị; và có những loài hoa với những câu chuyện trong lòng của chúng, và những cây cối chứa thần cây. Những con chim cu gù korup-korup; và những con bồ câu đang nức nở owao, owao; cùng lũ ve sầu kêu ve ve, thánh thót và ngân nga. Tất cả những ai đang đợi chờ người thương vắng mặt, nếu có thể, sẽ làm một chuyến hành hương đến đỉnh núi gọi là Dakeyama. Có thể nhìn thấy ngọn núi này từ bất cứ nơi nào của thành phố; và từ đỉnh núi có thể quan sát được vài tỉnh lân cận. Ở ngay chóp đỉnh là một tảng đá có chiều cao và hình dáng gần giống con người, dựng thẳng đứng; và những viên cuội nhỏ được chất thành đống phía trước và bên trên nó. Cạnh đó có một ngôi đền Thần đạo nhỏ được lập ra để tưởng nhớ anh linh của một vị công chúa thời nọ. Nàng đã khóc thương vì sự vắng mặt của người mình yêu, và thường đứng ngóng chàng về từ ngọn núi này cho đến lúc héo mòn rồi bị biến thành một tảng đá. Do đó dân chúng đã xây điện thờ đó; và người tình của những người vắng mặt vẫn cầu nguyện nơi ấy cho sự trở về của những người thân yêu với mình; và mỗi người, sau khi cầu nguyện như vậy, mang về nhà một trong những viên cuội nhỏ được chất ở đó. Và khi người yêu dấu trở về, viên cuội phải được đem trả lại chỗ chồng cuội trên đỉnh núi, kèm theo những viên cuội khác nữa, như một sự hậu tạ và tưởng niệm. Trước lúc Toyo và con trai nàng về được đến nhà mình sau một ngày như thế, hoàng hôn sẽ buông dịu dàng quanh họ; vì đường xa, và cả đi lẫn về họ phải ngồi thuyền qua vùng hoang vu ở những đồng lúa bao quanh thị trấn – một kiểu hành trình chậm chạp thế đó. Thỉnh thoảng những vì sao và đom đóm soi sáng cho họ, cũng đôi khi là vầng trăng, và Toyo sẽ dịu dàng hát cho con trai nàng nghe bài đồng dao Izumo về vầng trăng: Chị Nono hỡi, Hằng Nga tiểu thư, Chị bao tuổi rồi? “Mười ba, Mười ba và chín.” Hãy còn trẻ lắm Lí do hẳn là Khăn lưng đỏ rực Buộc quá là xinh,(2) Đai lưng trắng nọ Thắt quanh hông người Trao cho ngựa chứ? “Ồ, ồ, không đâu!” Trao cho bò chứ? “Ồ, ồ, không đâu!” (2) Bởi vì một chiếc khăn lưng obi hoặc thắt lưng có màu rất sáng chỉ có thể bị mòn hỏng vì trẻ con. Và đến khi đêm thẫm xanh sẽ trỗi lên từ mọi chỗ trong nhiều dặm đồng lúa ẩm ướt đó cái dàn hợp xướng sôi nổi êm ái tuyệt vời mà dường như chính là tiếng nói của đất đó – cuộc hòa ca của những chú ếch. Và Toyo sẽ giải thích với đứa bé các âm tiết đó nghĩa là: Me kayui! Me kayui! – “Mắt tôi buồn ngủ; tôi muốn ngủ rồi.” Tất cả những thứ đó làm nên những giờ phút hạnh phúc. II Rồi hai lần, nội trong thời gian ba ngày, những ông chủ của sống và chết có những cách thức thuộc về những huyền bí vĩnh cửu đã đập vào tim nàng. Đầu tiên nàng được dạy rằng người chồng hiền lành mà nàng rất thường cầu nguyện đã chẳng bao giờ trở về bên nàng nữa, mà đã trở về cát bụi – nơi mọi hình thể đều được vay mượn từ đó. Và trong một phút giây khác nàng cũng biết rằng con trai mình đã ngủ một giấc sâu đến mức vị đại phu Trung Hoa không thể lay tỉnh cậu được nữa. Nàng đã học những điều này chỉ như những bóng thoáng trong cơn chớp lóa. Giữa và bên ngoài những cơn chớp lóa đó là bóng tối tuyệt đối như lòng xót thương của các vị thần. Chuyện qua đi; và nàng đã phẫn nộ đáp ứng một kẻ thù mang tên Trí nhớ. Trước mặt người khác nàng có thể giữ vẻ mặt bình tĩnh, như những ngày cũ, ngọt ngào và mỉm cười. Nhưng khi chỉ có một mình sau những lời thăm hỏi, nàng thấy mình ít khỏe hơn. Nàng sẽ xếp những món đồ chơi nhỏ và trải những bộ quần áo bé bỏng trên chiếu, và đăm đăm nhìn chúng, rồi thì thào nói chuyện với chúng, và mỉm cười lặng lẽ. Nhưng nụ cười bao giờ cũng kết thúc trong một trận khóc to hoang dại bùng phát; nàng sẽ đập đầu mình lên sàn nhà và hỏi những câu hỏi ngô nghê về những vị thần. Một ngày nọ nàng nghĩ đến một an ủi kì lạ, cái nghi thức người ta gọi là Thủ phó lí thoại (Toritsu-banashi) – thuật gọi hồn người chết. Nàng không thể gọi con mình quay lại dù chỉ trong một phút ngắn ngủi thôi ư? Điều đó ắt sẽ làm phiền linh hồn bé bỏng ấy; nhưng cậu bé sẽ không vui lòng chịu một nỗi đau thoáng chốc vì lợi ích của người thân yêu ư? Hẳn là có! [Để gọi được hồn người chết quay lại người ta phải cầu đến một tu sĩ nào đó – Phật giáo hay Thần đạo – người am hiểu nghi thức niệm thần chú đó. Và bài vị hoặc linh vị (ihai) của người chết phải được đưa đến cho vị tu sĩ ấy. Rồi các nghi thức tẩy tịnh được thực hiện; nến được thắp và hương được đốt lên trước linh vị; và những lời khấn nguyện hoặc những đoạn kinh được tụng đọc; rồi tiến hành hiến cúng hoa và gạo. Nhưng, trong trường hợp này, nhất định không được nấu cơm. Và khi mọi thứ đã sẵn sàng, vị tu sĩ, cầm trên tay trái một khí cụ có hình như một chiếc bát [chuông], và dùng tay phải gõ dồn dập, rồi la lớn những lời này: Kitazo yo! Kitazo yo! Kitazo yo!, nghĩa là “Tôi đến rồi”(3). Và, khi la lớn, âm điệu trong giọng của ông ấy dần biến đổi cho đến khi nó trở thành chính giọng của người đã mất, bởi vì hồn ma đã nhập vào ông. (3) Bởi đó dân Izumo nói về một người rất hay thông báo việc đi đến của chính mình là: “Cách nói chuyện của bạn hệt như cách nói chuyện trong thuật chiêu hồn!” – Toritsubanashi no yona. Lúc ấy người chết sẽ nhanh chóng trả lời những vấn đề được hỏi, nhưng vẫn tiếp tục la lớn: “Mau, mau! Vì việc trở lại này của tôi đau đớn lắm, và tôi chỉ có một chút thời gian ở lại đây thôi!” Và khi trả lời xong, hồn ma đi mất; và khuôn mặt vị tu sĩ rơi vào trạng thái đờ đẫn. Hiện giờ triệu thỉnh người chết là không hay. Bởi việc gọi họ trở lại làm tình trạng của họ tệ hơn. Quay về âm ti, họ phải chịu một vị thế thấp hơn vị thế mà họ đã nhận trước đó. Ngày nay những nghi thức này không được luật pháp cho phép. Chúng đã từng an ủi; nhưng ra luật thế là tốt, và đúng, bởi vì có nhiều người sẵn lòng giễu nhại tính thần thánh hiện diện trong trái tim con người.] Rồi chuyện đã xảy tới với Toyo vào một đêm nọ ở một ngôi chùa nhỏ hiu quạnh tại vùng rìa thành phố, nàng thấy mình đang quỳ trước linh vị của con trai, và đang nghe nghi thức niệm thần chú. Và ngay sau đó, từ miệng của vị tu sĩ hành lễ phát ra một giọng nói mà nàng nghĩ mình biết – một giọng nói yêu dấu hơn hết thảy – nhưng yếu và mỏng nhẹ hơn nhiều, hệt như một cơn gió thổn thức. Và giọng nói nhỏ nhẹ ấy khóc với nàng: “Hỏi nhanh đi, nhanh đi, mẹ ơi! Đường tối và dài lắm; mà con không thể la cà lâu được.” Rồi nàng run rẩy hỏi: “Tại sao tôi phải buồn vì con tôi? Công lí của các vị thần là gì chứ?” Và câu trả lời nàng nhận được là: “Ôi, mẹ ơi, đừng than oán vì con như vậy! Con đã chết chỉ để mẹ không phải chết thôi. Bởi năm này là một năm bệnh hoạn và đau buồn, và con được báo cho biết rằng mẹ sẽ chết; và con đã thành tựu lời cầu nguyện rằng con sẽ chết thay cho mẹ thôi.(4) (4) Migawari (thân đại), “người thay thế”, là thuật ngữ tôn giáo đó. Ôi mẹ ơi, đừng bao giờ khóc thương vì con! Thật không tử tế nếu than oán cái chết. Con đường tịch lặng người ta bắc trên Lệ Hà(5); và khi những bà mẹ khóc, lũ ở dòng sông đó dâng lên, và các linh hồn sẽ không vượt qua được, mà phải lang thang tới lui. (5) Namida-no-Kawa (Lệ Hà) nghĩa là “Sông nước mắt”. Cho nên, con xin mẹ, đừng đau lòng nữa, mẹ của con ơi! Chỉ xin mẹ thỉnh thoảng hãy cho con một ít nước thôi.” III Từ giờ phút đó không thấy nàng khóc nữa. Nàng thể hiện, nhẹ nhàng và lặng lẽ, như ngày cũ, những bổn phận hiền lành của một người con. Mùa nối nhau qua; và cha nàng nghĩ nên tìm một người chồng khác cho nàng. Ông nói với mẹ nàng: “Nếu con gái chúng ta lại có con, đó sẽ là một nguồn vui lớn cho nó, và cho tất cả chúng ta nữa.” Nhưng người vợ thông tuệ hơn đã trả lời: “Con mình sẽ không vui đâu. Con bé không thể tái hôn được đâu. Nó đã trở nên y hệt như một đứa trẻ, chẳng biết gì về muộn phiền hay tội lỗi rồi.” Quả đúng là nàng đã không còn biết đau thật sự nữa. Nàng đã bắt đầu tỏ ra ưa thích lạ lùng những món đồ rất nhỏ. Ban đầu nàng thấy giường của mình quá rộng – có lẽ bởi cảm giác trống trải mà nỗi mất mát con nàng đã để lại; rồi, ngày qua ngày, những thứ khác dường như cũng trở nên quá rộng, ngay với chính ngôi nhà, những căn phòng quen thuộc, hốc tường và những bình hoa lớn của nó, ngay với các vật dụng trong nhà. Nàng muốn ăn cơm với những que tăm bé xíu từ một chiếc chén nhỏ y như trẻ con hay làm. Trong những chuyện này nàng đã gây hài một cách đáng yêu; còn trong những chuyện khác nàng không có gì lập dị. Những người già thường xuyên cùng nhau thảo luận về nàng. Cuối cùng cha nàng bảo: “Để con gái chúng ta sống với những người lạ có thể sẽ đau đớn lắm. Nhưng có tuổi rồi, chúng ta sẽ sớm phải xa lìa con bé thôi. Có lẽ chúng ta có thể lo liệu cho nó bằng cách để nó làm ni cô. Chúng ta có thể xây một ngôi chùa nhỏ cho con bé.” Hôm sau người mẹ đã hỏi Toyo: “Liệu con có muốn trở thành một ni cô mộ đạo, và sống trong một ngôi chùa rất, rất nhỏ, với một ban thờ rất nhỏ, và những tranh tượng Phật nhỏ không? Chúng ta sẽ luôn luôn gần bên con. Nếu con muốn thế, chúng ta sẽ nhờ một tu sĩ dạy con học kinh.” Toyo đã muốn thế, và hỏi xin một bộ trang phục cực kì nhỏ của ni cô cho nàng. Nhưng mẹ nàng bảo: “Cái gì cũng được ngoại trừ may một bộ trang phục nhỏ cho một ni cô ngoan. Cô ấy phải mặc một bộ trang phục rộng – đó là luật nhà Phật, con à.” Thế nên nàng đã được thuyết phục mặc trang phục giống như các nữ tu khác. IV Họ đã xây cho nàng một Am tự, hay là Chùa Ni, trong khoảng sân trống nơi một ngôi chùa khác và rộng lớn hơn, gọi là chùa Amida (A di đà), đã từng đứng đó. Ngôi Am tự vì thế cũng được gọi là chùa A di đà, tưởng nhớ A di đà Như Lai và chư Phật khác. Nó được trang bị một ban thờ rất nhỏ cùng với đồ thờ thu nhỏ. Có một bản kinh nhật tụng bé xíu trên một giá tụng kinh bé xíu, cùng những bức bình phong và chuông và tranh lụa bé xíu. Và nàng ngụ ở đó rất lâu mãi sau khi cha mẹ mình qua đời. Người ta gọi nàng là Tì kheo ni Amida tự, nghĩa là Ni cô chùa A di đà. Bên ngoài chiếc cổng nhỏ có một bức tượng Địa Tạng. Địa Tạng là vị Bồ tát đặc biệt – người bạn của trẻ em bị bệnh. Gần như lúc nào cũng có thể thấy những món đồ cúng bằng bánh gạo nhỏ đặt trước tượng ngài. Điều này chứng tỏ rằng có đứa trẻ mang bệnh nào đó đang được cầu nguyện cho; và số bánh gạo tương đương số tuổi của đứa trẻ ấy. Phần lớn chỉ có hai hay ba chiếc bánh; hiếm khi có bảy hay mười. Ni cô chùa A di đà chăm sóc bức tượng đó, và hỗ trợ cúng dường thêm hương cùng những bông hoa từ vườn chùa, bởi có một khu vườn nhỏ đằng sau Am tự. Sau khi kinh hành buổi sáng với bình bát khất thực, nàng thường sẽ ngồi trước một khung cửi rất nhỏ, dệt những bộ quần áo nhỏ đến mức khó mà dùng được. Nhưng vải dệt của nàng luôn được mua bởi các chủ cửa hàng nào đó biết chuyện của nàng; và họ làm tặng nàng những món quà gồm những chiếc li rất nhỏ, những chiếc bình hoa bé xíu, và những cây cối thấp còi lạ lẫm cho khu vườn của nàng. Nguồn vui lớn nhất của nàng là bầu bạn cùng lũ trẻ; và nàng không bao giờ thiếu điều này. Đời sống trẻ con Nhật đa phần trải qua trong các sân chùa; và nhiều quãng đời thơ ấu hạnh phúc đã trải qua trong sân chùa A di đà. Nhiều bà mẹ trong khu phố thích con nhỏ của mình chơi đùa ở đó, nhưng cảnh báo chúng đừng bao giờ cười cợt vị Ni cô. “Cung cách của bà ấy thỉnh thoảng kì lạ”, họ nói, “nhưng ấy là vì bà từng có một cậu con nhỏ, đã chết, và nỗi đau đó trở nên quá lớn với trái tim của người mẹ như bà. Nên con phải thực ngoan và tôn trọng bà ấy nhé.” Chúng đã ngoan, nhưng không hoàn toàn tôn trọng theo nghĩa tôn kính. Chúng biết tốt hơn là như thế. Chúng luôn luôn gọi nàng là “Sư Cô”, và chào hỏi cô tử tế; nhưng mặt khác chúng đối xử với nàng hệt như một người trong số chúng. Chúng chơi trò chơi với nàng; và nàng cho chúng uống trà trong những chiếc li cực kì nhỏ, và làm cho chúng hàng khối bánh gạo không lớn hơn những hạt đậu là bao, và dệt quần áo bằng vải hay bằng lụa cho những con búp bê của chúng bằng khung cửi của nàng. Thế nên với chúng nàng giống như một người chị ruột. Chúng đã chơi đùa với nàng mỗi ngày cho đến khi chúng lớn đến mức không chơi được nữa, và rời sân chùa A di đà để bắt đầu những việc cay đắng ở đời, rồi trở thành cha mẹ của lũ trẻ được gửi đến chơi với nàng thay cho chúng. Những đứa trẻ này đã học cách yêu quý Sư Cô hệt như cha mẹ mình đã từng làm. Và vị Sư Cô ấy đã sống để chơi đùa cùng con, cháu, chắt của những người nhớ được thời điểm xây dựng ngôi chùa của nàng. Dân chúng để ý kĩ rằng nàng không có nhu cầu gì. Nàng luôn luôn được tặng nhiều hơn mức nàng cần cho riêng mình. Thế nên nàng gần như có thể tốt bụng với lũ trẻ như nàng mong muốn, và nuôi cực nhiều những loài chim nhỏ nào đó. Chim chóc làm tổ trong chùa của nàng, và ăn trên tay nàng, và học cách không đậu trên đầu chư Phật. Ít ngày sau tang lễ của nàng, một đám trẻ đã đến thăm nhà tôi. Một bé gái nhỏ chín tuổi nói thay cho tất cả chúng: “Thưa ông, bọn con đang hỏi xin cho Sư Cô đã mất. Một bia mộ (haka) rất lớn đã được phụng lập cho bà ấy. Đó là một cái bia mộ đẹp. Nhưng bọn con cũng muốn tặng bà ấy một bia mộ rất, rất nhỏ, bởi vì thời gian bà chơi cùng bọn con bà thường bảo rằng bà thích một bia mộ rất nhỏ thôi. Và người làm bia đá đã hứa sẽ cắt nó cho bọn con, và sẽ làm rất xinh, nếu bọn con có thể mang tiền tới. Vì thế có lẽ ông sẽ cho bọn con cái gì đó một cách vinh hạnh.” “Nhất định rồi”, tôi nói. “Nhưng giờ các con sẽ chẳng có nơi nào để chơi.” Cô bé đáp, mỉm cười: “Bọn con sẽ vẫn chơi ở sân chùa A di đà thôi ạ. Bà được chôn cất ở đó. Bà sẽ nghe chúng con chơi đùa, và sẽ vui lòng mà.” H 6 HẬU CHIẾN I HYOGO, ngày 5 tháng Năm năm 1895 yogo, sáng nay, nằm tắm trong một vẻ lộng lẫy trong trẻo của ánh sáng khôn xiết kể – ánh sáng mùa xuân, đẫm hơi nước, và thêm một kiểu quyến rũ ẩn hiện với những thứ được nhìn từ xa qua ánh sáng ấy. Các hình khối vẫn được phác họa rõ nét, nhưng gần như được lí tưởng hóa bởi những màu nhạt không thuộc về chúng; và những ngọn đồi lớn phía sau thị trấn hướng tới một vẻ xán lạn quang đãng của sắc xanh mà dường như là bóng mờ của màu thiên thanh hơn là chính màu thiên thanh ấy. Qua những mái lợp dốc thoai thoải xám xanh có một sự rung rinh và dao động bao la những hình dạng phi thường – một cảnh tượng không thực sự mới mẻ với tôi, nhưng vẫn luôn đáng khoái thích. Khắp nơi đang lơ lửng – được cột vào những sào tre rất cao – rợp trời cờ cá chép giấy nhiều màu sáng tươi vô hạn mà nhìn vẻ ngoài và chuyển động như thể cá sống thật. Đa số có chiều dài biến thiên từ năm đến mười lăm bộ; nhưng tôi thấy đây đó một con cá bé hầu như không còn một chân dài nào, bị mắc vào đuôi của một con lớn hơn. Một số cây sào có bốn hay năm con cá đính vào chúng với những độ cao tương xứng với kích thước của con cá ấy, con lớn nhất luôn luôn ở trên ngọn sào. Hình dáng và màu sắc của những vật này khéo léo đến mức cái nhìn thoạt đầu về chúng luôn khiến một người lạ giật mình. Những sợi dây giữ chúng được cột ở phần đầu; và cơn gió, đi vào chiếc mồm mở rộng, không chỉ thổi phồng cơ thể chúng thành hình hoàn hảo, mà còn giữ chúng uốn lượn – lên và xuống, xoay và xoắn, y hệt một con cá thật, trong khi đuôi nhấp nhô và những chiếc vây phe phẩy một cách khỏi chê. Trong vườn nhà hàng xóm kế tôi có hai mẫu vật rất tinh tế. Một con có bụng màu cam và lưng màu xám ngả xanh; con kia thì tuyền một sắc óng ánh như bạc; và cả hai đều có đôi mắt lớn quái lạ. Tiếng xào xạc từ chuyển động của chúng khi bơi trên nền trời hệt như âm thanh của gió trong một cánh đồng mía. Xa hơn một chút tôi thấy một con cá rất lớn khác, với một cậu bé màu đỏ (xích tử) bám trên lưng nó. Cậu bé đỏ kia đại diện cho Kintoki(1), cậu bé mạnh nhất từng được sinh ra ở Nhật Bản, người mà khi vẫn còn bé con đã đánh vật với gấu và đặt bẫy bắt những con chim yêu tinh. (1) Kintoki (Kim Thời) hay Kintaro (Kim Thái Lang) là một nhân vật có sức mạnh siêu nhiên trong huyền thoại Nhật Bản, được cho là lấy nguyên mẫu từ một nhân vật có thật thời Heian tên là Sakata Kintoki – ND. Ai cũng biết rằng những con cá chép bằng giấy này, hay là koi (lí ngư), chỉ được treo lên trong thời gian của đại lễ Thiếu nhi, trong tháng Năm; rằng sự hiện diện của chúng bên trên một ngôi nhà biểu thị ngày sinh của một bé trai; và chúng tượng trưng cho hi vọng của phụ huynh rằng con trai của họ sẽ có thể thắng vượt mọi trở ngại trên con đường đến với thế giới của mình, hệt như lí ngư thực thụ, loài cá Nhật tuyệt vời, vượt được vũ môn. Ở nhiều vùng phía Nam và Tây của Nhật bạn hiếm khi thấy loài lí ngư này. Thay vào đó, bạn thấy những lá cờ hẹp và dài bằng vải bông, gọi là nobori (xí/ cờ), được cột vuông góc, hệt như những cánh buồm, bằng những dây dọc và khuyên tròn (bao quanh đầu cá) vào những sào tre, và mang những trang trí với đủ loại màu sắc của lí ngư trong một xoáy nước, hoặc của Shoki (Chung Quỳ) – thần phục ma, hoặc những cây tùng, hoặc rùa, hoặc các biểu tượng may mắn khác. II Nhưng trong mùa xuân rạng rỡ năm thứ 2555(2) của Nhật Bản này, loài lí ngư có thể được dùng để biểu trưng cho cái gì đó lớn lao hơn hi vọng của các bậc phụ huynh – lòng tin lớn lao về một quốc gia đã tái sinh thông qua chiến tranh. Sự phục hưng quân sự của Đế chế – ngày sinh thực sự của Tân Nhật Bản – bắt đầu với cuộc chinh phục Trung Hoa. Chiến tranh đã kết thúc; tương lai, dù vẩn mây, chừng như có triển vọng to lớn; và, mặc cho những chướng ngại kinh người để tới với các thành tựu cao thượng và bền lâu hơn, Nhật Bản đã chẳng hề sợ sệt cũng chẳng hề nghi ngờ. (2)Dựa trên truyền thuyết cho rằng năm 660 TCN, Thiên hoàng Jimmu (dòng dõi của nữ thần Mặt Trời, nữ thần quan trọng nhất trong Thần đạo) lên ngôi và là Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản. Có lẽ cái nguy hiểm trong tương lai ấy nằm ngay trong sự tự tin vô hạn này. Đó chẳng phải là một cảm thức mới sinh ra bởi chiến thắng. Đó là một cảm thức của chủng tộc, nhắc lại các thắng lợi chỉ nhằm tăng cường cảm thức ấy. Ngay từ lúc tuyên chiến đã chẳng bao giờ có chút nghi ngờ nhỏ nào về chiến thắng tối hậu. Có sự nhiệt tình phổ quát và sâu sắc, nhưng chẳng có dấu hiệu bên ngoài nào của sự phấn khích về xúc cảm. Người ta lập tức bắt tay vào viết lịch sử các thắng lợi của Nhật, và những bản lịch sử này – được phát hành đến người đặt mua với những phần hàng tuần hay hàng tháng, và được minh họa với ảnh in thạch bản hay mộc bản – đã được bán khắp đất nước từ lâu trước khi bất cứ quan sát viên nước ngoài nào có thể mạo hiểm tiên đoán những kết quả cuối cùng của chiến cuộc. Từ đầu đến cuối quốc gia ấy đã tin chắc về sức mạnh của chính mình, và về sự bất lực của Trung Hoa. Những nhà sản xuất đồ chơi đột nhiên đưa ra thị trường hàng loạt đoàn quân cỗ máy tinh xảo, thể hiện binh sĩ Trung Hoa đang tháo chạy, hoặc đang bị đốn hạ bởi các kị binh Nhật Bản, hoặc bị trói chặt với nhau như tù nhân bằng các lọn tóc đuôi sam, hoặc đang cúi lạy xin được khoan dung với các danh tướng. Những món đồ chơi quân sự kiểu cũ, thể hiện một võ sĩ đạo mặc áo giáp, đã bị thay thế bởi các nhân vật – bằng đất sét, gỗ, giấy, hoặc lụa – thuộc kị binh, bộ binh, và pháo binh Nhật; bởi các mô hình pháo đài và đại pháo; cùng những mô hình về con người-thời-chiến. Cuộc đột kích vào thành lũy Cảng Arthur(1) (Lữ Thuận Khẩu) của Lữ đoàn Kumamoto là chủ đề của một món đồ chơi máy móc tinh xảo đó; một món khác, khéo léo ngang ngửa, nhắc lại trận đánh của Tuần dương hạm Matsushima với các thiết giáp hạm Trung Hoa. Cũng vậy, có hàng vạn khẩu súng đồ chơi đã được bán đang khạc ra những nút đạn bằng khí nén với một tiếng nổ to, cùng hàng vạn thanh kiếm đồ chơi, và vô số những chiếc kèn trận nhỏ xíu, tiếng kèn thổi thường trực đó nhắc tôi nhớ tới sự hỗn loạn hào nhoáng vặt vãnh của một đêm Giao thừa nào đó ở New Orleans. Việc thông cáo mỗi chiến thắng dẫn đến một sự chế tạo và buôn bán ảnh màu khổng lồ, thể hiện một cách thô bạo và rẻ tiền, và đa phần chỉ miêu tả sự cuồng tưởng của người làm, nhưng khá phù hợp để kích thích tình yêu sự vinh quang đang phổ biến. Những bộ cờ cũng xuất hiện, mỗi quân cờ tượng trưng cho một sĩ quan hoặc binh sĩ của Trung Hoa hay Nhật Bản. (3) Cảng Arthur, tên người phương Tây gọi thành phố cảng Lữ Thuận (một địa phương thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay), là nơi đã diễn ra cuộc đại tàn sát của lính Nhật khiến hàng ngàn dân thường Trung Quốc thiệt mạng. Trong khi đó, các nhà hát đang kỉ niệm cuộc chiến theo một kiểu cách hoàn chỉnh hơn nhiều. Thật không ngoa khi nói rằng hầu như mọi hồi đoạn của chiến dịch đã được nhắc lại trên sân khấu. Các diễn viên thậm chí đã đi thăm những chiến trường để khảo sát phân đoạn và cảnh nền, rồi tự hóa thân để diễn tả cho chân thực, với sự hỗ trợ của những cơn bão tuyết nhân tạo, những gian khó của quân đội ở Mãn Châu. Mọi chiến tích hào hùng đã được kịch hóa gần như ngay khi được báo cáo. Cái chết của người lính kèn Shirakami Genjiro(4); lòng gan dạ đắc thắng của Harada Jiukichi, người leo đèn lồng giấy sáng rực, được viết với những cụm từ về lòng trung thành hay khẩu hiệu cổ vũ lòng ái quốc, đã kỉ niệm sự thành công của lực lượng vũ trang đế quốc, làm hân hoan ánh mắt của binh lính đang lên tàu ra chiến địa. Ở Kobe, nơi những đoàn tàu thường xuyên băng qua, việc treo đèn kết hoa như vậy tiếp diễn đêm từng đêm suốt nhiều tuần liền, và hơn nữa cư dân ở từng khu phố còn đăng kí thêm cờ xí và những khải hoàn môn. (4) Trong trận đánh ở Song-Hwan (Thành Hoan), một người lính thổi kèn tên là Shirakami Genjiro được lệnh thổi kèn xung trận (suzume). Anh đã thổi hiệu lệnh đó khi một viên đạn xuyên qua phổi anh, hất anh nằm văng. Đồng đội đã cố kéo chiếc kèn đó ra, xem xét vết thương chí mạng kia. Anh đã giật chiếc kèn lại, nâng lên môi, và thổi hiệu lệnh xung trận lần nữa bằng hết sức mình, rồi ngã vật ra chết. Tôi đánh liều đưa ra bản dịch thô này của bài hát ca ngợi anh được hát bởi mọi binh sĩ và học sinh ở Nhật hiện giờ: SHIRAKAMI GENJIRO (Theo khúc quân hành Nhật, Âm hưởng kèn hiệu [Rappa-no-hibiki/ Lạt-bá-hưởng]) Lúc nào khác dòng Anjo dễ băng qua hơn; nhưng giờ đây, dưới cơn bão đạn, nước tung cuộn sục sôi. Lúc nào khác vượt dòng chảy kia chỉ là trò vận động trẻ con; nhưng ai cũng phải mở đường máu lội qua Anjo hôm nay. Kèn lệnh thổi; – xuyên nước cuốn và lửa cháy đột kích phòng tuyến thép; – trên rừng kiếm đao chan chát va nhau giục giã nghiêm lệnh tiếng kèn. Tại sao kèn ngưng thổi? Tại sao lần nữa cất cao? Tại sao tín hiệu thôi thúc giờ nghe nhạt mờ hơn trước? Kèn ngưng tiếng lúc lồng ngực bị xuyên thủng;– lúc luồng hơi mờ rung, máu tuôn từ đôi môi thổi lệnh. Đau đến chết, người lính kèn vẫn đứng! tựa lên súng, lần nữa cất cao lời kèn hiệu triệu trước lúc qua đời. Cái gì mặc cho thân thể tả tơi? Tinh thần tự do xông tới xuyên Thiên Địa để lại cất cao lời gọi mời Chiến thắng! Chốn cách xa thật xa bờ biển chúng ta ấy giờ được vinh danh bởi sự ngã xuống của anh; nhưng bốn mươi triệu anh em đã nghe lời kèn hiệu triệu. Đồng chí! – vượt qua thiên nhai hải giác tiếng kèn của anh hôm nay ngân vang trong bốn mươi triệu trái tim trung thành cách xa ngàn dặm! Nhưng những hào quang của cuộc chiến cũng đã được kỉ niệm theo nhiều cách bền vững hơn bởi đủ các ngành công nghiệp lớn của đất nước này. Các chiến thắng và tình tiết về chủ nghĩa anh hùng hiến mình được tưởng niệm trên đồ sứ, tác phẩm bằng kim loại, và nhiều loại vải đắt tiền, không thua kém các tưởng niệm được thiết kế trên phong bì và giấy viết thư. Chúng được miêu tả trên lớp lót bằng lụa của áo khoác ngoài(5), trên khăn tay bằng tơ nhiễu(6) của phụ nữ, trên những thắt lưng thêu họa tiết, trong những thiết kế ở áo sơ-mi lụa và áo thụng dài mặc trong kì nghỉ của trẻ em, chưa nói tới các mặt hàng in rẻ hơn như vải bông và khăn tắm. Chúng được thể hiện trong nhiều loại hàng sơn mài, trên các mặt và nắp của những hộp đồ khảm chạm, trên túi đựng thuốc lá, trên nút tay áo, trong các thiết kế của kẹp tóc, lược phụ nữ, thậm chí trên đũa ăn. Những bó tăm bỏ trong những hộp tí hin được bày bán, mỗi cây tăm được khắc trên đó, trong kiểu văn bản chỉ có thể nhìn bằng kính hiển vi, một bài thơ khác nhau về cuộc chiến. Và mãi đến lúc hòa bình, hoặc chí ít là cho đến lúc nỗ lực mất trí của một phần tử chống đối (soshi)(7) nhằm giết viên toàn quyền Trung Hoa trong thời gian đàm phán, tất cả những việc ấy đã diễn ra như người ta đã muốn và mong đợi thế. Nhưng ngay khi những lời lẽ hòa bình đã được loan báo, nước Nga can thiệp vào, cam đoan về sự giúp đỡ của Pháp và Đức hòng bắt nạt Nhật Bản. Sự liên kết đó đã không vấp phải sự phản đối nào; chính phủ Nhật đã chơi nhu thuật, và chặn đứng những kì vọng kia bằng sự mềm mỏng khôn lường. Nhật từ lâu đã ngừng cảm thấy không thoải mái về quyền lực quân sự của chính mình. Sức mạnh dự bị của Nhật chắc hẳn to lớn hơn từng được biết nhiều, và hệ thống giáo dục của họ, với hai mươi sáu ngàn trường học, là một cỗ máy khoan khổng lồ. Trên đất của mình, họ có thể đối mặt với bất cứ quyền lực nước ngoài nào. Hải quân của họ từng là điểm yếu, và họ đã nhận thức đầy đủ về điều này. Đó là một hải đội tuyệt đẹp gồm nhiều tuần dương hạm nhỏ, nhẹ, và được trang bị tuyệt đẹp. Đô đốc của hải đội ấy, không mất một con tàu nào, đã tiêu diệt hải đội Trung Hoa nội trong hai cuộc giao chiến; nhưng thế vẫn chưa đủ nặng kí để đối mặt với hải quân liên kết của ba quyền lực Âu châu; và tinh hoa ấy của quân đội Nhật vẫn đang ở ngoài khơi xa. Thời cơ lớn nhất cho sự can thiệp đã được lựa chọn một cách khéo léo, và chắc hẳn còn hơn cả can thiệp đã được dự tính ấy nhiều. Các chiến hạm hạng nặng của Nga đã bị loại khỏi vòng chiến; và chỉ riêng những chiến hạm này đã có thể áp đảo được hải đội Nhật, dù chiến thắng ấy sẽ phải trả giá đắt. Nhưng hành động của Nga thình lình bị ngăn lại bằng lời tuyên bố nham hiểm vì sự đồng cảm của Anh đối với Nhật. Trong vòng một vài tuần, Anh có thể mang vào hải phận châu Á một hải đội có khả năng đập tan, chỉ trong một cuộc giao tranh chớp nhoáng, mọi thiết giáp hạm được tập hợp bởi sự liên minh kia. Và chỉ một phát súng từ tuần dương hạm của Nga có thể đẩy cả thế giới vào chiến tranh. (5) Haori (vũ chức) là một kiểu áo khoác cho đàn ông cũng như đàn bà. Các lớp vải lót thường có những thiết kế đẹp hơn cả bất kỳ lời khen ngợi nào. (6) Chirimen (súc miễn) là lụa nhiễu, có nhiều chất lượng; một số rất đắt giá và bền. (7) Soshi (phần tử chống đối) hình thành nên một trong những tai ương hiện đại ở Nhật. Họ thường là những cựu sinh viên thường kiếm sống bằng cách tự trả công cho mình như những kẻ khủng bố loạn động. Các chính trị gia thuê họ để chống trả các soshi đối thủ, hay để làm những kẻ đe dọa trong thời gian bầu cử. Các cá nhân đôi khi mướn họ như là những người bảo vệ. Họ có mặt trong phần lớn những cuộc tranh cử diễn ra vào những năm gần đây ở Nhật, cũng như trong một số các cuộc tấn công nhắm vào những nhân vật nổi trội. Nguyên nhân gây ra Chủ nghĩa Hư vô ở Nga có vài điểm tương đồng với nguyên nhân phát triển tầng lớp soshi hiện đại ở Nhật. Nhưng trong hải quân Nhật đã có một khao khát cuồng nộ muốn cùng lúc chiến đấu với ba quyền lực thù địch kia. Đó sẽ là một trận đánh vĩ đại, bởi không chỉ huy Nhật nào mơ đến sự mềm mỏng, không con tàu Nhật nào bị trầy xước. Quân đội cũng khao khát chiến tranh tương tự. Điều đó cần mọi sự cả quyết của chính phủ để kiềm giữ quốc gia lại. Phát biểu tự do bị bịt miệng; báo chí im lặng nghiệt ngã; và bằng sự quay lại với Trung Hoa về vấn đề bán đảo Liêu Đông, đổi lấy một sự tăng thêm khoản bồi thường chiến phí đã được đòi hỏi trước đây để bù lại, hòa bình được đảm bảo. Chính phủ thực sự đã hành động với trí tuệ hoàn hảo. Tại giai đoạn phát triển này của Nhật, một cuộc chiến tốn kém với Nga không thể không gây ra những hậu quả thê thảm nhất với ngành thương mại công nghiệp và tài chính. Nhưng niềm kiêu hãnh quốc gia đã bị tổn thương sâu sắc, và đất nước hầu như vẫn không thể tha thứ cho những nhà cầm quyền của mình. III HYOGO, ngày 15 tháng Năm Tuần dương hạm Matsushima (Tuần dương hạm Tùng Đảo), quay về từ Trung Hoa, được bỏ neo trước Hòa Lạc Viên. Nàng không quá khổng lồ, dù nàng đã làm được nhiều điều tuyệt vời; nhưng chắc chắn trông nàng khá đáng gờm khi nàng nằm đó trong ánh sáng rỡ ràng – một pháo đài thép màu xám đá vươn lên trên nền màu xanh mềm mại. Giấy phép đến thăm nàng đã được cấp cho dân chúng yêu thích, đã cố hết sức nhân dịp này, như với một cuộc trẩy hội chùa chiền; và tôi phải chịu đựng để đồng hành cùng một số người họ. Mọi con thuyền trong cảng dường như đã được du khách thuê, nên đám đông khổng lồ đang bồng bềnh quanh thiết giáp hạm đó khi chúng tôi đến. Không thể cho một lượng khách tham quan lớn như vậy lên tàu cùng một lúc, nên chúng tôi phải đợi trong lúc hàng trăm người đang luân phiên được chấp thuận hay từ chối. Nhưng chờ đợi trong không khí biển mát lạnh không khó chịu lắm; và cảnh tượng về nguồn vui của người bình dân thật đáng xem. Bao nhiêu người háo hức ùa lên khi đến lượt! Thật đông đúc và chen chúc và bấu víu! Hai người phụ nữ đã bị rơi xuống biển, rồi được các thủy thủ áo xanh vớt lên, và nói rằng họ không phải xin lỗi vì đã ngã xuống, bởi bây giờ họ có thể tự hào vì đã nợ mạng sống của mình với những con người trên Tuần dương hạm Tùng Đảo này! Trên thực tế, họ không dễ chết chìm đến vậy; có nhiều đoàn người cho thuê thuyền công cộng trông nom họ. Nhưng còn thứ gì đó có tầm quan trọng lớn lao với quốc gia hơn là mạng sống của hai người phụ nữ thực sự mang ơn những con người trên Tuần dương hạm Matsushima này; và công chúng đang cố đúng mực để trả lại cho họ bằng tình yêu – những món quà, y như hàng ngàn người sẽ thích làm vậy, về nguyên tắc là bị cấm vì kỉ luật. Các sĩ quan và thủy thủ đoàn hẳn là mỏi mệt; nhưng đám đông và câu hỏi được buông ra với sự nhã nhặn quyến rũ. Mọi thứ được trình bày và giải thích chi tiết: khẩu thần công đường kính ba mươi phân, với thiết bị nạp và máy móc điều hướng; những khẩu đại pháo khai hỏa nhanh; những quả ngư lôi, với ống xung điện của chúng; đèn lồng điện, với cơ chế dò tìm của nó. Bản thân tôi, dù là người ngoại quốc, và bởi thế yêu cầu một sự cấp phép đặc biệt, được hướng dẫn mọi thứ trong tàu, cả bên trên lẫn bên dưới, thậm chí còn phải chịu ghé nhìn chân dung các vị Hoàng đế của họ trong khoang đô đốc; và tôi được kể câu chuyện sôi động về cuộc đại chiến bên dòng Áp Lục(8). Trong khi đó, những người đàn ông già hói đầu và phụ nữ cùng lũ trẻ trong cảng chiếm được một ngày vàng hiểu biết về Tuần dương hạm Matsushima. Các sĩ quan, học viên sĩ quan, thủy thủ, không tiếc công sức làm vui lòng họ. Một số người nói về ông nội; số khác để lũ trẻ nghịch cán kiếm của mình; hoặc dạy chúng cách đưa đôi tay bé nhỏ của mình lên và hô to “Đế quốc vạn tuế!” (Teikoku Banzai!). Và đối với những bà mẹ đã thấm mệt, chiếu được trải ra, họ có thể ngồi trong bóng râm trên sàn tàu. (8) Áp Lục (Yalu): dòng sông làm nên biên giới tự nhiên giữa Trung Quốc và Triều Tiên. Sàn tàu này, chỉ một vài tháng trước, đã nhuộm đầy máu của những con người quả cảm. Có thể thấy rải rác đây đó những đốm sẫm, chống lại việc kì cọ bằng đá bọt; và dân chúng nhìn chúng với sự sùng kính dịu dàng. Tàu đô đốc này đã hai lần bị trúng các trái đạn pháo khổng lồ, và những phần dễ tổn thương của nàng bị xuyên thủng bởi một cơn bão những phát đạn nhỏ. Nàng hứng chịu mũi dùi của cuộc giao chiến, mất gần nửa thủy thủ đoàn. Trọng tải của nàng, chỉ có bốn ngàn hai trăm tám mươi tấn; và những địch thủ tức thời của nàng lúc đó là hai thiết giáp hạm Trung Hoa, mỗi tàu có trọng tải bảy ngàn bốn trăm tấn. Bề ngoài, lớp giáp của nàng cho thấy không có các vết sẹo sâu, bởi các mảnh vỡ đã được thay thế; nhưng người hướng dẫn của tôi tự hào chỉ ra nhiều mảnh vá trên sàn tàu, trụ thép chống đỡ ụ chiến đấu, ống khói, và những vết lõm khủng khiếp nhất định, với những vết nứt nhỏ hở ra từ chúng, trong bệ pháo thép dày cả bộ. Anh cũng chỉ chúng tôi thấy dấu, bên dưới, hướng đi của trái đạn ba mươi phân rưỡi đã xuyên thủng con tàu. “Khi nó đến,” anh kể, “cú chấn động quăng mọi người vào không khí đến tầm này” (anh giữ tay mình cao chừng bảy tấc bên trên mặt sàn). “Ngay khoảnh khắc đó mọi thứ trở nên tối đen; bạn không thể thấy cả tay mình luôn đấy. Rồi chúng tôi phát hiện thấy một trong các khẩu pháo đằng trước bên mạn phải đã tan tành, và thủy thủ đoàn bị giết sạch. Chúng tôi có bốn mươi người bị chết ngay lập tức, và nhiều người hơn nữa bị thương: không ai thoát ở phía đó của con tàu. Sàn tàu rực lửa, bởi nhiều đạn dược được tiếp tế cho các khẩu pháo đã phát nổ; nên chúng tôi phải cùng lúc vừa chiến đấu vừa lo dập lửa. Thậm chí cả những người trọng thương, với lớp da bị lột khỏi tay và mặt mình, cũng lao đến như thể họ không hề thấy đau đớn gì; và những người đang hấp hối cũng giúp một tay chuyền nước. Nhưng chúng tôi đã làm thiết giáp hạm Định Viễn (Ting-yuen) im tiếng chỉ với một phát súng nữa từ đại pháo của mình. Các pháo thủ Trung Hoa được người Âu châu giúp đỡ. Nhưng nếu chẳng phải đã chiến đấu chống lại các pháo thủ phương Tây, thì chiến thắng của chúng ta sẽ quá dễ dàng rồi”. Anh ấy đã đưa ra lưu ý đúng đắn. Không có gì, trong ngày xuân rạng rỡ này, có thể làm người ta thích thú đến vậy về Tuần dương hạm Matsushima bằng một lệnh hành động rõ ràng, và tấn công các tuần dương hạm Nga được trang bị tuyệt vời đang nằm ngoài bờ biển. IV KOBE, ngày 9 tháng Sáu Năm ngoái, trong khi du hành từ Shimonoseki tới thủ đô, tôi đã thấy nhiều trung đoàn trên đường hành quân đến chỗ có chiến cuộc, tất cả đều mặc đồng phục trắng; bởi mùa nóng vẫn còn chưa qua hết. Những người lính kia trông giống các sinh viên tôi đã dạy (quả vậy, hàng ngàn tân binh thực sự vừa rời trường học) nhiều đến mức tôi không thể không có cảm giác thật tàn nhẫn khi đẩy những thanh niên như vậy ra chiến trận. Những khuôn mặt còn nét trẻ con kia rất thẳng thắn, rất vui vẻ, dường như rất ngây thơ với những nỗi đau buồn lớn lao hơn trong cuộc đời! “Đừng lo cho họ”, một đồng hành người Anh, kẻ đã trải đời mình trong các doanh trại, đã nói, “họ sẽ tìm được lời giải thích sáng tỏ cho chính mình”. “Tôi biết thế”, là câu trả lời của tôi, “nhưng tôi đang nghĩ đến bệnh sốt và tuyết giá và mùa đông ở Mãn Châu: những thứ này đáng sợ hơn súng trường của người Trung Hoa nhiều.”(9) (9) Tổng số người Nhật thực tế bị giết trong chiến trận, từ trận Nha Sơn (A-san) đến việc trấn giữ quần đảo Bành Hồ (Pescadores, gồm 64 đảo nằm trong eo biển Đài Loan), chỉ là 739 người. Nhưng các cái chết từ những nguyên do khác, cho đến cuối ngày 8 tháng Sáu, trong cuộc chiếm đóng Phúc Nhĩ Ma Sa (Formosa – tên cũ của Đài Loan) là 3.148 người. Trong số này, 1.602 người chết chỉ vì bệnh tả. Ít nhất, đó là những con số chính thức được ấn hành trong Biên niên sử Kobe. Hiệu lệnh của những tiếng kèn, tụ tập người ta trong bóng đêm, hoặc báo hiệu giờ nghỉ, suốt nhiều năm đã là một trong những niềm vui thích vào những tối mùa hạ của tôi ở một dinh trấn Nhật Bản. Nhưng trong những tháng chiến tranh, các âm điệu ai oán, dằng dặc của những hiệu lệnh gần đây nhất đã khiến tôi xúc động theo một cách khác. Tôi không biết giai điệu ấy thật dị thường; nhưng thỉnh thoảng nó lại trỗi lên, tôi thường nghĩ, với cảm giác dị thường; và khi cùng một lúc vút lên với ánh sao bằng tất cả các ngọn kèn của một sư đoàn, những âm điệu hòa trộn vô vàn ấy có một nỗi u sầu ngọt ngào không đời nào quên được. Và tôi sẽ mơ về những người lính kèn u linh, đang triệu tập thanh niên và sức mạnh của các đạo quân tới cái im lặng đầy bóng tối của sự nghỉ ngơi vĩnh hằng. Với biểu hiện và ý chí Vâng, hôm nay tôi đã đến xem một số trung đoàn trở về. Những cổng vòm bằng cây lá đã được dựng lên trên tuyến phố họ đi qua, dẫn từ nhà ga Kobe đến Thấu Xuyên Thần Xã (Đền Minatogawa – Nanko-San), ngôi đền lớn thờ tưởng anh linh của vị anh hùng Kusunoki Masashige.(10) Các công dân đã đăng kí sáu ngàn yên cho vinh dự được phục vụ những binh sĩ bữa ăn đầu tiên sau chuyến trở về của họ; và nhiều tiểu đoàn đã nhận được sự nghênh đón tử tế như vậy. Họ dùng bữa dưới những chiếc lán đã được trang hoàng với cờ và vòng hoa trong sân đền; và có nhiều món quà cho tất cả các phân đội – đồ ngọt, và các gói thuốc lá, cùng những chiếc khăn nhỏ in những bài thơ ca ngợi lòng kiêu dũng. Trước cổng đền một khải hoàn môn thực sự đẹp đẽ đã được dựng lên, ở mỗi mặt của nó có một biểu ngữ hoan nghênh bằng Hán tự thếp vàng, và trên đỉnh khải hoàn môn có một quả địa cầu nổi bật lên với một con chim ưng đang xòe rộng cánh.(11) (10) Kusunoki Masashige [Nam Mộc Chính Thành (楠⽊ 正成), 1294 – 1336] là một dũng tướng võ sĩ đạo đã dẹp loạn Nguyên Hoằng (1331 – 1333) – một cuộc nội chiến Nhật. (11) Cận kề cuộc hải chiến lớn ngày 17 tháng Chín năm 1894, một con chim ưng đã đậu xuống cột buồm chiến của Tuần dương hạm Takaehiho của Nhật, và trân mình đợi được bắt lấy và cho ăn. Sau nhiều yêu chiều, con chim báo điềm lành này đã được trình lên Thiên Hoàng. Nghề nuôi chim ưng là một thú tiêu khiển lớn thời phong kiến, và những con chim ưng được huấn luyện tinh vi. Ở Nhật, giờ đây loài chim ưng có thể trở thành, hơn bao giờ hết, một biểu tượng của chiến thắng. Thoạt đầu tôi đứng đợi với Manyemon, trước nhà ga, nơi rất gần ngôi đền. Chuyến tàu đến, một lính gác ra lệnh tất cả người xem rời khỏi sân ga; và bên ngoài, trên đường phố, cảnh sát lùa đám đông lùi lại, và chặn hết mọi phương tiện giao thông. Sau một vài phút, các tiểu đoàn tiến vào, diễu qua theo hàng đều rắp qua các cổng vòm bằng gạch – một sĩ quan xanh xao dẫn đầu, bước chân hơi khập khiễng, đang hút một điếu thuốc. Đám đông dồn ùn lên quanh họ; nhưng không có lời cổ vũ nào, thậm chí không thốt một lời – một sự lặng im chỉ bị phá vỡ bởi nhịp bước nặng nề đều đặn của đoàn quân ngang qua. Tôi hầu như không thể tin đó chính là những người tôi đã nhìn thấy lúc sắp ra chiến địa; chỉ có những con số trên cầu vai đảm bảo với tôi về sự kiện đó. Những khuôn mặt kia sạm nắng và dữ dội; nhiều người có râu rậm. Đồng phục mùa đông màu xanh sẫm đã sờn rách, giày đã mòn đến mức không còn hình dạng; nhưng các bước chân nhịp nhàng, mạnh mẽ là bước chân của những binh sĩ đanh thép. Không còn là những chàng trai nữa, mà đã là những người đàn ông rắn rỏi, có thể đối mặt với bất cứ đoàn quân nào trên thế giới; những người đã đồ sát và xông vào bão lửa; những người cũng đã chịu đựng nhiều ẳ thứ mà sẽ không bao giờ được viết ra. Những đường nét kia chẳng cho thấy niềm vui cũng như lòng kiêu hãnh; những đôi mắt hầu như chẳng đảo nhanh để lướt tìm cờ xí chào mừng, những trang hoàng, hay cổng vòm với con chim ưng che bóng địa cầu trong trận chiến, có lẽ bởi vì những đôi mắt đó đã rất hay nhìn thấy những điều khiến con người phải nhăn mặt. (Chỉ có độc một người mỉm cười khi anh ấy ngang qua; và tôi đã nghĩ đến một nụ cười mình từng thấy trên khuôn mặt của một người lính Zouave(11) khi còn bé, đứng xem cuộc trở về của một trung đoàn từ Phi châu – một nụ cười giễu, như khi bị đâm đó.) Nhiều khán giả bị tác động thấy rõ, đang cảm nhận lí do của sự thay đổi ấy. Nhưng, với tất cả điều đó, những người lính giờ đây đã là những binh sĩ thiện chiến hơn; và họ sắp tìm thấy sự hoan nghênh và những an ủi, cùng những món quà và tình yêu ấm áp lớn lao của công chúng, rồi sau đó là sự thư thái, trong các doanh trại quen thuộc xưa nay của mình. (11) Zouave: lính bộ binh Algeria của quân đội Pháp. Tôi đã bảo với Manyemon: “Tối nay họ sẽ ở Osaka và Nagoya. Họ sẽ nghe kèn hiệu trỗi; và họ sẽ nghĩ đến những đồng chí đã chẳng bao giờ trở lại được nữa.” Ông già đáp lời, với sự đứng đắn giản đơn: “Có lẽ vì người Tây phương thường nghĩ rằng cái chết không bao giờ quy hồi. Nhưng tôi không nghĩ thế được. Không người Nhật nào chết mà chẳng quy hồi. Chẳng có ai không biết con đường đó. Từ Trung Hoa và Triều Tiên, và từ biển khổ kia, tất cả người đã khuất của chúng tôi đã quay về – tất cả! Bây giờ họ đang ở cạnh chúng tôi. Mỗi khi hoàng hôn họ sẽ tập hợp để nghe tiếng kèn lệnh gọi họ về nhà. Và họ cũng sẽ nghe chúng vào cái ngày những đạo quân của Thiên Tử được hiệu triệu để chống lại nước Nga.” 7 HARU H aru(1) được nuôi nấng, chủ yếu tại gia, trong cung cách từ xưa đã sinh ra một trong những kiểu phụ nữ ngọt ngào nhất mà thế giới từng thấy. Nền giáo dục trong nước đã vun bồi nên sự đơn thuần của trái tim, sự duyên dáng tự nhiên trong phong thái, sự tòng thuận, và tình yêu bổn phận như thế không bao giờ được vun bồi ngoài Nhật Bản. Thành quả đạo đức của nền giáo dục quốc nội kia là cái gì đó quá dịu dàng và đẹp đẽ với bất cứ đâu ngoại trừ xã hội Nhật Bản cũ: nó đã không phải là sự chuẩn bị đúng đắn nhất cho cuộc sống khắc nghiệt hơn nhiều của xã hội mới, mà trong đó nó vẫn sống sót. Về mặt lí thuyết cô gái tao nhã đã được rèn luyện cho tình cảnh trở thành một người có lòng khoan dung với chồng mình. Nàng đã được dạy không bao giờ bày tỏ sự hờn ghen, hoặc buồn rầu, hay giận dữ, thậm chí trong những hoàn cảnh thôi thúc cả ba điều đó; nàng được mong đợi sẽ chế ngự các lầm lỗi ở vị chúa tể của mình bằng sự ngọt ngào thuần túy. Tóm lại, nàng được đòi hỏi gần như là siêu nhân, để nhận thức thấy, ít nhất là trong vẻ ngoài, lí tưởng của sự vô vị kỉ hoàn hảo. Và nàng sẽ thực hiện điều này với một người chồng cùng địa vị của riêng nàng, tinh tế trong phân biệt, có thể đoán định được các cảm giác của nàng, và không bao giờ làm tổn thương chúng. (1) Haru trong tiếng Nhật có nghĩa là mùa xuân – ND. Haru xuất thân từ một gia đình tốt hơn chồng nhiều; và nàng có hơi quá tốt với anh, bởi vì anh không thực sự hiểu được nàng. Họ đã cưới khi còn rất trẻ, ban đầu nghèo khó, rồi dần dần trở nên khá giả, bởi vì chồng của Haru là một người kinh doanh khéo léo. Thi thoảng nàng nghĩ anh đã yêu nàng nhất khi họ còn chưa khá giả; và một người phụ nữ hiếm khi nhầm lẫn về những vấn đề như vậy. Nàng vẫn may tất cả quần áo cho chồng; và anh tán thưởng công việc ấy của nàng. Nàng hầu hạ các nhu cầu của chồng; giúp anh mặc và cởi trang phục; làm mọi thứ để anh thoải mái trong ngôi nhà xinh xắn của họ; yêu kiều chào tạm biệt khi anh đi làm vào buổi sáng, và vui vẻ đón chào khi anh trở về nhà; lịch thiệp tiếp đón bạn bè anh; quản lí các vấn đề trong gia đình với cần kiệm tuyệt vời; và hiếm khi yêu cầu bất kì chiếu cố tốn kém nào. Thực tế cô hầu như không cần những chiếu cố như vậy; bởi anh không bao giờ thiếu hào phóng, thích nhìn nàng ăn vận thanh lịch – trông hệt như nàng bướm bạc đẹp đẽ nào đó đang khoác đôi cánh khép – và đưa nàng đến các nhà hát và những địa điểm giải trí khác. Nàng đi cùng anh đến những khu vui chơi nổi tiếng vì có hoa anh đào nở rộ mùa xuân, hoặc có ánh sáng lấp lánh của đom đóm những đêm hè, hay có rừng phong nhuộm đỏ sắc mùa thu. Và thỉnh thoảng họ sẽ trải qua một ngày cùng nhau ở Maiko, bên bờ biển, nơi những cây thông đong đưa hệt như dáng vẻ của những thiếu nữ đang nhảy múa; hoặc một buổi chiều ở Kiyomidzu, trong căn nhà nghỉ hè xưa cổ đến mức mọi thứ hệt như một giấc mộng năm trăm năm về trước, và ở đó có bóng mát tuyệt vời của rừng cao, cùng một bản nhạc nước lạnh và sáng đang nhỏ xuống từ các hang động, luôn luôn là những khúc sáo than van vô hình, thổi êm êm theo điệu cổ – một sự vuốt ve bằng âm điệu của thanh bình và u buồn trộn lẫn, giống hệt như cảnh ánh vàng đang sẫm nhuộm lẫn vào sắc xanh dương lúc vầng dương hấp hối. Ngoại trừ những thú vui và các chuyến du ngoạn nho nhỏ như vậy, Haru hiếm khi ra ngoài. Họ hàng duy nhất còn sống của nàng, cũng như của chồng nàng, đều ở các tỉnh xa xôi khác; và nàng đã vài lần đến thăm họ. Nàng thích được ở nhà, cắm xếp hoa tươi ở các góc phòng hoặc dâng các vị thần, trang trí phòng ốc, và cho đàn cá vàng đã thuần hóa ở hồ trong vườn ăn; lũ cá sẽ trồi đầu lên khi thấy nàng đến. Vẫn chưa có đứa trẻ nào mang niềm vui hay nỗi buồn đến cho đời nàng. Nàng, bất chấp kiểu búi tóc của người đã làm vợ, trông hệt như một thiếu nữ rất trẻ, và nàng vẫn đơn giản như một đứa trẻ, tuy thế khả năng kinh doanh trong những việc nhỏ khiến chồng nàng thán phục đến mức anh thường hạ mình hỏi ý kiến của nàng trong những việc lớn. Có lẽ với anh trái tim phán đoán tốt hơn là cái đầu xinh đẹp; nhưng, dù là trực giác hay không, lời khuyên của nàng đã chứng tỏ là không bao giờ sai. Nàng đã hạnh phúc vừa đủ với anh trong năm năm, trong suốt thời gian ấy anh đã thể hiện mình chu đáo như bất cứ thương gia Nhật trẻ trung nào có thể đối đãi tốt với một người vợ có tính cách tinh tế hơn chính bản thân mình. Rồi đột nhiên cung cách của anh trở nên lạnh nhạt, đột ngột đến mức nàng cảm thấy chắc chắn rằng lí do đã không nằm ở chỗ mà một người vợ không con có thể có lí do để lo sợ. Không thể khám phá được lí do thực sự, nàng đã cố thuyết phục bản thân rằng mình đã chểnh mảng trong các bổn phận; đã tự quán xét lương tâm vô tội của mình mà vẫn vô ích; và đã rất, rất mực cố gắng để làm hài lòng anh. Nhưng anh vẫn không lay chuyển. Anh chẳng nói lời nào không tử tế, dù nàng cảm thấy đằng sau sự im lặng của anh khuynh hướng kiềm chế phát ngôn những lời ấy. Một người Nhật thuộc tầng lớp tốt hơn rất không thích hợp để nói những lời không tử tế với vợ mình. Điều đó bị cho là phàm phu và thô bạo. Một người có giáo dục ở tâm trạng bình thường thậm chí cũng sẽ đáp lại những lời trách móc của vợ với ngữ điệu nhẹ nhàng. Phép lịch sự thông thường, trong đạo lí Nhật Bản, đòi hỏi thái độ này ở mọi người đàn ông có nam tính; hơn nữa, đó là cách duy nhất an toàn. Một người phụ nữ tao nhã và nhạy cảm sẽ không cam chịu lối hành xử lỗ mãng như vậy lâu; một người có khí chất thậm chí có thể tự sát vì điều gì đó được nói trong khoảnh khắc điên giận, và một vụ tự tử như thế sẽ làm ô danh người chồng suốt phần đời còn lại. Nhưng có những sự tàn ác chậm hơn lời lẽ – sự lơ là hay dửng dưng, chẳng hạn, trong khía cạnh nào đó sẽ kích khởi sự hờn ghen. Một người vợ Nhật thực ra đã được huấn luyện để không bao giờ tỏ ra hờn ghen; nhưng cảm giác thì cổ xưa hơn mọi sự huấn luyện, già như tình yêu, và có khả năng sống lâu y hệt. Bên dưới lớp mặt nạ điềm đạm của mình, người vợ Nhật cũng cảm thấy hệt như chị em phương Tây của nàng, cũng sẽ cầu nguyện và cầu nguyện y hệt, thậm chí trong khi đang thích thú với một buổi dạ hội nào đó về sắc đẹp và thời trang, cho đến cái giờ phút sẽ cho nàng được tự do một mình giải tỏa nỗi đau của nàng. Haru đã có lí do để hờn ghen; nhưng nàng quá trẻ con để đoán ngay ra được; và các tôi tớ của nàng lại quá yêu mến nàng để gợi ý về lí do đó. Chồng nàng đã quen trải qua các buổi tối của anh với việc bầu bạn cùng nàng, hoặc ở nhà hoặc nơi nào đó. Nhưng giờ đây, đêm này qua đêm khác, anh ra ngoài một mình. Ban đầu anh viện cớ bận việc kinh doanh này nọ; sau đó thì không, và thậm chí còn không báo cho nàng khi nào chờ anh về. Dần sau, anh cũng đã đối xử với nàng bằng sự thô bạo thầm lặng. Anh đã thay đổi – “như thể đã có một loài yêu tinh trong tim ông ấy”, các tôi tớ nói. Trên thực tế anh đã bị mắc trong một cái bẫy gài khéo léo. Lời thầm thì nào đó từ một nghệ nương (geisha) đã làm tê liệt ý chí của anh; một nụ cười nào đó đã che mù mắt anh. Nàng ta đẹp thua xa vợ anh; nhưng rất thiện nghệ trong nghề dệt lưới – những mành lưới của ảo vọng nhục dục tóm gọn bọn đàn ông yếu đuối, và luôn luôn càng ngày càng thít chặt cho đến giờ phút nhạo báng và lụn bại cuối cùng. Haru đã chẳng hề biết gì. Cô tuyệt chẳng ngờ vực gì mãi cho đến khi hành vi kì lạ của chồng nàng đã trở thành thói quen, và thậm chí lúc ấy chỉ bởi vì nàng phát hiện thấy tiền của anh đã lọt vào tay người lạ. Anh chưa bao giờ nói cho nàng biết đã trải qua các buổi tối ở đâu. Và nàng ngại hỏi, vì e rằng anh sẽ nghĩ nàng hờn ghen. Thay vì bộc lộ cảm giác của mình bằng lời lẽ, nàng cư xử với anh bằng sự ngọt ngào đến mức một người chồng thông minh hơn ắt đã đoán được cả. Nhưng, ngoại trừ kinh doanh, anh ta trì độn. Anh tiếp tục trải qua các buổi tối xa nhà; và khi lương tâm trở nên yếu đuối hơn, sự vắng mặt của anh càng dài ra. Haru đã được dạy rằng một người vợ tốt ban đêm sẽ luôn ngồi dậy và chờ vị chúa tể của mình quay về; vì làm như thế, nàng đã chịu đựng căng thẳng; và từ những tâm trạng bồn chồn phát sốt kéo theo sự mất ngủ, từ sự chờ đợi hiu quạnh của nàng sau khi những người hầu, vốn đã giải tán vào giờ thông thường, để nàng lại với các suy nghĩ của mình. Duy có một lần, về nhà rất muộn, chồng nàng đã bảo nàng: “Tôi xin lỗi vì em đã ngồi muộn đến thế để chờ tôi; đừng chờ như thế nữa!” Lúc ấy, sợ rằng anh có thể thực sự bị đau đớn vì sự quan tâm của mình, nàng đã cười mãn nguyện, và nói: “Em không buồn ngủ, và em không mệt; làm ơn đừng suy nghĩ về em quá vậy.” Thế nên anh đã thôi nghĩ về nàng, vui vẻ nhận lấy lời nàng; và không lâu sau anh không về nhà suốt một đêm. Sau đêm thứ ba vắng mặt, anh thậm chí còn không thể về kịp để dùng bữa sáng; và Haru biết đã đến lúc trách nhiệm như là một người vợ của nàng buộc nàng phải lên tiếng. Nàng đã chờ suốt cả buổi sáng, lo sợ cho anh, cũng lo cho cả chính mình; cuối cùng đã ý thức được cái sai lầm mà bởi đó trái tim của một người phụ nữ có thể sẽ bị tổn thương một cách sâu sắc nhất. Các tôi tớ trung thành của nàng đã nói nàng nghe gì đó; phần còn lại nàng có thể đoán được. Nàng đã rất yếu, mà không biết thế. Nàng chỉ biết rằng nàng đã giận dữ – giận dữ một cách ích kỉ, bởi nỗi đau trong nàng – nỗi đau kinh tởm, giày vò, tàn bạo. Giờ Ngọ đã đến khi nàng ngồi nghĩ mình sẽ nói sao cho ít ích kỉ nhất về điều mà bây giờ bổn phận của nàng phải nói – những """