"Khổng Tử - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khổng Tử - Nguyễn Hiến Lê PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo LUẬN NGỮ & KHỔNG TỬ Tác giả: Nguyễn Hiến Lê Đánh máy: Thuocvien, Goldfish Sửa lỗi chính tả: QuocSan, Goldfish Tạo eBook (11/06/‘15): QuocSan. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lí nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, tề gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lí tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người. (Trích Hồi Kí Nguyễn Hiến Lê) MỤC LỤC: Lời thưa Luận Ngữ Khổng Tử Nhà giáo họ Khổng Đọc thêm LỜI THƯA Do trong Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “Trong tập này có nhiều chỗ dẫn chứng ở Luận ngữ, nhưng tôi chỉ ghi xuất xứ (thiên nào, bài nào) chứ không chép lại hết được, vì vậy độc giả cần có bản Luận ngữ tôi dịch và để tra cho tiện”. và do trong cuốn Luận ngữ và cuốn Khổng Tử, có nhiều chỗ cụ Nguyễn Hiến Lê bảo “coi cuốn Nhà giáo họ Khổng”, nên chúng tôi gom cả ba cuốn: Luận ngữ, Khổng Tử và Nhà giáo họ Khổng vào trong eBook này. Ngoài ra, trong phần Đọc thêm, chúng tôi còn chép một số bài trích trong các tác phẩm sau đây của cụ Nguyễn Hiến Lê: Đại cương triết học Trung Quốc (soạn chung với cụ Giản Chi), Sử ký của Tư Mã Thiên (soạn chung với cụ Giản Chi), Cổ văn Trung Quốc và Sử Trung Quốc. Goldfish Tháng 10/2011. LUẬN NGỮ Nguyễn Hiến Lê Chú dịch và giới thiệu Đánh máy: Goldfish Sửa lỗi chính tả: QuocSan. Vài lời thưa trước Giới thiệu nguồn gốc và các bản Nguồn gốc Các bản Nội dung và cách trình bày Bản dịch của chúng tôi Các bảng phân loại Dịch và chú thích §I. HỌC NHI 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 §II. VI CHÍNH 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24 §III. BÁT DẬT 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 §IV. LÍ NHÂN 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 §V. CÔNG DÃ TRÀNG 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27 §VI. UNG DÃ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28 §VII. THUẬT NHI 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37 §VIII. THÁI BÁ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21 §IX. TỬ HÃN 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30 §X. HƯƠNG ĐẢNG 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18 §XI. TIÊN TIẾN 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25 §XII. NHAN UYÊN 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24 §XIII. TỬ LỘ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30 §XIV. HIẾN VẤN 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 44, 45 §XV. VỆ LINH CÔNG 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41 §XVI. QUÍ THỊ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14 §XVII. DƯƠNG HOÁ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 §XVIII. VI TỬ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 §XIX. TỬ TRƯƠNG 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25 §XX. NGHIÊU VIẾT 1, 2, 3 Phụ lục KHỔNG TỬ Đời sống Lối sống Nhân cách, tính tình Dạy học Cách dạy Khổng Tử tự xét mình Khổng Tử xét người xưa và người đương thời Người đương thời xét Khổng Tử Môn sinh Khổng Tử Học và tu dưỡng Các đức Xử thế Các hạng người Chính trị Tên người – tên đất – tên triều đại A, B, C, CH, D, Đ, G, H, K, L, M, N, NG, PH, Q, S, T, TH, TR, V, Y Những câu thường dẫn I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, XI, XII, XIII, XIV, XV, XVI, XVII, XVIII, XIX, XX Vài lời thưa trước Trong bài Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết đôi điều về việc dịch lại bộ Luận ngữ như sau: “Tôi đã bỏ ra hơn hai tháng đọc lại những sách về Khổng tử mà tôi có hoặc mượn được (như của Lữ Chấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc; Hầu ngoại Lư: Tư tưởng cổ đại Trung Quốc; Quan Phong và Lâm Duật Thời: Bàn về Khổng Tử – đều do ngoài Bắc dịch); đọc lại các bản dịch và chú giải Luận ngữ của mình, và của Trung Hoa (như Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, Luận ngữ dịch chú của Triệu Thông; lại bỏ ra hơn hai tháng nữa để dịch lại bộ Luận ngữ, vừa dịch vừa phân loại theo đề tài lập bảng tra tên người, tên đất.” Trong cuốn Luận ngữ này, cụ Nguyễn Hiến Lê có nói rõ là bài XVI.1 được dịch lại: trong chú thích bài đó, cụ viết: “Bài này chúng tôi dịch trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại.” Ngoài bài XVI.1 đã dẫn trong cuốn Nhà giáo họ Khổng được cụ dịch lại, còn nhiều bài khác nữa đã được cụ dẫn trong một số tác phẩm khác cũng được cụ dịch lại mặc dầu trong cuốn Luận ngữ này cụ không nêu ra, ví dụ như (mỗi tác phẩm tôi chỉ chọn một bài): - Bài II.2: Trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, câu “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà”, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Cả 300 thiên trong Kinh Thi, chỉ một câu có thể trùm được, là: không nghĩ bậy”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại, đặc biệt là ba chữ “tư vô tà”, như sau: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính.” - Bài VI.8: Trong bộ Mặc học, câu “Vô chi, mệnh hĩ phù? Tư nhân dã nhi hữu tư tật dã!”, cụ dịch là: “Con [tức Bá Ngưu] sắp mất. Số mệnh đó thôi. Người như vậy mà bệnh như vậy!”; Trong cuốn Luận ngữ, cụ hiểu chữ “vô” theo một nghĩa khác, và cả câu đó được lại thành: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó!” - Bài VIII.3: Trong bộ Trang tử – Nam hoa kinh, câu “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù, tiểu tử” (lời của Tăng tử), cụ dịch là: “Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ được (thân ta) khỏi các ề ố điều hư hỏng, tàn tật đó các trò”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại là: “Từ nay về sau, ta mới biết thoát khỏi hình lục, đó các trò” (cụ đã hiểu hai chữ “miễn phù” theo một nghĩa khác). - Bài XVIII.6: Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc, câu “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi”, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà theo mình để sửa đổi việc loạn ra trị”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại (đặc biệt là hai chữ “thao thao”): “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ?” Lý do khác biệt trong hai lần dịch bài VI.8 là do chữ 亡 trong nguyên văn. Trong bộ Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc chữ đó là “vong” và dịch theo nghĩa của chữ 亡 là “chết mất”; còn trong cuốn Luận ngữ cụ đọc là “vô” và dịch theo nghĩa của chữ “vô” 無 là “không”[1]. Cũng có trường hợp đọc khác nhưng ý nghĩa cũng vậy như chữ 哂 trong bài XI.25, trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ đọc là “sẩn” (Thiều Chửu cũng đọc là “sẩn”); còn trong cuốn Luận ngữ, cụ đọc là “thẩn”, nhưng nghĩa cũng vẫn là “mỉm cười”. Nhân vật Nhụ Bi trong bài XVII.20 cuốn Luận ngữ, chữ Hán là 孺悲, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (bài Dương Hoá – 19) gọi là Nhũ Bi. Cũng trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê tỏ ý ngờ rằng thiên Hương đảng (thiên X) là do người sau chép thêm; cụ bảo: “(…) hình như cũng có vài chỗ do người đời sau viết thêm, chẳng hạn như thiên Hương đảng”. Nhưng trong cuốn Luận ngữ này và trong cuốn Khổng tử nữa, chúng ta không thấy cụ nhắc lại ý nghi ngờ đó nữa. Cuốn Luận ngữ mà tôi chép lại ở đây là theo ebook do một bạn trẻ, bạn PNT, gởi tặng. Ebook đó, về sau gọi là “ebook nguồn”, không ghi tên nhà xuất bản và năm xuất bản. Theo ảnh bìa đăng trên trang http://www.sachbaovn.vn/sach/khoa-hoc-xa-hoi-MTg/luan-ngu MTkwQw thì nhà xuất bản là nhà Văn học (tôi tạm dùng ảnh đó, sửa lại đôi chút để làm ảnh bìa cho ebook mới này). ồ Trong ebook nguồn cũng không chép chữ Hán, các chữ Hán trong ebook mới này là do tôi ghi thêm dựa theo các bản Luận ngữ đang lưu hành trên mạng, đặc biệt là bản Khổng tử Luận ngữ do Nguyễn Thiên Thụ chú dịch hiện đang phổ biến trên website Sơn Trung Thư Trang[2]. Bản của Nguyễn Thiên Thụ và bản của cụ Nguyễn Hiến Lê có vài chỗ không giống nhau. Sau đây là vài ví dụ về chữ Hán khác nhau: - Trong bài I.6, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 凡愛眾,⽽親仁 “phàm ái chúng nhi thân nhân” và dịch là: “Thương mọi người, mà gần gũi người nhân đức”; tương ứng với chữ “phàm” 泛, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là “phiếm” [泛] và dịch là: “yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức.” - Trong bài II.16, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 攻乎異端,斯害也 ⼰ “Công hồ dị đoan tư hại dã kỉ” và dịch là “Nghiên cứu việc hoang đường thì có hại cho mình”; chữ cuối, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là “dĩ” [已] và dịch là: “Chuyên tâm nghiên cứu những cực đoan thì có hại.” - Trong bài IX.3, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 雖遠衆 “tuy viễn chúng” và dịch là: “trái với đại chúng”; cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: “tuy vi chúng” (tức 雖違衆) và dịch là: “tuy trái với số đông.” Tôi cũng tham khảo bản Luận ngữ do Phùng Hoài Ngọc biên dịch và bàn luận đăng trên http://giangnamlangtu.wordpress.com/2011/07/09/lu%E1%BA%ADn ng%E1%BB%AF-kh%E1%BB%95ng-t%E1%BB%AD/. Bản này cũng có vài chỗ khác biệt với bản của cụ Nguyễn Hiến Lê, ví dụ như: - Trong bài II.16, Phùng Hoài Ngọc chép là: 攻乎異端,斯害也 已 “Công hồ dị đoan tư hại dã dĩ” và dịch là: “Phá bỏ mê tín dị đoan, cái hại sẽ tiêu tan”. Phùng Hoài Ngọc không chú thích, nhưng ta có thể đoán được tác giả hiểu tương tự như lời chú thích của cụ Nguyễn Hiến Lê: “Có người hiểu khác: công [攻] là công kích, dĩ [已] nghĩa là [⽌] (chỉ): công kích những cái cực đoan thì ngăn được hại”. - Trong bài I.13, Phùng Hoài Ngọc chép lời của Hữu tử (tức Hữu Nhược) như sau: …⼈不失其亲,亦可宗也 “…Nhân bất thất kỳ thân, diệc khả tông dã”, và dịch là: “…Vì không mất đi sự thân cận lễ nghĩa đó nên giữ được tông pháp”. Cụ Nguyễn Hiến Lê thì dịch là: “Thân cận với người đáng cho mình thân cận (tức người có đức nhân) thì người đó mình có thể tôn kính được (hoặc nương nhờ người đáng cho mình thân cận – người có đức nhân – thì người đó có thể làm chủ mình được)”, và chú thích: “Chữ nhân ở đây có thể hiểu là thân cận hay nương nhờ. Chữ tôn có thể hiểu là kính mà coi là chủ mình”. Nguyên văn chữ “nhân”, trong bản nguồn không chép chữ Hán như tôi đã nói ở trên, nhưng hầu hết các bản trên mạng, trừ bản Phùng Hoài Ngọc ra, đều chép là 因. Ngoài việc ghi thêm chữ Hán và các chú thích, trong phần Phụ lục tôi còn chép trọn tiết Luận ngữ trong cuốn Cổ văn Trung Quốc[3]. Trong tiết đó cụ Nguyễn Hiến Lê giới thiệu tác phẩm Luận ngữ và ba bài: I.1, VII.14 và XI.25. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn PNT và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn. Goldfish Tháng 7 năm 2011 Bổ sung tháng 9 năm 2011 GIỚI THIỆU NGUỒN GỐC VÀ CÁC BẢN Bộ Luận ngữ đứng đầu trong Tứ thư. Tôi nghĩ nếu bỏ ra bốn năm chục bài chép ngôn hành của các môn sinh như Tăng Tử, Tử Hạ, Hữu Nhược, Tử Du, Tử Trương mà trong tập Khổng tử (thiên IV) tôi đã giới thiệu sơ lược, chỉ giữ lại hết những bài chép ngôn hành của Khổng tử – khoảng 500 bài, toàn bộ gồm khoảng năm trăm rưỡi bài – thì Luận ngữ đáng gọi là “Kinh”. Tất cả các học giả từ xưa tới nay đều coi nó là kinh của Khổng giáo, cũng như Đạo Đức kinh là kinh của Lão giáo. Nó còn chép trung thực tư tưởng của Khổng tử, đáng tin hơn Đạo Đức kinh nữa, vì bộ này gồm nhiều bài do người sau thêm vào, (coi bộ Lão tử chúng tôi soạn mà chưa xuất bản được)[4]. Do đó, muốn tìm hiểu học thuyết của Khổng tử thì phải căn cứ trước hết vào Luận ngữ, vì chín phần mười Kinh Thư, Kinh Lễ, Trung dung, Mạnh tử, tư tưởng không còn đúng của Khổng tử (mặc dầu cũng có điểm giống); Đại học có hệ thống quá (có nhà còn ngờ không phải của Tăng tử viết); Trung dung có một phần siêu hình mà Khổng tử tránh siêu hình; còn Mạnh tử phóng đại phần duy tâm của Khổng tử. Vì những lẽ đó, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng và cuốn Khổng tử[5] chúng tôi ráng chỉ dùng Luận ngữ để trình bày tư tưởng của Khổng. NGUỒN GỐC Luận ngữ có bài do môn sinh của Khổng tử chép, như bài XIV.1: Hiến vấn sỉ. Tử viết: “Bang hữu đạo, cốc; bang vô đạo, cốc, sỉ dã”[6]. Nguyên Hiến tự xưng tên như vậy, thì chính là ông ta chép. Có trường hợp như trong khi học, môn sinh nghe giảng điều gì thì chép ngay lại cho khỏi quên, như Tử Trương trong bài XV.5, chép lời của Khổng tử vào dây đai, rồi sau truyền lại cho môn sinh. Có nhiều bài do hạng môn sinh tái truyền (tức môn sinh của môn sinh) chép, như thiên I, bài 2 bắt đầu bằng: “Hữu tử viết”, bài 4 bắt đầu bằng “Tăng tử viết” v.v… đều là học trò của Hữu Nhược, và của Tăng Sâm chép, vì theo lệ trong Luận ngữ, trừ Khổng tử, mà bất kì môn sinh nào dù trực truyền hay tái truyền, cũng gọi là “tử” hoặc “phu tử” (hoặc Khổng tử như các bài XV.12-11); còn các môn sinh của Khổng tử thì có ba trường hợp như sau: Tôi lấy ví dụ. A và B đều học Khổng tử, họ là đồng môn với nhau. B dạy học có một học trò tên C. Trường hợp thứ nhất: A hay B khi chép hay nói về mình, thì xưng tên tục, chẳng hạn Đoan Mộc Tứ[7] tự xưng là Tứ, Nhan Hồi tự xưng là Hồi. Trường hợp thứ hai: B nói về A (nói về bạn), hoặc C nói về A (tức nói về bạn của thầy mình) thì có thể gọi A: - bằng tên tự (như Tử Cống là tên tự của Đoan Mộc Tứ, Tử Uyên là tên tự của Nhan Hồi). - hoặc bằng cả họ và tên tục (như Đoan Mộc Tứ, Nhan Hồi). - hoặc bằng tên họ và tên tự (như Nhan Uyên – Nhan là họ, Uyên là tự). A nói về B cũng theo những cách gọi tên đó. Trường hợp ba: C nói về B, tức nói về thầy học của mình, thì gọi là “tử”, “tử” đặt sau họ của thầy mình (học trò của Hữu Nhược gọi Hữu Nhược là Hữu tử, học trò của Tăng Sâm gọi Tăng Sâm là Tăng tử, chứ không gọi là Tăng Sâm, hoặc Tử Dư – tên tự của Tăng Sâm). ắ ầ ằ ế ế ề Vậy những bài bắt đầu bằng Hữu tử viết hoặc Tăng tử viết, đều là của hạng môn sinh tái truyền lại. Có thể rằng sau khi Khổng tử mất, các môn sinh thu thập lời dạy của thầy, truyền cho nhau, một số người chép lại dùng để dạy học, khi chết, thì học trò của họ lại cả lời của Khổng tử lẫn lời của họ. Người cuối cùng chép lại là ai? Theo Liễu Tôn Nguyên đời Đường thì có lẽ là một học trò của Tăng Sâm. Có thuyết bảo rằng Tăng Sâm kém Khổng tử 46 tuổi, sinh vào khoảng 505, chết năm 428. Có sách lại nói Tăng Sâm chết năm Lỗ Nguyên công nguyên niên, tức Chu Khảo vương ngũ niên: 436[8]. Sai nhau tám năm, là ít đấy. Vậy Luận ngữ không thể xuất hiện trước 436 được. Có thể còn sau khá lâu nữa, vì thiên VIII chép Tăng Sâm trước khi mất có khuyên Mạnh Kính tử về cách cư xử của người cầm quyền (VIII.4). Mạnh Kính tử tên là Trọng. Kính tử là tên thuỵ, chết sau Tăng Sâm; mà bài đó ghi tên thuỵ – tên đặt cho người chết, theo hành vi hồi sinh tiền – tức là chép sau khi Mạnh Kính tử chết. Bài đó do một môn sinh của Tăng Sâm chép, cho nên gọi Tăng Sâm là Tăng tử, mà trong Luận ngữ, số bài chép ngôn hành của Tăng Sâm nhiều hơn số bài về các môn sinh khác của Khổng tử. Cho nên thuyết của Liễu Tôn Nguyên tin được. Và chúng ta có thể tạm kết luận rằng bộ Luận ngữ do nhiều người ghi và xuất hiện sớm cũng vào khoảng bảy tám chục năm sau Khổng tử mất. CÁC BẢN Luận ngữ đã được phổ biến từ thời Tiên Tần. Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc rồi, ra lệnh “đốt sách, chôn nho”, nhưng thời đó giao thông còn kém, sự kiểm soát không thể chặt chẽ lắm, mà Tần giữ ngôi không được lâu, nên lệnh chỉ thi hành triệt để ở những nơi gần kinh đô và chung quanh các thị trấn, còn trong dân gian các miền xa xôi, vẫn còn người lén lúc giữ được, có kẻ học thuộc lòng được Luận ngữ và lục kinh. Nhà Hán diệt Tần rồi, bỏ lệnh đó đi thì người ta thu thập được ba bản Luận ngữ: Bản Lỗ Luận của người nước Lỗ; bản Tề Luận của người nước Tề (hai bản này được chép bằng thứ chữ đã được Tần sửa đổi và thống nhất, gọi là kim văn – tức kim tự); và bản Cổ Luận (chép bằng cổ văn, tức cổ tự, thứ chữ dùng thời trước). Bản Cổ Luận này do Lỗ Cung công (cuối đời Hán Vũ đế) sai phá nhà Khổng tử mà tìm được trong tường, cùng với các bộ Thượng Thư, Lễ Kí, Hiếu Kinh. Lỗ Luận có 20 thiên, Tề Luận cũng có đủ 20 thiên đó, thêm hai thiên nữa: Vấn vương và Tri đạo, như vậy là 22 thiên cả thảy. Cổ Luận cũng chỉ có 20 thiên như Lỗ Luận, nhưng thiên cuối: “Nghiêu vấn” chia làm hai từ câu: “Tử Trương vấn ư Khổng tử: Hà như tư khả dĩ tòng chính hĩ” trở đi (tức bài XX.2 trong bản dịch của chúng tôi, gọi là Tòng thiên. Vậy là Cổ Luận chi làm 21 thiên, hai thiên cuối rất ngắn. Theo Hà Án đời Nguỵ, trong số 20 thiên Lỗ và Tề đều có thì chương cú trong Tề Luận nhiều hơn trong Lỗ Luận; mà thứ tự các thiên trong Cổ Luận cũng khác trong Tề và Lỗ Luận. Đầu đời Hán, hai bản Lỗ và Tề đều được truyền (Ông thầy nào muốn dùng bản nào thì dùng); bản Cổ Luận không được truyền, không hiểu tại sao. Từ đời Hán Thành đế (32–7 trước Công nguyên), hai bản Tề và Lỗ được hợp nhất; rồi cuối đời Đông Hán, Trịnh Huyền bỏ hai thiên Vấn vương và Tri đạo trong Tề Luận đi, hợp nhất cả ba bản. Hà Án đời Nguỵ có lẽ là người đầu tiên giải thích Luận ngữ, bản Luận ngữ tập giải của ông còn truyền đến ngày nay. Đời Tống, Chu Hi cũng chú thích và bản Luận ngữ tập chú của ông không khác bản của Hà Án bao nhiêu. Hai bản đó là chính, còn nhiều bản khác nữa. Ở nước ta từ xưa chỉ dùng bản của Chu Hi và các nhà dịch Luận ngữ trong già nửa thế kỉ nay cũng chỉ theo chú thích của Chu Hi. NỘI DUNG VÀ CÁCH TRÌNH BÀY Đọc các cổ thư đời Tiên Tần, như Mặc tử, Đạo Đức kinh, Trang tử… chúng ta gặp rất nhiều chữ rất tối nghĩa vì chép lầm, thiếu sót và nhiều chỗ do người sau nguỵ tác, thêm vào. Luận ngữ không tránh khỏi tình trạng đó. Có một hai chỗ thoát lậu, như bài X.18, không ai hiểu ý nghĩa ra sao, mỗi người đoán một khác, và người ta ngờ rằng mất một vài câu ở đầu hoặc ở cuối. Bài XVIII.11 kì cục, chép tám kẻ sĩ đời Chu chẳng có tiếng tăm gì mà có vẻ bốn cặp sinh đôi của một hay nhiều gia đình nào đó, để làm gì vậy? chẳng học giả nào giảng nổi. Có ít câu người ta ngờ đặt lộn chữ, đáng lẽ ở bài khác, như: - cuối bài XII.10 có 2 câu: “Thành bất dĩ phú, diệc chi dĩ dị” ở trong Kinh Thi[9], dẫn lầm vào đó nên các sách đều bỏ; - cuối bài XVI.12 có câu: “Kì tư chi vị dư?”[10] cũng ở đâu đặt lầm vào, hoặc thiếu một vài chữ gì ở trên câu đó, nên không ai hiểu nổi. Hai bài XVII.5 và 7, Tử Lộ can Khổng tử đừng nhận lời mời của Công Sơn Phất Nhiễu và của Bật Hật, bị Lương Khải Siêu trong “Cổ thư chân nguỵ cập kì niên đại” ngờ là không đúng, nhưng Lương chưa đưa được cứ xác đáng. Có bốn năm bài trùng xuất, như: - IX.24 – I.8, - XV.23 – XII.2[11], - XIV.26 – VIII.14, - XVII.17 – I.3. Lỗi đó không đáng kể. Năm thiên cuối (XVI-XX) có nhiều điều khả nghi: - Thông lệ thì Luận ngữ gọi Khổng tử là Tử mà thiên XVI lại gọi là Khổng tử, và 4 bài 22, 23, 24, 25 thiên XIX lại gọi là Trọng Ni. - Việc chép trong bài XVI.1 không chắc đã đúng vì theo Tiền Mục, Nhiễm Hữu và Quí Lộ không hề đồng thời giúp việc cho Quí thị; hai việc trong bài XVII.5 và 7, Lương Khải Siêu cũng không tin. - Thiên XVII toàn chép dật sự của người trước và người đương thời với Khổng tử, không liên quan gì đến thầy trò họ Khổng. - Thiên XIX toàn chép lời bàn về đạo của môn đệ Khổng tử: Tử Trương, Tử Hạ, Tử Du, Tăng tử…, không có một lời nào của Khổng tử. Do những lẽ kể trên, một số học giả cho rằng năm thiên cuối được thêm vào sau và không đáng tin như những thiên trên. Điều bất tiện cho chúng ta nhất là môn sinh ghi chép vắn tắt lời của Khổng tử, không cho biết những lời đó nói vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào, thành thử, có nhiều bài chúng ta không biết chắc được tư tưởng, hành vi của Khổng tử ra sao. Thí dụ bài II.6, Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu, Khổng tử đáp: “Phụ mẫu duy kì tật chi ưu”[12]. Lời rất dễ dàng như vậy có ba cách hiểu: 1. Cha mẹ chỉ lo cho con bệnh tật. (Khổng tử muốn khuyên Mạnh Vũ Bá nên giữ gìn sức khoẻ để cho cha mẹ khỏi lo). 2. Người con có hiếu thì thận trọng mọi việc, không làm gì cho cha mẹ phải lo, duy có bệnh tật là không dễ phòng được. Cách hiểu này cũng giống như cách hiểu trên: làm con phải chăm sóc sức khoẻ của mình; chỉ hiểu như cách trên thì là lời trách một người chơi bời quá độ, hiểu theo cách dưới thì không có ý trách, mà nhận rằng Mạnh Vũ Bá rất đứng đắn. 3. Cách hiểu thứ ba trái hẳn, (cho chữ kì chỉ cha mẹ, hai cách trên chữ kì chỉ con)[13] và câu của Khổng tử phải dịch là: Người con mà lo cho cha mẹ bệnh tật (hết sức săn sóc sức khoẻ của cha mẹ) là người con có hiếu. Giá mà người chép cho ta biết Mạnh Vũ Bá là người ra sao (có giữ gìn sức khoẻ của mình không, hoặc có thường lo về sức khoẻ của cha mẹ không) thì chúng ta không còn thắc mắc nữa. Nhất là bài V.21, Khổng tử chán nản cảnh bôn ba, muốn về Lỗ dạy học; người chép không cho ta biết việc đó xảy ra hồi nào, trước khi ông bị nạn ở Bồ năm 494, hay Quí Khang tử mời Nhiễm Cầu[14] về Lỗ giúp mình, năm 492, hay là vào cả hai lần như Tư Mã Thiên chép? ề ế ế Bài XV.1, Vệ Linh Công hỏi ông về chiến trận (ông đáp không biết). Ông tới Vệ lần nào, vì trước sau ông tới Vệ năm lần, bốn lần đầu Linh Công còn sống? Còn nhiều bài khác, không sao kể hết. Do đó mà nhiều khi người ta không biết chắc tư tưởng cùng đời sống của ông. Niên biểu nào lập về đời ông cũng chỉ là phỏng chừng, mười điều trúng được năm là may. Chúng tôi chỉ nhận xét như vậy thôi, không có ý trách cổ nhân: các môn sinh của Khổng tử không có những phương tiện dễ dàng để ghi chép như chúng ta ngày nay, ngôn ngữ của họ dùng cách nay đã hai ngàn rưỡi năm; mà họ không có ý viết sách cho đời sau, chỉ muốn ghi lại lời thầy để nhớ rồi truyền cho con cháu, học trò thôi, cho nên không thể chép thật minh bạch như chúng ta muốn được. Chúng ta còn nên khen bộ Luận ngữ so với bộ Đạo Đức kinh, bộ Trang tử, xuất hiện sau còn sáng sủa hơn nhiều, nhất là ghi một cách trung thực, tỉ mỉ ngôn hành của Khổng tử, thành một tác phẩm đáng tin cậy nhất về học thuyết Khổng tử. Một điểm chung nữa các sách thời đầu Chiến Quốc là sự trình bày rất lộn xộn. Luận ngữ tuy chia làm 20 thiên, nhưng ngoài thiên X (Hương đảng – chép về lối sống, cách cư xử hằng ngày của Khổng tử ở triều đình[15], làng xóm và ở nhà) là tương đối nhất trí, còn 19 thiên kia thì không có chủ đề gì cả, gặp đâu chép nấy, về nhân, hiếu, lễ, về chính trị, về văn học, về hành vi của Khổng tử, tâm sự của ông, ý chí của môn sinh v.v…, có vài thiên lại xen vào dăm ba bài về ngôn hành của môn sinh nữa. Vì vậy mà người xưa đã phải lấy vài chữ ở đầu mỗi thiên làm nhan đề cho thiên, như Học nhi, Ung dã, Tử hãn[16]… Đó là đại khái về nội dung và sự trình bày. Về giá trị nghệ thuật, thì chúng ta phải nhận rằng rất cao: lời cô động; ý nghĩa sâu sắc, mà chép tự sự, miêu tả tính tình hành động của nhân vật nhiều khi linh động. Trong cuốn Cổ văn Trung Quốc (Tao Đàn -1966), chúng tôi đã giới thiệu ba bài[17]: I.1 Học nhi thời tập chi… ồ VII.14 Phu tử vị Vệ quân hồ? XI.25 Khổng tử hỏi về chí hướng của một số môn sinh. Còn nhiều bài nữa như: XVI.1 Khổng tử mắng Nhiễm Cầu không biết can Quí thị đừng đánh Chuyên Du. IX.11 Khổng tử mắng Tử Lộ muốn táng mình như một đại phu. V.25 Khổng tử hỏi chí hướng môn sinh và tỏ chí hướng của mình. Cũng đều là những tiểu phẩm bất hủ trong văn học Trung Quốc. Ấy là chưa kể mấy chục câu của Khổng tử rất gọn mà thâm thuý đáng gọi là châm ngôn hoặc đã được coi là thành ngữ như: “dục tốc bất đạt”, “hoà nhi bất đồng”, “ôn cố tri tân”, “dĩ trực báo oán”, “quân tử cố cùng”, “phú quí như phù vân”, “hủ mộc bất khả điêu”, “danh chính ngôn thuận” v.v… BẢN DỊCH CỦA CHÚNG TÔI Chúng ta đã có được ba bốn bản Luận ngữ. Bản đầu tiên tôi được biết là bản của cụ Lương Văn Can, mỏng khoảng trăm trang trở lại, chỉ lựa một số bài để dạy học trò; bản này không kiếm được, ngay cả trong thư viện cũng không chắc còn; hai bản gần đây nhất, nhiều gia đình còn giữ là bản của Đoàn Trung Còn in lần đầu ở Sài Gòn năm 1954, và bản của Lê Phục Thiện, gồm ba tập, xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1962 đến năm 1967. Mấy bản đó đều công phu cả, có nguyên văn chữ Hán, phiên âm và chú thích, nhưng đều theo cách hiểu của Chu Hi và đều không phân loại các bài, không có bảng tên người và tên đất, bất tiện cho việc tra cứu. Chúng tôi tham khảo thêm một số bản chú giải và bản dịch khác, đặc biệt là bản Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, nhà Khai Minh xuất bản ở Hương Cảng gồm hai tập, bản Luận ngữ chú dịch của Triệu Thông, nhà Hữu Liên xuất bản cũng ở Hương Cảng năm 1967 và bản Luận ngữ nhị thập giảng của Vương Hướng Minh – Trung Hoa Thư cục – Đài Loan – 1958, để biết thêm cách hiểu một số học giả Trung Hoa xưa và nay. Bài nào có nhiều cách hiểu thì chúng tôi lựa lấy một và ở phần chú thích ghi thêm vài kiến giải khác. Sự lựa chọn đó chỉ là ý kiến riêng của tôi thôi, không có giá trị gì hơn những lựa chọn khác. Làm như vậy chúng tôi chỉ mong thoát ra khỏi lối hiểu chính thống của Tống nho, ráng tìm hiểu tư tưởng Khổng tử theo một tinh thần khách quan và giúp độc giả thấy được nhiều lối hiểu để phán đoán. Tôi cũng tham khảo thêm lối dịch của Lâm Ngữ Đường, học giả này thỉnh thoảng có những ý mới mẻ, khác người; sau cùng cuốn Confucius của Etiemble (Gallimard 1966) cũng giúp tôi được ít nhiều. Mỗi bản đánh số theo một cách, phần nhiều theo lối của Chu Hi. Chúng tôi theo lối của Triệu Thông (sách đã dẫn). Thí dụ bài đầu thiên V (Công Dã Tràng) chép việc Khổng tử gả con gái của anh cho Nam Dung. Chu Hi chia làm hai bài: bài V.I nói về Công Dã Tràng, V.2 nói về Nam Dung. Triệu Thông gom lại thành một[18]. ố Do đó số thứ tự của bài trong bản dịch của Triệu Thông và của chúng tôi khác với nhiều bản lưu hành. Nếu theo số của chúng tôi mà tìm không ra trong các bản của độc giả có, thì tìm ngược lên hay tìm xuôi xuống một vài bài sẽ thấy. CÁC BẢNG PHÂN LOẠI Cuối bản dịch, chúng tôi thêm nhiều bảng phân loại và hai bảng nhân danh. Việc phân loại phức tạp và tốn công lắm. Bộ Luận ngữ gồm 20 thiên, trên năm trăm năm chục bài. Có bài chỉ gồm tám chữ như bài IX.1: Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân, muốn phân loại cho kĩ thì phải sắp vào 4 loại: lợi, mệnh, nhân và cách dạy của Khổng tử. Một bài dài hơn có tên nhiều người, thêm tên đất nữa, thì có khi phải sắp vào chín mười chỗ. Rất ít bài chỉ chỉ cần sắp vào một hai chỗ. Đa số sách phải sắp vào bốn năm chỗ. Như vậy, năm trăm rưỡi bài phải sắp vào khoảng hai ngàn chỗ là ít, bất tiện cho việc tra cứu. Muốn dễ tra thì phải rút bớt đi cho giản tiện hơn; tìm ý chính của mỗi bài mà sắp thôi. Như bài IX.1, theo tôi, ý chính (tạm gọi như vậy) ở chữ lợi; vả lại sắp vào mục “lợi” (nghĩa, lợi) dễ kiếm hơn là sắp vào mục “nhân”[19] vì trong Luận ngữ có rất ít bài nói về “lợi” và rất nhiều bài nói về “nhân”; cho nên tôi chỉ sắp vào mục “nghĩa, lợi” rồi ghi: IX.1 (Tử hãn ngôn lợi), mà khỏi sắp vào các mục “mệnh”, “nhân”, “cách dạy của Khổng tử.” Sắp theo cách đó thì giảm đi được nhiều, mục đích chính là để những người quen với Luận ngữ dùng. Độc giả nào chưa quen với Luận ngữ tất khó tra hơn chúng tôi, chúng tôi đành xin lỗi những vị đó. Về tên người, chúng tôi lập hai bảng, một bảng cho các người không phải là môn sinh Khổng tử, một bảng riêng cho các môn sinh. Chúng tôi phải phân biệt bốn loại về môn sinh: 1. bài Khổng tử xét môn sinh; 2. bài môn sinh xét Khổng; 3. bài chép ngôn hành một số môn sinh có tiếng; 4. những bài khác chỉ nhắc tới tên môn sinh thôi (loại này nhiều nhất). Như vậy cũng là để chúng tôi dễ kiếm. Sau cùng, cuối sách, chúng tôi thêm một bảng nữa: “những câu thường dẫn”; gồm có một số bài có châm ngôn của Khổng tử hoặc ề ầ ố ế những câu thành ngữ… Nhiều lần muốn kiếm những thành ngữ như “ôn cố tri tân”, “quá do bất cập”, “dĩ trực báo oán”, “nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân” v.v… ở đâu mà ngại phải lật coi từng thiên một, tốn cả giờ chưa chắc tìm được, vì vậy tôi gom góp những câu đó cho vào một bảng riêng. Bảng này chỉ có vài trang giúp tôi rất nhiều. Những bảng phân loại kể trên phải dùng lâu rồi mới thấy khuyết điểm, cần phải sửa đổi, sắp lại, bổ túc. Nếu sau này còn thì giờ, tôi sẽ làm công việc đó. DỊCH VÀ CHÚ THÍCH THIÊN I HỌC NHI I.1[20] Tử viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt[21] hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ, nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” Dịch. – Khổng tử nói: “Học mà mỗi buổi tập, chẳng cũng thích ư? (Khi học đã tấn tới rồi) có bạn[22] (cùng chí hướng) ở xa nghe tiếng mà tìm lại (để bàn về đạo lí với nhau) chẳng cũng vui ư? Nhưng nếu không ai biết tới mình mà mình không hờn giận thì chẳng cũng quân tử[23] ư?” I.2 Hữu tử viết: “Kì vi nhân dã hiếu đễ nhi hiếu phạm thượng giả tiển hĩ. Bất hiếu phạm thượng nhi hiếu tác loạn giả, vị chi hữu dã. Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kì vi nhân chi bản dư.” Dịch. – Hữu tử nói: “Làm người, có nết hiếu, đễ thì ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân đấy chăng? Chú thích. – Hữu tử, họ Hữu, tên Nhược, người nước Lỗ, học trò Khổng tử, được bạn học kính mến. Chữ quân tử ở đây nên hiểu là người cầm quyền, như vậy bài này là lời khuyên hạng người trị dân; nhưng cũng có thể hiểu là người có đạo đức. I.3 Tử viết: “Xảo ngôn, lệnh sắc, tiển hĩ nhân.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nói năng khéo léo, nét mặt giả bộ niềm nở, hạng người đó ít có lòng nhân.” I.4 Tăng tử viết: “Ngô nhật tam tỉnh ngô thân: Vị nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ? Truyền bất cập hồ?” Dịch. – Tăng tử[24] nói: “Mỗi ngày tôi tự xét ba việc: Làm việc gì cho ai, có hết lòng không? Giao thiệp với bạn bè, có thành tín không? Thầy dạy cho điều gì, có học tập (cho nhuần) không?” I.5 Tử viết: “Đạo thiên thặng chi quốc, kính sự nhi tín, tiết dụng nhi ái nhân, sử dân dĩ thời.” Dịch. – Khổng tử nói: “Trị một nước (chư hầu không lớn không nhỏ) có ngàn cổ xe thì phải thận trọng trong việc mà thành thật với dân, không lãng phí là yêu dân, khiến dân làm việc, phải hợp thời (khi dân rảnh việc nông).” I.6 Tử viết: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng[25] nhi thân nhân; hành hữu dư lực tắc dĩ học văn.” Dịch. – Khổng tử nói: “Con em (thanh niên) ở trong nhà thì hiếu, thảo với cha mẹ, ra ngoài thì kính nhường bậc huynh trưởng, thận trọng lời nói mà thành thực, yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức; làm được thế vậy rồi mà còn dư sức thì sẽ học văn (tức học Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch…). I.7 Tử Hạ[26] viết: “Hiền hiền dị[27] sắc, sự phụ mẫu năng kiệt kì lực, sự quân năng trí kì thân, dữ bằng hữu giao, ngôn nhi hữu tín, tuy viết vị học, ngô tất vị chi học hĩ”. Dịch. – Tử Hạ nói: “Tôn trọng người hiền, coi thường sắc đẹp, hết lòng thờ cha mẹ, liều thân thờ vua, giao thiệp với bạn bè thì ăn nói phải thật tình, (người như vậy) tuy chưa hề học gì tôi cũng cho là đã học rồi”.[28] I.8 Tử viết: “Quân tử bất trọng tắc bất uy, học tắc bất cố; chủ trung tín, vô hữu bất như kỉ giả, quá tắc vật đạn cải.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không trang trọng thì không uy nghi, học tất không vững (không đạt lí); chuyên chú vào sự trung tín, không kết bạn với người không (trung tín) như mình; có lỗi thì chớ ngại sửa đổi.” I.9 Tăng Tử viết: “Thận chung truy viễn, dân đức qui hậu hĩ.” Dịch. – Tăng tử nói: “Thận trọng trong tang lễ cha mẹ, truy niệm và tế tự tổ tiên xa, thì đức của dân sẽ thuần hậu.” I.10 Tử Cầm[29] vấn ư Tử Cống[30] viết: “Phu tử chí ư thị bang dã, tất văn kì chính, cầu chi dư, ức dữ chi dư.” Tử Cống viết: “Phu tử ôn, lương, cung, kiệm, nhượng dĩ đắc chi. Phu tử chi cầu chi dã, kì chư dị hồ nhân chi cầu chi dư?” Dịch. – Tử Cầm hỏi Tử Cống: “Thầy mình (đây trỏ Khổng tử) tới nước nào cũng được nghe chính sự nước đó, như vậy là thầy cầu nghe hay là nhà cầm quyền tự ý báo cho biết?” Tử Cống đáp: “Thầy mình có thái độ ôn hoà, lương thiện, cung thuận, tiết kiệm, khiêm tốn, nhờ vậy mà người ta báo cho biết. Vậy cách cầu nghe của thầy mình hoặc giả có chỗ không giống cách cầu nghe của người khác chăng?” I.11 Tử viết: “Phụ tại, quan kì chí; phụ một, quan kì hành; tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vị hiếu hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Cha còn thì xét chí hướng của người, cha mất rồi thì xét hành vi của người, ba năm sau mà không thay đổi khuôn phép (tốt đẹp) của cha thì có thể gọi là có hiếu.” Chú thích. – Nguyên văn chỉ dùng chữ đạo. Chúng tôi nghĩ đã gọi đạo thì phải tốt đẹp, có tốt đẹp thì con mới nên giữ đúng; hễ ba năm hết tang mà còn giữ được thì tất sẽ giữ được hoài. Còn điều không thiện của cha thì không thể gọi là đạo được, có thể sửa đổi liền. Cổ nhân có người hiểu khác: dù cha sinh tiền có làm gì trái đạo thì người con có hiếu cũng không nỡ sửa đổi ngay, mà đợi hết tang cha đã. I.12 Hữu tử viết: “Lễ chi dụng, hòa vi quí. Tiên vương chi đạo tư vi mĩ, tiểu đại do chi. Hữu sở bất hành, tri hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành dã.” Dịch. – Hữu tử nói: “Công dụng của lễ nghi, quí nhất là điều hoà (cho thích hợp, cho hoà hợp). Phép trị nước của tiên vương nhờ đó mà hoàn mĩ, việc lớn việc nhỏ đều theo lễ cả. Tuy nhiên, có điều này (tiên vương) không làm: biết công dụng của lễ là hoà, mà chỉ trọng hoà (khí), không dùng lễ để tiết chế (thì sẽ phóng đãng). Đó là việc không nên làm. Chú thích. – Ý bài này cũng như ý câu “hoà nhi bất lưu” (hoà mà không phóng túng) trong Trung dung. I.13 Hữu tử viết: “Tín cận ư nghĩa, ngôn khả phục dã. Cung cận ư lễ, viễn sỉ nhục dã. Nhân bất thất kì thân, diệc khả tôn dã.” Dịch. – Hữu tử nói: “Lời ước hẹn phải hợp nghĩa thì mới giữ được. Cung kính phải hợp lễ thì mới tránh được nhục. Thân cận với người đáng cho mình thân cận (tức người có đức nhân) thì người đó mình có thể tôn kính được (hoặc nương nhờ người đáng cho mình thân cận – người có đức nhân – thì người đó có thể làm chủ mình được). Chú thích. – Chữ nhân [因] ở đây có thể hiểu là thân cận hay nương nhờ. Chữ tôn [宗] có thể hiểu là kính mà coi là chủ mình. I.14 Tử viết: “Quân tử, thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên, khả vị hiếu học dã dĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử ăn không cầu được đầy đủ, ở không cầu được yên vui, làm việc siêng năng mà thận trọng lời nói, tìm người đạo đức để (thụ giáo) sửa mình; như vậy có thể gọi là người ham học.” Chú thích. – Thực vô cầu bão, cư vô cầu an: không hiểu theo nghĩa từng chữ. Khổng tử muốn nói: nên thận trọng đến sự sửa mình hơn cái ăn cái ở. I.15 Tử Cống viết: “Bần nhi vô siểm, phú nhi vô kiêu, hà như? Tử viết: “Khả dã; vị nhược bần nhi lạc, phú nhi hiếu lễ giả dã.” Tử Cống viết: “Thi vân: “Như thiết như tha, như trác như ma” – Kì tư chi vị dư?” Tử viết: “Tứ dã, thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ, cáo chư vãng nhi tri lai giả.” Dịch. – Tử Cống hỏi: “Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, hạng người đó ra sao? Khổng tử đáp: “Khá đấy; nhưng chưa bằng nghèo mà vui, giàu mà thích giữ lễ.” Tử Cống thưa: “Kinh Thi có câu: Như cắt sừng bò, như giũa ngà voi, như đẽo ngọc đẹp, như mài đá quí”. Ý nghĩa như vậy chăng?” Khổng tử khen: “Tứ, như anh mới đáng cho ta giảng Kinh Thi cho. Vì bảo cho điều trước mà anh hiểu được điều sau.” I.16 Tử viết: “Bất hoạn nhân chi bất kỉ tri, hoạn bất tri nhân dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Đừng lo người không biết mình, chỉ lo mình không biết người.” Chú thích. – Lo mình không biết người là lo không biết người nào hiền để theo, người xấu để tránh. Nên so sánh “bất hoạn nhân chi bất kỉ tri” trong bài này với “nhân bất tri nhi bất uấn” trong bài đầu. THIÊN II VI CHÍNH II.1 Tử viết: “Vi chính dĩ đức, thí như bắc thần, cư kì sở nhi chúng tinh củng chi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao bắc đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức: thiên hạ theo về). Chú thích. – Đây là chủ trương vô vi của Khổng: không phải dùng hình pháp, tránh được mọi phiền phức, chống được mọi biến động. II.2 Tử viết: “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà.” Dịch. – Khổng tử nói: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính.” Chú thích. – Kinh Thi có 311 thiên nhưng sáu thiên chỉ có tên mà mất lời, còn lại là 305 thiên; nói là 300 là số chẵn. Trình tử[31] cho rằng chữ tà không có nghĩa là trái với chính, mà có nghĩa trái với thành thực: lời nào trong Kinh Thi cũng tả đúng sự thực, có thành thực mới cảm được người. Nhiều nhà theo cách hiểu của Trình tử vì trong Kinh Thi có nhiều bài tả tình luyến ái của trai gái, sao có thể bảo là “vô tà” là thuần chính được. Có người nghĩ: những bài ca dao tả tình trai gái yêu nhau, bất kì dân tộc nào cũng rất nhiều. Khổng tử đã “san định” Kinh Thi, tất đã bỏ đi một số; và những bài giữ lại, có thể ông cho là vô hại: tình trong đó tự nhiên, chính đáng. Ông không quá nghiêm khắc như các nhà nho thời sau chăng? Thuyết này có người cho là sai: Khổng tử không hề san Kinh Thi, ông giữ đủ; và “tư vô tà”[32] là thái độ của ta nên có khi đọc Kinh Thi. Nhưng theo nguyên văn thì Khổng tử xét về Kinh Thi chứ không xét về cách đọc Kinh Thi. II.3 Tử viết: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách.” Dịch. – Khổng tử nói: “Dùng chính lệnh để dắt dẫn dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính.” Chú thích. – Chữ tề [⿑] có thể hiểu là tề chỉnh, hoặc nhất luật như nhau. “Vào khuôn phép” diễn đủ được hai ý đó. Chữ cách [格], có người giảng là chí [⾄][33], đến (đạt được mức thiện). Lại có bài giảng là “thuần phục.” Bài này bổ túc bài 1 ở trên. II.4 Tử viết: “Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học; tam thập nhi lập; tứ thập nhi bất hoặc; ngũ thập nhi tri thiên mệnh; lục thập nhi nhĩ thuận; thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta mười lăm tuổi để chí vào việc học (đạo); ba mươi tuổi biết tự lập (tức khắc kỉ phục lễ, cứ theo điều lễ mà làm); bốn mươi tuổi không nghi hoặc nữa (tức có trí đức, nên hiểu rõ ba đức nhân, lễ, nghĩa); năm mươi tuổi biết mệnh trời (biết được việc nào sức người làm được, việc nào không làm được); sáu mươi tuổi biết theo mệnh trời (chữ nhĩ ở đây không có nghĩa là tai, mà có nghĩa là dĩ = đã)[34]; bảy mươi tuổi theo lòng muốn của mình mà không vượt ra ngoài khuôn khổ đạo lí (không phải suy nghĩ, gắng sức mà hành động tự nhiên, hợp đạo lí). Chú thích. – Có người hiểu lập [⽴] là tự mình biết theo chính đạo; chúng tôi theo những câu “lập ư lễ” (Thiên Thái Bá, bài 8), “bất tri lễ vô dĩ lập” (Thiên Nghiêu viết, bài 3) mà dịch như trên. – Thiên mệnh [天命] có người hiểu là luật trời, sự biến hoá, diễn tiến trong vũ trụ. – Nhĩ thuận [⽿順], hầu hết các sách đều giảng là: tai thuận, tức nghe ai nói thì hiểu được ngay người đó nghĩ gì, muốn nói gì, có ý gì. II.5 Mạnh Ý tử vấn hiếu. Tử viết: “vô vi[35].” Phàn Trì ngự, tử cáo chi viết: “Mạnh tôn vấn hiếu ư ngã, ngã đối viết: “vô vi”. Phàn Trì viết: “Hà vị dã?” Tử viết: “Sinh, sự chi dĩ lễ; tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ.” Dịch. – Mạnh Ý tử hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Không trái.” (Một hôm) Phàn Trì đánh xe (cho Khổng tử). Khổng tử bảo: “Mạnh Tôn hỏi ta về đạo hiếu, ta đáp: “không trái”. Phàn Trì hỏi: “Thầy đáp như vậy nghĩa là gì?” Khổng tử đáp: “Cha mẹ sống thì phụng sự cho hợp lễ, mất rồi thì tống táng cho hợp lễ, cúng tế cho hợp lễ.” Chú thích. – Mạnh Ý tử, họ Trọng Tôn, tên Hà Kị, là một đại phu nước Lỗ. Theo Tả truyện thì Mạnh Hi tử, cha Mạnh Ý tử, trước khi chết, dặn Ý tử phải lại Khổng tử xin học lễ. Mạnh Tôn cũng là Mạnh Ý tử. – Phàn Trì, họ Phàn, tên Tu, tự Tử Trì, học trò Khổng tử. II.6 Mạnh Vũ Bá vấn hiếu. Tử viết: “Phụ mẫu duy kì tật chi ưu.” Dịch. – Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Cha mẹ chỉ lo cho con bị bệnh tật.” Chú thích. – Bài này có nhiều cách hiểu. Hiểu như chúng tôi dịch thì chữ kì chỉ con cái. Có thể Mạnh Vũ Bá, tên là Trệ, con Mạnh Ý tử, chơi bời quá độ, không giữ gìn sức khoẻ, khiến cha mẹ lo, nên Khổng tử khuyên vậy. Ai làm cha mẹ cũng lo nhất cho con khi chúng đau ốm. Có người giảng hơi khác: người con có hiếu thì thận trọng trong mọi việc, không làm gì cho cha mẹ phải lo; duy có bệnh tật là không đề phòng được, cho nên chỉ lo mình có bệnh tật, khiến cha mẹ buồn. Lại có thuyết cho chữ kì chỉ cha mẹ. Người con mà lo cha mẹ bệnh tật (hết sức săn sóc sức khoẻ của cha mẹ) là người con có hiếu. II.7 Tử Du vấn hiếu. Tử viết: “Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Chí ư khuyển mã giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ?” Dịch. – Tử Du hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Ngày nay người ta hiếu là có thể nuôi cha mẹ, nhưng đến chó, ngựa kia, người ta cũng nuôi, nếu không kính cha mẹ thì có khác gì?” Chú thích. – Tử Du, họ Ngôn, tên Yển, học trò Khổng tử. Có người cho hiểu như trên thì lời Khổng tử gay gắt quá, so sánh việc nuôi cha mẹ (của hạng con có hiếu) với việc nuôi chó ngựa; cho nên bảo hai chữ khuyển mã chỉ bọn con bất hiếu không kính cha mẹ. Tôi nghĩ Khổng tử tính tình ôn hoà, có mắng bọn đó thì chỉ gọi là bất nhân, chứ không tàn nhẫn đến bảo họ là chó ngựa. Lại có thuyết hiểu là: loài vật như chó ngựa cũng biết nuôi cha mẹ chúng. Điều đó không đúng: chó, ngựa khi lớn rồi, không nhận ra cha mẹ nữa, hoặc nhận được thì cũng không hề nuôi cha mẹ. Một thuyết nữa: chó giữ nhà, ngựa chở nặng, như vậy là chó, ngựa cũng nuôi người, nhưng chúng không biết cung kính; người nuôi cha mẹ mà không cung kính thì khác gì chó ngựa nuôi chủ. Cũng ép nữa. II.8 Tử Hạ vấn hiếu. Tử viết: “Sắc nan. Hữu sự, đệ tử phục kì lao, hữu tửu thực, tiên sinh soạn, tằng thị dĩ vi hiếu hồ?” Dịch. – Tử Hạ hỏi về đạo hiếu. Khổng tử đáp: “Khó ở chỗ giữ được nét mặt vui vẻ. Khi cha có việc, con phải khó nhọc (để giúp cha), hoặc khi có cơm rượu, mời cha ăn uống, như vậy là hiếu chăng?” Chú thích. – Chữ sắc [⾊] trong bài trỏ nét mặt của con. Tử Hạ cương trực, nên Khổng tử khuyên như vậy. Nhưng có người cho là nét mặt của cha mẹ: con phải làm sao cho cha mẹ lúc nào cũng vui vẻ. II.9 Tử viết: “Ngô dữ Hồi ngôn chung nhật, bất vi như ngu. Thoái nhi tỉnh kì tư, diệc túc dĩ phát. Hồi, dã bất ngu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ta với (Nhan) Hồi nói (về đạo) suốt ngày, anh ấy không hỏi vặn ta điều gì cả, có vẻ như ngu đần. Nhưng khi anh ấy lui về, ta xét kĩ đời tư của anh ấy thì thấy cũng phát huy được lời ta giảng. Anh Hồi không phải là ngu.” Chú thích. – Nhan Hồi, tự Tử Uyên, người nước Lỗ, học trò của Khổng tử, chết trước thầy, năm 32 tuổi. II.10 Tử viết: Thị kì sở dĩ, quan kì sở do, sát kì sở an, nhân yên sưu tai? Nhân yên sưu tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Xem việc làm của một người, tìm hiểu vì lẽ gì họ làm việc ấy, xét xem họ (làm việc đó) có an tâm (hay vui vẻ) không, như vậy người ta còn giấu mình sao được?” II.11 Tử viết: “Ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới (hoặc: ôn lại điều mình đã biết mà thêm điều mới) như vậy có thể làm thầy được.” II.12 Tử viết: “Quân tử bất khí.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không phải là một đồ dùng” (nghĩa là chỉ dùng vào được một việc, mà phải hiểu rộng, biết nhiều, làm được nhiều việc). II.13 Tử Cống vấn quân tử. Tử viết: “Tiên hành kì ngôn, nhi hậu tòng chi.” Dịch. – Tử Cống hỏi thế nào là quân tử. Khổng tử đáp: “Làm trước điều mình muốn nói rồi hãy nói sau.” II.14 Tử viết: “Quân tử chu nhi bất tị, tiểu nhân tị nhi bất chu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử thân với mọi người mà không kết đảng vì tư lợi; tiểu nhân kết đảng vì tư lợi mà không thân với mọi người.” II.15 Tử viết: “Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi.” Dịch. – Khổng tử nói: “Học mà không suy nghĩ thì mờ tối (không hiểu được gì, quá tin sách), suy nghĩ mà không học thì nguy hại (hao tâm lực).” Chú thích. – Có người hiểu là: suy nghĩ mà không học thì nghi hoặc, không biết thế nào là phải trái. II.16 Tử viết: “Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ[36].” Dịch. – Khổng tử nói: “Chuyên tâm nghiên cứu những cực đoan thì có hại.” Chú thích. – Có người hiểu khác: công [攻] là công kích, dĩ [已] nghĩa là [⽌] (chỉ): công kích những cái cực đoan thì ngăn được hại. Lại có người cho dị đoan [異端] trỏ tà thuyết. Có thể như vậy, nhưng chắc chắn là Khổng tử không ám chỉ học thuyết Dương Chu, Mặc Địch, vì thời ông học thuyết đó chưa xuất hiện. Có người bảo dị đoan cũng như lưỡng đoan [兩端] trong bài IX.7 là hai mặt của vấn đề. Xét cả hai mặt, rồi chiết trung thì ngăn được hại. Chúng tôi hiểu dị đoan là không trung chính, nên dịch như trên. II.17 Tử viết: “Do, hối nhữ[37] tri chi hồ! Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Anh Do, ta dạy cho anh thế nào là “biết” này. Biết điều gì thì nhận là biết, không biết thì nhận không biết, như vậy là biết.” Chú thích. – Do là tên, họ là Trọng. Trọng Do tự là Tử Lộ, người nước Lỗ, học trò Khổng tử, có sức mạnh, giỏi chính trị, kém Khổng tử mười tuổi. II.18 Tử Trương học can lộc. Tử viết: “Đa văn, khuyết nghi, thận ngôn kì dư, tắc quả vưu. Đa kiến, khuyết đãi, thận hành kì dư, tắc quả hối. Ngôn quả vưu, hành quả hối, lộc tại kì trung hĩ.” Dịch. – Tử Trương muốn học để làm quan, được bổng lộc. Khổng tử bảo: “Nghe nhiều, điều gì còn nghi thì để đó, đừng nói, những điều còn lại (tin được) thì khi nói, phải thận trọng, như vậy sẽ ít lỗi. Thấy nhiều, điều gì chưa yên lòng (hoặc còn nghi ngờ) thì để đó, đừng làm, những điều còn lại (tin được)[38] thì khi làm phải thận trọng, như vậy ít phải ăn năn. Lời nói ít lỗi lầm, việc làm ít ăn năn; bổng lộc tự nhiên trong đó (nghĩa là tự nhiên sẽ có). Chú thích. – Tử Trương, họ Chuyên Tôn, tên Sư, học trò Khổng tử. II.19 Ai công vấn viết: “Hà vi tắc dân phục? Khổng tử đối viết: “Cử trực, thố chư uổng, tắc dân phục. Cử uổng thố chư trực, tắc dân bất phục.” Dịch. – Vua Ai công hỏi: “Làm thế nào thì dân phục tòng?” Khổng tử đáp: “Đề cử người ngay thẳng lên trên hạng người cong queo thì dân phục tòng, đề cử người cong queo lên trên người ngay thẳng thì dân không phục tòng.” Chú thích. – Ai công là vua nước Lỗ, con Định công, lên ngôi năm -494. Bài này có thể hiểu hai cách: chữ thố [錯] là bỏ, chữ chư [諸] là hết thảy, như vậy “cử trực thố chư uổng” nghĩa là: Dùng người ngay thẳng, bỏ hết những người cong queo. Chúng tôi hiểu theo Triệu Thông (Luận ngữ dịch chú – Hữu Liên xuất bản): thố [錯] là đặt lên, chư [諸] là hai chữ chi ư [之於] hợp lại (như từ ảnh = anh ấy của ta, hoặc từ Smog = Smoke + fog của Anh) mà dịch như trên. Triệu Thông cho rằng hiểu như vậy mới hợp với câu “cử trực thố chư uổng, năng sử uổng giả trực” trong bài 20 thiên XII (Nhan Uyên): cứ đề cử người ngay thẳng lên trên người cong queo thì người cong queo cũng tự ý rút đi, nếu không tự sửa mình, không cần phải đuổi hết bọn họ đi. II.20 Quí Khang tử vấn: “Sử dân kính, trung dĩ khuyến[39], như chi hà? Tử viết: “Lâm chi dĩ trang tắc kính, hiếu từ tắc trung, cử thiện nhi giáo bất năng tắc khuyến.” Dịch. – Quí Khang tử hỏi: “Muốn cho dân cung kính, trung thành và khuyên nhau làm điều thiện, thì làm cách nào?” Khổng tử đáp: “Xử với dân mà nghiêm trang thì dân cung kính. Hiếu thuận (với cha mẹ), từ ái (với người dưới) thì dân trung thành. Cất nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên nhau làm điều thiện.” Chú thích. – Quí Khang tử, họ Quí Tôn, tên Phì, là một đại phu của Lỗ. II.21 Hoặc vị Khổng tử viết: “Tử hề bất vi chính.” Tử viết: “Thư vân: “Hiếu hồ duy hiếu, hữu vu huynh đệ”. Thi ư hữu chính, thị diệc vi chính, hề kì vi vi chính?” Dịch. – Có người hỏi Khổng tử: “Tại sao ông không tòng chính (ra làm quan). Khổng tử đáp: “Kinh Thư có câu: “Hiếu thuận a, hiếu thuận với cha mẹ, thân ái a, thân ái với anh em”. Thi hành câu nói đó mà cảm hoá được hạng người cầm quyền, thì cũng là tòng chính, sao cứ tham gia chính sự mới là tòng chính?” Chú thích. – Chúng tôi dịch như trên theo cách chấm câu của một số học giả ngày nay: Triệu Thông trong sách đã dẫn, và Thẩm Tri Phương trong Luận ngữ độc bản – Khải Minh thư cục xuất bản. Hai nhà đó cho “Hiếu hồ duy hiếu” là chữ trong Kinh Thư[40] ca tụng đức hiếu, cũng như mấy chữ “lễ hồ lễ” trong Lễ Kí là lời ca tụng lễ. Còn bốn chữ “Thi ư hữu chính” là lời của Khổng tử, nếu là lời của Kinh Thư thì không dùng chữ ư mà dùng chữ vu như câu trên. Các học giả thời trước chấm câu khác: Tử viết: “Thư vân hiếu hồ?” Duy hiếu, hữu vu huynh đệ, thi ư hữu chính”. Thị diệc vi chính… Họ cho “Thư vân hiếu hồ” là lời Khổng tử, mà “thi ư hữu chính” là lời trong Kinh Thư, và dịch là: “Khổng tử đáp: “Có biết Kinh Thư nói về đạo hiếu chăng? Cho có hiếu với cha mẹ, hoà thuận với anh em, thi hành cho có chính sách. Ấy cũng là làm việc chính trị; tại sao cứ phải tòng chính mới là làm việc chính trị?” Chấm câu cách nào thì ý nghĩa cũng không thay đổi. Khổng tử muốn nói: “ông không ra làm quan nhưng dạy người ta hiếu đễ, và người ta nghe ông, khi cầm quyền mà thi hành hiếu đễ, thì nước sẽ trị, như vậy cũng là ông giúp vào việc chính sự, giúp nước rồi. II.22 Tử viết: “Nhân nhi vô tín, bất tri kì khả dã. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kì hà dĩ hành chi tai?” Dịch. – Khổng tử nói: “Người mà không đức tín thì không hiểu sao thành người được (hoặc làm nên việc được). Cũng như xe lớn không có đòn nghê (đòn gỗ ngang để buộc trâu); xe nhỏ không có đòn ngột (đòn gỗ cong để buộc ngựa) làm sao mà đi được?” II.23 Tử Trương vấn: “Thập thế, khả tri dã?” Tử viết: “Ân nhân ư Hạ lễ, sở tổn ích khả tri dã. Chu nhân ư Ân lễ, sở tổn ích khả tri dã. Kì hoặc kế Chu giả, tuy bách thế, khả tri dã.” Dịch. – Tử Trương hỏi: “Mười đời (sau này) có thể biết được không?” Khổng tử đáp: “Nhà Ân theo “lễ” của nhà Hạ, thêm bớt cái gì, ta có thể biết được. Nhà Chu theo “lễ” của nhà Ân, thêm bớt cái gì, ta có thể biết được[41]. Sau này hoặc có nhà nào nối nhà Chu, dù có trăm đời cũng có thể biết được.” Chú thích. – Chữ thế [世] (đời) ở đây nên hiểu là triều đại, chứ không phải là đời người. Chữ lễ [禮] có nghĩa rộng: điển chương, chế độ, nghi thức, tập tục. Khổng tử muốn nói sự diễn hoá của lịch sử theo luật nhân quả, do đó mà xét việc đời trước có thể biết được việc đời sau. – Nhà Hạ (2205-1767); nhà Thương sau đổi tên là Ân (1766-1122); nhà Chu (1122-274), ba triều đại đó nối nhau, gọi là tam đại. II.24 Tử viết: “Phi kì quỉ[42], nhi tế chi, siểm dã. Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Không phải tổ tiên mình đã khuất mà mình tế thì là nịnh bợ; thấy việc nghĩa mà không làm là không có dũng.” THIÊN III BÁT DẬT III.1 Khổng tử vị Quí thị bát dật vũ ư đình: “Thị khả nhẫn dã, thục bất khả nhẫn dã.” Dịch. – Khổng tử bàn về việc Quí Thị dùng vũ “bát dật” (của thiên tử) ở đại sảnh (họ Quí), bảo: “Việc đó nhẫn tâm làm được thì việc gì mà không nhẫn tâm làm được?” Chú thích. – Bài này nhiều bản cũ chấm câu như sau: “Khổng tử vị Quí thị: “Bát dật vũ ư đình, thị khả nhẫn dã…”, nghĩa là Khổng tử bảo Quí thị: “Vũ bát dật ở đại sảnh (nhà ông), việc đó ông nhẫn tâm làm được…”. Thời đó đã qui định: thiên tử mới dùng vũ bát dật: tám hàng người, mỗi hàng tám người; chư hầu thì lục dật: 6 hàng, mỗi hàng 6 người; khanh, đại phu thì tứ dật: 4 hàng, mỗi hàng 4 người; sĩ thì nhị dật: 2 hàng, mỗi hàng 2 người. Quí thị đây có lẽ là Quí Tôn Hoàn tử, chỉ là một đại phu nước Lỗ, không dùng vũ tứ dật, mà dùng vũ bát dật là dùng càn lễ thiên tử, trái phép. III.2 Tam gia giả dĩ Ung triệt. Tử viết: “Tướng duy tịch công, thiên tử mục mục”, hề thủ ư tam gia chi đường?” Dịch. – Ba nhà đại phu (nước Lỗ: Mạnh Tôn, Thúc Tôn, Quí Tôn) cho hát Ung (một thiên trong Chu tụng – Kinh Thi) khi dẹp đồ tế lễ đi. Khổng tử nói: “(Hai câu trong thơ Ung đó:) “trợ tế là vua các chư hầu, thiên tử (làm chủ tế) thì rất nghiêm túc”, hát trong ba đại sảnh ba nhà đó thì còn ý nghĩa gì nữa?” Chú thích. – Theo lễ, khi thiên tử tế ở tôn miếu, thì các chư hầu trợ tế, và cho hát thơ Ung mà dẹp tế lễ. Khổng tử chê ba nhà đó, đã tiếm lễ của thiên tử, thơ Ung hát trong những trường hợp đó hoá vô nghĩa. III.3 Tử viết: “Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?” Dịch. – Khổng tử nói: “Người không có đức nhân thì lễ mà làm gì? Người không có đức nhân thì nhạc mà làm gì?” Chú thích. – Khổng tử cho đức nhân là gốc của lễ nhạc. III.4 Lâm Phỏng vấn lễ chi bản. Tử viết: “Đại tai vấn! Lễ, dữ kì xa dã, ninh kiệm; tang dữ kì dị dã, ninh thích.” Dịch. – Lâm Phỏng hỏi về gốc của lễ. Khổng tử đáp: “Câu hỏi đó quan trọng đấy! Lễ mà quá xa xỉ thì kiệm ước còn hơn; tang mà quá chú trọng nghi tiết thì thương xót còn hơn.” Chú thích. – Không rõ Lâm Phỏng là ai[43]. III.5 Tử viết: “Di Địch chi hữu quân, bất như chư Hạ chi vô[44] dã.” Dịch. – Khổng tử nói: “Các nước Di, Địch (ở chung quanh Trung Quốc, lạc hậu) dù có vua cũng không bằng các nước Hoa Hạ (Trung Quốc) không có vua (vì Hoa Hạ có lễ nghi).” Chú thích. – Chu Hi cho hai chữ “bất như” [不如] là không giống; và nghĩa khác hẳn: Khổng tử có ý than thở các nước chư hầu hồi đó cho thiên tử nhà Chu không ra gì, thành thử Trung Quốc cũng như không có vua. Hiểu theo hai cách đều được cả. Phải biết trong hoàn cảnh nào, Khổng tử nói câu đó thì mới rõ ông muốn nói gì. III.6 Quí thị lữ ư Thái Sơn. Tử vị Nhiễm Hữu viết: “Nhữ[45] phất năng cứu dư?” Đối viết: “Bất năng”. Tử viết: “Ô hô! Tằng vị Thái Sơn bất như Lâm Phỏng hồ?” Dịch. – Họ Quí tế lữ ở núi Thái Sơn. Khổng tử hỏi Nhiễm Hữu (làm quan tể của họ Quí): “Anh không ngăn được sao?” Nhiễm Hữu đáp: “Không ngăn được”. Khổng tử nói: “Than ôi! Vậy là cho rằng núi Thái Sơn không bằng Lâm Phỏng sao?” Chú thích. – Núi Thái Sơn ở nước Lỗ. Theo lễ thì chỉ vua Lỗ mới tế thần núi đó, Quí thị một đại phu, lại đó tế là tiếm lễ. Thần núi Thái Sơn tất không hưởng tế lễ của Quí thị, vì nếu hưởng thì chẳng hoá ra thần không bằng Lâm Phỏng sao? (Lâm Phỏng là người hiếu lễ – coi bài 4 ở trên). Nhiễm Hữu, họ Nhiễm, tên Cầu, học trò Khổng tử. III.7 Tử viết: “Quân tử vô sở tranh, tất dã xạ hồ? Ấp nhượng nhi thăng, há nhi ẩm, kì tranh dã quân tử.” Dịch. – Khổng tử nói: “Người quân tử không ganh đua với ai, nếu có thì chỉ trong lúc bắn chăng? Vái nhường rồi mới bước lên, khi lui xuống thì mời người kia uống rượu. Ganh đua nhau như vậy mới là quân tử.” III.8 Tử Hạ vấn viết: “‘Xảo tiếu thiến hề, mĩ mục phán hề, tố dĩ vi huyến hề’ hà vị dã?” Tử viết: “Hội sự hậu tố”. Viết: “Lễ hậu hồ?” – Viết: “Khởi dư giả Thương[46] dã! Thủy khả dữ ngôn Thi dĩ hĩ.” Dịch. – Tử Hạ nói: “(Kinh Thi nói:) miệng xinh chúm chím cười, mắt đẹp long lanh sáng[47], trên nền trắng vẽ màu sặc sỡ[48]“ nghĩa là thế nào?” Khổng tử đáp: “Có sẵn nền trắng rồi sau mới vẽ”. – Tử Hạ (lại hỏi): “(Nghĩa là) lễ phải ở sau (nhân)[49] chăng?” Khổng tử nói: “Anh Thương phát khởi được ý ta, như anh mới có thể giảng Kinh Thi cho được.” Chú thích. – Khổng tử khen Tử Hạ nghe một biết hai. III.9 Tử viết: “Hạ lễ, ngô năng ngôn chi, Kỉ bất túc trưng dã; Ân lễ, ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã; văn hiến bất túc, cố dã. Túc, tắc ngô năng trưng chi hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Lễ chế nhà Hạ, ta có thể nói được, nhưng nước Kỉ không đủ làm chứng; lễ chế nhà Ân, ta có thể nói được, nhưng nước Tống không đủ làm chứng, vì văn kiện và người hiền hai nước đó không đủ. Nếu đủ thì ta có thể chứng minh lời ta nói được.” Chú thích. – Nước Kỉ là hậu duệ của nhà Hạ, nước Tống là hậu duệ nhà Ân. Văn hiến: Văn là văn kiện, hiến là hiền tài. Nên coi lại bài 23 thiên II. Khổng tử trong bài đó bảo nhà Ân theo lễ của nhà Hạ, thêm bớt gì ông biết được. Trong bài này ông bảo ông biết nhưng không thể dẫn chứng được vì không đủ văn kiện và hiền tài. III.10 Tử viết: “Đế (có sách đọc là duệ), tự kí quán nhi vãng giả, ngô bất dục quan chi hĩ.” Dịch. – Khổng tử nói: “Tế đế, từ lúc rót rượu xuống đất trở đi, ta không muốn xem nữa.” Chú thích. – Tế đế là một tế lớn đời xưa, năm năm một lần, làm ở tôn miếu nhà vua. Có sách nói rót rượu xuống đất là để dâng thần, rồi mới bày bài vị tổ tiên để tế. Khổng tử không muốn xem việc bày bài vị đó vì vua Lỗ Văn công bày bài vị sai, không hợp lễ, đặt bài vị Hi công ở trên bài vị Mẫn công. Hi công là anh của Mẫn công, giết Mẫn công để cướp ngôi. Văn công là con Hi công cho nên đặt cha trên Mẫn công. Khổng tử cho Mẫn công mới thực là vua, Hi công thí quân để tiếm vị, phải đặt bài vị của Mẫn công lên trên. III.11 Hoặc vấn đế chi thuyết. Tử viết: “Bất tri dã. Tri kì thuyết chi ư thiên hạ dã, kì như thị chư ư hồ?” Chỉ kì chưởng. Dịch. – Có người hỏi về thuyết tế đế. Khổng tử đáp: “Không biết. Nếu biết thuyết ấy, thì việc trị thiên hạ cũng như ở trong cái này chăng?” Ngài vừa nói vừa chỉ vào bàn tay. Chú thích. – Khổng tử chủ trương dùng lễ để trị thiên hạ. Tế đế là một tế quan trọng, nếu hiểu được nó (biết được lễ) thì trị thiên hạ rất dễ. Ông nói không hiểu thuyết tế đế, có thể vì không muốn vạch lỗi của vua Lỗ khi làm tế đó chăng? III.12 Tế như tại, tế thần như thần tại. Tử viết: “Ngô bất dữ tế, như bất tế.” Dịch. – Tế tổ tiên như tổ tiên ở trước mặt, tế thần như thần ở trước mặt[50]. Khổng tử nói: “Khi ta (vì lẽ gì) không đích thân đứng tế (mà mượn người thay)[51] tuy có tế đấy, vẫn (ân hận) như chưa tế.” III.13 Vương Tôn Giả vấn viết: “Dữ kì mị ư Áo, ninh mị ư Táo”; hà vị dã?” Tử viết: “Bất nhiên – Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã.” Dịch. – Vương Tôn Giả (một đại phu cầm quyền ở Vệ) hỏi: “Tục ngữ có câu: “Nịnh thần Áo, thà nịnh thần Táo còn hơn”, câu ấy có nghĩa gì? Khổng tử đáp: “Không phải vậy. Mắc tội với trời thì cầu đảo đâu cũng vô ích.” Chú thích. – Thần Áo là thần trong nhà, thần Táo là thần trong bếp. Thần Táo thấp hơn thần Áo nhưng coi việc bếp nước, ăn uống, nên quan trọng hơn. Có người cho rằng Vương Tôn Giả nói bóng bẩy: Thần Áo chỉ Vệ Linh công, thần Táo chỉ nàng Nam Tử và Di Tử Hà, những người Vệ Linh công yêu. Khổng tử như muốn được dùng ở Vệ thì lấy lòng Vệ Linh công không bằng lấy lòng Nam Tử và Di Tử Hà. Khổng cự tuyệt một cách khéo léo. Ông cứ theo đạo trời, ngay thẳng, chẳng cần lấy lòng ai cả. III.14 Tử viết: “Chu giám ư nhị đại, úc úc hồ văn tai! Ngô tòng Chu.” Dịch. – Khổng tử nói: “Nhà Chu châm chước lễ chế của hai triều đại trước (Hạ, Ân) nên văn vẽ rực rỡ biết bao! Ta theo Chu.” III.15 Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoặc viết: “Thục vị Trâu nhân chi tử tri lễ hồ, nhập thái miếu, mỗi sự vấn”[52]. Tử văn chi, viết: “Thị lễ dã.” Dịch. – Khổng tử vào thái miếu, thấy việc gì cũng hỏi. Có kẻ bảo: “Ai bảo con người đất Trâu (quê hương của Khổng tử ở Lỗ) ấy biết lễ. (Nếu biết thì sao) vào thái miếu, thấy gì cũng hỏi.” Khổng tử hay được bảo: “Như vậy là lễ đấy.” Chú thích. – Vô thái miếu thờ Chu công ở Lỗ, mà hỏi từng chút cho biết kĩ, đó là thái độ kính cẩn, là lễ. Không xấu hổ hỏi người, cũng là lễ (khiêm tốn) nữa. """