"Kinh Tế Học Thiêng Liêng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kinh Tế Học Thiêng Liêng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo KINH TẾ HỌC THIÊNG LIÊNG TIỀN BẠC, QUÀ TẶNG VÀ XÃ HỘI TRONG THỜI ĐẠI CHUYỂN GIAO CHARLES EISENSTEIN Lời ngỏ của Book Hunter Năm 2011, khi bắt đầu thành lập Book Hunter, chúng tôi luôn tìm kiếm cho mình một mô hình hoạt động: Kinh doanh ư? Chắc chắn không! Hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận ư? Vậy thì sẽ rất khó để phát triển bền vững. Đến nay, đã tròn 10 năm hoạt động trong sự cân đối giữa phi lợi nhuận và kinh doanh, chúng tôi đã tìm được cho mình một hệ lý thuyết về kinh tế để tiếp tục tin tưởng rằng con đường mình lựa chọn là đúng đắn. Ngay từ lần đầu đọc tác phẩm Sacred Economics: Money, Gift and Society in the Age of Transition của tác giả Charles Eisenstein, chúng tôi đã thốt lên rằng: “Wow, Book Hunter và những người bạn của chúng ta – những người thường xuyên ủng hộ, giúp đỡ, trao đổi sản phẩm… với Book Hunter, dường như đang vận hành theo mô hình kinh tế này.” Không chỉ có vậy, chúng tôi nhận ra rằng cách thức vận hành mô hình kinh tế ấy vẫn đang tồn tại, thậm chí còn tồn tại hiệu quả tại một số ngôi làng tại miền Trung Việt Nam. Đa phần các thành viên trong Book Hunter của chúng tôi đều có gốc gác từ Bắc Trung Bộ và vẫn còn giữ đôi chút liên hệ với làng quê. Tại khu vực này, vẫn tồn tại những ngôi làng mà người dân tại đó dần quay lại với hình thức hàng đổi hàng – một hình thức mà các nhà dân tộc học gọi là “kinh tế quà tặng”. Họ chọn lựa quay lại với mô hình “nguyên thủy” này vì mấy lý do: Một là người dân các ngôi làng này cảm thấy lo ngại trước tình trạng thực phẩm kém vệ sinh khó kiểm soát ở chợ. Hai là họ muốn được sử dụng sản phẩm tươi nhất, ngon nhất, theo mùa, với chi phí thấp nhất. Ba là thông qua kinh tế quà tặng, mỗi người dân quê đều gắn bó tình cảm và lợi ích với nhau nhiều hơn. Một nhóm các gia đình chia nhau ra trồng loại cây khác nhau, nuôi gia súc khác nhau, và trao đổi với nhau theo một quy ước riêng. Tại Hà Nội, nơi chúng tôi sống, dần dần, xuất hiện nhiều nhóm hoạt động vận hành theo cách thức tương tự nhưng với một phiên bản khác, bởi vì không dễ dàng gì để thực hiện hàng đổi hàng tại đô thị. Đa phần, họ là những thương hiệu kinh doanh siêu nhỏ, nhưng làm sản phẩm chất lượng cao và có định hướng phát triển bền vững một cách rõ rệt. Tôi có thể kể ra một vài cái tên như trà Mộc Thanh của chị Nguyễn Dương Anh, nhà rang cà phê đặc sản Bloom Coffee Roastery của anh Phạm Tuấn Anh, nông trại Skyline Farm của chị Bùi Phương Linh… Họ hết mình để tạo sản phẩm tốt nhất, hạn chế tối đa những thứ có thể gây hại cho thiên nhiên và con người, không đặt nặng bài toán tối đa hóa lợi nhuận. Những người tìm đến sản phẩm của họ không phải bởi vì bị mê hoặc bởi các hoạt động truyền thông marketing, mà vì nhận thức được giá trị trong sản phẩm và không tiếc các khoản chi để tưởng thưởng cho công sức lao động. Trong một vài trường hợp đặc biệt, họ không ngần ngại để thực hiện hàng đổi hàng, hoặc hàng đổi lấy kỹ năng, hàng đổi lấy tri thức… Hãy hình dung, không phải chỉ người sản xuất yêu sản phẩm của mình mà chính những người sử dụng cũng yêu sản phẩm ấy, trân trọng giá trị của sản phẩm ấy, không để chúng bị lãng phí. Và tinh thần ấy chính là ý nghĩa thiêng liêng trong cách thức nền kinh tế này vận hành. Chúng tôi tin rằng những người bạn tìm đến với Book Hunter để đặt một cuốn sách, hay tham gia một khóa học, hay gửi một khoản tiền ủng hộ chúng tôi, hoặc đơn giản là trở thành một Book Hunter chính thức… đều là bởi các bạn thực sự trân trọng những điều chúng tôi mang lại cho bạn. Thậm chí, ngay cả khi các bạn không sử dụng tài chính hay kỹ năng của mình như một món quà để tặng chúng tôi, mà bạn vẫn tiếp nhận được đôi điều hữu ích từ các bài viết đăng tải miễn phí trên website của Book Hunter, thì khi bạn vận dụng chúng để tạo tác những điều tuyệt vời cho thế giới, bằng một cách bí ẩn nào đó, chúng tôi vẫn được thụ hưởng món quà của bạn. Vâng, đó chính xác là cách nền kinh tế thiêng liêng này vận hành. Có lẽ, tới đây, các bạn sẽ tò mò về cuốn sách. Liệu đây có phải là một cuốn sách đầy lý tưởng về một nền kinh tế hàng đổi hàng trước nay đã bị xem là lạc hậu? Chúng tôi xin khẳng định rằng: không phải. “Kinh tế học thiêng liêng” của Charles Eisenstein là một cuộc khảo sát lí thú về lịch sử tiền tệ từ thời cổ đại, đến tư bản hiện đại, và mới đây là các vấn đề về tiền điện tử. Dựa trên các công cụ lý thuyết của dân tộc học, kinh tế học… và sự khảo sát chính sách phát triển cũng như thực tiễn, Eisenstein đã mổ xẻ một loạt các vấn đề của nền kinh tế đương đại như tiền điện tử, kinh tế địa phương, phát triển bền vững, sự phục hồi của đồng tiền, các nguy cơ của thói quen chạy đua theo tối đa hóa lợi nhuận… Cuốn sách chắc chắn sẽ thay đổi hoặc chí ít là thách thức “đức tin” của bạn về tiền bạc nói riêng và sở tư hữu nói chung. Charles Eisenstein đăng tải miễn phí bản tiếng Anh của cuốn sách và cho phép bất cứ ai có thể dịch và giới thiệu phi thương mại. Do đó, anh tặng cho Book Hunter quyền được dịch cuốn sách. Tiếp thu tinh thần của nền kinh tế thiêng liêng, đội ngũ tham gia dịch sách đều không đòi hỏi một số tiền cụ thể cho nhuận bút, và bởi thế, Book Hunter chúng tôi sẽ không ghi giá bán trên mỗi cuốn sách. Thay vì đó, nếu bạn thấy cuốn sách xứng đáng với giá trị như thế nào, các bạn có thể tưởng thưởng đội ngũ dịch thuật và hoạt động vận hành của Book Hunter. Chúng tôi sẽ gửi tặng những món quà của bạn đến đội ngũ dịch cho dù đó là tài chính hay sản phẩm. Thật thích hợp khi cuốn sách này được hoàn thành vào năm hoạt động thứ 10 của Book Hunter, như một món quà Book Hunter gửi tặng chính mình, tặng những người bạn đã và đang gắn bó, tặng những độc giả mà chúng tôi chưa từng gặp mặt, tặng đất nước Việt Nam đang nỗ lực từng ngày trên chặng đường phát triển kinh tế bền vững, tặng một thế giới đã mang đến cho chúng ta rất nhiều giá trị tốt đẹp, tặng vũ trụ bao la luôn xoay vần trong trật tự bí ẩn của mình… Và giờ thì, mời các bạn hãy lật giở những trang sau và đọc thật kỹ lưỡng cuốn sách. Nếu bạn cảm thấy các quan điểm kinh tế của Charles Eisenstein có đôi chút giá trị với bạn, thì bạn hãy ứng dụng chúng trong đời sống kinh tế của chúng ta, bắt đầu từ hành vi nhỏ nhất. Đó là cách tốt nhất mà chúng ta tưởng thưởng cho tác giả. Dành tặng bố mẹ tôi và tất cả những người đã mang tới cho tôi thật nhiều điều mà không hề mong chờ báo đáp. LỜI NÓI ĐẦU Tôi mang tới bạn cuốn sách này trên tinh thần tặng quà, tương đồng với đề tài của cuốn sách là đưa các nguyên lý quà tặng vào phạm trù của tiền bạc. Để lý thuyết đi đôi với thức hành, Nhà xuất bản North Atlantic Books và tôi đã lựa chọn hình thức bản quyền Creative Commons, một dạng thỏa thuận cho phép bạn chia sẻ cuốn sách này thoải mái với mục đích phi thương mại. Điều này có nghĩa là bạn có thể sao chép nội dung cuốn sách, đăng lên website cá nhân của bạn… chỉ cần bạn không bán nó hoặc sử dụng nó vì mục đích quảng cáo. Chúng tôi cũng yêu cầu bạn cung cấp đầy đủ thông tin cơ bản về cuốn sách để bất kỳ ai mong muốn tìm kiếm thêm thông tin về các công việc của tôi đều có thể làm được. Bạn có thể tìm hiểu kỹ lưỡng về Creative Commons trên website chính thức của nó. Một đặc điểm của quà tặng đó là món quà đáp lại không cần phải được cụ thể hóa ngay từ ban đầu. Nếu bạn nhận được hoặc cho đi cuốn sách này một cách miễn phí, chúng tôi hoan nghênh mọi quà tặng mang tính đền đáp một cách tự nguyện và đến từ sự biết ơn hoặc trân trọng giá trị của cuốn sách từ phía bạn. Bạn có thể làm điều này thông qua các trang web có liên kết với tác giả hoặc cuốn sách này. Suy cho cùng, tôi tự thấy bản thân mình giống với một người quản gia và là kênh truyền cho các ý tưởng của Kinh tế học Thiêng liêng. Đứng trên vai những nhà tư tưởng khổng lồ lừng lẫy hơn bản thân rất nhiều, tôi hấp thu, chuyển hóa và truyền tải các ý tưởng từ những giá trị văn hóa chung của chúng ta. Đó là món quà mà tôi nhận được và sau đó tới lượt tôi trao tặng nó cho bạn. Đây là lý do tại sao từ sâu trong lương tâm, tôi không thể xem bản thân mình là một người sở hữu hợp pháp về mặt đạo đức của những ý tưởng này. Ơn trời, nhà xuất bản của tôi đã dũng cảm thử nghiệm một mô hình quản lý tài sản trí tuệ kiểu mới. Tôi mong chờ có một ngày mà các nghệ sĩ không còn cần phải sử dụng các luật lệ về sở hữu trí tuệ để khiến cho các tác phẩm của họ trở nên khan hiếm một cách giả tạo, mà vẫn nhận được vô vàn sự đền đáp từ lòng biết ơn của những người cảm nhận tác phẩm của họ. LỜI GIỚI THIỆU Mục đích của cuốn sách này là làm cho tiền và nền kinh tế trở nên thiêng liêng như mọi thứ khác trong vũ trụ. Hiện nay chúng ta thường gán tiền với những thứ trần tục, và chúng ta có lý khi làm việc này. Nếu có bất cứ điều gì thiêng liêng trong thế giới này, đó chắc chắn không phải là tiền. Tiền dường như là kẻ thù của những bản năng tốt đẹp của chúng ta, được minh chứng rõ nhất mỗi khi chúng ta muốn làm điều tốt hoặc muốn trở nên hào phóng thì ý nghĩ “Mình không thể làm được vì không có tiền” xen vào và gây trở ngại. Tiền dường như là kẻ thù của cái đẹp. Tiền dường như là kẻ thù của mọi cuộc cải cách xã hội và chính trị chính đáng, khi mà các tập đoàn quyền lực sử dụng tiền nhằm gây ảnh hưởng lên luật pháp theo hướng tăng lợi nhuận của chính mình. Tiền dường như đang hủy diệt trái đất, khi chúng ta tàn phá đại dương, rừng, đất, và mọi loài để nuôi dưỡng lòng tham không giới hạn. Ít nhất là từ khi Chúa Jesus đuổi những người đổi tiền1 ra khỏi đền thờ, chúng ta đã cảm thấy rằng có một cái gì đó xấu xa ở tiền bạc. Khi các chính trị gia mải kiếm tiền thay vì phục vụ cho lợi ích cộng đồng, chúng ta nói họ tham nhũng. Các tính từ như “bẩn thỉu” và “dơ dáy” miêu tả tiền một cách tự nhiên. Những người đi tu được cho là không liên quan gì đến tiền: “Bạn không thể phục vụ Thượng Đế và Mammon cùng lúc.2 Đồng thời, không ai có thể phủ nhận rằng tiền cũng có một phẩm chất huyền bí, một sức mạnh có thể khiến thay đổi hành vi và điều phối hoạt động của con người. Từ thời xa xưa, các nhà tư tưởng đã phải ngạc nhiên trước khả năng của một con dấu trên một miếng kim loại hay một tờ giấy để biến chúng trở thành những vật đầy quyền lực. Thật không may, khi nhìn thế giới xung quanh chúng ta, thật khó để không kết luận rằng ma thuật của tiền bạc là một loại ma thuật quỷ dữ. Rõ ràng, nếu chúng ta muốn biến tiền thành một cái gì đó thiêng liêng thì một cuộc cách mạng ở quy mô lớn là cần thiết – một sự chuyển hóa về bản chất của tiền. Không chỉ đơn thuần là chúng ta phải thay đổi thái độ của mình về tiền như một số các bậc thầy self-help rao giảng; thay vào đó, chúng ta sẽ tạo ra những loại tiền mới nhằm thể hiện và củng cố thái độ đã được thay đổi đó. Kinh tế học thiêng liêng mô tả loại tiền mới này và nền kinh tế mới xoay quanh nó. Nó cũng khám phá sự chuyển hóa về vai trò của con người mà chính vai trò này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự chuyển hóa của tiền. Thái độ đã được thay đổi mà tôi nói đến ở đây đi sâu tới cốt lõi của việc làm người thì có ý nghĩa gì: bao gồm sự hiểu biết của chúng ta về mục đích của cuộc sống, vai trò của con người trên hành tinh này, mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng con người và tự nhiên; ngay cả nhận thức thế nào là một cá nhân hay một cái tôi. Rốt cuộc, chúng ta coi tiền bạc (và tài sản) như là sự mở rộng của cái tôi; do đó mới có đại từ sở hữu “của tôi” để mô tả nó, cũng chính là đại từ được sử dụng khi ta nói “tay của tôi” hay “chân của tôi” vậy. Tiền của tôi, xe hơi của tôi, tay của tôi, gan của tôi. Hãy nghĩ tới cảm giác bị xâm phạm khi chúng ta bị cướp, cứ như thể là một phần của chính bản thân chúng ta đã bị cướp đi vậy. Sự chuyển hóa từ trần tục sang thiêng liêng của tiền – một phần sâu sắc của bản thân chúng ta, một thứ đóng vai trò trung tâm trong hoạt động của thế giới – sẽ có những ảnh hưởng sâu sắc, chắc chắn là như vậy. Nhưng tiền bạc, hay bất cứ thứ gì khác, có tính thiêng liêng nghĩa là như thế nào? Khi xem xét nghĩa quan trọng nhất của tiền, chúng ta có thể xuất phát từ nghĩa trái ngược với tính thiêng liêng. Đã vài nghìn năm, các khái niệm về thiêng liêng, thánh thiện và thần thánh dùng để diễn tả đến những thứ tách biệt với thiên nhiên, thế giới và người trần mắt thịt. Từ ba đến bốn ngàn năm trước, các vị thần bắt đầu rời khỏi các sông, hồ, rừng, và núi để lên trời, trở thành những lãnh chúa của thiên nhiên chứ không còn là bản chất của thiên nhiên nữa. Vì sự thiêng liêng bị tách khỏi thiên nhiên, nên việc tham gia quá sâu vào các vấn đề của thế giới cũng trở nên không còn linh thiêng nữa. Con người đã thay đổi từ một thực thể sống có linh hồn trở thành một thân xác phàm tục, một bình chứa đơn thuần của tinh thần, lên đến cực điểm với trường phái Decartes, chỉ quan sát thế giới nhưng không tham gia, cũng như Thiết kế luận3 của Newton. Thiêng liêng, theo những trường phái này, phải là siêu nhiên, phi vật chất. Nếu Thượng Đế tham dự vào thế giới, thì đó là qua các phép lạ – sự can thiệp của Thượng Đế vi phạm hoặc thay thế luật của tự nhiên. Nghịch lý là, cái thứ xa lạ và trừu tượng được gọi là tinh thần này có vẻ như là thứ làm cho thế giới sống động. Hỏi một người mộ đạo cái gì thay đổi khi một người chết, và cô ấy sẽ nói linh hồn đã rời khỏi thể xác. Hỏi cô ấy ai tạo ra mưa rơi và gió thổi, và cô ấy sẽ nói rằng đó là Thượng Đế. Galileo và Newton dường như đã loại bỏ Thượng Đế ra khỏi những hoạt động hàng ngày của thế giới, thay vào đó họ giải thích thế giới như một sự hoạt động đều đặn của một cỗ máy khổng lồ với khối lượng và sức mạnh phi nhân tính, nhưng dù vậy họ vẫn cần một người chế tạo cỗ máy đó vào buổi ban đầu, để tạo ra vũ trụ với năng lượng dự trữ khổng lồ hoạt động từ đó đến giờ. Quan niệm này hiện giờ vẫn tồn tại với Big Bang, một sự kiện nguyên sơ là khởi nguồn của negative entropy4 tạo ra mọi chuyển động và sự sống. Trong bất kỳ trường hợp nào, khái niệm tinh thần của chúng ta là về một cái gì đó tách biệt và không thuộc về thế giới trần tục, nhưng nó có khả năng can thiệp một cách kỳ diệu vào các vấn đề vật chất, và thậm chí nó còn làm cho mọi thứ trở nên sống động và chỉ đạo mọi việc theo một cách đầy bí ẩn. Thật là mỉa mai và đáng lưu ý khi có một thứ trên hành tinh lại gần gũi nhất với ý niệm kiêng kị của thần thánh là tiền. Nó là một sức mạnh vô hình và bất tử bao quanh và điều khiển tất cả mọi thứ, đầy quyền năng và không giới hạn, một “bàn tay vô hình” khiến cho thế giới hoạt động. Thế nhưng, tiền hiện nay chỉ là một thứ trừu tượng, không hơn những kí hiệu trên một tờ giấy nhưng thường chỉ là những mảnh thông tin (bit) trong máy vi tính. Nó tồn tại trong một phạm trù xa rời khỏi vật chất. Trong phạm trù đó, nó được miễn trừ khỏi những luật lệ quan trọng nhất của thiên nhiên, vì nó không phân hủy và trở về với đất như mọi thứ khác, mà được bảo quản, không thay đổi, trong các kho tiền và các tệp tin máy tính, thậm chí phát triển theo thời gian nhờ vào lãi suất. Nó mang đặc tính của sự trường tồn và tăng trưởng vĩnh cửu, cả hai điều đó đều phản tự nhiên. Trong thiên nhiên, vàng là thứ có những tính chất gần nhất với đặc tính này, nó không rỉ, không xỉn đi, cũng không phân rã. Bởi vậy trước đây, vàng đã được sử dụng như là tiền và như một phép ẩn dụ cho linh hồn thiêng liêng – không hư hỏng và không thay đổi. Đặc điểm trừu tượng mang tính thần thánh, tách rời khỏi thế giới vật chất, của tiền đạt đến cực điểm trong những năm đầu của thế kỉ 21 khi nền kinh tế tài chính không còn dựa vào nền kinh tế thực mà tự tạo nên một lãnh địa của riêng nó. Khối tài sản khổng lồ của Wall Street đã không còn liên quan đến bất kỳ một sự sản xuất hàng hóa vật chất nào mà tồn tại trong một lãnh địa riêng biệt của nó. Nhìn xuống từ đỉnh Olympia, các nhà tài chính tự gọi mình là “bậc thầy của vũ trụ”, truyền sức mạnh của vị thần mà họ phục vụ để mang lại vận may hoặc rủi ro đến số đông, để di chuyển núi, phá rừng, thay đổi dòng chảy của sông, tạo ra sự trỗi dậy hoặc sụp đổ của các quốc gia. Nhưng tiền bạc nhanh chóng chứng tỏ là nó một vị thần đồng bóng, thất thường. Khi tôi viết những lời này, có vẻ như những nghi lễ ngày càng điên rồ hơn mà các linh mục tài chính sử dụng để xoa dịu thần Tiền đều vô ích. Giống như các giáo sĩ của một tôn giáo đang hấp hối, họ khuyên các tín đồ của mình phải cống hiến nhiều hơn trong khi đổ lỗi cho những rủi ro của họ hoặc là vì tội lỗi (các ông chủ ngân hàng tham lam, những người tiêu dùng vô trách nhiệm) hoặc vì sự trục trặc bí ẩn của Thượng Đế (các thị trường tài chính). Nhưng một số người đã và đang đổ lỗi cho chính các linh mục tài chính này rồi. Cái mà chúng ta gọi là sự suy thoái có thể được một nền văn hóa sớm hơn xem là “Thượng Đế bỏ rơi thế giới”. Tiền đang biến mất, và đi theo đó là một đặc tính khác của tinh thần: sức mạnh khiến lãnh địa loài người trở nên sống động. Khi tôi đang viết những điều này, máy móc trên toàn thế giới đang im lìm. Các nhà máy ngưng hoạt động; thiết bị xây dựng chỏng chơ trong vườn, công viên và thư viện đóng cửa dần; và hàng triệu người bị đói và trở thành người vô gia cư trong khi nhiều ngôi nhà không có người ở và thức ăn bị thiu thối tại các nhà kho. Tuy nhiên, tất cả các yếu tố con người và vật chất để xây dựng nhà cửa, phân phối thực phẩm, và vận hành các nhà máy vẫn còn đó. Dường như chỉ có cái gì đó phi vật chất, cái động lực thúc đẩy, là biến mất. Cái biến mất chính là tiền. Tiền là cái duy nhất bị thiếu ở đây, nó dường như không có thực (dưới dạng các electron điện tử) đến mức hầu như ta không thể nói là nó đã từng tồn tại, tuy nhiên nó quyền lực đến mức nếu thiếu nó, hoạt động của con người sẽ bị đình trệ. Đối với cấp độ cá nhân cũng vậy, chúng ta dễ thấy sự thiếu tiền có thế lấy hết động lực sống của một người thế nào. Xét thử một trường hợp điển hình là một người không có việc làm, gần như phá sản, có vẻ như anh ta thật khó có thể đứng dậy khỏi chiếc ghế của mình. Dường như tiền làm cho cả người lẫn máy móc trở nên có sức sống. Thiếu tiền, chúng ta trở nên chán nản. Chúng ta không nhận ra rằng khái niệm của chúng ta về thần thánh đã thu hút vào nó một vị thần phù hợp với khái niệm đó và cho nó quyền lực tối cao trên trái đất. Bằng cách tách rời linh hồn khỏi xác thân, tinh thần khỏi vật chất, và Thượng Đế khỏi thiên nhiên, chúng ta đã dựng lên một thế lực cai trị nhưng vô hồn, xa lạ, không thiêng liêng và phản tự nhiên. Vì vậy, khi tôi nói về việc làm cho tiền trở nên thiêng liêng, tôi không kêu gọi một đấng gì đó siêu nhiên đến truyền bá tính thiêng liêng vào các thực thể tự nhiên trần tục và trơ lì. Thay vào đó, tôi đang quay ngược thời gian, trở lại thời mà trước khi có sự chia rẽ giữa vật chất và tinh thần, khi sự thiêng liêng là thuộc tính cố hữu của tất cả. Vậy thiêng liêng là gì? Nó có hai khía cạnh: tính độc đáo và tính kết nối. Một điều thiêng liêng là một thứ đặc biệt và duy nhất. Vì vậy nó vô cùng quý giá; nó không thể thay thế được. Nó không có giá trị tương đương, và do đó không có “giá trị” hữu hạn bởi giá trị chỉ có thể được xác định khi đem ra so sánh. Tiền, giống như tất cả các cách đo lường, là một tiêu chuẩn để so sánh. Mặc dù nó là duy nhất, nhưng cái thiêng liêng vẫn không thể tách rời khỏi tất cả những gì đã tạo ra nó, khỏi lịch sử của nó, và cũng không tách rời khỏi vị trí của nó trong ma trận của tất cả mọi sự hiện hữu. Bây giờ bạn có thể nghĩ rằng thực sự mọi thứ và mọi mối quan hệ là thiêng liêng. Điều đó có thể đúng, nhưng mặc dù về mặt trí tuệ chúng ta có thể tin là như thế, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy thế. Chúng ta cảm thấy có một số điều thiêng liêng, một số điều khác thì không. Những thứ khiến chúng ta cảm thấy thiêng liêng, chúng ta tôn thờ chúng và mục đích tối thượng của những điều thiêng liêng là nhắc nhở chúng ta về sự thiêng liêng của vạn vật. Hiện tại chúng ta sống trong một thế giới đã bị tách khỏi tính thiêng liêng của nó, bởi vậy nên rất ít điều thực sự cho chúng ta cảm giác được sống trong một thế giới thiêng liêng. Các sản phẩm được sản xuất hàng loạt, các mặt hàng được chuẩn hóa, những ngôi nhà giống hệt nhau, các gói thực phẩm giống hệt nhau và các mối quan hệ ẩn danh với các cơ quan chức năng, tất cả đều phủ nhận tính độc đáo của thế giới. Nguồn gốc xa xôi của các đồ vật mà ta sở hữu, sự ẩn danh trong mối quan hệ, sự thiếu vắng của những hậu quả có thể trông thấy được trong việc sản xuất và tiêu hủy hàng hóa, tất cả đều phủ nhận tính kết nối. Vì vậy, chúng ta sống mà không có trải nghiệm sự thiêng liêng. Tất nhiên, trong tất cả những thứ từ chối tính độc đáo và tính kết nối, tiền luôn đi đầu. Bản thân ý tưởng về đồng xu thì đã bắt nguồn từ mục tiêu chuẩn hóa, sao cho mỗi đồng drachma, mỗi đồng stater, mỗi đồng shekel và mỗi đồng Nhân dân tệ đều có chức năng giống nhau. Hơn nữa, khi nó là một phương tiện phổ quát và trừu tượng cho việc trao đổi, tiền li khai khỏi nguồn gốc của nó, tách biệt khỏi sự liên kết của nó với vật chất. Một đồng đô la luôn là một đồng đô la, không quan trọng là ai đưa nó cho bạn. Chúng ta sẽ nghĩ rằng một người nào đó thật “trẻ con” khi họ gửi một khoản tiền vào ngân hàng và rút ra một tháng sau đó và phàn nàn rằng: “Này này, đây không phải là những đồng tiền tôi đã gửi! Đây là những tờ tiền khác!” Theo mặc định, cuộc sống được tiền tệ hóa là một cuộc sống trần tục, vì tiền bạc và những thứ nó mua được thiếu tính thiêng liêng. Một quả cà chua mua ở siêu thị và một quả được trồng trong vườn của người hàng xóm và đem sang cho tôi thì khác nhau thế nào? Một ngôi nhà được xây dựng sẵn và một ngôi nhà được xây dựng bởi một người hiểu tôi và hiểu cuộc đời tôi với sự tham gia trực tiếp của tôi thì khác nhau thế nào? Sự khác biệt cơ bản phát sinh từ các mối quan hệ cụ thể kết hợp tính duy nhất của người cho và người nhận. Khi cuộc sống đầy những điều như vậy, được thực hiện với cái tâm, kết nối bởi mạng lưới các câu truyện gắn liền với con người và nơi chốn mà chúng ta biết, thì đó là một cuộc sống phong phú, một cuộc sống mang tính nuôi dưỡng. Hiện nay chúng ta đang sống dưới một chướng ngại vật của sự giống nhau, của sự thiếu cá tính. Ngay cả các sản phẩm làm theo yêu cầu, nếu được sản xuất hàng loạt, cũng chỉ cung cấp một vài hoán vị của các khối tiêu chuẩn giống nhau. Sự giống nhau này giết chết linh hồn và làm cho cuộc sống trở nên rẻ mạt. Sự hiện diện của điều thiêng liêng giống như một sự trở về nhà, ngôi nhà mà từ trước tới nay vẫn luôn ở đó, và về với sự thật, một sự thật vẫn luôn tồn tại. Nó diễn ra khi tôi quan sát một con côn trùng hay một cái cây, nghe bản giao hưởng của những chú chim hay tiếng kêu của những con ếch, cảm nhận bùn giữa các kẽ ngón chân, chăm chú ngắm nhìn một đối tượng được tạo tác đẹp đẽ, hiểu được sự hoạt động phức tạp đến mức khó tin của một tế bào hoặc một hệ sinh thái, chứng kiến sự đồng bộ hoặc các biểu tượng trong cuộc sống của bản thân tôi, ngắm những đứa trẻ hạnh phúc chơi đùa, hay cảm động vì một tác phẩm của một thiên tài. Những trải nghiệm đó dù phi thường, nhưng chúng không tách biệt khỏi phần còn lại của cuộc sống. Mà quả thực, sức mạnh của chúng đến từ sự thoáng hiện của một thế giới thực hơn, một thế giới thiêng liêng là nền tảng của thế giới của chúng ta. Vậy cái “ngôi nhà vẫn luôn ở đó”, cái “sự thật vẫn luôn tồn tại” đó là cái gì? Đó là chân lý về sự hợp nhất hoặc sự kết nối của tất cả mọi vật hiện hữu, và cảm giác rằng chúng ta đang tham dự vào một điều gì đó lớn lao hơn cả bản thân chúng ta, nhưng đồng thời cũng chính là chúng ta. Trong sinh thái học, đó là nguyên tắc phụ thuộc lẫn nhau: rằng tất cả mọi loài phải phụ thuộc vào những loài khác xung quanh nó thì mới sống sót được, các mối liên hệ giữa các loài vươn xa hơn rồi bao trùm toàn bộ hành tinh. Sự tuyệt chủng của bất kì loài nào cũng đều dẫn đến sự mất đi tính toàn vẹn, sức khỏe và bản thể của chính chúng ta; một điều gì đó thuộc về sự tồn tại của chính chúng ta đã mất. Nếu cái thiêng liêng là cửa ngõ dẫn tới sự hợp nhất cơ bản của vạn vật, thì nó cũng đồng thời là cửa ngõ dẫn tới tính độc đáo và sự đặc biệt của mỗi cá thể. Một cá thể thiêng liêng là độc nhất vô nhị, nó mang theo bản thân tính duy nhất không thể bị thuyên giảm thành một nhóm có đặc điểm chung nhất nào đó. Đó là lí do vì sao khoa học rút gọn5 dường như tước đi tính thiêng liêng của thế giới, vì tất cả mọi thứ đều bị biến thành một tổ hợp này hoặc tổ hợp khác của một số những thành phần chung nhất nào đó. Quan niệm này phản chiếu hệ thống kinh tế của chúng ta, bản thân nó bao gồm các mặt hàng, các mô tả công việc, các quy trình, các dữ liệu, đầu ra và đầu vào được chuẩn hóa, và – cái thứ chung nhất, cao hơn tất cả – tiền, một sự trừu tượng tột đỉnh. Trước đây mọi việc không như thế. Những người sống theo bộ lạc nhìn nhận mỗi sinh vật không phải chỉ là một thành viên của một hạng mục mà là một cá thể duy nhất. Ngay cả hòn đá, đám mây mà những giọt nước tưởng như giống nhau cũng được coi là những sinh vật có tri giác và duy nhất. Các sản phẩm được làm ra bởi bàn tay con người cũng là độc nhất, nó mang theo mình những cái không đồng đều đặc trưng của người làm ra nó. Đây chính là mối liên kết giữa hai đặc điểm của sự thiêng liêng là tính độc đáo và tính kết nối: những đồ vật độc nhất mang theo dấu ấn khởi nguyên của nó, mang theo vị trí duy nhất của nó trong ma trận những sự vật hiện hữu, sự phụ thuộc của nó vào những phần còn lại của quá trình sáng tạo. Những đồ vật và hàng hóa được chuẩn hóa thì đều giống nhau và bởi vậy không gắn liền với các mối liên hệ. Trong cuốn sách này tôi sẽ mô tả một tầm nhìn cho một hệ thống tiền tệ và một nền kinh tế thiêng liêng, là hiện thân của tính duy nhất và tính liên kết với nhau của tất cả mọi sự vật. Nó sẽ không bị tách rời, trên thực tiễn hay trong nhận thức, khỏi ma trận tự nhiên làm nền tảng cho nó. Nó hợp nhất con người với thiên nhiên – hai phạm trù bị tách rời đã lâu; nó là sự mở rộng của sinh thái học – tuân theo tất cả mọi quy luật của sinh thái học và mang theo mọi vẻ đẹp của sinh thái học. Trong mỗi thiết chế của nền văn minh loài người, bất kể xấu xí hay thối nát thế nào, vẫn luôn có phôi thai của một điều đẹp đẽ: cùng một nốt nhạc nhưng ở một quãng cao hơn. Tiền cũng không ngoại lệ. Mục đích ban đầu của nó chỉ đơn giản là kết nối những món quà của con người với nhu cầu của con người, để tất cả chúng ta có thể sống trong sự sung túc hơn. Làm thế nào mà tiền đã tạo ra sự khan hiếm thay vì sự dồi dào, sự tách biệt thay vì sự kết nối, là một trong những chủ đề của cuốn sách này. Tuy vậy, dù nó đã biến chất, trong lý tưởng ban đầu của tiền như là một đại diện của món quà, chúng ta có thể thoáng nhìn thấy một cái gì đó mà trong tương lai sẽ khiến nó trở nên thiêng liêng trở lại. Chúng ta công nhận việc trao đổi quà tặng là một cơ hội thiêng liêng, đó là lý do tại sao chúng ta tự nguyện thực hiện một buổi lễ khi trao quà tặng. Do đó, tiền thiêng liêng sẽ là một phương tiện để cho đi, là phương tiện để mang tinh thần của quà tặng thấm vào nền kinh tế toàn cầu, cái tinh thần đó đã chi phối các nền văn hóa bộ tộc và làng xã và vẫn đang hiện diện ở bất kì nơi nào mà mọi người làm việc gì đó cho nhau bên ngoài nền kinh tế tiền bạc. Kinh tế học thiêng liêng mô tả tương lai này và đồng thời đưa ra những phương án thực tế để tiến tới tương lai đó. Từ lâu tôi đã trở nên mệt mỏi khi đọc những cuốn sách chỉ phê phán một vài khía cạnh của xã hội mà không đưa ra được một phương thức thay thế tích cực. Rồi tôi cũng trở nên mệt mỏi khi đọc những cuốn sách đưa ra những cách thức lạc quan thái quá đến mức bất khả thi: “Chúng ta phải cắt giảm 90% lượng khí thải CO₂.” Tôi cũng trở nên mệt mỏi với những cuốn sách đưa ra những cách thức hợp lí nhưng không miêu tả những điều mà cá nhân tôi có thể thực hiện để tạo ra nó. Kinh tế học thiêng liêng làm việc trên cả bốn cấp độ này: nó đưa ra phân tích cơ bản về điều gì đã khiến tiền trở nên lệch lạc; nó mô tả một thế giới tốt đẹp hơn dựa trên một loại tiền tệ và nền kinh tế khác; nó giải thích những hoạt động tập thể cần thiết để tạo ra thế giới đó và các phương thức cụ thể để hiện thực hóa chúng; và nó đi vào khám phá cách mà các cá nhân có thể thay đổi thế giới, sự thay đổi trong căn tính và hiện hữu mà tôi gọi là “sống trong tinh thần quà tặng.” Chuyển hóa tiền không phải là thuốc chữa bách bệnh cho các căn bệnh của thế giới, cũng không nên được ưu tiên hơn các hoạt động xã hội khác. Chỉ mỗi việc sắp xếp lại các bit trong các máy tính sẽ không xóa bỏ được những thiệt hại thực tế về vật chất và xã hội trên hành tinh của chúng ta. Tuy nhiên, công việc chữa lành cũng sẽ không đạt được hiệu quả ở bất kì lĩnh vực nào nếu không có sự chuyển hóa tương ứng của tiền tệ, vì tiền đã len lỏi sâu vào các thiết chế xã hội và thói quen sinh hoạt của chúng ta. Những thay đổi về mặt kinh tế mà tôi miêu tả là một phần của một sự thay đổi lớn lao, một sự thay đổi bao trùm lên tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Nhân loại đang chỉ mới bắt đầu thức tỉnh trước sự trầm trọng của cuộc khủng hoảng đang xảy ra. Nếu sự chuyển hóa về kinh tế mà tôi miêu tả có vẻ kỳ diệu, thì đó là bởi vì chỉ có một phép lạ mới có thể chữa lành được thế giới. Ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tiền tệ đến chữa lành hệ sinh thái đến chính trị đến công nghệ đến y tế, chúng ta cần những giải pháp vượt quá những giới hạn khả thi hiện tại. Thật may là, khi thế giới cũ tan vỡ, chúng ta biết rằng giới hạn của những điều khả thi sẽ nới rộng ra, và theo với nó là sự mở rộng của lòng dũng cảm cũng như sự sẵn sàng hành động của chúng. Sự hội tụ của các cuộc khủng hoảng hiện tại – trong lĩnh vực tiền tệ, năng lượng, giáo dục, y tế, nước, đất, khí hậu, chính trị, môi trường, và nhiều nữa – là một cuộc khủng hoảng sẽ đưa chúng ta bước sang một cuộc sống mới, một thế giới mới. Chúng ta không thể ngăn những cuộc khủng hoảng này thâm nhập vào đời sống cá nhân, và thế giới của chúng ta sẽ sụp đổ, chúng ta sẽ bước vào một thế giới mới, với một căn tính mới. Đây là lí do tại sao nhiều người cảm thấy có một ý nghĩa tâm linh nào đó đằng sau cuộc khủng hoảng trên hành tinh của chúng ta, thậm chí ngay cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế. Chúng ta cảm thấy rằng “bình thường” sẽ không quay trở lại, rằng chúng ta sẽ được tái sinh vào một cái bình thường mới: một kiểu xã hội mới, một mối quan hệ mới với trái đất, một trải nghiệm làm người mới. Tôi cống hiến toàn bộ sự lao động của tôi cho một thế giới tốt đẹp hơn mà trái tim của chúng ta biết nó có thể tồn tại. Tôi nói “trái tim” của chúng ta bởi vì lý trí của chúng ta đôi lúc nói rằng thế giới đó không thể tồn tại. Lý trí của chúng ta luôn nghi ngờ và cho rằng mọi việc sẽ khó mà khác với những gì kinh nghiệm đã dạy chúng ta. Có thể bạn cảm thấy ngờ vực, coi thường, hoặc thất vọng khi bạn đọc mô tả của tôi về một nền kinh tế thiêng liêng. Có thể bạn cảm thấy muốn bỏ qua lời của tôi vì cho rằng nó lí tưởng đến mức vô vọng. Bản thân tôi cũng từng muốn giảm nhẹ những lời mô tả của mình, để khiển nó trở nên hợp lí hơn, có trách nhiệm hơn, phù hợp hơn với những kì vọng nhỏ nhoi của chúng ta về cuộc sống và về thế giới. Nhưng nếu giảm nhẹ như thế thì sẽ không nói lên được sự thật. Tôi sẽ dùng những công cụ của lý trí để nói lên những điều trong trái tim tôi. Trong tim tôi, tôi biết rằng chúng ta có thể kiến tạo nên một nền kinh tế và một xã hội đẹp đẽ như thế, và điều gì kém hơn thế thì đều không xứng đáng phải bận tâm. Không lẽ chúng ta đã tuyệt vọng đến mức không thể mong cầu được một thế giới thiêng liêng? PHẦN I: KINH TẾ HỌC CỦA CHIA CẮT Tất cả các cuộc khủng hoảng hiện tại đều xuất phát từ một cái gốc rễ chung mà chúng ta có thể gọi là Chia cắt. Nó có nhiều hình thái khác nhau – sự chia cắt giữa con người và thiên nhiên, sự tan rã của cộng đồng, sự phân chia thực tại thành vật chất và tinh thần – Chia cắt có mặt ở khắp mọi khía cạnh của nền văn minh của chúng ta. Nó không bền vững bởi nó đang tạo ra các cuộc khủng hoảng ngày càng lớn mà chính những cuộc khủng hoảng đó đang đưa chúng ta vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của Hợp nhất. Chia cắt không phải là một thực tại cuối cùng, mà chỉ là một phóng chiếu con người, một hệ tư tưởng, một câu chuyện. Cũng như trong tất cả các nền văn hóa, câu chuyện về con người của chúng ta có hai phần liên quan mật thiết tới nhau: Câu chuyện về cái Tôi, và Câu chuyện về Thế giới. Câu chuyện đầu tiên là về một cái tôi tách biệt và khôn ngoan: một bong bóng tâm lí, một linh hồn bị đóng kín trong xác thịt, một kiểu hình1 sinh học được chỉ huy bởi các gen của chính nó để tìm kiếm tư lợi duy trì nòi giống, một tác nhân có lí trí tìm kiếm tư lợi kinh tế, một nhà quan sát vật lý đang ngắm nhìn một vũ trụ tách biệt ở bên ngoài, một ý thức bị giam cầm trong thân xác. Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về Thăng tiến (Ascent): rằng nhân loại, xuất thân từ một trạng thái ngu dốt và yếu ớt, đang nắm lấy các sức mạnh của thiên nhiên và khám phá ra những bí mật của vũ trụ, tiến thẳng tới định mệnh của mình là làm chủ hoàn toàn và siêu việt hơn cả thiên nhiên. Đó là một câu chuyện về sự chia cắt của con người khỏi thiên nhiên, trong đó con người ngày càng lớn mạnh còn thiên nhiên thì dần dần bị biến thành các nguồn tài nguyên, hàng hóa, tài sản, và cuối cùng là tiền. Tiền là một hệ thống các thỏa thuận, ý nghĩa, và biểu tượng mang tính xã hội được phát triển theo thời gian. Nói tóm lại, nó là một câu chuyện, tồn tại trong xã hội cùng với những thứ khác như luật pháp, quốc gia, tổ chức, lịch và thời gian, tôn giáo và khoa học. Các câu chuyện đều có sức mạnh sáng tạo khủng khiếp. Thông qua chúng, chúng ta điều phối hoạt động của con người, tập trung sự chú ý và mục đích, vạch rõ các vai trò, và nhận biết điều gì là quan trọng, thậm chí điều gì là thật. Các câu chuyện khiến cho cuộc sống có ý nghĩa và có mục đích và vì vậy thúc đẩy hành động. Tiền là một yếu tố quan trọng trong câu chuyện về Chia cắt – câu chuyện làm nên nền văn minh của chúng ta. Phần I của Kinh tế học Thiêng liêng làm sáng tỏ hệ thống kinh tế phát sinh trên nền tảng là câu chuyện về Sự Chia cắt. Sự vô danh tính, không nhân cách, phân cực giàu nghèo, tăng tưởng vô tận, cưỡng đoạt hệ sinh thái, hỗn loạn xã hội, và những khủng hoảng không thể cứu rỗi được dựng lên trong hệ thống kinh tế của chúng ta sâu sắc tới mức nếu không có một sự chuyển hóa trong câu chuyện của loài người thì không có gì có thể cứu vãn được thế giới hiện tại. Mục đích của tôi là bằng cách nhận diện những điểm đặc trưng cốt lỗi của nền kinh tế dựa trên Chia cắt, chúng ta có thể có thêm sức mạnh để hình dung ra một nền kinh tế dựa trên Hợp nhất, một nền kinh tế có khả năng phục hồi sự toàn vẹn những vết rạn nứt của các cộng đồng, các mối quan hệ, các nền văn hóa, các hệ sinh thái và hành tinh. CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUÀ TẶNG Kể cả sau từng ấy thời gian Mặt trời không bao giờ nói với trái đất, “Bạn nợ Tôi” Hãy nhìn xem điều gì xảy ra Với một tình yêu như thế, Nó thắp sáng cả Bầu Trời. – Hafiz Ban đầu là Món Quà. Chúng ta sinh là những đứa trẻ sơ sinh yếu đuối, những sinh vật thuần túy chỉ biết nhận mà có rất ít để cho đi, tuy vậy chúng ta được nuôi dưỡng, được bảo vệ, được ôm ấp và vỗ về dù chưa làm bất kì điều gì để xứng đáng được như vậy, dù chẳng có gì để đổi lấy những điều đó. Sự trải nghiệm này, như nhau đối với tất cả mọi người đã trải qua thời ấu thơ, cho chúng ta biết vài điều về bản năng tâm linh sâu sắc nhất của mình. Cuộc sống của chúng ta được ban cho chúng ta; bởi vậy, trạng thái mặc định của chúng ta là biết ơn. Đó là chân lí của sự tồn tại của chúng ta. Kể cả nếu bạn đã có một tuổi thơ khủng khiếp, nếu bạn đang đọc những dòng chữ này, ít nhất bạn đã được cho đủ để sống tới lúc trưởng thành. Trong những năm đầu đời, không có điều gì trong trải nghiệm này là do bạn tự kiếm hay tự tạo ra cả. Tất cả đều là một Món Quà. Hãy thử tưởng tượng bây giờ bạn bước ra khỏi nhà và đâm đầu vào một thế giới xa lạ và bạn hoàn toàn yếu ớt, bạn không thể tự kiếm ăn hay kiếm quần áo để mặc, không thể điều khiển được chân tay mình, thậm chí không thể phân biệt nơi đâu cơ thể bạn kết thúc và đâu là khởi đầu của thế giới bên ngoài. Rồi có một sinh vật khổng lồ đến và ôm bạn, cho bạn ăn, chăm sóc bạn, và yêu thương bạn. Như thế thì bạn có thấy biết ơn hay không? Trong những thời khắc sáng suốt, có thể là sau một cú suýt chết, hoặc khi tiễn một người về thế giới bên kia, chúng ta biết rằng bản thân sự sống là một món quà. Chúng ta trải nghiệm một sự biết ơn to lớn vì được sống. Chúng ta bước đi trong sự kinh ngạc trước sự màu nhiệm của cuộc sống: niềm vui được thở, sự thích thú trước các màu sắc và âm thanh, niềm hạnh phúc khi được uống nước để làm tan cơn khát, sự ngọt ngào của khuôn mặt một người thân yêu. Cái cảm giác lẫn lộn giữa lòng kính phục và lòng biết ơn này là một dấu hiệu chắc chắn về sự tồn tại của những điều thiêng liêng. Chúng ta cảm thấy sự tôn kính và lòng biết ơn tương tự khi chúng ta thấy được sự tuyệt diệu của thiên nhiên, tính phức tạp và trật tự kì diệu của một hệ sinh thái, một sinh vật, một tế bào. Chúng hoàn hảo một cách khó tin, vượt xa những gì mà tâm trí ta có thể tưởng tượng, có thể tạo nên, thậm chí có thể hiểu dù chỉ một phần nhỏ xíu của chúng. Tuy vậy chúng đang tồn tại, mà không phải do chúng ta tạo nên: cả một thế giới để bao bọc và nuôi sống chúng ta. Chúng ta không cần phải hiểu chính xác cách mà một hạt giống nảy mầm và lớn lên; chúng ta không cần can thiệp để khiến điều đó xảy ra. Đến tận bây giờ, sự hoạt động của một tế bào, một sinh vật, một hệ sinh thái vẫn còn là một điều bí ẩn. Chúng ta không cần điểu khiển nó, cũng không cần hiểu nó hoạt động ra sao, nhưng chúng ta vẫn được nhận hoa trái của thiên nhiên. Bạn có thể tưởng tượng được sự kinh ngạc và lòng biết ơn của tổ tiên của chúng ta khi họ cảm thấy không xứng đáng với những gì mà thế giới ban tặng cho họ một cách hào phóng như vậy không? Không lạ gì khi những nhà tư tưởng tôn giáo xưa kia nói rằng Thượng Đế đã tạo nên thế giới, và không lạ gì khi họ nói Thượng Đế ban tặng thế giới cho chúng ta. Câu đầu tiên thể hiện lòng khiêm tốn, câu thứ hai thể hiện lòng biết ơn. Thật đáng buồn là, sau này các nhà thần học lại bóp méo điều này thành “Thượng Đế cho chúng ta thế giới để chúng ta khai thác, bóc lột và thống trị.” Diễn giải như vậy là trái ngược với tinh thần của nhận thức ban đầu. Lòng khiêm tốn biết rằng Món Quà này vượt xa khỏi khả năng kiểm soát của chúng ta. Sự tri ân biết rằng chúng ta tôn vinh hoặc làm ô danh người tặng quà thông qua cách chúng ta sử dụng món quà. Ngành vũ trụ học hiện đại cũng khẳng định sự hình thành của vũ trụ như một món quà. Chẳng phải Big Bang là cái gì đó (thậm chí là tất cả) từ không gì cả còn gì?2 Cảm giác này được củng cố bởi việc kiểm tra kĩ hơn các hằng số vật lý khác nhau (tốc độ ánh sáng, khối lượng electron, sức mạnh tương đối của bốn lực cơ bản, v.v.), bằng một cách không thể giải thích được, tất cả đều có những giá trị chính xác cần thiết cho một vũ trụ chứa vật chất, các ngôi sao và sự sống. Như thể cả vũ trụ được xây dựng cho chúng ta, để chúng ta có thể tồn tại. Ban đầu là Món Quà: trong sự khởi đầu nguyên thủy của thế giới, vào thời điểm bắt đầu của sự sống, và trong giai đoạn trứng nước của loài người. Vì vậy, lòng biết ơn là điều tự nhiên đối với chúng ta. Nó rất căn bản, rất mãnh liệt đến mức rất khó để cắt nghĩa. Có lẽ đó là cảm giác một khi đã nhận được một món quà, thì chúng ta sẽ nảy sinh mong muốn đáp trả. Do đó chúng ta có thể suy ra rằng những người nguyên thủy, được kết nối với lòng biết ơn ban đầu này, thể hiện nó trong các mối quan hệ xã hội và kinh tế của họ. Thật vậy, họ đã làm như thế. Hầu hết tài liệu về lịch sử tiền tệ bắt đầu với sự đổi chác ban sơ, nhưng sự đổi chác khá hiếm hoi giữa những người săn bắt hái lượm. Phương thức trao đổi kinh tế quan trọng nhất là tặng quà. Mặc dù rất căn bản, lòng biết ơn và sự hào phóng xuất phát từ đó cùng tồn tại với những khía cạnh khác – kém đẹp đẽ hơn – của bản tính con người. Tôi tin vào tính thần thánh căn bản của loài người, nhưng tôi cũng nhận ra rằng chúng ta đã dấn thân vào một sự chia cắt khỏi tính thần thánh đó đã lâu và đã tạo ra một thế giới mà ở đó những người nhẫn tâm và tàn bạo vươn lên nắm lấy của cải và quyền lực. Cuốn sách này không giả vờ là những người đó không tồn tại, cũng như giả vờ rằng xu hướng đó không tồn tại trong mỗi con người. Thay vào đó, nó mong muốn làm thức dậy tinh thần của Món Quà đang ngủ trong chúng ta, và tạo dựng nên những tổ chức là hiện thân của tinh thần đó và khuyến khích nó phát triển. Hệ thống kinh tế hiện nay trao thưởng cho sự ích kỉ và lòng tham. Một hệ thống kinh tế mà trao thưởng cho sự hào phóng, giống như trong các nền văn hóa cổ xưa, thì sẽ như thế nào? Hãy bắt đầu bằng cách hiểu rõ hơn về cơ chế của quà tặng. Tôi đã nhắc đến vấn đề trao đổi kinh tế ở trên, nhưng nói chung đó không phải là một cách mô tả chính xác về cộng đồng sống trên nguyên tắc quà tặng. Sự lưu thông là một lựa chọn từ tốt hơn. Ngày nay chúng ta thường trao đổi quà cho nhau, nhưng trao đổi quà chính là một bước tiến tới sự đổi chác. Trong các cộng đồng cổ xưa, việc trao tặng quà được chi phối bởi các phong tục phức tạp, những phong tục này vẫn còn tồn tại ngày nay trong các xã hội không hoàn toàn bị mất liên kết với quá khứ. Thông thường các mạng lưới quà tặng gắn liền với mạng lưới họ hàng huyết thống. Các phong tục chỉ định ai cho người nào. Bạn được kì vọng là phải cho đi với một số người; với một số người khác bạn có thể mong đợi được nhận từ họ; và trong những trường hợp khác quà sẽ được trao đổi qua lại cả hai chiều. Mặc dù quà tặng có thể mang tính qua lại, nhưng nó cũng thường xuyên quay vòng. Tôi cho bạn, bạn cho người khác… và cuối cùng ai đó lại cho tôi. Một ví dụ nổi tiếng là hệ thống kula của những người dân đảo Trobriand (quần đảo phía Đông bờ biển New Guinea thuộc quốc gia Papua New Guinea), ở đó vòng cổ được trao tặng theo một hướng từ đảo này sang đảo khác, và vòng tay thì được trao tặng theo hướng ngược lại. Nhà nhân chủng học Bronislaw Malinowski đã miêu tả một cách kỹ lưỡng rằng kula – có nghĩa là vòng tròn – là mấu chốt của một hệ thống quà tặng rộng lớn và của những trao đổi kinh tế khác. Marcel Mauss miêu tả nó như sau: “Hệ thống trao đổi quà tặng thấm sâu trong mọi ngóc ngách của cuộc sống kinh tế, bộ lạc và đạo đức của người Trobriand. Cuộc sống của họ “thấm nhuần” nguyên tắc này, như cách Malinowski đã mô tả một cách xúc tích. Luôn luôn là “cho đi và nhận lại.” Quá trình này được đánh dấu bởi dòng chảy liên tục theo tất cả các hướng của quà tặng được cho đi, chấp nhận, và đáp trả.”3 Mặc dù cực điểm của hệ thống kula là sự trao đổi mang tính nghi lễ cao của các loại vòng tay và vòng cổ giữa các tộc trưởng, nhưng mạng lưới quà tặng bao quanh nó mở rộng ra với mọi món đồ hữu dụng khác, kể cả thực phẩm, tàu thuyền, sức lao động, và hơn thế nữa. Sự đổi chác sòng phẳng, theo Mauss, là không bình thường. “Thường thường, kể cả khi một món quà đã được trao tặng thì nó cũng không được giữ mãi bởi người nhận, trừ khi nếu không có nó thì người đó không làm gì được.” Nói theo cách khác, các món quà lưu chuyển liên tục, chúng chỉ dừng lại khi có người không thể làm nếu thiếu chúng.4 Sau đây là sự miêu tả về nguyên tắc quà tặng của Lewis Hyde: “Món quà di chuyển đến nơi không có gì. Khi nó di chuyển trong vòng trao đổi, nó đi đến với người trắng tay lâu nhất và nếu có ai đó ở nơi khác cần đến nó hơn thì nó sẽ tiếp tục hành trình của mình và đến với người đó. Sự hào phóng của chúng ta có thể làm cho chúng ta trắng tay, nhưng chính trắng tay của chúng ta đó lại nhẹ nhàng thu hút cái toàn thể cho tới khi những món quà đang di chuyển đến bù đắp cho chúng ta. Trật tự tự nhiên ghe tởm những chiếc máy hút chân không.”5 Mặc dù ngày nay chúng ta phân biệt rất rõ ràng giữa một món quà và một giao dịch thương mại, nhưng trước kia không hề có sự phân biệt rõ ràng như thế. Một số nền văn hóa, như người Toaripi và Namau, chỉ có một từ duy nhất để nói về mua, bán, mượn và cho mượn6, người Lưỡng Hà thì có từ šám được dùng với cả nghĩa mua và bán.7 Sự mơ hồ tương tự vẫn tồn tại trong nhiều ngôn ngữ hiện đại. Tiếng Hán, tiếng Đức, tiếng Đan Mạch, tiếng Nauy, tiếng Hà Lan, tiếng Estonia, tiếng Bulgari, tiếng Serbi, tiếng Nhật và nhiều thứ tiếng khác chỉ có duy nhất một từ cho hành động mượn và cho mượn, có lẽ đó là một dấu tích từ thời xưa khi hai hành động đó chưa được phân biệt.8 Thậm chí điều này vẫn còn tồn tại trong tiếng Anh ở một số tầng lớp ít có học, những người vẫn thi thoảng dùng borrow (mượn) với nghĩa là lend (cho mượn), như trong câu “I borrowed him twenty dollars.” (Tôi mượn anh ấy 20 đô la) Làm sao có thể xảy ra tình trạng như vậy được? Bằng cách nào mà một từ lại có thể được dùng để mô tả cho hai nghĩa đối nghịch với nhau? Lời giải thích sự nhập nhằng này nằm ở cơ chế của quà tặng. Trừ ngoại lệ hiếm, có thể chỉ mang tính lí thuyết mà Derrida gọi là “quà miễn phí”, thì hành động tặng quà luôn đi kèm một biểu hiện trao đổi hoặc một nghĩa vụ về mặt đạo đức hoặc xã hội (hoặc cả hai). Không giống như các giao dịch tiền tệ ngày nay – đóng và không kèm theo nghĩa vụ nào – sự trao đổi quà tặng là mở, nó tạo nên một mối liên hệ liên tục giữa các bên tham gia. Một cách nhìn khác là: món quà là một phần của người tặng quà và khi chúng ta trao tặng một món quà, chúng ta cho đi một phần của bản thân mình. Điều này trái ngược với các giao dịch hàng hóa hiện nay, khi các loại hàng hóa được bán đi như một món đồ không liên quan gì đến người bán chúng. Tất cả chúng ta đều cảm nhận được sự khác biệt. Có thể bạn có vài món đồ người khác tặng mà bạn quý như báu vật, có thể khách quan mà nói thì nó không khác gì những món đồ bạn có thể mua, nhưng nó là độc nhất vô nhị và đặc biệt bởi vì người tặng có ý nghĩa với bạn. Bởi vậy đối với những người từ thời xưa, việc tặng quà có tính chất kì diệu, và các món quà luôn có một linh hồn gắn liền với chúng. Những đồ vật vô dụng như vỏ sò, hạt trang trí, vòng cổ, v.v… là loại tiền cổ xưa nhất. Việc đổi chúng lấy một cái gì đó có giá trị thực tiễn, nói một cách ngờ nghệch, chỉ là một cách để làm cho việc tặng quà – một cái gì đó đổi lấy không cái gì cả – trở nên thuận tiện. Họ biến việc này trở thành một cái gì đó – đổi lấy – một cái gì đó, nhưng điều đó không làm cho nó kém ý nghĩa hơn một món quà, bởi vì họ chỉ đang cụ thể hóa lòng biết ơn của họ bằng một đồ vật mà thôi. Từ cách nhìn nhận này, bản chất của việc mua và bán, mượn và cho mượn, thật là dễ hiểu. Đó không phải là những hành động trái ngược nhau. Tất cả các món quà quay vòng trở lại với người cho đi dưới một hình thái khác. Người mua và người bán là ngang bằng nhau. Ngày nay có một sự bất cân đối trong các giao dịch thương mại, trong đó người mua là người cho tiền và nhận hàng hóa, còn người bán là người nhận tiền và cho đi hàng hóa. Nhưng đồng thời chúng ta cũng có thể nói là “người mua” đang bán tiền để lấy hàng hóa, còn “người bán” đang mua tiền bằng hàng hóa. Bằng chứng về ngôn ngữ và ngành nhân chủng học cho biết sự bất cân đối này xuất hiện sau khi tiền ra đời rất nhiều. Vậy, chuyện gì đã xảy ra với tiền mà đã tạo ra sự bất cân đối này? Tiền khác với tất cả các loại hàng hóa khác trên thế giới, và, như chúng ta sẽ thấy, chính sự khác biệt này là nguyên nhân chính khiến nó trở nên trần tục. Mặt khác, quà tặng được chúng ta công nhận là thiêng liêng bằng trực giác, đó là lí do vì sao đến giờ chúng ta vẫn tổ chức các buổi lễ để trao tặng quà. Quà tặng là hiện thân của những tính chất quan trọng của sự thiêng liêng mà tôi nhắc đến trong Lời mở đầu. Thứ nhất, tính độc đáo: không như những loại hàng hóa được chuẩn hóa hiện nay, được mua trong những trao đổi đóng kín và tách rời khỏi nguồn gốc của chúng, quà tặng là độc đáo ở mức độ chúng như là một phần của người tặng. Thứ hai, tính liên kết: quà tặng mở rộng phạm vi cá nhân để bao gồm toàn bộ cộng đồng. Trong khi hiện nay tiền là hiện thân của nguyên tắc “Nhiều hơn cho tôi có nghĩa là ít hơn cho bạn”, thì trong một nền kinh tế quà tặng (gift economy), nhiều hơn cho bạn cũng có nghĩa là nhiều hơn cho tôi vì ai có thì cho người cần. Quà tặng làm bền vững nhận thức huyền bí rằng chúng ta đang tham gia vào một điều gì đó lớn hơn bản thân, nhưng đồng thời không tách biệt khỏi bản thân. Các tiên đề của sự tư lợi thay đổi vì cái tôi cá nhân đã mở rộng để bao gồm một một cái gì đó của người khác. Cách giải thích thông thường về sự xuất hiện của tiền mà chúng ta tìm thấy trong các cuốn sách giáo khoa kinh tế cho rằng sự đổi chác là điểm xuất phát. Ngay từ thuở ban đầu, các cá nhân cạnh tranh với nhau để làm tăng tư lợi của bản thân đến mức cao nhất. Sự miêu tả có phần lý tưởng hóa này không được các chứng cứ về nhân chủng học hỗ trợ. Theo Mauss, sự đổi chác hiếm khi thấy ở Polynesia, hiếm ở Melanesia, và không tồn tại ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương. Nhà nhân chủng học kinh tế George Dalton nhấn mạnh: “Sự đổi chác, theo nghĩa hẹp là đổi hàng hóa không dùng đến tiền, chưa bao giờ có quan trọng về mặt số lượng hay chưa bao giờ là một mô hình giao dịch chiếm ưu thế ở bất kì hệ thống kinh tế nào trong quá khứ hay ở hiện tại mà chúng ta từng biết.”9 Ví dụ duy nhất của sự đổi chác, theo Dalton, là những giao dịch lặt vặt, không thường xuyên, hoặc khẩn cấp – cũng giống như hiện nay. Ngoài những ví dụ đó ra, các giao dịch không dùng tiền gần như hoàn toàn không giống với những giao dịch phi cá nhân, chỉ nhằm tối đa lợi ích cá nhân trong trí tưởng tượng của các nhà kinh tế học, thay vào đó “chúng có xu hướng đòi hỏi những mối quan hệ mật thiết và lâu dài (đôi khi cần phải được nghi lễ hóa) được thừa nhận bởi phong tục và có tính chất qua lại.”10 Những giao dịch như vậy không nên được gọi là đổi chác, mà là trao đổi quà tặng có tính chất nghi lễ. Hiện nay chúng ta đặt quà tặng và món đồ mua được vào các hạng mục tách biệt; chắc chắn, những triết lí về kinh tế và tâm lí khác nhau được áp dụng vào mỗi hạng mục đó. Nhưng thời xưa không có sự phân định như thế, và thời nay chúng ta cũng không phân biệt rõ ràng giữa mối quan hệ công việc và mối quan hệ cá nhân. Các nhà kinh tế học khi kể lại lịch sử của tiền, có xu hướng phóng chiếu sự phân biệt ngày nay vào quá khứ, theo đó họ tạo ra nhiều giả thuyết về bản tính con người, về cái tôi, và về mục đích cuộc sống: rằng chúng ta là những bản ngã tách biệt và khôn ngoan luôn cạnh tranh với nhau để giành lấy nguồn tài nguyên khan hiếm và tăng lợi ích cá nhân đến mức tối đa. Tôi sẽ không nói rằng những giả thuyết đó là sai. Chúng là một phần của hệ tư tưởng định nghĩa nền văn minh của chúng ta, một Câu chuyện về Con người mà hiện nay sắp đến hồi kết. Cuốn sách này đóng góp một phần trong việc kể một Câu chuyện mới về Con người. Sự chuyển hóa của tiền là một phần của sự chuyển hóa lớn hơn và nền tảng của nó dựa trên những giả định rất khác về cái tôi, cuộc sống và thế giới. Nền kinh tế của loài người chưa bao giờ xa cách khỏi vũ trụ học, tôn giáo và tâm lí. Không chỉ có nền kinh tế cổ xưa dựa trên nguyên tắc quà tặng: vũ trụ học và tôn giáo cổ xưa cũng vậy. Ngày nay cũng thế, tiền với đặc tính tiêu chuẩn hóa, trừu tượng và vô danh tính đứng ngang hàng với những khía cạnh khác trong sự trải nghiệm của loài người. Nếu có một loại tiền khác thì những hệ hình mới nào về khoa học, tôn giáo và tâm lí sẽ xuất hiện? Nếu tiền không phải được xuất phát từ thế giới tưởng tượng của các nhà kinh tế học về sự đổi chác được đong đếm để tăng lợi ích, thì nó xuất phát từ đâu? Tôi xin đề xuất là nó xuất phát như một phương thức để làm cho việc tặng quà, chia sẻ và sự hào phóng trở nên thuận tiện, hay ít nhất là nó có mang tinh thần đó. Để tạo ra một nền kinh tế thiêng liêng, chúng ta cần phục hồi lại tinh thần ban đầu đó của tiền. Về cơ bản, tiền là một khái niệm đẹp đẽ. Hãy để tôi ngây thơ một lát để hé lộ cái trọng tâm này, cái tinh túy tâm linh của tiền. Tôi có cái bạn cần và tôi mong muốn trao nó cho bạn. Vì vậy tôi cho đi và bạn cảm thấy biết ơn và mong muốn đáp trả tôi bằng một thứ gì đó. Nhưng hiện tại bạn không có thứ gì mà tôi cần. Bởi vậy bạn đưa cho tôi một món đồ tượng trưng cho lòng biết ơn của bạn – một món đồ đẹp nhưng vô dụng như một cái vòng cổ kết bằng vỏ sò hoặc một mẩu bạc. Món đồ tượng trưng đó mang ý nghĩa “Tôi đã cho đi cái mà người khác cần và đã có được lòng biết ơn của họ.” Sau đó, khi tôi nhận được một món quà từ một ai đó khác, tôi đưa cho họ món đồ tượng trưng kia. Quà tặng có thể lưu chuyển trong phạm vi xã hội rất rộng và tôi có thể nhận từ những người mà tôi chẳng có gì để cho họ trong khi đó vẫn có thể thỏa mãn mong muốn đáp trả lòng biết ơn những món quà đó. Ở phạm vi gia đình, thị tộc, hoặc nhóm săn bắt hái lượm, người ta không cần đến tiền để vận hành một nền kinh tế quà tặng. Ngay cả trong những phạm vi xã hội lớn hơn như một ngôi làng hoặc bộ tộc có hàng trăm người, người ta cũng không cần sử dụng đến tiền. Ở đó, nếu tôi không cần cái gì từ bạn vào lúc này, thì hoặc bạn sẽ đem cho tôi cái mà tôi cần vào một lúc khác trong tương lai (vì bạn biết ơn tôi), hoặc bạn sẽ cho một người khác, người đó lại cho một người khác nữa và người khác đó sẽ cho tôi. Đây là “vòng tròn quà tặng” – nền tảng của một cộng đồng. Trong một bộ tộc hoặc một ngôi làng, quy mô xã hội đủ nhỏ để những người cho tôi có thể nhận ra món quà mà tôi cho người khác. Trong một xã hội lớn như của chúng ta thì không xảy ra trường hợp đó. Nếu tôi cho anh một cách hào phóng, người nông dân trồng gừng cho tôi ở Hawaii hay người kĩ sư thiết kế cái điện thoại của tôi ở Nhật sẽ không biết điều đó. Bởi vậy thay vì sử dụng cái gì đó mang tính cá nhân để thể hiện sự biết ơn, chúng ta dùng tiền – vật đại diện cho sự biết ơn. Sự làm chứng của xã hội khi các món quà được trao trở thành vô danh tính. Tiền trở nên cần thiết khi phạm vi của quà tặng vượt ra khỏi phạm vi những người chúng ta biết ở mức độ cá nhân. Đó là khi quy mô kinh tế và sự phân chia sức lao động vượt quá phạm vi bộ tộc hoặc làng xã. Thật vậy, kiểu tiền đầu tiên xuất hiện trong các nền văn minh nông nghiệp phát triển vượt xa hơn các ngôi làng Neolithic (thời kì từ khoảng 15000 năm trước Công nguyên đến 2000 năm trước Công nguyên): Lưỡng Hà, Ai Cập, Trung Quốc và Ấn Độ. Các mạng lưới quà tặng truyền thống phân tán nhường chỗ cho các hệ thống phân phối có tính tập trung, với đền thờ và cung điện hoàng gia là trung tâm. Rất có thể, điều này được phát triển từ truyền thống trao đổi quà giữa các tộc trưởng, rồi sau đó các món quà được đi tới họ hàng và bộ tộc của họ. Bắt đầu với vai trò là giao điểm trung tập của sự lưu thông quà tặng trong phạm vi lớn hơn, chúng nhanh chóng xa rời khỏi tinh thần quà tặng khi sự đóng góp trở nên bắt buộc và được đong đếm và sự phân phối từ trung tâm đi ra trở nên mất cân đối. Các tài liệu cổ của Sumer (Iraq cổ đại) đã nhắc đến sự phân cực giàu nghèo, những người có tài sản và không có tài sản và mức lương thấp chỉ đủ để tồn tại.11 Mặc dù các đạo luật tại trung tâm, chứ không phải giao thương trong thị trường, điều hành sự lưu thông của hàng hóa12, các đế chế nông nghiệp thuở đầu cũng sử dụng cái mà một số người gọi là tiền: các hàng hóa nông nghiệp và kim loại được tiêu chuẩn hóa thành đơn vị đóng vai trò làm phương tiện trao đổi, đơn vị đo lường giá trị và phương tiện tích lũy. Vì vậy, từ bốn ngàn năm trước, tiền đã không còn đáp ứng được kỳ vọng ngây thơ của tôi rằng nó sẽ tạo ra sự sung túc hơn cho tất cả mọi người bằng cách tạo điều kiện cho các món quà đáp ứng được các nhu cầu tương xứng. Bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, thúc đẩy sản xuất hiệu quả, và cho phép tích lũy vốn để thực hiện những dự án lớn, lẽ ra tiền nên làm cho cuộc sống phong phú hơn: nó nên đem lại cho chúng ta sự thoải mái, nhàn hạ, hết lo lắng và một sự phân chia của cải công bằng. Thật vậy, lí thuyết kinh tế truyền thống dự đoán đủ mọi kết quả như vậy. Nhưng sự thật là tiền lại trở thành một tác nhân cho những điều ngược lại: nỗi lo lắng, sự gian khổ và sự phân cực giàu nghèo. Điều này mang tới cho chúng ta một nghịch lí. Nếu chúng ta muốn có một thế giới với công nghệ hiện đại, với rạp chiếu phim và các dàn nhạc giao hưởng, với mạng viễn thông và kiến trúc vĩ đại, với các đô thị quốc tế và văn học toàn cầu, chúng ta cần tiền, hoặc thứ gì đó giống thế, như một phương tiện để phối hợp hoạt động của con người trên phạm vi đủ lớn để tạo ra những thứ đó. Bởi vậy, tôi viết cuốn sách này để mô tả một hệ thống mà tiền được phục hồi lại tính chất thiêng liêng của nó như một tặng phẩm. Tôi nói “phục hồi” vì tiền đã từng có ý nghĩa thiêng liêng và tuyệt diệu. Trước kia, các ngôi đền là nơi các sản phẩm nông nghiệp dư thừa được tích trữ và phân phối lại: trung tâm của tôn giáo cũng đồng thời là trung tâm của kinh tế. Một vài tác giả khẳng định rằng đồng tiền tượng trưng đầu tiên (không phải là tiền hàng hóa như vàng hay bạc) đã được phát hành bởi các đền thờ và có thể dùng để đổi lấy thứ mại dâm linh thiêng của đền thờ;13 chắc chắn là các ngôi đền có vai trò rất lớn trong việc phát hành tiền xu, rất nhiều loại xu đã từng được in hình các con vật linh thiêng hoặc các vị thần. Việc này hiện nay vẫn tiếp diễn, các tờ tiền giấy và đồng tiền xu đều mang hình các vị tổng thống được minh họa gần giống các vị thần. Có thể một ngày nào đó chúng ta sẽ không cần đến tiền để có một nền kinh tế quà tặng trên phạm vi hàng tỉ người; có thể loại tiền mà tôi miêu tả trong cuốn sách này chỉ là một bước chuyển tiếp. Tôi không phải kiểu người “tiền sử” muốn cổ vũ cho việc xóa bỏ nền văn minh, công nghệ và văn hóa, hay những món quà khiến chúng ta là người. Thay vào đó tôi chỉ đoán trước sự trở về trạng thái thiêng liêng của nhân loại, chúng ta sẽ có được sự toàn vẹn và sẽ sống hài hòa với thiên nhiên như những người săn bắt hái lượm, nhưng được tổ chức ở một mức cao hơn. Tôi đoán trước sự hoàn thiện, chứ không phải sự từ bỏ, của đôi tay và trí óc – những món quà được ban tặng cho chúng ta để khiến chúng ta là người. Hãy để ý sự tự nhiên khi chúng ta miêu tả các thuộc tính đặc trưng của con người như những món quà. Theo các nguyên tắc chung của quà tặng, các món quà mà chúng ta được tặng cũng là một phần của Người Tặng. Nói cách khác, chúng là các món quà thiêng, từ món quà Lửa của thần Prometheus cho đến món quà Âm Nhạc của thần Apollo, cho đến món quà Nông Nghiệp của Thần Nông. Theo Kinh Thánh, chúng ta không chỉ được ban tặng thế giới, mà còn được tặng hơi thở của cuộc sống và khả năng sáng tạo – bởi chúng ta được tạo ra “theo như hình hài” của Đấng Tạo Hóa. Ở mức độ cá nhân cũng vậy, chúng ta cảm nhận được rằng: ta được ban tặng tài năng nào đó là vì có một lí do, một mục đích. Hơn nữa, chúng ta có một ham muốn phát triển những tài năng đó mà không thể kìm nén được để rồi lại mang tặng những tài năng đó ra thế giới để mỗi người chúng ta đều đã từng trải nghiệm niềm vui khi cho đi và sự hào phóng không ích kỷ của những người xa lạ. Nếu bạn hỏi tìm đường ở một thành phố, hầu hết mọi người đều vui lòng giúp bạn. Chẳng có tư lợi cá nhân nào khi chúng ta chỉ đường cho một người xa lạ, đó đơn giản chỉ là sự biểu hiện của tính hào phóng có sẵn trong chúng ta. Thật là mỉa mai khi tiền, ban đầu là một phương tiện để kết nối món quà với những người cần đến chúng, ban đầu là kết quả tự nhiên của một nền kinh tế quà tặng thiêng liêng, giờ đây lại chính là cái đang ngăn cản sự đơm hoa kết trái của mong muốn cho đi của chúng ta, nó chính là cái đang giam giữ chúng ta với những công việc nhàm chán chỉ vì cảnh túng thiếu về mặt kinh tế, và nó chính là cái chặn trước những thôi thúc hào phóng nhất của chúng ta với suy nghĩ “Tôi không có đủ tiền để làm được việc đó”. Chúng ta sống trong một nỗi lo lắng hiện diện ở khắp mọi lúc mọi nơi, nỗi lo lắng đó sinh ra từ sự khan hiếm tiền, là thứ chúng ta phụ thuộc vào để sống – minh chứng cho cụm từ “chi phí sinh hoạt”. Mục đích sống của chúng ta, sự phát triển và biểu lộ tài năng của chúng ta, bị cầm cố bởi vì chúng ta cần tiền, cần kiếm sống, để tồn tại. Nhưng không ai, dù họ giàu có, an toàn, hoặc thoải mái đến mức nào, có thể cảm thấy trọn vẹn trong cuộc sống nếu những tài năng của họ không được biểu hiện ra ngoài. Kể cả những công việc được trả lương cao nhất, nếu nó không liên quan gì đến tài năng mà chúng ta được ban tặng, cũng sớm trở nên nhàm chán, và chúng ta nghĩ: “Tôi không được sinh ra để ở đây làm công việc này”. Kể cả khi một công việc có liên quan đến tài năng của chúng ta, nhưng nếu ta không tin vào mục đích của công việc đó, thì cái cảm giác nhàm chán sẽ lại xuất hiện, cái cảm giác rằng chúng ta đang không thực sự sống cuộc sống của chính mình mà chỉ đang sống cuộc sống mà chúng ta được trả tiền để sống. “Đầy thử thách” và “thú vị” cũng không đủ, vì tài năng của chúng ta là một món quà thiêng liêng, nên nó phải được dùng cho một mục đích thiêng liêng. Ý tưởng rằng chắc chắn chúng ta ở trên trái đất này để làm điều gì đó về cơ bản là một quan niệm mang tính tôn giáo bởi ngành sinh học truyền thống dạy rằng chúng ta tiến hóa để có thể tồn tại, rằng bất kì cố gắng nào nằm ngoài mục đích tồn tại và sinh sản đều đi ngược lại với hoạch định sẵn của bộ gen. Tuy nhiên, cách nhìn nhận của ngành sinh học theo chủ nghĩa Tân Lamarckism14 rằng chúng ta là những sinh vật ích kỉ, tách biệt và luôn cạnh tranh nhau chỉ là một sự phóng chiếu của chính nền văn hóa hiện đại của chúng ta chứ không phải là cách hiểu đúng về tự nhiên.15 Có những cách hiểu về tự nhiên khác mà không bỏ qua sự cạnh tranh hiển nhiên nhưng ưu tiên cho sự hợp tác, sự cộng sinh, và sự liên kết của các sinh vật thành một tổng thể lớn hơn. Cách hiểu mới này thực ra khá là cổ xưa, nó nhắc lại hiểu biết của những người thổ dân về tự nhiên như là một mạng lưới quà tặng (web of gifts). Mỗi sinh vật và mỗi loài đóng góp một phần quan trọng trong sự toàn vẹn của sự sống trên trái đất, và sự đóng góp này, ngược lại với những kì vọng của ngành sinh học tiến hóa, không cần phải thu về bất kì lợi ích cá nhân trực tiếp nào cho chính sinh vật đó. Vi khuẩn cố định đạm không thu được lợi ích trực tiếp nào từ việc nó tổng hợp ni-tơ từ không khí, ngoại trừ việc nguồn ni-tơ mà nó đưa vào đất giúp cây cối phát triển, và cây phát triển sinh ra rễ và từ rễ thì nấm phát triển, rồi cuối cùng nấm cung cấp chất dinh dưỡng ngược lại cho vi khuẩn cố định đạm. Các loài tiên phong mở đường cho các loài chủ chốt, các loài chủ chốt tạo điều kiện cho các loài khác, các loài khác lại nuôi sống các loài khác nữa trong một mạng lưới quà tặng mà, cuối cùng, quay trở về nuôi dưỡng các loài tiên phong. Các cây lớn mang nước lên để nuôi các cây nhỏ hơn, và loài tảo tạo ra oxy để các loài động vật có thể thở. Loại bỏ bất kì sinh vật nào đi thì sức sống của tất cả đều trở nên mong manh. Có thể bạn nghĩ rằng tôi ngây thơ với những lí lẽ trên. Có thể bạn nói rằng mọi thứ hoạt động tốt như vậy là do ngẫu nhiên: Các cây lớn không quan tâm đến việc mang nước đến cho các cây nhỏ xung quanh – chúng làm vậy là cho bản thân chúng, để tăng cơ hội sống sót và để sinh sản. Việc chúng nuôi dưỡng các sinh vật khác chỉ là một hệ quả phụ không có chủ ý. Tương tự như vậy với tảo, với vi khuẩn tạo ni-tơ, và với vi khuẩn giúp tiêu hóa xenlulozơ sống trong các loài động vật nhai lại. Có thể bạn nghĩ rằng trong thế giới này mỗi người phải tự lo cho bản thân. Tự nhiên là một cuộc cạnh tranh khốc liệt, và một nên kinh tế như vậy cũng là hợp lẽ tự nhiên. Tôi không nghĩ rằng điều đó là hợp tự nhiên. Đó là một sự lạc lối, một sự dị thường mặc dù là một giai đoạn cần thiết mà khi đã lên đến đỉnh điểm thì sẽ mở đường cho một giai đoạn mới. Trong tự nhiên, sự phát triển thái quá và sự cạnh tranh hoàn toàn là những đặc điểm của các hệ sinh thái chưa hoàn thiện, theo sau đó luôn là sự phụ thuộc lẫn nhau rất phức tạp, sự cộng sinh, sự hợp tác, và sự tuần hoàn của các nguồn tài nguyên. Giai đoạn tiếp theo của nền kinh tế sẽ là một sự phát triển song hành với những hiểu biết mới của chúng ta về tự nhiên. Nó sẽ kêu gọi sự phát triển tài năng của mỗi người trong chúng ta; nó sẽ đề cao sự hợp tác thay vì sự cạnh tranh; nó sẽ khuyến khích sự lưu chuyển thay vì gom góp của cải; và nó sẽ quay vòng thay vì phát triển theo hướng tuyến tính. Tiền sẽ không biến mất trong tương lai gần, nhưng vai trò của nó sẽ suy giảm khi nó mang ngày càng nhiều những tính chất của một tặng phẩm. Nền kinh tế sẽ co lại, và cuộc sống của chúng ta sẽ phát triển. Tiền như chúng ta đang biết sẽ không thân thiện với một nền kinh tế biểu hiện tinh thần của quà tặng, một nền kinh tế mà chúng ta có thể gọi là thiêng liêng. Để biết được tiền như thế nào thì mới là thiêng liêng, chúng ta cần xác định rõ điều gì đã khiến cho tiền trở thành sức mạnh điều khiển sự tham lam, xấu xa, khan hiếm và tàn phá môi trường như hiện nay. Cũng như khoa học thường phóng chiếu văn hóa vào tự nhiên, kinh tế học cũng coi những điều kiện được quyết định bởi văn hóa là những sự thật hiển nhiên. Sống trong một nền văn hóa của sự khan hiếm (vì sự khan hiếm là điều chúng ta đang trải nghiệm, khi việc “kiếm sống” bức chế sự biểu hiện tài năng của chúng ta), chúng ta cho rằng đó là nền tảng của kinh tế. Trong lĩnh vực sinh học, chúng ta đã và đang nhìn nhận thế giới như một nơi mà các cá nhân riêng biệt cạnh tranh với nhau để giành lấy nguồn tài nguyên giới hạn. Hệ thống tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy, là hiện thân của niềm tin này ở mức độ rất sâu sắc. Nhưng niềm tin này có đúng không? Có phải chúng ta sống trong một thế giới, một vũ trụ mà nền tảng là sự khan hiếm? Và nếu không, nếu chân lí của vũ trụ là sự trù phú, thì làm thế nào mà tiền lại trở thành phản tự nhiên như vậy? CHƯƠNG 2: ẢO TƯỞNG VỀ SỰ KHAN HIẾM Với sự dồi dào không suy giảm, mảnh đất nước Anh lớn lên và phát triển rực rỡ; phấp phới những cánh đồng vàng óng; khắp nơi là các xưởng sản xuất và dụng cụ công nghiệp, với mười lăm triệu công nhân, được cho là những người khỏe nhất, lanh lợi nhất và nhiệt huyết nhất mà Trái Đất từng có; họ ở đây, sản phẩm mà họ làm ra ở đây, phong phú, dồi dào: nhưng chú ý! Có một sắc lệnh xấu xa cứ như là Bùa yểm xuất hiện và nói rằng: “Không được chạm vào những thứ này, những người công nhân kia, những người quản lí kia, những người lười biếng kia; không ai được chạm vào những thứ này, không ai trong số các người xứng đáng; đây là trái cấm đã được ếm bùa!” – Thomas Carlyle, Quá Khứ và Hiện Tại. Người ta nói rằng tiền, hay ít nhất là sự ham thích tiền, là gốc rễ của mọi điều xấu xa. Nhưng tại sao lại như vậy? Sau cùng, mục đích cơ bản của tiền chỉ đơn giản là tạo điều kiện cho sự trao đổi – nói cách khác, tiền kết nối món quà với nhu cầu. Sức mạnh nào, sự xuyên tạc khủng khiếp nào đã biến tiền thành một thứ ngược lại: một đại diện cho sự khan hiếm? Sự thực là chúng ta đang sống trong một thế giới rất trù phú, một thế giới mà một lượng lớn thực phẩm, năng lượng và của cải vật chất bị bỏ đi và trở thành lãng phí. Nửa thế giới bị đói trong khi nửa còn lại bỏ đi một lượng thức ăn đủ để nuôi sống nửa kia. Ở Thế Giới Thứ Ba và cả những khu ổ chuột của chúng ta (Hoa Kỳ), nhiều người không có thức ăn, nơi cư trú và nhiều nhu yếu phẩm khác, cũng không có đủ tiền để mua những thứ đó. Cùng lúc đó, chúng ta đổ một đống tiền và tài nguyên vào các cuộc chiến tranh, rác nhựa và vô số những sản phẩm khác không phục vụ cho hạnh phúc của con người. Rõ ràng là, sự nghèo đói không phải là kết quả của sự yếu kém trong lĩnh vực sản xuất. Nó cũng không phải vì người ta không sẵn sàng giúp đỡ người khác: nhiều người rất muốn cho người nghèo thức ăn, muốn khôi phục lại thiên nhiên và muốn làm những việc có ý nghĩa nhưng họ không thể vì làm như thế không giúp họ có tiền. Tiền hoàn toàn thất bại trong việc kết nối món quà và nhu cầu. Vì sao vậy? Trong nhiều năm liền, tôi tin vào những ý kiến thông thường của xã hội và cho rằng câu trả lời là “lòng tham”. Vì sao các nhà máy bóc lột sức lao động đẩy mức lương của công nhân xuống mức tối thiểu? Lòng tham. Vì sao người ta mua những chiếc xe SUV ngốn xăng? Lòng tham. Vì sao các công ty được lấp liếm các nghiên cứu và bán những loại thuốc mà họ biết là nguy hiểm? Lòng tham. Vì sao các nhà cung cấp cá nhiệt đới phá hủy rặng san hô? Vì sao các nhà máy thải chất thải độc hại ra các dòng sông? Vì sao các tập đoàn cướp cả chi phí lẽ ra là để trả lương hưu cho người lao động? Lòng tham, lòng tham, lòng tham. Cuối cùng tôi trở nên khó chịu với câu trả lời đó. Vì một lý do, nó cũng dẫn tới chính tư tưởng chia cắt, thứ đã bám rễ vào căn bệnh của nền văn minh chúng ta. Nó là một hệ tư tưởng bắt nguồn từ lúc Nông Nghiệp chia cắt thế giới thành hai phạm trù riêng biệt: hoang dã và thuần hóa, con người và thiên nhiên, lúa mì và cỏ dại. Nó bảo rằng trên thế giới này có hai sức mạnh trái ngược nhau: thiện và ác, và rằng chúng ta có thể tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn bằng cách loại bỏ điều ác. Trên thế giới có điều ác và trong bản thân chúng ta cũng có mặt ác, chúng ta phải trừ tiệt cái ác đi để biến thế giới trở nên tốt đẹp. Cuộc chiến chống lại cái ác nhuốm sâu vào mọi thiết chế của xã hội chúng ta. Trong nông nghiệp, nó là mong muốn tiêu diệt chó sói, tiêu diệt mọi loài cỏ dại với glyphosate1, tiêu diệt các loài sâu có hại. Trong y tế, nó là cuộc chiến chống lại vi khuẩn, một cuộc chiến liên tục chống lại một thế giới thù địch. Trong tôn giáo, nó là cuộc vật lộn chống lại tội lỗi, hoặc chống lại cái tôi, hoặc chống lại sự vô đạo hoặc ý ngờ vực, hoặc chống lại sự phóng chiếu ra ngoài của những điều này: ác quỷ và những người không theo đạo. Nó là lối suy nghĩ của sự tẩy uế và làm trong sạch, của sự tự cải thiện và chinh phục bản thân, của sự vươn lên trên cả tự nhiên và thoát khỏi dục vọng, của sự hy sinh bản thân để trở nên tốt đẹp. Trên tất thảy, đó là tâm thức muốn kiểm soát. Người ta vẫn thường nói rằng một khi cuộc chiến cuối cùng chống lại cái ác kết thúc, chúng ta sẽ đến được thiên đàng. Khi chúng ta loại bỏ tất cả các tên khủng bố hoặc tạo ra những hàng rào không thể xuyên thủng, chúng ta sẽ an toàn. Khi chúng ta phát triển những loại kháng sinh cực mạnh và cách điều chỉnh nhân tạo các hoạt động của cơ thể, chúng ta sẽ có một sức khỏe hoàn hảo. Khi chúng ta làm cho tội ác trở nên bất khả thi và có một hệ thống luật pháp để quản lí tất cả mọi thứ, chúng ta sẽ có một xã hội hoàn hảo. Khi bạn vượt lên trên sự lười biếng, sự bức bách, sự nghiện ngập, bạn sẽ có một cuộc sống hoàn hảo. Từ bây giờ đến đến khi đó, bạn cần phải cố gắng hơn nữa. Cũng như vậy, vấn đề của nền kinh tế được coi là lòng tham, cả ở ngoài chúng ta – những người tham lam – lẫn ở trong chính chúng ta – xu hướng tham lam của bản thân. Chúng ta thích tự coi là mình không tham lam lắm, có thể là chúng ta có xu hướng tham lam, nhưng chúng ta kiểm soát được nó. Không như một số người! Một số người không kiểm soát được lòng tham. Không giống như chúng ta, họ không có lòng tốt cơ bản, họ sống mà không có phép tắc cơ bản. Nói gọn lại là, họ Xấu Xa. Nếu họ không thể học được cách kiểm soát dục vọng hoặc cách xoay sở ít tốn kém hơn, thì chúng ta sẽ phải ép buộc họ làm những điều đó. Rõ ràng, quan niệm về lòng tham tràn ngập sự phán xét người khác và tràn ngập cả sự tự phán xét bản thân nữa. Sự tức giận và thù hận chính đáng của chúng ta đối với những người tham lam che giấu nỗi sợ hãi bí mật rằng chính chúng ta cũng chẳng tốt đẹp hơn họ. Kẻ đạo đức giả chính là người nhiệt thành nhất trong việc lên án cái ác. Biến kẻ thù thành cái gì đó bên ngoài bản thân là biểu hiện của những cảm xúc tức giận không được giải tỏa. Theo một cách nào đó, đây là điều cần thiết: hậu quả của việc giữ kín những cảm xúc đó hoặc hướng chúng vào bên trong rất khủng khiếp. Nhưng trong đời tôi, đã có lúc tôi trải nghiệm sự ghen ghét, trải nghiệm cuộc chiến tranh chống lại bản thân, trải nghiệm cuộc đấu tranh để làm người tốt, và trải nghiệm sự giả vờ rằng tôi tốt hơn người khác. Tôi tin rằng toàn nhân loại cũng đang tiến gần đến thời điểm đó. Bản thân sự tham lam là một triệu chứng của một vấn đề sâu sắc hơn chứ không phải là nguyên nhân. Đổ lỗi cho lòng tham và chống lại nó bằng cách tăng cường hoạt động kiểm soát bản thân đồng nghĩa với việc làm cuộc chiến chống ẳ lại bản thân trở nên căng thẳng hơn, mà đó chỉ là một biểu hiện khác của cuộc chiến chống lại thiên nhiên và cuộc chiến chống lại một cái khác là nền tảng của cuộc khủng hoảng của nền văn minh hiện tại. Sự tham lam có lí trong hoàn cảnh của sự khan hiếm. Hệ tư tưởng đang bao trùm cuộc sống của chúng ta nói rằng nó có lí: nó được lồng vào Câu chuyện về cái Tôi. Cái Tôi tách biệt trong một vũ trụ được điều khiển bởi những sức mạnh thù địch và thờ ơ thì luôn luôn ở bờ vực của sự tuyệt chủng, và chỉ cảm thấy an toàn khi kiểm soát được những sức mạnh đó. Bị ném vào một vũ trụ khách quan nằm bên ngoài chúng ta, chúng ta phải cạnh tranh với nhau để giành lấy nguồn tài nguyên giới hạn. Dựa trên câu chuyện về cái tôi tách biệt, cả ngành sinh học lẫn kinh tế học đều cho rằng lòng tham là một điều hiển nhiên cơ bản. Trong sinh học, đó là cái gen luôn tìm kiếm cách để tối đa hóa cơ hội sinh sản; trong kinh tế học, đó là một người khôn ngoan đi tìm cơ hội tối đa hóa tư lợi tài chính. Nhưng nếu giả thuyết về sự khan hiếm là sai thì sao? Nếu nó không phải là thực tại mà chỉ là một sự phóng chiếu của chính hệ tư tưởng của chúng ta thì sao? Nếu vậy, thì lòng tham không phải được khắc trong bộ gen của chúng ta mà nó chỉ là một triệu chứng của nhận thức về sự khan hiếm. Một sự biểu thị rằng lòng tham chỉ phản chiếu nhận thức khan hiếm chứ không phải là kết quả của một thực tại khan hiếm đó là: những người giàu có xu hướng kém hào phóng hơn những người nghèo. Theo tôi thấy, người nghèo thường hay cho người khác mượn hoặc cho luôn một khoản tiền nhỏ mà nếu nói về mặt tỉ lệ thì sẽ bằng một nửa số tài sản của những người giàu. Nghiên cứu trên diện rộng chứng mình cho điều này. Một cuộc điều tra năm 2002 bởi Independent Sector, một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận, cho biết những người Mỹ kiếm ít hơn $25.000 mỗi năm chi ra 4,2% thu nhập để làm từ thiện, trong khi đó con số chỉ là 2,7% đối với những người có thu nhập trên $100.000. Gần đây, Paul Piff, một nhà tâm lí học xã hội ở Đại học California-Berkeley, cho biết “những người có thu nhập thấp hào phóng hơn, làm từ thiện nhiều hơn, tin tưởng và giúp đỡ những người khác nhiều hơn những người giàu có hơn.”2 Piff nhận ra rằng khi được đưa tiền để phân phối một cách ẩn danh cho chính bản thân họ và một người khác (một người không hề quen biết họ) thì sự hào phóng tỉ lệ nghịch với địa vị kinh tế xã hội.3 Từ kết quả nghiên cứu trên chúng ta sẽ có xu hướng muốn kết luận rằng những người tham lam thì trở nên giàu có, nhưng một khả năng diễn giải ngang bằng khác đó là sự giàu có khiến cho người ta tham lam. Tại sao lại như vậy? Trong hoàn cảnh của sự trù phú, tham lam là một điều ngớ ngẩn; chỉ trong hoàn cảnh của sự khan hiếm thì lòng tham mới là điều có lí. Những người giàu nhận thức về sự khan hiếm trong khi thực tế không hề tồn tại điều đó. Họ cũng lo lắng về tiền hơn bất cứ ai. Có thể nào chính tiền tạo ra nhận thức về sự khan hiếm? Có thể nào tiền, gần như đồng nghĩa với sự an toàn, lại mang lại điều hoàn toàn trái ngược? Câu trả lời cho cả hai câu này là: Đúng vậy. Ở mức độ cá nhân, những người giàu đầu tư cho tiền của họ nhiều hơn rất nhiều và khó có khả năng từ bỏ tiền hơn (từ bỏ dễ dàng là phản ánh thái độ của sự trù phú). Ở mức độ hệ thống, như chúng ta sẽ thấy, sự khan hiếm gắn liền với tiền, nó là kết quả trực tiếp của cách mà tiền được tạo ra và lưu hành. Thừa nhận sự khan hiếm là một trong hai tiên đề quan trọng nhất của kinh tế học (tiên đề thứ hai là: bản năng của con người là muốn tối đa hóa tư lợi cá nhân). Cả hai đều sai; hay, chính xác hơn, chúng chỉ đúng trong một phạm vi hẹp, một phạm vi mà chúng ta, những con ếch ngồi ở đáy giếng, nhầm lẫn coi là toàn bộ thực tại. Những điều chúng ta cho là chân lí khách quan thì thực ra là một sự phóng chiếu của chính những nhận thức của chúng ta lên thế giới bên ngoài. Chúng ta quá đắm chìm trong sự khan hiếm đến nỗi tin rằng đó là bản chất của thực tại. Nhưng thực tế là, chúng ta sống trong một thế giới của sự trù phú. Sự khan hiếm mà chúng ta trải nghiệm ở mọi lúc mọi nơi là một ảo tưởng do hệ thống tiền tệ, chính trị và nhận thức của chúng ta tạo ra. Chúng ta sẽ thấy, hệ thống tiền tệ, hệ thống quyền sở hữu và hệ thống kinh tế nói chung phản ánh cảm nhận tương tự của cái tôi mà trong đó chứa nhận thức về sự khan hiếm. Đó là một cái tôi tách biệt và khôn ngoan, một cái tôi theo trường phái của Descartes: một bong bóng tâm lí bị bỏ rơi trong một vũ trụ vô thưởng vô phạt, đi tìm kiếm các cách thức để sở hữu, để kiểm soát, để nhận vơ càng nhiều của cải càng tốt, nhưng bị ấn định chuốc lấy thất bại bởi chính sự cách ly khỏi sự giàu có từ mối liên kết với các hữu thể khác mà đến với cảm giác không bao giờ có đủ. ẳ Sự khẳng định rằng chúng ta sống trong một thế giới của sự trù phú đôi khi gây ra phản ứng về mặt cảm xúc gần như thù địch trong những độc giả tin rằng việc con người chung sống hài hòa với thiên nhiên và các loài khác là không thể, nếu dân số không giảm. Họ đưa ra các ví dụ về sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, sự nóng lên toàn cầu, sự kiệt quệ của đất nông nghiệp, và dấu ấn của chúng ta trên hệ sinh thái như là bằng chứng nói lên rằng trái đất không thể tiếp tục chịu đựng nền văn minh công nghiệp nếu dân số giữ ở mức hiện tại. Cuốn sách này gợi ý một sự hồi đáp cho mối quan tâm này như là một phần của tầm nhìn về một nền kinh tế thiêng liêng. Quan trọng hơn, nó cũng giải quyết các câu hỏi “làm thế nào” – ví dụ, làm thế nào để chúng ta sẽ tới đó từ đây. Bây giờ tôi sẽ đưa ra một phần hồi đáp, một lý do để hy vọng. Đúng là hoạt động của con người ngày nay đã làm trái đất kiệt quệ. Các nhiên liệu hóa thạch, tầng chứa nước, lớp đất mặt, khả năng hấp thụ ô nhiễm và các hệ sinh thái duy trì sự tồn tại của sinh quyển đều đang cạn kiệt với tốc độ đáng báo động. Tất cả các biện pháp được đưa ra là quá ít, quá trễ – giống như một giọt nước trong thùng chứa so với những gì cần thiết. Mặt khác, một phần rất lớn trong những hoạt động này của con người là không cần thiết hoặc có hại cho hạnh phúc của con người. Trước hết hãy xem xét ngành công nghiệp vũ khí và các nguồn tài nguyên tiêu tốn cho các cuộc chiến tranh: khoảng 2 nghìn tỷ đô la mỗi năm, một lực lượng khoa học cực lớn và năng lượng sống của hàng triệu người trẻ tuổi, tất cả đều không phục phụ một nhu cầu nào trừ nhu cầu chúng ta tự tạo ra. Hãy xem xét ngành công nghiệp nhà ở tại Hoa Kỳ, với các Mc-Mansion4 khổng lồ trong hai thập kỷ qua mà không phục vụ nhu cầu thực sự của con người. Ở một số quốc gia, một tòa nhà có diện tích tương tự có thể làm nhà cho năm mươi người ở. Các phòng khách nhiều ngóc ngách không được sử dụng, vì mọi người cảm thấy không thoải mái với diện tích lớn bất thường của nó, họ tìm kiếm sự thoải mái trong những góc nhỏ hơn và phòng bếp ấm cúng. Vật liệu, năng lượng, và việc bảo trì các tòa nhà “quái vật” như vậy là một sự lãng phí nguồn tài nguyên. Có lẽ lãng phí hơn nữa là bố cục của khu ngoại ô, các bố cục đó làm cho giao thông công cộng không khả thi và đòi hỏi rất nhiều thời gian để lái xe. Hãy xem xét ngành công nghiệp thực phẩm, nơi có sự lãng phí khủng khiếp ở mọi cấp độ. Theo một nghiên cứu của chính phủ (Mỹ), tổn thất từ trang trại đến điểm bán lẻ là khoảng 4%, tổn thất từ điểm bán lẻ tới người tiêu dùng là 12% và tổn thất ở mức người tiêu dùng là 29%.5 Hơn nữa, vùng đất nông nghiệp rộng lớn được dành để sản xuất nhiên liệu sinh học (biofuel) và nông nghiệp cơ giới hóa đã loại bỏ các kỹ thuật trồng xen canh và các kĩ thuật trồng trọt khác có thể làm tăng năng suất đáng kể.6 Những con số này cho thấy sự đủ đầy là có thể, ngay cả trong một thế giới có 7 tỷ người – nhưng cần cảnh giác là: mọi người sẽ dành thời gian nhiều hơn (bình quân đầu người) vào việc trồng thực phẩm, đi ngược lại xu thế của hai thế kỷ qua. Rất ít người nhận ra rằng nông nghiệp hữu cơ có thể đạt hiệu quả gấp 2-3 lần so với nông nghiệp cơ giới hóa hiện tại – trên hecta, chứ không phải trên mỗi giờ lao động.7 Làm vườn cường độ cao có thể dẫn tới năng suất cao (và tốn nhiều công sức hơn). Nếu bạn thích làm vườn và nghĩ rằng hầu hết mọi người sẽ được hưởng lợi từ việc gần gũi với đất hơn, đây là một tin vui. Với một vài giờ làm việc một tuần, một khu vườn ngoại ô điển hình rộng 1000 feet vuông (92,9m²) có thể đáp ứng hầu hết nhu cầu rau của gia đình; tăng diện tích lên gấp đôi và nó có thể cung cấp số lượng đáng kể các loại lương thực chủ yếu như khoai tây, khoai lang và bí. Hệ thống vận tải xuyên lục địa rộng lớn mang xà lách và cà rốt từ California đến các nơi còn lại của nước Mỹ có thực sự cần thiết? Liệu nó có thực sự nâng cao cuộc sống hay không? Một kiểu phí phạm khác đến từ những công trình kém chất lượng và sự lỗi thời được lên kế hoạch của nhiều sản phẩm sản xuất hàng loạt. Hiện tại, có rất ít ưu đãi về kinh tế, và đôi khi là chướng ngại, để sản xuất các loại hàng hóa có tuổi thọ dài lâu và dễ sửa chữa, với kết quả vô lý là mua một thiết bị mới lại rẻ hơn sửa chữa một cái cũ. Đây chắc chắn là hậu quả của hệ thống tiền tệ của chúng ta và nó sẽ bị đảo ngược trong một nền kinh tế thiêng liêng. Trong khu phố nơi tôi sống, mỗi gia đình đều sở hữu một máy cắt cỏ được sử dụng có lẽ là mười giờ mỗi mùa hè. Mỗi nhà bếp có một máy xay sinh tố được sử dụng nhiều nhất là mười lăm phút mỗi tuần. Tại bất kỳ thời điểm nào, khoảng một nửa số xe ô tô đỗ trên đường phố, không làm gì cả. Hầu hết các hộ gia đình đều có dụng cụ bảo vệ hàng rào riêng, dụng cụ điện riêng, thiết bị tập thể dục riêng. Bởi vì chúng hầu như không bao giờ được sử dụng, hầu hết những thứ đó là không cần thiết. Chất lượng cuộc sống của chúng ta vẫn sẽ cao với một nửa số xe hơi, một phần mười số máy cắt cỏ và hai hoặc ba cái Stairmaster (dụng cụ thể dục leo lang) cho cả khu phố. Thực tế là, chất lượng cuộc sống của chúng ta thậm chí sẽ cao hơn vì ta sẽ có cơ hội để tương tác và chia sẻ với người khác.8 Thậm chí ở mức tiêu dùng rất cao hiện tại, khoảng 40% năng lực công nghiệp của thế giới vẫn không được dùng đến. Con số đó có thể tăng lên 80% hoặc hơn mà không làm mất đi hạnh phúc của con người. Tất cả những gì chúng ta sẽ mất sẽ là sự ô nhiễm và sự nhàm chán của quá nhiều sản xuất công xưởng. Tất nhiên, chúng ta sẽ mất rất nhiều “việc làm”, nhưng vì những “việc làm” đó cũng không đóng góp nhiều vào phúc lợi của con người, chúng ta có thể thuê những người làm các công việc đó đào hố ở dưới đất lên và lấp đầy chúng lại cũng không sao. Hay, tốt hơn là, chúng ta có thể để họ cống hiến trong các công việc cần nhiều sức lao động như nông nghiệp bán hoang dã, chăm sóc người ốm và người già, phục hồi các hệ sinh thái và tất cả các nhu cầu khác mà hiện tại không được đáp ứng vì những người có nhu cầu lại không có tiền. Một thế giới không có vũ khí, không có McMansion ở những vùng ngoại ô trải dài bất tận, không có hàng tá các loại bao bì không cần thiết, không có các trang trại độc canh khổng lồ được cơ giới hóa, không có các cửa hàng lớn như những cái thùng tiêu tốn năng lượng, không có bảng quảng cáo điện tử, không có các đống rác thải vô tận, không tiêu thụ quá nhiều loại hàng hóa không ai thực sự cần không phải là một thế giới nghèo nàn. Tôi không đồng ý với những người bảo vệ môi trường khi họ nói rằng chúng ta sẽ phải xoay sở để tiêu tốn ít hơn. Thực tế, chúng ta sẽ có nhiều hơn để xoay sở: nhiều cái đẹp hơn, nhiều tính cộng đồng hơn, nhiều sự hoàn thiện hơn, nhiều nghệ thuật hơn, nhiều âm nhạc hơn và các loại đồ dùng tuy ít hơn về số lượng nhưng tốt hơn về tính tiện ích và tính thẩm mỹ. Những thứ rẻ tiền đang lấp đầy cuộc sống hiện tại của chúng ta, dù số lượng có nhiều thế nào, cũng chỉ làm giảm giá trị cuộc sống. Một phần của sự chữa lành mà một nền kinh tế thiêng liêng đại diện là việc chữa lành sự chia cắt mà chúng ta đã tạo ra giữa tinh thần và vật chất. Để bảo vệ sự thiêng liêng của mọi thứ, tôi ủng hộ việc trân trọng chủ nghĩa vật chất chứ không phải là xóa bỏ nó. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ yêu các món đồ của mình nhiều hơn chứ không ít hơn. Chúng ta sẽ nâng niu các tài sản vật chất của chúng ta, tôn trọng nơi mà từ đó chúng đến và nơi mà chúng sẽ tới. Nếu bạn có một cái găng tay bóng chày hoặc một chiếc cần câu mà bạn rất giữ gìn, thì bạn sẽ hiểu những điều tôi đang nói. Hoặc có thể ông bạn có một bộ đồ làm mộc mà ông đã giữ gìn một cách hoàn hảo trong 50 năm. Đó là cách chúng ta tôn vinh những vật dụng của mình. Bạn có thể tưởng tượng được thế giới sẽ như thế nào nếu chúng ta tạo ra tất cả các loại đồ dùng với cùng sự quan tâm và tình cảm như thế không? Nếu mỗi kỹ sư đặt tình yêu đó vào các sáng tạo của mình? Ngày nay, thái độ như vậy là không kinh tế. Bạn có thể mua một cái găng tay bóng chày mới hoặc cần câu mới, tại sao phải quá cẩn thận với các đồ dùng khi những cái mới có giá rẻ như vậy? Sự rẻ tiền của các món đồ là một phần của sự mất giá của chúng, nó ném chúng ta vào một thế giới rẻ mạt, nơi mọi thứ đều giống hệt nhau và đều tiêu hao. Giữa sự dư thừa, thậm chí chúng ta – những người sống trong các quốc gia giàu có cũng sống trong lo âu, khao khát “an ninh tài chính” khi chúng ta cố gắng kìm hãm sự khan hiếm. Chúng ta lựa chọn (thậm chí những những lựa chọn không liên quan gì đến tiền bạc) theo tiêu chí “có thể mua được” và chúng ta thường liên kết sự tự do với sự giàu sang. Nhưng khi chúng ta theo đuổi nó, chúng ta thấy rằng thiên đường của tự do tài chính là một ảo ảnh, nó rút lui khi chúng ta tiếp cận nó và rằng cuộc đuổi bắt nó biến chúng ta thành nô dịch. Sự lo âu luôn ở đó, sự khan hiếm luôn luôn cách chúng ta chỉ một cuộc khủng hoảng. Chúng ta gọi cuộc đuổi bắt đó là sự tham lam. Thật vậy, nó là một sự đáp lại nhận thức về sự khan hiếm. Hãy để tôi đưa ra thêm một bằng chứng nữa, có tính gợi ý hơn là kết luận, cho tính chất nhân tạo hoặc ảo tưởng của sự khan hiếm mà chúng ta đang trải qua. Kinh tế học, theo trang thứ nhất trong các cuốn sách giáo khoa, là nghiên cứu về hành vi của con người trong điều kiện khan hiếm. Do đó, sự mở rộng của lĩnh vực kinh tế là sự bành trướng của sự khan hiếm, là sự xâm nhập của tính khan hiếm vào các lĩnh vực của cuộc sống mà một thời từng rất dồi dào. Hành vi kinh tế, đặc biệt là trao đổi tiền để lấy hàng hóa, ngày nay nới rộng cả vào các lĩnh vực mà trước đây không bao giờ là đối tượng trao đổi tiền tệ. Lấy ví dụ, một trong những loại hình bán lẻ có mức tăng trưởng rất lớn trong thập kỷ qua là: nước đóng chai. Nếu có một thứ rất dồi dào trên trái đất đến mức gần như có mặt ở khắp nơi, thì đó là nước, nhưng ngày nay nó đã trở thành khan hiếm, thành một thứ chúng ta phải trả tiền để đổi lấy. Chăm sóc trẻ em cũng là một lĩnh vực khác có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Khi tôi còn nhỏ, việc bạn bè và hàng xóm trông coi con trẻ của nhau trong vài giờ sau giờ học là “không thành vấn đề” – một vết tích của cuộc sống trong các ngôi làng hoặc các bộ lạc khi trẻ em được tự do chạy nhảy. Vợ cũ của tôi, Patsy, nói một cách cảm động về thời thơ ấu của cô ấy ở vùng nông thôn ở Đài Loan, nơi mà trẻ em có thể tới nhà của hàng xóm vào giờ ăn tối để được cho bát cơm. Cộng đồng chăm sóc cho những đứa trẻ. Nói cách khác, bạn chỉ phí công khi mở nhà trẻ để nhận trông trẻ sau giờ học vì mọi đứa trẻ đều đã được cộng đồng chăm lo hết cả rồi. Để một cái gì đó trở thành đối tượng của thương mại, đầu tiên nó phải được làm cho khan hiếm. Khi nền kinh tế phát triển, theo định nghĩa, ngày càng có nhiều hoạt động của con người tham gia vào phạm vi của tiền, phạm vi của hàng hóa và dịch vụ. Thông thường chúng ta kết hợp tăng trưởng kinh tế với sự gia tăng của cải, nhưng chúng ta cũng có thể coi đó là một sự nghèo đi, sự khan hiếm gia tăng. Những điều mà trước đây chúng ta không bao giờ từng nghĩ là phải trả tiền, thì hiện tại chúng ta đã phải trả tiền cho nó. Trả tiền để sử dụng cái gì? Tất nhiên là để sử dụng tiền – thứ tiền mà chúng ta phải đấu tranh và hi sinh để có được. Nếu có một thứ khan hiếm, đó chắc chắn là tiền. Hầu hết những người tôi biết đều sống trong sự lo lắng không có đủ tiền, từ lo lắng ít đến lo lắng nhiều. Và như ta thấy, những người giàu có cũng không bớt lo lắng, nên chẳng có số tiền nào là “đủ.” Từ góc nhìn này, chúng ta phải thận trọng khi bản thân phẫn nộ với những thông tin kiểu như “Hơn hai tỷ người sống dưới hai đô la mỗi ngày”. Thu nhập bằng tiền mặt thấp có thể có nghĩa là nhu cầu của một người được đáp ứng bên ngoài nền kinh tế tiền tệ, ví dụ thông qua các mạng lưới truyền thống của sự trao đổi và quà tặng. Trong những trường hợp như vậy, “phát triển” có nghĩa là làm tăng thu nhập bằng cách đưa các hoạt động kinh tế phi tiền tệ vào trong phạm vi của hàng hóa và dịch vụ, kết quả là tạo ra tâm lý khan hiếm, cạnh tranh và lo âu – những điều rất quen thuộc với chúng ta ở phương Tây, nhưng lại xa lạ với những người săn bắt hái lượm không dùng tiền hoặc những người nông dân tự cung tự cấp. Các chương sau giải thích các cơ chế và ý nghĩa của sự biến đổi cuộc sống và thế giới thành tiền, sự biến tất cả mọi thứ thành hàng hóa đã và đang diễn ra trong vài thế kỉ qua. Khi mọi thứ đều phải trả tiền, thì sự khan hiếm tiền bạc làm cho mọi thứ trở nên khan hiếm, kể cả những điều cơ bản cho cuộc sống và hạnh phúc của con người. Đó là cuộc sống của nô lệ – của một người bị ép buộc phải làm việc gì đó để tồn tại. Có lẽ dấu hiệu sâu sắc nhất về chế độ nô lệ của chúng ta là sự tiền tệ hóa thời gian. Đó là một hiện tượng có gốc rễ sâu hơn cả hệ thống tiền tệ của chúng ta, vì nó phụ thuộc vào cách đong đo thời gian từ trước khi tiền xuất hiện. Một con vật hoặc một đứa trẻ có “tất cả thời gian trên thế giới này”. Điều này cũng đúng đối với những người thuộc thời kỳ đồ đá – những người có những khái niệm rất lỏng lẻo về thời gian và hiếm khi vội vàng. Các ngôn ngữ nguyên thủy thường thiếu thời9, đôi khi còn không có từ “ngày hôm qua” hay “ngày mai”. Sự hờ hững với thời gian của những người nguyên thủy hiện tại vẫn còn rõ ràng ở các vùng nông thôn, những vùng có tính truyền thống hơn trên thế giới. Cuộc sống chuyển động nhanh hơn ở các thành phố lớn, nơi chúng ta luôn vội vã vì thời gian lúc nào cũng khan hiếm. Nhưng trong quá khứ, chúng ta đã từng có đầy ắp thời gian. Xã hội càng bị tiền tệ hóa thì các công dân của xã hội đó càng lo lắng và vội vã. Tại những nơi trên thế giới mà vẫn còn ở bên ngoài nền kinh tế tiền tệ, nơi nông nghiệp tự cung tự cấp vẫn còn tồn tại và nơi mà hàng xóm giúp đỡ lẫn nhau, thì tốc độ của cuộc sống chậm hơn, ít vội vã hơn. Ở nông thôn Mexico, mọi việc đều được làm mañana (ngày mai). Một phụ nữ nông dân Ladakh được phỏng vấn trong bộ phim “Ancient Futures” của Helena Norberg-Hodge đã tổng hợp tất cả những điều đó trong việc mô tả người em gái đang sống ở thành phố của cô như sau: “Cô ấy có một cái nồi cơm điện, một chiếc xe hơi, một chiếc điện thoại – tất cả các loại thiết bị giúp tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, khi tôi đến thăm cô ấy, cô ấy luôn bận rộn đến nỗi chúng tôi hầu như không có thời gian để nói chuyện.” Đối với một con thú, một đứa trẻ, hay một người săn bắt hái lượm, thời gian về cơ bản là vô hạn. Ngày nay, sự tiền tệ hóa thời gian đã làm cho nó cũng trở nên khan hiếm, như tất cả mọi thứ khác. Thời gian là cuộc sống. Khi chúng ta coi thời gian là khan hiếm, chúng ta sẽ thấy cuộc sống ngắn lại và trở nghèo nàn. Nếu bạn được sinh ra trước thời kì kế hoạch của người lớn xâm chiếm cuộc sống của trẻ em và trẻ em bị thúc ép chạy từ hoạt động này sang hoạt động khác, thì có lẽ bạn vẫn còn nhớ cảm giác “thời gian là vĩnh cữu” của thời thơ ấu, những buổi chiều kéo dài mãi mãi, sự tự do vô tận của cuộc sống trước sự chuyên chế của lịch và đồng hồ. John Zerzan viết, “Đồng hồ làm cho thời gian khan hiếm và cuộc sống ngắn ngủi.” Một khi đã được định lượng thì thời gian cũng có thể được mua và bán, và sự khan hiếm của tất cả loại hàng hóa liên quan đến tiền cũng ảnh hưởng tới thời gian. “Thời gian là tiền bạc,” – một cách nói khác của câu “Tôi không có thời gian.” Nếu thế giới vật chất về cơ bản là một thế giới phong phú, thì thế giới tâm linh còn phong phú hơn nhiều: những sáng tạo của tâm trí con người – những bài hát, câu chuyện, phim, ý tưởng, và mọi thứ khác mà được gọi tên là “tài sản trí tuệ”. Bởi vì ở thời đại kỹ thuật số, chúng ta có thể nhân bản và lan truyền chúng với chi phí không đáng kể, nên sự khan hiếm nhân tạo phải được áp đặt lên chúng để giữ chúng trong phạm vi của tiền. Ngành công nghiệp và chính phủ thi hành sự khan hiếm thông qua luật bản quyền, bằng sáng chế và các tiêu chuẩn mã hóa, cho phép chủ sở hữu tài sản đó kiếm lợi nhuận từ việc sở hữu nó. Sự khan hiếm là một ảo ảnh, một sáng tạo văn hóa. Nhưng bởi vì gần như toàn bộ cuộc sống của chúng ta nằm trong một thế giới được xây dựng bởi văn hóa, nên trải nghiệm của chúng ta về sự khan hiếm này là rất thật – thật đến nỗi hiện nay gần một tỷ người bị suy dinh dưỡng và khoảng 5.000 trẻ em chết mỗi ngày do các nguyên nhân gây ra do bị đói. Vì vậy, phản ứng của chúng ta đối với sự khan hiếm – lo lắng và tham lam – là hoàn toàn dễ hiểu. Khi cái gì đó dồi dào, không ai ngần ngại chia sẻ nó. Chúng ta sống trong một thế giới dồi dào, nhưng được làm cho khác đi bằng nhận thức của chúng ta, văn hóa của chúng ta, và những câu chuyện vô hình nằm sâu trong nhận thức của chúng ta. Nhận thức của chúng ta về sự khan hiếm là một lời tiên tri tự biến thành sự thật. Tiền là trọng tâm trong việc tạo dựng nên ảo tưởng về sự khan hiếm – một ảo tưởng có khả năng tự vật chất hóa. Tiền, thứ đã biến sự dồi dào thành khan hiếm, tạo ra lòng tham. Nhưng không phải bản thân tiền mà chỉ là loại tiền hiện tại chúng ta đang sử dụng, loại tiền hiện thân của cảm giác mang tính văn hóa về cái tôi của chúng ta, hiện thân của những câu chuyện tưởng tượng mà chúng ta không có ý thức về sự có mặt của nó, và hiện thân của mối quan hệ thù địch với thiên nhiên đã tồn tại hàng ngàn năm nay. Tất cả những điều này giờ đây đang thay đổi. Vậy, chúng ta hãy xem xét cách mà tiền trở thành thứ có ảnh hưởng đến tâm trí và cách sống của chúng ta, để chúng ta có thể hình dung cách mà hệ thống tiền tệ có thể thay đổi cũng bằng chính tâm trí và cách sống của mình. CHƯƠNG 3: TIỀN VÀ LÝ TRÍ Khi tất cả đều bị cô lập bởi chủ nghĩa vị kỷ, không còn gì ngoài bụi, và khi bão tố xảy ra, không còn gì ngoài bùn. – Benjamin Constant Sức mạnh gây ra ảo giác tập thể về sự khan hiếm chỉ là một trong những cách mà tiền gây ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta. Chương này sẽ khám phá một số ảnh hưởng về tâm lý và tâm linh sâu sắc của tiền bạc lên cách mà chúng ta nhìn nhận thế giới, tôn giáo, nền triết học của chúng ta, thậm chí trên cả nền khoa học của chúng ta. Tiền len lỏi vào tâm trí, nhận thức, và bản sắc của chúng ta. Đó là lý do tại sao khi một cuộc khủng hoảng tiền tệ ập tới, thì dường như tấm màn thực tại cũng đang bị tháo rời – dường như thế giới đang tan rã. Tuy nhiên, đây cũng là nguyên nhân để chúng ta lạc quan, bởi vì tiền là một sản phẩm xã hội mà chúng ta có thể thay đổi. Những luồng nhận thức và hành động tập thể mới nào sẽ song hành với một loại tiền mới? Chúng ta đã đến Chương 3, và thậm chí tôi còn chưa định nghĩa về “tiền”! Hầu hết các nhà kinh tế học định danh tiền bằng các chức năng của nó, chẳng hạn như nó là một phương tiện trao đổi, đơn vị đo lường giá trị, và phương tiện tích lũy. Theo đó, họ cho rằng tiền đã xuất hiện từ rất sớm, có lẽ là năm ngàn năm trước cùng sự xuất hiện của các loại hàng hóa tiêu chuẩn như ngũ cốc, dầu, gia súc, hoặc vàng được sử dụng để phục vụ các chức năng trên. Nhưng khi nói về tiền, tôi muốn đề cập một thứ khác biệt đôi chút, thứ mà đã xuất hiện lần đầu tiên ở Hy Lạp vào thế kỷ thứ bảy TCN. Đó được cho là lần đầu tiên tiền vượt trên hàng hóa đơn thuần để trở thành một hữu thể riêng biệt. Do đó, ngoài nói về những chức năng của tiền, chúng ta còn có thể nói về vấn đề “tiền là cái gì” nữa. Câu chuyện dân gian giữa các nhà kinh tế học kể rằng tiền xu được phát minh để đảm bảo trọng lượng và độ tinh khiết cho mảnh kim loại có giá trị như một thứ hàng hóa. Chúng có giá trị bởi chúng được làm ra hoàn toàn từ vàng hoặc bạc. Trên thực tế, giống như nguồn gốc đổi chác của tiền hay giả định về sự khan hiếm, câu chuyện về nguồn gốc tiền xu này là giả tượng của một nhà kinh tế học. Một giả tưởng được gắn kèm một nhân vật lừng lẫy để đảm bảo tính xác thực cho nó. Aristotle viết: Vì không dễ mang đi mang lại hàng tá nhu yếu phẩm, nên mọi người đã đồng thuận sử dụng một vật có ích và dễ sử dụng khi trao đổi hàng hóa với nhau, ví dụ như sắt, bạc hay tương tự. Đầu tiên, giá trị của những thứ đó được đo bằng kích cỡ và trọng lượng của chúng, nhưng theo thời gian, người ta đóng một con dấu lên đó, để khỏi mất công cân đo và để đánh dấu giá trị.1 Câu chuyện này có vẻ khá hợp lý, nhưng bằng chứng lịch sử dường như mâu thuẫn với nó. Các đồng tiền xu đầu tiên, mà được đúc ở Lydia, được làm từ electrum (một hợp kim bạc-vàng) có tính đồng nhất về chất lượng là rất thấp.2 Tiền xu nhanh chóng lan sang Hy Lạp, nơi mà tuy các đồng xu tương đối đồng nhất về trọng lượng và độ tinh khiết, chúng thường có giá trị lớn hơn giá trị hàng hóa của loại bạc mà từ đó chúng được đúc ra.3 Thật vậy, một số thành bang (bao gồm Sparta) đã đúc tiền xu từ các kim loại cơ bản như sắt, đồng, chì hoặc thiếc: những đồng tiền này có giá trị nội tại không đáng kể nhưng vẫn có chức năng như tiền.4 Trong cả hai trường hợp, các đồng xu được đóng dấu có giá trị (mà theo nhà sử học Richard Seaford, chúng ta sẽ gọi “giá trị ủy thác”) lớn hơn một mảnh kim loại giống hệt vậy nhưng chưa được đóng dấu. Tại sao? Một con dấu đơn thuần ẩn chứa sức mạnh huyền bí gì chăng? Đó không phải là sự đảm bảo về trọng lượng và độ tinh khiết, cũng không phải là sự bành trướng quyền lực cá nhân của kẻ cai trị hay cơ quan tôn giáo. Seaford nhận thấy, “Trong khi dấu niêm phong có vẻ biểu hiện quyền lực của người sở hữu con dấu, thì các con dấu trên đồng xu không tạo được mối liên quan giữa đồng xu và nguồn gốc của chúng như ta tưởng”.5 Thay vào đó, dấu hiệu trên đồng xu xác thực rằng mảnh kim loại sở hữu một giá trị nhất định. Và người ta làm được như vậy không phải bằng cách truyền năng lượng (phép thuật hay cách khác) sang mảnh kim loại, mà bằng cách áp lên nó một hình dạng mà dễ dàng chỉ đích nó thuộc một phạm trù riêng biệt, phạm trù của tiền xu thật… Con dấu đồng xu… thực chất có tác dụng như một kí hiệu”.6 Các kí hiệu không có sức mạnh nội tại, nhưng lại đạt được sức mạnh thông qua cách con người nhận thức về chúng. Trong phạm vi một xã hội có chung nhận thức, các kí hiệu hoặc biểu tượng sẽ mang sức mạnh xã hội. Loại tiền mới từng xuất hiện ở Hy Lạp cổ đại trở nên có giá trị từ một thỏa thuận xã hội, trong đó các dấu hiệu trên đồng xu là bằng chứng.7 Thỏa thuận này là bản chất của tiền. Điều này nên hiển nhiên ngày nay, khi hầu hết tiền là tiền điện tử và tiền giấy thì có giá trị nội tại chỉ xấp xỉ bằng một tờ giấy vệ sinh, nhưng tiền đã và vẫn đang là một sự thỏa thuận kể từ thời Hy Lạp cổ đại. Những nhà cải cách ủng hộ tiền đúc vàng như một cách để trở lại thời hoàng kim của “tiền thật” đang cố gắng quay trở về với một thứ chưa bao giờ tồn tại, ngoại trừ trong những khoảnh khắc lịch sử ngắn ngủi mà tiền vàng gần như là một lý tưởng. Tôi tin rằng bước tiếp theo trong tiến trình phát triển của tiền tệ nhân loại sẽ không phải là trở về một hình thức tiền tệ từ xa xưa, mà là sự chuyển đổi của nó từ một hiện thân của thỏa thuận vô thức sang có ý thức. Qua hơn 5.000 năm, tiền đã phát triển từ hàng hóa thuần túy, đến một biểu tượng đặt trên một loại vật liệu, đến biểu tượng thuần khiết của ngày hôm nay. Kinh tế học thiêng liêng không tìm cách để đảo ngược tiến trình này, mà để hoàn thành nó. Tiền như một sự thỏa thuận không đứng cô lập với các hệ thống kí hiệu và biểu tượng khác mà qua đó nền văn minh của chúng ta vận hành. Chúng ta có thể đặt vào trong tiền các thỏa thuận mới về hành tinh của chúng ta, về các loài sinh vật, và về những gì chúng ta cho là thiêng liêng. Trong một thời gian dài chúng ta đã coi sự “tiến bộ” là thiêng liêng, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự chinh phục thiên nhiên. Hệ thống tiền tệ của chúng ta phục vụ những mục tiêu đó. Hiện tại mục tiêu của chúng ta đang thay đổi, những siêu-chuyện-kể của chúng ta cũng thay đổi và tiền sẽ là một phần trong những câu chuyện đó: Câu Chuyện về Cái Tôi, Câu Chuyện về Con Người, và Câu Chuyện về Thế Giới. Mục đích của cuốn sách này là để kể một câu chuyện mới về tiền; để làm sáng tỏ những thỏa thuận mới mà chúng ta có thể gắn vào trong những “tấm bùa” ủy thác này, để tiền là đồng minh, chứ không phải kẻ thù, của một thế giới tốt đẹp hơn mà trái tim chúng ta biết là khả thi. Không phải ngẫu nhiên mà Hy Lạp cổ đại, nơi mà tiền tượng trưng bắt nguồn, cũng là nơi đã sinh ra khái niệm hiện đại về cá nhân, các khái niệm về logic và lý trí, và các nền tảng triết học của lý trí hiện đại. Trong nghiên cứu khoa học Money and the Ancient Greek Mind, giáo sư văn học kinh điển Richard Seaford khám phá tác động của tiền bạc lên xã hội và suy nghĩ của Hy Lạp và làm sáng tỏ những đặc điểm khiến tiền trở nên độc đáo. Trong đó, tiền vừa cụ thể vừa trừu tượng; nó là một mục tiêu thuần nhất, không mang tính cá nhân, là một phương tiện phổ quát; và nó không có giới hạn. Sự xuất hiện của quyền lực mới và độc nhất này trên thế giới đã tạo ra những hậu quả sâu sắc, mà rất nhiều trong số đó đã thấm sâu vào niềm tin và văn hóa, tâm lý và xã hội của chúng ta đến mức chúng ta khó có thể nhận ra chúng, chưa nói đến việc nghi vấn chúng. Tiền là thuần nhất vì kể cả có bất kỳ sự khác biệt vật lí nào giữa các đồng tiền thì chúng vẫn đều có giá trị như nhau (nếu chúng có cùng mệnh giá). Mới hay cũ, nhàu hay phẳng, tất cả các đồng một drachma đều như nhau. Đây là một điều mới mẻ trong thế kỷ thứ sáu TCN. Trong thời đại cổ đại, Seaford nhận xét, quyền lực được truyền lại thông qua các vật thể bùa chú độc nhất (ví dụ, cây quyền trượng được cho là trao từ Zeus), tiền thì ngược lại: quyền lực của nó được cấp thông qua một dấu hiệu tiêu chuẩn mà xóa nhòa sự khác nhau về độ tinh khiết và trọng lượng. Chất lượng không quan trọng, chỉ có số lượng mới quan trọng. Bởi vì tiền có thể chuyển đổi thành tất cả các thứ khác, nó làm lây nhiễm tính chất đó sang các vật khác, biến chúng thành các mặt hàng – các đồ vật mà, miễn là chúng đáp ứng các tiêu chí nhất định, thì đều được xem là giống hệt nhau. Chỉ có số lượng mới quan trọng. Seaford nói, “Tiền thúc đẩy tính đồng nhất giữa mọi thứ nói chung”. Tất cả mọi thứ đều bình đẳng, bởi vì chúng có thể được bán đi để lấy tiền, và sau đó tiền có thể được sử dụng để mua bất kỳ thứ gì khác. Trong thế giới hàng hóa, mọi thứ đều có giá trị bằng với số tiền cần để thay thế chúng. Thuộc tính chính của chúng là “giá trị” – một sự trừu tượng. Tôi cảm thấy buồn và xa lạ trong câu nói “Bạn luôn có thể mua một cái khác”. Bạn có thấy câu nói đó thúc đẩy chủ nghĩa phi vật chất, khuyến khích sự tách rời khỏi thế giới vật chất trong đó mỗi người, mỗi nơi chốn và sự vật là đặc biệt, độc nhất không? Không có gì ngạc nhiên khi các triết gia Hy Lạp thời đại này bắt đầu nâng cao sự trừu tượng lên trên cả thực tế, đạt cực điểm trong sáng kiến của Plato về một thế giới của các dạng thức hoàn hảo thực tế hơn cả thế giới của các giác quan. Không lạ gì mà cho đến ngày nay chúng ta vẫn đối xử với thế giới vật chất với một thái độ kiêu hãnh như thế. Không có gì ngạc nhiên khi sau hai ngàn năm đắm chìm trong trong tâm lý tiền bạc (mentality of money), chúng ta đã trở nên quá quen thuộc với sự thay thế của tất cả mọi thứ đến nỗi chúng ta hành xử như thể chúng ta có thể mua một hành tinh mới một cách đơn giản nếu chúng ta hủy hoại hành tinh này. Tôi đặt tên cho chương này là “Tiền và Lý trí”. Rất giống với giá trị được ủy thác của tiền, lý trí là một thứ trừu tượng cầm lái một phương tiện vật chất (thể xác). Giống như sự ủy thác tiền tệ, ý tưởng về lý trí như là một hữu thể riêng biệt và phi vật chất đã phát triển hàng ngàn năm nay, dẫn đến khái niệm hiện đại về một ý thức phi vật chất, một linh hồn tách biệt khỏi thân xác. Nói một cách rõ ràng, cả trong tư tưởng thế tục lẫn tôn giáo, sự trừu tượng này trở nên quan trọng hơn phương tiện vật lý, tương tự như “giá trị” của một vật quan trọng hơn các thuộc tính vật lý của chính nó. Trong phần Lời giới thiệu, tôi đã đề cập đến ý tưởng rằng chúng ta đã tạo ra một vị thần dựa trên quan niệm về tiền của mình: một sức mạnh vô hình có khả năng dịch chuyển tất cả mọi thứ, làm cho thế giới trở nên sống động, một “bàn tay vô hình” chỉ huy hoạt động của con người, phi vật chất nhưng có mặt ở khắp nơi. Nhiều trong số các thuộc tính này của Thượng Đế hay linh hồn có nguồn gốc từ thời các triết gia Hy Lạp trước Socrate (trước năm 470 TCN), những người đã phát triển ý tưởng của họ ngay chính thời điểm tiền bạc nắm quyền kiểm soát xã hội. Theo Seaford, họ thậm chí là những người đầu tiên phân biệt giữa bản chất và bề ngoài, giữa cụ thể và trừu tượng – một sự khác biệt hoàn toàn không tồn tại (ngay cả ngầm) vào thời của Homer (tác giả Sử thi Odyssey thời Hy Lạp cổ đại). Từ apeiron8 của Anaximander đến các logos9 của Heraclitus tới học thuyết Pythagore “Tất cả là con số”, người Hy Lạp cổ đại đã nhấn mạnh tính ưu việt của sự trừu tượng: một nguyên tắc không nhìn thấy được nhưng điều khiển thế giới. Tư tưởng này đã thâm nhập vào DNA của nền văn minh ẳ chúng ta tới mức mà quy mô của lĩnh vực tài chính lớn hơn hẳn nền kinh tế thực; trong đó tổng giá trị các dẫn xuất tài chính lớn gấp mười lần tổng sản phẩm quốc nội của thế giới; nơi những phần thưởng lớn nhất của xã hội được trao cho những phù thủy phố Wall – những người không làm gì khác hơn là điều khiển các biểu tượng. Đối với thương nhân đang ngồi trước máy tính, thực sự là như Pythagoras nói: “Tất cả là con số”. Một biểu hiện của sự chia cắt giữa tinh thần và vật chất này mà ưu tiên cho tinh thần là ý tưởng: “Chắc chắn, cải cách kinh tế là một điều đáng làm, nhưng điều quan trọng hơn nhiều là sự chuyển hóa ý thức của con người”. Tôi nghĩ quan điểm này là sai lầm, vì nó dựa trên sự phân biệt sai giữa ý thức và hành động, và đến cuối là sự phân biệt sai giữa tinh thần và vật chất. Ở một mức độ sâu xa, tiền và ý thức đan xen lẫn nhau. Cái này bị ràng buộc với cái kia. Tính trừu tượng của tiền được phát triển phù hợp trong một bối cảnh siêu lịch sử rộng lớn. Tiền không thể phát triển mà không có một nền tảng của sự trừu tượng dưới dạng chữ cái và số. Con số và nhãn mác kéo ta xa rời khỏi thế giới thực và dẫn trí óc của chúng ta suy nghĩ theo cách trừu tượng. Sử dụng một danh từ là ngụ ý nhắc tới một đặc tính của nhiều thứ cùng có chung tên gọi; nói rằng năm đặc tính của một thứ biến mỗi cái trở thành một đơn vị. Chúng ta bắt đầu nghĩ đến các vật thể như là đại diện của một hạng mục chứ không phải là những vật độc đáo. Vì vậy, trong khi các hạng mục tiêu chuẩn và tổng quát không khởi đầu với tiền, thì chính tiền đã đẩy mạnh sự thống trị về mặt khái niệm của các hạng mục. Hơn nữa, tính đồng nhất của tiền đi kèm với sự phát triển nhanh chóng của các loại hàng hóa tiêu chuẩn hóa cho thương mại. Sự tiêu chuẩn hóa như vậy là thô thiển trong thời kỳ tiền công nghiệp, nhưng ngày nay những vật dụng được sản xuất hàng loạt giống hệt nhau cũng gần như có nghĩa là sự dối trá của tiền đã biến thành chân lý. Khi chúng ta xem xét hình thức của tiền trong tương lai, chúng ta hãy nhớ rằng tiền có thể đồng nhất hóa tất cả những gì nó chạm vào. Có lẽ tiền chỉ nên được sử dụng cho những gì là hoặc nên là tiêu chuẩn, có thể định lượng, hoặc chung chung; có lẽ một loại tiền khác, hoặc chẳng cần đến tiền nữa, nên tham gia vào việc lưu thông những gì mang tính cá nhân và độc đáo. Chúng ta chỉ có thể so sánh giá cả dựa trên số lượng tiêu chuẩn; do đó, khi chúng ta nhận được nhiều hơn thế – một cái gì đó không đong đếm được – là chúng ta đã nhận được một khoản thêm (bonus), một thứ mà chúng ta đã không phải trả tiền. Nói cách khác, chúng ta đã nhận được một món quà. Chắc chắn là, chúng ta có thể mua một tác phẩm nghệ thuật, nhưng nếu chúng ta cảm thấy nó chỉ như một loại hàng hóa, thì chúng ta đã phải trả quá nhiều; nhưng nếu đó là nghệ thuật chân chính, thì chúng ta đã phải trả quá ít. Tương tự, chúng ta có thể mua tình dục nhưng không mua được tình yêu; chúng ta có thể mua calo mà không mua được thực phẩm thật. Ngày nay chúng ta phải chịu đựng một sự nghèo túng của những thứ vô giá, không đong đếm được; sự túng thiếu của những thứ mà tiền không thể mua được và sự thừa thãi của những thứ mà nó mua được (mặc dù sự thừa thãi này được phân bổ không đồng đều đến nỗi nhiều người thậm chí không có nổi những thứ đó).10 Như việc tiền có thể đồng nhất hóa những thứ nó chạm vào, thì nó cũng có thể đồng nhất hóa và làm mất tính cá nhân của những người dùng nó: “Nó tạo điều kiện cho kiểu trao đổi thương mại mà trao đổi đó không liên quan gì tới các mối quan hệ khác”.11 Nói cách khác, mọi người chỉ đơn giản là các bên tham gia trong một giao dịch. Trái ngược với những động cơ đa dạng là đặc trưng của hoạt động cho và nhận quà tặng, thì trong một giao dịch tài chính thuần túy, tất cả chúng ta đều như nhau: tất cả chúng ta đều muốn có được một thương vụ tốt nhất. Tính đồng nhất này giữa con người như một hệ quả của tiền được giả định các nhà kinh tế học giả định là nguyên nhân. Toàn bộ câu chuyện về sự tiến hóa của tiền từ hoạt động đổi chác giả định rằng bản chất cơ bản của con người là muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân. Trong đó, con người được coi là như nhau. Khi không có tiêu chuẩn về giá, những người khác nhau thì muốn những thứ khác nhau. Khi tiền có thể trao đổi để lấy bất kỳ thứ gì, thì tất cả mọi người đều muốn chung một thứ: tiền. Seaford viết: “Tiền được tách ra khỏi tất cả các liên kết mang tính cá nhân, nó trở nên lộn xộn và có khả năng được trao đổi với bất cứ ai để lấy bất cứ điều gì, nó thờ ơ với tất cả các mối quan hệ phi tiền tệ giữa người với người”.12 Không giống như các đồ vật khác, tiền không lưu giữ lại bất kì dấu vết nào về nguồn gốc của nó hay bất kì dấu vết nào của những người đã từng sử dụng nó. Trong khi một món quà dường như là một phần của người cho, tiền của ai cũng giống nhau. Nếu tôi có 2.000 đô la trong ngân hàng, một nửa từ bạn bè của tôi và một nửa từ kẻ thù của tôi, tôi không thể chọn tiêu 1.000 đô la từ kẻ thù trước và giữ lại phần tiền từ bạn bè tôi. Mỗi đô la đều có giá trị như nhau. Một cách thông thái, có lẽ vì hiểu được điều đó nên nhiều người từ chối không lẫn lộn việc kinh doanh với tình bạn, họ đề phòng không để xảy ra xung đột tất yếu giữa tiền và mối quan hệ cá nhân. Tiền làm cho một mối quan hệ trở nên mất tính chất cá nhân, biến hai người thành “các bên trong một cuộc trao đổi”, mỗi bên đều có mục đích chung là tối đa hóa lợi ích cá nhân. Nếu tôi muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân, mà có thể bạn sẽ phải thua thiệt, thì làm sao chúng ta có thể là bạn? Trong xã hội được tiền tệ hóa ở mức cao như xã hội của chúng ta, gần như tất cả nhu cầu đều có thể được đáp ứng bằng tiền, thì còn đâu những món quà cá nhân mà từ đó chúng ta có thể xây dựng tình bạn? Động cơ lợi nhuận gần như luôn đối nghịch với các động cơ cá nhân tốt đẹp, bởi vậy mới có câu “Đừng để tâm quá; chỉ là công việc thôi”. Ngày nay, phong trào kinh doanh có đạo đức và phong trào đầu tư có đạo đức tìm cách hàn gắn sự đối nghịch giữa tình cảm và lợi nhuận, tuy nhiên, dù động cơ có chân thành cỡ nào chăng nữa, những nỗ lực đó thường biến đổi thành quan hệ công chúng PR13, “green washing”14, hay tự công chính15. Đây không phải là tình cờ. Ở các chương sau, tôi sẽ mô tả một mâu thuẫn chết người trong nỗ lực đầu tư có đạo đức, nhưng hiện tại bạn chỉ cần lưu ý đến sự nghi ngờ tự nhiên của bạn về vần đề này, và nói chung về bất kỳ tuyên bố nào để “kiếm tiền bằng cách làm việc tốt”. Bất cứ lúc nào chúng ta bắt gặp một doanh nghiệp có vẻ như có lòng vị tha, chúng ta sẽ có xu hướng nghĩ rằng, “Cái giá phải trả là gì?” Làm thế nào mà họ bí mật kiếm tiền từ đây? Khi nào họ sẽ yêu cầu tôi chi tiền? Ý nghĩ ngờ vực rằng “Anh ta thực ra làm vì tiền” gần như là phổ quát. Chúng ta nhanh chóng phát hiện ra các động cơ tài chính trong mọi thứ mà người ta làm, và chúng ta cảm động sâu sắc khi ai đó làm điều gì đó hoan hỷ hay hào phóng đến nỗi rõ ràng là họ không có động cơ đó. Có vẻ như không hợp lý, thậm chí là kỳ diệu, khi ai đó thực sự cho đi mà không nghĩ cách để được đáp trả. Như Lewis Hyde đã nói, “Trong các đế chế của sự bóc lột, tính đa cảm của một người có trái tim thương yêu khiến chúng ta cảm động bởi vì nó nói lên những điều đã mất.”16 Tính phổ biến của sự nghi ngờ động cơ lợi nhuận kín đáo phản ánh tiền như một mục tiêu phổ quát. Hãy hình dung lại bạn hồi còn đi học, nói chuyện với cố vấn nghề nghiệp17, thảo luận về các khả năng của bạn và cách bạn có thể sử dụng chúng để kiếm sống – nghĩa là chuyển đổi chúng thành tiền. Thói quen suy nghĩ này nằm sâu trong chúng ta: khi cậu con trai tuổi teen của tôi Jimi cho tôi xem các trò chơi máy tính mà nó sáng tạo ra, đôi khi tôi bắt gặp bản thân mình đang nghĩ về việc làm thế nào để con có thể thương mại hóa các trò chơi đó và về những kỹ năng lập trình mà con có thể phát triển tiếp để phù hợp với thị trường. Gần như bất cứ lúc nào ai đó có một ý tưởng sáng tạo thú vị, thì suy nghĩ “làm sao để chúng ta có thể kiếm tiền từ việc này?” hiện lên ngay sau đó. Nhưng khi lợi nhuận trở thành mục đích của sáng tạo nghệ thuật chứ không phải chỉ là một hiệu ứng phụ, thì sản phẩm sáng tạo không còn là nghệ thuật nữa, và chúng ta trở thành những người bán hàng rẻ mạt. Mở rộng nguyên tắc này ra cuộc sống nói chung, Robert Graves cảnh báo, “Bạn chọn công việc đang làm để tạo cho bạn một khoản thu nhập ổn định và thời gian rảnh rỗi để phục vụ part time “vị nữ thần” mà bạn yêu quý. Tôi là ai, bạn sẽ hỏi, mà dám cảnh báo bạn rằng vị nữ thần ấy đòi hỏi bạn phục vụ toàn thời gian hoặc không thì thôi?”18 Tiền như một mục tiêu phổ quát được gắn liền vào ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta nói đến việc “vốn hóa” ý tưởng của chúng ta và sử dụng từ “cho không”, thực ra có nghĩa là cái gì đó có thể được nhận với sự biết ơn (chứ không phải trả tiền), như một từ đồng nghĩa với “không cần thiết”. Chắc chắn là tiền cũng gắn liền vào ngành kinh tế học, trong giả định rằng con người tìm cách tối đa hóa lợi ích cá nhân mà lợi ích cá nhân ở đây tương đương với tiền. Nó thậm chí còn được gắn vào khoa học, nơi tiền là một mật mã để giải bài toán về gia tăng cơ hội sinh sản. Ở đây, khái niệm về một mục tiêu phổ quát đã được thiết lập. Ý tưởng rằng có một thứ gì đó là mục tiêu phổ quát của cuộc sống (dù đó là tiền bạc hay cái gì khác) là hoàn toàn không hiển nhiên. Ý tưởng này rõ ràng nảy sinh vào khoảng thời gian mà tiền xuất hiện; có lẽ chính tiền đã gợi ý điều này cho các triết gia. Socrates đã sử dụng một phép ẩn dụ tiền trong việc gợi ý trí thông minh như là mục tiêu phổ quát: “Chỉ có một loại tiền (currency) đúng đắn nhất mà để có nó chúng ta phải đánh đổi tất cả những thứ khác [niềm vui và nỗi đau] – đó là trí thông minh”.19 Trong tôn giáo, điều này tương ứng với việc theo đuổi một mục đích tối hậu, ví dụ như sự cứu độ hay sự giác ngộ, từ đó mọi điều tốt đẹp khác sẽ tuôn chảy. Thật là quá giống với mục tiêu không giới hạn của tiền! Tôi tự hỏi nếu chúng ta từ bỏ việc theo đuổi một mục tiêu tổng thể, trừu tượng mà chúng ta tin là chìa khóa cho mọi thứ khác, thì hiệu ứng nào sẽ xảy ra với cuộc sống tâm linh của chúng ta? Nếu chúng ta buông bỏ cái chiến dịch bất tận để cải thiện bản thân, để tiến gần tới một mục tiêu nào đó, thì cảm giác sẽ thế nào? Sẽ thế nào nếu chúng ta chỉ rong chơi, chỉ hiện hữu? Giống như sự giàu có, sự giác ngộ là một mục tiêu không có giới hạn, và trong cả hai trường hợp, việc theo đuổi nó có thể khiến chúng ta trở thành nô lệ. Trong cả hai trường hợp, tôi nghĩ rằng đối tượng của sự theo đuổi chỉ là sự một thay thế giả tạo cho rất nhiều điều mà mọi người thực sự muốn.20 Trong một xã hội bị tiền tệ hóa hoàn toàn, nơi mà gần như mọi thứ đều là một mặt hàng hoặc một dịch vụ, tiền chuyển đổi sự đa dạng của thế giới thành một thể thống nhất, “một thứ duy nhất có thể làm thước đo và có thể trao đổi với hầu hết mọi thứ”.21 Apeiron, logos và các khái niệm tương tự đều là các phiên bản của sự thống nhất cơ bản mà làm nền tảng tạo ra tất cả mọi thứ. Chính từ nền tảng đó mà tất cả mọi thứ xuất hiện và mọi thứ đều trở về. Như vậy, nó gần giống với quan niệm của người Trung Quốc cổ xưa về Đạo – cái sinh ra âm và dương, và từ đó sinh ra vạn vật. Thú vị là, bậc thầy nửa hư nửa thực của Đạo giáo – Lão Tử đã sống cùng khoảng thời gian với các triết gia tiền Socrates, cũng xấp xỉ thời gian ở Trung Quốc xuất hiện những đồng xu đầu tiên. Trong bất kỳ trường hợp nào, ngày nay tiền vẫn là thứ sinh ra vạn vật. Khi bạn muốn tạo dựng bất kì cái gì trong thế giới này, bạn bắt đầu với một khoản đầu tư, với tiền. Và sau đó, khi bạn hoàn thành dự án của mình, cũng đến lúc bán nó đi. Mọi thứ khởi sinh từ tiền; mọi thứ quy lại về tiền. Bởi vậy tiền không chỉ là một mục tiêu phổ quát; nó cũng đồng thời là một phương tiện phổ quát, thực sự tiền là như vậy bởi nó là một phương tiện phổ quát đồng thời cũng là một cái đích phổ quát, thứ mà người ta không bao giờ có thể có quá nhiều. Hoặc ít nhất, đó là cách mà chúng ta nhận thức về nó. Nhiều lần tôi đã chứng kiến các cuộc thảo luận về việc tạo ra một cộng đồng có mục đích hoặc khởi động một dự án nào đó, chỉ để kết thúc với một sự thừa nhận đáng buồn rằng sẽ không bao giờ có chuyện xảy ra bởi vì, “Chúng ta sẽ lấy tiền ở đâu ra?” Tiền được xem là yếu tố quyết định trong việc xác định những gì chúng ta có thể tạo ra: sau cùng, nó có thể mua hầu như bất cứ loại hàng hóa nào, có thể khiến người ta thực hiện hầu như bất kỳ dịch vụ nào. “Tất cả mọi thứ đều có giá của nó”. Dường như tiền thậm chí có thể mua được những thứ vô hình, chẳng hạn như địa vị xã hội, quyền lực chính trị và thiện ý của thần thánh (hoặc nếu không thì ít nhất là sự ủng hộ của các cơ quan tôn giáo). Chúng ta khá quen với việc nhìn nhận tiền là chìa khóa để thực hiện tất cả những điều chúng ta mong muốn. Bạn có bao nhiêu ước mơ mà bạn cho rằng bạn chỉ có thể hoàn thành nếu (và chỉ nếu) bạn có tiền? Vì vậy, chúng ta thế chấp những ước mơ của mình để kiếm tiền, biến nó từ phương tiện thành đích đến. Tôi sẽ không ủng hộ việc bãi bỏ tiền. Tiền đã vượt quá giới hạn thích đáng của nó, trở thành phương tiện để đạt được những điều mà lẽ ra không bao giờ nên bị lây nhiễm tính đồng nhất và phi nhân cách của nó; trong khi đó, vì chúng ta đã cùng đồng ý coi nó như là phương tiện, những thứ mà tiền thật sự không thể mua đã trở nên không thể đạt được, và cho dù chúng ta có bao nhiêu tiền, chúng ta cũng chỉ có thể có được vẻ bề ngoài của những thứ đó mà thôi. Giải pháp là khôi phục tiền về đúng vai trò của nó. Vì đúng là có những thứ mà con người chỉ có thể tạo ra bằng tiền, hoặc bằng một số phương tiện tương đương để điều phối hoạt động của con người trên quy mô lớn. Trong hình thái thiêng liêng của nó, tiền là sự hiện thực hóa một câu chuyện, là một thỏa thuận phân định các vai trò và tập trung mục đích. Tôi sẽ trở lại chủ đề này sau, khi mà tôi mô tả cái mà tiền có thể trở thành trong một nền kinh tế thiêng liêng. Bởi vì không có giới hạn rõ ràng cho những gì tiền có thể mua, nên lòng ham muốn tiền của chúng ta cũng có xu hướng không có giới hạn. Lòng ham muốn tiền vô hạn được thể hiện ra rất rõ ràng ở người Hy Lạp cổ đại. Ngay những ngày đầu của thời đại tiền tệ, nhà thơ vĩ đại đồng thời là nhà cải cách Solon đã quan sát thấy: “Về sự giàu có, dường như không có giới hạn nào đối với con người, vì những người giàu có nhất trong số chúng ta hăng hái muốn gấp đôi sự giàu có.” Aristophanes đã viết rằng tiền là độc đáo bởi vì với tất cả mọi thứ khác (như bánh mì, tình dục, v.v…), con người còn cảm thấy thỏa mãn, nhưng với tiền thì không. “Bao nhiêu là đủ?” – một người bạn đã từng hỏi một tỷ phú mà anh ta biết. Người tỷ phú bị bí câu trả lời. Lý do khiến không một khoản tiền nào có thể là đủ là vì chúng ta sử dụng nó để đáp ứng những nhu cầu mà tiền không thể đáp ứng được. Như vậy nó cũng giống như bất kỳ chất gây nghiện nào khác, tạm thời làm giảm nỗi đau của một nhu cầu chưa được đáp ứng trong khi để mặc nhu cầu đó chưa thực sự được đáp ứng. Cần phải tăng liều để làm giảm đau, nhưng chẳng bao giờ có lượng nào là đủ. Ngày nay, người ta sử dụng tiền như một sự thay thế cho sự kết nối, cho sự háo hức, cho lòng tự tôn, cho tự do, và cho nhiều điều khác. “Khi nào tôi có một triệu đô la, thì tôi sẽ tự do”. Có bao nhiêu người tài năng hy sinh tuổi trẻ với mong muốn nghỉ hưu sớm để có một cuộc sống tự do, chỉ để thấy mình khi ở tuổi trung niên trở thành nô lệ của tiền? Khi chức năng chính của tiền là một phương tiện để trao đổi, nó cũng phải tuân thủ các giới hạn tương tự những loại hàng hóa mà nó được trao đổi, và ham muốn của chúng ta đối với nó bị giới hạn bởi sự thỏa mãn của bản thân. Chỉ khi tiền có thêm chức năng bổ sung như là một kho-giá-trị thì mong muốn của chúng ta đối với nó trở nên không có giới hạn. Bởi vậy tôi sẽ khai thác ý tưởng biến tiền từ kho-giá-trị thành tiền như là phương-tiện trao-đổi. Ý tưởng này có nguồn gốc cổ xưa từ Aristotle, người phân biệt giữa hai kiểu kiếm tìm sự giàu có: vì mục đích tích lũy, và vì mục đích đáp ứng các nhu cầu khác.22 Kiểu đầu tiên, ông nói, là “phản tự nhiên” và hơn nữa, không có giới hạn. Không giống như các loại hàng hóa vật chất, sự trừu tượng của tiền cho phép chúng ta, về nguyên tắc, sở hữu nó với số lượng không giới hạn. Do đó, các nhà kinh tế học dễ tin vào khả năng tăng trưởng vô hạn theo cấp số nhân, trong đó chỉ một con số đại diện cho quy mô của toàn nền kinh tế. Tổng của tất cả các hàng hóa và dịch vụ là một con số, và một con số thì làm gì có giới hạn tăng trưởng? Lạc lối trong sự trừu tượng, chúng ta phớt lờ các giới hạn của tự nhiên và văn hóa để thích ứng với sự tăng trưởng kinh tế đó. Theo gót Plato, chúng ta làm cho sự trừu tượng trở nên thực tế hơn cả hiện thực, cố định Phố Wall trong khi nền kinh tế thực đang sụp đổ. Bản chất tiền tệ của sự vật được gọi là “giá trị”, mà như một bản chất trừu tượng và thống nhất, nó làm giảm tính phong phú của thế giới. Tất cả mọi thứ đều được giảm xuống thành cái giá trị mà nó tương ứng với. Điều này tạo ra ảo tưởng rằng thế giới là vô hạn cũng như các con số. Với một mức giá nào đó, bạn có thể mua bất cứ thứ gì, thậm chí cả bộ da của một loài động vật đang bị đe dọa tuyệt chủng.23 Ẩn tàng trong cái vô hạn của tiền là một kiểu vô hạn khác: sự vô hạn trong phạm vi của con người, phần thế giới mà thuộc về con người. Sau cùng, chúng ta có thể mua và bán những gì để đổi lấy tiền? Chúng ta mua và bán tài sản, những thứ mà chúng ta sở hữu, những thứ mà chúng ta nhận thức như là thuộc về chúng ta. Công nghệ đã không ngừng mở rộng phạm vi đó, làm cho nhiều thứ trở nên sẵn có để sở hữu mà trước đây chưa bao giờ con người có thể đạt được hoặc thậm chỉ có thể nhận thức được: khoáng chất sâu trong lòng trái đất, băng thông trên phổ điện từ, các chuỗi gen. Cùng lúc với việc mở rộng phạm vi tiếp cận của công nghệ là sự tiến triển của tâm lý tài sản, khi những thứ như đất đai, quyền sử dụng nước, âm nhạc và các câu chuyện bước vào phạm trù của những thứ có thể sở hữu được. Tính không giới hạn của tiền bao hàm ý tưởng rằng phạm trù của những thứ có thể sở hữu được có thể phát triển không giới hạn, và do đó định mệnh của nhân loại là chinh phục vũ trụ, là biến mọi thứ thành của con người, là làm cho cả thế giới phải thuộc về chúng ta. Định mệnh này là một phần của những gì tôi đã miêu tả như là câu chuyện hoang tưởng về Sự Thăng Tiến, một phần của Câu chuyện về Con Người của chúng ta. Ngày nay, câu chuyện đó đang nhanh chóng trở nên lỗi thời, và chúng ta cần phải tạo ra một hệ thống tiền tệ phù hợp với câu chuyện mới sẽ thay thế nó.24 Các chức năng của tiền mà tôi đã thảo luận không nhất thiết là xấu. Bằng cách giúp đồng nhất hóa hoặc chuẩn hóa tất cả những gì nó chạm tới, bằng cách phục vụ như một phương tiện phổ quát, tiền đã cho phép con người đạt được nhiều kỳ quan. Tiền đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh công nghệ, nhưng có lẽ, cũng như với công nghệ, chúng ta gần như mới chỉ bắt đầu học cách sử dụng công cụ sáng tạo mạnh mẽ này cho mục đích thực sự của nó. Tiền đã thúc đẩy sự phát triển của những thứ tiêu chuẩn như các bộ phận máy móc và vi mạch – nhưng liệu chúng ta có muốn thực phẩm của chúng ta cũng đồng nhất không? Sự phi cá nhân của tiền tạo điều kiện cho sự hợp tác giữa những khoảng cách xã hội rộng lớn, giúp phối hợp sức lao động của hàng triệu người mà hầu hết là những người xa lạ với nhau – nhưng liệu chúng ta có muốn mối quan hệ của mình với những người hàng xóm cũng không có tính cá nhân? Tiền như là phương tiện phổ quát cho phép chúng ta làm được gần như mọi thứ, nhưng liệu chúng ta có muốn nó cũng là một phương tiện độc quyền, đến mức mà nếu không có nó thì chúng ta gần như là không thể làm gì? Đã đến lúc chúng ta phải làm chủ công cụ này, khi mà nhân loại bước vào một vai trò mới có ý thức, có chủ đích trên trái đất này. CHƯƠNG 4: RẮC RỐI VỚI TÀI SẢN Kết quả trên chính thiên đường sẽ là gì nếu những người đến đó đầu tiên đã thiết lập tài sản tư trên bề mặt thiên đường, và phân chia nó dưới sự sở hữu tuyệt đối giữa họ với nhau, giống như chúng ta đang chia chác bề mặt trái đất? – Henry George Con người không tạo ra trái đất, và, dù anh ta có quyền cơ bản tự nhiên để chiếm cứ nó, nhưng anh ta không có quyền xem bất kỳ phần nào của nó như tài sản cá nhân vĩnh viễn của mình; Đấng Tạo Hóa của trái đất cũng không mở một văn phòng nhà đất để phát hành những chứng từ sở hữu ban đầu. – Thomas Paine HAM MUỐN SỞ HỮU Chúng ta đã và đang sống trong thời đại của Sự Chia Cắt. Từng mối liên kết của chúng ta với cộng đồng, với thiên nhiên và với nơi chốn đã tan rã, bỏ chúng ta lại trong một thế giới xa lạ. Việc mất đi các mối liên kết này không chỉ là sự giảm sút về sự giàu có của chúng ta, mà nó còn là sự giảm sút của chính bản thể chúng ta. Sự bần cùng mà chúng ta cảm nhận, khi bị cắt đứt khỏi cộng đồng và tự nhiên, là một sự bần cùng trong tâm hồn chúng ta. Đó là vì, trái với các giả thuyết kinh tế, sinh học, triết học chính trị, tâm lý học, và tôn giáo mang tính thể chế, chúng ta về cơ bản không phải là những hữu thể tách biệt có quan hệ với nhau. Chúng ta chính là các mối quan hệ. Tôi đã từng nghe Martín Prechtel nói về ngôi làng của ông ở Guatemala như sau: “Trong làng tôi, nếu bạn đưa đứa con bị bệnh đến chỗ thầy thuốc, bạn sẽ không bao giờ nói: “Tôi khỏe mạnh, nhưng con tôi bị bệnh”. Bạn sẽ nói: “Gia đình tôi bị bệnh”. Hoặc nếu bạn đưa tới một người hàng xóm, bạn sẽ nói: “Làng tôi bị bệnh”. Không nghi ngờ gì nữa, trong một xã hội như vậy, người ta không thể nào nói rằng: “Tôi khỏe mạnh, nhưng rừng cây lại ốm yếu”. Việc nghĩ rằng ai đó có thể khỏe mạnh trong khi gia đình của họ, làng của họ, hoặc đất đai, nước hoặc hành tinh này không khỏe, thì cũng vô lí như khi ta nói: “Tôi mắc căn bệnh gan chết người, nhưng đó chỉ là gan của tôi – còn tôi thì khỏe mạnh!” Cũng như ý thức của tôi về bản thân bao gồm gan của tôi, thì ý thức của họ về bản thân bao gồm cộng đồng xã hội và thiên nhiên của họ. Ngược lại, cái tôi hiện đại là một chủ thể rời rạc và tách biệt trong một vũ trụ Khác. Cái tôi này là con người kinh tế của Adam Smith; nó là linh hồn nằm trong thể xác trong tôn giáo; nó là cái gen ích kỷ trong ngành sinh học. Nó là nền tảng của tất cả các cuộc khủng hoảng trong thời đại của chúng ta, tất cả đều là những biến thể của chủ đề tách biệt – tách biệt khỏi tự nhiên, khỏi cộng đồng, khỏi những phần đã mất của chính chúng ta. Nó đứng đằng sau những thủ phạm thường bị đổ tội cho sự phá hủy tiếp tục diễn ra của các hệ sinh thái và hệ thống chính trị, mà lòng tham của con người hay chủ nghĩa tư bản là ví dụ. Ý thức về bản thân của chúng ta đòi hỏi: “Nhiều hơn cho tôi là ít hơn cho bạn”; do đó chúng ta có một hệ thống tiền tệ dựa trên lãi suất, biểu hiện chính xác cho nguyên tắc trên. Trong các xã hội dựa trên quà tặng ngày xưa, vế ngược lại mới đúng đắn. Ham muốn sở hữu lớn dần như một phản ứng tự nhiên đối với một ý thức hệ xa lạ khiến cho các mối liên hệ bị cắt đứt và đẩy chúng ta vào tình trạng cô độc trong vũ trụ. Khi chúng ta loại trừ thế giới khỏi bản thân, thì cái danh tính nhỏ bé, cô đơn còn lại có một nhu cầu ngấu nghiến đòi bồi thường càng nhiều càng tốt cho những mất mát của chính mình. Nếu cả thế giới, cả cuộc sống và trái đất này, không còn là tôi nữa, thì ít nhất tôi cũng có thể bù đắp cho bản thân bằng cách làm cho thế giới này trở thành của tôi. Các cá thể tách biệt khác cũng làm như vậy, vì vậy chúng ta sống trong một thế giới của sự cạnh tranh và nỗi lo lắng hiện hữu ở khắp nơi. Điều này ăn sâu vào trong chính cách chúng ta định nghĩa bản thân. Chúng ta được sinh ra trong sự thiếu hụt – thiếu hụt trong sự hiện hữu, thiếu hụt trong tâm hồn. Bị mắc kẹt trong logic về tôi và của tôi, chúng ta tìm cách bù đắp một phần nhỏ cho sự giàu có mất mát của bản thân bằng cách bành trướng và bảo vệ cái tôi tách biệt cũng như sự mở rộng của nó – tiền bạc và tài sản. Những người thiếu phương tiện kinh tế để thổi phồng cái tôi thì thay vào đó thường thổi phồng cái tôi thể chất, đó là một trong những lý do tại sao bệnh béo phì đày đọa người nghèo1 một cách không cân xứng như vậy. Nghiện mua sắm, nghiện tiền, và nghiện tích trữ phát sinh từ cùng một vấn đề cơ bản giống như các chứng nghiện ăn: cả hai đều bắt nguồn từ sự cô đơn, từ nỗi đau chỉ đơn thuần hiện hữu bị cắt đứt khỏi phần lớn những gì là bản chất của chúng ta. Khi nhìn vào những hầm mỏ lộ thiên và những khu vực nơi cây cối bị chặt sạch, những miền chết chóc, nạn diệt chủng và văn hóa người tiêu dùng xấu xí, chúng ta tự hỏi: gốc gác của cỗ máy tàn ác này là gì mà nó ngốn hết mọi điều đẹp đẽ và nhổ ra tiền như vậy? Cái tôi rời rạc và tách biệt, khi quan sát một vũ trụ mà về cơ bản là Thứ Khác, thì một cách tự nhiên sẽ đối xử với thế giới tự nhiên và con người như một đống công cụ, đồ đạc thứ yếu. Phần còn lại của thế giới về cơ bản là không-phải-ta.2 Tại sao chúng ta phải quan tâm đến điều này, thứ mà vượt ngoài những tiện ích mà chúng ta có thể nhìn thấy trước? Do đó, chính Descartes, người tiên phong trong việc phát triển khái niệm hiện đại về cái tôi, đã phát triển cả khái niệm về tham vọng trở thành “chúa tể và người sở hữu” thiên nhiên. Như từ “người sở hữu” ngụ ý, ý tưởng về “sở hữu tài sản” hình thành khá tự nhiên đối với những cái tôi tách biệt. Sự phân biệt cứng nhắc và hạn hẹp của chúng ta giữa “ta và những thứ khác” đang sắp đến hồi kết thúc, nó là nạn nhân của giả thuyết của chính nó. Như các nhà huyền học đã dạy, cái tôi tách biệt chỉ có thể được duy trì tạm thời và với chi phí đắt đỏ. Chúng ta đã duy trì nó một thời gian dài, và đã xây dựng cả một nền văn minh dựa trên nền tảng đó, nền văn minh mà luôn tìm cách chinh phục thiên nhiên và bản chất con người. Sự hội tụ của các cuộc khủng hoảng hiện tại đã lột trần sự vô ích của mục tiêu đó. Nó báo trước sự kết thúc của nền văn minh mà chúng ta biết, và báo trước một trạng thái mới của sự hiện hữu của con người mà được định nghĩa bằng một ý thức về cái tôi linh động hơn, bao quát hơn. Một lý thuyết về nguồn gốc của tài sản liên hệ nó với khái niệm về sự tự trị, hay quyền tự chủ, khái niệm này xuất hiện chậm rãi từ quá khứ cộng đồng bộ lạc của chúng ta. Charles Avila mô tả logic đó theo cách này: “Nếu tôi tự lập, và sức lao động của tôi thuộc về tôi, thì những gì tôi làm là của tôi.”3 Để rồi từ đây nảy sinh một điều kiện tiên quyết về ý thức hệ cho bất kỳ khái niệm nào về tài sản, là “Tôi tự lập”, điều này hoàn toàn không phải là một quy tắc phổ quát trong các xã hội của loài người. Trong các kiểu xã hội khác, gia tộc, bộ lạc, làng xóm, hoặc thậm chí cộng đồng của tất cả mọi sinh linh có thể chiếm ưu tiên hơn so với nhận thức cá nhân về cái tôi, mà ở đó sức lao động của bạn không thuộc về bạn, mà thuộc một cái gì đó lớn lao hơn.4 Do đó, định chế tài sản không phải là gốc rễ của căn bệnh hiện tại của chúng ta, mà là một triệu chứng của sự ngắt kết nối và cô lập của chúng ta. Vậy nên, cuốn sách này không tìm cách xóa bỏ tài sản (vì làm như vậy sẽ giải quyết các triệu chứng chứ không phải nguyên nhân) mà tìm cách chuyển hóa nó thành một phần trong một sự chuyển hóa lớn hơn của sự hiện hữu của loài người. Những nhà tư tưởng khác, đặc biệt là Wilhelm Reich và Genevieve Vaughan, liên hệ nguồn gốc tài sản với sự xuất hiện của sự thống trị của nam giới và xã hội phụ hệ.5 Mặc dù tôi tin rằng những lập luận này có giá trị, tôi lựa chọn không khai thác những khía cạnh về giới của tiền bạc và tài sản – một chủ đề xứng đáng có luận thuyết riêng. Mỗi tổ chức của Thời Đại Chia Cắt của chúng ta đều gắn liền với tất cả những tổ chức khác; sự chia cắt khỏi thiên nhiên, cơ thể, và tính nữ tính thiêng liêng vang vọng với sự xa rời khỏi thế giới mà tài sản làm cho tất cả mọi thứ trở thành các đối tượng tách riêng của thương mại. Ham muốn sở hữu giảm đi khi cảm giác kết nối và lòng biết ơn của chúng ta tăng lên, và chúng ta nhận ra sức lao động của chúng ta không phải của riêng chúng ta, những gì tôi làm nên không hẳn là của tôi. Chẳng phải khả năng lao động của tôi, và chính sự sống của tôi, là một món quà hay sao? Trong nhận thức đó, chúng ta mong muốn cho đi những sáng tạo của mình tới tất cả những gì đã đóng góp vào sự hiện hữu của chúng ta và ban cho chúng ta món quà của sự sống. Một số triết gia theo chủ nghĩa xã hội đã biến mong muốn được thúc đẩy bởi lòng biết ơn này thành một nghĩa vụ và thành một sự biện minh cho việc nhà nước trưng dụng công sức lao động cá nhân. Chúng ta mắc một “món nợ với xã hội”, và nhà nước trở thành người thu nợ. Trong hình thức ít cực đoan hơn, nó biện minh cho thuế thu nhập – cũng là sự trưng dụng công sức lao động cá nhân. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều bị ép buộc phải cho đi. Liệu chúng ta có thể tạo ra một hệ thống kinh tế mà sẽ giải phóng, tán dương, và khen ngợi mong muốn cho đi bẩm sinh? Đó là những gì cuốn sách này mô tả: một hệ thống đền đáp cho sự lưu thông chứ không phải sự tích lũy, tạo ra nhưng không sở hữu, cho đi và không giữ làm của riêng. VỤ CƯỚP ĐẦU TIÊN Chủ quyền của cá nhân là bước đầu tiên hướng tới khái niệm hiện đại về tài sản, vì hầu hết mọi thứ trên trái đất không phải là sản phẩm lao động của bất kỳ ai. Theo logic “những gì tôi làm ra là của tôi”, bất cứ thứ gì tồn tại độc lập với nỗ lực con người đều có thể không thuộc về ai. Việc tuyên bố quyền sở hữu của một thứ như vậy – đất, sông, động vật, cây cối – tương đương với hành động ăn cắp, cũng như việc tôi sẽ là một tên trộm nếu tôi nắm giữ quyền sở hữu một thứ mà bạn làm ra. Một dòng suy nghĩ kinh tế nổi bật đã phát sinh từ nhận thức này, nhận được các diễn giải nổi bật từ P.J Proudhon, Karl Marx, Henry George và Silvio Gesell. Proudhon tuyên bố: “Tài sản là ăn cắp”; khi truy tìm nguồn gốc của bất kỳ tài sản nào được sở hữu thông qua một loạt các chuyển nhượng “hợp pháp”, chúng ta cuối cùng cũng đến được với chủ sở hữu đầu tiên – người mà đơn giản chỉ chiếm nó, người mà tách nó ra khỏi phạm trù “của chúng ta” hay “của Thượng Đế” và đưa vào phạm trù “của tôi”. Thường thì điều này xảy ra bằng vũ lực, như trong việc chiếm đoạt các vùng đất mênh mông trên toàn Bắc Mỹ trong ba thế kỷ qua. Câu chuyện này đã tự diễn ra dưới nhiều hình thức suốt hàng thiên niên kỷ trên toàn thế giới. Xét cho cùng, trước thời La Mã, hành động tương tự không hề tồn tại. Đất đai giống như không khí và nước; nó không thể được sở hữu. Những chủ sở hữu đầu tiên do đó không thể có được nó một cách hợp pháp. Chắc chắn họ đã chiếm nó. Người ta thường lập luận rằng quyền sở hữu đất đai là kết quả tự nhiên của nông nghiệp. Trong khi người săn bắt hái lượm đã hầu như không làm gì với đất của mình, thì nông dân đã lao động trên mảnh đất để khiến nó năng suất hơn (trong việc tạo thức ăn cho người). Rõ ràng là không công bằng nếu người nông dân phải lao động cả năm chỉ để “người hái lượm” đến vào mùa thu hoạch và “sống khỏe” từ các sản phẩm thu hoạch được. Tư hữu đất đai lẽ ra là để khích lệ người ta cải thiện đất. Nhưng có công bằng hơn không nếu người ta chỉ sở hữu sự cải thiện đó thôi chứ không sở hữu chính mảnh đất? Ban đầu, quyền sử dụng đất hầu như luôn luôn là quyền chung của cả làng hoặc bộ lạc, chứ không phải của cá nhân nào. Trong các nền văn minh nông nghiệp vĩ đại như Ai Cập, Mesopotamia, và Nhà Chu – Trung Quốc, có rất ít khái niệm về quyền sở hữu tư nhân. Tất cả đất đai là tài sản của nhà vua, và vì vua là đại diện của Thượng Đế trên mặt đất, nên tất cả đất đai đều là tài sản của Thượng Đế. Có một sự khác nhau lớn về mặt khái niệm giữa việc có quyền hưởng lợi từ lao động của mình trên một mảnh đất và việc sở hữu chính mảnh đất đó. Ở phương Tây, khái niệm tuyệt đối về quyền sở hữu đất dường như bắt nguồn từ Rome, có khả năng phát sinh từ quan niệm của người Hy Lạp về cá nhân. Chính ở Rome, lần đầu tiên đất đai được đặt dưới cái mà họ gọi là dominium, “quyền tối thượng, quyền mà không có quyền nào lớn hơn, quyền hợp pháp hóa tất cả những quyền khác, trong khi tự nó không cần phải phải hợp pháp… quyền ‘sử dụng, sở hữu, và lạm dụng’ – iusutendi, fruendi, abutendi”.6 Ở phương Đông, việc sở hữu đất đai công khai đã bắt đầu sớm hơn phần nào, ít nhất là trên khái niệm. Ở Trung Quốc, ít nhất là nó xuất hiện từ thời trị vì của Thương Ưởng vào thế kỷ thứ tư TCN và có thể trước đó, mặc dù thậm chí khoảng thời gian trước khi có sự tư hữu đất đai vẫn là vấn đề về ký ức lịch sử, chỉ biết rằng, theo lời Nho giáo, việc bán đất là không được phép vào “thời xa xưa”.7 Ấn Độ có lẽ cũng biết đến tư hữu đất đai vào thế kỷ thứ sáu TCN, mặc dù các bằng chứng có phần mâu thuẫn.8 Trong bất kỳ trường hợp nào, đa số đất ở Ấn Độ thuộc sở hữu chung của cộng đồng cho đến thời kỳ cai trị bởi Anh.9 Ở Châu Âu thời Trung Cổ, phần lớn đất đai được sở hữu hoặc bởi cộng đồng hoặc bởi các vua chúa phong kiến, những người không “sở hữu” đất đai theo đầy đủ nghĩa hiện đại, tức là coi đất đai như một thứ hàng hóa có thể được mua bán tự do. Họ có một số quyền nhất định đối với đất đai, mà có thể chuyển giao cho các chư hầu để đổi lấy nhiều dịch vụ, chia phần mùa vụ, và cuối cùng là tiền. Tại Anh, việc chuyển nhượng đất đai tự do nói chung tồn tại cho đến thế kỷ mười lăm.10 Sau đó, các vùng đất chung rộng lớn của Anh Quốc nhanh chóng trở thành tài sản tư nhân nhờ vào Enclosure Acts (quyết định của Quốc hội Anh nhằm quây hàng rào các cánh đồng mở và các vùng đất chung – ND), một quá trình song song trên khắp lục địa, ví dự thông qua “sự giải phóng” nông nô. Lewis Hyde viết, Trong khi trước kia một người có thể đánh bắt cá ở bất cứ dòng suối nào và săn bắt ở bất cứ cánh rừng nào, thì giờ đây có anh ta nhận ra có những cá nhân đã tuyên bố là chủ nhân của những tài nguyên chung này. Về cơ bản sự hưởng dụng đất đã thay đổi. Người nông nô thời trung cổ gần như trái ngược với địa chủ: đất đai sở hữu họ. Anh ta không thể di chuyển tự do từ nơi này đến nơi khác, nhưng anh ta có quyền không thể chuyển nhượng đối với mảnh đất mà anh ta gắn bó. Giờ đây có những người tuyên bố là chủ sở hữu đất và đem cho thuê kèm theo một khoản phí. Trong khi một người nông nô không thể bị đuổi khỏi mảnh đất của mình, thì người thuê đất có thể bị đuổi ra khỏi mảnh đất không chỉ vì không trả nổi tiền thuê mà còn đơn thuần theo ý muốn nhất thời của chủ đất.11 Cũng như với nhiều cải cách xã hội, việc giải phóng nông nô là một bước nữa trong tiến trình củng cố quyền lực kinh tế và chính trị trong tay những người đã nắm quyền lực. Bằng cách này hay cách khác, những người mà có nhiều thế hệ đã tự do chăn thả gia súc, gom nhặt củi đốt, và săn bắt trên những vùng đất xung quanh họ thì không thể tiếp tục như vậy nữa.12 Những vùng đất này từng là tài nguyên chung, của tất cả và không của riêng ai. Vĩnh viễn về sau, chúng trở thành tài sản tư hữu. Nếu tài sản là ăn cướp, thì một hệ thống pháp luật dành riêng cho việc bảo vệ quyền sở hữu tư nhân đó là một hệ thống dựng lên để duy trì một tội ác. Bằng việc làm cho quyền tư hữu đất đai trở thành bất khả xâm phạm, chúng ta xác nhận hành động ăn cắp ban đầu là hợp lệ. Không quá ngạc nhiên khi các luật lệ được tạo ra bởi chính những kẻ trộm để hợp thức hóa những lợi ích bất chính của họ. Đó thực sự là tình huống ở Rome và những nơi khác, người giàu và người có quyền lực chính là những người đã chiếm đất và soạn luật. Để người đọc không nghĩ rằng tôi đang công kích chủ nghĩa Marx, hãy để tôi nhanh chóng thêm rằng tôi không ủng hộ việc bãi bỏ tư hữu đất đai. Vì một điều rằng việc bãi bỏ liên quan đến một sự thay đổi mạnh mẽ, đột ngột, có thể gây xung đột mạnh mẽ, thứ mà bị áp đặt một cách cưỡng chế lên những người không sẵn sàng từ bỏ. Thứ hai, tư hữu đất chỉ là một triệu chứng của căn bệnh sâu xa hơn (sự Chia Cắt), và nếu chúng ta giải quyết triệu chứng đó bằng tâm lí của sự chia cắt, của chinh phục, của vượt qua cái ác, chúng ta vẫn sẽ tạo ra những điều bất công nhưng dưới hình thức khác. Cuối cùng, ngay cả trong cấp độ kinh tế, vấn đề không phải là sự tư hữu đất mà là những lợi ích không công bằng từ việc sở hữu nó. Mặc dù một người được hưởng lợi chỉ vì sở hữu những gì đã từng của chung là sai trái, nhưng tất cả mọi người đều hưởng lợi khi các nguồn tài nguyên hướng đến những người biết cách sử dụng chúng tốt nhất. Những tài nguyên chung này bao gồm đất đai, đất trồng trọt, khoáng chất, tầng chứa nước, và khả năng hấp thụ chất thải của khí quyển. Chúng ta cần một hệ thống kinh tế mà không cho phép lợi nhuận-do-sở-hữu nhưng vẫn tặng thưởng cho doanh nhân có tinh thần “Tôi biết cách để sử dụng nó tốt hơn” và cho phép tinh thần đó tự do tạo tác. Các hệ thống theo chủ nghĩa Marx không những loại trừ lợi nhuận bằng cách kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên khan hiếm; mà họ còn loại bỏ lợi nhuận từ việc sử dụng có hiệu quả những nguồn tài nguyên đó. Kết quả là sự không hiệu quả và trì trệ. Liệu chúng ta có thể thưởng cho những người có thể sử dụng các nguồn tài nguyên một cách tốt nhất mà không ghi nhận sự thật đơn thuần về quyền sở hữu? Cuốn sách này miêu tả một hệ thống tiền mà sẽ bảo vệ sự tự do của việc tư hữu đất nhưng không cho phép chủ sở hữu tích lũy những lợi ích không công bằng. Bất cứ nơi nào và bất cứ khi nào nó xảy ra, việc tư nhân hóa đất đai nhanh chóng mang theo với nó một sự tập trung quyền sở hữu. Trong những ngày đầu La Mã cổ đại, đất đai là tài nguyên chung (không phải của cá nhân), ngoại trừ một mảnh đất nhỏ của gia đình: “Đất trồng ngô thuộc quyền sử dụng của cộng đồng”.13 Khi Rome mở rộng thông qua viễn chinh, những vùng đất mới đã không còn là “của cộng đồng” mà sớm rơi vào tay những gia đình giàu có nhất – tầng lớp quý tộc, việc này đặt ra chuẩn mực cho nhiều thế kỷ tiếp theo đó. Điền trang của họ tăng lên gây thiệt thòi cho các thái ấp dưới toàn quyền sử dụng bởi tầng lớp bình dân, chủ các thái ấp thường được triệu hồi phục vụ trong quân đoàn, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể cạnh tranh kinh tế với lao động nô lệ rẻ mạt ở các điền trang quý tộc. Họ dồn các khoản nợ không thể trả được, và bởi vì đất đai đã trở thành một thứ hàng hóa có thể chuyển nhượng, nên họ bị buộc phải rời bỏ nhà cửa để bắt đầu ăn xin, cướp bóc, hoặc làm nghề thủ công ở thành thị nếu may mắn. Khi vận mệnh của Đế chế thay đổi và nguồn cung nô lệ đã cạn kiệt, nhiều địa chủ lớn đã hướng sang nông dân tá điền, được gọi là coloni, để yêu cầu họ trồng trọt trên cánh đồng của mình. Bị ràng buộc bởi các khoản nợ, những tá điền này cuối cùng đã trở thành những người nông nô Trung cổ. Hãy suy nghĩ về nó theo cách này: nếu bạn nợ tôi một khoản nợ không thể trả được, thì bạn có nghĩa vụ phải trả mức nhiều nhất mà bạn có thể. Số tiền thu được từ sức lao động của bạn sẽ thuộc về tôi mãi mãi về sau. Điều này rất giống với luật phá sản tại Mỹ được ban hành trong Bộ luật “Cải cách” Phá sản năm 2005, luật này bắt buộc người tuyên bố phá sản phải trích một khoản lương tương lai để trả cho chủ nợ.14 Nó cũng tương tự như hoàn cảnh khốn cùng của các nước thế giới thứ ba, khi họ bị buộc phải cơ cấu lại nền kinh tế của họ và hiến toàn bộ thặng dư kinh tế để trả nợ vĩnh viễn. Đây là những bản sao hiện đại của tầng lớp nông nô, bị buộc làm việc cho các chủ sở hữu tiền giống như những nông nô làm việc cho địa chủ. Tình trạng của họ được gọi là “lấy công trả nợ”. Sự tương đồng lớn giữa La Mã cổ đại và ngày nay thật đáng chú ý. Bây giờ cũng như hồi đó, của cải đang ngày càng tập trung vào tay của số ít. Bây giờ cũng như hồi đó, người ta phải mắc nợ suốt đời chỉ để tiếp cận những nhu yếu phẩm cho cuộc sống. Trước đây, nó thông qua tiếp cận đất đai; ngày nay nó là thông qua tiếp cận với tiền. Nô lệ, nông nô, và tá điền lao động suốt đời để làm giàu cho chủ đất; ngày nay số tiền thu được từ sức lao động của chúng ta rơi vào tay những người chủ sở hữu tiền. Trong lịch sử của tư tưởng cấp tiến, việc nhận ra tài sản là một hành động cướp bóc thường đi kèm với cơn thịnh nộ và mong muốn trả thù những kẻ cướp. Tuy nhiên, các vấn đề không đơn giản như vậy. Các chủ sở hữu của cải, dù được kế thừa hay không, sinh ra trong vai trò được tạo ra và đòi hỏi bởi những câu chuyện vô hình của nền văn minh chúng ta mà buộc chúng ta biến thế giới này thành tài sản và tiền bạc dù chúng ta có ý thức rằng bản thân đang làm như vậy hay không. Chúng ta hãy đừng lãng phí năng lượng tâm linh của mình vào việc ghen ghét những người giàu có, hoặc thậm chí cả những kẻ cướp đầu tiên. Nếu ở trong vị trí của họ, chúng ta cũng sẽ thực hiện vai trò tương tự. Thật vậy, hầu hết chúng ta, bằng cách này hay cách khác, vẫn tham gia vào hành vi ăn cắp các tài nguyên chung đang tiếp diễn. Chúng ta đừng ghét, để chúng ta không tiếp tục kéo dài Kỷ nguyên của Sự Chia Cắt nữa và để chúng ta, tránh giống như những người Bolshevik, sẽ không gây ra một cuộc cách mạng không đủ sâu, và do đó không tái tạo lại trật tự cũ theo một hình thức méo mó khác. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên nhìn vào thiên nhiên và hậu quả của tội ác vô thức từ tài sản, để chúng ta có thể đưa thế giới trở lại trạng thái trù phú tiềm tàng ban đầu. Sự chuyển đổi từ quyền được hưởng lợi ích sang quyền sở hữu hoàn toàn đất đai là một bước chuyển dần dần, mà điểm cuối cùng là việc bán đất để lấy tiền. Chúng ta hãy nhớ rằng đây là một sự chuyển đổi về mặt khái niệm (đất đai không thừa nhận là nó được sở hữu), một sự phóng chiếu của con người lên thực tại. Sở hữu đất (và tất nhiên là tất cả các hình thức sở hữu) nói lên nhận thức của chúng ta về thế giới nhiều hơn là nói về bản chất của thứ được sở hữu. Sự chuyển đổi từ những ngày đầu, khi quyền sở hữu đất là không tưởng cũng như quyền sở hữu bầu trời, mặt trời và mặt trăng, và cho đến ngày nay, khi gần như mọi foot vuông trên trái đất đều tùy thuộc vào quyền sở hữu theo cách này hay cách khác, thực sự chỉ là câu chuyện về sự thay đổi quan điểm của chúng ta về chính chúng ta trong mối quan hệ với vũ trụ. TRUYỀN THỐNG GEORGE Sự khác biệt giữa quyền sử dụng và quyền sở hữu hoàn toàn cũng tương tự như sự khác biệt cơ bản giữa cái được sản xuất thông qua nỗ lực của con người và cái đã có sẵn; nó vẫn tồn tại ngày nay trong sự phân biệt giữa tài sản “thực” và tài sản “cá nhân”, và nó là nền tảng trong hàng ngàn năm của tư tưởng cải cách. Kể từ lúc Đế Quốc La Mã phát triển cơ sở pháp lý về quyền sở hữu như chúng ta biết ngày nay, cũng không ngạc nhiên lắm khi nó cũng tạo ra một số chỉ trích sớm nhất về tài sản. Trong thế kỷ thứ ba và thứ tư, các nhà lãnh đạo của nhà thờ Thiên Chúa giáo có quan điểm đặc biệt rõ ràng rằng mọi thứ trên trái đất là dành cho tất cả để chia sẻ với nhau. Ambrose viết, “người giàu cũng như người nghèo đều thích thú với những món trang sức lộng lẫy từ vũ trụ… Nhà của Đức Chúa Trời là dành cho cả người giàu và người nghèo”, và “Chúa Trời của chúng ta muốn trái đất này là sở hữu chung của tất cả và quả ngọt của nó để nuôi dưỡng tất cả”.15 Ở đâu đó ông viết rằng tài sản cá nhân là không thuận theo tự nhiên, vì tự nhiên đã sinh ra vạn vật để dành cho mọi người sử dụng chung. Chúa Trời đã tạo ra mọi thứ theo cách mà chúng được sở hữu chung. Bởi vậy thiên nhiên là mẹ của quyền chung, sự soán ngôi của quyền sở hữu cá nhân.16 Những người sáng lập đạo Thiên Chúa khác, điển hình là John Chrysostom, Augustine, Basil Vĩ nhân và Clement, cân nhắc các quan điểm tương tự, họ khuyến khích các con chiên thực hiện lời dạy của Chúa Jesus theo nghĩa đen và đem tất cả tài sản của họ cho người nghèo. Triết lý của họ không phải là một triết lý xa vời khi nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đã làm đúng như thế. Ambrose, Basil, và Augustine từng là những người giàu có trước khi bước vào giới tăng lữ, và họ đã cho đi tất cả. Tuy những lời dạy của những người sáng lập là thế, nhưng cuối cùng bản thân Giáo hội đã giành lấy một lượng của cải đáng kể và liên minh với quyền lực đế quốc. Lời dạy của Chúa Jesus đã trở thành những lý tưởng cho cảnh giới khác, không thể dùng để khuyên bảo ai một cách nghiêm túc, và Vương Quốc của Thiên Chúa đã được vận chuyển từ trái đất lên Thiên Đàng. Đây là một bước quan trọng trong việc chia cắt tinh thần và vật chất về mặt khái niệm, mà chính sự chia cắt này góp phần làm cho vật chất ngày nay, đặc biệt là tiền, trở nên trần tục. Trớ trêu hơn là, hầu hết con người ngày nay tự xưng là tín đồ Thiên Chúa giáo đã đảo lộn mọi thứ và liên kết chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa vô thần và sự giàu có cá nhân đồng nghĩa với sự sủng ái của Thiên Chúa. Những người thành lập Giáo Hội thời kỳ đầu thường nhắc đến sự phân biệt giữa những gì con người tạo ra thông qua nỗ lực của họ và những gì được trao cho nhân loại bởi Chúa Trời để mọi người cùng dùng chung. Nhiều nhà phê bình xã hội và kinh tế trong vài thế kỷ qua đã nhắc lại sự phẫn nộ ban đầu về vấn đề chiếm đoạt các tài nguyên chung và đưa ra các đề xuất sáng tạo để sửa chữa nó. Thomas Paine, một nhà phê bình như vậy, đã viết, Và vì không thể tách riêng sự cải tạo được tạo ra bởi hoạt động canh tác khỏi chính mảnh đất mà trên đó sự cải tạo được thực hiện, nên ý tưởng về tài sản đất phát sinh từ sự kết nối không thể tách rời đó; nhưng điều này vẫn đúng, rằng chỉ giá trị của sự cải tạo, chứ không phải mảnh đất, là thuộc về tài sản cá nhân… Do đó, mỗi người chủ sở hữu đất canh tác đều nợ cộng đồng một khoản tiền thuê đất (vì tôi không biết thuật ngữ nào hơn để diễn tả ý tưởng này tốt hơn) đối với mảnh đất mà anh ta nắm giữ.17 Nhà kinh tế học đầu tiên phát triển ý tưởng này một cách đầy đủ là Henry George, trong cuốn sách kinh điển của ông năm 1879 “Tiến bộ và Nghèo đói” (Progress and Poverty). Ông bắt đầu với một tiền đề giống như Paine và những người Thiên Chúa giáo đầu tiên: Nhưng ai đã tạo ra trái đất mà lại có người có thể đòi quyền sở hữu nó, hoặc bất kỳ phần nào của nó, hoặc quyền cho, bán hoặc truyền lại? Bởi vì trái đất không do chúng ta tạo ra, mà chỉ là nơi cư ngụ tạm thời của một thế hệ tiếp nối một thế hệ khác; vì chúng ta ở đây, rõ ràng là dưới sự cho phép bình đẳng của Đấng Tạo Hóa, nên hiển nhiên rằng không ai có thể có độc quyền sở hữu đất đai, và quyền của tất cả mọi người đối với đất đai phải bình đẳng và không thể chuyển nhượng được. Phải có độc quyền sở hữu đất đai, vì người sử dụng nó phải có quyền sử hữu đất an toàn để gặt hái thành quả lao động của mình. Nhưng quyền sử dụng đất của anh ta phải bị hạn chế bởi quyền bình đẳng của tất cả mọi người, và do đó phải đi kèm điều kiện rằng người sử dụng sẽ trả cho cộng đồng một khoản tiền tương đương với các đặc quyền có giá trị mà anh ta được hưởng từ việc sử dụng đất.18 Tại sao lại có chuyện một người thu lợi từ giá trị sử dụng của đất chỉ bằng việc sở hữu nó, đặc biệt là khi nguồn gốc của quyền sở hữu đó dựa trên một sự bất công từ xa xưa? Theo đó, Henry George đã đề xuất Thuế Duy Nhất (Single Tax) nổi tiếng – tiền thu về từ “tô kinh tế” từ đất sẽ bị đánh thuế 100%. Điều này sẽ được thực hiện thông qua một loại thuế đánh vào giá trị của đất chứ không phải cải tạo trên đó; ví dụ, đất đai bị đánh thuế chứ không phải các tòa nhà xây hoặc cây trồng. Nó được gọi là “duy nhất” bởi George chủ trương bãi bỏ tất cả các loại thuế khác, lập luận rằng việc đánh thuế các tài sản cá nhân hợp pháp thì cũng giống như một hành động cướp bóc, tương tự như việc trục lợi từ một thứ thuộc tài nguyên chung. Các bài viết của George đã châm ngòi cho một phong trào chính trị rộng lớn giúp ông suýt được bầu vào chức thị trưởng New York, nhưng tất nhiên, thế lực đằng sau đồng tiền đã chống lại ông ở mọi hướng.19 Thỉnh thoảng ở một số nơi trên thế giới, ý tưởng của ông được áp dụng (hai nơi tôi đã dành phần lớn cuộc đời mình là Đài Loan và Pennsylvania đều đánh thuế vào giá trị cơ bản của đất) và đã ảnh hưởng lớn lao đến tư duy kinh tế. Một trong những người ngưỡng mộ ông, Silvio Gesell, đã đề xuất một ý tưởng gần tương tự như thuế đất của George: quyền sở hữu công tất cả các loại đất, có sẵn để cho tư nhân thuê với mức xấp xỉ với tô kinh tế.20 Lý luận của Gesell rất thuyết phục và mang tính tiên phong trong cách hiểu về sinh thái học và bản thể kết nối. Hãy đọc đoạn văn đặc biệt được viết năm 1906 này: Chúng ta thường nghe câu nói: Con người có quyền tự nhiên đối với trái đất. Nhưng điều này là ngớ ngẩn, vì nó chẳng khác gì câu nói: con người có quyền tự nhiên với chân tay của anh ta. Nếu chúng ta nói về các quyền theo sự kết nối này, chúng ta cũng phải nói rằng cây thông có quyền cắm rễ của nó vào trong đất. Liệu con người có thể sống cả đời trong bóng bay được không? Trái đất thuộc về, và là một phần tự nhiên của con người. Chúng ta không thể tưởng tượng một người sống mà không có trái đất hơn là không có đầu hoặc dạ dày. Trái đất là một phần, một cơ quan của con người, cũng giống như cái đầu vậy. Các cơ quan tiêu hóa của một người bắt đầu và kết thúc ở đâu? Chúng không có điểm bắt đầu và không có điểm kết thúc, mà tạo thành một hệ thống khép kín mà không có khởi đầu hay kết thúc. Những chất mà con người cần để duy trì sự sống không thể tiêu hóa nổi khi ở dạng thô và chúng phải trải qua một quá trình chuẩn bị cho tiêu hóa. Và công việc chuẩn bị này không diễn ra ở miệng của con người, mà ở các loài cây cỏ. Cây cỏ thu thập và chuyển đổi các chất để chúng có thể trở thành chất dinh dưỡng để tiếp tục hành trình qua kênh tiêu hóa. Cây cỏ và không gian mà trong đó chúng tồn tại cũng giống như một phần của con người như miệng, răng hoặc dạ dày của anh ta …. Vậy thì, làm sao chúng ta có thể chịu đựng để cho một cá nhân nào đó tịch thu nhiều phần của trái đất để làm tài sản độc quyền riêng cho mình, để xây dựng hàng rào, và với sự giúp sức của chó canh cổng và những nô lệ được huấn luyện để giữ chúng ta tránh xa khỏi các vùng đất, xa khỏi một phần của chính bản thân chúng ta – để xé nát toàn bộ các chi ra khỏi cơ thể của chúng ta? Hành động như vậy không phải tương đương với tự hủy hoại bản thân hay sao?21 Gesell tiếp tục, với lối hung biện tuyệt vời, nói rằng sự cắt xén này thậm chí còn tệ hơn cả việc cắt bỏ một bộ phận cơ thể, vì các thương tích trên cơ thể có thể lành lại, nhưng Vết thương để lại… bởi sự cắt bỏ một mảnh đất sẽ vĩnh viễn mưng mủ và không bao giờ lành. Mỗi kỳ hạn phải thanh toán tiền thuê, vào mỗi Kỳ hạn Cuối quý (Quarter Day), vết thương lại mở và “máu vàng” chảy ra. Con người chảy khô máu và lảo đảo tiền về phía trước. Việc cắt bỏ một mảnh đất khỏi cơ thể là cuộc phẫu thuật đẫm máu nhất; nó để lại một vết thương rộng miệng không thể được chữa lành trừ khi phần chi đã bị đánh cắp được ghép lại. Tôi cho rằng đây là một vết thương mà tất cả chúng ta đều cảm nhận được, không chỉ vì tiền thuê được đưa vào chi phí của mọi thứ chúng ta mua, mà còn như một sự tước đoạt quyền con người về mặt tâm linh. Cách đây không lâu tôi đang lái xe với một phụ nữ đến từ Pháp dọc những con đường nông thôn ở miền trung Pennsylvania. Những ngọn núi thoai thoải và thung lũng mênh mông như vẫy gọi chúng tôi, thế nên chúng tôi quyết định là sẽ đi bộ ở đó. Cứ như thể mặt đất đang chào mời bàn chân của chúng tôi, muốn chúng tôi bước đi trên nó. Chúng tôi quyết định tìm một chỗ để dừng xe và đi bộ. Chúng tôi lái xe suốt một giờ đồng hồ, nhưng không hề tìm thấy một cánh đồng hay mảnh rừng nào mà không được cắm những tấm biển “Cấm xâm phạm”. Mỗi lần nhìn thấy một tấm biển như vậy, tôi cảm thấy một sự nhức nhối, một nỗi mất mát. Bất cứ con sóc nào đều tự do hơn tôi, hươu cũng thế. Những biển này chỉ áp dụng với con người. Ở đây có một nguyên tắc chung: phạm trù đất đai, hàng rào bao quanh những mảnh đất chưa được sở hữu, đã và đang làm chúng ta trở nên nghèo túng. Lời hứa hẹn tự do vốn gắn liền với phong cảnh xanh tươi rộng mở đó chỉ là ảo tưởng. Lời của Woody Guthrie quá thấm thía: Có một cái tường cao và to ở đó cố chặn tôi lại. Tấm biển hiệu được sơn, nó nói rằng đây là tài sản riêng. Nhưng mặt sau nó thì chẳng có chữ gì cả. Mặt này là dành cho bạn và tôi.22 Sau ba trăm năm của bành trướng kinh tế, chúng ta trở nên nghèo nàn tới mức không có nổi sự giàu sang và tự do bằng một con sóc. Những người thổ dân da đỏ sống ở đây trước khi người châu Âu tới đã biết cách vận hành đất đai. Họ có sự tự do đơn giản để nói, “Chúng ta hãy leo lên ngọn núi đó. Chúng ta hãy bơi trong cái hồ đó. Chúng ta hãy câu cá ở dòng sông đó”. Ngày nay, ngay cả những người giàu có nhất trong chúng ta cũng không được tự do như thế. Ngay cả một khu đất trị giá hàng tỷ đô la cũng nhỏ hơn vùng lãnh địa của những người săn bắt hái lượm.23 Ở Ở hầu hết châu Âu thì khác; ví dụ, ở Thụy Điển, quyền Allemansrätt cho phép các cá nhân đi bộ, hái hoa, cắm trại trong một hoặc hai ngày, bơi lội, hoặc trượt tuyết trên đất tư nhân (nhưng không quá gần nhà ở). Tôi đã gặp một người đam mê ngựa nói miêu tả, ở Ireland, tất cả các cánh cửa dẫn vào các nông trại và các đồng cỏ tư nhân đều không bị khóa như thế nào. Ở đó không có khái niệm “xâm phạm”; đất đai rộng mở cho tất cả mọi người. Đổi lại, những người cưỡi ngựa tôn trọng nông dân và mảnh đất, chỉ đi lại ở khu vực ngoài rìa để tránh ảnh hưởng tới động vật và đồng cỏ. Khi nghe nói về hệ thống này, tôi không nghĩ rằng có bất kỳ người Mỹ nào có thể nhìn ra những khu vực rộng lớn của đất nước này với những cánh cổng, hàng rào, và các biển “không xâm phạm” mà không có cảm giác bị cầm tù hay mất mát. Bạn có thể cảm thấy “vết thương” của Gesell – rằng đất đã bị cắt rời khỏi chúng ta? Đi xa hơn George, Gesell có đóng góp to lớn trong việc áp dụng tư duy song song nhưng vượt ra ngoài đất đai để chạm tới phạm vi của tiền, tạo ra một hệ thống tiền tệ mới mà tôi sẽ miêu tả, sau khi hoàn thành các chương nền tảng, trong cuốn sách này như là một yếu tố then chốt của nền kinh tế thiêng liêng. Từng gây tranh cãi giữa những người tiến bộ trong thời đại của ông, sự khăng khăng của Henry George vào việc chỉ đánh thuế đất đã chẳng còn mấy ý nghĩa hiện nay, bởi ngày càng có rất nhiều các tài nguyên chung khác bị đưa vào phạm trù của tài sản tư.24 Việc “marketing những tài sản trước đây không thể chuyển nhượng” của Hyde đã vượt xa khỏi phạm vi đất đai để bao gồm gần như mọi thứ cần thiết cho sự tồn tại và hạnh phúc của con người. Những kết nối của chúng ta với thiên nhiên, văn hóa, và cộng đồng đã bị xé rời, chia cắt và bán lại cho chúng ta. Đến thời điểm hiện tại tôi đã tập trung vào đất đai, nhưng gần như mọi tài nguyên chung khác đều đã và đang phải chịu số phận tương tự. Tài sản trí tuệ là ví dụ rõ ràng nhất, và tiền bản quyền thu được từ việc sở hữu nó đóng một vai trò tương tự như tiền thuê đất. (Nếu bạn nghĩ rằng tài sản trí tuệ khác với đất đai vì nó là do con người tạo ra, hãy đọc tiếp!) Nhưng có một hình thức sở hữu mà bao gồm và thay thế mọi hình thức sở hữu khác là: quyền sở hữu tiền. Trong lĩnh vực tài chính, lãi suất đóng vai trò như tiền bản quyền và tiền thuê đất, nó đảm bảo rằng của cải tạo ra từ sự sáng tạo và sức lao động của con người chủ yếu chảy vào túi những người sở hữu tiền. Tiền cũng là một tội ác như các hình thức sở hữu tài sản khác – một sự cướp bóc vẫn đang tiếp diễn mà vừa thúc ép vừa là hiện thân của sự chiếm hữu các tài nguyên chung. Để khôi phục lại sự thiêng liêng cho nền kinh tế, chúng ta cần sửa chữa những điều sai trái do vụ cướp này gây ra, bởi nó suy cho cùng là ăn trộm và là sự thuyên giảm một món quà thiêng liêng. Điều này là sự biến đổi của những thứ từng là thiêng liêng, độc đáo, và riêng tư thành tình trạng của hàng hóa. Không phải ngay lập tức mà chúng ta thấy rõ ràng rằng lợi ích từ quyền sở hữu tiền cũng không chính đáng giống như lợi ích từ quyền sở hữu đất. Rốt cuộc, tiền bạc, không giống như đất đai, là một sáng tạo của con người. Chúng ta kiếm tiền từ việc sử dụng các món quà (tài năng) mà chúng ta có, năng lượng, thời gian và sức sáng tạo của mình. Chắc chắn thu nhập từ lao động này phải thuộc về người lao động một cách hợp pháp chứ? Do vậy, chắc chắn là không phải tất cả tiền đều bất hợp pháp trong nguồn gốc sau cùng của nó, phải vậy không? Đó là một quan điểm ngây thơ. Trên thực tế, tiền có liên quan sâu sắc và không thể chối cãi đến sự chuyển đổi đất đai của chung thành tài sản cá nhân, giai đoạn cuối cùng và mang tính quyết định của sự chuyển đổi này là sự cắt giảm đất đai trở thành tình trạng của một loại hàng hóa có thể được mua và bán. Nhiều yếu tố khác của di sản tự nhiên và văn hóa của chúng ta cũng bị bóp nghẹt, biến thành tài sản, và cuối cùng thành “hàng hóa và dịch vụ” để đổi lấy tiền. Ở đây không có ý nói rằng làm việc để kiếm tiền là xấu xa; mà là dùng tiền để kiếm thêm tiền là sai trái. Kiếm lãi suất từ tiền cũng giống như thu tiền từ việc cho thuê đất. Tiền là xác chết của những tài nguyên chung, là hiện thân của tất cả mà trước kia đã từng là của chung và miễn phí, bị biến thành một loại tài sản trong dạng thức thuần túy nhất. Vài chương tiếp theo sẽ chứng minh lời tuyên bố này, miêu tả chính xác cách thức và lý do mà tiền kèm lợi tức, về cơ bản, đang chiếm đoạt các tài nguyên chung, hủy hoại hành tinh, và khiến cho phần lớn nhân loại lâm vào hoàn cảnh làm thuê để trả nợ. CHƯƠNG 5: XÁC CHẾT CỦA CÁC TÀI NGUYÊN CHUNG Chúng ta hổ thẹn thay Nam tước phong kiến, người đã ngăn cản nông dân chạm vào một cục đất trừ khi anh ta chịu trích một phần tư sản phẩm thu hoạch được để nộp cho chủ nhân. Chúng ta gọi đó là thời kỳ man rợ. Nhưng nếu các hình thức đã thay đổi, mà các mối liên hệ vẫn giữ nguyên như cũ, thì người lao động buộc phải chấp nhận các nghĩa vụ như thời phong kiến bằng việc kí vào các “hợp đồng tự do”. Bởi vì, dù có thể quay mặt đi bất kì hướng nào, anh ta cũng không thể tìm thấy các điều kiện tốt hơn. Mọi thứ đã trở thành tài sản cá nhân, và anh ta phải chấp nhận như vậy, hoặc anh ta sẽ chết vì đói. – Peter Kropotkin Nền tảng của mỗi khối tài sản lớn là một tội ác lớn. – Honoré de Balzac Mặc dù đất đai rõ ràng tồn tại độc lập với nỗ lực con người, thì đất cũng không khác biệt lắm so với bất kì loại tài sản nào khác. Đầu tiên chúng ta hãy xem xét tài sản vật chất – bất cứ thứ gì làm từ kim loại, gỗ, nhựa, thực vật hoặc động vật, khoáng chất, v.v… Chẳng phải những thứ này là bất cứ thứ gì ngoài các mảnh vụn của trái đất, mà đã bị thay đổi qua nỗ lực của con người hay sao? Sự phân biệt giữa đất đai và những cải tổ diễn ra trên đó – sự phân biệt giữa những gì đã tồn tại sẵn ở đó với những gì con người nỗ lực tạo ra – cũng có giá trị không hơn không kém với đất hay với bất kì loại hàng hóa vật chất nào khác. Tất cả những gì chúng ta sử dụng và tất cả những gì chúng ta sở hữu bao gồm những mẩu đất đã được biến đổi. Cùng với nhau, chúng là “nguồn vốn tự nhiên” – sự giàu có và tốt đẹp mà thiên nhiên ban cho chúng ta. Ban đầu chúng không phải là tài sản của riêng ai; chúng chỉ biến thành phạm trù đó khi công nghệ giúp chúng ta mở rộng tầm hiểu biết và tâm lý chia cắt làm cho mong muốn sở hữu của chúng ta ngày càng trở nên mãnh liệt. Ngày nay, nhiều hình thức “vốn tự nhiên” mà chúng ta gần như không biết tới sự tồn tại của chúng đã trở thành tài sản, đó là: phổ điện từ, bản đồ gen, và gián tiếp là, sự đa dạng sinh thái và khả năng hấp thụ chất thải công nghiệp của trái đất.1 Cho dù nó đã được biến thành một đối tượng trực tiếp của tài sản, như đất đai, dầu mỏ, và cây cối, hay cho dù nó vẫn là một tài nguyên chung mà chúng ta dựa vào đó để tạo ra các loại tài sản khác, chẳng hạn như biển cả rộng mở, thì Tài nguyên chung to lớn ban đầu đều đã được bán hết: đầu tiên bị biến thành tài sản và sau đó thành tiền. Đây là bước cuối cùng xác nhận rằng một cái gì đó thực sự đã hoàn thành quá trình biến hóa của nó để thành tài sản. Để có thể tự do mua và bán một cái gì đó có nghĩa là nó đã được tách ra khỏi ma trận các mối quan hệ gốc; nói cách khác, nó đã trở thành một thứ “có thể chuyển nhượng”. Đó là lý do tại sao tiền đã trở thành một đại diện cho đất đai và tất cả các tài sản khác, và là lý do tại sao thu tiền thuê (lãi) cho việc sử dụng nó lại có những ảnh hưởng tương tự và góp phần tạo ra sự bất công tương tự thời cổ xưa như việc tính phí thuê đất. VỐN VĂN HÓA VÀ TINH THẦN Vốn tự nhiên là một trong bốn phạm trù rộng lớn của sự thịnh vượng chung, mà còn bao gồm vốn xã hội, vốn văn hóa và vốn tinh thần. Mỗi phạm trù bao gồm những thứ đã từng là miễn phí, từng là một phần của nền kinh tế tự cung tự cấp hay kinh tế quà tặng, mà bây giờ chúng ta phải trả tiền để có được chúng. Vụ trộm cướp không phải là từ mẹ trái đất, mà từ mẹ văn hóa. Trong cuộc đàm luận kinh tế, hình thức vốn quen thuộc nhất trong bốn hình thức trên là vốn văn hóa, mà hay được gọi bằng thuật ngữ tài sản trí tuệ. Ở các thời đại trước kia, một nguồn khổng lồ các câu chuyện kể, ý tưởng, bài hát, họa tiết nghệ thuật, hình ảnh, và các phát minh kĩ thuật đã hình thành một kho tài nguyên chung mà mọi người có thể bắt đầu sử dụng cho vui và tăng năng suất, hoặc có thể kết hợp vào những sáng kiến khác. Vào thời Trung Cổ, các nhạc sĩ có thể nghe các bài hát của nhau và mượn """