" Khúc Tráng Ca Mùa Hạ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khúc Tráng Ca Mùa Hạ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Nghe tin Đại Vương chuẩn bị xuất quân đánh lớn, khí thế của tướng sĩ Vạn Kiếp cao ngút trời, mọi người nô nức mài gươm chuốt giáo, chỉnh trang thuyền bè và sửa chữa móng ngựa, sẵn sàng đợi lệnh chủ tướng lên đường công phá A Lỗ. Tin tức đến tai Thiên Thành phu nhân, bà liền dẫn một đoàn từ trên núi về thái ấp. Hưng Đạo thấy vậy bèn rầy rà: – Giặc chưa tan đâu, bà về đây làm gì? Thiên Thành nhăn nhó: – Ô hay cái ông này, biết chồng sắp ra trận, vợ lật đật chạy về giúp được gì thì giúp, đã chẳng an ủi lại còn trách cứ. Hưng Đạo dịu giọng nói: – Đấy là tôi lo cho bà với mọi người. Trước sau bọn Thát cũng kéo qua Vạn Kiếp một lần nữa, nơi này sẽ thành chiến địa hiểm ác. Bà cứ ở trên núi cho tôi yên tâm đánh giặc. Thiên Thành đã hiểu bụng chồng, cười làm lành, mà rằng: – Ông có nói thì tôi mới biết. Xong việc rồi tôi lại quay về núi. Hưng Đạo hỏi vợ: – Bà định giúp việc gì? Phu nhân nói lấp lửng: – Binh lính kham khổ lâu rồi, phải bồi bổ cho họ để có sức khỏe mà đánh giặc. Sáng hôm sau, Thiên Thành dẫn theo vài chục gia nhân, thị nữ rời trại bằng xe ngựa đi hô hào quần chúng góp công của nuôi quân. Bà đến khắp bản xa, làng gần lấy uy tín của mình thuyết phục mọi người đem lương thực, thực phẩm trợ giúp con em của họ sắp sửa theo Đại Vương bước vào cuộc chiến sinh tử để quét sạch giặc thù ra khỏi bờ cõi. Ngay buổi chiều hôm ấy, từ mọi ngả đường đổ về Vạn Kiếp, người dân lũ lượt công gạo vác đậu, xách gà khiêng lợn đến cho anh em binh sĩ. Nhiều người dắt cả trâu bò biếu tặng đoàn quân cứu quốc. Hưng Đạo và các tướng vô cùng cảm kích, hồ hởi đón nhận tấm lòng của dân chúng, cử người kiểm đếm gia cầm, gia súc để phân chia cho các quân ngũ. Riêng trâu bò, Vương không nhận, ngài bảo “Sau chiến tranh mọi người cần khôi phục sản xuất, thiếu trâu bò làm sao cày ruộng?”. Dân nói “Giặc chưa thua chạy thì chẳng thể cấy cày. Không những đồng ruộng bỏ hoang phế, đến trâu bò cũng bị chúng cướp hết. Thà cho quân ta giết lấy thịt để thêm sức đuổi thù”. Cứ thế trong ba ngày liên tiếp, đội quân lượng của Hưng Đạo thu nhận hàng nghìn gà vịt, hàng trăm lợn dê và hơn ba chục trâu bò cùng với một kho lương thực đầy ăm ắp. Thiên Thành phu nhân và tùy tùng vẫn đang trên đường đi vận động quyên góp mà kho bãi đã hết chỗ chứa. Hưng Đạo nói: – Dân ta tài thật. Giặc đến vơ vét thì họ giấu biệt, khi cần giúp nuôi quân thì họ cống hiến rất dồi dào. Phạm Lãm bàn với Vương: – Thấy tấm lòng của dân chúng đối với đại cuộc chống xâm lăng, tại hạ nghĩ họ đặt hết niềm tin vào tướng sĩ trong trận chiến này. Đánh A Lỗ nhằm mở màn tổng phản công nên không thể thất bại. Theo tại hạ, để đảm bảo toàn thắng, Đại Vương nên tăng thêm binh lực, thà thừa còn hơn thiếu. Hưng Đạo cho là phải, bèn thảo lệnh sai Hưng Vũ Vương Nghiễn đang cự giặc gần Thăng Long dẫn quân về tập kết bên bờ sông Luộc. Chợt có tiếng vó ngựa phi rầm rập vào trại, vương nhìn ra cả cười rồi nói lớn “Kia rồi. Quả nhiên không ngoài ai khác”. Hơn năm người chiến mã dừng lại trước sân. Theo sau tì tướng Nguyễn Hòa là Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu, Hưng Đạo mừng rỡ đứng dậy đón hai đệ vào sảnh. Mọi người vừa yên vị, ngài hỏi liền: – Các chiến tướng trẻ tuổi đánh giặc hăng say quá nên tới tận bây giờ ta mới được gặp mặt. Chẳng hay hai người đóng quân ở đâu? Quốc Toản đáp: – Bọn đệ không đóng trại cố định, lúc Hồng Châu, lúc Khoái Châu, có lúc lên tận Bắc Giang, Lạng Giang. Ở đâu có giặc là đến, thấy đủ lực thì đánh ngay, bằng không rình đánh úp các toán quân rời trại đi cướp bóc. Hưng Đạo nói: – Thảo nào, xuất quỷ nhập thần như thế nên khó bề móc nối. Vậy các em có bao nhiêu quân, làm sao có lương thực nuôi quân? Hoàn Nhân đáp: – Hai anh em có hơn ba ngàn quân. Chủ yếu sống bằng lương thực cướp được của giặc. Thỉnh thoảng cũng phải xin của dân. Ở rẻo cao thì đóng quân trong rừng, về dưới xuôi thì ẩn náu trong các làng mạc, đi đâu cũng được dân chúng che chở. Hưng Đạo tấm tắc khen: – Chẳng những tài trí còn thu phục được nhân tâm, các đệ dụng phép du binh giỏi hơn cả ta rồi. Vậy tì tướng của ta làm sao tìm được hai người? Hoài Văn kể: – Dù bôn ba đánh giặc khắp nơi nhưng bọn đệ vẫn giữ liên lạc với gia đình. Nguyễn Hòa mới chính là người tài, ông ấy tìm đến thái ấp của đệ, thế là ba ngày sau đã gặp được nhau. Thấy Đại Vương mỉm cười, Nguyễn Hòa biết ngài rất hài lòng. Cái cảm giác vẫn được chủ soái tin dùng khiến người gia tướng trung dũng tràn ngập niềm kiêu hãnh. Hưng Đạo hỏi: – Từ ngày quốc loạn, các em có liên lạc được với các vương hầu, tướng lĩnh nào không? Hoài Nhân nói: – Hồi đầu tháng hai, có gặp mặt Trung Thành Vương, ông ấy tổ chức đánh giặc ở vùng Bắc Giang. Tình thế bấy giờ không thể hội quân, cách đánh cũng khác nhau, nên lại mỗi bên mỗi ngả. Nghe nói gần đây Trung Thành Vương đã đem quân đi cướp trại giặc ở Vũ Ninh. Hưng Đạo nói: – Thì ra là thế. Để ta tìm cách liên lạc với ông ấy. Quốc Toản đề nghị: – Được biết quân ta sắp phản công, nếu vương huynh dự tính đánh lớn thì cho bọn để tham gia với. Hưng Đạo chưa trả lời mà lại hỏi: – Hiện quân đang ở đâu? Toản đáp: – Đang ở Hồng Châu. Vương bèn nói: – Như vậy không thể điều động ngay được. Thời cơ phản công đã đến, sớm mai ta hành binh đánh giặc ở sông Luộc, bọn Nguyên thua trận tất chạy về các đồn trại dọc bờ Thiên Mạc. Các em hãy chuẩn bị lực lượng, chiêu mộ thêm quân rồi đến trú đóng tại vùng tả ngạn, đợi các cánh quân khác hội về sẽ đồng loạt công kích trại giặc ven sông. Ta đang chờ tin tức của nhị hoàng, có thể Quan gia sẽ dẫn quân ra bắc. Hoài Nhân và Hoài Văn phấn chấn hẳn lên, hai vị vương hầu trẻ tuổi nói với bậc huynh trưởng thống lĩnh quân đội: – Xin tuân theo Quốc công Tiết chế. Chương 1 Nhất loạt phản công, bốn vương nhổ yết hầu A Lỗ Ba quân xuất kích, bảy tướng băm huyết mạch Hồng Hà Nắm được tin tức về Trung Thành Vương, ngay trong đêm Hưng Đạo Vương thảo thư gửi người huynh đệ có duyên nợ với ngài từ mấy chục năm trước. Thư viết “Biết được tin Trung Thành huynh tổ chức kháng địch ở lộ Bắc Giang, ta rất phấn khích và khâm phục. Thời cơ vùng lên quét sạch giặc Hồ đã tới, bọn ta đang hợp lực diệt một căn cứ lớn của chúng nhằm cắt đứt đường vận lương của Mông Thát xuống Thiên Trường, rất mong huynh ra tay diệt đồn Giang Khẩu, tạo thành thế trận liên tung đánh trên dẹp dưới khiến cho lũ Thoát Hoan khó bề gượng dậy”. Ngài lại thảo thư gửi cho tướng quân Nguyễn Khoái, dặn dò “Cho người ra các cửa sông đón binh thuyền. Nếu các vương cập bờ thì đề nghị kéo quân về tả ngạn sông Hồng chặn địch ở Tây Kết - Hàm Tử. Còn ngươi dẫn quân đến bãi Mạn Trù chờ giặc. Trong năm ngày tới, nếu không thấy thuyền về thì ngươi xuất quân trước”. Sáng sớm ngày lên đường, Hưng Đạo cho gọi Nguyễn Hòa đến giao việc. Vương nói: – Vừa qua người đã xuất sắc làm tròn công vụ, khiến ta rất vui. Nay hãy vì ta đi một chuyến đến Bắc Giang, tìm kiếm Trung Thành Vương và giao cho ngài lá thư này. Phải khẩn trương lên, cứ cách cũ mà làm, có địa bàn cụ thể rồi, dẫn theo năm người là đủ. Ngoài ra còn một phong thư giao tướng Nguyễn Khoái đang đóng quân tại cửa Cấm, ngươi cử người hỏa tốc lên đường. Nguyễn Hòa sốt sắng nhận thư, rồi đáp: – Đa tạ Đại Vương tin dùng, bề tôi sẽ tiến hành tức khắc. Sau trận đánh ở Tam Trĩ, Yết Kiêu đã trở về Vạn Kiếp cùng Dã Tượng gánh vác công việc quen thuộc là hộ vệ Hưng Đạo Vương khi ngài cầm quân ra trận. Nguyễn Hòa đi rồi, Dã Tượng để đạt nguyện vọng với chủ soái: – Chuyến này không được xông pha thì tiếc lắm, xin Đại Vương cho gia nô đi đánh thuyền giặc, từ hồi luyện thuật dùng hỏa công đốt thuyển đến giờ chưa lần nào thực hiện. Hưng Đạo cười, mà rằng: – Ta tiến quân rầm rộ, đánh ban ngày thẳng vào đội thuyền của Mông Thát, nên không cần dùng phương pháp đốt thuyền lẻ tẻ. Người đã có ý nguyện thì ta điều sang đội tiên phong tiếp cận thuyền địch mà giáp chiến. Yết Kiêu lên tiếng: – Gia nô cũng muốn tham gia quân tiên phong, xin Đại Vương cho phép. Hưng Đạo bảo: – Người dẫn đội Kình Ngư, khi thuyền ta áp sát thuyền địch thì nhảy xuống nước mà đục thuyền của chúng, giặc mải lo đánh nhau phía trên sẽ không ngờ đáy thuyền bị đục, lúc xong việc thì nhớ báo hiệu cho quân ta nhảy sang thuyền của mình. Đội Kình Ngư không còn nhiều, ngươi bổ sung thêm người có khả năng bơi lặn. Hai viên thủ tục thân cận của Đại Vương cả mùng, cùng hớn hở đi chuẩn bị công việc chiến sự. Tính toán thời điểm triều lên, Hưng Đạo cho xuất quân vào giờ ngọ. Hơn hai vạn tướng sĩ xuống ba trăm chiến thuyền từ Lục Đầu giang theo dòng Nam Triệu qua của Văn Úc ra biển, xuôi về phía nam vào của Hải Thị rồi ngược lên thượng nguồn sông Luộc, dự kiến bốn ngày sau đến địa điểm tập kết. Như vậy, cùng với quân của ba người con là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng và quân của Phạm Ngũ Lão, lực lượng của Hưng Đạo Vương lên tới bảy vạn người, gần gấp đôi binh lực của giặc Nguyên tại A Lỗ. Đây là trận mở đầu cuộc phản công nên không thể khinh suất, Đại Vương và các tướng lĩnh quyết giành chiến thắng bằng khí thế áp đảo. Trại A Lỗ án ngữ ngã ba sông Luộc, thông thủy với sông Hồng ở đoạn được gọi là Thiên Mạc. Bọn Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến dùng nơi này làm trung quân bảo đảm tuyến đường thủy vận lương từ Thăng Long xuống Thiên Trường. Hiểu rõ vị trí trọng yếu của A Lỗ, Thoát Hoan tăng cường thêm một vạn binh của Mãng Cổ Thái. Khi được giao chỉ huy cánh quân tả ngạn, Bột La Hợp Đáp Nhĩ cũng kéo binh thuyền tới, đóng trại thủy bộ cách ngã ba Luộc chừng một dặm, trên khúc sông Thiên Mạc đổ về hướng nam. Việc đại quân của Hưng Đạo Vương rùng rùng kéo tới cũng đến tai tướng giặc. Không kịp cấp báo về Thăng Long, chúng bàn với nhau cầu cứu Sát Tháp Nhi Đài, chỉ huy quân hữu ngạn. Giờ dần, ngày hai mươi bốn tháng tư, thế trận hình thành, Tiết chế phát lệnh tiến công. Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn và Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng dẫn hai cánh quân công phá A Lỗ từ hướng đông bắc và đông nam. Hưng Trí Vương Quốc Hiện đầu lĩnh lực lượng đánh vào trại trên bờ của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, còn tiểu tướng Tuấn Thọ chỉ đạo một trăm chiến thuyền tiên phong đánh đội binh thuyền của hắn. Mặc chiến bào nâu đỏ, bên cạnh có Phạm Lãm và nhiều gia tướng khác, từ trên mạn soái thuyền Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy đội thuyền hai trăm chiếc tiến ra sông Hồng. Trong đoàn thuyền, ngoài Đại Vương và Phạm Lãm, không ai biết lý do tại sao ngài không tung toàn bộ lực lượng thủy quân vào trận mà cho phần lớn binh thuyền vượt qua ngã ba Luộc ngược dòng lên hướng bắc, đi cách trận địa A Lỗ hai dặm lại sai dàn hàng ngang kín mặt sông Thiên Mạc, bỏ neo chờ đợi. Nguyên do trước giờ khởi sự, nhận được tin tức của thám báo về một đoàn thuyền giặc từ hướng bắc đang kéo tới A Lỗ, Hưng Đạo đã kịp thời thay đổi phương án tác chiến, ngài đưa binh thuyền đến địa điểm thích hợp để chặn đường bọn Nguyên Mông cứu viện. Tại A Lỗ, do đã được phòng bị, Lưu Thế Anh và Mãng Cổ Thái cho quân bắn tên cản đường quân ta tiếp cận trại. Quân của Quốc Nghiễn dùng ván gỗ hứng tên rồi tiến đến sát bờ rào thì quăng ván vung mã đao nhảy vào cận chiến. Quân của Quốc Tảng dùng mộc bện bằng rơm nẹp tre để hứng tên mà tiến bước, giặc bắn tên lửa vào rơm, quân ta nhanh trí liệng những chiếc mộc bén lửa về phía chúng. Bị mâm lửa rơi xuống đầu khiến giặc hỗn loạn né tránh, chớp thời cơ các chiến binh ào tới giáp công. Đằng sau hàng rào là lũy đất, Lưu Thế Anh hò hét binh sĩ dùng giáo chĩa lên đâm địch quân. Nhiều chiến sĩ bị giáo đâm trúng, một số tráng sĩ can trường nắm chặt ngọn giáo xuyên ngang người mà nhảy đè lên thằng giặc. Đồng đội của họ tiếp bước nhảy theo rồi lăn xả vào chém bọn Nguyên ở bên dưới. Thấy bộ binh đã bám trụ bên trong trại giặc, bấy giờ Quốc Nghiễn và Quốc Tảng đồng loạt dẫn kị binh xuất kích. Từ hai hướng, hàng ngàn chiến mã phi tới như một cơn lốc dữ dội đổ xuống đồn thù. Trước tình thế nguy cấp, Mãng Cổ Thái cho kị binh vượt rào xông ra đánh cản. Hai đạo quân cưỡi ngựa lao vào nhau bằng toàn bộ sức lực sẵn có, gươm phạt ngang tóe lửa, dao bổ xuống khô khốc, từng mảng thịt xương tung tóe, máu chảy thành vũng, người và ngựa chết đè lên nhau đen đặc bãi sông. Trần Quốc Nghiễn vung mã đao, Mãng Cổ Thái cậy trường giáo xáp tới quần thảo kịch liệt, đánh hàng chục hiệp mà bất phân thắng bại. Thấy đồng bọn bị thương vong quá nửa, Mãng Cổ Thái chấp nhận bỏ cuộc, dẫn tàn quân tháo chạy, lại bị bộ binh của ta dùng câu liêm móc vào vó ngựa khiến chúng ngã lăn quay, không bị giết thì cũng bị tóm sống. Ở phía đông nam, đội hình kị binh của Quốc Tảng xông thẳng vào trại giặc mà tung hoành ngang dọc, đâm chém tơi bời. Lưu Thế Anh biết không địch nổi bèn dẫn theo tám ngàn quân vừa đánh vừa chạy về hướng bắc. Bộ binh và kị binh của Quốc Hiện nhất tề tiến công đồn trại của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Trong đội ngũ xuất kích có một viên tướng trẻ lần đầu tiên ra trận, đó là chàng trai Ngô Sĩ Thường, môn khách được Hưng Đạo Vương tín nhiệm. Bộ binh lấy mộc chặn tên của giặc, còn kị binh dùng cung nỏ bắn trả bọn Thát ẩn nấp sau những lũy đất mấp mô, quân ta vây kín ba mặt trại địch. Cùng thời điểm, trận chiến trên sông đang diễn ra ác liệt. Bị công kích cả trên bờ lẫn dưới bến, buộc chủ tướng Nguyên phải tính kế khả dĩ có lợi nhất. Bột La Hợp Đáp Nhĩ hạ lệnh bỏ trại, cho quân rút xuống bến để tăng cường binh lực giữ đội thuyền. Thừa cơ giặc tháo lui, Quốc Hiện và Sĩ Thường dẫn quân ập vào, mặc sức đuổi đánh bọn chậm chân, giết hàng trăm tên, bắt hàng ngàn đứa. Bỏ qua yếu tố bất ngờ, cốt dùng binh lực mạnh để phô trương thanh thế, đoàn chiến thuyền do Tuấn Thọ chỉ huy đâm thẳng vào đội hình binh thuyền của địch. Khi mạn thuyền áp nhau, từ hàng chục chiến thuyền lớn, Tuấn Thọ và Dã Tượng hò quân nhảy sang thuyền giặc kịch chiến. Hai gia tướng kiên gan dẫn đầu đội thủy binh tả xung hữu đột trên các sàn gỗ, giặc chống trả kịch liệt, quân sĩ đôi bên bị thương vong đáng kể. Thấy địch đổ quân từ trên bờ xuống tăng viện cho đội thuyền, để tránh tổn thất, Tuấn Thọ cho rút lui. Hàng trăm chiến binh đồng loạt nhảy về thuyền rồi chèo ra xa, kịp lúc tiếng tù và rúc lên inh ỏi.�� Lúc chiến sự quyết liệt trên các thuyền thì Yết Kiêu dẫn đội Kình Ngư lặn xuống nước, chia nhau đục đáy thuyền giặc. Hàng chục chiếc bị đục thủng, nước ở vào khoang, thuyền chòng chành rồi chìm xuống lòng sông. Thấy chiến binh Kình Ngư đã vượt thoát, quân hiệu nổi tù và rút quân. Bột La Hợp Đáp Nhĩ kinh hoàng chứng kiến hàng chục chiếc thuyền bị nhấn chìm, làm vô số quân Nguyên chết đuối, vội hạ lệnh cho số thuyền còn lại rút chạy về phía nam, chở theo không đầy một nửa quân số. Những thuyền giặc chưa kịp dời bến liền bị quân của Quốc Hiện tràn xuống bắn tên, hạ sát thêm nhiều lính Mông Thát đứng ngồi lố nhố trên sàn thuyền. Khi thuyền giặc rút chạy, Tuấn Thọ đốc binh thuyền truy kích, hai bên bắn tên qua lại, thiệt hại không đáng kể. Nhận được thư cầu viện của Lưu Thế Anh, Sát Tháp Nhi Đài để năm nghìn quân giữ trại rồi dẫn đội binh thuyền hơn trăm chiếc đi tiếp ứng cho đồng bọn ở A Lỗ. Đoàn thuyền Mông Thát bị đội hình của Trần Hưng Đạo ngáng đường, thấy đối phương hùng hậu hơn mình, Sát Tháp Nhi Đài có phần nao núng, tiến thoái lưỡng nan. Chẳng để cho chúng có thời gian bày trận, Hưng Đạo Vương phất cờ hiệu tiến công, đội binh thuyền Đại Việt lao về phía giặc, xé nhỏ từng cụm thuyền của chúng mà đánh. Cứ hai thuyền của ta áp mạn một thuyền giặc rồi tung móc câu níu lại để thủy quân nhảy sang giáp công. Quân ta hoàn toàn chiếm ưu thế, gần hai chục chiến thuyền của Nguyên bị đánh chiếm. Sát Tháp Nhi Đài túng thế, cho binh thuyền quay đầu tháo chạy. Phạm Lãm đề nghị truy kích, Hưng Đạo nói “Không cần thiết đâu. Quân ta đang kéo về chiếm lĩnh bờ sông, để phần cho các đạo quân khác diệt mốt”. Bọn Lưu Thế Anh chạy được mười dặm lại lọt vào trận địa mai phục của Phạm Ngũ Lão. Giặc chưa kịp hoàn hồn thì từ bãi sậy ven sông hàng ngàn mũi tên vun vút lao tới xé toạc da thịt của chúng mà đòi nợ máu. Lưu Thế Anh chẳng còn nhuệ khí kháng cự, cố thúc ngựa vượt qua tầm tên bắn, bọn lính ở phía sau cũng chạy thục mạng theo chủ tướng. Phạm Ngũ Lão đổ quân ra chặn đầu khóa đuôi, chia cắt lũ giặc thành nhiều khúc. Bị đánh tan tác, Lưu Thế Anh dẫn tàn binh chạy sang hướng đông bắc, Ngũ Lão dẫn quân kị rượt đuổi, miệng hét vang lừng “Thằng Hán tặc chớ chạy”. Ở phía sau ông, Trần Thị Kiến giương cung bắn trúng con ngựa của Thế Anh, hất y ngã lăn xuống đất. Tướng giặc bật dậy túm lấy yên ngựa của một đứa bị thương, chém tên lính một nhát rồi cướp ngựa của nó tháo chạy thoát thân. Chạy miết đến khi không còn hơi sức, Lưu Thế Anh cho dừng chân nghỉ ngơi, kiểm đếm quân số thấy chỉ còn chưa đầy bốn ngàn, bao gồm cả bọn thương tích mất khả năng chiến đấu. Một đám tàn quân rệu rã, bạc nhược và thất chí, khó tránh khỏi tình trạng hỗn quân hỗn quan. Trong cơn mệt nhọc đói khát, quân lính đòi giết ngựa để lấy thịt, lũ kị binh khăng khăng cự tuyệt, Lưu Thế Anh thuyết phục chúng đi thêm năm chục dặm nữa là đến đồn Tây Kết, vừa an toàn lại được ăn no. Bọn bộ binh kêu không còn sức để đi, Thế Anh dọa nếu không đi thì bỏ mặc, y sẽ dẫn kị binh đi trước. Đúng lúc Lý Bang Hiến dẫn quân đi tuần tiễu trở về, lũ bại binh của Lưu Thế Anh được chúng chia sớt một phần lương thực chống đói, bấy giờ quân tình mới tạm yên. Hay tin A Lỗ đã thất thủ, trời lại sầm sập tối, Bang Hiến bàn với Thế Anh đóng quân tại chỗ, sớm mai khởi hành về Tây Kết. Mãng Cổ Thái dẫn hai trăm kị mã chạy về phía đông, đi được vài chục dặm, khi đã chắc mẩm thoát thân chúng mới nghĩ đến việc tìm phương hướng. Tướng sĩ bàn bạc với nhau rồi quyết định đổi sang hướng bắc, hy vọng sẽ đến được đồn trại Nguyên ở quanh Thăng Long. Chúng đi miết cho tới khi lạc vào một vùng lau sậy bạt ngàn, mênh mông bốn phía chẳng thấy một mái nhà hay một làn khói bếp, trời thì cứ tối dần, còn muỗi vắt và sình lầy đang rút cạn dần chút hơi sức còn lại của đám tàn quân Mông Thát... Kể từ đấy chẳng ai còn nghe nói đến viên chiến tướng Mãng Cổ Thái, người Nguyên thì đoán già đoán non có thể y đã bị giết, còn tướng lĩnh Đại Việt đương thời lại cho rằng y đã chạy thoát. Nghe nói hàng trăm năm sau, khi người dân khẩn hoang vùng Bãi Sậy, họ đã phát hiện được mấy trăm bộ xương người và xương ngựa, cùng với nhiều binh khí han rỉ có hình thù lạ lẫm nằm dưới lớp bùn mỏng, bị rễ cây sấy quần chằng chịt. Sau ba ngày tìm kiếm, Nguyễn Hòa gặp được Trung Thành Vương. Thực ra Hòa bị quân của vương tóm cổ, vì họ nghi mấy người lạ mặt là thám báo Mông Thát đi dò xét địch tình. Lúc đầu, Hòa và các chiến hữu không khai nhận mình là ai, chỉ một mực đòi gặp đầu lĩnh đội quân. Khi được dẫn giải về quân doanh, nhận diện được vị vương cần gặp, bấy giờ Hòa mới xẻ vạt áo lấy thự trình lên cho ngài. Trung Thành Vương đọc xong thự, liền hỏi: – Hưng Đạo Vương đã khởi sự chưa? Hòa đáp: – Ước tính quãng đường di chuyển mất bốn ngày, có lẽ trong ngày mai Hưng Đạo Vương khởi chiến. Trung Thành nói: – Vậy thì ta cũng không thể chậm trễ, phải xuất quân trong ngày. Rồi ngài truyền lệnh cho tả hữu đi tập hợp lực lượng, chuẩn bị binh khí, nửa canh giờ nữa sẽ lên đường. Đã xong nhiệm vụ, nhưng thấy Nguyễn Hòa dùng dằng chưa chịu quay về, vương lấy làm lạ bèn hỏi: – Ngươi còn việc gì muốn thưa gửi? Hòa lưỡng lự một chút rồi mạnh dạn bày tỏ: – Tiểu nhân vốn bị một thương tích nhỏ nên Tiết chế Đại Vương không cho đi đánh trận, chỉ sai làm những việc liên lạc với chỗ này chỗ kia. Thực ra vết thương đã lành từ lâu, tuy không được mười phần như xưa nhưng cũng khỏe lại tám, chín phần rồi. Nay ngài xuất quân đánh giặc, bọn tiểu nhân cũng muốn tham gia. Trung Thành xua tay, nói: – Không được đâu. Các ngươi là tôi tớ của Hưng Đạo, lỡ có bề gì, ta làm sao gánh vác? Đâu cứ ra trận mới là khí phách, làm liên lạc có tài trí mới kham nổi, Tiết chế tín nhiệm giao việc, các ngươi phải hãnh diện chứ. Hòa đáp: – Nhiệm vụ được giao, bọn tiểu nhân chẳng nề hà. Nhưng là chiến binh, nên muốn đến sa trường đánh giặc. Mấy đồng đội của Hòa cũng cất lời thỉnh cầu: – Xin Trung Thành Vương chấp thuận, bọn tiểu nhân muốn theo ngài đánh giặc. Vị thân vương phân vân một hồi rồi đáp: – Ta cũng đành chiều ý các ngươi lần này. Nhớ bao bọc lẫn nhau, tránh đổ máu vô ích. Bọn Nguyễn Hòa dạ ran, lui ra ngoài nhập vào binh đội của Trung Thành Vương, chờ lệnh xuất phát của chủ tướng. Hơn bốn ngàn chiến binh hành quân đến Giang Khẩu thì trời đã tối. Trung Thành Vương dự định đóng trại nghỉ qua đêm, tờ mờ sáng mai sẽ tấn công đồn giặc ở cách đấy năm dặm, nhưng khi nghe trinh sát báo cáo bọn Nguyên rất lơ là canh gác, ngài thay đổi ý định, cho tiến đánh ngay trong đêm. Giang Khẩu là một trại nhỏ với chừng hơn ngàn quân do Thiên hộ Tích Nại Ban đầu lĩnh. Từ hồi kéo đến lập đồn, chưa một lần đụng độ đối phương nên bọn Nguyên có phần khinh suất, mỗi ca trực chỉ cắt cử vài chục thằng hom hem yếu đuối, bọn còn lại, ban ngày thì rủ nhau đi cướp bóc hoặc xúm xít chơi chọi gà, đá dế; tối về thì đem của ăn cướp ra cược bạc, quây quần thành từng hội mà riết róng ăn thua, cười đùa vỡ nhà, la hét vàng óc. Tận dụng yếu tố bất ngờ và lợi thế về lực lượng, Trung Thành Vương cho quân âm thầm áp sát trại giặc, sai các tráng sĩ tinh nhuệ hạ thủ bọn lính gác rồi kéo binh ập vào, đao kiếm và cung nỏ mặc sức thi triển công lực. Giặc rụng rời khiếp vía, trở tay không kịp nên bị sát hại vô số, nhiều tên mình trần gục chết trên chiếu bạc, nhiều đứa chậm chân rơi đầu ngoài bậu cửa. Một số thằng kịp vớ vũ khí, cố kháng cự để tìm lối thoát thân. Nguyễn Hòa và đồng đội đánh một trận ra trò, ông không dùng đao kiếm mà bắn tên nó tiễn gần chục lính Mông Thát sang cõi âm. Tích Nại Ban thoát được ra ngoài cùng với một nhóm tàn quân không đầy trăm đứa, chạy ra bờ sông cướp thuyền của dân chài, chở nhau qua Nhị Hà về Thăng Long cấp báo với chủ soái Thoát Hoan. Giữa tháng tư, có liên lạc từ ngoài bắc vào Ái Châu, trình thư của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lên các vua, trong thư có đoạn viết “Tình hình chuyển biến thuận lợi, tạo thời cơ để ta tổng phản công. Thần khẩn thiết xin nhị hoàng và các vương chia quân đánh ra bắc, thủy hay bộ do trong ấy định đoạt. Chúng thần ở ngoài này đang hợp lực diệt hệ thống đồn trại giặc trên sông Hồng, bọn Nguyên ở Thiên Trường tất rúng động mà tìm đường tháo chạy. Nếu mọi việc tiến triển, đến đầu tháng năm, ta sẽ vây hãm Thăng Long, rất mong nhị hoàng điều quân Hoan Ái ra phối hợp”. Đọc xong thư, hai vua triệu tập các tướng nghị bàn. Mở đầu cuộc họp, Thượng hoàng Thánh Tông phấn chấn lên tiếng: – Kế sách đánh giặc đang phát huy tác dụng, nay là lúc ta hợp lực quét sạch Mông Thát, giành lại xã tắc. Các khanh hãy bàn bạc kỹ lưỡng đường tiến quân ra bắc, không được muộn hơn đầu tháng năm. Vua Nhân Tông nói: – Muốn tiến ra bắc phải diệt sạch bọn Toa Đô, đây là một trở ngại đáng kể. Ai có mưu kế khắc phục được bất lợi này? Trần Quốc Tung nói: – Quân Toa Đô còn mạnh, không thể diệt được ngay. Chi bằng ta vượt qua chúng bằng đường biển, bấy giờ mới kịp hội quân đánh Thăng Long. Trần Đức Việp nói: – Ta có mười mấy vạn quân, thuyền bè lại hư hỏng nhiều, nếu đem cả đại quân ra bắc một lần thì e rằng thiếu phương tiện. Xin phụ hoàng và hoàng huynh chia quân làm nhiều đợt, đợt đầu lên đường sớm để đáp ứng yêu cầu của Hưng Đạo Vương, các đợt sau có thêm thời gian để sửa chữa thuyền bè và huy động thêm thuyền của ngư dân. Thượng hoàng gật gù hưởng ứng, xem ra hài lòng với lập luận của người con trai thứ. Bấy giờ Thái sư Chiêu Minh lên tiếng: – Thần đồng tình với ý kiến của Tả Thiên Vương và Hưng Ninh Vương. Nhị hoàng nên sai một đạo quân tiên phong khởi hành ngay ra Hải Đông tiếp ứng cho Hưng Đạo. Thần sẽ đi chuyến thứ hai kéo qua của Hải Thị theo sông Luộc vào Thiên Mạc. Nhị hoàng dẫn đại quân đi chuyến cuối cùng. Như vậy vừa linh hoạt về thời gian tiến quân vừa có điều kiện chuẩn bị thuyền bè. Quang Khải chỉ rõ hướng đến của hai đạo quân đi trước nhưng lại không để cập nơi đến của đạo quân các vua. Chẳng qua vương đã có chủ ý nhưng không dám nói ra, sợ mang tiếng là bề tôi mà điều khiển cả bậc chí tôn, nên đành lờ đi để các ngài tự quyết định. Thánh Tông là người tinh tường, bèn vờ hỏi: – Chưa thấy khanh bộc lộ ý định muốn ta và hoàng thượng dẫn quân đến đâu? Chiêu Minh đáp: – Khởi bẩm nhị hoàng, việc này thần không dám để đạt. Trên bàn cờ tiến công, xin nhị hoàng định liệu vị trí xung yếu, vừa đảm bảo an nguy, vừa tạo ra thanh thế khiến bọn giặc hoảng loạn. Nhân Tông mỉm cười rồi nói: – Trẫm hiểu rồi, chắc Thái sư muốn các vua tiến quân đánh Trường Yên? Quang Khải vội quỳ xuống, chắp tay mà rằng: – Nhị hoàng anh minh. Các quan tướng cũng quỳ theo, đồng thanh hô vang: – Chúng thần vô cùng khâm phục. Quốc Tung hỏi: – Sao Chiêu Minh không vào bằng cửa Ba Lạt mà lại vào cửa Hải Thị cho xa xôi? Quang Khải nói: – Cửa Ba Lạt ngay sát Thiên Trường, giặc phát hiện sẽ tìm cách cản phá. Bắt đầu vào mùa lũ, cửa sông Hồng nước chảy rất xiết, thuyền bè ngược dòng khó di chuyển. Cửa Hải Thị tuy ở xa nhưng an toàn, cửa sông cũng nhỏ, nước không quá mạnh, đưa thuyền vào thuận lợi hơn. Vua tôi rất hồ hởi, trong đôi mắt mọi người đều ánh lên niềm tin về vận hội giành lại giang sơn xã tắc. Quả vậy, trên bàn cờ chiến sự bấy giờ, Trường Yên là mắt xích yếu nhất của quân Thát, bọn Toa Đô kéo vào Thanh Hóa chỉ để lại mấy ngàn quân, bọn Giảo Kỳ ở Thiên Trường có các vàng cũng không dám đem quân đi tiếp ứng. Việc nhị hoàng đổ đại quân đến Trường Yên khiến giặc ở đấy chưa đánh cũng tan, sự an toàn của các vua được bảo đảm chắc chắn, lại khiến Toa Đô lo không có đường rút, còn Giảo Kỳ bị uy hiếp từ phía nam sẽ rơi vào trạng thái hoang mang, sợ hãi. Thừa lúc mọi người đang vui, chưa ai nghĩ tới việc xung phong đi chuyến đầu, Chiêu Văn Vương nhanh nhảu nói: – Thần xin đi tiên phong. Mong nhị hoàng chuẩn thuận để còn lên đường cho kịp. Nhân Tông đồng ý, ngài phán truyền: – Cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dẫn hai vạn quân khẩn cấp vượt biển ra Hải Đông, có Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh trợ thủ. Chiêu Minh Vương đôn đốc việc chuẩn bị thuyền bè, bảy ngày sau thống lĩnh năm vạn quân tiến ra bắc qua của Hải Thị. Tả Thiên Vương Trần Đức Việp, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung với các tướng khác sẽ theo Thượng hoàng và trẫm tiến đánh Trường Yên. Vương, tướng dạ can, cùng bái biệt nhị hoàng để trở về trại chuẩn bị công vụ. Mấy ngày lênh đênh vượt biển ra bắc trên đạo binh thuyền của Chiêu Văn Vương, Phạm Thái vui đấy rồi buồn đấy, khiến đồng ngũ thấy khó hiểu nhưng ai cũng ngại, không dám hỏi han. Chỉ mỗi Lô Viên Dụng hiểu được tâm trạng của Thái, cậu ta lựa lời an ủi huynh: – Đệ cũng giống như huynh, biết sắp xa anh em lại thấy lòng nao nao, nhưng nghĩ tới việc gặp mặt anh em Vạn Kiếp thì lòng lại hớn hở. Thôi huynh ạ, còn ngày nào với nhau thì cứ thoải mái đi, cho mọi người cùng vui. Tan hợp, hợp tan là lẽ thường tình, ta là chiến binh sá gì chuyện đấy. Thái mở to mắt kinh ngạc nhìn cậu em, rồi nói: – Trời đất, mới mấy tháng chinh chiến mà già dặn hẳn lên. Lại còn triết lý nữa chứ. Dụng cười khì, đáp: – Mọi người nói chuyện hay lý luận nên đệ học theo thôi. Thái thổ lộ: – Huynh nhiều lần vướng nỗi đau tử biệt sinh lý nên lòng hay trăn trở về viễn cảnh ấy. Cũng biết thân là chiến binh nay sống mai chết, nếu chia tay anh em rồi, mình chết đi thì thôi, nhưng khi mình được sống, còn người này người kia tử trận trên sa trường, thì cuộc chia tay có khác nào tử biệt. Dụng ngồi buồn thiu, đờ đẫn nhìn Thái, nói ấp úng: – Có việc này... để nghĩ lâu rồi... chỉ huynh mới giúp được... mai mốt lỡ đệ không về... huynh thay đệ về gặp cha... Thái sa sầm nét mặt, đứng phắt dậy, trợn mắt mắng Dụng: – Huynh không giúp đâu, đệ gắng sống mà về với cha của mình. Đừng bao giờ nói với huynh như thế. Huynh từng một lần tan nát cả lòng vì những lời như thế, nên không muốn ai lặp lại. Dụng co rúm cả người khi biết mình lỡ đụng vào nỗi đau của người anh quân ngũ mà cậu thương mến như ruột thịt. Thái quay mặt giấu cặp mắt ướt nhòe, ký ức dội về, lời dặn dò của Thành huynh vẫn văng vẳng bên tai như những nhát búa đập vào trái tim mẫn cảm của chàng trai can trường. Xa xa, cửa An Bang đã hiện hình trong nắng sớm. Trên ụ cát ven bờ có mấy người lính phất cờ đỏ làm hiệu cho đoàn chiến thuyền cập vào bến bãi. Gặp mặt tướng quân Nguyễn Khoái, Chiêu Văn Vương nắm được thông tin Tiết chế Hưng Đạo đã xuất quân từ hai ngày trước, chỉ để lại lời nhắn “Quân từ Ái Châu ra thì hành binh khẩn cấp xuống tả ngạn sông Hồng phía nam thành Thăng Long, đón đánh bọn Mông Thát chạy về”. Hai tướng bàn bạc với nhau, nhận thấy nếu đi bằng đường thủy, muốn kịp thời gian thì theo sông Thiên Đức để vào sông Hồng, nhưng phải đưa binh thuyền qua Thăng Long, nơi giặc Nguyên đóng quân dày đặc. Họ quyết định tiến quân bằng đường bộ, để có thể cơ động theo lối tắt. Để lại vài ngàn quân canh giữ đạo thuyền, vạn tám quân theo chủ tướng Chiêu Văn Vương hành binh cấp tốc về tả ngạn sông Hồng. Cùng thời điểm ấy, hơn một vạn quân của Nguyễn Khoái cũng khởi động hành trình từ cửa Cấm về nơi tập kết. Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu theo lời dặn dò của Trần Hưng Đạo vận động các tộc trường miền núi cử dân binh tham gia đánh giặc, lực lượng lên đến năm ngàn người. Trên đường tiến quân, đội thám báo tiên phong của hai vị tướng trẻ phát hiện một đạo binh cầm cờ hiệu “Chiêu Thành Vương” đang hành quân phía trước. Hoài Nhân và Hoài Văn vội thúc ngựa đuổi theo. Các tướng gặp nhau tay bắt mặt mừng, lời chào câu hỏi râm ran không dứt. Chiêu Thành Vương cho biết: – Ta mới nhận tin cấp báo của Hưng Đạo Vương hôm qua, sáng nay cất quân đi liền. Quốc Toản nói: – Bọn tiểu đệ được gặp Quốc Công Tiết chế mấy hôm trước, ngài cho biết đánh thắng trận này, quân Nguyên tất hỗn loạn, ta sẽ thừa cơ vây hãm Thăng Long. Lại thấy phía xa xa có một đạo quân giương cờ hiệu “Minh Hiến Vương” đang hối hả trên đường. Mọi người cả mừng, vẫy gọi ầm ĩ. Minh Hiến Vương Uất phi ngựa tới, chưa kịp chào hỏi nhau đã rối rít giục giã: – Các huynh đệ khẩn trương lên, Hưng Đạo Vương mới truyền tin cho hay, giặc thua to ở A Lỗ đang tụ về Tây Kết. Ta phải cấp tập tiến công để chúng không kịp hoàn hồn. Mọi người cùng phấn khích, khí thế bốc ngùn ngụt, đường ra trận nhộn nhịp, tưng bừng như trẩy hội xuân. Nguyễn Khoái và Chiêu Thành Vương bày trận ở Mạn Trù, chặn đánh binh thuyền giặc đậu ngoài bãi Đà Mạc nếu chúng đổ quân cứu viện Tây Kết. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và Nội tiền điện chỉ huy sứ Vũ Quốc Minh chỉ huy đạo quân công phá Tây Kết. Minh Hiến Vương, Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu ém quân mai phục cách Tây kết một dặm về hướng bắc, đề phòng bọn Mông Thát rút chạy lên Hàm Tử. Bảy đầu lĩnh quân sự Đại Việt quyết giáng một đòn chí tử vào cứ điểm xung yếu của giặc trên trục giao thông đường thủy từ Thăng Long đến Thiên Trường. Quân Nguyên ở Tây Kết ước chừng hơn một vạn. Bao gồm ba ngàn quân của hai gã Thiên hộ Phùng Chí Bang và Địch Cổn cùng với hơn bảy ngàn quân của Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến. Lực lượng của Trần Nhật Duật áp đảo về số lượng, tinh thần cũng mạnh mẽ gấp bội phần bọn tàn quân Nguyên Mông vừa thoát chết ở A Lỗ. Sáng sớm ngày hai mươi tám tháng tư, Chiêu Văn Vương phát lệnh công kích. Hai đoàn chiến mã do ngài và Vũ Quốc Minh chỉ huy phi như bay tới trại giặc, phía sau là đội hình bộ binh ào ạt như thác đổ, khiên mộc giương cao, gươm mác tuốt trần, bừng bừng khí thế nhổ trại diệt thù. Bọn giặc nổi hiệu báo động, tụ tập quanh các lũy đất dùng cung tên bắn chặn đối phương. Nhưng chỉ có quân đồn trú và quân của Lý Bang Hiến có cung tên để kháng địch, riêng đám tàn binh của Lưu Thế Anh chẳng còn lại gì sau trận thua tơi tả ở A Lỗ, nên cả quân lẫn tướng cứ ngơ ngác nhìn quanh, tính sẵn đường đi nước bước, lúc nguy cấp còn tẩu vi thượng kếchạy là hơn cả. Quân ta tràn vào trại, vó ngựa dẫm lên đầu thù mà tiến công, đao bén xả vào lưng địch mà tung hoành. Quân Nguyên chống cự yếu ớt, một đám bỏ chạy khiến cả lũ hoang mang rồi mạnh đứa nào đứa nấy chạy, giành giật nhau lối thoát hiểm để tự cứu lấy mình, thây kệ đồng bọn sống hay chết. Chiêu Văn Vương Tượt theo tên giặc vận giáp binh cầu kỳ, ngài dùng mã đao chém hắn một nhát ngang vai, rồi bị mấy đứa khác xúm lại cản đường, nên đành để nó chạy thoát. Tên bị chém là Thiên hộ Phùng Chí Bang, tuy được tôi tớ giải cứu, nhưng số của y đã tận. Trúng thương nặng, Bang cố vẫy vùng thoát vây rồi lăn đùng ra chết giữa đám loạn quân Mông Thát mà chẳng ai hay, ai biết. Sau khi thua chạy về phía nam, Bột La Hợp Đáp Nhĩ toan tính không nên đi quá xa đại quân, nhưng cũng không ở quá gần Thăng Long, kẻo bị chủ soái trách phạt vì tội tại đào nhiệm vụ. Nghe tin quân của Hưng Đạo đã rút đi, Bột La Hợp Đáp Nhĩ dẫn binh thuyền quay lên hướng bắc, lập bến tại bãi Đà Mạc, liên thông tương hỗ thủy bộ giữa đạo thuyền của y và đồng bọn ở Tây Kết. Cả ngày nắng gắt như đổ lửa, tối về thì oi bức ngột ngạt, khiến viên chiến tướng Nguyên Mông vã mồ hôi như tắm, trằn trọc suốt đêm không tài nào ngủ được. Y than trời trách đất, nguyền rủa cái khí hậu ác nghiệt của xứ sở man mọi, rồi thiềm thiếp mơ màng khi có vài ngọn gió thổi nhẹ lúc đầu canh năm. Tiếng hò la vang dội từ trên bờ vọng xuống đánh thức Bột La Hợp Đáp Nhĩ lúc còn đang chiêm bao leo núi tuyết ở quê nhà trên vùng thảo nguyên Mông Cổ. Vội bật dậy, mắt nhắm mắt mở, chẳng hề mặc áo xỏ giày, không kịp đắn đo hơn thiệt, Bột La Hợp Đáp Nhĩ chạy ra mạn thuyền hò hét quân lính kéo qua ứng chiến. Đạo thuyền Nguyên lũ lượt rời bến Đà Mạc lao sang Mạn Trù giải cứu đồng bọn. Đợi cho thuyền giặc bắt đầu đổ quân lên bờ, Nguyễn Khoái và Chiêu Thành Vương phát lệnh công kích. Hàng vạn mũi tên ba cạnh sắc nhọn bắn ra từ bụi cây lùm cỏ buộc địch phải tháo lui xuống bãi sông. Từ hai phía tả hữu, Nguyễn Khoái và Chiêu Thành Vương dẫn quân lao vào cận chiến với giặc, sức ta quá mạnh, quân Nguyên yếu thế buộc phải rút lui lên thuyền. Các chiến binh Đại Việt leo qua mạn thuyền giặc đánh chiếm được năm chiến thuyền của địch. Bột La Hợp Đáp Nhĩ sai quân bắn tên lửa diệt thuyền bị cướp, quân ta khiến thuyền đang bốc cháy đâm vào đội hình giặc ở giữa sông rồi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Biết bãi Đà Mạc không thể dung thân, viên chiến tướng Mông Thát rút đội binh thuyền chạy lên hướng bắc. Quân ta diệt gần một ngàn tên, bắt sống hơn ba trăm đứa, địch còn mất tám chiến thuyền, gồm cả những chiếc bị chúng đốt. Bọn Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến dẫn tàn quân tháo chạy về Hàm Tử, lại rơi vào ổ phục kích của ba vị vương hầu nước Nam. Minh Hiến Vương ém quân sườn phải, Hoài Nhân Vương và Hoài Văn Hầu ém quân sườn trái bất ngờ bắn tên chặn đường rồi xáp tới giáp chiến. Giặc đã mất hết tinh thần nên chẳng còn bài bản đối kháng, chỉ cố chống đỡ để thoát thân. Thế Anh và Bang Hiến mở đường máu nhanh chân vọt trước, Minh Hiến và Quốc Toản dẫn quân truy kích, khi đến gần Hàm Tử mới chịu lui binh. Hai viên tướng giặc thoát nạn, nhưng quân của chúng tan tành cả, hàng ngàn tên tử thương, hàng trăm tên bị tóm cổ tại trận. Bọn Thiên hộ Địch Cổn chạy sau nên bị Hoài Nhân Vương khiến quân vây chặt. Giặc Nguyên ra sức vùng vẫy tìm cách thoát ra nhưng quân ta đã bịt kín mọi lối nẻo. Cổn bày kế giương đông kích tây, sai quân mở đường máu chạy về phía đông, Hoài Nhân tung đội kị mã tăng viện cho lực lượng bộ binh đang đánh chặn hơn một ngàn tên giặc cố vượt thoát. Gã Thiên hộ chớp thời cơ, dẫn mười mấy thủ tục phóng ngựa về phía Hoài Nhân Vương, lúc bấy giờ đang chốt chặn ở hướng bắc chỉ với vài chục chiến binh thân cận. Hoài Nhân khua đao tiếp tướng giặc, sau ba hợp chém xả ngang người Địch Cổn nhưng cũng bị một tên khác chặt đứt lìa cánh tay. Dăm tên thủ túc của Cổn dìu chủ chạy thoát, chưa về đến Hàm Tử thì y đã tắt thở. Các chiến binh của Hoài Nhân xúm lại vệ chủ, mà không dám truy kích bọn thuộc hạ của Địch Cổn. Lũ Nguyên chạy về hướng đông bị tiêu diệt gần hết, một số đứa trốn chui trốn lủi trong bờ bụi, đến khi đói quá mò vào các làng xin ăn, cũng bị dân chúng bắt trói giải giao cho quân đội triều đình. Hoài Nhân Vương tên thật là Trần Kiện, bị trọng thương lúc mới qua tuổi mười tám. Là một trong các vương hầu trẻ tuổi nhất tham gia lực lượng quân sự Đại Việt đánh đuổi giặc Mông Thát trong cuộc chiến năm Ất Dậu. Sau trận Tây Kết, ông không còn cơ hội sát cánh cùng người anh em chí thiết Trần Quốc Toản cầm quân chinh chiến, phò vua cứu nước. Thắng lớn ở Tây Kết, các tướng quyết định kéo quân diệt Hàm Tủ, khiến địch không kịp trở tay, không đủ thời gian củng cố lực lượng. Hàm Tử cách Tây Kết không đầy mười dặm, với hơn một ngàn quân đồn trú dưới quyền của Chiếu thảo Thiết Đài Bất Lý. Khi Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến dẫn tàn quân đến nhập bọn, viên Chiêu thảo hoảng quá bèn cử người sang Chương Dương nằm bên bờ hữu ngan cầu cứu Sát Tháp Nhi Đài, vốn là anh em thúc bá của y. Sát Tháp Nhi Đài lo sợ quân Trần sẽ tiến đánh Chương Dương nay mai, nên cố ý giữ quân cho mình, đành miễn cưỡng gửi ba ngàn binh sĩ sang Hàm Tử giúp người em họ, với lý do “Quân đi tuần tiễu chưa về, nếu về kịp sẽ tăng viện thêm”. Lúc thấy hơn bảy chục chiến thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ kéo qua, Thiết Đài Bất Lý cùng với bọn Lưu Thế Anh vẫy gọi rối rít, nhưng xem ra đội binh thuyền không có ý định cập bờ, Bột La Hợp Đáp Nhĩ đứng trên mạn thuyền nói lớn: – Không thể dừng lại. Đại vương điều động về Đông Bộ Đầu trấn giữ Long thành. Thực ra Thoát Hoan không hề điều binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, chẳng quay đoán biết Hàm Tử đang vướng mối hiểm họa trên đầu, trước sau cũng bị diệt như A Lỗ và Tây Kết, nên tội vạ gì mà dây vào cửa tử. Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến bàn với Thiết Đài Bất Lý: – Tình thế này không thể ở lại đây. Bọn ta chỉ còn vài ngàn quân mệt mỏi, quân của ngươi và đám tăng viện cả thảy có bốn ngàn, khó bề mà chống cự lại. Chi bằng kéo cả về Thăng Long cho an toàn. Thiết Đài Bất Lý nói: – Tại hạ cũng muốn rút đi cho rồi, nhưng giặc chưa đến đã bỏ trại tháo chạy, liệu Trấn Nam Vương có để yên cho ta không? Chi bằng cử người về soái phủ cấp báo và xin tăng viện. Nếu trong ba ngày không thấy quân tăng viện, bấy giờ ta rút đi cũng chẳng ai trách được. Thế Anh nói: – Sợ giặc chẳng chờ ba ngày đâu. Nếu không tính kỹ, lúc nguy cấp, ai cứu ta? Bang Hiến nói: – Lời của Chiêu thảo cũng có lý. Nếu vô cớ bỏ Hàm Tử sẽ đắc tội với đại vương. Quân Trần dù thắng cũng phải nghỉ ngơi, chưa chắc động binh tức thời. Khi chiếm được A Lỗ, bốn ngày sau chúng mới đánh Tây Kết, nhưng quãng đường từ Tây Kết về Hàm Tử gần hơn nên sau hai ngày không được tăng viện thì ta sẽ rút quân. Lưu Thế Anh và Thiết Đài Bất Lý đồng ý với phương án của Lý Bang Hiến. Các tướng giặc cấp tốc cử Tổng bả Hạ Trí Viễn về Thăng Long xin viện quân, đồng thời chia binh tăng cường bố phòng doanh trại. Một phần ba quân số túc trực ngoài chiến lũy, cứ hai canh đổi ca một lần. Ngoài dự đoán của giặc, mờ sáng ngày hai mươi chín tháng tư, quân ta chia làm ba cánh tấn công Hàm Tử. Bọn trực chiến nổi hiệu báo động, các tướng giặc chạy ra ngoài đã thấy bốn bề đen kịt chiến binh An Nam. Thiết Đài Bất Lý hò quân bắn cản rồi hùng hổ xông ra chiến lũy giáp chiến với địch quân. Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến nhấp nhổm tính đường lui, khi quân Trần tràn ngập trại Hàm Tử thì chúng đã nhanh chân tháo chạy về hướng bắc, bỏ mặc viên Chiêu thảo chống cự trong tình thế tuyệt vọng. Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản dẫn quân tung hoành trại giặc, áp đảo toàn diện, bắt giết vô kể. Thiết Đài Bất Lý chết gục dưới chân lũy trong đống các binh lính Nguyên Mông chất ngất. Minh Hiến Vương và Chiêu Thành Vương bao vây vòng ngoài diệt bọn vượt thoát. Lúc Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến mở đường máu xông ra, hai vương xáp lại công kích, đánh chém tơi bời. Ngựa chiến Mông Thát to khỏe hơn ngựa chiến Đại Việt nên hai gã tướng Nguyên chạy thoát. Trần Nhật Duật và Vũ Quốc Minh ém quân trên bãi sông cách Hàm Tử nửa dặm, nơi chiều hôm qua thám tử báo tin giặc Nguyên từ phía Chương Dương đổ quân tăng viện. Họ mai phục ở đấy để phòng bọn Sát Tháp Nhi Đài kéo binh thuyền sang ứng cứu. Trận chiến ở Hàm Tử đã vào đoạn kết nhưng mặt sông vẫn phẳng lặng, chẳng một gợn sóng thuyền nào từ hữu ngạn đổ tới. Chiêu Văn lẩm bẩm trong miệng “Hóa ra bọn Thát chó chết chẳng thèm cứu nhau, làm ta mất công phục binh cả đêm”. Chợt thấy đám tàn quân Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến chạy qua, ngài dặn Quốc Minh giữ trận mai phục, còn mình dẫn năm trăm kị mã truy kích. Đuổi theo đến hai chục dặm, dùng cung tên hạ sát được vài chục đứa, nhưng ngựa giặc có sức chạy bền hơn nên Nhật Duật đành thoái lui, bỏ cuộc truy sát. Thế Anh và Bang Hiến thoát thân, ngoảnh đi ngoảnh lại còn không đầy năm chục binh sĩ bầm dập tả tơi, đành lếch thếch kéo nhau về Thăng Long tạ tội thất trận với chủ soái Trấn Nam Vương. Sau trận chiến Hàm Tử, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật phàn nàn với các tướng: – Ta dở quá, dẫn quân đi mai phục những giặc chẳng đến thành thử trận này không có công lao gì. Chiêu Thành Vương nói vui: – Thuyền giặc bên Chương Dương biết huynh ở đấy nên sợ không dám qua. Khiến giặc không dám động binh cũng là công lớn đấy. Chiêu Văn Vương nói: – Ước gì được như huynh, chỗ nào nóng bỏng cũng có mặt, bị thương ở Thiên Trường chưa đầy tháng đã nghe tin đánh nơi này nơi kia. Chiêu Thành đáp: – Trúng thương nhẹ ở đùi, mấy bữa đã lành, để lại cái sẹo bé tí. Chương 2 Nhị hoàng đánh Trường Yên, Chiêu Minh tiến quân phạt bắc Quần hùng diệt Chương Dương, Chiêu Văn dốc binh vây đô Tin tức thua trận ở A Lỗ, mất đồn ở Giang Khẩu khiến Trấn Nam Vương ăn không ngon, ngủ không yên, bèn cho gọi A Lý Hải Nha đến soái phủ để bàn cách đối phó. Viên Bình chương trấn an chủ soái: – Đại vương chớ lo lắng. A Lỗ chỉ là điểm trung lộ trông coi tuyến đường thủy đến Thiên Trường, không hề ảnh hưởng tới cục diện ở Long thành, còn Giang Khẩu là một đồn nhỏ không đáng quan tâm. Thoát Hoan hỏi: – Nếu bọn Trần gia thừa thắng đánh tới Tây Kết, Hàm Tử và Chương Dương thì sao? Hải Nha lý luận: – Muốn đủ binh lực để đánh tiếp, chúng phải chuẩn bị nhiều ngày, nên trước mắt không có gì đáng ngại. Quân ta từ A Lỗ rút về sẽ tăng cường cho Tây Kết, Hàm Tử. Hai đạo quân của Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ vẫn đang kiểm soát tả hữu Nhị Hà. Thoát Hoan lại hỏi: – Có cần gửi quân tăng viện không? Hải Nha đáp chắc nịch: – Theo tại hạ không cần tăng viện. Chuyển quân từ Thăng Long về thì tuyến phòng thủ ở đây sẽ suy yếu. Nếu Tây Kết, Hàm Tử nguy cấp, bọn Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ tất kéo quân đến trợ chiến. Thoát Hoan đã yên tâm hơn, nhưng vẫn cẩn thận dặn A Lý Hải Nha tung thám báo đi dò xét dấu hiệu dịch chuyển của đối phương trong vòng năm mươi dặm ở khắp bốn hướng quanh kinh thành Thăng Long. Hoan còn lệnh cho thuộc hạ, khi có tin tức khẩn cấp thì bất kể ngày hay đêm phải trình báo ngay cho y. Hai ngày sau, lúc trời chưa sáng, bị một tên hầu cận đánh thức, Thoát Hoan còn lơ mơ bên nổi quạu mắng mỏ: – Tội người đáng chết, dám cả gan phá giấc ngủ của ta. Tên lính hầu nói lắp bắp: – Đại vương dặn nếu có tin khẩn cấp... Bấy giờ y mới tỉnh ngủ, trí nhớ hoạt động trở lại, bèn lấp liếm: – Thôi được rồi, bỏ qua. Ta sẽ ra ngay. Vừa thấy Trấn Nam Vương bước ra, viễn thám mã vội quỳ gối trước sảnh, lên tiếng trình báo: – Tiểu tượng là Tổng bả Hạ Trí Viễn từ Hàm Tử đến cấp báo với đại vương: Tây Kết đã bị đánh chiếm ngày hôm qua, giặc đang uy hiếp Hàm Tử. Xin đại vương cứu viện. Thoát Hoan nổi cơn thịnh nộ, quát tháo om sòm, đòi triệu tập tướng lĩnh tức khắc. Cuối giờ mão, đầu lĩnh các quân lục tục kéo đến. Vừa thấy mặt A Lý Hải Nha, Hoan mắng phủ đầu: – Ta đã dự cảm bọn thế tử sẽ đánh chiếm Tây Kết, nhưng ngươi cứ một mực cho rằng quân ta thừa sức trấn giữ mà không cần tăng viện. Bây giờ thất thủ rồi, ngươi tính sao đây? Hải Nha mặt tái mét, cố nặn óc ra cách thoát hiểm, như kẻ sắp chết đuối nhìn thấy cái cọc, y quay sang hỏi dò viên Tổng bả: – Khi giặc đánh Tây Kết, ngươi có thấy quân của Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ kéo đến trợ chiến không? Hạ Trí Viễn đáp: – Tiểu nhân không có mặt ở Tây Kết, nhưng nghe Vạn hộ Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến cho biết không thấy tăm hơi đạo quân của Sát Tháp Nhi Đài, còn Bột La Hợp Đáp Nhĩ có kéo quân đến giúp nhưng bị giặc chiếm mất mấy thuyền nên vội vã tháo lui. Trên đường phi ngựa về Thăng Long, tiểu nhân thấy binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ đậu ven sông, cách Chương Dương chừng mười dặm về hướng bắc. Bấy giờ A Lý Hải Nha mới vênh mặt đắc chí, nói: – Đại vương thấy chưa? Tại hạ đâu có lỗi, để mất Tây Kết chẳng qua vì sự hèn kém của Sát Tháp Nhi Đài và Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Chúng có bốn vạn quân nhưng một đứa không thèm đem quân đến cứu, một đứa thì dạo qua cho có, bị mất vài thuyền đã tìm đường tháo chạy. Thoát Hoan nhìn ngơ ngáo, có chỗ để trút giận thì nó đã luồn lách thoát tội, mấy tên cần xét tội thì lại không có mặt, y đành nuốt cục tức vào bụng, cho qua để quay về thực tại: – Hàm Tử cần tăng viện, các ngươi tính sao? Lý Hằng lên tiếng: – Nên tăng viện. Giữ được Hàm Tử thì Chương Dương không lo phía mặt sông. Hai trại này án ngữ tả hữu sông Hồng, đại vương nên lệnh cho chúng liên kết với nhau, bên nào bị công kích thì bên kia phải kéo quân sang trợ chiến. Thoát Hoan hỏi: – Nếu giặc tiến đánh đồng thời cả hai bên thì lấy ai trợ chiến? A Lý Hải Nha nói: – Theo tại hạ, chúng không có khả năng tiến đánh Hàm Tử và Chương Dương cùng một lúc. Đại vương nên điều binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ quay lại Hàm Tử, sai Sát Tháp Nhi Đài giữ binh thuyền thường trực ở Chương Dương, không dẫn quân đi tuần tiễu nữa. Thoát Hoan vẫn còn tức A Lý Hải Nha, bèn dè bỉu: – Người chỉ giỏi đoán mò. Nếu bọn Trần gia cùng đánh Hàm Tử và Chương Dương, bấy giờ đừng trách ta quả phạt. Nạp Tốc Lạt Đinh nói: – Hàm Tử và Chương Dương là cửa ngõ án ngữ phía nam Thăng Long, đại vương nên cử Bình chương A Lý thống lĩnh các quân ở mặt trận này. A Lý Hải Nha nói hậm hực: – Bình chương Nạp Tốc đánh dẹp tây bắc giỏi như thế, sao không ra gánh vác mà lại nhường cho ta? Thoát Hoan nạt: – Ta sẽ là người quyết định, các ngươi chớ có gầm ghè nhau nữa. Còn bọn thất trận ở A Lỗ và Tây Kết thì tính sao đây? Khoan Triệt đề nghị: – Lưu Thế Anh, Lý Bang Hiến, Mãng Cổ Thái và bọn Thiên hộ dưới quyền chiểu theo quân pháp thì phải trị tội, nhưng xét hoàn cảnh bây giờ, đại vương nên buộc họ cố thủ ở Hàm Tủ để đoái công chuộc tội. Chợt nhớ ra, Thoát Hoan hỏi Hạ Trí Viễn: – Ta chưa nghe nói đến Mãng Cổ Thái, hiện nay y đang ở đâu? Viên Tổng bả đáp: – Tiểu nhân không biết. Lưu Thế Anh nói Mãng Cổ Thái chạy hướng khác. Thoát Hoan nói: – Ta hiểu rồi. Nay người khẩn cấp quay về Hàm Tử, truyền lệnh của ta: Các tướng từ A Lỗ và Tây Kết chạy về phải cố thủ Hàm Tử mà chống giặc, kẻ nào bỏ trại sẽ trừng trị theo quân pháp. Hạ Trí Viễn nhận lệnh, cáo từ chủ soái. Bấy giờ Thoát Hoan mới ban lệnh điều động: – Để tăng cường bố phòng chiến tuyến phía nam, nay ta sai truyền... Trấn Nam Vương vừa nói đến đây thì thuộc hạ hớt hải chạy vào bẩm báo: – Có một đám người trang phục rách bươm, mặt mũi nhem nhuốc trầy trụa, cứ một mực đòi vào gặp đại vương. Bọn tiểu nhân yêu cầu xưng danh, họ bảo là Vạn hộ Lưu Thế Anh và Vạn hộ Lý Bang Hiến. Mấy đầu lĩnh Nguyên Mông thất kinh, cùng đoan chắc trong bụng Hàm Tử đã mất, Thoát Hoan bèn ra lệnh: – Cho hai tên bại tướng vào đây, còn bọn đi cùng tông xuống trại làm lao dịch. Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến lom khom bước vào rồi quỳ mộp xuống sàn, bộ dạng nửa người nửa ngợm, tay chân run bần bật. Thế Anh thở hổn hển, nói lí nhí trong miệng: – Bọn thuộc tướng đáng tội chết... Hàm Tử đã thất thủ... lực bất tòng tâm... Có mấy ngàn quân khó bề địch nổi bốn vạn quân địch. Thoát Hoan quát: – Nói cho rõ xem nào, đừng có dí mặt sát đất mà thì thào với âm phủ. Hai viên tướng lồm cồm bò dậy. Bang Hiến cố trấn tĩnh mà thưa thốt: – Hàm Tử chỉ có mấy ngàn quân, sang Chương Dương cầu viện thì Sát Tháp Nhi Đài giúp thêm được vài ngàn quân già nua ốm yếu, Bột La Hợp Đáp Nhĩ kéo binh thuyền qua nhưng bảo theo lệnh đại vương lên trấn giữ Đông Bộ Đầu. Quân Trần đông như kiến có tiến đánh lúc trời chưa sáng, bọn thuộc tướng thân cô thế yếu nhưng vẫn chống đỡ kịch liệt, khi cạn quân bất đắc dĩ phải rút chạy. Thoát Hoan trợn mắt, cao giọng: – Ta đâu có sai Bột La Hợp Đáp Nhĩ đến Đông Bộ Đầu? Còn Sát Tháp Nhi Đài có hai vạn quân mà chỉ gửi sang mấy tên ốm yếu? Tả hữu đâu, đi lôi cổ hai tên này về đây cho ta. Lý Hằng vội can gián: – Xin đại vương xem xét lại, nay ta cần ổn định quân tình để củng cố phòng tuyến phía nam, các tướng phạm sai lầm có thể trừng phạt sau, nếu ai lập công thì nên châm chước. Hoan thuận theo Hằng, mà rằng: – Tạm thời ta treo tội để đấy, bây giờ tập trung binh lực phòng thủ Chương Dương, nếu lập công thì sẽ giảm phạt. Nhưng kẻ hết quân thì cũng phải hạ cấp, nên giáng Lưu Thế Anh và Lý Bang Hiến xuống làm Thiên hộ. Nay truyền: Lý Hằng cho Lưu Thế Anh mượn năm ngàn binh, Khoan Triệt cho Lý Bang Hiến mượn một ngàn kị mã, sớm mai hai người lập tức quay về Chương Dương bổ sung vào đội ngũ của Sát Tháp Nhi Đài. Điều động Nạp Hải dẫn một vạn quân, Tôn Hựu dẫn một vạn quân đến Chương Dương lập trại bên ngoài. Sai quân hiệu truyền lệnh cho Bột La Hợp Đáp Nhĩ đưa binh thuyền án ngữ sông Hồng chặn đường thủy quân Trần tiến công từ phía nam. Cả thảy trên bộ dưới sông có gần bảy vạn quân, giao cho A Lý Hải Nha thống lĩnh, lo mà giữ cho được Chương Dương. Bọn chiến tướng vội vã tháo lui, về quân doanh để chuẩn bị khởi sự. Nạp Tốc Lạt Định cưỡi ngựa đuổi theo Tôn Hựu dặn dò: – Quân Vân Nam vốn ít, nay ngươi dẫn đi một vạn nên chẳng còn bao nhiêu. Hãy liệu bề mà đánh, nếu đánh không lại thì gắng bảo toàn lực lượng, kẻo lúc phải rút về nước, ta chẳng còn gì để phòng thân. Tôn Hựu hỏi: – Như vậy theo ngài cuộc chiến này ta khó thắng? Nạp Tốc Lạt Đinh lên giọng đàn anh: – Còn gì nữa, ngươi là thuộc tướng nên ta mới nói riêng cho biết. Cố giữ lấy mình, đừng chết uổng mạng làm ma đói xứ người. Viên Bình chương ghé sát tai gã Vạn hộ thầm thì, không biết họ nói gì với nhau nhưng thấy vẻ mặt của Tôn Hựu cứ sáng rỡ lên, ra cái điều rất tâm đắc. Sau trận chiến A Lỗ, Hưng Đạo Vương dẫn quân quay về Vạn Kiếp để trù liệu kế sách đối địch nay mai. Theo dự đoán của ngài, trong vòng một tháng nữa, vùng đông bắc sẽ là bãi chiến trường chôn vùi đạo quân Nguyên Mông khi chúng buộc phải tháo chạy về nước. Trước khi lên đường, ngài kêu Tuấn Thọ lại dặn dò: – Ngươi lấy năm trăm quân đến cắm chốt trên sông Luộc quá ngã ba chừng vài dặm, giương một lá cờ đại thêu chữ Đông A ở nơi cao ráo, ban đêm thì đốt lửa làm hiệu. Đồng thời cử người đi tìm kiếm nơi quân ta trú đóng. Vài ba ngày nữa, nếu thấy binh thuyền của Quan gia hoặc Thái sư thì chỉ dẫn về đấy hội quân. Quả nhiên không nằm ngoài tính toán của Hưng Đạo. Lúc trận chiến Tây Kết nổ ra thì đội thuyền tiên phong năm mươi chiếc do hai tướng Trần Thông và Trần Quốc Thành chỉ huy, bắt đầu vào cửa Hải Thị. Sẩm tối hôm đấy họ đến gần ngã ba sông Luộc. Do không nắm được tình hình thực địa, các tướng cho tạm neo thuyền để cử người đi thám thính, trước khi tiến vào sông Thiên Mạc. Chợt thấy phía xa bùng lên một ngọn lửa lớn, Trần Thông bảo thuyền tiến lại gần thì đọc được chữ Đông A thêu trên đại kỳ đang tung bay phất phới. Thông cả mừng, reo lên: – Kia rồi, quân ta cắm cờ làm hiệu, như vậy là đã chiếm được A Lỗ. Trần Quốc Thành nói: – Đề phòng địch cài bẫy, cẩn thận vẫn hơn. Hai tướng không cho thuyền cập bãi mà đậu giữa sông chờ xem động tĩnh từ trên bờ. Chốc lát có chiếc thuyền nhỏ chèo ra, một võ tướng hỏi vọng lên: – Xin cho biết, đạo thuyền của ai? Trần Thông từ trên mạn hỏi vọng xuống: – Có phải Tuấn Thọ, tì tướng Vạn Kiếp không? Họ nhận ra nhau trong ánh đuốc bập bùng, cùng hớn hở vui cười và thông báo tình hình đôi bên. Tuấn Thọ cho biết, quân ta đã chiếm Tây Kết sáng nay, chuẩn bị công phá Hàm Tử. Hai tướng mừng lắm, sốt sắng muốn đi ngay. Quốc Thành nói: – Đại quân của Chiêu Minh Vương xuất bến sau nửa ngày, sớm mai sẽ vào tới đây. Ngươi nên ở lại chờ đón, nhưng cử người dẫn đường cho tụi ta đến nơi đóng quân của Chiêu Văn Vương, để còn kịp góp sức đánh Hàm Tử. Tuấn Thọ đáp: – Tiểu nhân vẫn ở đây chờ đón Thái sư, nhưng mùa này nước sông Hồng rất mạnh, thuyền ngược dòng không thể đi nhanh, ban đêm cũng khó phân biệt địch ta. Hay là các ngài chờ trời sáng hãy khởi hành? Trần Thông nói: – Không được, phải đi ngay. Quân tiên phong mà chờ đại quân đến sát gót mới rục rịch thì còn ra thể thống gì nữa? Tuấn Thọ đành dùng đèn làm hiệu điều một chiếc thuyền nhỏ ra sông dẫn đường cho đội tiên phong của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Trước lúc chia tay, các tướng sai quân trong dây thả xuống thuyền Tuấn Thọ hai sọt cam đẩy, bảo rằng “Có chút quà xứ Thanh, người chia cho binh sĩ ăn lấy thảo”. Sáng ngày hai tám tháng tư, binh thuyền của Thái sư Trần Quang Khải còn ở ngoài biển thì đạo quân của Thượng hoàng và Quan gia đã cập bờ Trường Yên. Theo lịch trình, để chuẩn bị thêm phương tiện, nhị hoàng xuất bến sau Thái sư ba ngày. Nghe tin vua triệu tập thuyền bè, bà con Thanh Hóa nô nức kéo đến tham gia, ai cũng sốt sắng góp thuyền giúp vua đuổi giặc. Bến bãi đông vui như hội, thuyền bè đậu kín ba dặm, dân chúng tíu tít phụ giúp binh sĩ dắt ngựa, chuyển đồ ăn thức uống lên thuyền. Nhân Tông và các quan vô cùng cảm phục tinh thần trợ nghĩa của đồng bào, ngài hỏi dân “Nghe nói bọn Toa Đô, Ô Mã Nhi lùng sục cướp thuyền, dân ta giấu ở đâu mà còn giữ được đem tới cho trẫm?”. Dân thưa với vua “Giặc đến thì đem thuyền ra khơi hoặc giấu trên nguồn. Nay hoàng thượng cần thuyền, chúng dân hội về giúp người chở quân đánh Thát”. Thế là hai vua quyết định xuất binh sớm hai ngày, chớp thời cơ mà tiến quân khiến giặc hoàn toàn bị động, muốn trở tay cũng đã muộn. Do quãng đường ngắn hơn nên dù đi sau một ngày, các vua đến Trường Yên trước khi Thái sư đến sông Hồng. Ngoài ba trăm thuyền chiến oai hùng của lực lượng hải quân Đại Việt, đạo thuyền hỗn hợp của ngư dân gồm lớn bé đủ cỡ, cũ mới đủ kiểu cùng tham gia hải trình chuyển hơn tám vạn quân ra Trường Yên. Thuyền lớn chở bảy, tám chục quân, thuyền nhỏ chở bốn, năm chục binh do chính dân chài chèo chống, cả thảy gần ngàn chiếc nối đuôi nhau theo thuyền vua cưỡi sóng nhắm hướng đông ra khơi để tránh bị quân Toa Đô phát hiện. Đi được chừng mười lý, đoàn thuyền chuyển sang hướng tây bắc, theo gió nồm lao nhanh vào bờ. Được ngày đẹp trời, chuyến hải hành của quân dân bình an vô sự. Tiền điện chỉ huy sứ Lê Mạnh chỉ huy vệ Thần Sách thống lĩnh bảy ngàn quân tiên phong đổ vào cửa Đại An, vừa đặt chân lên đất liền, ông bảo với binh sĩ “Mấy tháng trước, lúc nguy cấp, chúng ta đã rút quân qua cửa này. Nay tình thế đảo chiều, anh em ta lại vào cửa này để giúp Quan gia giành lại Trường Yên. Các huynh đệ có nỗ lực cùng ta không?”. Đoàn chiến binh đồng thanh hô lớn “Chúng tôi nguyện cùng tướng quân giành lại Trường Yên”. Theo kế hoạch, quân tiên phong sẽ tiến đánh Yên Mô, chiếm đèo Tam Điệp, phòng chống bọn Toa Đô từ Thanh Hóa kéo ra. Trước khi đem quân vào Ái Châu, Toa Đô để lại năm nghìn quân canh giữ Trường Yên, chia làm ba cụm ở Yên Mô, Uy Viễn và Yên Ninh. Với lực lượng thưa mỏng như vậy, chúng khó bề chống chọi với đại quân của nhị hoàng. Khi quân của Lê Mạnh ập đến Yên Mô, giữ trại giặc chỉ có tám trăm lính Thát, số đông theo Thiên hộ Lý Diễn đi càn quét kiếm cơm chưa về. Bọn địch trong trại bị tấn công bất ngờ, không kịp vớ vũ khí đánh trả nên nháo nhào chạy trốn. Quân ta mặc sức ra đòn, rửa mối thù tàn hại lương dân vô tội, nhiều tên bị giáo chọc vào bụng, ruột phơi trắng lùm cỏ, lắm đứa bị kiếm chém lìa cổ, máu phun ngập nền đất. Một đám vài trăm thằng còn chút chí khí liên kết lại có mở lối rút chạy, song bị quân ta vây bủa tầng tầng lớp lớp, giết sạch không sót đứa nào. Có mười mấy tên không tìm cách kháng cự mà chui bờ bụi ẩn náu, bị tóm sống nhưng được tha mạng. Lê Mạnh tra khảo bọn tù binh, chúng khai báo đường đi nẻo về của viên đầu lĩnh Lý Diễn. Ông cho quân mai phục đón đánh lũ kẻ cướp trên đường quay về trại. Sau ba ngày càn quét các động sơn cước, đội quân của Lý Diễn hí hửng trở về trại với đàn trâu hơn chục con, năm xe lương thực, nhiều lợn gà và một đoàn đàn bà, con gái bị trong dây vào cổ dắt đi như súc vật. Khi giặc lọt vào ổ phục kích, phát hiện thấy toán phụ nữ bị chúng bắt theo, Lê Mạnh ra hiệu cho các xạ thủ hạ gục bọn áp giải rồi phát lệnh tấn công, Quân ta từ hai phía nhảy xổ vào đám giặc, miệng hô vang “Sát Thát cẩu tặc”, dùng thế áp đảo mà đánh giết tơi bời. Riêng Mạnh dẫn đội chiến binh cường tráng nhất xông tới giải thoát các nữ nhân, cử người bảo vệ chị em rồi chia quân lùng diệt bọn đào thoát. Thiên hộ Lý Diễn dẫn theo được dăm chục quân thúc ngựa tháo chạy. Bị quân ta bám đuổi ráo riết, bọn tàn quân cú rơi rụng dần, chạy đến một hồ lớn dưới chân núi Tam Điệp thì hết đường, Lý Diễn ngoảnh lại chỉ thấy còn ba tên lính, bèn hét một câu “Trời nỡ nào buộc ta phải chết” rồi phi ngựa thẳng xuống nước. Mấy tên lính kim cương, không dám liều mình theo chủ, giơ tay chịu trói. Tên Thiên hộ tàn ác chẳng để lại dấu vết gì ngoài đám tăm sủi đục mặt hồ. Dẹp xong giặc ở Yên Mô, Lê Mạnh cử một đội binh sĩ đông tới hai trăm người đưa đoàn phụ nữ cùng toàn bộ gia súc và lương thực trở về bản quán. Lúc lên đường, các chị các em rưng rưng nước mắt, cùng chắp tay cúi đầu đa tạ ân nhân cứu mạng. Vị chỉ huy sứ bùi ngùi tiễn mọi người mà lòng thì tràn trề niềm kiêu hãnh của một chiến binh đã làm tròn chức phận giải phóng. Nhị hoàng cập bờ sau Lê Mạnh khoảng ba canh giờ. Toàn quân đã rời thuyền bình an, hai vua cùng các quan tướng đứng trên bờ bái biệt bà con ngư dân trở về quê nhà, Nhân Tông dõng dạc nói: – Thượng hoàng và trẫm sẽ ghi lòng tạc dạ công sức của mọi người đã tận tâm chí nguyện giúp quân đội triều đình đánh giặc thuận lợi. Mai mốt giang sơn sạch bóng ngoại bang, trẫm sẽ miễn thuế trong ba năm để dân chúng các nghề ngư, tiều, canh, mục sớm phục hồi sinh kế, ổn định cuộc sống. Hơn một ngàn ngư phủ đồng loạt quỳ gối hô vang: – Chúng dân đa tạ hoàng ân. Thái thượng hoàng vạn vạn tuế. Hoàng thượng vạn vạn tuế. Tin thắng trận ở Yên Mô báo về, vua tôi càng phấn chấn, ai nấy đều sốt sắng lên đường lập công. Theo lệnh vua, Tả Thiên Vương Trần Đức Việp dẫn một vạn quân xuất kích đánh Uy Viễn, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung dẫn một vạn quân đến Yên Mô kết hợp với Lê Mạnh tăng cường phòng thủ Tam Điệp. Hai vua cùng các tướng khác tiến đánh Yên Ninh, từng là trung tâm chỉ huy của giặc ở Trường Yên. Tại Uy Viễn, quân Nguyên chỉ có hơn một ngàn binh sĩ, trước đó đã nghe tin thất thủ Yên Mô nên rủ nhau tháo chạy về Thiên Trường. Tả Thiên Vương chưa đánh đã thắng, nhưng ngài không dễ chấp nhận để bọn chúng chạy thoát nên tung hai ngàn quân kị lần theo dấu vết mà truy kích. Phát hiện quân ta đang đuổi theo, viên Tổng bả Lỗ Cư Xích Khoát cùng hơn trăm lính kị bỏ mặc bọn bộ binh, quất ngựa chạy thẳng. Đến sông Đáy, chúng cướp được một chiếc thuyền nhỏ, đám lính rời ngựa tranh nhau lên thuyền, mấy thằng to khỏe vung đạo đe dọa, sẵn sàng chém xả đồng bọn để giữ chỗ cho mình. Cuối cùng chỉ có tên Tổng bả và vài chục đứa thoát được sang bên kia sông. Bọn còn lại chạy tứ tán, dăm tên liều lĩnh nhảy xuống nước, vùng vẫy một hồi rồi chìm nghỉm. Lũ bộ binh như rắn mất đầu, tinh thần hoảng loạn, hò nhau tháo chạy ra bờ sông, bất lực nhìn dòng nước cuồn cuộn, chúng đành thúc thủ chờ quân ta đến trái. Lỗ Cư Xích Khoát chạy tới Thiên Trường, vào trình diện Giảo Kỳ. Lão thân vương mới nhận tin dữ từ A Lỗ, nay lại được tin ở Trường Yên, tâm trí tự nhiên bấn loạn, bèn triệu Lưu Khuê đến tham vấn. Lưu Khuê hỏi bại tướng: – Ngươi có hay tin về các trại khác không? Xích Khoát đáp: – Yên Mô đã thất thủ, còn tình hình ở Yên Ninh tại hạ không nắm rõ? Lưu Khuê phán đoán: – Chúng dùng một đạo quân lớn đánh vào chỗ yếu nhất của quân ta, đủ biết Trần gia có nhiều người giỏi binh pháp. Trước sau Yên Ninh cũng bị diệt, bấy giờ họ sẽ uy hiếp từ phía nam, đường vận lương đã bị cắt, chỉ sau một ngày cuối sông Hồng, thuyền chiến của giặc sẽ đến Thiên Trường. Ta ở đây khác nào có nằm trên thớt. Giảo Kỳ run bắn cả người, mà rằng: – Theo Vạn hộ, có cách gì đối phó? Lưu Khuê nói: – Vài ba vạn quân giữ Thiên Trường không xuể, nên khó mà tăng viện giúp Yên Ninh. Nhưng ta cũng không thể ngồi yên một chỗ chờ giặc đến. Tôi sẽ dẫn một vạn quân lập phòng tuyến ở bờ bắc sông Đáy, đề phòng quân Trần chiếm Yên Ninh vượt sông đánh sang. Còn ngài cũng nên rời hành cung Thiên Trường đem quân lên ngã ba sông Trà Lý lập phòng tuyến chặn địch theo sông Hồng đánh xuống. Giảo Kỳ phàn nàn: – Sao phải đi xa vậy, lúc cần rút thì đi về đâu? Lưu Khuê đáp: – Tùy ngài thôi, đến nước phải tháo chạy thì thân ai nấy lo. Năm vạn quân của nhị hoàng tiến đánh Yên Ninh, vốn chỉ có vài ngàn quân Mông Thát đồn trú. Đạo quân nhà Trần không hề giấu giếm binh lực, trống dong cờ mở hành binh như thác cuộn về hướng đồn thù. Hai vua mặc chiến bào ngồi xe tam mã lọng vàng, xung quanh có hơn trăm quan tướng và hai ngàn túc vệ hộ tống, xe vua đi đến đâu cũng được dân chúng đổ ra rưng rưng lạy chào. Viên chủ tướng Yên Ninh là Chiêu thảo Lư Quốc Cang hồn vía rụng rời khi nhìn thấy đoàn quân đối phương dài dằng dặc, bèn dẫn quân tháo chạy khỏi trại.�� Trước đó Nhân Tông đã sai phó tướng hữu vệ Thiên Chương là Hồ Đức Trọng dẫn năm ngàn quân mai phục bên bờ sông Đáy. Đám giặc chạy một hồi nhưng không thấy quân Trần truy kích, Lư Quốc Cang hí hửng thoát nạn, đang tính kế vượt sông thì trong các bãi lau có cả ngàn mũi tên bắn ra hạ gục hàng loạt binh sĩ của y. Khi đối phương bật dậy từ lòng đất vung đao kiếm chặn đầu, viên Chiếu thảo dẫn quân đổi hướng chạy dọc bờ sông lại rơi vào một ổ phục kích khác. Trước sau thọ địch, Cang liều mình đánh trả, bị chết trong đám loạn quân. Quân thần vô cùng hồ hởi khi nhận được tin Hưng Đạo Vương đã diệt A Lỗ, quân ta đang hợp lực đánh các đồn trại giặc dọc sông Hồng. Kịp lúc Hồ Đức Trọng đưa quân về Yên Ninh trình diện nhị hoàng, dẫn theo gần năm trăm tù binh Mông Thát. Vua khen ngợi chiến thắng, hứa định công hậu thưởng. Lại có tin báo, Tả Thiên Vương Trần Đức Việp sai người áp giải bảy trăm tù binh từ Uy Viễn mới về đến. Thấy Nhân Tông nhíu trản đăm chiêu, Thượng hoàng bèn hỏi: – Bệ hạ lại có điều phân vân rồi, chắc là vấn đề tù binh? Nhân Tông tròn mắt kinh ngạc, tỏ bày sự thán phục: – Phụ hoàng tài thật, biết được cả bụng con. Thánh Tông cười, mà rằng: – Ta là cha của hoàng nhi mà. Nhân Tông thổ lộ: – Quả thật con chưa nghĩ ra cách nào hợp lý để giải quyết đám quân Nguyên bị bắt. Thế cuộc chưa vào hồi kết, ta vẫn cần từng người lính, từng cân thóc, nay lại phải cử một đội quân canh giữ chúng, còn lo nuôi ăn hằng ngày. Thả thì không được, giết cũng không nên, vì chúng đã đầu hàng mà đem giết thì còn gì là đại nghĩa diệt ác độ nhân. Thánh Tông nói: – Bệ hạ khó nghĩ cũng phải, từ hồi khởi chiến đến giờ, đây là lần ta bắt được nhiều tù binh nhất. Nhưng sắp tới sẽ còn bắt nhiều hơn nữa, cần trò liệu cho chu đáo để sau này đỡ lúng túng. Hoàng thượng đã giãi bày, các khanh có kế gì thì nêu ra? Đinh Củng Viên đề nghị: – Theo thần, ta tạm thời đưa chúng khỏi vùng chiến sự, lập một trại lớn mà nhốt cả vào đấy. Đành cử người trông coi và tốn cơm gạo ban đầu, rồi bắt chúng tự trồng rau củ, nuôi lợn gà để có cái mà ăn. Nhân Tông mừng rỡ nói: – Cách này được. Vậy trẫm giao Lê Trọng Dĩnh đảm nhiệm, khanh hãy thu xếp cho tốt. Lê Trọng Dĩnh kiến nghị: – Thần vốn quen việc tra hỏi, xét xử, nay bệ hạ giao làm canh nông, không biết gánh vác ra sao? Nhân Tông mỉm cười rồi phán: – Khanh làm Kiểm pháp quan, quản trại giam là hợp lý. Việc canh nông thì binh sĩ của ta ai chẳng biết chăn nuôi trồng tỉa, khanh cứ giao phó, họ sẽ khiển đám tù làm việc. Bấy giờ Trọng Dĩnh mới thấy an tâm, đáp rằng: – Hạ thần tuân chỉ. Nhân Tông lại hỏi: – Ta đã thu hồi được Trường Yên, nhưng phía sau có Toa Đô, phía trước có Giảo Kỳ, theo các khanh, bước kế tiếp nên tiến hành ra sao? Đỗ Khắc Chung nói: – Mất Trường Yên, bọn Giảo Kỳ tất kinh động, ta nên thừa thắng kéo quân ra lấy Thiên Trường. Nguyễn Thuyên nói: – Nhị hoàng ngồi một chỗ cũng lấy được Thiên Trường. Khi giặc rút chạy, bấy giờ hãy cử người ra tiếp quản. Thánh Tông hỏi: – Kế sách ra sao, khanh trình bày cụ thể xem nào? Thuyên nói: – Giảo Kỳ là gã thân vương đớn hèn, khi hay tin ta chiếm Trường Yên, lại biết đường tiếp lương bị cắt, trước sau cũng tìm cách tháo chạy. Phó tướng của y là Vạn hộ Lưu Khuê, tuy có dũng khí nhưng quyền bính thấp, nếu Giảo Kỳ rút quân, Lưu Khuê muốn đánh cũng không đủ binh, tất sẽ chạy nốt. Ta chỉ cần tung tin nhị hoàng sắp dẫn mười vạn binh ra Thiên Trường. Trong vòng mười ngày, giặc sẽ chạy hết. Lê Văn Hưu lên tiếng: – Thần tán thành kế sách của Nguyễn Thuyên. Nếu chia quân, dù để lại bốn vạn giữ Trường Yên thì binh lực vẫn thua kém Toa Đô, khi hắn kéo đến sẽ khó bề trụ vững. Quân đánh Thiên Trường bấy giờ chỉ còn bốn vạn, không áp đảo được giặc. Chi bằng ngồi một chỗ mà khiến giặc tan. Đinh Củng Viên nói: – Nếu nhị hoàng theo kế của Nguyễn Thuyên, thần chỉ xin sửa lại một chút chiêu thức “Tung cây dọa khỉ”, là dùng người của chúng truyền tin tới tai bọn đầu lĩnh ở Thiên Trường. Nhân Tông hỏi: – Có phải khanh muốn thả tù binh để bọn chúng phao tin đại quân ta sắp tiến đánh Thiên Trường? Củng Viên đáp: – Ý thần đúng như vậy. Lựa một số tên già yếu, lấy sự khoan dung mà phủ dụ, trước khi thả về tình cờ để chúng chứng kiến binh lực hùng hậu của ta. Như vậy ta cũng đỡ được mấy miệng ăn, còn phía giặc thì cả tin hơn vì chính đồng bọn của chúng tai nghe mắt thấy. Thượng hoàng có vẻ hài lòng, Quan gia bèn sai truyền: – Đỗ Khắc Chung phù hợp việc này, khanh bàn bạc với Lê Trọng Dĩnh tiến hành cho kín kẽ. Đinh Củng Viên, Lê Văn Hưu giúp trẫm khôi phục lại hệ thống nha phủ để dân chúng an tâm vua ta đang điều hành lãnh thổ. Nguyễn Thuyên thay trẫm thảo thư tín gửi cho Hưng Đạo Vương và Chiêu Minh Vương. Buổi sáng hôm sau ở Yên Ninh, Phó tướng Hồ Đức Trọng bày binh trên hai quả đồi phía trước bãi cỏ quây rào nứa làm nơi tạm nhốt lính Nguyên. Cả vạn quân hàng ngũ chỉnh tề, tinh kỳ rực rỡ, gươm đao sáng chói, khiến bọn tù binh dõi theo bằng ánh mắt tò mò lạ lẫm. Hồ Đức Trọng vận võ phục oai vệ, cưỡi chiến mã to khỏe, tháp tùng có năm tiểu tượng hùng dũng, chạy nước kiệu duyệt binh đội rồi dùng trước hàng quân. Tướng Trọng dõng dạc hỏi lớn: – Binh sĩ hữu vệ Thiên Chương sức lực thế nào? Cả vạn con người đồng thanh đáp lại: – Rất khỏe. Đức Trọng lại hỏi: – Binh sĩ hữu vệ Thiên Chương tinh thần ra sao? Cả vạn con người cùng cao giọng đáp lời: – Rất tốt. Tiếng hô rền như sấm sét, khí thế oai phong như thiên binh nhà trời, làm đám lính Nguyên tròn mắt kinh sợ, lại có phần thán phục cách thức chào hỏi nghiêm trang và thân mật của tướng sĩ nước Nam mà chúng chưa một lần được thấy trong đời. Đợi cho tiếng vang lắng xuống, Đức Trọng cất tiếng hào hùng chỉ thị ba quân: – Ta được hoàng thượng tín nhiệm giao ấn tín tiên phong trong trận chiến nay mai. Đội ngũ hữu vệ Thiên Chương sẽ dẹp lối mở đường cho đạo quân hàng chục vạn của các vua tiến vào Thiên Trường, trọng trách rất nặng nề, anh em binh sĩ có nỗ lực cùng ta không? Hai quả đồi lại rung chuyển bởi tiếng hô đanh thép của ngàn vạn chiến binh Đại Việt: – Chúng tôi quyết theo chủ tướng mở đường diệt Thát tại Thiên Trường. Bọn tù binh thầm thì bàn tán, có kẻ ra vẻ hiểu biết “Kia là quân hữu của một vệ, còn quân tả nữa. Họ có tới mười mấy vệ tả hữu như thế”, đứa này thán phục “Chí khí của quân An Nam mạnh quá”, đứa kia phán đoán “Thiên Trường cũng sớm mất thôi”. Buổi trưa, Đỗ Khắc Chung và Lê Trọng Dĩnh xuống trại tạm giám sát việc chuyển tù. Khắc Chung nói với bọn tù binh: – Các ngươi là lính trong đạo quân xâm chiếm nước Nam, đáng lý phải tội chết để trả nợ máu tàn sát dân lành, nhưng vua ta khoan dung đại độ không nỡ giết, còn chọn chỗ đất tốt đưa về đấy giam giữ. Nay xếp hàng năm đi ra khỏi trại về nơi ở mới. Lê Trọng Dĩnh biết nhìn người, cứ mỗi hàng tù binh bước qua cổng trại đều được ông soi xét kỹ lưỡng, thấy tên nào già nua ốm yếu và bạc nhược thì giữ lại. Trong hơn một ngàn lính Nguyên, ông chọn được hai mươi lăm đứa thuộc đủ các sắc tộc rồi bàn giao cho Đỗ Khắc Chung. Ba trăm chiến binh Đại Việt dưới quyền của Kiểm pháp quan Lê Trọng Dĩnh áp giải đoàn tù binh Mông Thát lên đường tới trấn Thiên Quan ở phía tây Yên Ninh. Thấy đồng bọn đi cả, những tên ở lại đâm hoảng, sợ bị quân ta sát hại. Nhìn vẻ mặt thất thần của chúng, Đỗ Khắc Chung lên tiếng trấn an: – Đường đến trại giam xa xôi mà các ngươi thì quá già yếu, vua ta sợ mấy người gục chết dọc đường nên động lòng cho ở lại. Nếu các ngươi thề không đánh trận nữa thì vua ta sẽ thả cho về. Bọn Nguyên sửng sốt, không tin ở tại mình, một tên đánh liều hỏi: – Thưa đại nhân, có phải vua của ngài tha cho chúng tôi được trở về? Khắc Chung đáp: – Đúng vậy. Ta nghĩ các ngươi chẳng còn thiết việc đánh nhau, chi bằng cho về để thêm tỏ nhân đức sáng rỡ của bậc chí tôn. Nhưng sau khi được thả, nếu ai bị tướng Nguyên giữ lại thì nên né tránh ra trận, khi thấy quân ta thì tìm chỗ trốn chứ đừng kháng cự. Đám lính lao nhao bày tỏ nỗi vui mừng và thái độ hàm ơn trước lòng khoan dung của vua nước Việt. Khắc Chung bắt chúng phải thề bồi. Bọn tù binh cùng khấu đầu nguyện xin trời đất chứng giám sẽ không bao giờ chống lại người Nam. Ông cho người dẫn chúng ra sông Đáy, xuống một chiếc đò cắm sào đợi sẵn. Đám tù binh được chở sang bờ bên kia, thuộc địa phận phủ Thiên Trường. Đoàn binh thuyền của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải do tì tướng Tuấn Thọ dẫn đường vào đậu tại bến Tây Kết, vương và chư tướng cùng đoàn tùy tùng đến hội quân với các đầu lĩnh đang đóng trại gần Hàm Tử, cách Chương Dương ở bên hữu ngạn không đầy năm dặm. Tướng soái Đại Việt gặp nhau tay dang mặt cười, mừng vui khôn xiết, lời chào câu hỏi chộn rộn trên bến dưới thuyền. Sau buổi tao ngộ ấm nồng, mọi người kéo vào quân doanh bàn bạc kế sách đánh giặc. Chiêu Minh Vương đọc chiếu thư của Quan gia gửi cho các tướng trên mặt trận phía bắc. Trong thư có đoạn viết “Thượng hoàng và trẫm vô cùng cảm kích tinh thần chiến đấu của các khanh và binh sĩ. Mong sao trên dưới đồng tâm nỗ lực quét sạch giặc Hồ khỏi kinh sư, để trẫm sớm về Thăng Long khôi phục lại nền thịnh vượng của giang sơn Đại Việt”. Các tương đồng loạt quỳ gối tung hô “Chúng thần tuân chỉ. Quyết giành lại Thăng Long”. Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật thông báo tình hình bố trí lực lượng quân sự của giặc: – Theo tin tức thám báo, trại giặc ở Chương Dương có vạn rưỡi quân kị bộ, dưới bến có vạn rưỡi quân thủy và gần một trăm chiến thuyền do Sát Tháp Nhi Đài đầu lĩnh. Cách ba dặm về phía nam có đạo binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Quanh Chương Dương, chúng lập thêm hai trại lớn do Nạp Hải và Tôn Hựu cai quản. Trước sau quân Nguyên có không dưới bảy vạn binh, tất cả đều thuộc quyền thống lĩnh của viên Bình chương A Lý Hải Nha. Chiêu Minh Vương hỏi: – Tên Bình chương trú đóng ở đâu? Nhật Duật đáp: – Thám tử của đệ có nhiều người Tống, họ trà trộn trong đám giặc nên nắm được tin A Lý Hải Nha không cố định ở chỗ nào. Hắn dẫn theo một trăm tả hữu nay ở trại này, mai đến trại khác, đôn đốc việc binh rồi lặng lẽ bỏ đi. Chiêu Thành Vương nói: – Nó là con cáo già xảo quyệt nên thường xuyên di chuyển đề phòng ta biết được nơi trú đóng sẽ dồn lực tấn công vào đấy. Minh Hiến Vương nói: – Đệ và Hoài Văn Hầu đã tính kế bày trận mai phục diệt gã thống soái Bình chương nhưng không thành. Trại thủy bộ của Nguyên chỉ cách nhau vài ba dặm, phục kích được nó thì cũng bị chúng kéo đến vây hãm, khó thoát. Quang Khải nói: – Số tên này chưa tận, chờ dịp khác vậy. Nhật Duật hỏi: – Huynh đã nghĩ ra cách đánh Chương Dương chưa? Quang Khải không cho biết chủ ý mà hỏi lại: – Bên hữu ngạn lực lượng của ta thế nào? Nhật Duật đáp: – Đệ chỉ mới liên lạc được với anh em Nguyễn Khả Lạp, họ có ba nghìn quân, nhưng toàn chiến binh sơn cước rất giỏi dùng tên nỏ. Quang Khải nói: – Giặc có năm cụm binh lực, gồm hai cụm dưới sông, ba cụm trên bờ, tất cả đều ở hữu ngạn Thiên Mạc. Ta có lực lượng mạnh hơn nhưng lại tập trung bên tả ngạn. Phải điều quân sang hữu ngạn càng sớm càng tốt. Trần Thông nói: – Ý của đại vương định điều động ra sao, xin ngài chỉ thị để chư tướng thi hành. Quang Khải nêu chủ ý: – Diệt được Chương Dương chưa hẳn khiến bọn Thoát Hoan rúng động. Cần chia quân kéo về uy hiếp Thăng Long, bấy giờ giặc mới kinh hoàng, có thể chúng sẽ rút quân đi nơi khác. Ta phản công bằng tinh thần quyết chiến, đánh lớn và phô bày thanh thế để tạo ra tiếng vang khiến binh sĩ giặc hoang mang dao động, chưa vào trận đã muốn thua. Nhật Duật nói: – Hay lắm. Huynh quả là bậc cái thế nhìn xa trông rộng. Bấy giờ Chiêu Minh Vương mới truyền lệnh: – Chiêu Văn Lương, Chiêu Thành Vương, Minh Hiến Vương cùng với Nguyễn Khoái đem quân uy hiếp Thăng Long. Các huynh để liên lạc với Trung Thành Vương đang ở Bắc Giang, để tạo thành năm mũi tiến quân bao vây kinh thành làm cho giặc mất ăn mất ngủ. Trận Chương Dương ta sẽ trực tiếp chỉ huy, sai Trần Quốc Toản và Trần Quốc Thành dẫn quân sang hữu ngạn liên kết với Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đánh trại của Nạp Hải và Tôn Hựu. Vũ Quốc Minh cùng các tướng tả hữu Chương Thánh kéo quân sang hữu ngạn đánh thẳng vào trại Chương Dương. Trần Thông dùng binh thuyền đánh thủy quân của Sát Tháp Nhi Đài, ta sẽ tiến đánh đạo thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ. Nay phân công như vậy, ai có ý kiến khác không? Mọi người đều tán thành việc điều động của Chiêu Minh Vương. Ai nấy nhanh chóng rời bản doanh trở về với binh sĩ của mình để thực hiện kế hoạch dẫn quân vào trận. Trong buổi tối hôm ấy, các lực lượng Đại Việt được lệnh xuất kích, hơn chục vạn con người lặng lẽ hành quân đến vị trí tập kết, chuẩn bị cho trận chiến ngày mai. Hàng trăm chiến thuyền được huy động chở quân sang bờ phải sông Hồng Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đem quân đến bảo vệ bãi đổ bộ rồi kết hợp với Trần Quốc Toản và Trần Quốc Thành dẫn binh đội áp sát trận địa. Trần Nhật Duật và các tướng kéo quân lên phía bắc khi đến Long Đàm thì chia làm hai cánh; Chiêu Văn Vương và Chiêu Thành Vương tiếp tục men theo bờ tả ngạn tiến đến Đông Ngàn để liên kết với Trung Thành Vương quấy phá vùng đông bắc Thăng Long; Minh Hiến Vương và Nguyễn Khoái dẫn quân qua bãi nổi, dùng bè nứa vượt sông sang bờ tả ngạn tiến đến Từ Liêm, đe dọa vùng tây và tây bắc kinh thành Thăng Long. Sáng sớm ngày mồng một tháng năm, quân ta mở màn trận đánh. Trần Quốc Thành chia quân làm hai cánh công phá trại của Nạp Hải, các cung thủ bắn mưa tên khiến giặc không ngóc đầu lên nổi, kị binh và bộ binh của ta đồng loạt xuất kích. Trại mới lập nên khá trống trải, hàng rào chưa dựng xong, lũy đất chưa được đắp, ngoài những lều lán tạm bợ, hầu như không có gì che chắn. Chúng cũng tổ chức bắn trả nhưng kị binh quân Nam lướt quá nhanh nên thiệt hại không đáng kể. Quốc Thành dẫn quân tràn vào trại, Nạp Hải hò quân kháng cự, song tinh thần chẳng có, bọn lính chỉ lo tìm đường thoát thân. Túng thế, Nạp Hải rút chạy về phía bắc, bỏ lại hơn ba ngàn binh sĩ bị giết hoặc bị bắt sống. Quân ta thu được nhiều khí giới và một kho lương chỉ đủ cho một vạn quân ăn trong ba ngày. Trần Quốc Thành nói với các chiến hữu “Bọn Nguyên đang thiếu lương thực trầm trọng. Cả đội quân đông như thế mà được cấp lương ăn mấy bữa thì thua chạy là phải”. Trần Quốc Toản và anh em Nguyễn Khả Lạp tiến đánh trại của Tôn Hựu, nằm ở phía nam Chương Dương. Trại này cũng trống trải nên dễ đánh. Hàng ngàn xạ thủ sơn cước áp sát bốn mặt, mở đầu cuộc tiến công bằng những loạt tên tẩm độc, giết chết tại chỗ hơn trăm lính Nguyên, bọn giặc rụng rời khiếp vía chạy nháo nhào tìm chỗ ẩn nấp sau những lều vải, vách nứa mỏng manh. Chớp thời cơ, từ hai phía, Trần Quốc Toản và Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền kéo quân chiếm trại. Tôn Hựu nhớ lời dặn của Nạp Tốc Lạt Đinh, chẳng thiết đánh trả mà dẫn quân chạy về phía tây bắc nhằm tránh xa chiến trường quanh Thăng Long, đợi ngày hội binh với chủ tướng quân Vân Nam tại ngã ba Hạc như ước hẹn. Hai vạn chiến binh dưới quyền chỉ huy của Nội tiền điện Vũ Quốc Minh và các tướng tả hữu vệ Chương Thánh là Nguyễn Phúc Thành và Lâm Quang Đán chia làm ba mũi ào ạt tiến đánh trại Chương Dương. A Lý Hải Nha đang ở trong trại, cùng với Sát Tháp Nhi Đài và bọn Lưu Thế Anh tung quân ra chiến lũy kháng cự. Quang Đán dẫn quân nhanh chóng áp sát trại giặc rồi dùng sức ngựa kéo đổ hàng rào. Địch bắn tên cản phá, toán đi đầu gục xuống thì toán sau lại xông lên, thế cuồn cuộn như nước thúc bờ, quân ta tràn vào cận chiến với giặc. Viên Bình chương sai Lý Bang Hiến dẫn một ngàn quân bị xông lên bịt lỗ hổng. Bang Hiến sẵn có tư tưởng cầu an, lại bị hạ chức làm Thiên hộ khiến tâm trạng bất mãn, tuy phục tùng thượng cấp nhưng trong đầu dự tính mưu khác. Toán kị mã Mông Thát phi ngựa cắt ngang đội hình của Lâm Quang Đán, quân ta dùng giáo đâm, quân Nguyên vung gươm chặt, hai bên loạn đả kịch liệt. Giặc khống chế được lỗ thủng thì Quang Đán cho quân vây kín, Bang Hiến quyết liệt phá vây, cố đánh trả để thoát ra khỏi trại. Viên tướng giặc đạt được mục đích, y cùng vài trăm quân kị quất ngựa tháo chạy. Quang Đán dẫn hơn ngàn kị binh đuổi theo. Quân Thát vừa phi ngựa vừa bắn cung triệt hạ đội ngũ truy kích. Quân ta dùng nỏ bắn trả. Tướng hữu vệ Lâm Quang Đán bị tên xuyên trúng ngực, thấy chủ tướng trọng thương, các chiến binh dùng ngựa, bọn Bang Hiến chạy thoát. Vũ Quốc Minh và Nguyễn Phúc Thành dẫn quân ập vào trại khi Bang Hiến đã thoát được ra ngoài, quân ta giành giật với giặc từng lũy đất, đẩy chúng lui dần vào khu trung tâm. Gươm giáo và cung nỏ mặc sức thi triển, lực lượng đôi bên ngang tài đồng sức, chỉ hơn thua tinh thần quyết tử nhưng cũng đủ khiến xác người chất chồng cao bằng mặt lũy, máu nhuộm đỏ chiến địa không chừa một chỗ nào. Thấy đối phương dần chiếm ưu thế, còn lũ Bang Hiến đã tìm đường thoát thân, Bình Chương A Lý tính kế thượng tẩu, bèn nói với Sát Tháp Nhi Đài và Lưu Thế Anh “Các ngươi gắng giữ trận địa, ta xuống binh thuyền đốc chiến”. Rồi y cùng một trăm tả hữu vọt thẳng ra sông, bỏ mặc đồng bọn đang nguy khốn. Lưu Thế Anh nhắm hướng quân hữu vệ có phần yếu hơn bên hò hét binh sĩ mở đường máu xông ra. Nguyễn Phúc Thành giục quân tả vệ trợ lực với quân hữu vệ vây chặt giặc thù, không cho chúng có cơ hội thảo lui. Bên tuyệt vọng điên cuồng kháng cự, bên kiên gan quyết liệt cản đường, giặc dấn ba bước lại phải lùi hai bước, thịt xương ngập ngụa dưới chân tướng sĩ, màu vàng đỏ lòm mặt mũi chiến binh, biết mấy thân xác trúng thương quằn quại còn bị dẫm đạp lên cơ thể trong thế tiến thoái của người còn sống. Thế Anh cùng năm trăm tàn binh chọc thủng vòng vây, chạy bộ về hướng binh thuyền. Phúc Thành dẫn kị binh rượt theo truy sát, đao mác của quân Chương Thánh theo đà ngựa phi bổ xả tới tấp lên đầu Nguyên Mông, chặn đường không cho chúng tiếp cận bến thuyền. Bị dồn xuống bờ sông, cùng đường kiệt sức, Lưu Thế Anh và gần một trăm lính giặc liều mạng nhảy xuống nước. Hầu hết bọn chúng bị nước cuốn trôi, chỉ một số ít còn sức lực bơi sang được bờ bên kia.�� Trong số mười mấy tên sống sót có Lưu Thế Anh. Ngựa không có, khí giới cũng mất cả, viên bại tướng và bọn tàn quân lạc lõng bên tả ngạn, ban ngày trốn chui trốn nhủi trong bụi rậm, tối đến mò ra ruộng đào trộm khoai củ. Thế Anh không thể về Thăng Long, phần vì sợ đại vương bắt tội, phần nữa không có vũ khí để cướp thuyền, đành mặc kệ số phận đưa đẩy, cho đến lúc gặp được đoàn quân của Giảo Kỳ đang tháo chạy tả tơi. Nhìn quanh các tướng lớn nhỏ đã đào thoát hết, lại thấy tiếng náo loạn từ bến thuyền dội lên, biết dưới đây cũng chẳng an toàn, Sát Tháp Nhi Đài quyết định đột phá mở lối thoát ra bằng đường bộ. Giữa vòng vây đối phương, còn tụ lại hơn ba ngàn binh và một ngàn chiến mã, Nhi Đài gào rống khích lệ ba quân “Bạc nhược là chết hết, dũng khí còn có cơ hội sống sót. Nếu các ngươi không muốn bỏ xác ở đất này, hãy cùng ta phá vây”. Binh sĩ Mông Thát lấy được tinh thần, hùng hổ theo chủ tướng xông tới đội hình dày đặc của Vũ Quốc Minh. Thấy giặc liều chết lăn xả vào đánh, khí thế quân ta bị chùng xuống, Điện tiền chỉ huy sứ hò hét “Anh em chớ chùn bước. Theo ta bịt của mở của giặc”, rồi ông dẫn đội kị binh ập đến chặn đứng lũ giặc đang cố vượt thoát ra ngoài. Một tên thủ túc của Sát Tháp Nhi Đài là gã hộ pháp Dã Nặc Cáp Mộc thấy chủ tướng lâm nguy, bèn hét lớn “Tướng quân tìm lối khác thoát hiểm, ở đây đã có tiểu nhân”, rồi hai tay vung cặp chùy lớn như cái đấu lao vào vòng vây quân Trần đánh ngã rạp hàng chục binh sĩ Đại Việt. Các chiến binh xiết lại vòng vây, hàng loạt lưỡi đao bổ xuống khiến tên giặc to khỏe khó bề chống đỡ. Chớp thời cơ, Sát Tháp Nhi Đài và bọn kị mã đổi hướng đột phá vào chỗ quân ta thưa mỏng. Thoát ra rồi, ngoảnh đầu lại thấy Dã Nặc Cáp Mộc bị trúng đao kiếm máu phun ra như vòi, Sát Tháp Nhi Đài quệt nước mắt, dẫn tàn quân rút chạy về phía bắc.�� Vũ Quốc Minh cho quân dùng cung nỏ bắn đuổi khiến chúng tổn thất đáng kể. Sát Tháp Nhi Đài vừa chạy vừa lầm bầm chửi Binh chương A Lý Hải Nha “Thấy hiểm nguy là nó chạy trước. Lại dùng binh thuyền của ta để tẩu thoát. Đại tướng mà hèn kém, không bằng đứa tôi tớ. Nguyền cho nó tận mạng, vỡ mật mà chết”. A Lý Hải Nha sống sót trong trận Chương Dương, y còn chạy thoát về nước khi quân Nguyên đại bại, nhưng chỉ được ít tháng sau thì lăn đùng ra chết. Có người bảo hắn chết vì bệnh, có người lại bảo hắn vỡ mật mà chết vì hoảng sợ khi được Hốt Tất Liệt sai chuẩn bị binh lực sang đánh An Nam lần nữa, riêng đám thủ tục của Sát Tháp Nhi Đài thì khăng khăng cho rằng A Lý Hải Nha chết vì lời nguyền từ chủ tướng của chúng. Khi chiến sự trên bờ đang diễn ra ác liệt, cũng là lúc binh thuyền của Trần Quang Khải vào trận. Ba trăm năm chục chiến thuyền Đại Việt bủa vây đạo thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, che chắn cho đội thuyền hơn trăm chiếc vượt qua để tiến đánh đoàn thuyền của Sát Tháp Nhi Đài đậu tại bến Chương Dương. Trần Quang Khải tung năm thuyền lớn chất đầy rơm khô lao thẳng vào đội hình địch, khi áp mạn thuyền đối phương, các chiến binh cảm tử đốt thuyền rồi nhảy xuống nước. Thuyền ta cháy to, lửa lan sang hàng chục thuyền giặc, quân Nguyên xúm vào dập lửa, đội cung thủ thừa cơ xạ kích, địch chẳng cứu được thuyền còn bị thiệt quân vô số. Nhằm mở lối thoát hiểm, Bột La Hợp Đáp Nhĩ liều lĩnh cho các thuyền còn lại rời xa đám cháy tiến ra giữa dòng đâm vào đạo thuyền của ta đang án ngữ mặt sông. Chiêu Minh Vương giục quân bẻ lái quay ngang thuyền tránh cú va đập rồi tui móc câu níu thuyền gi mà nhảy sang giáp chiến. Đội thuyền của Đại Việt đồng gấp đôi, tinh thần của binh sĩ nước Nam mạnh gấp mười nên hoàn toàn áp đảo binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ, vốn chỉ có kháng cự để tìm đường chạy cho nhanh khỏi trận máu lửa kinh hoàng. Biết đánh không lại, bọn giặc trên các thuyền thi nhau nhảy xuống nước như một lựa chọn cuối cùng, hy vọng vớ được mảnh gỗ ván xác thuyền để khỏi chết đuối. Quân ta chiếm hơn hai chục chiến thuyền của giặc, cung thủ ra sức xạ kích đám lính Nguyên đang ngụp lặn trên sông. Đạo thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ còn lại sáu mươi chiếc tả tơi, kéo nhau rút chạy về phía nam. Binh thuyền của Trần Thông ập đến Chương Dương khi tiếng hò la trên bờ đang vang trời dội đất. Lũ giặc trên các thuyền bắn tên như mưa, quân ta đã chuẩn bị sẵn dụng cụ che chắn bện bằng rơm nên thiệt hại không đáng kể. Trần Thông cho đội thuyền tiến sát vào đoàn thuyền Mông Thát rồi dẫn quân nhảy sang đánh chiếm. Chủ tướng của giặc ở trên trại nên bọn dưới thuyền mất phương hướng, chống đỡ loạn xạ mà không biết cách vượt thoát. Thế ta quá mạnh, giặc kháng cự không nổi, chúng hò nhau bỏ chạy lên bờ. A Lý Hải Nha cùng bọn thủ túc từ trên bờ chạy ngược xuống, kêu hét binh lính quay về giành thuyền. Được chủ tướng đốc thúc, đám lính hăng lên, ồ ạt nhảy xuống chiếm lại đạo thuyền. Thấy tình thế đảo chiều, Trần Thông cho quân sĩ đốt thuyền giặc. Nhiều chiến thuyền cháy rực, buộc A Lý Hải Nha phải dẫn quân tháo chạy về Thăng Long. Đội thuyền của Sát Tháp Nhi Đài tan tác, ngoài mười lăm chiếc rách bươm theo viên Bình chương thoát nạn, số còn lại bị quân ta đốt trụi và tịch thu. Trên đường hành binh vây hãm Thăng Long, năm đội quân nước Nam như những cơn lốc mùa hạ kéo qua đến đâu là đồn thù bị san thành bình địa. Các toán quân Mông Thát vài ba trăm tên trấn giữ bến sông bãi chợ bị quét sạch khỏi nơi chốn hoành hành bá đạo. Dân chúng làng trên xóm dưới thoát ách kìm kẹp của bầy lang sói ăn tàn phá hại, nô nức ùa ra đón mừng đoàn chiến binh giải phóng. Gói quà tấm bánh của người dân trao tận tay binh sĩ Đại Việt như sự gửi gắm niềm tin yêu của trăm họ vào luồng bão táp Đông A sẽ sớm thổi tung bụi Hồ ra khỏi bờ cõi, xua chúng về lại nơi chốn khởi nguồn của mầm mống yêu nghiệt tanh tưởi. Theo chủ ý của Trần Nhật Duật, khi diệt đồn phá trại, quân ta lỏng tay kiếm một chút, để dăm thằng giặc có cơ chạy thoát. Chúng nghiễm nhiên thành những kẻ truyền tin nhanh nhất, đắc dụng nhất tới tại bọn đầu lĩnh ở Thăng Long về sức mạnh vũ bão của các binh đoàn An Nam đang xiết dần thòng lọng quanh cổ đại quân thiện triều vốn dĩ đói ăn lâu ngày và mệt lả vì nắng nóng. Chương 3 Tứ diện thọ nạn, Thoát Hoan rời Thăng Long sang sông Lưỡng đầu cấp nguy, Giảo Kỳ bỏ Thiên Trường đào nhiệm Đang ngồi bàn bạc kế hoạch tiến đánh cầu phao của giặc trên sông Hồng, Trần Nhật Duật nghe quân vào báo có ba cụ già xin gặp chủ tướng. Chiêu Văn vội vã cho mời, sai người rót trà tiếp khách. Một ông cụ trình bày: – Mấy lão là người ở đây, tuổi cao sức yếu không thể theo vua đánh giặc, đành đến góp ý giúp ngài phòng tránh rủi ro. Nhật Duật nói: – Chiêu Văn vô cùng cảm kích thịnh tình của các cụ. Vậy có ý kiến gì các cụ cứ cho biết? Một cụ hỏi: – Thời tiết mấy hôm nay oi bức khác thường, ngài có biết đây là hiện tượng gì không? Nhật Duật ngớ người, đành đáp: – Vương tôi tuổi đời chưa dày, còn thiếu kinh nghiệm, mong các bậc cao niên chỉ dạy. Một cụ nói: – Các dấu hiệu tự nhiên cho thấy trời đang ủ bão, chỉ mai hoặc mốt sẽ có trận bão lớn kéo vào, có thể ảnh hưởng đến việc binh của tướng quân. Một cụ khác nói rõ hơn: – Mưa gió sẽ dữ dội lắm, tướng quân không nên tiến hành hoạt động quân sự trên sông nước, cần cho quân tìm nơi trú đóng an toàn. Chiêu Văn Vương mừng lắm, không ngớt lời cảm tạ tấm lòng của mấy ông cụ. Họ về rồi, ông hạ lệnh dừng kế hoạch đánh cầu phao, khẩn cấp chuyển quân lương đến nơi cao ráo và điều quân hiệu tỏa ra khắp hướng hỏa tốc cấp báo cho các lực lượng khác để kịp thời tổ chức phòng tránh thiên tai. Mấy ngày liền nắng to, mặt trời đổ lửa nung mái ngói cung điện hoàng thành, phả hơi nóng hầm hập xuống sàn nhà làm lũ tướng soái Nguyên Mông rên rỉ suốt ngày rằng bị trời hành thì mới khốn khổ đến thế. Khoảnh sân trước cung cứ đỏ rực lên làm lóa cả mắt, lại còn bỏng rẫy như cái bếp lò, khiến Trấn Nam Vương bực bội, muốn sai người cạy bỏ hết lớp gạch cho đỡ ngứa mắt, nhưng thấy hao hơi tốn sức quá nên thôi. Họa chăng cái sân gạch ấy cũng đem lại tí chút hữu ích, khi Thoát Hoan nghĩ ra một trò trừng phạt lạ lẫm, rất tức cười nhưng vô cùng hiệu quả. Số là có tên lính hầu bị bắt quả tang ăn vụng, theo lệ cũ thì phải phạt chục roi hoặc nhốt giam bỏ đói vài ngày. Nhưng lần này Hoan trị tội theo lối mới, bắt thằng ăn vụng đi chân trần trên sân vào giấc trưa. Tên lính nhảy loi choi giữa sân, chân này hạ xuống thì chân kia co lên vì không chịu nổi sức nóng của nền gạch trong lò nung tạo hóa. Đám quan tướng nhìn nó tưng tưng như con rối mà không nhịn được cười, rồi đua nhau nịnh chủ soái là người tài trí, rèn quân nghiêm cẩn theo cốt cách của bậc đại vương có chân mệnh trị quốc phục chúng. Thoát Hoan phổng lỗ mũi, càng được thể ra vẻ tâm đức “Tính ta vốn quý binh trọng tướng, không nỡ bắt nó nhịn đói hai ngày nên phạt nhẹ thế thôi. Mai mốt bình định xong xứ này, phải trông cậy các ngươi phò tá thì mới nên đại sự”. Y vẫn nuôi mộng theo gương cha chú dựng đế nghiệp riêng, như năm xưa cụ nội về trời, con cháu của ngài nghiễm nhiên xưng Hãn tại vùng đất chiếm được, làm chúa tể một cõi. Sau nửa canh giờ, tên lính bị chủ soái “phạt nhẹ” lăn đùng ra giữa sân, ngất lịm. Được khiêng vào chỗ râm, hắn hồi tỉnh, nhưng đôi bàn chân thì phồng rộp, đỏ au như con tôm luộc. Nghe nói khi quân Nguyên rút khỏi Thăng Long, nó đi không nổi nên đồng bọn thương tình cho ngôi đỡ trên xe chở vật dụng nhà bếp của đại vương. Đầu lĩnh các quân chứng kiến hiệu quả của chiêu thức xử phạt mới lạ, chúng bảo nhau rằng phải học hỏi để áp dụng “Đừng đánh đòn làm chi cho mang tiếng ác, đứa nào mắc lỗi, cứ phạt như vậy là chừa ngay”. Ban ngày thì bị trời hun nắng phải lè lưỡi hổn hển giống chó mắc dại, tối về thì bức bối ngột ngạt đến mồ hôi cũng sôi sục. Màn đêm khô khốc, chẳng hề có một ngọn gió phe phẩy, bầu không khí từ ngoài sân cho tới nội cung phát ngộp muốn tắc thở, càng làm đám người xứ lạnh thấm thía nỗi cơ cực của mùa hè nhiệt đới. Da thịt lên cơn sốt khiến cái đầu bốc lửa. Dĩ nhiên, người duy nhất được phép bốc lửa khởi đầu là Trấn Nam Vương. Y bản tính gắt như hũ mắm của dân Nam, chửi quân mắng lính không cần duyên cớ, nằm trên phản ngủ có bốn tên hầu đứng bốn góc quạt phì phạch cả đêm, tên nào lơi tay là bị đe “Trưa mai cho ra sân hứng nắng”. Đám tôi tớ mệt mỏi lờ đờ như lũ cá ngạt khí đến lạy lục viên Tổng quản nội vụ Vương Hạo bày mưu giải nạn. Gã hạ quan ăn của đút bền hiến kế... như thế... như thế... Bọn hầu cận hí hửng làm theo, hi vọng chủ soái sẽ ngủ ngon mà không quấy rầy cả đêm, có khi còn trọng thưởng cho công lao tận tụy. Khuya về, đến lúc Thoát Hoan sửa soạn thượng sàng, mấy tên lính hớn hở mời đại vương sang ngự ở chỗ khác. Hoan bước vào của Thiên An, ngạc nhiên nhìn chiếc lều Mông Cổ được dựng giữa điện. Trong lều có chiếc phản gỗ đen bóng. Một tên thay mặt cả bọn thưa bẩm: – Lều da cản được hơi nóng từ mái ngói dội xuống, không khí đỡ ngột ngạt, đại vương sẽ an giấc. Viên chủ soái nửa tin nửa ngờ, nhưng muốn thử một lần xem sao. Dĩ nhiên vẫn có đủ bốn tên hầu đứng quạt phì phạch. Nằm trở qua trăn lại một lúc, Hoan bật dậy mắng xa xả: – Thằng nào nghĩ ra cái trò này? Trong cung nóng như lò luyện đan mà chúng mày còn rinh thêm cái nồi hầm thịt rồi bảo ta vào nằm trong đấy. Mồ hôi đọng thành vũng trên phản kia kìa. Giờ ngọ ngày mai cho lũ bay ra sân nhảy nhót. Bọn tôi tớ quỳ sụp dưới chân chủ soái xin tha tội. Thoát Hoan hậm hực bỏ đi. Cái sự nắng nôi thì ai cũng khổ sở, riêng Khoan Triệt mắc thêm bệnh đau đầu. Vốn dĩ mỗi lần gặp mặt, thấy Trấn Nam Vương nhìn mình bằng ánh mắt hằn học, khiến y suy nghĩ nát óc mà không tìm ra nguyên do, thế là sinh chứng nhức đầu. Rồi một lần nghe Thoát Hoan mai mỉa “Mùa đông thì lạnh ớn xương, mùa hạ thì nóng há mồm, vậy mà có đứa còn bảo cung điện An Nam mát mẻ lắm”. Viên Hữu thừa giật thót, biết chủ soái ám chỉ mình, y thầm nhủ phải tìm cách sửa chữa cái lỗi bày đường dại dột. Nghĩ mất nửa buổi thì Khoan Triệt tìm ra một cách có thể hóa giải thành kiến của Trấn Nam Vương, biết đâu còn lấy được lòng chủ soái. Lần nọ dẫn quân đi cướp bóc ở phía tây kinh thành Thăng Long, Khoan Triệt xộc vào một ngôi chùa có đề chữ Chiêu Thiền tự. Chùa nghèo xơ xác, ngoài mấy pho tượng sứt sẹo thì chẳng có gì đáng giá để mà vơ vét. Thấy ông thầy già và thẳng tiểu con con đang tụng kinh niệm Phật, Khoan Triệt sai điệu ra sân để tra xét. Y hỏi tăng về danh tính, chúc phận. Nhà sư đáp: – Bần tăng họ Trần, tên Việt Cường, pháp danh là Khắc Nguyên, trụ trì chùa này. Triệt vốn người Ô Tư Biệt Khắc, không mấy rành văn hóa Hán, dĩ nhiên chẳng hiểu nổi ý nghĩa sâu xa trong cách chơi chữ xỏ xiên của tăng già nên không bắt bẻ gì, mà lại hỏi: – Sao chùa nghèo thế, đồ quý đâu cả rồi, nếu chôn giấu thì phải khai ra? Sự Khắc Nguyên đáp: – Chùa nhỏ, ít người đến viếng. Mấy năm mất mùa nên dân tình đói khổ, lo cái ăn không đủ thì lấy đâu ra tiền bạc cúng chùa. Thiền môn trống trải nghèo túng, làm gì có đỗ quý chôn giấu. Khoan Triệt sai quân xuống hậu tự lục soát. Quả nhiên chẳng có gì đáng giá, ngoài một chiếc rương to dài cũ kỹ, gỉ xanh lè tứ phía. Triệt hỏi: – Cái gì đây, bên trong có gì? Sư đáp: – Một cái rương cũ đựng kinh sách để mối khỏi xông. Triệt bắt mở ra. Sư và tiểu hì hục mở nắp. Bên trong toàn kinh Phật và mấy bộ cà sa bạc màu. Gõ vào nắp rương kêu lanh canh, Triệt biết là đồ đồng, nghĩ bụng “Cái này dùng làm hậu sự chắc tốt”, nhưng thấy nó cồng kềnh quá, nên cũng không thiết lấy. Đã có mục đích hành động, Khoan Triệt dẫn quan đến thẳng chùa Chiêu Thiền, đem theo cỗ xe ngựa làm phương tiện chuyên chở. Thấy quân Nguyên lại kéo đến, biết có chuyện chẳng lành, tăng già Khắc Nguyên không chịu mở cổng, ông nói: – Các ngài đã đến lục soát rồi, trong chùa chẳng có gì để lấy, xin đừng quấy quả cửa thiền, cho bần tăng tịnh tâm làm Phật sự. Khoan Triệt gắt: – Cứ mở cửa ra rồi hẵng nói. Nếu chần chừ ta sẽ cho quân phá cổng. Trụ trì đành phải mở cửa cho lũ kẻ cướp. Đám lính xông vào, Khoan Triệt lên tiếng: – Phụng mệnh thiên tử Đại Nguyên, ta đến chùa trưng dụng chiếc rương đồng để dùng vào việc quân, lão có ý kiến gì không? Tăng già chắp tay đáp rằng: – Nam mô A Di Đà Phật, cái rương cũ vốn là di vật của thiền sư Từ Đạo Hạnh, vị thánh tổ của chùa. Đối với các ngài nó chẳng có giá trị gì, nhưng với chùa lại là món đồ trân trọng. Xin ngài niệm tình đừng lấy, kẻo bần tăng mắc tội với tiền nhân. Khoan Triệt khoát tay cương quyết: – Lấy là lấy, không nói lằng nhằng nữa. Nếu chống đối, ta sẽ thiêu rụi chùa rồi cũng lấy đi, chi bằng tự động giao nộp. Sư Khắc Nguyên bất lực, chỉ biết cùng chú tiểu quỳ trước Phật đường tụng Đại Bi Tâm Đà La Ni, giữa lúc bọn lính Nguyên vật tung kinh sách và áo mũ cà sa rồi hè nhau khiêng chiếc rương đồng ra xe ngựa. Tương truyền, thuở thiếu thời, Từ Lộ đã gánh trên vai mối thù giết cha do sự hiểm ác của đạo sĩ Đại Điên, kẻ tà tâm nhưng giải pháp thuật. Đến tuổi trưởng thành, Từ Lộ quyết chí sang Tây Thiên học làm phép để đấu với Đại Điên, đòi món nợ máu. Trên đường thiên lý, chàng trai trẻ phiêu dạt đến một am nhỏ ở đâu đó dưới chân núi Thiên Sơn, nước Đại Lý. Thấy người trai rách rưới đói khát, sư trụ trì thương tình cho tá túc. Khi biết được nỗi niềm u uẩn trong lòng Từ Lộ, thầy có ý khai tâm, hướng chàng ta giác ngộ con đường Phật pháp để hóa giải nghiệp chướng ân oán. Thầy bảo “Oán cừu chồng chất oán cừu, bao giờ cho dứt. Trả được bán mà trừ bạo giúp đời thì hãy làm. Con đọc sách này, biết đâu ngộ ra điều hay lẽ phải”. Ông đưa cho Từ Lộ cuốn kinh Đại Bi, Lộ đọc một lần rồi đọc lại lần nữa, thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, bèn xin quy y thiền môn. Trụ trì đặt pháp danh cho Lộ là Đạo Hạnh như lời răn dạy đệ tử phải bền lòng đeo đuổi con đường đức độ hạnh phúc. Ở với thầy được năm năm, Đạo Hạnh xin trả về cố hương. Trước lúc ra đi, thầy dặn dò tiểu tăng “Ta đã già rồi, không còn nhiều thời gian truyền bá đạo pháp nhà Phật cho nhân thế. Con hãy thay ta làm việc này. Trong chiếc rương đồng kia chứa toàn kinh kệ, cỗ xe và con ngựa duy nhất của chùa sẽ giúp con đưa rương sách về bản quán bình an vô sự”. Đạo Hạnh gạt nước mắt lạy tạ sư thầy, ngập ngừng xuống núi. Quả nhiên, đường về muôn dặm gập ghềnh mà ngựa xe rong ruổi một lèo, đã không gặp sự phiền nhiễu lại hay được quý nhân giúp đỡ miếng ăn, chỗ ngủ. Trở về cố quốc, Từ Đạo Hạnh ở ẩn tại chùa Thiên Phúc dưới chân núi Sài Sơn, chuyên tâm niệm chú Đại Bi, giải kinh giảng đạo cho thí chủ thập phương mà không đoái hoài đến chuyện trả thù trả oán. Nhưng chính trong tâm thức vô ngã mà ngài có được cơ duyên tiếp cận sự vi diệu dị thường của thế giới thần Phật, để rồi trả được bán cừu xưa, trừ được nạn cho đời và tái sinh trong một kiếp đế vương Việt quốc. Chuyện kể rằng, ngài cũng hay thăm thú đồng đạo các nơi và từng tu tập tại chùa Chiêu Thiền một thời gian. Trước lúc Từ Đạo Hạnh hóa thân chuyển kiếp, ngài dặn dò đệ tử “Ba đời sau sẽ có biến cố lớn. Bấy giờ các di vật của ta khó mà giữ được, các con đừng để chung một chỗ, hãy đem chia cho những chốn danh lam nơi ta từng thiền định, để các đồ ấy minh chứng cho sự lan tỏa của giáo lý thánh tổ tới thập loại chúng sinh”. Theo lời căn dặn, đệ tử của Từ Đạo Hạnh chia các đồ vật của ngài cho các chùa cất giữ. Nơi này thiền trượng cà sa, nơi kia nghiên bút di cảo, nơi nọ chuông mõ tràng hạt... riêng chùa Chiêu Thiền lưu giữ chiếc rương đồng do ngài đem về từ Vân Nam, Trung Quốc. Một trăm mười năm sau, triều đại thay đổi, nhà Trần thế chỗ nhà Lý làm vua trăm họ. Trần Thủ Độ, người thiết kế cuộc đổi ngôi kỳ vĩ ấy, hẳn nhiên không thể bỏ qua dấu tích của triều đại trước còn tiềm tàng trong dân gian, vốn là căn nguyên của nỗi hoài niệm nước cũ vua xưa. Chính cái huyền thoại Từ Đạo Hạnh hóa sinh làm Lý Thần Tông khiến cho ông trăn trở nhiều ngày rồi quyết định làm một việc có thể trái đạo người nhưng lại góp công vào việc ổn định nền móng cai trị của triều đại mới, theo một cách nghĩ đơn giản và thực dụng “Dân chúng lễ bái Đạo Hạnh ắt nhớ đến Thần Tông, muốn người ta mai một nỗi nhớ thì phải giảm thiểu thánh tích”. Chùa chiền là chốn thờ phụng nghiêm cẩn, để tránh tai tiếng dễ tạo nên sự bất bình, Trần Thủ Độ không thẳng tay hành động công khai mà cho bí mật tìm hiểu rồi sai người đột nhập vào chùa Thiên Phúc trộm cắp các di vật của thiền sư họ Từ. Nhưng đạo tặc chỉ lấy được chuỗi tràng hạt và cái mõ gỗ mít mà theo điều nghiên đích thị là đồ hành lễ của Đạo Hạnh lúc sinh thời. Kẻ gian cũng mò đến chùa Chiêu Thiền, song hai thằng khiêng không nổi cái rương đồng chứa kinh kệ, đang loay hoay tính kế thì bị nhà chùa phát hiện, chúng đành bỏ chạy. Nhớ lời di huấn của thánh tổ xưa, trụ trì thời ấy đem rương đi chôn giấu. Hơn ba chục năm sau, khi thế sự đã bình ổn, việc thanh tảo dấu tích cựu triều cũng chẳng còn ai bận tâm, nhà chùa cho đào chiếc rương lên thì nó đã gỉ xanh. Ngại kẻ gian dòm ngó, chùa không đánh bóng, để lớp áo thời gian khuất lấp giá trị thánh tích. Sự tiên đoán của thiền sư Đạo Hạnh về biến cố tương lai quả là nhiệm màu nên đã tránh được phần nào tác động hủy hoại chứng tích một thời từ cuộc thế dâu bể. Dẫu vậy, sự biến thiên của con tạo và sự can thiệp của con người cũng làm thui chột dần, thất thoát dần dấu ấn vật chất của bậc vĩ nhân. Có điều, trong nước cờ đổi ngôi của Thái sư Trần Thủ Độ, ông chưa hề tính đến giá trị tinh thần của triết lý tam giáo đồng nguyên trong đời sống dân gian. Cho dù thánh tổ chẳng để lại di vật gì và có hay không sự chuyển kiếp từ Đạo Hạnh sang Thần Tông, thì cái bóng của ngài vẫn tồn tại mãi trong tâm thức của người Việt. Khi quốc biến, nhiều sư sãi trai trẻ trong chùa Chiêu Thiền đã đi lánh nạn hoặc cởi bỏ cà sa theo vua đánh giặc, nhiều pho tượng và đồ tế tự quý giá đã được cất giấu. Riêng chiếc rương đồng, thầy Khắc Nguyên không nỡ đem chôn lần nữa, sợ lòng đất sẽ hủy hoại nặng thêm thánh tích của thánh tổ. Sư cho rằng, nhìn bề ngoài cũ kỹ mốc meo như thế, chắc gì lũ kẻ cướp ngoại bang thèm để mắt tới báu vật vô giá. Rồi quân Nguyên đến cướp chiếc rương, lão tăng tụng kinh cầu khẩn Quan Âm Bồ Tát xá cho kiếp nạn của nhà chùa. Chiếc rương dài sáu thước năm tấc, rộng hai thước bảy tấc, sâu một thước chín tấc, trông giống cái hòm chôn người chết, nhưng không có nắp rời như áo quan mà đậy nắp bằng bản lề gắn trên thành rương. Người nhỏ bé có thể nằm gọn trong đấy, người hơi quá khổ thì co chân lại cũng xong. Trở về quân doanh, Khoan Triệt sai lính dùng cát đánh sạch gỉ xanh bám trên rương, cọ mài cho bóng lộn như gương rồi đốt trầm tẩy uế mùi tanh tao của đồng. Y còn cho làm cái bệ gỗ có một đầu vát lên và hai chiếc ghế gỗ cao bằng chiếc rương. Khi trời xẩm tối, Triệt chỉ huy đám lính vận chuyển hương đồng vào hoàng cung để tiếp kiến Trấn Nam Vương. Thoát Hoan đang đánh trần ngồi hưởng gió từ hai cái quạt nan của tôi tớ, nghe lính hầu bẩm báo có Hữu thừa Khoan Triệt xin gặp, y lầm bầm trong miệng “Tối rồi mà còn thưa thốt gì nữa đây, phiền quá”. Chẳng qua Hoan ngại mặc áo, cởi trần tiếp thuộc tướng thì mất uy thế, khoác lệ bộ thì nóng nực hành hạ khổ sở. Thấy bọn lính khệ nệ khiêng chiếc rương vào sân, mặt đồng phản chiếu ánh đuốc cứ vàng chóe lên khiến chủ soái mừng rơn, nghĩ thầm Khoan Triệt đem dâng rương châu báu. Triệt có vẻ tự tin, vái chào Thoát Hoan rồi thưa gửi: – Tại hạ kiếm được món đồ, nay xin dâng lên đại vương, chắc ngài sẽ vừa lòng. Thoát Hoan nhấp nhổm, đòi mở xem ngay. Nắp rương bật ra, bên trong chỉ có cái kệ gỗ và hai chiếc ghế xếp nằm. Y cụt hứng mà rằng: – Ngươi dâng cho ta cái này để làm gì? Mấy mẩu gỗ làm hình nhân thế mạng đem chôn theo quan tài à? Khoan Triệt toe tét cười, đáp: – Không phải vậy, ngài chờ cho một lát. Y sai lính đem thùng ra giếng thơi trong cung lấy nước đổ đầy rương, cho kế ghế ở hai đầu, rồi thủng thẳng nói: – Xin mời đại vương vào ngự giải nhiệt. Thoát Hoan lưỡng lự hồi lâu mới chịu thay áo, mặc đồ mỏng leo vào rương nằm lên kệ gỗ, một ghế kê đầu, một ghế gác chân. Nước chỉ lấp xếp ngang bụng, nhưng được múc từ giếng nên rất trong mát. Tướng mạo chủ soái tầm thước, miệng mũi cần hít thở nên đầu phải nhô cao, còn đôi chân có thể tùy tiện co lại một chút mà ngâm trong nước hoặc duỗi thẳng ra kê lên ghế. Cái bục gỗ vát thoai thoải làm đầu cô không mỏi, rất tiện lợi và thoải mái. Ngâm nước mát lạnh, cơ thể sảng khoái hẳn lên, Thoát Hoan hồ hởi khen: – Hảo ý, có thể nằm cả đêm mà ngủ đẫy giấc. Ta sẽ hậu thưởng cho Hữu thừa. Khoan Triệt mừng ra mặt, y tự cho mình là bậc tài trí, chỉ một mưu chước cỏn con đã lách được nạn còn lập được công. Hoan hỏi Triệt: – Theo người, có nên tháo rời cái nắp ra cho đỡ vướng víu? Triệt đáp: – Tùy ngài thôi. Nhưng để nguyên còn có thể dùng vào việc khác. Hoan không nói gì. Biết chủ soái thuận theo ý mình, Triệt càng đắc chí. Ngày hôm sau, chưa qua canh thân Thoát Hoan đã sai tôi tớ soạn sửa nước nôi để ngài ngự sớm. Bọn lính tíu tít đi xách nước và rắc hoa vào cái rương mà chủ nhân gọi là “thủy sàng”. Tôi tớ nào mà chẳng vui, đại vương an giấc sớm thì người hầu kẻ hạ đỡ cực. Viên chủ soái ngâm nước được nửa canh thì quân lính chạy vào báo: – Có thư tín từ Thiên Trường gửi ra. Thoát Hoan không chịu rời chỗ, nằm trong “thủy sàng” ra lệnh cho thư lại đọc thư. Giảo Kỳ thông báo với Trấn Nam Vương về việc cha con thế tử đem quân đánh chiếm Trường Yên, sẽ tiến ra Thiên Trường nay mai nên xin lệnh rút. Hoan nghĩ “Thiên Trường là lá chắn của đại quân, nó mà rút thì không ổn”, bèn sai thư lại phúc đáp cho Giảo Kỳ “Án binh tại Thiên Trường, chờ thời cơ kết hợp với Toa Đô ép chết bọn Trần gia”. Gã đại vương nằm mơ màng được một lúc, lại có quân vào cấp báo: – Bình chương A Lý Hải Nha xin trình diện. Hoan nhổm dậy, chưa kịp nói năng gì thì một tên khác lại chạy vào hổn hển thưa: – Sát Tháp Nhi Đài xin cầu kiến, Nạp Hải và Lý Bang Hiến đến tạ tội. Chúng là tướng ở ngoài mặt trận mà chạy về cả tất có chuyện dữ. Hoan nhảy tót ra khỏi bồn, vội vàng thay áo xống rồi hớt hải chạy ra chính điện. Một bọn tướng lĩnh dáng bộ như ma lem, võ phục rách bươm, máu me đỏ lòm mặt mũi cùng khom lưng với đại vương. A Lý Hải Nha là võ quan cao cấp nhất, lên tiếng trước: – Chương Dương đã thất thủ, bọn Trần gia đông như kiến nên các tướng đánh không lại, buộc phải rút lui. Xét thấy ai cũng có tội, chẳng qua lực bất tòng tâm, mong chủ soái nương tay. Thoát Hoan tốc tối gào lên: – Tổn thất bao nhiêu, các tướng ai còn ai mất, đã kiểm đếm chưa? Bình chương A Lý bẩm báo: – Tại hạ giữ được mười lăm thuyền và hai ngàn tám trăm quân. Sát Tháp Nhi Đài lên tiếng, thừa cơ đổ vấy cho A Lý: – Bình chương giành quyền điều khiển bình thuyền buộc tiểu nhân phải chạy bộ, nay còn ngàn hai bộ binh và bốn trăm kị binh. Lý Bang Hiến trình bày: – Tiểu nhân ít quân, chỉ có một ngàn kị mã nhưng cũng còn một trăm năm mươi tên sống sót. Nạp Hải mừng rơn vì thiệt quân ít hơn bọn khác, miệng lưỡi trở nên cứng cỏi: – Tại hạ đánh một trận quyết liệt, bảo toàn hơn sáu ngàn binh. Thoát Hoan trợn mắt gầm gừ: – Bọn khác đâu cả rồi, các ngươi mau cho ta biết? A Lý nói: – Nghe nói binh thuyền của Bột La Hợp Đáp Nhĩ bị đánh tan tác, rút chạy về hướng nam. Nạp Hải nói: – Tôn Hựu dẫn quân chạy hướng khác, nay không biết ở đâu. Lý Bang Hiến nói: – Theo lời mấy tên lính sống sót thì quân của Lưu Thế Anh bị đánh tan, Thế Anh dồn xuống sông, không biết còn sống hay đã chết. Lần này thì Thoát Hoan bủn rủn thật sự, không còn hơi sức để gào thét, y rên rỉ như người mắc bạo bệnh: – Nghe các ngươi nói mà ta ớn lạnh xương sống. Một đám chiến tướng lẫy lừng chỉ huy bảy vạn quân, nay còn được hơn vạn. Nếu Bột La Hợp Đáp Nhĩ và Tôn Hựu tốt số giữ được một nửa lực lượng của chúng, thì mấy người đã thí mạng hơn bốn vạn tinh binh thiên triều rồi. Đánh trận mà hèn kém như vậy có xứng làm tướng không? Công tội sẽ xét sau, bây giờ phải tìm cách đối phó. Ta triệu tập toàn thể tướng lĩnh, một canh giờ nữa họp bàn việc quân. Bọn bại tướng cáo lui, chủ soái quay vào cung tiếp tục giải nhiệt trong cái “thủy sàng”. Y cho rằng “Đã thua rồi, có ba đầu sáu tay cũng chẳng cứu vãn được. Thà nghỉ ngơi cho khỏe người, còn hơn đóng bộ ngồi một chỗ mà than van cái miệng, đôi tay chẳng biết làm gì ngoài việc vuốt mồ hôi đầm mặt”. Nhưng đầu lĩnh Nguyên Mông muốn tranh thủ thư giãn cũng chẳng được, vừa nhúng mình vào nước thì quân hầu lại chạy vào thưa bẩm có mười mấy tiểu tượng trước sau lục tục kéo đến trình diện đại vương. Thoát Hoan phát hoảng, y lờ mờ đoán biết nguyên do, đành tạm quên cái “thủy sàng” mát mẻ để lại đóng bộ ra gặp lũ tép riu. Chúng là đám hạ cấp trông coi những đồn trại nhỏ quanh Thăng Long, nay lũ lượt kéo về thì coi như rồi đời, quân Trần đã vây tứ phía, phải tính kế cho mau kẻo hối không kịp. Tên này thưa địch quân lướt như gió, loáng một cái đã san phẳng trại. Tên kia bẩm đối phương như cọp dữ, mà chúng thì bé như chuột nhắt, chẳng bõ cho họ giắt răng. Tên nọ kể lể quân Trần trẩy qua như thác lũ, nhìn thấy đồn có loe ngoe vài mống, họ chẳng thèm đánh lại bảo rằng cuốn xéo đi cho rồi. Thoát Hoan vò đầu bứt tóc, chỉ mong các tướng lĩnh cao cấp hội sớm, nghe riết đám tiểu tướng bẩm báo làm đôi tai của yù đặc, còn trí óc thì hỗn độn cả mớ đồn trại chẳng nhớ nổi cái nào với cái nào. Các đầu lĩnh lũ lượt kéo đến. Thấy đám tiểu tượng như ruồi nhặng vo ve quanh tại Trấn Nam Vương, Bình Chương A Lý lên giọng bề trên: – Thượng cấp họp bàn việc quân, bọn người ra ngoài cả đi. Thoát Hoan tỉnh ngủ, trợn trừng mắng A Lý: – Ngươi cũng là bại tướng như chúng thôi. Ở đây ta là người quyết định ai được tham dự họp bàn quân cờ. A Lý Hải Nha cụp mắt, im thin thít. Hoan chỉ thị cho bọn tiểu tướng: – Ta biết các ngươi không đủ binh lực đánh lại địch quân nên không bắt tội. Nay cho xuống trại nghỉ ngơi, sẽ giao việc sau. """