"
Khi Thiên Thần Sợ Hãi - C. S. Harris PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khi Thiên Thần Sợ Hãi - C. S. Harris PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
KHI THIÊN THẦN SỢ HÃI Tác giả: C.S. Harris
Phát hành: Bách Việt
Nhà xuất bản: Thanh Niên
Nguồn sách: Waka
Đóng ebook: nguyenthanh-cuibap
LỜI NÓI ĐẦU
Thứ Ba, 29 Tháng 1 năm 1811
C
ô đổ lỗi cho màn sương. Bình thường cô không lo lắng đến vậy. Không sợ hãi đến vậy.
Màn sương mù vàng đục của London là một thứ hôi hám sởn gai ốc. Mà nếu không có sương mù thì giờ này trời cũng đã tối. Đêm tháng một tối và lạnh. Nhưng làn hơi âm u càng làm mọi thứ thêm tồi tệ khi nó quấn quanh đèn lồng của Rachel như một bóng ma khiến cô suýt vấp ngã khi đang băng qua nghĩa trang nhà thờ.
Một hòn đá lăn tròn dưới cái đế mảnh mai của đôi bốt ống ngắn, tạo thành tiếng kêu vang bất thường giữa đêm tĩnh lặng. Dừng lại, Rachel ngoái nhìn qua vai, ánh mắt xuyên qua đường nét mờ sương của những tượng đài và bia mộ rải rác khắp nghĩa trang. Từ xa vang lên tiếng lọc cọc và giọng nói hỏi giờ bị sương mù bóp nghẹt. Rachel hít một hơi thật sâu, lấp đầy phổi bằng không khí giá lạnh đượm hương thơm của đất và lá ẩm ướt cùng mùi hôi thối mốc meo khiến người ta liên tưởng đến những xác chết cũ kỹ, rồi rảo bước.
Khối đá nặng nề của Nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields lờ mờ hiện ra trước mắt cô. Rachel nắm những nếp lót satin của chiếc áo choàng đêm bằng nhung sát vào người. Lẽ ra cô nên bảo ông ta đến gặp mình vào lúc tám rưỡi tối. Muộn nhất là chín giờ. Tám rưỡi là khoảng thời gian thông thường.
Chỉ có điều, đây không phải là một cuộc gặp mặt thông thường. Cô không ngờ mình lại cảm thấy sởn tóc gáy đến vậy. Cô không thích cảm giác này. Lo lắng khiến cô cảm thấy mình như một nạn nhân, và Rachel York không phải là một nạn nhân. Không bao giờ nữa. Đó là một lời hứa cô đã tự hứa với chính mình ở tuổi mười lăm, và trong ba năm qua, kể từ cái đêm định mệnh khi cô nắm quyền kiểm soát cuộc sống của chính mình, đó là một lời hứa cô chưa bao giờ phá vỡ. Giờ đây cô cũng không muốn phá vỡ nó.
Tại bậc dẫn đến cửa cánh ngang phía bắc, một lần nữa cô dừng lại. Bên dưới mái vòm tròn sâu thẳm của cánh cổng tại mặt bên toà nhà, bóng tối gần như che phủ tất cả. Nâng đèn lồng lên cao, cô chiếu chùm tia sáng hẹp lên cánh cửa gỗ sồi cũ mòn. Qua lớp da dê mỏng của chiếc găng tay, chiếc chìa khóa sắt lạnh lẽo và nặng nề. Cô càng thấy khó chịu vì những ngón tay mình run lên khi cô cắm chìa vào ổ khóa.
Chỉ một lần vặn, ổ khoá đã lách cách trơn tru và cánh cửa mở ra êm ru trước mắt cô nhờ những bản lề được tra dầu đầy đủ. Mục sư McDermott luôn chú ý đến những điều này. Tất nhiên, đó là trách nhiệm của ông.
Rachel đẩy cánh cửa mở rộng hơn, một luồng khí đột ngột thổi ra, lay động lọn tóc vàng được uốn khéo trên má cô. Mùi nhà thờ quen thuộc, hương thơm của sáp ong, đá ẩm và gỗ cổ nhấn chìm cô. Cô lướt vào phòng và cẩn thận đóng cửa lại. Cô không khóa cửa.
Cô bỏ chìa khóa vào túi xách, cảm nhận sự nặng nề và rắn chắc của nó chạm vào đùi mình khi cô bước qua cánh ngang. Sự im lặng lạnh giá của nhà thờ bao quanh cô, ánh sáng từ chiếc đèn lồng của cô dao động trên những bức tường đá ám khói nến đen và những bức tượng rải rác hình
những hiệp sĩ và công nương đã chết từ lâu nằm nghiêng tĩnh lặng, lạnh lẽo trong khoảng không trống rỗng.
Họ nói rằng Nhà thờ Thánh Matthew đã gần tám trăm tuổi, với mái vòm bằng đá sa thạch vươn lên từ những cột trụ dày và những chiếc cửa sổ nhỏ bé trên cao giờ chỉ cho thấy bóng tối bên ngoài. Cha của Rachel quan tâm đến những điều ấy. Có lần ông đưa cô đến thăm quan các nhà thờ ở Worchester và nói chuyện với cô hàng giờ về đường mái vòm, bao lơn1* và bức ngăn toà giảng. Nhưng cha cô đã chết từ lâu; Rachel đóng tâm trí mình lại trước những ký ức, không hiểu điều gì đã mang những suy nghĩ ấy đến với cô vào lúc này.
*Nơi dành cho ban hát của nhà thờ.
Điện thờ Đức Mẹ nằm ở tận cùng khu tụng niệm, một món trang sức nhỏ bé của thế kỷ mười bốn bằng đá cẩm thạch trắng, những cột trụ mảnh mai và bức ngăn chạm khắc tinh tế. Rachel đặt đèn lồng trên bậc trước bàn thờ. Cô đã đến sớm; ông ta sẽ không xuất hiện trong ít nhất hai mươi phút nữa. Sự trống rỗng của nhà thờ cổ xưa dường như ép chặt vào cô, lạnh lẽo và tối tăm. Cô liên tục nhìn vào những cây nến được ban phước tụm lại trên tấm khăn bàn thờ trắng như tuyết. Trong một lúc, cô đã ngập ngừng. Sau đó, đốt một dây nến, cô bắt đầu thắp nến, lần lượt từng cây một, ngọn lửa vàng của chúng nhảy lên ấm áp và tươi sáng cho đến khi chúng dường như hợp nhất thành một luồng ánh sáng an ủi.
Rachel nhìn lên tấm vải lớn treo phía trên bàn thờ, một cuộn tranh tối màu miêu tả Đức Mẹ Đồng Trinh lộng lẫy thăng thiên trên nền những thiên thần chiến thắng. Trong khoảnh khắc, Rachel có lẽ đã thì thầm một lời cầu nguyện.
Không phải bây giờ.
Cô không nghe thấy tiếng cửa ngang mở và đóng, chỉ có tiếng vọng yếu ớt của những bước chân lén lút bước trên dàn hợp xướng. Ông ta đến sớm. Cô không ngờ đến điều này.
Quay người lại, cô cởi mũ áo choàng và nặn ra một nụ cười gượng gạo, sẵn sàng thực hiện vai diễn của mình.
Lúc này cô thấy cái bóng mờ, đường viền của áo choàng ngoài và chiếc mũ chóp cao của ông ta hiện lên qua bức phù điêu chạm trổ bằng đá của Điện thờ Đức Mẹ.
Ông ta tiến lại gần ánh nến.
Cô nhanh chóng lùi lại. "Ngươi," cô thì thầm, và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp.
CHƯƠNG 1
Thứ Tư, 30 Tháng 1 năm 1811
S
ebastian có thể nghe thấy tiếng chuông nhà thờ báo giờ vang lên; tiếng vọng trầm đục của âm thanh bị nghẹt do khoảng cách và màn sương mù gay gắt đang ôm lấy mặt đất và bao phủ trên các nhánh cây du trần trụi tại rìa cánh đồng. Bình minh đã điểm, nhưng nó chỉ mang lại chút ít hơi ấm hay ánh sáng. Sebastian Alistair St. Cyr, Tử tước2*Devlin, con trai duy nhất còn sống và là người thừa kế của Bá tước Hendon, tựa vai lên thành chiếc xe song mã hai bánh, khoanh tay trước ngực và nghĩ về chiếc giường của mình.
*Danh hiệu quý tộc xếp cao hơn Nam tước nhưng thấp hơn Bá tước ở Anh.
Đã một đêm dài trôi qua, một đêm đầy mùi rượu và khói xì gà, của bài faro, xì dách và lời hứa với một thiếu phụ mắt buồn - lời hứa rằng anh sẽ không giết người, dù người đàn ông đến gặp anh có đáng chết đến mức nào. Sebastian ngả đầu và nhắm mắt lại. Anh có thể nghe thấy những tiếng gọi bông đùa ngọt ngào ở phía cuối cánh đồng, và gần hơn là tiếng sột soạt trên cỏ ướt khi Ngài Christopher Farrell, trợ thủ của anh, đi tới đi lui trên bờ cỏ ven đường. Đột nhiên, tiếng bước chân dừng lại.
"Có lẽ y sẽ không đến," Ngài Christopher nói.
Sebastian vẫn nhắm mắt. "Y sẽ xuất hiện."
Tiếng bước chân lại tiếp tục. Đi tới đi lui, đế bốt lép nhép trên mặt đất ẩm ướt.
"Nếu không cẩn thận," Sebastian nói, "anh sẽ lấm bùn lên bốt đấy." "Kệ xác đôi bốt của tôi. Anh có chắc Talbot sẽ đem theo một bác sĩ không? Bác sĩ đó giỏi đến mức nào? Có lẽ chúng ta cũng nên mang theo bác sĩ riêng."
Sebastian cúi đầu xuống và mở mắt ra. "Tôi không định để mình bị trúng đạn đâu."
Ngài Christopher lắc lư, mái tóc đẹp xõa tung trong sương mù ẩm ướt, đôi mắt màu xám thường vẫn dịu dàng của anh giãn ra. "Hẳn vậy. Quả là yên tâm. Chắc chắn Lãnh chúa3* Firth cũng không định để mình bị trúng đạn khi nổi dậy chống lại Maynard vào tháng trước. Tất nhiên, đáng tiếc là viên đạn đã xuyên qua cổ ông ta."
*Danh hiệu gọi chung các quý tộc có tước vị thấp hơn Công tước, bao gồm Hầu tước, Bá tước, Tử tước và Nam tước.
Sebastian mỉm cười.
"Tôi mừng vì khiến anh hứng thú. Đây là một trong những lợi ích khác của việc tiến hành chiến tranh, đúng không? Nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tử thần với thái độ khinh thị bình tĩnh? Cũng tương đương với việc được phái đẹp coi là hấp dẫn không cưỡng nổi."
Sebastian cười lớn.
Christopher cũng mỉm cười, sau đó lại im lặng. Anh ta gầy, vận bộ đồ may đo vừa vặn với quần ống túm bằng da hoẵng, đôi bốt bóng loáng và vải đồ vải lanh phẳng phiu. Một lát sau, anh ta nói, "Tôi vẫn không hiểu tại sao anh không chọn đấu kiếm. Khả năng vô tình bị kiếm đâm chết thấp hơn." Nâng cánh tay trái trong tư thế của một kiếm sĩ, anh diễn tả một cú
đâm nhanh vào không khí lạnh lẽo mù sương. "Một cú đâm gọn gàng qua vai, một vết rạch đẫm máu trên cánh tay, và danh dự được thoả mãn." "Talbot có ý định giết tôi."
Christopher hạ tay mình xuống hai bên hông. "Vậy anh sẽ chỉ đứng đó và để cho y bắn?"
"Talbot không thể bắn trúng một tàu chiến đậu cách y hai mươi lăm bước." Sebastian ngáp. "Tôi ngạc nhiên khi y chọn nó." Đó là Luật Duello4*: là người bị thách đấu, Sebastian có quyền chọn vũ khí. Tuy nhiên, quyền lựa chọn khoảng cách giao đấu thuộc về bên thách đấu.
*Luật Duello là một tập hợp các quy tắc dùng cho đấu tay đôi.
Christopher xoa tay lên mặt. "Tôi đã nghe được những lời đồn…" "Y xuất hiện rồi." Sebastian nói. Đứng thẳng dậy, anh vung chiếc áo khoác của mình và đặt nó trên chiếc ghế cao của xe ngựa.
Christopher quay sang nhìn chằm chằm vào khoảng không mờ đục. "Khốn kiếp thật. Ngay cả anh cũng không thể nhìn thấy trong màn sương mù này."
"Không. Nhưng tôi có tai."
"Tôi cũng vậy. Và tôi không nghe thấy gì. Sebastian, tôi thề anh có họ hàng với loài dơi. Thật không bình thường."
Một hoặc hai phút sau, một chiếc xe ngựa xuất hiện từ bóng tối, một cặp ngựa ô đầy phô trương kéo một chiếc xe bốn bánh chở hai người đàn ông. Theo sau đó, ở một khoảng cách kín đáo, là một xe ngựa hai bánh đơn giản chở bác sĩ.
Một người đàn ông gầy, cao lêu nghêu với mái tóc nâu thẳng, mỏng và chiếc mũi khoằm nhảy xuống khỏi ghế cao của xe ngựa.
Xuyên qua cánh đồng mù sương, ánh mắt Đại úy John Talbot bắt gặp ánh mắt Sebastian một lúc lâu. Sau đó, y quay người cởi áo và găng tay. "Được rồi," trợ thủ của đại úy, một quân nhân để ria mép vỗ tay bày tỏ sự chân tình giả tạo. "Chúng ta bắt đầu chứ?"
"Những tin đồn tôi vừa đề cập?" Christopher nói nhỏ khi anh và Sebastian di chuyển về phía trước. "Họ nói rằng lần cuối cùng Talbot giao đấu, y đã chọn hai mươi lăm bước, sau đó quay lại và bắn khi bước được mười hai bước. Giết chết đối thủ. Tất nhiên, Talbot và trợ thủ của mình thề khoảng cách thực tế được thoả thuận là mười hai bước."
"Còn trợ thủ của bên kia?"
"Im lặng khi Talbot đe dọa sẽ thách đấu anh ta - vì gọi Talbot một kẻ nói dối."
Sebastian chậm rãi nở một nụ cười với bạn mình. "Vậy nếu Talbot có dịp thách đấu với anh vì một lý do tương tự, tôi khuyên anh nên chọn kiếm."
"Ngài có súng ngắn chưa?" Trợ thủ của Talbot hỏi khi Ngài Christopher bước tới chỗ anh ta.
Một đôi súng ngắn trong một chiếc hộp óc chó màu xanh lót nhung được các phụ tá đưa ra, kiểm tra và nạp đạn. Talbot đưa ra lựa chọn của mình. Sebastian lấy khẩu súng lục còn lại, cảm nhận trọng lượng mát mẻ quen thuộc của nó trong lòng bàn tay, độ cứng chết người của thép trong ngón tay cong của mình.
"Sẵn sàng chưa, các quý ông?"
Họ đứng dựa lưng vào nhau, sau đó bắt đầu đi bộ, mỗi bước được đo bằng giọng đếm ổn định.
"Một, hai..."
Vị bác sĩ quay lưng lại đầy kịch tính, nhưng Christopher đứng vững, đôi mắt nheo lại và thận trọng, khuôn mặt xanh xao, lo lắng. Sebastian biết bạn mình không chỉ lo lắng về ý định của Talbot mà còn có những mối nghi ngại khác. Christopher không hiểu rằng có một ranh giới rõ ràng giữa việc tìm kiếm cái chết và thái độ bàng quan trước sự xuất hiện của nó. Một ranh giới Sebastian vẫn chưa vượt qua.
"... Ba, bốn..."
Anh nhớ đến một kỷ niệm bất ngờ, vào một buổi sáng mùa hè sương mù từ lâu, trên một sườn cỏ gần Toà thị chính, khi hai người anh trai và mẹ vẫn còn sống. Không khí có mùi bánh nướng tươi họ dùng với trà, dương xỉ, và sóng biển đập không ngừng nghỉ vào đá trong cái vịnh nhỏ xa bên dưới. Họ chơi Drakes-and-Dragons5* buổi sáng hôm đó, cả bốn người họ đếm những bước đi "... năm, sáu..." khi họ đi ra đi vào, ngay cả mẹ của anh, đầu ngả ra phía sau, cũng cười đùa, ánh nắng mặt trời chiếu sáng trên mái tóc vàng óng của bà. Chỉ có Amanda, chị gái anh, ngồi tách biệt, như cô vẫn thường làm. Tách biệt, phản đối và tức giận vì những lý do Sebastian không bao giờ hiểu rõ.
*Drakes-and-Dragons là trò chơi nhập vai được chơi dưới hình thức giấy và bút, xoay quanh một nhóm bao gồm 1 Quản trò và 1 lượng người chơi nhất định. Quản trò đóng vai trò một người dẫn chuyện, một trọng tài. Trong khi đó người chơi được tự do sáng tạo nhân vật cho riêng mình, nhập vai, cùng nhau khám phá thế giới, giải quyết các rắc rối, chiến đấu và truy tìm các báu vật.
"... Tám, chín..."
Mẩu kim loại của cò khẩu súng lục lạnh lẽo và vững chắc sau ngón tay của Sebastian, màn sương gió xoáy ẩm thấp táp vào má anh. Anh buộc mình phải tập trung vào lúc này, vào nơi này. Sự đùa cợt một lần nữa mời gọi từ gần chân đồi. Anh có thể nghe thấy tiếng róc rách của một con suối xa, tiếng lách cách của một con ngựa chạy nước kiệu chậm rãi trên đường.
"... Mười, mười một..."
Chính sự do dự trong sải chân người đàn ông còn lại giữa mười và mười một đã cảnh báo anh. Điều đó, và tiếng thì thầm của vải xát lên nhau khi Talbot quay lại.
"... Mười hai…"
Sebastian xoay vòng ngồi thụp xuống đúng lúc John Talbot khai hoả, vì thế viên đạn nhắm vào tim của Sebastian sượt qua trán anh. Sau đó, với khẩu súng trống rỗng và treo lủng lẳng trong tay của mình, Talbot không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc đứng yên, cơ thể quay ngang, quai hàm nghiến chặt, lỗ mũi loe ra mỗi khi hít vào chờ bị bắn.
Một cách bình tĩnh, và có chủ đích, Sebastian nâng súng, nhắm và khai hoả. Đại úy Talbot kêu thét lên và ngã về phía trước.
Vị bác sĩ lao ra khỏi xe ngựa và chạy về phía y.
"Quỷ tha ma bắt, Sebastian," Christopher nói. "Anh giết hắn rồi." "Còn lâu." Sebastian để cho khẩu súng rơi xuống bên cạnh mình. "Nhưng thời gian tới, tôi tin y sẽ thấy không thoải mái gì khi phải ngồi xuống."
"Được lắm, được lắm, được lắm," phụ tá của Talbot quát tháo, bộ ria mép của anh ta di chuyển lên xuống. "Đây là cách hành xử không quý phái chút nào. Những quý ông người Anh đứng thẳng và khai hoả vũ khí trên
đôi chân của mình. Ai đó hãy gọi cảnh sát đi. Ngươi sẽ phải chịu tội giết người vì điều này, hãy nhớ lời ta."
"Yên lặng đi," vị bác sĩ nói, mở cái hộp của mình. "Chưa có ai mà tôi từng điều trị lại chết vì bị bắn vào mông cả."
Ngài Christopher bắt đầu cười, còn Sebastian sải chân băng qua cánh đồng để nhặt khẩu súng còn lại. Anh đã hứa với Melanie sẽ không giết chồng cô.
Nhưng cô không nhắc gì đến việc không làm cho tên khốn đó khổ sở.
CHƯƠNG 2
N
Khu vực sau điện thờ là nơi đầu tiên Jem phát hiện ra máu. Tất nhiên, trước đó ông đã biết có điều gì đó không ổn - ngay khi ông mở cửa cánh ngang phía bắc. Trong suốt ba mươi năm qua Jem Cummings là người trông nom nhà thờ và nghĩa địa Thánh Matthew vùng Fields. Việc đảm bảo nhà thờ được khoá chặt mỗi đêm và được mở vào sáng hôm sau là một phần nhiệm vụ của ông.
Vậy nên Jem biết ngay.
Nhà thờ từng có một mục sư trẻ tiếp quản ba năm trước đây, một Mục sư tên McDermott. McDermott đã không thích ý tưởng khoá cửa nhà thờ vào ban đêm. Tuy nhiên, sau đó Jem đã nói với ông về quãng thời gian những năm 1792, khi lũ Nhái bén6* khát máu tràn qua eo biển và vị mục sư già đến nhà thờ vào một buổi sáng đã phát hiện ra bàn thờ cao bị đập vỡ và máu lợn vương vãi trên các bức tường ca đoàn. Khi biết điều đó, Mục sư McDermott đã nhanh chóng bỏ việc mở cửa nhà thờ.
*Nguyên bản: Frogs. Đây là từ dùng để chỉ người Pháp một cách miệt thị.
Lúc này, Jem đang nhớ đến máu lợn khi ông loạng choạng tiến về gian giữa, cái chân bị tật đau đớn trong thời tiết lạnh giá ẩm ướt, đôi mắt căng thẳng khi ông chăm chú nhìn vào bình minh u ám. Tuy nhiên, sự yên bình của nhà thờ dường như không bị xáo trộn, bàn thờ cao vẫn tinh khôi và nguyên vẹn, cánh cửa phòng thánh chứa những chiếc bình quý giá và linh
thiêng trông chắc chắn và vẫn bị khóa. Tiếng đập của trái tim Jem dần dịu đi.
Và rồi ông thấy máu.
Ban đầu ông không nhận ra nó là cái gì. Chỉ có những vết ố đen, mờ nhạt nhưng dần trở nên rõ rệt hơn, dần giống với hình dạng những dấu giày nam giới khi ông lần theo lối mòn về phía điện thờ Đức Mẹ Đồng Trinh. Cái lạnh của những bức tường đá cổ xưa dường như thấm vào xương ông, hơi thở đứt quãng trong lồng ngực ép chặt khi ông rón rén tiến về phía trước, toàn thân run đến nỗi ông đã phải nghiến chặt răng để giữ cho chúng khỏi lập cập.
Cô nằm ngửa, duỗi dài trong một tư thế khiêu dâm dựa vào các bậc đá cẩm thạch được đánh bóng dẫn đến bàn thờ của điện. Ông nhìn thấy cặp đùi trần, mở rộng và trắng lấp lánh dưới ánh đèn. Một miếng vải đã từng là satin viền ren mịn, giờ rách tả tơi và lấm máu trên đùi cô. Đôi mắt trong suốt mở to và nhìn chằm chằm vào ông, cái đầu với những lọn tóc xoăn vàng nghẹo về phía sau một cách bất thường. Lúc đầu ông tưởng vạt váy trước của cô màu đen, nhưng khi tiến lại gần hơn, ông nhìn thấy những vết cắt sâu trên cổ cô và ông liền hiểu ngay. Ông cũng hiểu máu ở đâu ra. Máu ở khắp mọi nơi, thậm chí còn tồi tệ hơn những ngày xa xưa khi các tín đồ Jacobin7* cuồng tín vung hàng xô máu quanh dàn hợp xướng. Chỉ có điều, đây không phải là máu lợn. Đây là máu của cô gái ấy.
*Câu lạc bộ Jacobin (phiên âm: Jacobin) là câu lạc bộ chính trị nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong tiến trình Cách mạng Pháp. Câu lạc bộ bắt nguồn từ Câu lạc bộ Benthorn, lập ở Versailles với một nhóm nghị viên vùng Brittany tham gia vào Hội nghị Quốc dân 1789. Vai trò của câu lạc bộ lên đến đỉnh cao trong những năm 1792-1794.
Jem lảo đảo lùi lại, khuỷu tay đụng mạnh đến đau đớn vào những bức phù điêu bằng đá của điện thờ Đức Mẹ Đồng Trinh trong khi mắt ông nhắm nghiền như muốn ngăn chặn cảnh tượng khủng khiếp đó.
Nhưng không gì có thể xoá sạch cái mùi đó, cái hỗn hợp ghê tởm, bệnh hoạn của máu, sáp nến và tình dục trần trụi.
CHƯƠNG 3
M
ặc dù lúc này đã gần trưa, ánh sáng chiếu qua những khung cửa sổ kính màu trong khu tụng niệm nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields vẫn còn yếu ớt và khuếch tán.
Ngài Henry Lovejoy, Chánh thẩm Westminster tại Queen Square, nhìn lướt qua những bức tường lấm máu trong điện thờ cùng hàng vũng máu đông tụ đặc quánh nổi bật đầy tàn nhẫn trên những bậc đá cẩm thạch trắng. Ông có một giả thuyết rằng tỷ lệ tội phạm bạo lực và tình dục cao hơn hẳn vào những ngày sương mù bóp nghẹt London.
Nhưng đã từ rất lâu rồi London mới được chứng kiến một tội ác thế này.
Bên vách điện thờ Đức mẹ Đồng Trinh, một dáng hình nhỏ bé đến thê thảm nằm yên bên dưới tấm vải đen và khô cứng bởi máu đông. Lovejoy phải buộc mình bước qua đó. Cúi người xuống, ông lật rìa mảnh vải lên, và thở dài.
Cô gái này từng xinh đẹp. Và trẻ trung. Tất nhiên, mọi cái chết yểu đều là bi kịch. Nhưng không người đàn ông nào từng yêu một người phụ nữ, hoặc từng tự hào và lo sợ dõi theo những bước chân đầu tiên của một đứa trẻ, lại có thể nhìn vào vẻ đẹp thanh xuân này mà không cảm thấy nặng trĩu buồn đau cùng phẫn nộ.
Bất chấp đầu gối kẽo kẹt như than phiền, Lovejoy ngồi xổm xuống, ánh mắt ông vẫn dán chặt vào gương mặt đầy máu nhợt nhạt. "Biết cô ấy là ai không?"
Câu hỏi được dành cho người duy nhất còn lại trong điện thờ, một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi cao lớn, vạm vỡ với mái tóc vàng hoe bù xù hợp mốt và chiếc cà vạt được thắt kiểu cách. Là cảnh sát cao cấp của Queen Square, Edward Maitland là viên chức đầu tiên được gọi đến hiện trường và cũng là người thụ lý vụ án cho đến lúc này. "Một nữ diễn viên," anh nói, đứng chắp hai tay sau lưng, người đung đưa qua lại như thể đang kiềm chế sự thiếu kiên nhẫn với tác phong tỉ mỉ, chậm chạp của Ngài Henry. "Một cô Rachel York nào đó."
"À. Bảo sao tôi thấy cô ấy trông quen quen." Nuốt khan, Lovejoy kéo mảnh vải che phần còn lại của thi thể cô gái xuống và buộc mình nhìn xuống.
Cổ họng của cô bị rạch nhiều vết dài một cách man rợ. Điều đó giải thích các vệt máu trên tường, ông nghĩ. Quá nhiều máu, ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, cái chết của Rachel York không nhanh chóng cũng chẳng dễ dàng. Tay cô vẫn nắm chặt như thể đang cam chịu, với những vết bầm tím sẫm và xấu xí nổi bật trên làn da trần nhợt nhạt của cổ tay và cánh tay. Gò má trái bị đánh vỡ. Chiếc váy satin màu ngọc lục bảo rách bươm và áo choàng viền lông bằng nhung tả tơi đã tự nói lên mọi sự.
"Tôi cho là hắn cưỡng bức cô ta phải không?" Lovejoy nói. Maitland đứng thẳng, chuyển trọng lượng cơ thể xuống gót giày đắt tiền, ánh mắt anh không nhìn cô gái mà nhìn chằm chằm vào lớp kính xanh đỏ trên cao của cửa sổ phía đông. "Vâng thưa ngài. Không nghi ngờ gì về điều đó."
Chắc chắn không nghi ngờ gì, Lovejoy nghĩ. Mùi tinh dịch không thể thoát ra vẫn còn lơ lửng trong không khí, hòa lẫn với mùi kim loại nặng của máu và mùi sùng đạo ngọt ngào của hương trầm và sáp ong. Ông lướt ánh
mắt qua chân tay được sắp xếp cẩn thận của cô gái và cau mày. "Khi anh phát hiện ra cô ta, cô ta đã nằm thế này?"
"Không, thưa ngài. Cô ta ở kia, trước bàn thờ. Để cô ta nằm lại đó không phù hợp lắm. Dù sao đây cũng là một nhà thờ."
Lovejoy đứng thẳng dậy, ánh mắt ông trôi xuống những bậc đá cẩm thạch vấy máu. Tất cả nến trên bàn thờ đã cháy tàn.
Ông nghĩ, cô ấy hẳn đã thắp sáng tất cả nến trước khi qua đời. Tại sao? Vì kính cẩn? Hay vì cô sợ bóng tối?
Ông nói thành lời, "Theo anh, cô ta đã làm gì ở đây?"
Lông mày Maitland giật giật, phản bội lại dáng vẻ bất động. Anh ta rõ ràng chưa nghĩ đến điều này. "Tôi không chắc, thưa ngài. Người coi nhà thờ phát hiện ra cô ta khi mở cửa nhà thờ sáng nay." Anh lấy một cuốn sổ từ túi áo choàng ngoài và mở nó ra với vẻ phô trương đôi lúc khiến Lovejoy khó chịu. "Ông Jem Cummings. Cả ông ta lẫn Mục sư" - các trang giấy lạo xạo - "Mục sư James McDermott nói rằng họ chưa từng gặp cô ta." "Họ khóa nhà thờ mỗi đêm đúng không?"
"Vâng, thưa ngài." Maitland lại kiểm tra cuốn sổ. "Vào đúng tám giờ tối."
Cúi xuống, Lovejoy cẩn thận che tấm vải trên thi thể của Rachel York, hơi dừng lại một chút để ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp, tái nhợt đó lần nữa. Cô gái ấy có một vẻ đẹp kiểu Pháp với những lọn tóc xoăn vàng hoe, đôi mắt nâu cách xa nhau và bờ môi trên ngắn, đặc trưng của vùng Normandy8*. Ông vừa thấy cô vào tuần trước cùng Kat Boleyn trong vở kịch As You Like It9*tại Nhà hát Covent Garden. Ông đã xem cô diễn và ngưỡng mộ cô, không chỉ bởi nhan sắc mà còn bởi tài năng. Ông nhớ rõ
hình ảnh cô trên sân khấu, tay giơ cao, bàn tay siết chặt tay bạn diễn khi họ cúi chào khán giả lần cuối, đôi mắt cô rực rỡ và toả sáng, nụ cười của cô rộng mở, hân hoan vui sướng.
*Normandy là địa danh chỉ cả một vùng duyên hải thuộc Tây Bắc nước Pháp, được đặt theo tên của những người Viking từ phía Bắc đi theo đường biển đến đây vào thế kỷ thứ IX.
*As You Like It là một vở hài kịch của William Shakespeare được viết vào năm 1599.
Ông đắp tấm vải che thân hình bất động, lấm máu đó rồi quay đi, ánh mắt nheo lại khi xem xét cách bố trí của nhà thờ cũ, với gian giữa có lối đi và cung thờ bên lớn, ca đoàn và khu tụng niệm rộng rãi. "Ông Cummings này... ông ta có nói mình trở lại điện thờ Đức Mẹ trước khi khóa cửa đêm qua?"
Maitland lắc đầu. "Người coi nhà thờ nói ông ta liếc qua chỗ này từ sau điện thờ và đã hô to một tiếng, cảnh báo rằng ông chuẩn bị khóa cửa. Nhưng ông ta không bước vào điện thờ, thưa ngài. Và ông ta cũng sẽ không nhìn thấy cô ấy từ sau điện thờ. Tôi đã tự mình kiểm tra."
Lovejoy gật đầu. Trong cái lạnh ẩm ướt của nhà thờ, vài vũng máu vẫn chưa khô. Bóng và đặc quánh, chúng sáng lên mơ hồ dưới ánh đèn, ông cẩn thận tránh dẫm vào chúng khi chậm rãi đi lại quanh điện thờ. Trong sáu giờ qua, có nhiều dấu chân lớn bất cẩn dẫm đạp ra vào điện thờ đến nỗi không thể tái tạo lại chính xác mặt sàn trước khi người coi nhà thờ xuất hiện. Nhưng như vậy có vẻ thiếu tôn trọng và xâm phạm đến cô gái đáng thương đang nằm dựa vào tường này nếu như vô ý dẫm lên máu của cô. Vì vậy Lovejoy cố gắng tránh chúng.
Ông dừng lại trước bậc đá cẩm thạch trắng của bàn thờ nhỏ. Máu tụ dày nhất ở đây, nơi tìm thấy cô. Một chiếc đèn lồng nằm bên cạnh, kính vỡ tan tành. Ông quay lại liếc nhìn viên cảnh sát. "Có biết ai là người cuối cùng sử dụng điện thờ Đức Mẹ không?"
Maitland lại lật cuốn sổ của mình. Tất cả chỉ để phô diễn, Lovejoy biết vậy. Edward Maitland có thể đọc toàn bộ nội dung của cuốn sổ từ bộ nhớ. Nhưng anh ta nghĩ những tuyên bố của mình sẽ có thêm sức nặng khi người ta thấy mình tra cứu các sự kiện hay số liệu. "Chúng tôi vẫn đang kiểm tra," anh ta lại nói với sự chậm chạp để tạo hiệu ứng, "nhưng có thể đó là bà William Nackery. Bà ấy là vợ góa của một nhà buôn vải. Đến điện thờ Đức Mẹ mỗi chiều vào khoảng bốn rưỡi và cầu nguyện chừng hai mươi đến ba mươi phút. Bà ta nói rằng nhà thờ không có ai khi mình ra về vào lúc trước năm giờ."
Lovejoy nhìn lên những bức tường vấy máu, môi mím chặt thành một nụ cười không hề hài hước. "Có thể giả định một cách tương đối chắc chắn rằng cô ta đã bị giết ở đây."
Maitland hắng giọng vẻ thận trọng. Anh ta luôn trở nên khó chịu khi Lovejoy bắt đầu nêu ra những điều hiển nhiên. "Tôi nghĩ vậy, thưa ngài." "Điều này loại bỏ khả năng vụ giết người của chúng ta xảy ra trong khoảng từ năm giờ đến tám giờ đêm qua."
"Chúng tôi cũng nghĩ vậy, thưa ngài." Viên cảnh sát lại hắng giọng. "Chúng tôi tìm thấy túi xách tay cách cô ta khoảng sáu mươi mốt xen-ti mét. Nó bị mở, nên hầu hết đồ đạc trong đó đã văng ra. Nhưng túi tiền của cô ta vẫn còn đó, không bị động đến. Và cô ta đang đeo đôi bông tai và một sợi dây chuyền bằng vàng ròng."
"Nói cách khác, không cướp của." "Không, thưa ngài."
"Nhưng anh nói rằng túi xách đã bị mở? Tôi tự hỏi liệu nó bung ra khi rơi xuống hay do hung thủ đã tìm kiếm gì đó?"
Lovejoy liếc nhìn xung quanh nhà thờ lạnh lẽo, cảm thấy cái lạnh ẩm ướt của đá thấm qua đế giày của mình. Ông đút bàn tay đeo găng vào sâu trong túi áo choàng ngoài và thầm ước mình không quên bỏ chiếc khăn. "Tôi đang đợi đây, ngài Cảnh sát."
Khuôn mặt phóng khoáng, đẹp trai của Edward Maitland nhíu lại trong sự bối rối. "Vâng thưa ngài?"
"Đợi anh cho tôi biết tại sao anh cảm thấy tôi cần phải đến đây." Cái cau mày giãn ra thành một nụ cười tự mãn. "Bởi vì chúng tôi đã tìm ra hung thủ, thưa ngài."
"Thật sao?"
"Thứ này đã cho chúng tôi biết phải bắt đầu từ đâu." Maitland chìa ra một khẩu súng kíp nhỏ từ túi của mình. "Chắc chắn rằng nó đã bị hung thủ đánh rơi. Một cảnh sát của chúng tôi tìm thấy nó lẫn trong nếp áo choàng của nạn nhân."
Lovejoy cầm lấy vũ khí và trầm ngâm giữ nó trong tay. Đó là một khẩu súng bằng thép cao cấp tinh tế với báng làm từ gỗ gụ đánh bóng và vòng cản bằng đồng thau được thiết kế phức tạp với hình con rắn quấn quanh thanh kiếm. Nhìn bên ngoài, ông chắc chắn rằng đây là loại bốn mươi bốn li, với một nòng rãnh và một tấm biển đăng ký ghi W. REDDELL, LONDON. Máu trên nòng súng vẫn đủ để lại một vết bẩn đen trên lòng bàn tay ông.
"Hãy để ý đến vòng cản, thưa ngài. Con rắn và thanh kiếm?" Lovejoy di ngón cái bàn tay trái của mình trên vết bẩn. "Có, tôi có nhìn thấy nó, anh Cảnh sát."
"Đó là khẩu súng của Tử tước Devlin, thưa ngài."
Trong thoáng chốc Lovejoy bất giác siết chặt tay vào khẩu súng lục. Chỉ còn ít người ở London chưa nghe nói đến Sebastian, Tử tước Devlin. Hay cha anh, Lãnh chúa Hendon, bộ trưởng tài chính và bạn tâm giao đáng tin cậy của Spencer Perceval10*, vị Thủ tướng đảng Bảo thủ11* của Vua George già nua điên khùng tội nghiệp12*.
*Spencer Perceval (1762 - 1812) là Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Anh từ ngày 4 tháng 10 năm 1809 cho đến khi qua đời vào ngày 11 tháng 5 năm 1812. Ông là thủ tướng Anh duy nhất bị ám sát.
*Nguyên văn: Đảng Tory (Tories), tiền thân của Đảng Bảo thủ, là chính đảng lớn theo đường lối trung hữu ở Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland.
*George William Frederick (1738 - 1820) là Vua George III của Anh và Ireland từ 1760 đến 1800 và là Vua của Vương quốc Anh thống nhất từ 1801 đến khi qua đời. Ngoài ra ông còn là Công tước và Vương công - Tuyển hầu của Braunschweig-Lüneburg trong Thánh chế La Mã cho tới khi được phong làm Vua của Hannover năm 1814. Cuộc đời và thời gian cai trị của ông được đánh dấu bởi một loạt các xung đột quân sự liên quan đến vương quốc Anh, nhiều vùng lãnh thổ khác tại châu Âu và lan đến cả châu Phi, châu Mỹ và châu Á. Đầu triều George III, nước Anh đánh bại nước Pháp trong chiến tranh Bảy năm và vươn lên địa vị đế quốc châu Âu nắm quyền thống trị Bắc Mỹ và Ấn Độ. Tuy nhiên nhiều
thuộc địa của Anh tại Bắc Mỹ đã li khai sau Chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ. Sau đó quân Anh tham gia cuộc chiến chống lại Cách mạng Pháp và quân đội Napoleon từ năm 1793 cho đến thất bại của Napoleon tại trận Waterloo năm 1815. Trong giai đoạn cuối đời, tâm bệnh của George III tái phát, ông bị bệnh tâm thần vĩnh viễn. Cuối cùng vào năm 1810, Đạo luật Nhiếp chính đã được thông qua, và con trai trưởng của nhà vua, George, Hoàng tử xứ Wales, cai trị với danh hiệu Hoàng thân Nhiếp chính. Sau cái chết của George III, Hoàng thân Nhiếp chính nối ngôi cha và trở thành Vua George IV.
Lovejoy lật khẩu súng để đưa nó cho vị cảnh sát, báng hướng lên trên. "Cẩn thận đấy, anh Cảnh sát. Chúng ta đang đi trên khu vực nguy hiểm. Không nên kết luận vội vàng."
Maitland từ tốn đón nhận ánh mắt của ông. Anh ta không lấy lại khẩu súng lục từ tay Lovejoy. "Còn nữa, thưa ngài."
Lovejoy thả khẩu súng lục vào túi áo choàng ngoài của mình. "Hãy cho tôi biết."
"Chúng tôi đã nói chuyện với người hầu gái của Rachel York, một phụ nữ tên là Mary Grant." Lần này Maitland không giả vờ tham khảo ghi chép của mình. "Theo Mary, vào tối muộn ngày hôm qua, chủ của cô ta đã đi gặp St. Cyr. Cô nói với người hầu gái, và tôi trích, 'Đừng sợ, Ngài sẽ trả ta hậu hĩnh." Viên cảnh sát dừng lại như thể để tác động của lời nói thấm thía, rồi bổ sung: "Đó là lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô ấy."
Lovejoy bình tĩnh nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh lơ của viên cảnh sát. "Anh có ý gì? Rằng cô ta tống tiền Tử tước?"
"Hoặc đe dọa anh ta theo một cách nào đó. Vâng, thưa ngài." "Tôi cho là anh đã kiểm tra hành tung của Tử tước Devlin vào đêm qua?" "Vâng, thưa ngài. Người hầu của Tử tước nói rằng anh ta rời nhà vào khoảng năm giờ. Bảo là mình đến câu lạc bộ. Nhưng theo bạn bè của anh ta, Devlin không đến Watier trước chín giờ."
"Tử tước nói anh ta ở đâu?"
"Chúng tôi chưa thể xác định vị trí của Tử tước, thưa ngài. Đêm qua anh ta không ngủ trên giường của mình. Có lời đồn rằng anh ta chuẩn bị cho một cuộc đấu súng vào sáng nay."
Lovejoy khum tay lên che miệng và thổi vào lòng bàn tay cùng các ngón tay của mình đầy suy tư trước khi thả tay xuống. "Kẻ làm điều này hẳn phải đẫm máu. Nếu Devlin là hung thủ, anh ta cần trở về nhà thay quần áo và tắm rửa trước khi đến câu lạc bộ."
"Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó, thưa ngài." "Sao? Người hầu của Devlin nói gì về điều đó?"
"Thật không may, đêm qua trước khi đi ra ngoài, Devlin cho toàn bộ nhân viên của mình nghỉ. Anh ta có vẻ là một ông chủ hào phóng nhất." Có điều gì đó trong cách diễn đạt - một nguyên âm líu lưỡi, một đôi môi thắt chặt - đã cho thấy một cảm xúc thoáng qua mà Maitland thường kín đáo che dấu cẩn thận. Maitland không phải là một người cực đoan. Anh ta tin vào trật tự xã hội, vào Chuỗi Hiện Hữu Vĩ Đại13* và phân cấp của con người. Nhưng điều đó không ngăn anh ta thèm khát giàu sang địa vị, và ghen tị với những người, như Devlin, được sinh ra với những gì Maitland thậm chí không thể vươn tới.
*Chuỗi Hiện Hữu Vĩ Đại (The Great Chain of Being) là một cấu trúc thứ bậc tôn giáo nghiêm ngặt của tất cả vật chất và đời sống, được cho là sắc lệnh của Thiên Chúa. Chuỗi bắt đầu từ Thiên Chúa và tiến xuống đến thiên thần, ma quỷ (thiên sứ sa ngã/phản bội), sao, mặt trăng, các vua chúa, Hoàng tử, quý tộc, dân thường, động vật hoang dã, vật nuôi, cây xanh, các loại cây khác, đá quý, kim loại quý, và các khoáng sản.
Lovejoy quay người đi lang thang trong điện thờ Đức Mẹ nhỏ bé. "Người hầu của anh ta sẽ biết nếu một bộ y phục dạ hành biến mất khỏi tủ quần áo của ông chủ."
"Người hầu cho biết không có gì bị mất. Nhưng ngài cũng biết những người hầu này là thế nào mà. Trung thành đến mù quáng." Lovejoy lơ đãng gật đầu, dành sự chú ý của mình cho bức tranh khổng lồ vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh thăng thiên treo cao trên bàn thờ. Bản thân ông có khuynh hướng Kháng cách Tin lành, một xu hướng hiểm nguy mà ông mà tất nhiên đã cẩn thận giữ kín. Ông không ủng hộ kính màu, hương trầm và những bức tranh ngợi ca thời Phục hưng ám khói trong khung mạ vàng nặng nề; coi chúng là tàn dư Thiên Chúa giáo La Mã tội lỗi không liên quan đến vị Thiên Chúa khắc khổ mà Lovejoy tôn thờ. Tuy nhiên, ông nhận thấy máu từ cổ họng bị cắt tả tơi của Rachel York đã vấy lên bàn chân trần của bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh khiến người ta liên tưởng đến, một cách đầy ám ảnh, những bức tranh khác ông từng xem, vẽ Chúa trời trên cây thập giá, máu chảy ra từ vết thương ở bàn chân bị đóng đinh của Ngài. Và ông lại thầm tự hỏi, người phụ nữ này đã làm gì ở đây, trong một nhà thờ cổ tầm thường sắp bị lãng quên này. Thật kỳ lạ khi một nữ diễn viên trẻ đẹp chọn địa điểm này để hẹn hò. Hoặc để tống tiền.
Maitland hắng giọng. "Tôi cần phải thông báo với ngài rằng Lãnh chúa Jarvis mong muốn được gặp ngài. Tại Dinh thự Carlton. Ngay sau khi ngài kết thúc công việc tại đây."
Câu từ được lựa chọn tinh tế có chủ đích và Lovejoy biết điều đó, vì đây là một giấy triệu tập không thẩm phán nào có thể từ chối. Mọi công sở, dù ở phố Bow hay Queen Square, Đường Lambeth hoặc Vườn Hatten, có lệnh phải báo cáo với Lãnh Chúa Jarvis ngay lập tức nếu xuất hiện một vụ án có liên quan đến những nhân vật nhạy cảm, chẳng hạn như tình nhân một công tước hay anh em của một nguyên thủ quốc gia. Hoặc con trai duy nhất và là người thừa kế của một thành viên nội các đầy quyền lực.
Lovejoy thở dài. Ông chưa bao giờ hiểu được chính xác tầm ảnh hưởng của Lãnh chúa Jarvis. Ngoài một biệt thự khổng lồ trên Quảng trường Berkeley, ông ta có văn phòng tại Cung điện St. James và Dinh thự Carlton, mặc dù ông không nắm chức danh nào trong chính phủ. Và mặc dù ông ta đúng là hoàng thân quốc thích, nhưng chỉ là quan hệ anh em họ. Lovejoy thường nghĩ có thể miêu tả đúng nhất chức vụ của Jarvis bằng một cụm từ mơ hồ thời trung cổ, buông rèm nhiếp chính, mặc dù Lovejoy không bao giờ hiểu được làm thế nào mà Jarvis có thể thâu tóm và duy trì quyền lực trong quá trình Vua George trở nên điên loạn. Ông chỉ biết rằng Hoàng tử xứ Wales14* giờ đây phụ thuộc vào người đàn ông này cũng như Vua George từng phụ thuộc. Đó là lý do vì sao khi Jarvis triệu tập thẩm phán nào, thẩm phán đó phải xuất hiện.
*Hoàng tử xứ Wales là tước hiệu của George IV (1762 - 1830). Ông là Vua của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland và Vương quốc Hannover sau cái chết của cha mình, George III, vào ngày 29 tháng 1 năm 1820.
Ông giữ chức Hoàng thân Nhiếp chính trong giai đoạn cha mình bị bệnh tâm thần.
Lovejoy quay lại với viên cảnh sát. "Anh đã báo cho ngài ấy ư?" "Tôi nghĩ rằng ngài ấy muốn biết ngay lập tức. Dù sao cha Tử tước cũng rất thân cận với Thủ tướng."
Lovejoy thở dài đầy căng thẳng tạo thành một màn sương lạnh trong không khí buốt giá. "Anh nhận ra sự nhạy cảm của tình hình chứ?" "Vâng, thưa ngài."
Ánh mắt Lovejoy nheo lại khi ông nghiên cứu khuôn mặt bình thản của viên cảnh sát. Kỳ lạ là từ trước đến nay, Lovejoy chưa bao giờ tự hỏi về xu hướng chính trị của Edward Maitland. Nhưng điều đó chưa bao giờ thực sự quan trọng, cho đến tận bây giờ. Lovejoy cố trấn an mình rằng giờ đây nó vẫn chẳng quan trọng, rằng công việc của họ sẽ bắt đầu và kết thúc với đòi hỏi phải điều tra và giải quyết vụ án mạng này, và trừng phạt kẻ thủ ác. Mặc dù…
Mặc dù Bá tước Hendon, cũng như Spencer Perceval và các Bộ trưởng khác trong nội các của Vua15*theo đảng Bảo thủ, nhưng Hoàng tử xứ Wales và phe cánh của ông ta lại theo đảng Tự do16*.
*Chỉ Vua George III.
*Nguyên văn: Đảng Whig (Whigs), là một nhóm chính trị, sau đó là một đảng chính trị trong Quốc hội Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, tiền thân của Đảng Tự do. Giữa những năm 1680 và 1850, họ tranh giành quyền lực với Đảng Tory, (tiền thân của Đảng Bảo thủ). Nguồn gốc Đảng Tự do bắt nguồn từ chế độ quân chủ lập hiến và sự phản đối chế độ quân chủ tuyệt đối.
Vào bất kỳ thời điểm nào, việc con trai và người thừa kế của một thành viên đảng Bảo thủ nổi bật bị cáo buộc phạm một tội ác như vậy cũng sẽ gây chấn động. Việc những lời buộc tội xuất hiện vào lúc này, khi vị Vua cũ sắp bị tuyên bố là điên khùng và Hoàng tử đang nhiếp chính, có thể gây ra những tác động sâu xa. Không chỉ đối với cơ cấu chính phủ mà đối với cả bản chất của chính chế độ quân chủ.
CHƯƠNG 4
K
hi Sebastian leo lên bậc cấp ngôi nhà của mình trên phố Brook, những cư dân London thượng lưu mới rời khỏi giường ngủ. Chỉ có tiếng xe cộ ầm ầm xa xôi bị sương mù bóp nghẹt trên đường New Bond và những tiếng ré lên của trẻ con chơi đuổi bắt dưới sự quản lý của bảo mẫu tại Quảng trường Hanover làm xáo động sự im lặng giữa trưa.
Sebastian cảm thấy một sự quên lãng dịu êm khi kiệt sức, một trạng thái tê liệt đầy phước lành. Ông quản gia Morey gặp anh tại sảnh, vẻ lo lắng bất thường khiến mặt ông cau có. "Thưa ngài…," ông bắt đầu.
Ánh mắt của Sebastian nhìn vào một cây gậy quen thuộc và chiếc mũ chóp cao trên cái bàn tại sảnh. Anh đột nhiên ý thức rõ chiếc cà vạt nhàu nát của mình, vết máu bầm trên trán và vẻ mệt mỏi khó tránh sau hàng giờ rượu chè không ngủ. "Hẳn là cha tôi đang ở đây?"
"Vâng, thưa ngài. Bá tước đang chờ ngài trong thư viện. Nhưng tôi tin rằng trước hết ngài cần biết về một sự cố xảy ra vào sáng…" "Để sau đi," Sebastian nói, và băng qua sảnh, mở cửa thư viện. Alistair St. Cyr, Bá tước Hendon thứ Năm, ngồi trên một chiếc ghế bành da gần lò sưởi, cầm một ly rượu mạnh của Sebastian trên bàn tay. Khi con trai bước vào, ông Bá tước nhìn lên, quai hàm giật giật như mỗi khi xúc động. Ở tuổi sáu mươi lăm, ông vẫn còn là một người đàn ông mạnh mẽ, với bộ ngực nở và mái tóc trắng dày trên khuôn mặt nặng nề đặc trưng. Ông có đôi mắt màu xanh sáng rực, sâu thẳm nhất mà Sebastian từng thấy. Từ hồi anh bắt đầu biết nhớ, Sebastian đã thấy đôi mắt này luôn bừng lên
một cảm xúc mà anh không bao giờ hiểu được mỗi lần Hendon nhìn đứa con trai duy nhất còn lại của mình. Và trong suốt mười lăm năm qua, Sebastian đã chứng kiến ngọn lửa cảm xúc đó nhanh chóng biến mất dưới một cơn thuỷ triều đau đớn và thất vọng dễ nhận biết.
"Thế nào?" Bá tước cất lời. "Con có giết y không?"
"Talbot?" Sebastian vất cái áo choàng không tay lên trên một chiếc ghế mây gần cửa sổ. Rồi đến mũ và găng tay. "Tiếc là không." "Con thoải mái với điều đó nhỉ."
Sebastian tiến đến bên bàn và rót cho mình một ly rượu mạnh. "Cha muốn con hành xử khác ư?"
Quai hàm của Bá tước giật giật đầy giận dữ. "Ta muốn con kiềm chế xu hướng cố gắng xóa sổ sự tồn tại của những người khác. Đây đã là cuộc thách đấu thứ ba trong vòng sáu tháng kể từ sau khi con trở về Anh Quốc." "Thực ra, đã được mười tháng kể từ khi con xuất ngũ."
"Quỷ tha ma bắt sự ngạo mạn của con." Hendon bật dậy trên đôi chân của mình. "Người trước đó - tên y là gì?"
"Danford."
"Đúng rồi. Danford thì ta còn có thể hiểu được. Có những lời lăng mạ mà một quý ông không thể bỏ qua không thách đấu. Nhưng Talbot? Chúa ơi. Con đã ngủ với vợ y. Sẽ phải trả một đống tiền nếu con giết y, ta có thể cam đoan với con điều đó."
Sebastian uống cạn ly rượu của mình trong một hơi dài và cố gắng nuốt xuống những cảm xúc nguyên sơ đầy mâu thuẫn suốt hai mươi tám năm qua. Trên thực tế anh không ngủ với Melanie Talbot. Nhưng có biện minh cũng chẳng ích gì: Khái niệm tình bạn giản đơn giữa nam và nữ là điều mà
Hendon không tin và cũng không thể hiểu được. Và ông cũng không hiểu tại sao Sebastian lại quan tâm đến việc một người đàn ông như Đại úy John Talbot đánh đập cô vợ trẻ đẹp của mình.
"Gã đó muốn giết chóc mà," Sebastian nói đơn giản. "Tại sao? Để con có thể lấy vợ y?"
Quay người đi, Sebastian rót một cốc rượu khác. "Đó chưa bao giờ là ý định của con."
"Những gì con cần là một người vợ cho riêng mình." Sebastian khựng lại, sau đó cẩn thận hạ bình rượu xuống.
"Chúng ta lại quay trở về chủ đề này à?"
"Nếu con nhất quyết tiếp tục lối sống phóng đãng này, ít nhất hãy lịch sự để đảm bảo có một người thừa kế trước khi uống rượu đến chết. Hoặc là bị bắn chết khi ra ngoài vào buổi sáng."
"Cha đánh giá thấp con."
Sebastian quay lại và thấy cha mình đang xem xét vết thương trên trán bằng đôi mắt nheo lại đầy lo lắng. "Lần này suýt soát nhỉ." "Con đã nói với cha, gã đó muốn giết chóc mà."
Hàm Bá tước cứng lại. "Con đã hai mươi tám. Đã quá tuổi yên bề gia thất rồi."
"Để làm gì? Để nắm quyền quản lý các bất động sản?" Sebastian cười lớn khi một cơn co giật cảnh cáo thoáng qua trên mặt người cha, anh nâng ly rượu bắt chước việc cụng ly và thì thầm. "Có lý."
"Vị trí tại Thượng Walford vẫn còn trống."
Sebastian sặc rượu. "Cha không nghiêm túc đấy chứ." Cha anh vẫn nhìn chằm chằm vào anh. Sebastian hạ ly rượu xuống. "Chúa ơi. Cha đang
nghiêm túc."
"Tại sao không? Con sẽ có việc gì đó để làm ngoài uống rượu, chơi bời và ngủ với vợ người ta. Và chúng ta cần một người đàn ông có khả năng như con tại Hạ viện."
Sebastian nhìn cha mình một lúc lâu. "Cha đang sợ Prinny17*sẽ đưa đảng Tự do vào nếu ông ta nhiếp chính, đúng không?"
"Ồ, Hoàng tử xứ Wales sẽ trở thành Hoàng thân Nhiếp chính, điều đó là chắc chắn. Chỉ còn là vấn đề thủ tục và thời gian. Tuy nhiên, ông ta sẽ vấp phải sự phản đối gay gắt nếu như cố gắng lật đổ Đảng Bảo thủ và hồi sinh Bộ Toàn Tài18*. Hoặc gì đó tồi tệ hơn."
*Prinny là tên gọi thân mật của George IV.
*Bộ Toàn Tài (Ministry of All Talents) là một là một chính phủ đoàn kết dân tộc được thành lập bởi Thủ tướng Anh William Wyndham Grenville vào ngày 11 tháng 2 năm 1806. Ngày nay, thuật ngữ này được sử dụng trong chính trị để mô tả một chính quyền với các thành viên đến từ nhiều đảng phái khác nhau.
"Nếu cha đang cố gắng tuyển dụng con làm một ứng cử viên, thì tình hình hẳn là không khó khăn như cha nghĩ."
Bá tước nhìn xuống cái ly của mình, từ từ xoay nó trong lòng bàn tay để các mặt cắt phản chiếu ánh sáng từ những ngọn đèn được thắp lên thậm chí cả vào buổi trưa, để xua đi màn sương mù u ám. "Trong thời kỳ khó khăn này thì một người phải có nhiệm vụ tham gia bảo vệ lợi ích, tài sản và đặc quyền của quốc gia."
"Con cho là cha chưa từng nghĩ đến việc nếu ở trong Quốc hội, con có thể sẽ thách thức những truyền thống thiêng liêng về tài sản và đặc quyền
và bênh vực chủ nghĩa Jacobin dị giáo, chủ nghĩa vô thần, và dân chủ?" Lãnh chúa Hendon uống nốt ly rượu trong một hơi dài và đặt chiếc ly sang bên. "Ngay cả con cũng không ngu ngốc đến thế." Không thèm gọi người hầu, ông sải bước đến cửa, dừng lại khi tay đặt lên quả đấm, liếc nhìn lại và nói, "Hãy suy nghĩ về điều này."
Sebastian đứng ở cửa sổ, một tay vén tấm rèm nhung xanh nặng nề khi nhìn dáng người mạnh mẽ, quen thuộc của cha mình biến mất vào trong sương mù cuồn cuộn. Có thể đó là do ảo ảnh của ánh sáng, hoặc một hiệu ứng của sương mù, nhưng cha anh đột nhiên trông già và mệt mỏi hơn Sebastian vẫn nhớ. Và anh thấy một nỗi hối tiếc gợn lên, một sự thôi thúc chạy đến và ngăn cha mình lại, để giảng hoà với nhau bằng cách nào đó. Nhưng giữa họ không bao giờ có thể thực sự giảng hoà bởi Sebastian không bao giờ có thể trở thành người mà cha mình mong muốn, và cả hai đều biết điều đó.
Anh lại nhớ về một buổi sáng xa xưa ngập tràn tiếng cười ở sườn núi trên vịnh. Alistair St. Cyr không đến đó vào mùa hè năm ấy. Những ngày ấy, Bá tước dành phần lớn thời gian ở lại London. Nhưng ông đã về nhà vào ngày hôm sau, khuôn mặt đông cứng vì đau buồn, ôm trong tay tấm thân tái nhợt, không còn sự sống của người con trai cả.
Khi Richard chết đi, danh hiệu Tử tước Devlin cùng vị trí của người thừa kế được truyền cho Cecil, người con trai thứ hai. Nhưng Cecil cũng qua đời chỉ bốn năm sau đó. Cuối cùng, tất cả hy vọng của Alistair St. Cyr, tất cả những tham vọng và ước mơ của ông đã rơi xuống cậu bé chưa bao giờ được coi là người thừa kế, người trẻ nhất và ít giống ông nhất trong cả ba người con.
Nhún vai, Sebastian thả rèm và quay về phía cầu thang.
Anh sắp bước vào phòng ngủ thì ông quản gia chạy xuống hành lang. "Thưa ngài, tôi phải nói chuyện với ngài. Cảnh sát đến đây sáng…" "Không phải bây giờ, Morey." "Nhưng thưa ngài..."
"Để sau đi," Sebastian nói và kiên quyết đóng cửa lại.
CHƯƠNG 5
N
gài Henry Lovejoy bước theo một gia nhân mặc chế phục và trang điểm đi qua hành lang âm vang, giống như mê cung của Dinh thự Carlton, mũ nắm chặt trong bàn tay lạnh giá. Vài tháng trước, Lãnh chúa Jarvis hẳn sẽ tổ chức gặp mặt tại Cung điện St James, nơi đặt văn phòng của Vua George III già nua điên khùng khốn khổ. Lovejoy chợt nhận ra việc Jarvis chuyển cơ sở của mình đến đây, tại cung điện của Hoàng tử xứ Wales, là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy sắp có một vị Nhiếp chính.
Người đàn ông vĩ đại đang ngồi ở bàn và viết khi Lovejoy xuất hiện. Ông thừa nhận sự tồn tại của Lovejoy với một cử chỉ cộc lốc của bàn tay mập đeo đầy nhẫn, tuy nhiên ông không ngước lên hoặc thậm chí mời Henry ngồi. Henry ngập ngừng tại ngưỡng cửa, sau đó đi đến đứng trước lò sưởi. Ngọn lửa nhỏ, căn phòng rộng lớn và lạnh lẽo như một cái hang. Henry giơ bàn tay tê cứng của mình trước ngọn lửa. Từ đâu đó phía xa xuất hiện tiếng leng keng theo nhịp của một cái búa và tiếng lanh canh của thứ có nhiều khả năng là một giàn giáo. Hoàng tử Xứ Wales luôn luôn đổi mới, dù tại Dinh thự Carlton hay tại Biệt phủ của mình ở Brighton.
"Thế nào?" Jarvis cuối cùng cũng nói, đặt cây bút của mình sang một bên và di chuyển chiếc ghế để có thể nhìn thấy vị khách của mình. "Ngài có gì cần báo cáo về vụ việc đáng tiếc này?"
Thu tay và quay người lại, Lovejoy cúi chào gọn gàng, sau đó đưa ra một mô tả chính xác về hiện trường vụ án, nạn nhân và bằng chứng họ đã thu thập được cho đến nay.
"Được, được." Jarvis nói, bật dậy khỏi ghế với một cử chỉ thiếu kiên nhẫn cắt ngang lời Henry. "Tôi đã nghe những điều này từ viên cảnh sát của ngài. Rõ ràng Lãnh chúa Devlin phải bị bắt ngay lập tức. Tôi không thể tưởng tượng nổi tại sao chúng ta vẫn chưa ban hành một lệnh như vậy."
Lovejoy nhìn Lãnh chúa sờ soạng trong chiếc túi của mình lấy ra một hộp đựng thuốc lá màu ngà tinh tế. Ông ta là một người đàn ông to lớn bất thường, cao hơn một mét tám và nặng khoảng một trăm ba mươi đến một trăm năm mươi cân. Thời còn trẻ, ông khá đẹp trai. Sau những tàn phá của thời gian cùng sự hưởng thụ xa hoa, dấu vết của vẻ đẹp thời trẻ vẫn còn trong đôi mắt xám quyết liệt thông minh, cái mũi khoằm mạnh mẽ và đường cong gợi cảm của đôi môi.
Lovejoy hắng giọng. "Thật không may, thưa ngài, vào thời điểm hiện tại tôi không tin bằng chứng này là đủ để chứng minh cho hành động đó." Đầu Jarvis ngẩng lên, đôi mắt nheo lại, khuôn mặt đầy thịt của ông sầm xuống khi nhìn Lovejoy chòng chọc. "Không đủ? Lạy Chúa. Ngài muốn gì? Một nhân chứng?"
Lovejoy chầm chậm hít một hơi. "Trên lý thuyết, tôi thừa nhận rằng các bằng chứng liên quan đến Tử tước cho thấy sự buộc tội rõ ràng, thưa ngài. Tuy nhiên, chúng ta thực sự biết rất ít về người phụ nữ này. Chúng ta thậm chí còn không biết rõ động cơ của kẻ giết người."
Khéo léo búng hộp đựng thuốc lá mở ra bằng một ngón tay mập, Lãnh chúa Jarvis đưa một nhúm lên lỗ mũi và ngửi. "Cô ta đã bị cưỡng bức đúng không?"
"Vâng, thưa ngài." "Động cơ của ngài đó."
"Có lẽ vậy, thưa ngài. Mặc dù mức độ bạo lực của các cuộc tấn công cho thấy sự giận dữ, thậm chí bất ổn, vượt ra khỏi cơn khát tình dục bình thường."
Jarvis đóng hộp với một tiếng tách và thở dài. "Thật không may, cơn bùng phát bạo lực như vậy không phải là không xuất hiện ở những quý ông trẻ từng phục vụ Vua và đất nước trong chiến tranh. Theo tôi được biết, Devlin đã giết ít nhất hai người khác kể từ khi anh ta trở về từ Lục địa19*."
*Dùng để chỉ phần đất liền của châu Âu.
"Vấn đề danh dự, thưa ngài. Và đối thủ của anh ta bị thương. Không bị giết."
"Tuy nhiên, rõ ràng vẫn có một xu hướng."
Lãnh chúa bước tới đứng một lúc ở cửa sổ nhìn ra sân sau, hai tay chắp sau lưng, nét mặt điềm tĩnh như thể đang suy nghĩ sâu sắc. Một lát sau, ông nói. "Ngài Henry, ngài là một người đàn ông tinh tế. Chắc chắn tôi không cần phải giải thích ý nghĩa của việc này, con trai của một nhà quý tộc lỗi lạc - một thành viên Chính phủ, lạy Chúa - dính líu đến một tội ác như vậy. Nếu chúng ta bị cho là ngần ngại" - ông vung cánh tay trong cái áo được may đo cẩn thận với một cử chỉ bao quát về phía phố xá bên ngoài - "nếu đám đông ngoài kia tin rằng việc được sinh ra trong một vị trí đặc quyền cho phép một công dân Anh Quốc được hiếp dâm và giết người, với sự báng bổ như vậy" - Jarvis dừng lại, tay ông hạ xuống hông, giọng ông biến thành một sự im lặng trang nghiêm sâu sắc. "Ngài biết đấy, tôi đã ở Paris vào năm 1789. Tôi sẽ không bao giờ quên được. Cảnh máu chảy trong máng. Cảnh những cái đầu bị chặt treo trên giáo. Cảnh đám đông lôi những quý bà quý cô ra khỏi xe ngựa ra xé xác họ." Ông dừng lại, ánh mắt sắc bén
đột nhiên chiếu tướng Lovejoy. "Có phải đó là những gì ngài muốn thấy ở London này?"
"Không. Tất nhiên là không, thưa ngài," Lovejoy vội nói. Ông biết mình đã bị thao túng, biết rằng phía sau tất cả những điều này là những dòng chảy ngầm mà ông, một thẩm phán bình thường, không bao giờ có thể hiểu. Ông biết điều đó, nhưng nó không ngăn được cái lạnh sống lưng chạm vào tâm hồn ông, nỗi khiếp sợ bệnh hoạn bám chặt lấy sức sống của ông. Đó là nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của mỗi người Anh, rằng một ngày nào đó cuộc tàn sát mất trí, tràn lan và vô tận của Cách mạng Pháp có thể vượt biển tới Anh và phá hủy tất cả những gì ông yêu quý nhất.
"Nếu Lãnh chúa Devlin thực sự vô tội trong tội ác khủng khiếp này," Jarvis nói, "anh ta sẽ được minh oan và trả tự do theo đúng trình tự. Điều quan trọng là chúng ta phải trông như đang hành động tích cực. Chúng ta đang sống trong thời kỳ khó khăn, thưa ngài. Tin tức từ chiến trường không tốt đẹp gì. Quần chúng bất mãn và chán nản, sẽ dễ dàng bị những kẻ cực đoan kích động. Cùng với việc sức khỏe của Bệ hạ khó có thể cải thiện và dự luật Nhiếp chính đang được đưa ra trước Quốc hội, sự ổn định của vương quốc có thể bị đe dọa. Đây không phải là lúc để do dự, run rẩy và chậm trễ. Hoàng tử xứ Wales muốn Devlin bị bắt giữ, và ngài muốn việc đó phải xong trước khi đêm xuống." Jarvis dừng lại. "Tôi tin tưởng rằng ngài có thể xử lý tình hình với sự khéo léo và cẩn trọng cần thiết."
Đưa một thành viên thuộc tầng lớp quý tộc ra trước công lý chưa bao giờ dễ dàng. Tuy nhiên, nó đã từng xảy ra. Cách đây vài năm Bá tước Ferrers thứ Tư20* đã bị bắt vì tội giết người hầu của mình, được xét xử tại Thượng viện và bị treo cổ. Là người thừa kế của Bá tước Hendon, chức danh Tử tước Devlin của Sebastian St. Cyr chỉ là một danh hiệu lịch sự.
Anh ta có thể được gọi là "Lãnh chúa," ngoài ra chức danh này không đem lại cho anh ta quyền hợp pháp của một quý tộc thực sự cho đến ngày anh trở thành Bá tước Hendon thay cha mình, Devlin sẽ không, về mặt kỹ thuật, là một quý tộc. Vì vậy anh ta sẽ được xét xử trước Tối cao pháp viện Anh21*, giống như bất kỳ vụ án hình sự thông thường khác, chứ không phải tại Thượng viện.
*Laurence Shirley, Bá tước Ferrers thứ Tư (18/08/1720 - 05/05/1760) là một nhà quý tộc Anh, nổi tiếng vì là nhà quý tộc cuối cùng bị treo cổ sau khi bị kết án vì tội giết người hầu của mình.
*Cuộc bỏ phiếu ở Tối cao pháp viện nước Anh (King's Bench) là một tòa án thông luật trong hệ thống pháp luật Anh.
Tất nhiên, nếu bắt buộc phải làm vậy.
Lovejoy cúi gập người. "Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ đích thân thực hiện." Một nụ cười chiến thắng bất ngờ dịu dàng nở trên mặt Lãnh chúa Jarvis. "Tốt lắm. Tôi biết có thể trông đợi vào ngài."
Lovejoy cúi mình bước ra khỏi tầm mắt của người đàn ông vĩ đại, chiếc mũ nắm chặt trong tay. Nhưng khi ông quay người xuống cái hành lang dài được trang trí công phu, bước chân ông vang vọng vô hồn, cõi lòng ông nặng trĩu lạ thường, Ngài Henry Lovejoy càng lúc càng tin rằng mình đã bị lợi dụng.
CHƯƠNG 6
T
hi thoảng, những giấc mơ về cuộc chiến vẫn xuất hiện. Những giấc mơ bị ám ảnh bởi lũ trẻ hấp hối, đôi mắt đen chứa đầy đau đớn, sợ hãi và hoang mang, cùng những người phụ nữ vàng da, bụng bầu bị lưỡi lê quân nhân rạch nát. Anh từng nghĩ rằng lưỡi lê của quân nhân nào, người Pháp hay Anh, là một điều quan trọng. Cực kỳ quan trọng. Đó là trước khi anh hiểu rằng nó chẳng có ý nghĩa gì, nó chỉ là một yếu tố thời gian và địa lý, rằng binh sĩ mọi nước đều làm vậy. Anh đã từng nghĩ rằng Anh Quốc là một quốc gia được Chúa xức dầu thánh, một vùng đất lành được Chúa ban phước và bảo vệ, một lực lượng của cái thiện chiến đấu với kẻ thù, thì kẻ thù ấy hẳn phải là lực lượng của cái ác. Anh đã từng tin rằng tồn tại cái gọi là chiến tranh chính nghĩa. Đã từng.
Sebastian mở mắt, thở khó và gấp, bàn tay đầy mồ hôi siết chặt. Căn phòng phủ nhung u ám không cho biết thời gian, và phải mất một lúc trước khi anh nhớ ra mình ở đâu, và tại sao. Anh không định ngủ, chỉ định nghỉ ngơi. Một cách chậm rãi, anh nhắm nghiền mắt lại rồi mở ra. Nhưng những ký ức vẫn tồn tại, đen tối, ám ảnh và không thể xóa nhòa.
Ngài Henry Lovejoy quyết định đến phố Street cùng Cảnh sát Cao cấp Edward Maitland, với một viên cảnh sát trẻ hơn tên Simplot được Maitland đề cử. Lovejoy không nghĩ rằng một người đàn ông có địa vị xã hội như Devlin lại kháng cự việc bắt giữ. Nhưng Lovejoy phải thừa nhận một nỗi sợ hãi ngầm rằng nếu không có sự xuất hiện của hai Cảnh sát, vị Tử tước có thể không coi trọng Lovejoy. Có nhiều câu chuyện về vị tử tước này, về cách hành xử bất kính, vô kỷ luật của anh ta. Lovejoy có thể tưởng tượng
một người đàn ông như vậy sẽ cười vào mặt một thẩm phán đến bắt giữ mình. Có lẽ nếu Lovejoy cao hơn một mét năm tính cả đôi bốt, ông sẽ cảm thấy tự tin hơn. Ở một mức độ nào đó, ông thầm hài lòng khi thấy rằng Simplot thậm chí còn cao hơn Maitland, và có bờ vai đủ rộng.
"Chờ chúng tôi," Lovejoy nói với người điều khiển ngựa khi họ đến tư dinh tại Mayfair của Tử tước. Căn nhà là một công trình thanh lịch với một cửa sổ lồi gọn gàng và mái cổng đẹp một cách cân đối, nhưng nó không thể so sánh với Phủ St. Cyr, một khối đá granite khổng lồ trên Quảng trường Grosvenor mà một ngày nào đó sẽ thuộc về Tử tước cùng với tước hiệu của cha mình, các bất động sản ở Cornwall, Devon và Lincolnshire, lợi nhuận trong khai thác hầm mỏ, vận tải và ngân hàng. Lovejoy nhìn chằm chằm vào mặt tiền trát vữa gọn gàng của ngôi nhà, tự hỏi nó nói lên điều gì về mối quan hệ giữa Bá tước Hendon và con trai, khi Tử tước chọn sống tại đây, trên phố Brook này, thay vì dưới rằng mái nhà nguy nga của người cha.
"Ngài Lãnh chúa sẽ thấy chỗ ở tại Newgate khác xa nơi đây," Maitland nói thầm trong lúc ông quản gia mặt nghiêm trang cúi chào đưa họ vào sảnh. "Thực sự khác xa," ông bổ sung, mái đầu vàng hoe đẹp đẽ nghểnh lên hết bên này đến bên kia khi cố ngắm đá cẩm thạch đen trắng lấp lánh được nhiều hơn, cùng một hàng tranh có khung mạ vàng dọc cầu thang xoáy mất hút khỏi tầm mắt lên tầng hai.
"Hãy tiến lên trước, ngài Cảnh sát," Lovejoy rít lên khi ông quản gia kín đáo gõ cánh cửa thư viện chờ đợi Tử tước cho phép bước vào. "Thưa ngài," ông quản gia nói. "Những người tìm gặp ngài sáng nay đã quay trở lại. Cùng một người khác."
Tử tước Devlin mặc đồ da hoẵng đứng tựa hông vào cạnh bàn, một thoáng khó chịu thoáng qua nét mặt đẹp đẽ của anh khi anh ngước lên từ xấp giấy tờ cầm trên tay. Anh cao và gầy với mái tóc đen và vầng trán cao, trên đó có một vết thương còn mới. "Vâng?" anh nói. "Có chuyện gì?"
Lovejoy chờ ông quản gia rút lui, sau đó cúi chào gọn gàng và nói, "Tôi là Ngài Henry Lovejoy, chánh thẩm tại Queen Square. Một lệnh bắt giữ ngài đã được ban, thưa Ngài. Vì vụ sát hại Rachel York."
Lovejoy không thể nói phản ứng ông chờ đợi là gì: Có lẽ là một sự trào dâng hối hận, hoặc một lời tuyên bố vô tội mãnh liệt. Ít nhất cũng có thể dự đoán được biểu hiện của việc sốc và đau buồn trước cái chết của một người phụ nữ xinh đẹp mà chắc chắn Tử tước phải ngưỡng mộ. Nhưng khuôn mặt của chàng trai trẻ vẫn bình thản, không hề lay chuyển chút nào ngoại trừ một rung động mờ nhạt của thứ cảm xúc rất giống với sự nhàm chán.
Anh đặt giấy tờ sang một bên. "Cái gì đây? Một trò đùa chăng?" "Không đùa, thưa ngài. Ngài đã bị buộc tội bởi cả bằng chứng tìm thấy tại hiện trường về cái chết của cô York và bởi lời khai của các nhân chứng."
Tử tước khoanh tay trước ngực và di chuyển trọng lượng cơ thể để có thể duỗi dài đôi chân ra trước. "Vậy sao? Thật thú vị. Bằng chứng nào? Và những nhân chứng là ai?"
Lovejoy đáp trả lại cái nhìn chằm chằm của chàng trai trẻ. Anh ta có một đôi mắt kỳ lạ, cứng rắn và vàng rực như mặt trời giữa trưa hè. Lovejoy nỗ lực giữ giọng nói của mình ổn định. "Trước hết, tôi phải hỏi ngài, liệu ngài có thể cho biết nơi chốn của mình trong khoảng thời gian giữa năm và tám giờ tối ngày hôm qua không?"
Tử tước chớp mắt. "Tôi ra ngoài."
"Ra ngoài?" Edward Maitland, quai hàm anh ta chìa ra phía trước. "Ra ngoài? Ra ngoài đi đâu?"
Tử tước lắc đầu nhìn chằm chằm, lạnh lùng vào viên cảnh sát cao cấp. "Ra ngoài... đi bộ."
Sự tức giận làm hai má Maitland tối sầm lại. Lovejoy nhận ra việc mang viên cảnh sát theo là một tính toán sai lầm. Maitland quá gây gổ và hung hăng, quá lỗ mãng và nóng nảy để ứng phó tốt với một người đàn ông ở địa vị của Devlin. Lovejoy nhìn cấp dưới một cách cảnh cáo và khẽ nói, "Bình tĩnh đi, anh Cảnh sát." Với Devlin, ông nói, "Có ai có thể xác minh chuyện này không, thưa ngài?"
Tử tước đưa mắt nhìn lại Lovejoy. Đôi mắt ấy thực sự không có tính người. Hoang dã và thú tính, giống như ánh nhìn phóng ra từ trong bóng tối của hang sói. "Không."
Lovejoy thoáng cảm thấy thất vọng. Sẽ đơn giản làm sao nếu Tử tước ăn uống với bạn bè, hoặc có mặt tại một trận đấm bốc trong những giờ phút chết người đó. "Vậy tôi e mình phải yêu cầu ngài đi cùng chúng tôi đến Queen Square, thưa ngài."
Đôi mắt vàng bối rối nhíu lại. "Tôi tự hỏi liệu tôi có được phép sai một người hầu đi lấy áo choàng ngoài và đồ dùng chuẩn bị cho thời tiết xấu này? Tôi biết lúc này trời sẽ khá lạnh ở" - anh quay người nhìn Edward Maitland một cách vô vị, mỉa mai - "Newgate, anh nói vậy đúng không?"
Lovejoy cảm thấy một cơn rùng mình đột ngột chạy dọc sống lưng. Không thể nào có chuyện Tử tước nghe thấy lời nói thầm của viên cảnh sát tại sảnh trước đó. Điều đó là không thể. Vậy mà... Lovejoy nhớ đến những
lời đồn, những câu chuyện gần như huyền thoại mà ông luôn luôn bác bỏ, về thị lực và thính lực sắc bén đến khó chịu, về phản xạ chết người và khả năng nhìn trong bóng tối như mèo của chàng trai trẻ này. Những khả năng vô giá anh đã trui rèn đem lại hiệu quả chết người đối với bọn Pháp ở Bán đảo trước khi anh trở về nhà vì những lý do bị lấp liếm sau các tin đồn và lời bóng gió.
"Tất nhiên, ngài có thể chuẩn bị để chống lại giá rét với bất cứ y phục nào ngài muốn," Lovejoy vội nói.
Một ngọn lửa thú vị bất ngờ bùng lên, rôi lại mất đi, trong đôi mắt vàng khủng khiếp. "Xin cảm ơn," Tử tước Devlin nói. Và lần thứ hai trong ngày hôm đó, Ngài Henry Lovejoy trải qua ấn tượng khó hiểu rằng, bên dưới bề mặt, mọi thứ không giống với những gì nhìn thấy.
CHƯƠNG 7
N
ửa giờ sau, Sebastian dừng lại ở bậc thang, một tay tựa nhẹ trên lan can. Nhiệt độ giảm nhanh chóng khi buổi tối ập đến, sương mù mỏng dần thành một làn hơi bẩn thỉu ôm lấy vỉa hè và cuộn tròn quanh những cột đèn chưa được thắp sáng. Anh hít một hơi không khí lạnh lẽo, chát chúa sâu vào phổi và từ từ thở ra.
Anh không quá lo lắng. Mối quen biết giữa Rachel York và anh chỉ ở mức xã giao và hoàn toàn thuần khiết. Bằng chứng có thể kết tội anh trong cái chết của cô chắc chắn sẽ nhanh chóng mất giá trị - ngay cả khi anh không có ý định nói với bất kỳ ai chính xác mình đã đi đâu trong khoảng thời gian giữa năm và tám giờ buổi tối trước đó.
Vậy mà khi bước xuống bậc thềm, Sebastian cảm thấy cảnh giác cao độ một cách kỳ lạ, như cảm giác nhói lên của một điềm báo. Anh tỉnh táo nhận thức được những bước đi chậm chạp, vụng về của viên cảnh sát trẻ to lớn phía sau mình và giọng nói the thé, phô trương của thẩm phán Lovejoy khi ông ngập ngừng bên cánh cửa xe ngựa đang mở sẵn và nói gì đó với xà ích.
Chiếc xe ngựa này là một chiếc xe bốn bánh cổ lỗ sĩ với mái tròn thấp, dây đai da bị chảy xệ và có mùi mốc meo ôi thiu. Viên cảnh sát tên Maitland đột nhiên quay ngoắt lại nắm chặt tay Sebastian và tiến lại gần. "Tôi dám khẳng định đây là một bước lùi so với phương tiện di chuyển thường ngày của ngài," Maitland nói, môi anh ta nở một nụ cười, mắt anh ta cứng rắn. "Phải không?" Nụ cười của anh ta mở đủ rộng để cho thấy
hàm răng nghiến chặt, những ngón tay của anh ta bấm mạnh hơn hơn. "Thưa chúa công."
Sebastian đáp trả ánh mắt màu xanh đầy thách thức của viên cảnh sát với một nụ cười kín đáo. "Ngài sẽ làm nhăn áo của tôi mất," anh nói, một tay đặt lên cổ tay viên cảnh sát. Đó là một thủ thuật đơn giản anh đã học được tại miền núi Bồ Đào Nha, một thủ thuật gây áp lực chính xác vào thời điểm thích hợp. Viên cảnh sát hít một hơi đau đớn, bàn tay buông chiếc áo ra khi anh ta lùi lại một bước thiếu thận trọng.
Sương mù hôi thối trong nhiều ngày đã khiến những bậc đá trơn trượt do sự kết hợp của muội than và băng ngưng tụ. Một chân trật ra khỏi rìa bậc đầu tiên, viên cảnh sát quay tròn, lưng đập vào lan can sắt trong lúc lúng túng tự gượng lại nhưng bị trượt, và ngã quỳ xuống bậc thứ hai. Chiếc mũ chóp cao rơi xuống bên cạnh.
Viên cảnh sát đã cho thấy phong thái lịch sự với những lọn tóc vàng rối điệu đàng, cổ áo cao và chiếc cà vạt thắt kiểu cách. Đội chiếc mũ lên đầu, anh ta từ từ đứng thẳng dậy với một đường rách bẩn thỉu chạy dọc bên ống quần chẽn màu da bò đắt tiền.
"Tên khốn này." Hàm Maitland cứng lại, lỗ mũi nổ ra. Nhưng bàn tay anh ta mới là thứ Sebastian đang chú ý. Cảnh sát London thường không mang dao theo người, nhưng một số kẻ hung hăng thì có. Con dao của Maitland là một món đồ nhỏ độc địa với lưỡi mài sáng loáng ngay cả trong ánh sáng mờ nhạt của buổi chiều ảm đạm. Viên cảnh sát mỉm cười. "Làm lại một lần nữa thì ngươi sẽ không sống đủ lâu để bị treo cổ đâu. Thưa Ngài."
Tất cả chỉ để hăm doạ và phô diễn; Sebastian biết điều đó. Nhưng viên cảnh sát trẻ hơn - với khuôn mặt rộng cởi mở, thân hình to như bò đực -
liếc nhìn lo lắng về phía con phố, chỗ Lovejoy đứng quay người lại với một chân trên bước lên xe ngựa. "Chúa ơi, Maitland. Cất nó đi trước khi Ngài Henry nhìn thấy."
Anh lảo đảo bước về phía trước, có lẽ định che con dao khỏi tầm mắt của thẩm phán. Nhưng anh thì to lớn và vụng về, đá granite ướt thì phản trắc. Chân anh ta trượt đi. Với một tiếng kêu hoảng hốt, anh ngã về phía trước, thẳng vào lưỡi dao của Maitland.
Sebastian quan sát đôi mắt của người thanh niên mở rộng đầy ngạc nhiên, khuôn mặt anh ta yếu ớt.
"Chúa ơi." Maitland buông chuôi dao, nét mặt xoắn lại vì khiếp đảm. Viên cảnh sát trẻ lảo đảo, ánh mắt nhìn con dao vẫn còn nhô ra trên ngực. Một dòng máu nhỏ tràn ra từ miệng. "Ngài đã giết tôi rồi," anh thì thầm, ánh mắt hướng lên Maitland, đôi chân khuỵu xuống. Sebastian đỡ lấy anh lúc anh ngã xuống. Máu đổ trên tay Sebastian, xuống phía trước chiếc áo choàng ngoài của anh. Đặt viên cảnh sát thở hổn hển xuống lối đi bộ, Sebastian xé cà vạt của mình, ép nó vào vết thương sủi đang bong bóng trong lồng ngực. Miếng vải lanh mịn chuyển sang màu đỏ và ướt sũng trên tay anh.
"Chúa lòng lành," Maitland thì thầm, lảo đảo bước xuống bậc cuối cùng, mặt tái mét.
"Hãy tìm bác sĩ. Nhanh lên," Sebastian ngắt lời.
Maitland đứng nắm chặt lan can để giữ thăng bằng, đôi mắt mở to và nhìn chằm chằm.
"Chết tiệt. Ngài Henry, ngài có thể…"
Sebastian xoay đầu gối và thấy Lovejoy đứng trên bước xe ngựa, khuôn mặt nhỏ của ông nhúm lại vì sốc. "Lạy chúa," viên thẩm phán nói. "Ngài đã làm gì?"
"Tôi đã làm gì?" Sebastian nói.
Vẫn nắm lấy lan can, ánh mắt mở to của Cảnh sát Maitland nhướng lên từ Simplot sang thẩm phán. "Hắn đâm cậu ta," Maitland đột nhiên hét lên. "Hắn đâm Simplot!"
Sebastian nhìn chằm chằm vào người đàn ông trong vòng tay mình. Một cơn mưa sương giá bắt đầu đổ xuống, phủ ánh lấp lánh tăm tối lên những viên đá ốp lát và làm ướt khuôn mặt xám xịt của người đàn ông đang hấp hối. Sebastian đã chứng kiến nhiều cái chết, từ Ý và Tây Ấn, đến Bồ Đào Nha, để nhận ra những dấu hiệu. Anh ta sẽ chết, và Sebastian sẽ bị buộc tội vì cái chết này, cũng giống như cách anh đã và đang bị buộc tội vì cái chết của một nữ diễn viên West End anh gần như không quen biết.
Anh coi đó là một sự hiểu lầm, một sự bất tiện có thể được xử lý đơn giản. Giờ không còn đơn giản nữa, anh nghĩ. Nới lỏng vòng tay dưới vai của viên cảnh sát, Sebastian đứng dậy.
Phố Brook, lúc trước vắng tanh, giờ vang tiếng những bước chân nặng nề tiến lại gần khi hai Tình nguyện viên Hội Luật sư22*, mang cổ áo đỏ và vàng, gilê trắng, quần ống chẽn và ghệt đen, xuất hiện từ phố Davies. "Các người," Ngài Henry Lovejoy hét lên từ cánh cửa mở của xe ngựa, một cánh tay run run chỉ thẳng, đầy nguyền rủa, vào Sebastian. "Hãy bắt người đàn ông đó. Cảnh sát Maitland. Tỉnh táo lại đi."
*Hội Luật sư (Inns of Court) là các hiệp hội nghề nghiệp của luật sư bào chữa tại Anh và xứ Wales. Tất cả các luật sư bào chữa phải thuộc về
một hiệp hội.
Lắc đầu như thể để tỉnh lại, Maitland, vội vàng một cách vụng về, phóng ra khỏi lan can. Sebastian chặn y lại với một cú đấm móc vào dưới cằm khiến y quay cuồng va ngã sầm trở lại vào bức tường trát vữa.
Mưa giờ trở nên nặng hạt. Ai đó hét lên. Những bước chân biến thành những bước chạy. Sebastian quay người. Tính toán khoảng cách đến xe ngựa, anh nhảy lên, hạ cánh bên cạnh xà ích đang hoảng hốt với một lực mạnh đủ khiến chiếc xe ngựa cũ đung đưa trên dây đai.
"Này, này!" Xà ích hét lên, đôi mắt đỏ ngầu của ông ta mở rộng trên khuôn mặt xương xẩu mọc đầy râu xám. "Ngài không được phép lên đây với tôi."
"Vậy ta đề nghị ngươi xuống." Nắm lấy dây cương, Sebastian giành roi da khỏi cái nắm lỏng của ông ta và giật dây da qua tai ngựa. Chiếc xe cổ lỗ sĩ giật về phía trước.
"Quỷ tha ma bắt," người đánh xe ngựa thở hổn hển, và nhảy xuống lối đi bộ.
Sebastian liếc nhanh về phía sau. Những Tình nguyện viên Hội Luật sư đã dừng lại quỳ xuống bên cạnh viên cảnh sát bị thương. Tuy nhiên Maitland đang chạy theo hướng xe ngựa, tay chân lắc lên xuống, khuôn mặt xoắn lại bởi sự quyết tâm. "Dừng chiếc xe đó lại! Người đàn ông đó là một kẻ giết người."
"Chết tiệt," Sebastian nói, và quất dây cương mạnh vào sườn ngựa. Không nhìn ngã rẽ, anh lao vào phố New Bond, cắt giữa một toa xe chở hàng bánh rộng và một xe ngựa hai bánh cao của một người đàn ông to béo
mặc áo khoác màu vàng. Người đàn ông áo vàng giật dây cương, con ngựa màu hạt dẻ chồm lên.
"Ngươi!" Sebastian nghe thấy Maitland hét lên. Quay đầu lại, Sebastian thấy viên cảnh sát nhảy lên ghế cao xe ngựa. "Hãy đưa ta dây cương." "Được, được," Áo Choàng Vàng kêu be be.
"Xuống xe," Maitland gầm gừ, kiểm soát con ngựa đang thở mạnh và đẩy Áo choàng Vàng khỏi bục.
Phía trước là một đám đông xe cộ làm tắc nghẽn đường phố. Sebastian thu dây cương, đôi mắt nheo lại trước cơn mưa như trút nước để đánh giá khoảng cách giữa xe ngựa bốn bánh mui trần của một nữ bá tước và xe lừa thồ hàng di chuyển từ tốn, chậm chạp trên đường. "Lãnh chúa!" Ngài Henry Lovejoy hét lên, mái đầu ướt mưa và nửa thân trên của ông nhô ra từ cửa sổ xe ngựa, nắm tay đập mạnh vào tấm ván cũ kĩ. "Nhân danh nhà vua, tôi yêu cầu ngài dừng xe ngay lập tức."
Khốn kiếp, Sebastian nghĩ. Anh quên mất vị thẩm phán. "Rụt đầu vào," anh hét lên, không buồn liếc Ngài Henry một cái.
"Tôi nói, tôi yêu cầu ngài…" Ngài Henry ngừng lại, đôi mắt mở to khi Sebastian quành qua một cỗ xe ngựa bốn bánh mui trần, kẹp gần đến nỗi một trong những chiếc đèn lủng lẳng của chiếc xe mắc vào vành mũ của thẩm phán.
"Chúa lòng lành," vị thẩm phán nói, rụt cái đầu hói của mình trở lại bên trong xe ngựa.
Kéo mạnh dây cương, Sebastian lật nghiêng xe ngựa trong lúc ngoặt trái đột ngột vào phố Maddox. Đằng sau họ, con lừa kêu be be và đá chân, lật
úp giỏ hàng làm đổ ra một đống gà lông xù kêu quang quác trên vỉa hè ẩm ướt.
"Bỏ con lừa khốn kiếp đó ra khỏi đường của ta!" Maitland hét, chiếc xe ngựa hai bánh đứng yên, con ngựa màu hạt dẻ thở mạnh và lắc đầu trong lúc viên cảnh sát quất mạnh dây cương.
Những con ngựa đã phi hết sức. Sebastian để chúng chạy tự do, xới tung phố Maddox qua cột đá trang nghiêm của Nhà Thờ Thánh George. Một tiếng chuông nhà thờ nhẹ nhàng cắt qua không khí buổi tối mát mẻ. Những quý bà quý cô thời thượng mặc váy áo đủ màu và những quý ông cầm ô che đi lại rải rác trước chiếc xe đang chạy.
"Dừng xe lại," Lovejoy một lần nữa hét lên, đập nắm tay của mình trong lúc Sebastian ngoặt quanh phía sau nhà thờ vào phố Mill Street, "Nhân danh Nhà vua!"
Sebastian liếc nhanh phía sau, nhưng đường phố vắng tanh trừ một người đốt đèn và đứa con trai. Sebastian quay người lại khi những con ngựa lao vào phố Conduit rộng rãi được mưa rửa sạch và một chiếc xe ngựa lớn màu đen của một thiếu phụ đang vật lộn tìm cách kiểm soát ngựa, chồm lên trước họ.
Anh siết mạnh dây cương, giật ngựa quay ngang. Những con ngựa nhào xuống, khịt mũi, móng toé lửa trên lề đường. Các khớp nối chiếc xe ngựa cũ rít lên. Gỗ gãy vụn. Thân xe đâm vào vỉa hè, toa chở khách lệch sang một bên.
"Devlin," Ngài Henry hét lên, vật lộn tìm cách mở cửa xe ngựa. "Chết tiệt," Sebastian thì thầm. Mưa ào ào đổ xuống mặt anh; anh nhận ra mũ của mình đã biết mất từ lúc nào. Trườn ra khỏi toa xe, anh trượt trên các khối đá lát ướt và tránh mã phu của người thiếu phụ trong lúc anh ta vật lộn tìm
cách xuống ngựa để tóm lấy dây cương con ngựa đen đang hí vang của cô chủ.
Lịch sự và kiên nhẫn, ngựa của mã phu đứng yên, cái đầu xám to lớn cúi xuống dây cương thả lỏng trong rãnh nước xoáy. Giật lấy sợi dây da ướt, Sebastian nhảy phốc lên yên ngựa.
"Này! Tên kia! Dừng lại," Mã phu mặt trắng bệch quay ngoắt lại, hai tay vướng con ngựa vẫn còn bất kham của cô chủ. "Dừng lại! Tên trộm ngựa!" Sebastian thúc con ngựa màu xám phi nước đại vào con đường tối sầm vì mưa, về phía Covent Garden và thế giới ngầm bên ngoài St. Giles.
CHƯƠNG 8
C
harles, Lãnh chúa Jarvis không thể nhớ chính xác mình nhận thức được mức độ ngu xuẩn đáng kinh ngạc đặc trưng của hầu hết mọi người xung quanh mình từ khi nào. Ông cho là mình dần nhận ra điều đó theo năm tháng khi quan sát hành vi và quá trình suy nghĩ của những người hầu gái, giữ ngựa, luật sư, bác sĩ và những điền chủ nông thôn chiếm đa số trong thế giới tuổi thơ của mình. Nhưng Jarvis biết chính xác thời điểm ông hiểu được sức mạnh từ trí tuệ của bản thân và quyền lực nó mang lại.
Lúc đó ông mười tuổi và đang phải chịu đựng một trong số những gia sư mà mẹ ông khăng khăng thuê dạy đứa con trai duy nhất và cũng là người thừa kế của ông chồng quá cố, thay vì đặt sức khỏe yếu ớt của ông (và địa vị là mẹ người thừa kế của bà) vào sự khắc nghiệt chết người của trường Eton. Thầy Hammer tự coi mình là một học giả tương đối có tiếng tăm. Chỉ những nhu cầu tầm thường khiến thầy Hammer mới chấp nhận đảm nhiệm một vị trí tầm thường như làm gia sư cho một cậu bé, và thầy không từ một cơ hội nào để khiến cậu học trò hiểu được mức độ ngu dốt và bất tài của cậu. Và rồi một ngày thầy đặt ra cho Jarvis một bài tập tưởng như là bất khả thi: Một đề toán mà chính Hammer, đã tốt nghiệp Oxford, phải mất một tháng để giải. Jarvis giải bài toán trong hai giờ.
Thành công của Jarvis khiến gia sư của cậu giận dữ đến nỗi ông ta kiếm cớ trừng phạt cậu bé bằng một trận đòn tơi bời. Nhưng điều ấy cũng đáng, bởi vào thời điểm chiến thắng ngọt ngào đó, Jarvis đã ngộ ra. Ông hiểu rằng hầu hết mọi người, ngay cả những người có địa vị và học thức, đều có đầu óc đần độn và què quặt. Khả năng suy nghĩ thông suốt và nhanh chóng,
phân tích và phân biệt mẫu hình, cùng khả năng đưa ra các chiến lược và các giải pháp phức tạp của ông không chỉ hiếm có. Nó còn là một công cụ đầy quyền lực.
Ban đầu ông đã mong ở London sẽ khác. Nhưng chẳng mấy chốc Jarvis hiểu rằng về cơ bản thì mức độ ngu xuẩn và thiểu năng của chính phủ và tầng lớp thượng lưu cũng tương đương với một bầy chó săn ở Middlesex.
Lãnh chúa Frederick Fairchild, người Jarvis hiện đang phải xử lý, là một điển hình. Ông ta là con trai của một Công tước, nhưng chỉ là con trai thứ, điều đó đồng nghĩa với việc phải tự thân vận động. Ông ta đã tương đối thành công, nếu xét theo tiêu chuẩn xã hội, mặc dù sự ủng hộ cứng đầu với các nguyên tắc đảng Tự do đã hạn chế ông ta tiếp cận với quyền lực dưới thời Vua George III. Giờ đây, khi Hoàng tử xứ Wales sắp trở thành Hoàng thân Nhiếp chính, Lãnh chúa Frederick mong rằng những năm tháng ủng hộ trung thành của ông với Prinny cuối cùng cũng sẽ được đền đáp. Ông đến văn phòng Hoàng tử dành riêng cho Jarvis sử dụng tại Dinh thự Carlton, công khai sục sạo tìm hiểu xem vị trí nào sẽ dành cho mình. Khát vọng trở thành Thủ tướng của ông ta là một bí mật mà cả London đều biết.
"Đại diện của Thượng viện và Hạ viện sẽ có một cuộc họp vào thứ ba tới," Lãnh chúa Frederick nói, đôi mắt xám ôn hòa của ông ta mở to đầy cảnh giác. "Nếu đạt được một thỏa thuận, tôi thấy không có lý do gì lễ nhậm chức Hoàng thân Nhiếp chính của Hoàng tử không thể diễn ra vào ngày mùng sáu." Ông dừng lại và nhìn Jarvis chờ đợi.
Mặc dù ở tuổi ngũ tuần, Lãnh chúa Frederick vẫn được coi là đẹp trai: cao lớn, vai rộng, eo nhỏ và có mái tóc ánh bạc dày lượn sóng đáng ghen tị. Đã góa vợ, ông ta khá đào hoa. Luôn thấy ông hộ tống một mệnh phụ đi ăn tối, hoặc tình tứ lật từng trang nhạc khi nàng chơi đàn. Sự lịch thiệp và các
kỹ năng xã giao khiến ông luôn được mời dự tiệc tại những biệt thự nghỉ mát vùng nông thôn và những cuộc vui quay cuồng của Mùa Lễ hội London23*. Nhưng Lãnh chúa Frederick có những thói quen đắt đỏ - đến mức nguy hiểm, khiến giọng ông có một chút cấp bách khi ông hắng giọng hỏi xã giao: "Hoàng tử đã quyết định về việc bổ nhiệm thành viên của chính phủ mới sắp thành lập chưa?"
*Mùa Lễ hội London (London Season) là một quãng thời gian trong năm khi các thành viên tầng lớp quý tộc tổ chức các buổi dạ hội, yến tiệc và các sự kiện từ thiện lớn.
Câu hỏi thật tế nhị. Mọi người đều biết Hoàng tử xứ Wales đã tự đưa ra một vài quyết định bên cạnh các vấn đề bức thiết như màu rèm lụa mới cho phòng khách hay chọn kiến trúc sư thực hiện dự án cải tạo mới nhất. Vẫn đứng gần cửa sổ, Jarvis chỉ mỉm cười. "Không. Vẫn chưa."
Một cơn co giật đầy thất vọng xuất hiện mặt Lãnh chúa Frederick nhưng nhanh chóng được che đậy. Hôm nay ông ta căng thẳng bất thường. Ông ta thậm chí còn nhảy lên khi một trong những thư ký của Jarvis gõ nhẹ vào cửa và nói: "Ngài Henry Lovejoy đến gặp ngài, thưa Ngài. Ông ấy nói có việc khẩn."
"Đưa ông ta vào," Jarvis nói, nhận thức rõ sự hiện diện Lãnh chúa Frederick. Thật thú vị khi tìm hiểu xem ông ta đã nghe nói về cái chết của Rachel York hay chưa. Thú vị thực sự. "Sao, có chuyện gì?", Jarvis hỏi, giọng nói thiếu kiên nhẫn có chủ đích khi viên thẩm phán xuất hiện.
Ngài Henry đưa một cái nhìn dò hỏi về phía Lãnh chúa Frederick và do dự.
"Ngài có thể nói thẳng," Jarvis nói, phất tay về hướng Lãnh chúa Frederick. "Tôi cho rằng chuyện này liên quan đến Lãnh chúa Devlin?" "Vâng, thưa ngài." Viên thẩm phán dừng lại một lần nữa, và có gì đó trong phong thái của ông ta nói với Jarvis rằng ông sẽ không thích điều sắp được nghe. "Anh ta đã trốn thoát."
Jarvis không bao giờ cho phép mình mất bình tĩnh, mặc dù thỉnh thoảng ông bày tỏ sự tức giận để tạo hiệu ứng, gây sợ hãi và thúc đẩy mọi người quyết tâm làm hài lòng mình. Giờ ông để vài nhịp tim trôi qua đầy toan tính, sau đó cất lời, với một tông giọng băng giá pha lẫn ngờ vực và phẫn nộ chính đáng, "Trốn thoát, Ngài Henry? Ngài nói là trốn thoát?"
"Vâng, thưa ngài. Anh ta đâm một trong số cảnh sát của tôi và lấy cắp một chiếc xe ngựa, sau đó…"
Jarvis ép ngón cái và ngón trỏ vào sống mũi và trong giây lát vào nhắm mắt lại. "Không cần kể chi tiết." Jarvis thở dài, và thả tay xuống. "Tôi tin rằng ngài đã phát hiện ra điểm đến của Devlin?"
Má người đàn ông nhỏ bé hơi ửng đỏ. Cách tốt nhất để khiến cho một người cảm thấy bất tài là biểu lộ một gợi ý tinh tế của sự bất tài. "Chưa, thưa ngài."
Từ chỗ ngồi của mình ở gần lò sưởi, Lãnh chúa Frederick đứng dậy nhìn chằm chằm vào họ. "Tôi cho là ngài đang cố gắng bắt giữ con trai của Bá tước Hendon? Vì tội danh gì?"
"Giết người," Jarvis ôn tồn nói.
"Giết người? Chúa lòng lành. Nhưng… Tôi nghĩ vết thương của Talbot đáng xấu hổ hơn là đe dọa đến tính mạng. Anh ta thực sự đã chết à?"
Ngài Henry là người trả lời, cùng với một động tác cúi nhẹ. "Theo như tôi biết, vụ việc liên quan đến danh dự của Lãnh chúa Devlin không gây tử vong. Tuy nhiên, anh ta đã bị buộc tội liên quan đến cái chết của một phụ nữ trẻ mà thi thể được phát hiện sáng nay tại Nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields, gần Abbey. Một nữ diễn viên tên là Rachel York."
Jarvis nhìn hàm Lãnh chúa Frederick buông thõng xuống. Ông ta thường duy trì sự điềm tĩnh của mình tốt hơn thế này. "Ngài bắt Tử tước Devlin vì tội giết Rachel?"
Ngài Henry chớp mắt. "Ngài biết cô ấy, thưa ngài?"
"Tôi không cho là mình thực sự biết cô ấy. Ý tôi là, tất nhiên tôi đã nhìn thấy cô ấy tại Covent Garden. Và tất nhiên tôi cũng đã nghe nói cô ta bị giết. Nhưng tôi không biết rằng Devlin…" Lấy một chiếc khăn tay từ túi ra, Lãnh chúa Frederick ép miếng vải lanh mỏng manh lên môi. "Xin thứ lỗi," ông ta nói và nhanh chóng ra khỏi phòng.
Ánh mắt Ngài Henry dõi theo Lãnh chúa Frederick rút lui với một cái cau mày nhẹ khiến nếp nhăn giữa hai con mắt hằn sâu thêm. "Tôi muốn tất cả những người hiện có được giao nhiệm vụ bắt giữ Devlin," Jarvis nói, lấy lại sự chú ý của thẩm phán.
Ngài Henry cúi đầu. "Vâng, thưa Ngài." "Ngài đã theo dõi các cảng rồi chứ?"
Một cái cúi đầu nữa. "Vâng, thưa Ngài. Mặc dù giờ đây chưa chắc Tử tước sẽ được chào đón tại Lục địa."
"Vẫn còn châu Mỹ."
"Vâng, thưa ngài."
Người đàn ông nhỏ bé đã bắt đầu khiến ông phát chán. Jarvis lấy hộp thuốc lá. "Tôi tin mình sẽ nhận được một báo cáo khả quan hơn về vấn đề này vào buổi sáng."
"Hãy hy vọng, thưa Ngài," Ngài Henry Lovejoy nói, và cúi mình bước ra.
Tuy nhiên, sau khi ông rời đi, Jarvis đứng một lúc bên ô cửa sổ mưa lộp độp, hộp đựng thuốc lá lãng quên trên tay khi ông nhìn chằm chằm vào bóng tối. Sương mù cuối cùng đã tan để từ đây ông có thể nhìn thấy Mall, với mặt đường ẩm ướt tỏa sáng trong ánh vàng nhấp nháy của đèn đường và đèn lồng của những chiếc xe ngựa chạy qua.
Trước đó, ông không quan tâm liệu Devlin có chịu trách nhiệm cho cái chết của nữ diễn viên đó hay không. Giờ ông vẫn không quan tâm. Quan trọng là cuộc điều tra chính thức vụ sát hại Rachel York được kết thúc càng nhanh càng tốt và tai tiếng của vị Tử tước trẻ sẽ ngăn chặn mọi tổn hại đến chính phủ vào thời điểm quan trọng này. Nếu cần thiết, Bá tước Hendon, cha của Tử tước, có thể được bãi nhiệm khỏi chính phủ.
Đúng ra, càng nghĩ về nó, Jarvis càng thấy nhiều điều tốt lành có thể đến từ rắc rối này. Dù lòng trung thành của Hendon với đảng Bảo thủ khiến Jarvis thấy ông ta còn dễ chịu hơn những kẻ như Fairchild, nhưng trên thực tế Hendon chưa bao giờ là ủng hộ Jarvis. Tên ngốc già nua đó thực sự tin rằng chính trị có quy tắc giống như tinh thần thể thao công bằng của một trận đấu cricket24*trên sân trường Eton. Nếu Jarvis có thể loại bỏ Hendon, việc quản lý Hoàng tử sẽ dễ dàng hơn nhiều.
*Cricket (cũng gọi: bản cầu; mộc cầu; tường cầu) là một môn thể thao dùng gậy đánh bóng, phổ biến tại nhiều quốc gia trong cộng đồng khối
Thịnh vượng chung Anh, chơi giữa hai đội, mỗi đội 11 đấu thủ, trên sân cỏ hình tròn. Mục đích của trận đấu là hai đội thay phiên nhau, một đội giao bóng và một đội đánh bóng. Sau khi tất cả các đấu thủ của đội đánh bóng bị loại, đội này sẽ đổi sang ném banh, và đội bên kia sẽ vào sân để thành đội đánh.
Bên cạnh đó, vụ kháng cự việc bắt giữ và vụ tấn công một sĩ quan hành pháp của Devlin cho thấy chắc chắn là anh ta phải có tội ở một mức độ nào đó. Anh ta phải bị bắt thật nhanh. Hoặc bị giết. Jarvis búng mở hộp đựng thuốc lá, nâng một nhúm lên lỗ mũi và hít thật sâu. Đúng vậy, ông nghĩ rằng nếu Devlin bị giết thì sẽ tốt hơn.
CHƯƠNG 9
N
hững âm thanh bám đuổi đã nhạt dần vào khoảng không từ lâu. Sebastian kìm con ngựa xám phi nước kiệu. Bóng tối ập xuống nhanh chóng, mưa chỉ còn là một làn sương mù mịt khi gió thổi lên. Kéo cao cổ áo choàng ngoài chống lại cái lạnh và ẩm ướt, Sebastian dành thời gian để tiếc chiếc mũ bị mất và tính những bước đi tiếp theo.
Dù ở đây, cách xa những khu phố Mayfair thượng lưu, những cái đầu vẫn ngoái lại, những ngón tay vẫn chỉ trỏ mỗi khi anh đi qua. Sebastian biết rõ là do chiếc cà vạt bị mất, đôi ủng lấm bùn, những vết máu trên áo choàng và đôi găng tay của mình. Anh quyết định điều cần thiết nhất là phải đến khu vực mà vẻ ngoài tả tơi của anh ít bị để ý hơn. Trong những hang cùng ngõ hẻm phía sau Covent Garden hay St. Giles, sẽ không ai đoái hoài đến một người đàn ông không đội mũ với chiếc áo choàng rách và găng tay dính máu.
Bên dưới vạt áo choàng, Sebastian cảm nhận được trọng lượng của túi tiền chợt thấy biết ơn sự lo xa đã khiến anh nhét ví vào trong túi trước khi rời khỏi nhà. Anh quyết định sẽ tìm một nhà trọ; một nơi khiêm tốn, nhưng ấm áp và khô ráo. Và sau đó anh sẽ bắt đầu liên hệ với những người có thể… Sebastian ngẩng đầu lên, chú ý đến một âm thanh văng vẳng, hầu như không thể nhận thấy sau tiếng ồn ào của bánh xe gỗ lách cách trên đường mòn và tiếng mưa rơi tí tách.
Anh đang ở trong một khu phố nghèo, với những con đường hẹp, những ngôi nhà cũ kỹ và những cửa hàng nhỏ có cửa sổ bẩn thỉu được chắn bằng
song sắt. Không có xe ngựa sang trọng ở đây, chỉ có những toa xe goòng nặng nề và xe chó25* vòng vèo qua một đám đông những nông dân chất phác, thợ đóng thùng và thợ rèn, thợ giặt và thợ làm bánh, giọng họ vang vang điệp khúc ‘Bánh nướng đây. Bánh nướng nóng hổi hiếm có đây’. Nhưng giờ anh có thể nghe thấy khá rõ ràng: tiếng vó ngựa ầm ầm đều đặn đang phi nhanh tới đây và giọng một thằng bé hét lên. "Nếu ngài tìm thằng cha kỳ quặc cưỡi ngựa xám, hắn ta đi lối đó!"
*Xe hai bánh có chỗ ngồi giáp lưng vào nhau, dưới chỗ ngồi phía sau có chỗ cho chó.
"Quỷ tha ma bắt," Sebastian thì thầm, và thúc con ngựa trộm được phóng vào màn đêm.
Anh bỏ con ngựa xám trong một cái chuồng ấm áp ở ngoài khu vực St. Giles. St. Giles là một quận khét tiếng, cảnh sát truy đuổi tội phạm vào đây thường biến mất luôn. Chính quyền London cũng phải tránh nơi này.
Nhà trọ Hươu Đen nằm ở cuối một ngõ nhỏ tồi tàn có tên Pudding Row, trong một khu phố quanh co có những tòa nhà ọp ẹp từ thời trung cổ dựa vào nhau mới đứng vững, tầng trên của chúng nhô ra đoạn đường không lát đá hôi hám vì những cái cống lộ thiên. Nhà trọ là một di tích thấp tè có khung gỗ, cửa sổ phía trước lợp chì chỉ để lọt ra một chút ánh sáng mờ nhạt toả vào đêm. Sebastian dừng lại trước bóng tối của ô cửa, quay đầu nghe ngóng.
Mưa đã ngừng, nhưng khi đêm xuống, nhiệt độ giảm mạnh, khiến hầu hết cư dân London hối hả vào nhà. Anh có thể nghe thấy tiếng rít từ xa của bánh xe viền sắt và sự đơn điệu buồn tẻ của một hồi chuông nhà thờ báo ai đó đã chết, và không gì hơn nữa. Đẩy cửa mở ra, anh bước vào trong.
Một hỗn hợp nặng mùi của bia và thuốc lá, của khói than cay mắt, dầu mỡ nóng và mồ hôi ôi thiu ập lấy anh. Phòng sinh hoạt chung tối om om, những cây nến máng xối chỉ toả ra một ánh sáng mờ chập chờn trên bức tường và trần nhà thấp được đỡ bằng dầm đen cáu lại vì thời gian. Những người đàn ông mặc áo vải bông và quần nhung kẻ đứng tựa khuỷu tay lên quầy hoặc lười nhác dựa vào những cái bàn cái ghế sứt sẹo. Họ ngước lên khi Sebastian bước vào, tiếng ồn ào trò chuyện và cười đùa lắng xuống, đôi mắt hõm sâu của họ nghi ngờ, cảnh giác. Anh là một người lạ ở đây, và những người lạ thường không được chào đón ở những nơi này.
Rẽ đám đông để tiến đến quầy, anh mua một vại bia và gọi bữa tối. Bánh mì như đá phấn trộn với phèn chua, thịt bò ôi thiu và toàn xương, nhưng khó tìm được cái gì tốt hơn trong quận này và anh chưa ăn gì từ bữa sáng cùng Christopher trong một quán ăn không xa Heath.
Lò sưởi ở đầu kia của căn phòng. Sebastian tiến về phía đó với vại bia trong tay. Dòng xoáy tiếng ồn lại tiếp tục, dù anh biết những đôi mắt ác cảm vẫn dõi theo mình trong không khí cảnh giác căng thẳng. Những cái bóng lén lút di chuyển trên tường khi hai, ba người đàn ông lặng lẽ ra khỏi phòng.
Sebastian đang băng qua sàn phủ đầy mùn cưa, loanh quanh tìm lối đi giữa những cơ thể chưa tắm lèn chặt, thì một thằng bé chừng tám đến mười tuổi chạm nhẹ vào anh.
"Khéo tay đấy cậu bé," Sebastian nói, giọng vui vẻ đầy nguy hiểm khi anh khéo léo lấy lại chiếc ví của mình từ tay của thằng bé. Chiến lợi phẩm bất ngờ vụt mất khiến tên trộm ranh chần chừ còn Sebastian, sau khi thả ví vào túi áo trong, liền tóm lấy cổ áo thằng bé và lôi
nó đến chỗ mình, mà vẫn không cần đặt vại bia xuống hay làm đổ một giọt nào. "Nhưng ta e là không lành nghề lắm."
Mọi con mắt trong phòng đều đổ dồn vào họ và Sebastian biết vậy. Nhưng bầu không khí giống như thận trọng hơn là thù địch. Một ông bõ già ở Covent Garden, dáng to lớn, nặng nề với ba cằm và cái áo gi-lê ố màu, đứng lên từ một cái bàn gần đó và quệt bàn tay mập ú qua đôi môi ướt. "Tên đó thuộc giáo phái tái thanh tẩy26*." Tiếng cười tràn ngập căn phòng, vì đó là cái tên được đặt cho những kẻ móc túi trẻ tuổi bị bắt quả tang và bị trừng phạt ngay lập tức bằng cách ném ra cái ao gần nhất. "Chúng ta có nên tái thanh tẩy cho nó?"
*Tái thanh tẩy (nguyên gốc: Anabaptist) là các Kitô hữu theo cuộc Cải cách Triệt để (Radical Reformation) tại châu Âu thế kỷ XVI.
Thằng bé vẫn giữ cái cằm kiên định và ánh mắt vững vàng, nhưng Sebastian cảm thấy một cái rùng mình lướt qua thân hình gầy gò của nó. Đối với một đứa trẻ vô gia cư, bị ném xuống ao lạnh giá vào một đêm như thế này có thể đồng nghĩa với cái chết.
"Tôi tin là thằng nhóc cần được tắm gội," Sebastian nói, lời nói của anh được chào đón bằng nhiều tiếng cười hơn. "Nhưng nó chưa gây ra thiệt hại thực sự nào." Xòe nắm đấm ra, Sebastian để cho cái áo mỏng, rách rưới của thằng bé trượt qua những ngón tay của mình. "Đi đi," anh nói thêm, hất hàm về phía cửa khi thằng bé ngập ngừng. "Biến khỏi đây."
Thay vì chạy đi, thằng bé vẫn đứng yên, đôi mắt đen bất ngờ sáng lên nhìn lướt qua Sebastian đánh giá một cách công khai, cẩn thận. "Đang chạy trốn, phải không?"
Sebastian dừng lại với vại bia gần đến miệng. "Cái gì cơ?"
Cậu bé lớn tuổi hơn Sebastian nghĩ - có lẽ khoảng mười hay mười hai tuổi - và rõ ràng đủ tinh ý để nhận thấy rằng dưới lớp bùn và máu, áo choàng của Sebastian được cắt may tinh xảo từ loại vải hảo hạng chỉ vài giờ trước vẫn còn mới. "Anh đã làm gì? Thua hết tiền và chạy trốn trước khi bị giam lại trong Nhà Ngục? Hay anh đã giết người trong một cuộc giao đấu?" Một bàn tay nhỏ xương xẩu vươn ra chỉ vào vết bẩn sẫm màu mách lẻo trên ngực Sebastian. "Tôi, tôi nghĩ rằng anh đã giết ai đó."
Sebastian uống một ngụm bia dài. "Đừng vô lý như vậy." "Ha. Vậy tại sao một gã giàu có như anh lại dừng chân ở Hươu Đen? Trả lời coi."
Một cô bé vai gầy và tóc cột thẳng không màu xuất hiện từ căn phòng phía sau, cô ném đồ ăn trong khay lên bàn trước mặt Sebastian. Anh nhìn chằm chằm vào ổ bánh mì nhỏ trắng đến đáng ngờ, một đĩa đựng những miếng thịt không xác định được là thịt gì ngập trong mỡ đông, và cảm thấy cơn thèm ăn của mình giảm xuống.
"Anh nên cất cái ví ra khỏi tầm mắt và tầm với," thằng bé nói trong lúc Sebastian ngồi tại chỗ. "Anh biết điều đó đúng không? Ví căng phồng trong áo như mời gọi vậy. Đúng ra, tôi cho rằng đây là một tội ác khi dụ dỗ một cậu bé thật thà vào những trò như vậy."
Sebastian ngước lên, dĩa đưa lên miệng nửa chừng thì dừng lại. "Ngươi là một cậu bé thật thà từ khi nào?"
Thằng bé cười thành tiếng. "Tôi thích anh," cậu nói, ánh mắt nhìn vào đĩa thức ăn trước mặt Sebastian. Một sự rung động lướt qua nét mặt cậu, một cơn co giật của ham muốn tuyệt vọng nhưng nhanh chóng bị che giấu. "Thế này: tôi có một đề nghị với anh. Nếu đồng ý, tôi sẽ làm thuê cho anh
với giá, bao nhiêu nhỉ, mười xu một ngày? Chỉ anh chỗ này chỗ kia. Làm một người quản gia. Một quý ông như anh không nên thiếu một người tùy tùng."
"Đúng." Sebastian nhai đầy mồm và nuốt. "Nhưng ta là một kẻ lạ lùng. Ta có luôn có linh cảm sẽ bị người hầu lừa gạt."
Thằng bé khụt khịt. "Được, nếu anh cương quyết nghĩ thế," nó nói, giọng đầy sỉ nhục, chân lê bước quay đi. "Chờ một chút." Thằng bé quay phắt lại.
"Đây." Nhặt mẩu bánh mì, Sebastian ném cho nó, nó khéo léo bắt lấy bằng một tay. Sebastian càu nhàu. "Ngươi khá hơn một tên lừa đảo. Giờ thì biến đi."
CHƯƠNG 10
K
at Boleyn gặp Rachel York lần đầu trên bờ sông Thames, vào một đêm tháng mười hai đầy tuyết khoảng hơn ba năm trước. Lúc đó Rachel mười lăm tuổi, trẻ trung và tuyệt vọng đến đau lòng. Kat mới ngoài hai mươi nhưng đã được sân khấu London ngợi ca trong nhiều năm, bí mật và quá khứ đau thương của cô ẩn bên dưới trang sức hảo hạng và những nụ cười được luyện tập kỹ càng.
Và Kat Boleyn đã đến sông Thames vào đêm thứ tư đó, để quăng một bó hoa hồng vàng từ giữa Cầu London và ráo hoảnh nhìn chúng tả tơi từ từ chìm dưới những làn sóng đen. Rồi cô dứt khoát quay đi.
Những đám mây sà thấp xuống thành phố, nhưng khi màn đêm dần buông, mưa đã dịu bớt thành một màn sương dày. Kat đã từng yêu sương mù khi còn bé. Lúc đó cô sống ở Dublin, trong một ngôi nhà quét vôi trắng đối diện với một khu vườn xanh có những cây dẻ và những cây sồi khổng lồ. Có một cây sồi già hơn tất cả những cây khác, có nhánh to lớn toả ra chạm gần xuống đất. Từ trước khi bắt đầu đi học, cha Kat đã dạy cô leo cái cây này.
Cô luôn coi ông như cha mình, mặc dù ông không phải. Nhưng ông là người cha duy nhất mà cô từng biết, và ông đã khuyến khích cô làm những điều đôi khi khiến mẹ cô lo lắng.
"Cuộc sống luôn đầy rẫy những điều đáng sợ," ông từng nói với Kat. "Bí quyết là không để cho nỗi sợ hãi cản đường cuộc sống của con. Dù có làm gì, Katherine, đừng an phận sống một cuộc sống nửa vời."
Kat đã cố gắng tự nhủ với bản thân điều đó vào ngày đám lính Anh đến. Sáng hôm đó sương mù dày và nặng mùi cháy hăng hắc. Cô đứng trong ánh sáng lờ mờ và lặp đi lặp lại những lời nói của cha mình trong lúc chúng kéo mẹ cô, giãy giụa và gào thét, ra khỏi ngôi nhà xinh xắn màu trắng đó. Chúng bắt Kat và cha cô chứng kiến những gì chúng làm với mẹ ngày hôm đó. Và sau đó chúng đã treo cổ họ, cả cha và mẹ Kat cạnh nhau, trên cây sồi ở khu vườn xanh.
Những ngày đó đã thuộc về một cuộc đời khác, một con người khác. Người phụ nữ hiện đang lái chiếc xe ngựa bốn bánh hai ngựa đi nhanh qua các con phố thắp đèn của London gọi mình là Kat Boleyn, và cô là một trong những nữ diễn viên nổi tiếng nhất của sân khấu London. Áo choàng viền lông bằng nhung cô mặc tối hôm đó có màu anh đào đỏ tươi, không phải là một màu xám khói, và cô đeo một chuỗi ngọc trai, thay vì một dải băng tang, trên cổ mình.
Nhưng cô vẫn ghét sương mù.
Dừng trước biệt thự của Ngài Léon Pierrepont, Kat đưa dây cương cho mã phu của mình và dễ dàng bước xuống từ cái yên cao. "Hãy đưa chúng đi dạo, George."
"Vâng thưa cô."
Cô dừng lại trên vỉa hè để ngước nhìn lên ngôi nhà cổ kính trước mặt, tỏa sáng nhẹ nhàng nhờ ánh đèn dầu nhấp nháy. Như rất nhiều điều khác về Leo Pierrepont, ngôi nhà trên đường Bán Nguyệt này được tính toán cẩn thận để tạo ra một ấn tượng đúng mực: Rộng rãi nhưng không rộng rãi quá, thanh lịch, và với một chút trang nghiêm thường thấy một nhà quý tộc giờ phải sống lưu vong. Khi một người sống một đời về cơ bản toàn là dối trá, thì vẻ ngoài là tất cả.
Cô thấy y ngồi một mình trong phòng ăn bên chiếc bàn nhỏ bày những món đồ sứ Trung Quốc hảo hạng cùng đồ bạc bóng loáng và pha lê lấp lánh. Y có dáng người gầy và thanh nhã như thể những năm tháng quá khứ, mặc dù có khó khăn thế nào, cũng đã trôi qua êm đềm. Khuôn mặt của y hầu như không có nếp nhăn, mái tóc nâu sáng mới chỉ điểm bạc. Kat chưa bao giờ biết chính xác tuổi của y, nhưng y đã gần ba mươi khi rời khỏi Paris trong Triều đại Khủng bố27*, nên cô đoán giờ y phải gần năm mươi.
*Triều đại Khủng bố (Reign of Terror) là (27 tháng 6 năm 1793 - 27 tháng 7 năm 1794) là một thời kỳ bạo lực xảy ra sau khi sự khởi đầu của cuộc Cách mạng Pháp, kích động bởi cuộc xung đột giữa các phe phái chính trị và được đánh dấu bằng những cuộc hành quyết hàng loạt các "kẻ thù cách mạng".
"Lẽ ra cô không nên đến đây," Leo nói, vẫn dồn hết chú ý vào bát súp. Kat giật đôi găng tay ra, ném chúng với túi xách, áo choàng và mũ lên một chiếc ghế gần đó. "Ông đang sợ danh tiếng của ai sẽ bị ảnh hưởng, Leo? Của tôi, hay của ông?"
Y ngước lên, đôi mắt xám lấp lánh với một nụ cười yếu ớt. "Tất nhiên là của ta. Cô đâu còn danh tiếng để mất." Y ra hiệu cho đầy tớ ra ngoài, sau đó ngả người ra. Nụ cười nhạt dần. "Tôi tin là cô đã nghe chuyện xảy ra với Rachel?"
Kat ép lòng bàn tay của mình lên bàn và tựa vào chúng. Bên dưới vạt váy lụa, trái tim cô thình thịch mãnh mẽ và gấp gáp, nhưng cô cố giữ giọng nói bình tĩnh và ổn định. "Ông đã làm điều đó?"
Kat biết rằng nếu y là thủ phạm, y sẽ không thừa nhận. Nhưng cô muốn nhìn mặt y lúc y chối bỏ.
Leo xúc một thìa súp và cẩn thận đưa nó lên môi. "Thôi nào, ma petite28*. Ngay cả khi ta muốn Rachel chết, cô thực sự nghĩ rằng ta sẽ giết cô ấy một cách hoành tráng như vậy? Trong một nhà thờ? Theo những gì ta biết, các bức tường như thể được sơn bằng máu."
*Bé cưng của ta (tiếng Pháp trong nguyên bản).
Kat nhìn bàn tay thon dài của y cầm lên một miếng bánh mì. "Một trong những tay sai của ông có thể đã đi quá giới hạn."
"Ta chọn tay sai của mình cẩn thận hơn thế." "Vậy ai đã giết cô ấy?" Một cái bóng lướt qua nét mặt của gã người Pháp, một bóng ma của sự quan tâm mà Kat suýt nữa - suýt nữa - tin là thật. "Giá mà ta biết." Kat quay đi, những sải bước dài, nhanh nhẹn đưa cô vòng quanh căn phòng.
Leo nhúc nhích trên ghế và nhìn cô. "Làm một ly đi," sau một lúc y nói. "Hãy uống ít rượu vang."
"Không, cảm ơn."
"Vậy ít nhất hãy ngừng đi lại trong căn phòng theo kiểu mệt mỏi như vậy. Không tốt cho tiêu hóa của ta."
Cô ngập ngừng bên cạnh bàn, nhưng không ngồi xuống. "Rachel định gặp ai tối qua?"
Cầm một con dao lên, Leo bình tĩnh phết bơ lên bánh mì. "Không ai cả, theo như ta biết."
"Ông định khiến tôi tin điều gì, Leo? Rằng cô ấy đã đến đó để cầu nguyện?"
"Đó là chuyện người ta thường làm trong nhà thờ."
"Người như Rachel thì không." Kat đi đến đứng trước lò sưởi và nhìn chằm chằm vô hồn vào than đỏ rực. Luôn có nguy hiểm trong trò chơi này; tất cả họ đều biết điều đó. Nhưng người gặp Rachel đêm qua không chỉ nguy hiểm, hắn còn độc ác. Và những gì hắn làm có thể sẽ đe dọa tất cả. "Họ sẽ điều tra cái chết của cô ấy - ý tôi là chính quyền. Họ có thể phát hiện ra điều gì đó."
"Cẩn thận, ma petite," Leo nói, cầm chiếc cốc lên. "Tai vách mạch rừng." Y từ tốn uống một ngụm rượu vang rồi cau mày. "Nhưng không, ta không nghĩ rằng các nhà chức trách sẽ phát hiện ra chuyện gì khiến chúng ta phải quan tâm. Sáng nay ta đã qua chỗ ở của cô ta ngay sau khi ta biết chuyện, nhưng cảnh sát đã có mặt ở đó. Đêm nay ta sẽ quay trở lại và đảm bảo rằng cô ta không để lại gì có thể buộc tội chúng ta."
"Ông có thể đã quá trễ. Họ có thể đã phát hiện ra một cái gì đó." Leo hắt ra một tiếng cười nhẹ. "Cô đừng nghiêm trọng. Đây là London, không phải Paris. Bọn Anh ngu lắm. Sợ quân đội thường trực gây nguy hại đến quyền tự do của mình đến mức họ thà thấy thành phố tràn ngập trộm cắp và giết chóc hơn là thiết lập một lực lượng trị an tử tế. Cảnh sát sẽ không tìm thấy gì đâu. Bên cạnh đó"- y nhét một mẩu bánh mì vào miệng, nhai và nuốt - "họ nghĩ rằng họ biết ai là thủ phạm."
Kat quay phắt lại đối mặt với y. "Ông nói mình không biết ai đã giết cô ấy."
"Ta không biết ai đã giết cô ấy. Nhưng chính quyền London nghĩ rằng họ biết. Chắc chắn hắn đã bị bắt ngay khi chúng ta nói chuyện đây. Một tử tước nổi tiếng với xu hướng giết người. Hắn có cái tên rất lạ. Gì đó giống như Diablo, hay Devil, hay…"
"Devlin?" Hơi thở gấp và nông một cách bất thường, Kat rời lò sưởi và bước tới chỗ Leo, ánh mắt cô dò xét khuôn mặt y.
"Đúng rồi." Y mở to mắt nhìn cô và cô biết y đang đang đùa giỡn với mình, y đã biết cái tên Sebastian từ đầu. "À. Ta nhớ ra rồi," y nói, đầu nghiêng sang một bên trong lúc mỉm cười với cô.
"Devlin từng là một trong những người bảo hộ của cô. Phải vậy không? Trước khi anh ta tham gia vào cuộc chiến tranh chiến đấu vì nhà vua và đất nước chống lại cái ác và Hoàng đế Napoleon."
"Điều đó lâu lắm rồi." Kat quay người và với tay lấy chiếc áo choàng lông của cô. Cô bất giác cảm thấy cần phải đi ngay. Cần phải ở một mình. Đẩy lùi chiếc ghế, Leo đứng dậy với một động tác trơn tru, tay vươn ra gần cánh tay cô, chặn cô lại, buộc cô lùi bước để có thể dò xét khuôn mặt cô. Y uể oải, gầy gò và ốm yếu đến mức đôi khi người ta quên mất y có thể di chuyển nhanh nhẹn và những ngón tay thon dài đó sở hữu sức mạnh lớn cỡ nào.
Cô lạnh lùng nhìn đáp trả, vận dụng mọi kỹ năng diễn xuất để giữ nét mặt mình bí hiểm và buộc những nhịp tim đập nhanh chóng, phản trắc của mình chậm lại.
Nhưng Leo biết rõ cô. Y biết tài năng của cô và y biết một điểm yếu chính cô cũng từ chối thừa nhận. Một nụ cười gượng gạo khiến một góc môi y dúm lại rồi thẳng ra. "Khi người ta mới hai mươi ba tuổi," y thì thầm, bàn tay đưa lên chạm vào má cô với một cử chỉ không hẳn là vuốt ve, "thì không có gì là ‘đã lâu rồi’ cả."
CHƯƠNG 11
S
ebastian trải qua phần còn lại của đêm trong một căn phòng nhỏ trên sân sau quán trọ Hươu Đen. Sau khi nhìn qua chiếc giường, anh cởi giày, trải áo choàng lên trên một băng ghế gỗ hẹp rồi nằm xuống. Anh từng trải qua những chuyện tồi tệ hơn trong chiến tranh: những đêm thấp thỏm trên sàn đá lạnh lắng nghe tiếng gián chạy vèo vèo trên nền bẩn thỉu.
Anh không ngủ.
Khi bình minh đến, anh đứng dậy khỏi cái giường tạm và tiến đến cửa sổ nhìn ra khoảng sân đầy rác vương vãi bên dưới. Buổi sáng lạnh lẽo và buốt giá đầy cay đắng, nhưng anh vung cánh cửa sổ mở rộng, lùa không khí cay xè sâu vào phổi và nghĩ về các sự kiện tối hôm trước.
Sebastian thấy rằng những thời điểm như vậy luôn xuất hiện trong cuộc đời mỗi người; những khoảnh khắc quan trọng khi một sự kiện tình cờ hay một quyết định tầm thường có thể lôi một người ra khỏi tương lai đã định sẵn và đưa anh ta lao vút theo một hướng khác hoàn toàn. Tuy nhiên, giờ khó có thể xác định chính xác khoảnh khắc đó diễn ra vào lúc nào trong cuộc đời Sebastian. Vào lúc cơn giận loé lên nhanh chóng và sơ suất của viên cảnh sát? Hay từ đêm trước đó, với lời hứa trao cho một người phụ nữ hoảng loạn, sợ hãi?
Sebastian mím môi và thở dài. Mặc cho mọi chuyện đã xảy ra, anh không hối tiếc vì lời hứa, cũng như không thể phản bội lại người phụ nữ nhận được nó.
Lấy từ trong túi ra cuốn sổ nhỏ, anh xé một tờ giấy và nhanh chóng viết nguệch ngoạc, ‘Xin vui lòng cho Melanie biết sự đảm bảo của tôi, rằng tôi sẽ không phản bội cô ấy. Dù có gì xảy ra, cô ấy cũng không được nói bất cứ điều gì buộc tội chính mình. Cuộc sống của cô ấy phụ thuộc vào nó. D.’ Gấp tờ giấy hai lần, anh viết tên và địa chỉ của chị gái Melanie ở bên ngoài, sau đó nhét mảnh giấy sâu vào trong túi.
Suốt buổi tối dài, anh đã bình tĩnh xem xét các lựa chọn của mình và loại trừ dần xuống còn ba lựa chọn. Anh có thể đầu thú với Ngài Henry Lovejoy tại Queen Square và đặt niềm tin vào một hệ thống vốn quen tuyên các bản án đã soạn sẵn hơn là tìm ra sự thật. Anh có thể trốn ra nước ngoài, hy vọng ai đó sẽ minh oan cho anh trong lúc anh vắng mặt, nhưng nếu điều đó không xảy ra thì anh sẽ phải sống lưu vong.
Hoặc anh biến mất trong bóng tối của thành phố và bắt đầu tự điều tra xem ai đã sát hại Rachel York.
Rachel là một người phụ nữ hấp dẫn bất thường. Anh hay thấy cô tại các rạp hát khác nhau trong thành phố - cả trên sân khấu và ở những cuộc tụ họp chọn lọc chỉ bao gồm những phụ nữ như cô và những quý ông giàu có mà họ tìm cách quyến rũ. Anh đã gặp cô và anh phải thừa nhận là mình ngưỡng mộ cô. Nhưng anh chưa bao giờ coi cô là người tình của mình, chưa bao giờ nếm thử những gì cô đã vài lần mời mọc.
Anh không thể hiểu được lý do tại sao hay như thế nào mà anh biến thành kẻ giết cô. Tuy nhiên, anh không thể mong chờ cảnh sát khám phá sự thật sau những gì đã xảy ra. Khi cảnh sát thành phố được trao thưởng bốn mươi bảng cho mỗi tên tội phạm bị bắt thì công lý đích thực thường trở thành một nạn nhân của lòng tham.
Có những lúc trong đêm dài, Sebastian đã quyết định sẽ không trốn ra nước ngoài, hay đầu thú, tin tưởng một cách ngu ngốc vào động cơ đáng ngờ của nền công lý Anh Quốc. Ngoài kia, ở một nơi nào đó, là kẻ đã giết chết Rachel York; hy vọng duy nhất của Sebastian nằm ở việc phát hiện chính xác hắn là ai.
Năm năm trong tình báo quân đội đã dạy Sebastian rằng điều đầu tiên anh cần là thông tin. Anh cần phải nói chuyện với ai đó quen Rachel; một người có thể xác định được kẻ thù của cô, có thể biết lý do tại sao cô lại một mình đi đến chỗ chết trong đêm đông lạnh lẽo, tại một nhà thờ Westminster nhỏ bé cũ kỹ.
Anh đã quyết định không cố gắng liên hệ với gia đình hoặc bạn bè của cô; chắc chắn họ sẽ bị theo dõi, và anh sẽ không làm điều gì có thể gây nguy hiểm cho họ. Nhưng không ai có thể nghĩ đến việc theo dõi nữ diễn viên đóng vai Rosalind cặp với Celia của Rachel trong vở kịch As You Like It tại Covent Garden. Người phụ nữ làm tan nát trái tim Sebastian sáu năm trước…
Mặt trời lên cao dần, nhưng chỉ có dấu vết ánh sáng mờ nhạt qua lớp sương mù bẩn thỉu. Anh có thể nghe thấy tiếng ầm ầm của xe đẩy và xe chở hàng chợ trên đường đến Covent Garden, và tiếng xoay bánh xe mài dao dưới sân.
Và gần hơn là tiếng rảo bước trong hành lang ngoài phòng anh. Dựa lưng vào bức tường bên cạnh cửa, Sebastian đứng căng thẳng, chờ đợi. Sau đó, anh nghe thấy một tiếng cào lén lút và lời thì thầm của một thằng bé. "Thưa chủ nhân, là tôi, Tom."
Đó là thằng nhóc tối qua. "Tom?" Sebastian nói với vẻ thích thú nham hiểm. "Ta không nghĩ mình quen biết ai tên Tom."
Từ đầu kia của ván cửa xuất hiện một lời chửi thề thiếu kiên nhẫn. "Tên trộm cố gắng lấy cắp ví của ngài đêm qua."
"À. Và ngươi hy vọng ta sẽ mở cửa cho ngươi sao, anh bạn trộm cắp của ta?"
"Chúa phù hộ cho ngài, thưa chủ nhân. Giờ không có thời gian để đùa cợt. Có những người đàn ông ở phố Bow dưới cầu thang ngay lúc này. Hỏi tìm ngài, rằng ngài có phải là gã đã đâm một cảnh sát tại Mayfair và…"
Sebastian mở cửa nhanh đến mức Tom, lúc đó đang dựa vào tấm ván, suýt ngã vào phòng. Trong ánh sáng nhợt nhạt, thằng bé trông gầy và bẩn hơn so với Sebastian nhớ. Nó nhìn Sebastian chằm chằm bằng đôi mắt đen dò xét. "Họ cũng nói rằng ngài đã cắt nhỏ một ả trong một nhà thờ trên phố Peter Vĩ Đại." Nó ngừng lại. "Đúng không?"
Sebastian đáp lại cái nhìn cứng rắn của thằng bé. "Không." Tom gật đầu công nhận lặng lẽ, nhanh chóng. "Tôi đã đánh hơi được điều gì đó lạ lùng. Nhưng ngay lúc này đang có hai gã trong phòng sinh hoạt chung, hỏi tìm ngài, và một gã săn tiền thưởng ở đằng trước."
Ngồi trên mép ghế, Sebastian kéo chiếc ủng đầu tiên lên, sau đó là chiếc còn lại. "Ta cho rằng ngươi đang gợi ý ta nên xuất hành qua cửa sổ?" "Đúng vậy, thưa ngài. Và phải nhanh lên, nếu ngài lo lắng về việc treo cổ."
Vơ lấy chiếc áo choàng, Sebastian bước đến cửa sổ đang mở và xem xét cái sân bên dưới. Các khuôn cửa sổ mở trên một mái che thấp của một nơi mà anh đoán là nhà bếp. Nhưng lối thoát duy nhất từ sân là đi qua cổng vòm phía trước. Anh sẽ phải đi dọc theo mái xiên đến khu vực tiếp giáp với phần cơi nới của tầng hai nhà trọ, và từ đó leo lên mái nhà chính.
"Tại sao ngươi lại đến để cảnh báo ta?" Sebastian hỏi, dừng lại với một chân trên bậu cửa sổ nhìn thằng bé.
"Thưa ngài. Nếu có gã nào cần sự giúp đỡ, đó là ngài."
"Ha. Sự vị tha của ngươi, mặc dù khá truyền cảm, nhưng chẳng thuyết phục chút nào," Sebastian nói, và rơi xuống mái nhà dốc bên dưới. Nhẹ nhàng và nhanh nhẹn như một con mèo, Tom đáp xuống bên cạnh anh. "Tôi không biết ngài nói thế chính xác có nghĩa gì. Nhưng đề nghị của tôi vẫn còn: với một si-ling29*mỗi ngày, tôi là người hầu của ngài. Tôi biết rõ khu vực này. Nếu ngài định ra khỏi đây, ngài không thể tìm thấy người nào tốt hơn đâu."
*Si-ling (Shiling) là đồng tiền Anh có giá trị bằng 1/20 đồng bảng cũ. "Ta tưởng giá là mười xu30*?" Sebastian nói, cúi thấp chạy dọc theo mái che.
*Xu (Penny) là đồng tiền Anh có giá trị bằng 1/240 đồng bảng cũ.
"Trước đây thì thế. Chỉ có điều, giờ khi tôi biết những con lợn phố Tàu đang đuổi theo ngài, giá đã tăng lên."
Sebastian cười - đúng lúc một tiếng hét vang lên từ cái sân bên dưới.
CHƯƠNG 12
S
ebastian liếc nhanh về phía sân, nơi có một người đàn ông vạm vỡ râu đen trong chiếc áo choàng đồ sộ đứng ngả đầu về phía sau và đưa ngón tay nguyền rủa hướng về mái nhà.
"Nhìn kìa! Đó là hắn, tôi chắc chắn. Dừng lại. Dừng lại nhân danh nhà vua."
"Quỷ tha ma bắt," Sebastian chửi thề. Đứng thẳng dậy, anh chạy nhanh trên mái che dốc, đế giày bằng da trượt đầy nguy hiểm trên ngói đen ướt, thằng bé chạy phía sau.
Đến chỗ giao của mái nhà bếp và bức tường gạch của chái nhà phụ quán trọ, Sebastian quay ngoắt lại. "Đây," anh nói, với tay tóm lấy thân hình gầy gò, xương xẩu của Tom và nâng thằng bé lên trên. "Hãy nắm lấy phần gờ của mái nhà và đu lên."
Những ngón tay trần lạnh tê của Tom dò dẫm tìm chỗ bám víu, và tìm được một chỗ. "Ngài sẽ lên đây như nào?", nó thở hổn hển, cố vắt chân lên trong tiếng càu nhàu rồi lăn trên mái nhà bằng bụng và lưng.
Bức tường gạch không bằng phẳng, nơi này chìa ra chỗ bám tay, nơi kia chìa ra chỗ để chân. Sebastian lồm cồm bò lên bên cạnh cậu bé và chìa tay ra để giúp Tom đứng lên.
"Thưa ngài," Tom thở gấp với ánh mắt mở to đầy ngưỡng mộ. "Ngài sẽ là một vũ công hạng nhất, chắc chắn."
Sebastian cười, nheo mắt kiểm tra mái nhà liêu xiêu trải ra xung quanh họ. Một cơn mưa lạnh giá đã bắt đầu rơi, sương mù dày và lạnh thấu
xương. Người đàn ông râu đen đã biến mất khỏi sân. Họ có thể nghe thấy nhiều tiếng quát tháo và tiếng chân rón rén chạy trên cầu thang không trải thảm.
Sebastian nhìn xuống thằng bé bên cạnh mình. Khi tới cảnh báo Sebastian, Tom đã đặt mình ngoài vòng pháp luật. Sebastian hất đầu về phía khoảng không khoảng chín mươi phân đến một mét hai chia tách mái nhà ướt mưa của quán Hươu Đen với căn hộ xập xệ bên cạnh. "Ngươi có thể nhảy qua đó không?"
Trước sự ngạc nhiên của Sebastian, khuôn mặt bẩn thỉu của thằng bé dãn ra thành một nụ cười lởm chởm răng. "Được. Ngài nhìn đây." Siết chặt tay đầy quyết tâm, Tom chạy nhanh về phía gờ mái nhà, nhảy lên ở những giây cuối cùng thành một bước vọt dễ dàng vào khoảng không. Nó hạ cánh nhẹ nhàng, thân mình dao động, trong thoáng chốc chân trượt ra trước khi giữ được thăng bằng trên gạch dốc ướt. "Ta nghĩ rằng ngươi cũng đã được đào tạo làm vũ công đấy chứ," Sebastian nói, nhảy xuống sau cậu. Tom reo lên vui mừng. Họ cùng nhau vượt qua từng mái nhà lụp xụp, đi men theo ống khói đổ nát và tránh những mái hiên bị gãy, thở ra những luồng hơi trong không khí lạnh. Tại phía cuối dãy nhà, họ phát hiện ra một ống thoát nước được trang trí bằng mớ đậu tía ướt sũng đưa họ trườn xuống. Họ đã cao chạy xa bay trước khi những gã từ phố Bow, thở khò khè và chửi thề, xuất hiện trên mái nhà rêu phong của quán Hươu Đen.
Đám đông các bà đi chợ và những cô vắt sữa, thợ làm bánh và các cậu bé chạy vặt của hàng bán thịt buổi sáng sớm lấp đầy các làn đường hẹp. Rẽ vào góc phố lên Đường Leicester Lớn, Tom và Sebastian chạy chậm dần thành đi bộ, hướng về phía Ngã Tư Charing.
"Chúng ta đi đâu bây giờ?" Tom hỏi, rảo bước để theo kịp với sải chân dài của Sebastian.
Sebastian lưỡng lự, rồi rút từ trong túi ra tờ giấy anh viết cho chị gái của Melanie buổi sáng hôm đó. "Ta có một thông điệp muốn ngươi đưa cho một phu nhân. Cecilia Wainwright, tại Quảng trường Berkeley." Lấy ví của mình, Sebastian chìa ra một nắm tiền xu. "Đây là một si-ling cho bức thư, và đây là tiền lương cho một tuần." Tất nhiên không có cách nào để đảm bảo rằng cậu bé sẽ thực sự chuyển tin nhắn. Sebastian sẽ phải đánh liều.
Ánh mắt không cười của Tom nhìn xuống tiền trong tay của Sebastian, sau đó nhìn lên. Nó không cầm mớ tiền xu. "Ngài định đá tôi đi à?" Sebastian bắt gặp ánh mắt tối tăm khó dò của cậu bé. "Ta không nghĩ rằng ngươi hiểu. Tiếp tục dính líu đến ta rất có thể sẽ khiến ngươi bị treo cổ."
"Không," Tom nói, khịt mũi cẩu thả. "Bị lưu đày thì đúng hơn. Tôi đủ gầy để có thể bảo mình chín tuổi và họ vẫn tin tôi. Họ không đưa trẻ con lên giá treo cổ." Khuôn mặt nó tối lại như bị che khuất sau một kỷ niệm khó chịu bất ngờ. "Ít nhất không thường xuyên."
"Ngươi muốn thăm Vịnh Botany31*, đúng không?"
*Vịnh Botany nằm ở Sydney, New South Wales, Australia, là nơi Anh Quốc lưu đày các tội phạm hình sự từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX.
Tom nhún vai. "Đó là nơi họ lưu đày mẹ tôi."
Có lẽ thái độ hoàn toàn vô cảm trong giọng nói của thằng bé khiến Sebastian suy nghĩ hơn cả. Anh chậm rãi thở dài. Lưu đày những người mẹ
"""