" Khi Lời Nói Dối Còn Chưa Phơi Bày PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khi Lời Nói Dối Còn Chưa Phơi Bày PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Lời mở đầu Tại một khu phố nọ, có một quán cà phê, Trong quán cà phê đó có một chiếc ghế gắn liền với một truyền thuyết đô thị kỳ lạ, Khi ngồi xuống chiếc ghế đó và chỉ khi ngồi xuống chiếc ghế đó, Bạn mới có thể trở về khoảng thời gian bạn mong muốn, Thế nhưng, cũng có rất nhiều quy tắc phiền phức đi kèm. Đó đều là những quy tắc hết sức rắc rối. 1. Dù có quay lại quá khứ, bạn cũng không thể gặp được những người chưa từng đến quán cà phê này bao giờ. 2. Khi quay trở lại quá khứ, dù có cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa, bạn cũng không thể thay đổi được hiện tại. 3. Khi có một vị khách đã ngồi vào chiếc ghế quay về quá khứ bạn chỉ có thể ngồi vào đó khi vị khách ấy đã đứng lên. 4. Dù có quay về quá khứ, bạn cũng không thể nào đứng dậy và di chuyển khỏi chiếc ghế. 5. Thời gian bạn có thể quay về quá khứ tính từ lúc bạn gọi một cốc cà phê cho đến khi cốc cà phê ấy bị lạnh. Ấy thế nhưng đến ngày hôm nay, vẫn có những vị khách nghe được tin đồn về truyền thuyết đô thị đó mà đến quán cà phê này. Tên của quán cà phê này chính là Funiculì funiculà. Nếu là bạn, sau khi nghe được những quy tắc như thế, Bạn có muốn quay trở lại quá khứ nữa không? Cuốn sách này sẽ kể về bốn câu chuyện ấm lòng đã xảy ra trong quán cà phê diệu kỳ ấy đấy. Câu chuyện thứ nhất: “Bạn thân” - câu chuyện của một người đàn ông muốn đến gặp người bạn thân đã mất hai mươi hai năm trước của mình. Câu chuyện thứ hai: “Mẹ con” - câu chuyện của một người con trai đã không thể đến dự đám tang của mẹ mình. Câu chuyện thứ ba: “Người yêu” - câu chuyện của một người đàn ông muốn đến gặp người con gái mình từng yêu nhưng không thể lấy. Câu chuyện thứ tư: “Vợ chồng” - câu chuyện về một vị cảnh sát hình sự lớn tuổi trước đây đã không đưa được món quà của mình cho người vợ. Nếu có thể quay lại ngày ấy, bạn sẽ đi gặp ai? câu chuyện thứ nhất Bạn thân Chiba Goutarou đã nói dối con gái suốt hai mươi năm qua. Nhà văn Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky đã từng nói, “Điều khó khăn nhất trong cuộc đời này chính là sống mà không phải nói dối.” Dù là “nói dối”, nhưng cũng có nhiều loại nói dối khác nhau. Có lời nói dối để người khác chú ý đến mình nhiều hơn, có lời nói dối lại để lừa người khác. Có những lời nói dối làm tổn thương trái tim con người, nhưng cũng có những lời nói dối lại cứu rỗi người khác. Thế nhưng, trong phần lớn trường hợp, con người thường hối hận vì nói dối. Và Goutarou cũng không ngoại lệ. Nhớ lại lời nói dối mà mình đã dựng lên, Goutarou vừa lẩm bẩm “Chẳng có lời nói dối nào lại do bản thân mình muốn vậy cả”, vừa đi đi lại lại trước quán cà phê được đồn thổi có thể trở về quá khứ trong vòng ba mươi phút. Quán cà phê có thể quay trở về quá khứ nằm cách nhà ga Jinbou khoảng vài phút đi bộ. Nó nằm trong một con hẻm nhỏ sau dãy tòa nhà văn phòng, với tấm biển hiệu nhỏ ghi tên “Funiculì funiculà”. Quán cà phê đó nằm tận dưới tầng hầm, thế nên nếu không có tấm biển này có lẽ chẳng ai nhận ra ở đó có một quán cà phê cả. Goutarou bước xuống cầu thang, dừng chân trước cánh cửa gỗ lớn được chạm khắc rất tinh tế, vừa lẩm bà lẩm bẩm vừa lắc lắc đầu. Sau đó, anh xoay người đi lên cầu thang nhưng đến giữa chừng lại dừng bước, cứ lên rồi xuống, xuống rồi lại lên cầu thang. “Anh có vào trong không?” Đột nhiên, có một giọng nói vang lên, Goutarou giật mình quay lại. Trên cầu thang có một cô gái nhỏ nhắn đang đứng đó. Cô ấy mặc sơ mi trắng kèm theo một chiếc áo gi lê và một chiếc tạp dề màu đen. Ngay lập tức, Goutarou nhận ra cô gái này chính là nhân viên trong quán. “A, tôi…” Thấy Goutarou bối rối, cô gái liền lách người qua và đi xuống cầu thang. Leng keng. Cô gái bước vào trong quán, để lại một chuỗi tiếng chuông vang vọng. Cô ấy không mời anh vào trong quán, cũng không ép buộc gì cả, cô ấy chỉ nhẹ nhàng đi vào như một cơn gió mát vậy. Thế nhưng, Goutarou đứng đó lại có cảm giác kỳ lạ như bị cô ấy nhìn thấu. Goutarou cứ lên lên xuống xuống cầu thang là vì anh chưa tin vào chuyện “quán cà phê có thể quay về quá khứ”. Nếu tin đồn từ người bạn cũ của anh kể lại chỉ là một trò đùa thì Goutarou sẽ rất xấu hổ khi tin vào nó và đến đây. Giả như quán cà phê này thực sự có quay về quá khứ được đi chăng nữa thì để làm được điều đó cũng có rất nhiều quy tắc phức tạp khác. Trong đó có một quy tắc là: Khi quay về quá khứ, dù có nỗ lực như thế nào cũng không thể thay đổi được hiện tại. Khi nghe đến quy tắc này, Goutarou đã lắc đầu ngao ngán: “Quy tắc như thế mà cũng có người muốn quay về quá khứ sao?” Và Goutarou ấy hiện giờ lại đang đứng trước quán cà phê này và “dù có mấy quy tắc như thế nhưng vẫn muốn quay về quá khứ”. Thế nhưng, có lẽ cô gái lúc nãy vẫn chưa hoàn toàn nhìn thấu được mâu thuẫn ấy trong lòng của Goutarou. Bởi nếu như vậy hẳn cô ấy đã nói: “Quý khách đến sử dụng dịch vụ của quán chúng tôi sao?” Vậy mà cô ấy lại chỉ hỏi: “Anh có vào trong không?” Câu này cũng chỉ có nghĩa là anh có vào không, hay không vào mà thôi. Đối với Goutarou, việc tại sao cô gái ấy lại biết anh đến đây để quay về quá khứ vẫn còn để ngỏ, thế nhưng cô ấy lại thắp lên ánh sáng hy vọng cho Goutarou. Cô ấy chỉ nói một câu thản nhiên như vậy nhưng lại củng cố lòng tin cho Goutarou. Và khi ý thức được mọi chuyện thì Goutarou đã đặt tay lên nắm cửa, dùng lực đẩy nó. Leng keng. Goutarou đã bước chân vào quán cà phê có thể quay về quá khứ. Chiba Goutarou năm nay năm mươi mốt tuổi. Có lẽ vì hồi học đại học anh từng tham gia câu lạc bộ rugby nên thân hình khá vạm vỡ, kể cả khi mặc vest cũng phải chọn cỡ LLL. Hiện anh đang sống cùng với cô con gái hai mươi ba tuổi tên là Haruka. Goutarou thường nói với Haruka rằng: “Khi con còn bé, mẹ con đã mất vì bệnh rồi.” Hiện tại, hai bố con đang mở một tiệm cơm văn phòng tên là “Tiệm cơm Kamiya” ở khu phố Hachioji thuộc Tokyo. Khi mở cánh cửa gỗ to dày, cao đến hai mét ấy và bước vào bên trong, Goutarou chưa tiến thẳng vào quán ngay mà đi tới một khoảng không gian trống trước. Trước mặt anh là nhà vệ sinh và bên tay phải mới là lối vào tiệm. Vừa bước vào bên trong, Goutarou đã chạm ngay ánh mắt của một cô gái đang ngồi ở ghế trên quầy bar. Thấy anh, cô gái đó lập tức lên tiếng gọi: “Kazu ơi, có khách đến này.” Trong quán lúc này còn có một cậu bé tầm tuổi học sinh tiểu học đang đứng cạnh cô gái kia và một cô gái mặc chiếc váy trắng tay lửng đang ngồi ở chiếc bàn sâu trong cùng. Cô gái mặc váy trắng và có cảm giác tồn tại rất mỏng manh kia đang ngồi đọc tiểu thuyết một cách lặng lẽ. “Nhân viên trong quán vừa mới đi mua nguyên liệu thực phẩm về nên mời anh ngồi chờ một lát.” Cô gái ngồi trên quầy bar cũng chẳng giới thiệu gì cả mà cứ thế, tự nhiên bắt chuyện với Goutarou. Có lẽ, cô ấy là khách quen của quán này. Goutarou cũng chẳng nói gì nhiều mà chỉ gật đầu “cảm ơn” cô ấy. Nhận thấy ánh mắt của cô gái như đang ám chỉ nếu là chuyện của quán này thì anh cứ hỏi đi, thế nhưng Goutarou lại vờ như không thấy gì cả, ngồi xuống chiếc bàn gần cửa ra nhất và nhìn xung quanh quán. Trong quán có ba chiếc đồng hồ rất to, đặt dưới sàn và cao chạm trần. Trần nhà còn giữ được kết cấu kiến trúc mộng gỗ truyền thống của Nhật và trên đó còn gắn một chiếc quạt trần cũng bằng gỗ đang chầm chậm quay. Bức tường trong quán là tường đất và đã ngả màu nâu vàng. Có lẽ, nơi này được xây dựng từ rất lâu rồi, thế nên trên tường đầy những viết rạn kéo dài. Vì quán nằm dưới lòng đất nên không có cửa sổ, trên trần nhà cũng chỉ treo những chiếc đèn tròn, chiếu sáng trong quán khiến không gian quán hơi tối, đồng thời cũng khiến mọi thứ như nhuộm thêm một màu vàng đỏ. “Xin chào quý khách.” Cô gái ở ngoài cầu thang lúc nãy lại đi ra từ căn phòng nằm sâu trong quán và mang cho Goutarou một ly nước. Cô gái đó tên là Tokita Kazu. Mái tóc dài ngang vai của cô ấy được buộc gọn sau gáy, cô ấy mặc một chiếc áo sơ mi trắng, trên cổ thắt một chiếc nơ bướm màu đen cùng với áo gi lê và tạp dề màu đen. Kazu chính là phục vụ của quán cà phê Funiculì funiculà này. Kazu có một đôi mắt hạnh và một gương mặt đẹp, thế nhưng ấn tượng cô ấy để lại cho người đối diện lại rất mờ nhạt. Nếu chỉ nhìn cô ấy một lần thì khi nhắm mắt lại, chẳng ai có thể hình dung ra gương mặt cô ấy nữa. Năm nay, cô ấy hai mươi chín tuổi. “À vâng, nơi này, cái đó…” Goutarou ngập ngừng không biết nên nói gì và như thế nào về chuyện quay về quá khứ. Nhìn Goutarou như vậy, Kazu quay người lại và nói: “Anh muốn quay về thời điểm nào?” Từ trong bếp vọng ra từng tiếng tong tong của cà phê chảy trong bình syphon. Quả nhiên, cô nhân viên ấy đã nhìn thấu lòng mình… Mùi hương cà phê nhẹ nhàng lan tỏa, gợi lại trong lòng Goutarou những ký ức về “ngày đó”. Nơi Kamiya Shuichi và Chiba Goutarou gặp lại nhau sau bảy năm chính là ở trước quán cà phê này. Họ đều là những đồng đội từng tham gia chung câu lạc bộ rugby ở trường đại học. Ngày đó, công ty của một người bạn và là người bảo lãnh chung của Goutarou bị phá sản nên toàn bộ gia sản của anh cũng bị mất hết. Không nhà cửa, không tiền bạc, nói cách khác chính là Goutarou đã phải ra đường mà sống. Ngày đó, quần áo trên người Goutarou bẩn thỉu và cơ thể còn tản mát mùi hôi. Thế nhưng, khi đó, Kamiya Shuichi lại chẳng ghét bỏ một Goutarou như thế, thậm chí anh ấy còn vui mừng khi tình cờ gặp lại Goutarou. Shuichi mời Goutarou vào trong quán này và nói thẳng: “Cậu có thể đến làm việc trong quán của tôi.” Shuichi sau khi tốt nghiệp đã được một công ty tìm kiếm tài năng rugby ở Osaka săn đón, thế nhưng chưa đầy một năm, anh ấy đã phải giã từ sự nghiệp cầu thủ vì chấn thương và quay về nơi này làm trong một chuỗi cửa hàng bán đồ Âu. Shuichi là người lạc quan và biết nhìn về phía trước. Anh ấy coi khó khăn đó là cơ hội để vươn lên, làm việc bằng hai, bằng ba người khác và đã trở thành quản lý khu vực của một cửa hàng lâu đời. Thế nhưng, từ lúc kết hôn, anh ấy bắt đầu gây dựng sự nghiệp riêng, cùng vợ mình mở một quán cơm văn phòng. Hiện tại, quán ăn đó làm ăn rất phát đạt, thậm chí còn thiếu người làm. “Nếu cậu đến thì sẽ giúp tớ rất nhiều việc đó.” Goutarou khi đó đã là một người rơi vào cảnh nghèo túng, mất hết hy vọng sống, anh cảm động đến rớt nước mắt trước lời nói của Shuichi và gật đầu đồng ý. “Được! Đi thôi!” Shuichi nói rồi đứng dậy. Anh ấy mỉm cười hạnh phúc bảo: “Tớ cũng cho cậu gặp con gái tớ luôn.” Goutarou vẫn chưa kết hôn, thế nên nghe được tin này anh khá ngạc nhiên. “Con gái?” Anh mở tròn mắt. “Ừ, nó mới sinh thôi. Đáng yêu lắm.” Nói rồi, Shuichi cầm phiếu ghi đồ và nhanh chóng đi ra quầy tính tiền. “Ông chủ, cho chúng tôi tính tiền.” Đứng ở quầy tính tiền lúc này là một cậu trai tầm học sinh trung học, cao đến hai mét lận cùng với một đôi mắt híp như sợi chỉ. “Của quý khách hết 760 yên.” “Đây.” Cả Goutarou và Shuichi đều là cầu thủ nên rất to cao, vạm vỡ. Thế nhưng, giờ nhìn thấy một người còn to cao hơn cả bản thân mình, cả hai người họ cùng nảy ra ý nghĩ, “Đúng là một người sinh ra để chơi rugby.” Hai người nhìn nhau và cười khúc khích. “Tiền thừa của quý khách.” Shuichi nhận lại tiền thừa và đi ra khỏi cửa. Trước khi phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất, Goutarou cũng từng kế nghiệp công ty của bố với giá trị lên đến cả trăm triệu yên và sống một cuộc sống vô cùng sung túc. Anh vốn cũng là người rất chăm chỉ, nghiêm túc, thế nhưng tiền có thể làm thay đổi con người. Có một thời Goutarou là một người thấy thích thì vung tiền và cho rằng có tiền thì mua tiên cũng được. Thế rồi, khi công ty của người bạn kia phá sản, công ty của anh cũng sụp đổ theo vì những món nợ quá lớn. Từ lúc Goutarou hết tiền, những kẻ vốn lúc nào cũng vây xung quanh anh lại trở mặt ngay lập tức. Ngay cả những người mà anh cho là bạn thân cũng chỉ bỏ lại cho anh một câu trước khi đi rằng người không có tiền thì chẳng có giá trị gì cả. Ấy thế mà Shuichi lại coi trọng một Goutarou thất bại trắng tay ấy. Trên đời này không có nhiều người có thể chìa tay ra giúp đỡ những người khốn khổ mà không cần hồi báo. Thế nhưng Kamiya Shuichi lại là một trong số ít ỏi những người làm được điều dó. Nhìn theo bóng lưng của Shuichi, Goutarou thầm nhủ trong lòng “Mình nhất định phải trả cái ơn này.” Leng keng… “Đó là chuyện của hai mươi hai năm về trước.” Chiba Goutarou vươn tay lấy ly nước, uống một ngụm cho cổ họng bớt khô và thở “phù” một hơi. Goutarou, năm mươi mốt tuổi, hiện giờ trông vẫn rất trẻ trung, chỉ là mái tóc điểm bạc nhưng cũng khá nổi bật. “Sau đó, tôi đã dốc hết sức mình để có thể đảm đương công việc càng sớm càng tốt. Thế nhưng, chỉ một năm sau đó, cả Shuichi và vợ cậu ấy đều đã mất trong một tai nạn giao thông.” Dù chuyện đã xảy ra cách đây hai mươi năm, nhưng nỗi đau đớn ấy dường như chưa khi nào nguôi ngoai trong lòng anh. Nhớ lại chuyện khi đó, Goutarou mắt đỏ hoe, giọng nghẹn lại. Đúng lúc này.... Sùn sụtttt… Cậu nhóc ngồi ở ghế trên quầy bar rít ống hút thật mạnh như thể muốn uống hết nước cam trong ly đến giọt cuối cùng. “Vậy sau đó thì sao?” Kazu vẫn không ngừng công việc trên tay, cô bắt chuyện như thể chỉ tình cờ nói điều gì đó mà thôi. Dù là chuyện nghiêm trọng cỡ nào, thái độ của cô vẫn chưa bao giờ thay đổi. Đó chính là con người Kazu, luôn tạo cảm giác khoảng cách với người khác. “… Sau đó, tôi nhận nuôi con gái của Shuichi.” Goutarou rầu rĩ lẩm bẩm như thể đang độc thoại một mình. Sau đó, anh chậm rãi đứng dậy và nói: “Xin nhờ cô, nhờ cô đưa tôi quay lại ngày hôm đó, cái ngày cách đây hai mươi hai năm ấy.” Nói rồi, Goutarou cúi đầu thật sâu, cả cơ thể vạm vỡ của anh cũng cúi xuống, uốn thành hình chữ く. Quán cà phê này tên là Funiculì Funiculà, mười mấy năm trước, nơi đây nổi tiếng với truyền thuyết đô thị là “có thể quay về quá khứ”. Nhắc đến các truyền thuyết đô thị thì hầu hết trong đó đều chỉ là những chuyện đồn nhảm, thế nhưng quán cà phê này lại được cho là thực sự có thể khiến người ta trở về quá khứ. Bởi cho đến tận bây giờ, người ta vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện về một cô gái đi gặp người bạn trai mới chia tay của mình, chuyện của một người chị đến gặp cô em gái mất vì tai nạn giao thông, hay chuyện của một người vợ tới gặp người chồng trước khi mất trí của mình ở ngay tại quán cà phê này. Chỉ là để quay về quá khứ còn có những quy tắc phiền phức, vô cùng phiền phức khác. Trước hết là quy tắc đầu tiên. Dù có quay lại quá khứ, bạn cũng không thể gặp những người chưa bao giờ đến quán cà phê này. Trong trường hợp người bạn muốn gặp chưa từng đến quán cà phê này, bạn vẫn có thể quay về quá khứ, thế nhưng sẽ chẳng thể gặp được người đó. Nói cách khác, dù người trên cả nước có đến đây để quay về quá khứ thì hầu hết trong số đó cũng không thể thực hiện được mong ước của mình. Quy tắc thứ hai. Khi quay trở lại quá khứ, dù có cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa, bạn cũng không thể thay đổi được hiện tại. Nghe đến quy tắc này, hầu hết các vị khách biết được tin đồn kia và muốn đến đây thử sức đều thất vọng quay về. Bởi hầu hết những vị khách đến quán và “muốn quay về quá khứ” đều vì mục đích thay đổi những hành động trong quá khứ. Và khi nghe đến chuyện không thể thay đổi được thực tại thì hầu hết họ cũng chẳng còn thiết tha với chuyện này nữa. Quy tắc thứ ba. Chiếc ghế đưa bạn về quá khứ chỉ có một, và có một vị khách vẫn đang ngồi ở đó. Bạn chỉ có thể ngồi vào chiếc ghế ấy khi nào vị khách này rời chỗ để đi vệ sinh. Vị khách này mỗi ngày đều nhất định vào nhà vệ sinh một lần, nhưng không ai biết người đó sẽ đi vào lúc nào. Quy tắc thứ tư. Dù có quay về quá khứ, bạn cũng không thể nào đứng dậy và di chuyển khỏi chiếc ghế. Nếu bạn đứng dậy, bạn sẽ bị cưỡng chế đưa về thực tại. Thế nên, dù có quay về quá khứ thì bạn cũng không thể ra khỏi quán cà phê này được. Quy tắc thứ năm. Thời gian bạn có thể quay về quá khứ tính từ lúc bạn gọi một cốc cà phê cho đến khi cốc cà phê ấy bị lạnh. Thêm vào đó, không phải ai cũng có thể pha được cốc cà phê đó. Hiện tại, trong quán này chỉ có mình Tokita Kazu có thể pha được cốc cà phê đưa người ta quay về quá khứ thôi. Dù có nhiều quy tắc phiền phức như vậy, thế nhưng vẫn có những người nghe đến tin đồn và đến quán với mong ước “quay về quá khứ”. Và Goutarou chính là một trong số những người đó. “Quay về quá khứ rồi anh định làm gì?” Người phụ nữ mời Goutarou ngồi lúc anh mới vào quán cất tiếng hỏi. Tên cô ấy là Kijima Kyouko. Cô ấy là một bà chủ gia đình khoảng bốn mươi tuổi và là khách quen của quán này. Hôm nay, cô ấy cũng ngẫu nhiên đến đây thôi, thế nhưng có lẽ đây là lần đầu cô ấy thấy một vị khách muốn quay về quá khứ nên cô nhìn Goutarou đầy hiếu kỳ. “Xin lỗi, anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi ạ?” “Năm mươi mốt.” Goutarou trả lời. Có lẽ do hiểu nhầm ý của Kyouko là “cũng một bó tuổi cả rồi còn quay về quá khứ cái gì nữa”, Goutarou cứ ngồi ngây ra, nhìn tay mình đặt trên bàn, trầm ngâm lặng lẽ. “… Xin lỗi. Thế nhưng, chắc người đó cũng ngạc nhiên lắm chứ nhỉ. Anh ấy chẳng biết chuyện gì cả, người đó, ai nhỉ? Anh Shuichi đúng không? Khi đó anh ấy cũng mới hai mươi hai tuổi thôi, thế rồi đột nhiên anh trong bộ dạng hiện giờ xuất hiện…” Thấy Goutarou không ngẩng mặt lên, Kyouko lại quay sang hỏi Kazu đang đứng trong quầy bar. “Đúng không? Em có thấy thế không?” “Đúng thế thật.” Kazu trả lời, nhưng trông cô ấy không có vẻ gì là đồng ý với Kyouko cả. “Mẹ ơi, cà phê lạnh rồi đấy.” Cốc nước cam trống rỗng, cậu bé bên cạnh nhàm chán nói. Tên cậu bé là Kijima Yousuke. Cậu bé ấy là con trai của Kyouko và mùa xuân năm nay cậu bé sẽ lên lớp bốn. Một mái tóc cắt ngắn, một gương mặt đen nhẻm do cháy nắng, một chiếc áo đồng phục in dòng chữ “MEITOKU FC” và số 9 sau lưng, cậu bé này hẳn là người trong đội bóng đá. Cà phê mà Yousuke đang nói đến chính là cốc cà phê mang về đựng trong túi giấy đặt bên cạnh Kyouko lúc này. “Không sao, không sao đâu con. Bà không thích uống đồ nóng đâu.” Nói rồi, Kyouko lại ghé sát vào tai của Yousuke và nói nhỏ: “Mình đợi thêm một chút nữa con nhé.” Sau đó, chẳng đợi cậu bé trả lời, Kyouko đã lại nhìn về phía Goutarou. Goutarou ngẩng mặt lên như thể vừa mới hồi thần lại. “Đúng là… có lẽ cậu ấy sẽ ngạc nhiên.” Goutarou khẽ nói. “Đúng thế còn gì.” Nghe được câu trả lời của Goutarou, Kyouko nói với vẻ đắc ý. Đứng trong quầy bar, Kazu vừa nghe hai người họ nói chuyện vừa đưa cho Yousuke một cốc nước cam mới. Còn Yousuke cũng chẳng nói gì mà lặng lẽ gật đầu. “Nếu thực sự… nếu thực sự có thể quay về quá khứ, tôi có một điều rất muốn nói với Shuichi.” Mặc dù người hỏi lúc trước là Kyouko, nhưng Goutarou lại trả lời hướng về phía Kazu. Nghe được những lời này, Kazu bước ra khỏi quầy, tiến đến trước bàn của Goutarou. Vẻ mặt cô vẫn chẳng có gì thay đổi cả. Thỉnh thoảng cũng có những vị khách giống Goutarou nghe thấy tin đồn về quán nên đến đây, thế nhưng dù là ai thì thái độ của Kazu trước nay vẫn chưa hề thay đổi. “Quý khách có biết về các quy tắc không ạ?” Kazu chỉ đơn giản hỏi tiếp một câu. Trong số những vị khách từng đến thăm quán cà phê này, cũng có những vị khách chẳng biết một chút gì về những quy tắc đó cả. Nghe vậy, Goutarou ấp úng trả lời: “Vâng, đại loại…” “Đại loại?” Kyouko bật thốt lên. Dường như trong quán lúc này chỉ có mình Kyouko là đang hưng phấn mà thôi. Kazu chẳng nói gì, chỉ liếc Kyouko một cái, sau đó lại lặng lẽ quay về phía Goutarou. Goutarou cũng xấu hổ nói: “Tôi chỉ nghe là… khi ngồi xuống một chiếc ghế, được rót cho một tách cà phê thì sẽ trở lại được quá khứ.” Có lẽ vì khá căng thẳng nên Goutarou thấy cổ họng khô khốc. Anh với tay lấy ly nước trước mặt và nhấp một ngụm. “Về cơ bản là vậy, thế nhưng anh nghe được điều này từ đâu ạ?” Kyouko cất tiếng hỏi. “Tôi nghe Shuichi kể lại.” “Từ anh Shuichi… Ơ? Thế tức là anh đã nghe chuyện này từ hai mươi hai năm trước rồi sao?” “Vâng, khi lần đầu tiên đến quán này, tôi đã nghe Shuichi kể về chuyện đó. Dường như khi đó cậu ấy đã biết đến những chuyện kể về quán này rồi.” “Tôi hiểu rồi.” “Thế nên dù tôi có xuất hiện trước mặt cậu ấy trong dáng vẻ già nua hiện tại thì chắc chắn Shuichi sẽ thấy ngạc nhiên, nhưng rồi cũng sẽ ổn thôi.” Goutarou trả lời câu hỏi của Kyouko lúc trước. “Thế nào đây, Kazu?” Kyouko nói như thể chính bản thân mình cũng là người có quyền quyết định xem đối phương có được về quá khứ hay không. Thế nhưng, Kazu vẫn chẳng để ý đến cô ấy mà chỉ nói với Goutarou rằng: “Khi quay về quá khứ, dù anh có làm gì cũng không thể thay đổi hiện tại được đâu.” Nói cách khác, điều mà cô muốn anh biết là: Cái chết của người bạn của anh sẽ chẳng thể thay đổi được đâu. Cho đến tận bây giờ, đã có rất nhiều khách hàng đến quán cà phê này với mục đích “quay về quá khứ để thay đổi cái chết của một ai đó”. Và mỗi lần như thế, Kazu lại giải thích quy tắc này cho họ. Tất nhiên, thái độ lạnh nhạt ấy không phải là vì Kazu không hiểu được nỗi đau khi mất đi người thân. Thế nhưng, đây chính là quy tắc. Dù là ai, dù với lý do gì thì mọi chuyện vẫn chẳng thể thay đổi. Nghe được những lời này, Goutarou cũng không có vẻ gì là hoảng loạn, anh chỉ đáp lại một câu: “Tôi biết rồi.” Leng keng. Tiếng chuông cửa vang lên, một cô bé bước vào quán. Nhìn thấy cô bé ấy, Kazu không nói là chào quý khách mà nói: “Cháu đã về rồi đấy à.” Cô bé tên là Tokita Miki, là con gái của Tokita Nagare, chủ quán cà phê này. Trên lưng cô bé đeo một chiếc cặp đỏ chót, vui vẻ chào lại Kazu. “Con về rồi đây ~ ạ.” Giọng cô bé lanh lảnh vang vọng khắp quán. “Là bé Miki sao. Con có cặp sách mới rồi hả.” Kyouko cất tiếng hỏi. “Cô mua cho con.” Miki cười tươi chỉ vào Kazu và nói. Kyouko vừa nhìn Kazu vừa nhỏ giọng lẩm bẩm: “Nhưng lễ khai giảng là ngày mai cơ mà?” Tuy nói thế nhưng Kyouko cũng không ngăn cấm hay chế giễu gì hành động của Miki cả khi mà cô bé quá đỗi vui sướng vì được mua cặp mới, đến mức không chờ nổi đến ngày khai giảng đã đeo nó đi ra ngoài rồi. “Đúng vậy.” Kazu trả lời, khóe miệng cô cũng hơi cong lên một chút. “Bà Kinuyo có khỏe không ạ?” Miki bắt chuyện với Kyouko vẫn bằng giọng nói lanh lảnh vang khắp quán ấy. “Bà khỏe lắm. Hôm nay, bác còn đến mua bánh sandwich và uống cà phê do bố Miki làm cho bà nữa này.” Kyouko vừa giơ túi giấy trên bàn vừa trả lời cô bé. Cậu bé Yousuke ngồi cạnh Kyouko vẫn quay lưng về phía Miki như cũ, tập trung uống cốc nước cam thứ hai. “Bà Kinuyo không chán sao? Mỗi ngày, mỗi ngày, bà đều chỉ ăn bánh của bố.” “Bà rất là thích bánh sandwich và cà phê do bố Miki làm mà.” “Con không nghĩ bánh sandwich của bố ngon đến mức đấy đâu.” Miki vẫn giữ nguyên giọng nói như cũ, thế nên có lẽ người trong bếp cũng nghe được đoạn hội thoại này. “Này, con bảo bánh của ai dở hả?” Tokita Nagare với thân hình vạm vỡ cao gần hai mét vừa nói vừa cúi người đi qua cửa. Nagare là chủ quán cà phê này và cũng là bố của Miki. Mẹ của Miki tên là Kei, cô ấy bị bệnh tim bẩm sinh và đã qua đời từ sáu năm trước ngay sau khi sinh Miki. “A, vậy, tiểu nữ xin thất lễ tại đây.” Miki chẳng bận tâm đến Nagare mà chỉ nói một câu kỳ quái, sau đó cúi đầu chào Kyouko rồi nhanh chân chạy vào căn phòng trong góc. “Tiểu nữ?” Kyouko nhìn Nagare với ánh mắt con bé học được ở đâu vậy? Nagare cũng lắc đầu ngao ngán: “Chẳng biết nữa.” Ngồi bên cạnh nghe Kyouko và Nagare nói chuyện, Yousuke vừa chọc chọc cánh tay của Kyouko vừa nói: “Mình về thôi mẹ.” Cậu bé nói với vẻ uể oải. “Nào, nào mình về thôi.” Có lẽ chính Kyouko cũng thực sự nghĩ là bánh của Nagare không ngon. Rồi cô nhanh chóng đứng dậy và nói: “Vậy, tiểu nữ cũng xin phép.” Kyouko bắt chước theo Miki lúc nãy, sau đó để Yousuke cầm chiếc túi giấy rồi đưa tiền bánh sandwich, cà phê và tiền nước cam của Yousuke lên bàn mà chẳng cần nhìn phiếu ghi đồ. Cô cũng trả đủ cả tiền cốc nước cam thứ hai Kazu đưa cho Yousuke lúc trước. “Phần ly nước kia thì không cần trả tiền đâu ạ.” Kazu nói rồi thu tiền và để lại phần tiền của một cốc nước trên bàn, sau đó gõ hóa đơn cạch cạch cạch. “Sao thế được.” “Đây là tự em mời bé mà.” Kyouko không định nhận lại số tiền trên bàn, thế nhưng Kazu đã cho tiền vào két và in hóa đơn ra rồi. “Vậy, vậy?” Kyouko hơi lưỡng lự. Có lẽ cô cũng nhận ra rằng Kazu sẽ không nhận số tiền này nữa nên cô vừa nói “ghét quá đi” vừa cầm lại số tiền trên quầy, cất vào ví và nói: “Cảm ơn Kazu nhé.” Kazu vừa cúi đầu chào hai mẹ con vừa nói: “Cho tôi gửi lời chào tới cô Kinuyo.” Từ lúc bảy tuổi, Kazu đã theo học lớp vẽ của cô Kinuyo, và người khuyên Kazu nên thi vào trường Đại học Mỹ thuật trước kia cũng là cô Kinuyo. Sau khi tốt nghiệp, Kazu cũng có một thời gian làm trợ giảng ở đó, nhưng sau giai đoạn cô Kinuyo phải nhập viện thì Kazu đã đứng hết tất cả các lớp. “Kazu, để em phải kiêm việc ở đây và cả phòng tranh thật vất vả cho em quá, nhưng lớp vẽ tuần này vẫn trông cậy vào em cả.” “Không có gì ạ.” “Cảm ơn cô chú.” Nói rồi, cậu bé Yousuke cúi đầu chào Kazu và Nagare, sau đó bước ra ngoài trước. Leng keng. “Vậy, chào mọi người nhé.” Kyouko cũng vẫy tay chào mọi người rồi đuổi theo Yousuke. Leng keng. Không gian trong quán bỗng chốc tĩnh lặng hẳn. Quán cà phê này vốn dĩ không bật nhạc như những nơi khác, thế nên nếu không ai nói gì, nơi đây sẽ yên tĩnh đến mức nghe thấy cả tiếng lật sách của cô gái mặc váy trắng đang đọc tiểu thuyết ở bàn trong cùng kia. “Cô Kinuyo sao rồi?” Vừa rửa ly, Nagare vừa hỏi chuyện, thế nhưng Kazu lại chỉ trầm lặng không lên tiếng. “Vậy à.” Nagare nói nhỏ một câu, sau đó đi vào căn phòng sâu bên trong. Hiện giờ trong quán chỉ còn lại Goutarou, Kazu và cô gái mặc váy liền trắng. Kazu vừa dọn dẹp sau quầy như mọi khi vừa hỏi Goutarou: “Nếu không phiền thì anh có thể kể cho tôi nghe được không?” Điều mà Kazu muốn nghe chính là lý do Goutarou muốn trở về quá khứ. Nghe câu nói của Kazu, Goutarou liếc nhìn cô vài giây, ngay sau đó lại dời ánh mắt đi, chậm rãi hít thở sâu và nói: “… Thực ra.” Có lẽ, Goutarou cố ý không nói thực lý do muốn trở về quá khứ của mình. Sự tồn tại của người thứ ba như Kyouko lúc nãy có lẽ cũng là một nguyên nhân khiến anh không muốn nói lý do đó ra. Chỉ là hiện tại ngoài cô gái áo trắng kia ra, trong quán cũng chẳng còn ai nữa. Thế là Goutarou bắt đầu nói: “Con gái tôi sắp lấy chồng rồi.” “Lấy chồng?” “Vâng. Đúng ra là con gái của Shuichi.” Goutarou lẩm bẩm. “Tôi vẫn luôn muốn cho con bé thấy dáng vẻ người bố thực sự của nó…” Nói rồi, Goutarou lặng lẽ lấy một chiếc máy ảnh kỹ thuật số loại mỏng từ trong túi áo vest ra. “Nếu tôi có thể quay được một vài lời nhắn nhủ của Shuichi nữa thì…” Giọng Goutarou buồn buồn, yếu ớt. Kazu nhìn chằm chằm vào anh và nói: “Sau đó thì sao?” Sau khi cho con gái biết về sự tồn tại của người bố thực sự thì sao chứ. Goutarou có cảm giác như trái tim mình đang bị ai bóp nghẹt lại. Có lẽ cô phục vụ này không thường nói dối. Goutarou nhìn lên trần nhà, dường như anh đã có sẵn câu trả lời cho bản thân. “Nhiệm vụ của tôi cũng đến lúc kết thúc rồi.” Anh nói. Goutarou và Shuichi cùng tham gia câu lạc bộ rugby ở trường đại học, nhưng nếu nói hai người quen nhau từ khi nào thì lại phải quay ngược thời gian về tận thời điểm cả hai cùng tham gia một lớp học rugby ở trường tiểu học. Ngày đó, hai người ở hai đội khác nhau, thỉnh thoảng còn là đối thủ của nhau trong các trận đấu nữa. Thế nhưng, như thế cũng không có nghĩa là cả hai đều nhận thức được đối phương. Lên cấp hai, rồi cấp ba, cả hai vẫn tiếp tục tham gia câu lạc bộ rugby ở những trường khác nhau, rồi qua những trận đấu giao hữu, cả hai lại dần chú ý đến đối phương. Sau đó, hai người vô tình cùng thi vào một trường đại học và cùng chơi trong một câu lạc bộ rugby. Khi ấy, Goutarou chơi ở vị trí hậu vệ (full back), còn Shuichi chơi ở vị trí trung vệ (standoff). Nhắc đến trung vệ, đây là vị trí thường mang áo số 10 và là vị trí quan trọng trong môn rugby. Nó tương tự như vị trí đập bóng trong bóng chày hay tiền đạo trung tâm trong bóng đá. Hoạt động của Shuichi trong vị trí trung vệ này cũng rất đáng tự hào. Trong các trận đấu, anh ấy chơi đầy xuất thần, kèm theo một biệt danh là “Shuichi thiên lý nhãn”, thế nên đôi khi còn có tin đồn rằng “Cậu ta còn thấy được cả tương lai”. Trong một đội bóng rugby có mười lăm cầu thủ chia cho mười loại vị trí khác nhau, và Shuichi lại nắm bắt được hết những sở trường sở đoản của từng người trong đội, thậm chí anh ấy còn phán đoán được rằng đặt ai vào vị trí nào để người đó có thể phát huy hết khả năng của mình nữa. Một Shuichi như thế đã chiếm được lòng tin tuyệt đối của mọi người trong câu lạc bộ, kể cả các đàn anh khóa trên, đồng thời cũng được kỳ vọng trở thành một ứng cử viên sáng giá cho vị trí đội trưởng. Trong khi đó, Goutarou lại từng đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau từ hồi tiểu học cho đến đại học. Anh là người một khi đã được ai đó nhờ vả điều gì thì sẽ chẳng bao giờ nói không, thế nên nhiều lúc cũng bị nhét vào những vị trí thiếu người. Và người đã đặt Goutarou cố định vào vị trí hậu vệ chính là Shuichi. Hậu vệ là vị trí rất quan trọng trong môn rugby, đến mức vị trí này còn được ví như là “bức tường thành cuối cùng” vậy. Cầu thủ ở vị trí này phải dùng kỹ thuật húc người để chặn đứng những đòn tấn công đột phá bức tường phòng thủ của đội bạn và tránh cho đội nhà bị lọt lưới. Shuichi để Goutarou đảm nhiệm vị trí hậu vệ chính là vì kỹ thuật húc người tuyệt vời của Goutarou. Trong những trận đấu giao lưu hồi cấp hai và cấp ba, Shuichi cũng từng đối mặt với Goutarou, thế nhưng chưa một lần nào Shuichi có thể thoát khỏi gọng kìm của Goutarou cả. Một anh chàng có khả năng tuyệt vời như thế nếu ở cùng một đội với mình sẽ giúp tất cả các thành viên an tâm về phần sân nhà của mình. Ngày đó, Shuichi có thể thực hiện những đòn tấn công mạo hiểm như vậy chính là vì có một bức tường thép bảo hộ sau lưng là Goutarou. Câu nói cửa miệng của Shuichi trước mỗi trận đấu là: “Chỉ cần giao phía sau cho cậu là tôi yên tâm rồi.” Và rồi, bảy năm sau khi tốt nghiệp đại học, hai người lại gặp lại nhau ở quán cà phê này. Sau khi rời khỏi quán cà phê, cả hai đến căn hộ mà Shuichi đang sống. Khi về nhà, người ra đón hai người họ là vợ của Shuichi - chị Youko cùng với cô con gái mới sinh của họ. Có lẽ đã nhận được tin nhắn từ trước của Shuichi nên khi cả hai về nhà, Youko đã chuẩn bị nước tắm đầy đủ cho Goutarou. Với một Goutarou đang đầy mùi hôi hám, Youko vẫn chào đón hết sức nhiệt tình. “Anh là hậu vệ Goutarou đúng không ạ? Em đã nghe nhà em kể không biết bao nhiêu lần về anh.” Sinh ra ở Osaka, Youko là người thích nói chuyện chẳng kém gì Shuichi. Mỗi ngày, ngoại trừ lúc đi ngủ, hầu như lúc nào cô cũng nói chuyện, cô cũng thích nói đùa giúp mọi người vui vẻ. Youko không chỉ là người có đầu óc tinh tế mà còn hành động rất nhanh gọn. Chỉ ngày hôm sau là cô đã chuẩn bị chu đáo hết chỗ ở đến trang phục cho Goutarou. Từ ngày công ty phá sản, Goutarou đã mất dần niềm tin vào tình người trên thế gian này. Và nay, sau hai tháng giúp việc trong cửa hàng của Shuichi, anh cũng chậm rãi lấy lại dáng vẻ tươi sáng ban đầu của mình. Mỗi lần có khách quen đến quán là Youko lại rất tự hào giới thiệu về Goutarou: “Hồi học đại học, anh ấy từng là cầu thủ chơi bóng rugby cùng chồng tôi và là đồng đội mà chồng tôi tin tưởng nhất.” Những lúc như thế, Goutarou cũng vừa ngượng ngùng, vừa hạnh phúc nói về tương lai: “Tôi cũng đang cố gắng để khiến mọi người trong quán cũng có thể nói vậy với tôi.” Ngày đó, Goutarou đã nghĩ tất cả mọi thứ rồi sẽ lại tốt đẹp. Thế rồi, vào một buổi chiều nọ, Youko bị đau đầu kịch liệt, đến mức Shuichi phải đưa cô đến bệnh viện. Mặc dù vậy, quán ăn của họ cũng không thể đóng cửa được, thế nên hôm đó chỉ còn lại Goutarou ở lại quán và trông Haruka. Ngày hôm đó, bầu trời trong xanh không một gợn mây, những cánh hoa anh đào nhẹ nhàng bay theo gió như những bông hoa tuyết. “Haruka nhờ cậu nhé.” Nói rồi, Shuichi vội chạy đi. Đó cũng là lần cuối cùng Goutarou nhìn thấy Shuichi. Bố mẹ của cả Shuichi và Youko đều đã qua đời, vậy nên bé Haruka một tuổi khi đó đã không còn người thân thích nào trên đời này nữa. Trong đám tang của vợ chồng Shuichi, nhìn gương mặt tươi cười chẳng hiểu chuyện bố mẹ mất là gì của Haruka, trong lòng Goutarou quyết định mình sẽ nuôi nấng Haruka thay họ. Boong, boong, boong… Một chiếc đồng hồ quả lắc trên tường bỗng đánh tám tiếng. Nghe thấy tiếng chuông đồng hồ, Goutarou giật mình ngẩng đầu dậy. Lúc này, anh thấy hai mắt mình nặng trĩu, tầm nhìn cũng mơ hồ không rõ. “Nơi này là…” Nhìn lại một lượt anh mới nhận ra không gian quán cà phê được nhuộm màu nâu đỏ trong ánh sáng của những chiếc đèn tường, một chiếc quạt trần chầm chậm quay, những bức tường và cột trụ màu nâu sậm cùng ba chiếc đồng hồ quả lắc lớn chỉ cần liếc một cái là biết đó là những món đồ xưa cũ. Mất một lúc lâu Goutarou mới ý thức được bản thân mình đã ngủ quên lúc nào không hay. Bên trong quán cà phê lúc này cũng chẳng còn ai ngoài anh và cô gái mặc váy liền trắng. Goutarou dùng tay vỗ hai má cho tỉnh táo và lục lại trí nhớ của mình, thế rồi anh mới nhớ ra là sau khi nghe Kazu nói “Không biết lúc nào chiếc ghế có thể đưa anh về quá khứ mới trống” thì anh cứ ngồi thần ra đó đợi, đợi mãi và ngủ quên lúc nào không biết nữa. Bản thân anh cũng thấy ngạc nhiên với chính mình khi có thể ngủ quên trong những lúc như thế này, nhưng anh cũng không thể không thắc mắc tại sao nhân viên trong quán lại để mặc mình ở đây được. “Xin lỗi.” Goutarou gọi với vào bên trong. Thế nhưng chẳng có ai trả lời. Anh liếc qua chiếc đồng hồ quả lắc để xem thời gian, tuy nhiên ngay sau đó anh lại nhìn xuống đồng hồ đeo tay của mình. Từ lúc vào quán cà phê này, điều kỳ lạ đầu tiên anh để ý đến chính là ba chiếc đồng hồ quả lắc lớn trong đây. Dù có đến ba chiếc đồng hồ nhưng mỗi chiếc lại chỉ một giờ khác nhau. Đến lúc anh hỏi thì mới biết hai trong số ba chiếc dường như đang bị hỏng. Một chiếc thì nhanh hơn, một chiếc thì chậm hơn. Và dù có sửa bao nhiêu lần thì cũng không thể sửa được chúng. “Hai mươi giờ mười hai phút…” Goutarou lại nhìn về phía cô gái mặc váy liền trắng. Trong câu chuyện anh nghe được từ Shuichi, Goutarou chỉ nhớ rõ duy nhất có một điều. Đó chính là: Có một linh hồn đang ngồi trên chiếc ghế có thể quay về quá khứ. Đây đúng là chuyện nực cười và thật khó tin. Nhưng cũng chính vì thế mà anh mới nhớ rõ nó nhất. Cô gái đó chẳng bận tâm đến ánh nhìn của Goutarou, chỉ tập trung đọc cuốn tiểu thuyết của mình. … Sao nhỉ? Trong lúc nhìn cô gái đó, Goutarou có một cảm giác kỳ lạ như thể đã gặp người phụ nữ này ở đâu rồi thì phải. Thế nhưng nếu đó đúng là một linh hồn thì chuyện này quả thực không thể nào xảy ra được. Goutarou lặng lẽ lắc đầu để xóa đi những ký ức vừa mới vụt hiện lên. Cộp. Đột nhiên, cô gái mặc váy liền trắng đóng cuốn sách lại. Trong không gian yên tĩnh này, âm thanh ấy lại vang vọng khắp quán. Trái tim Goutarou như vọt lên tận cổ họng, anh suýt nữa thì ngã khỏi ghế. Nếu là một con người thì hành động của cô gái ấy cũng chẳng khiến anh ngạc nhiên đến vậy, thế nhưng đó lại là một linh hồn. Mặc dù anh không tin lắm, thế nhưng trong đầu Goutarou vẫn có quan niệm rằng “linh hồn = điềm gở”. “…” Cả người Goutarou cứng ngắc, chẳng dám cử động gì. Thậm chí anh còn cảm thấy lưng mình đang đổ mồ hôi lạnh. Cô gái mặc váy liền trắng lại chẳng để ý đến những biểu hiện ấy của Goutarou, cô lặng lẽ đứng lên, cẩn thận cầm lấy cuốn tiểu thuyết và đi về phía cửa. Goutarou vừa chịu đựng trống ngực đập thình thịch vừa nhìn theo cô gái trước mắt không tiếng động đi ra ngoài. Cô ấy đi ra cửa, quẹo phải rồi biến mất. Ở phía đó có một nhà vệ sinh. Linh hồn cũng đi vệ sinh sao? Goutarou vừa ngẫm nghĩ vừa nhìn chiếc ghế cô gái kia từng ngồi. Chiếc ghế có thể quay về quá khứ đó, hiện giờ, đang trống. Goutarou vừa cảnh giác nhìn ra cửa không biết cô gái mặc váy liền trắng kia có đột nhiên quay lại trong hình hài đáng sợ nào không vừa từng bước, từng bước rồi lại từng bước tiến gần đến chiếc ghế đó. Nhưng dù có nhìn chằm chằm vào nó thì anh vẫn thấy đấy là một chiếc ghế bình thường chẳng có gì đặc biệt cả. Phần chân ghế được thiết kế theo những đường cong uyển chuyển. Mặt ghế và lưng ghế được căng một lớp vải màu rêu nhạt. Ngay cả một người không hiểu gì về đồ cổ như Goutarou cũng biết chiếc ghế ấy chắc chắn rất có giá trị. Nếu ngồi vào chiếc ghế này… Ngay lúc Goutarou đưa tay chạm vào lưng ghế, từ phòng trong có tiếng lạch bạch, lạch bạch vang lên. Goutarou nhìn lên thì thấy có một cô bé mặc áo pajama từ phòng trong đi ra. Nếu anh nhớ không lầm thì cô bé chính là con gái của chủ quán cà phê này, cô bé tên là Miki. Miki lúc này cũng đang tròn mắt nhìn Goutarou. Mặc dù đang đứng một mình đối diện với một người lớn lạ mặt, nhưng cô bé cũng không có vẻ gì là hoảng sợ cả. Trước ánh mắt ngây thơ của Miki, Goutarou bỗng cảm thấy lúng túng. “… Chào cháu.” Goutarou vội vàng thu tay lại, ấp úng cất tiếng chào. Thấy vậy, Miki lững thững đi đến trước Goutarou, dùng đôi mắt to tròn nhìn anh và hỏi: “Bác ơi, bác muốn quay về quá khứ sao?” “A, chuyện đó…” Goutarou bối rối không biết nên trả lời cô bé sao cho phải. “Tại sao?” Miki lại nghiêng đầu hỏi, chẳng để ý đến sự lúng túng của Goutarou. Goutarou sợ rằng trong lúc mình nói chuyện với Miki, biết đâu cô gái mặc váy liền trắng kia sẽ quay lại thì sao, thế nên anh nhờ Miki: “Cháu có thể gọi nhân viên trong quán cho bác được không?” Vậy nhưng Miki vẫn để ngoài tai những lời ấy, cô bé nhanh chóng lách qua người Goutarou và đứng trước chiếc ghế cô gái kia vừa ngồi. “Kaname đi vệ sinh rồi.” Miki nhìn chiếc ghế trống rồi lại nhìn sang Goutarou và nói. “Kaname?” “…” Lúc này, Miki lại im lặng và nhìn về phía cửa. Goutarou cũng nhìn theo ánh mắt cô bé, đó là hướng mà cô gái mặc váy liền trắng lúc nãy đã đi ra. “A, cô gái đó tên là Kaname sao.” Chỉ là trước khi Goutarou kịp nói hết câu thì Miki đã kéo tay anh lại. “Bác ngồi đi.” Rồi cô bé lạch cạch thu dọn tách cà phê mà cô gái mặc váy liền trắng vừa uống, sau đó lạch bà lạch bạch đi về phía bếp, chẳng cho Goutarou có thời gian ngăn cô bé lại. Goutarou cứ thẫn thờ nhìn theo cô bé đi vào trong bếp một lúc lâu, nhưng trong lòng anh cũng có một mặt rất căng thẳng. Có lẽ nào cô bé ấy sẽ giúp mình quay về quá khứ. Đồng thời, Goutarou cũng lách mình ngồi vào chiếc ghế ấy. Goutarou không biết phải thực hiện những bước gì mới có thể quay về quá khứ, nhưng khi ngồi vào chiếc ghế đó, trống ngực anh lại đập liên hồi. Một lúc sau, Miki đi ra với một chiếc khay trên tay. Trên khay đó có một chiếc bình bạc và một chiếc tách trắng muốt. Cô bé lạch cạch mang chúng đến trước mặt Goutarou. “Giờ tiểu nữ sẽ pha cho ngài một tách cà phê.” Miki vừa giơ chiếc khay lên vừa nói. Chuyện, chuyện này không sao thật chứ. Suýt chút nữa thì Goutarou thốt ra câu ấy. Thế nhưng anh nhanh chóng kìm lại và đáp với vẻ lo lắng. “A, vâng.” Miki chẳng để ý đến sắc mặt của Goutarou lúc này. Đôi mắt to tròn của cô bé còn đang dính chặt vào những thứ trên chiếc khay kia. “Nếu có thể quay về quá khứ…” Khi Miki vừa nói câu này, Nagare trong một chiếc áo phông đã xuất hiện. “Con đang làm gì vậy?” Nagare thở dài lẩm bẩm. Thay vì tức giận, trông anh ngạc nhiên nhiều hơn. “Tiểu nữ định pha cà phê cho vị khách này đó.” “Con không làm được đâu. Còn nữa, thôi ngay cái kiểu tự xưng tiểu nữ này tiểu nữ nọ đấy đi.” “Tiểu nữ sẽ pha…” “Không được.” Tay run run cầm chiếc khay. Miki phồng má ngẩng đầu lên nhìn Nagare. Còn Nagare, đôi mắt nhỏ như sợi chỉ của anh lại càng híp nhỏ hơn nữa, môi cũng mím chặt lại, anh nhìn xuống Miki với vẻ nghiêm túc. Cả hai cứ nhìn nhau như thế, không ai chịu nhường ai. Trong bầu không khí này, ai lên tiếng trước sẽ là người thua cuộc. Chẳng biết từ lúc nào Kazu cũng đã đi ra. Cô nhẹ nhàng lách từ sau lưng Nagare lên trước rồi cúi người ngồi xuống trước mặt Miki. “Tiểu nữ…” Bị Kazu nhìn mình gần như vậy, hai mắt Miki bắt đầu lấp lánh ánh nước. Giây phút ấy đã quyết định cô bé thua cuộc rồi. Kazu mỉm cười nhìn cô bé và nói: “Huề nha.” Rồi Kazu lặng lẽ tiếp nhận chiếc khay từ trong tay Miki. Miki ngẩng đầu nhìn Nagare với đôi mắt còn đẫm nước. Nagare cũng chỉ nói “Được rồi”, sau đó lại dịu dàng chìa tay ra với cô bé. Trên mặt Nagare lúc này cũng không còn sự đáng sợ như vừa rồi nữa. “Vâng.” Miki cũng đáp rồi thành thực nắm tay Nagare và đứng bên cạnh anh. Vẻ khó chịu lúc nãy của cô bé cũng tiêu tan. Dù đó có là việc mình ghét, nhưng cô bé cũng sẽ không giữ trong lòng và thay đổi cảm xúc rất nhanh. Thấy Miki như vậy, Nagare lại cười khổ trong lòng. Con bé giống mẹ thật. Ngồi một bên nhìn từ nãy tới giờ, Goutarou chợt cảm thấy từ thái độ của Kazu đối với Miki, cô nhân viên này không phải là mẹ của đứa bé. Đồng thời, anh cũng hiểu cảm giác không biết làm gì với cô bé của Nagare vừa rồi. Dù sao anh cũng rất có kinh nghiệm khi một mình nuôi nấng Haruka ngần ấy năm. “Tôi sẽ xác nhận lại quy tắc một lần nữa.” Đứng bên cạnh Goutarou, Kazu nhẹ nhàng nói với anh. Quán cà phê lúc này lại quay về với sự yên tĩnh vốn có của nó. Goutarou chỉ nhớ được mang máng những quy tắc để quay về quá khứ mà Shuichi đã kể cho anh từ hai mươi hai năm trước. Điều anh nhớ được đại khái là có thể quay về quá khứ, khi quay về quá khứ, dù có làm gì thì hiện tại cũng không thay đổi và chuyện có một linh hồn đang ngồi trên chiếc ghế đó. Thế nên trong lòng anh cũng có chút bất an. Lúc này, nghe được câu nói của Kazu, anh cảm thấy thật may mắn. “Thứ nhất, dù có quay lại quá khứ anh cũng không thể gặp được những người chưa từng đến quán này.” Nghe thấy quy tắc này, Goutarou cũng chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên cả. Hai mươi hai năm trước, chính Shuichi đã mời Goutarou vào quán này. Đúng, chính là quán này, không thể sai được. Không thấy Goutarou có vẻ gì là bối rối, Kazu lại nói tiếp. “Khi quay về quá khứ, dù anh có cố gắng thế nào cũng không thể thay đổi được hiện tại. Khi quay về quá khứ, anh chỉ có thể ngồi yên trên chiếc ghế này mà không được rời đi đâu cả. Nếu anh rời đi, anh sẽ bị cưỡng chế đưa về hiện tại ngay lập tức.” Chỉ đến khi nghe thấy quy tắc này, Goutarou mới nói lại một câu: “Vậy sao?” Còn những quy tắc khác có lẽ đều nằm trong dự đoán của anh, thế nên anh vẫn bình tĩnh đáp lại: “Tôi hiểu rồi.” Sau cùng, Kazu nói một câu: “Tôi sẽ đi pha lại một bình cà phê khác, phiền anh đợi một chút.” Nói rồi, cô đi vào trong bếp. Kazu đi rồi, Goutarou mới hỏi Nagare đang đứng trước mặt mình: “Xin lỗi, cô ấy không phải là vợ anh đúng không ạ?” Thực ra Goutarou cũng không đặc biệt muốn biết chuyện này đến thế, chỉ là anh muốn nói vài câu trong lúc chờ đợi. “Vâng. Nó là em họ tôi.” Nói rồi, Nagare lại nhìn xuống Miki: “Mẹ của con bé, từ lúc sinh con bé…” Nói đến đây giọng Nagare im bặt. Nhưng chỉ vậy cũng đủ để Goutarou thấu hiểu. Anh chỉ nhàn nhạt đáp lại: “Là vậy sao…” Thế rồi anh cũng không hỏi gì thêm nữa. Nhìn Nagare với đôi mắt híp như sợi chỉ và bé Miki với đôi mắt to tròn lấp lánh, Goutarou thầm nghĩ “Chắc hẳn cô bé này giống mẹ.” Một lúc sau, Kazu cũng quay lại. Lần này, cô vẫn cầm một chiếc khay, trên đó để một chiếc bình bạc và một tách cà phê trắng giống như lúc cô đi vào bếp. Mùi hương cà phê mới pha lan tỏa khắp trong quán, thấm đẫm tận tâm can mọi người. Kazu lại đứng trước mặt Goutarou và làm tiếp công việc lúc nãy. “Giờ tôi sẽ rót cho anh một tách cà phê.” Vừa nói, Kazu vừa đặt chiếc cốc trắng xuống bàn. “Vâng.” Vừa trả lời, Goutarou vừa chú ý đến chiếc cốc. Một chiếc cốc màu trắng tinh, không một vết rạn và tưởng chừng như có thể nhìn xuyên thấu qua nó đập vào mắt Goutarou. Trong lúc này, Kazu lại tiếp tục giải thích. “Thời gian anh có thể quay về quá khứ được tính từ lúc tôi rót tách cà phê này cho đến khi nó nguội.” “Vâng.” Có lẽ Goutarou cũng đã nghe quy tắc này từ Shuichi, thế nên khi biết thời gian có thể quay về quá khứ chỉ có một khoảng ngắn như vậy mà trông anh cũng không có mấy ngạc nhiên. Kazu hơi gật đầu rồi lại nói tiếp: “Vậy, anh hãy uống hết tách cà phê này trước khi nó nguội. Nếu anh không uống hết thì…” Bình thường, sau câu này sẽ là “anh sẽ trở thành linh hồn và lại ngồi mãi ở chiếc ghế này.” Thế nhưng với những người quay về quá khứ thì quy tắc này ẩn chứa nguy hiểm rất cao. Bởi so với việc không gặp được người mình muốn gặp hay không thể thay đổi được hiện thực thì bản thân bị biến thành linh hồn là việc nguy hiểm hơn nhiều. Mặc dù vậy, nếu thay đổi cách nói thì quy tắc này lại nghe như một trò đùa thôi vậy. Và để tăng tính chân thực cho quy tắc này, Kazu thường ngừng một chút trước khi nói đoạn sau. “Khi đó tôi sẽ trở thành một con ma giấy sao?” Đúng lúc này, Goutarou lại lên tiếng. “Gì cơ?” Nghe Goutarou hỏi, Nagare bật thốt lên. “Ma giấy đúng không?” Goutarou lại hỏi một lần nữa. “Ngày trước khi nghe Shuichi kể về quy tắc này, tôi cũng thấy thật nực cười… A, xin lỗi. Chỉ là chuyện này thật khó mà tin được thế nên ngược lại tôi lại nhớ rất rõ.” Theo kinh nghiệm của Nagare thì khi không giữ được quy tắc này, người chịu tổn thương sâu sắc nhất không phải là người quay về quá khứ bị biến thành linh hồn mà chính là những người thân của họ còn lại ở hiện tại. Với trường hợp của Goutarou, nếu anh thực sự bị như vậy, không biết Haruka, con gái anh sẽ phải chịu cú sốc đến mức nào nữa. Thế nhưng, tại sao khi nhắc đến cái quy tắc “trở thành ma giấy” mà Goutarou nghe Shuichi kể lại, trông anh lại chẳng có vẻ gì là căng thẳng hết. Thậm chí, chuyện này còn có chút gì đó nghe thật buồn cười. Mặc dù vậy, ánh mắt của Goutarou lúc này lại hết sức nghiêm túc nên Nagare chẳng thể đơn giản nói một câu “không phải vậy”, mà anh lúng túng đáp: “A, cái đó, thực ra.” Đúng lúc này, Kazu lại lạnh nhạt đáp: “Đúng như vậy.” “Sao cơ?” Lần này, người ngạc nhiên cũng lại là Nagare. Anh ngạc nhiên đến mức mở lớn đôi mắt híp như sợi chỉ của mình, và miệng thì hả to ra. Đứng bên cạnh Nagare lúc này, Miki cũng tròn mắt nhìn anh như thể đang thắc mắc không biết từ ma giấy đấy có nghĩa là gì. Nhưng Kazu lại chẳng để ý đến vẻ ngạc nhiên của Nagare. Cô tiếp tục giải thích các quy tắc: “Xin anh hãy nhớ kỹ điều này. Nếu anh không uống hết cà phê trước khi nó nguội, anh sẽ biến thành ma giấy và phải ngồi lại đây mãi.” Kazu nhanh chóng đổi từ linh hồn thành ma giấy. Có lẽ trong đầu cô lúc này cũng chỉ còn suy nghĩ giải thích lại chuyện này thật là rắc rối. Dù sao thì, dẫu có là linh hồn hay là ma giấy, điều cô muốn nói cũng giống nhau cả thôi. “Vậy tức là cô gái vẫn ngồi đây từ nãy cũng?” Cô ấy cũng quay về quá khứ và không thể trở lại được nữa sao? Goutarou hỏi. “… Đúng vậy.” Kazu ngưng một chút rồi mới trả lời. “Tại sao cô ấy lại không uống hết được tách cà phê nhỉ?” Có lẽ Goutarou cũng chỉ hỏi vì tò mò thôi, thế nhưng anh chẳng thể đọc được một chút biểu cảm nào từ gương mặt lạnh lùng như đeo mặt nạ của Kazu lúc này. Goutarou thầm nghĩ: “Mình lỡ hỏi điều không được phép hỏi hay sao?” Vậy mà Kazu lại nhanh chóng khôi phục vẻ lạnh nhạt trong tích tắc. Cô nói: “Cô ấy đến gặp người chồng đã mất của mình và có lẽ cô ấy quên mất thời gian. Chờ đến khi cô ấy nhận ra mọi chuyện thì cà phê đã nguội rồi…” “Phần sau chắc không nói thì anh cũng hiểu rồi chứ.” Kazu thầm nghĩ. “Như vậy sao.” Goutarou đồng tình. Anh lại nhìn về phía cửa nơi cô gái ấy vừa đi ra. Thấy Goutarou cũng không hỏi gì hơn nữa, Kazu lại nói: “Giờ tôi rót cà phê nhé.” Goutarou hít một hơi và nói: “Vâng, nhờ cô.” Kazu nhấc chiếc bình bạc trên khay xuống. Ngay cả với một người không sành về dụng cụ ăn uống như Goutarou, chỉ cần nhìn qua anh cũng thấy chiếc bình ấy thực sự rất có giá trị. Tiếp đó, Kazu nói nhỏ một câu: “Vậy thì…” Đến đây, Goutarou bỗng nhận thấy sự thay đổi rõ rệt trong bầu không khí xung quanh qua từng thớ thịt. Nhiệt độ xung quanh như giảm xuống cả độ, và mọi thứ trong quán dường như trở nên trong suốt. Kazu nhấc cao chiếc bình, “Khi tách cà phê còn chưa nguội…” Vừa nói, cô vừa chậm rãi nghiêng chiếc bình để miệng bình tạo thành đường thẳng với lòng cốc. Hành động ấy cẩn thận, kín kẽ như một nghi thức và đẹp đến mức không ai có thể phá bỏ nó. Chờ đến khi miệng bình chỉ còn cách miệng cốc vài centimet, một dòng cà phê nhỏ như sợi chỉ đen lặng lẽ chảy vào cốc. Cả quá trình hầu như không có tiếng động nào cả khiến người ta hầu như không nhìn thấy sự chuyển động của dòng cà phê. Cái ta có thể xác định chắc chắn chỉ có mặt nước cà phê trong cốc dâng dần lên và chiếc tách dần dần đầy ắp cà phê trong đó. Goutarou không rời mắt một chút nào khỏi những hành động liên tục, nghiêm cẩn và đẹp đẽ đó. Anh nhìn làn hơi nóng bốc lên từ tách cà phê. Ngay lúc này, một cảm giác kỳ lạ, giống như một cơn choáng váng bất ngờ đổ ập đến, chiếc bàn mà Goutarou đang ngồi bắt đầu lung lay. Ngay lúc định dụi mắt vì cho rằng bản thân buồn ngủ, Goutarou bỗng kêu lên: “A…” Cả hai tay, rồi cả cơ thể anh đều đang hòa vào làn hơi ấy. Thứ đang dung đưa đung đưa không phải là cảnh vật xung quanh mà là chính bản thân Goutarou. Ngay lúc này, anh chợt nhận ra cảnh vật xung quanh đang chảy từ trên xuống theo một tốc độ đáng kinh ngạc. Giây phút đó, Goutarou bỗng hét lớn lên: “Dừng lại đi!” Cả người anh choáng váng, khó chịu như một người bị say xe. Thế nhưng, dòng chảy ấy vẫn cứ ngày một nhanh hơn, quay ngược lại hai mươi hai năm trước đó. Mắt Goutarou xoay tròn. Và ý thức anh ngày một xa dần khi anh nhận ra bản thân đang quay về quá khứ. Ngay sau khi vợ chồng Shuichi mất, Goutarou đã vừa một mình kinh doanh tiệm cơm vừa nuôi nấng Haruka. Vốn là một người có thể xử lý mọi việc chỉn chu, ngay từ khi Shuichi còn sống, một mình Goutarou đã có thể đảm đương hết mọi việc trong quán từ quản lý đến kinh doanh. Thế nhưng, là một người chưa có gia đình, việc chăm sóc, nuôi dạy một em bé như Haruka với anh lại là vấn đề khó ngoài mức tưởng tượng. Mặc dù Haruka khi đó đã một tuổi, nhưng cô bé cũng mới chỉ chập chững học đi và anh chẳng thể rời mắt khỏi cô bé được. Haruka thường hay khóc về đêm, thế nên một thời gian dài Goutarou cũng không được ngủ ngon. Thế rồi, sau đó anh nghĩ cho cô bé đi mẫu giáo mình sẽ rảnh hơn một chút, nhưng Haruka lại rất nhát người, ghét đi lớp và mỗi ngày đều khóc nháo. Đến khi vào tiểu học, Haruka nói muốn giúp việc ở cửa hàng, nhưng ngược lại chỉ gây rắc rối cho Goutarou. Cả ngày cô bé chỉ bập bẹ mấy từ vô nghĩa mới học được nhưng nếu không nghe thì cô bé sẽ lại khóc toáng lên ngay. Rồi những lúc ốm đau phát sốt, anh lại không thể không đưa con bé đi khám bệnh. Con bé là trẻ con đấy, mà lại có rất nhiều chuyện phải quan tâm. Nào là ngày sinh nhật, Giáng sinh, ngay cả Valentine nữa. Đến ngày nghỉ phải đưa con bé đi công viên chơi. Rồi con muốn cái này, con muốn cái kia… Mọi thứ khiến Goutarou xoay đến chóng cả mặt. Lên cấp hai cũng là lúc con bé bước vào thời kỳ phản nghịch, thậm chí khi học cấp ba, đã có lần anh nhận được thông báo của cảnh sát gọi lên gặp mặt. Đến tuổi yêu đương, con bé lại gây ra biết bao chuyện rắc rối khác nữa. Thế nhưng dù có chuyện gì xảy ra, Goutarou chưa bao giờ thôi ý nghĩ sẽ nuôi nấng và mang lại hạnh phúc cho Haruka. Ngày Haruka đưa cậu con trai tên là Obi Satoshi về nhà ra mắt là một ngày của ba tháng trước. Khi đó, cô đã nói hai người quen nhau với tiền đề là hướng tới hôn nhân. Sau ba lần đến nhà chơi, khi Obi nói với Goutarou rằng: “Xin bác hãy gả Haruka cho cháu.” Goutarou cũng chỉ nói rằng: “Được thôi.” Nghĩ đến hạnh phúc của Haruka, Goutarou chẳng có lý do gì để từ chối chuyện này cả. Tốt nghiệp cấp ba, Haruka đã rất hiểu chuyện, cô theo học tại một trường nghề đào tạo đầu bếp, và ở đó cô đã gặp Obi. Sau khi tốt nghiệp, Obi vào làm tại một khách sạn ở Ikebukuro còn Haruka quay về làm việc trong quán của nhà mình. Điều khiến Goutarou cảm thấy tội lỗi sâu sắc khi nói dối con bé chính là quyết định kết hôn của Haruka. Hai mươi hai năm trước, Goutarou đã nói với Haruka rằng cô là con gái ruột của anh. Và để che giấu sự thật cô chẳng còn thân thích nào trên cõi đời này nữa, cho đến tận bây giờ anh vẫn không để cho Haruka xem sổ hộ khẩu một lần nào cả. Thế nhưng một khi cô kết hôn thì mọi chuyện lại khác. Bởi khi làm đăng ký kết hôn, Haruka sẽ biết tất cả sự thực. Và điều đó cũng có nghĩa là lời nói dối của Goutarou sẽ bị phơi bày. Sau nhiều lần trăn trở, Goutarou quyết định sẽ nói sự thật cho Haruka biết trước hôn lễ. Nhưng khi đó, chuyện bố cô dâu trong đám cưới sẽ… Haruka mà biết sự thực thì nó sẽ bị tổn thương lắm. Giờ thì mọi chuyện cũng đã rồi, và có làm gì cũng chẳng thể thay đổi được nữa. Thế nhưng Goutarou cũng hối hận vì đáng lẽ bản thân nên nói mọi chuyện cho Haruka trước khi cô trưởng thành. “Quý khách, quý khách…” Vai bị ai đó lắc nhẹ, Goutarou liền mở mắt ra và trước mặt anh là một cậu con trai vạm vỡ. Goutarou vẫn còn nhớ cậu trai mặc quần đen đồng phục học sinh kèm theo một chiếc áo sơ mi trắng xắn tay và một chiếc tạp dề màu nâu này. Cậu ấy chính là Nagare - chủ quán cà phê. Chỉ là hiện giờ trông cậu trẻ hơn rất nhiều. Trong đầu Goutarou hiện lên hình ảnh của hai mươi hai năm trước. Ngày hôm đó đúng là có vị chủ quán trẻ tuổi này ở đây thật. Chiếc quạt trần quay chầm chậm trên trần nhà, những thanh xà, cột chống màu hạt dẻ, bức tường đất, ba chiếc đồng hồ với ba nấc giờ khác nhau và những chiếc đèn trùm tỏa ánh sáng nhuộm màu nâu đỏ cho cả quán, tất cả đều chẳng thay đổi gì suốt hai mươi hai năm. Thế nên, nếu không có Nagare trông trẻ tuổi trước mặt này thì có lẽ Goutarou cũng chẳng nhận ra được mình đã về quá khứ hay chưa. Nhưng nhìn hết một lượt trong quán, Goutarou bỗng thấy sốt ruột. Không có. Nếu đã quay lại đúng ngày đó thì chắc chắn cậu ấy phải ở đây. Thế nhưng giờ Goutarou lại chẳng thấy Shuichi đâu cả. Giờ Goutarou mới nhận ra rằng anh đã được nghe rất nhiều quy tắc, nhưng lại chẳng có điều gì nói rằng bản thân có thể quay lại đúng “ngày đó” cả. Đã vậy, thời gian quay trở về lại chỉ có một chút xíu cho đến khi cốc cà phê nguội đi, thế nên dẫu anh có quay trở về đúng “ngày đó” thì chắc gì đã đúng khoảng thời gian Shuichi đến đây. Biết đâu anh lại quay về trước khi hai người họ vào đây hay sau khi hai người họ đã quay về rồi. “Shuichi!” Vừa gọi, Goutarou vừa định nhổm ngươi dậy theo quán tính, thế nhưng Nagare lại dùng đôi tay vạm vỡ của mình để giữ chặt hai vai anh lại. “Anh ấy đang đi vệ sinh.” Nagare nói nhỏ. Ở tuổi năm mươi mốt, Goutarou vẫn rất cường tráng và vạm vỡ, thế nhưng Nagare lại có thể nhẹ nhàng giữ chặt vai anh như thể đang xoa đầu một đứa nhỏ vậy. “Người anh cất công đến đây để gặp hiện đang đi vệ sinh. Tôi nghĩ trong lúc này anh cứ nên ngồi yên tại chỗ và chờ đợi thì hơn.” Nghe Nagare nói vậy, Goutarou mới tỉnh táo lại một chút. Trong các quy tắc có một điều nói rằng nếu tự ý đứng dậy rời khỏi ghế, bản thân sẽ bị cưỡng chế đưa về hiện tại. Nếu không có Nagare ở đây có lẽ giờ Goutarou đã bị kéo về hiện tại rồi cũng nên. “Cảm, cảm ơn cậu.” “Không có gì.” Nagare tùy ý đáp một câu rồi lại quay về phía quầy bar, khoanh hai tay trước ngực và đứng sừng sững trong đó. Dáng vẻ này trông Nagare chẳng khác gì một thần giữ cửa cả. Giờ trong quán chẳng còn ai nữa. Không, không đúng. Hai mươi hai năm trước, khi Goutarou và Shuichi tới đây, ở bàn gần cửa ra vào có một cặp đôi đang ngồi và còn một người khác đang ngồi cạnh quầy bar. Chiếc ghế mà hiện tại anh đang ngồi, chiếc ghế để đưa người ta về quá khứ này ngày đó có một ông lão với bộ ria mép thượng lưu đang ngồi. Ông cụ ấy có một phong cách cổ điển đến mức ngày ấy Goutarou còn thầm nghĩ, “Người này có phải vừa từ thời Đại Chính đi đến đây không nhỉ?” Thế nên ấn tượng về ông lão ấy trong anh vẫn còn nguyên vẹn cho tới tận bây giờ. Chỉ là ngày ấy, ngoài ông lão này, ba vị khách kia đều không chịu được mùi hôi trên người Goutarou khi đó, thế nên họ đều nhanh chóng rời nhà hàng. Nhớ ra rồi. Đúng là trong lúc đang nói chuyện, Shuichi có đi vệ sinh một lúc. Ngay khi vào quán, Shuichi đã rất hào hứng nói về quán cà phê kỳ lạ có thể đưa người ta về quá khứ này, sau đó câu chuyện dần chuyển sang người Goutarou. Goutarou lấy tay lau mồ hôi trên trán rồi hít một hơi sâu. Ngay lúc đó, từ căn phòng bên trong góc có một cô bé tầm học sinh tiểu học đeo một chiếc cặp mới trên lưng xuất hiện. “Mẹ ơi, nhanh lên…” Cô bé hào hứng hướng về căn phòng gọi thật to. Thấy cô bé háo hức xoay lòng vòng trong quán, Nagare vẫn đứng khoanh tay như cũ và cất tiếng gọi: “Thích quá nhỉ.” “Vâng.” Cô bé mỉm cười trả lời, sau đó tung tăng nhảy chân sáo đi ra ngoài. Leng keng. Ngay cả chuyện này Goutarou cũng vẫn nhớ rõ. Ngày đó, anh chẳng để ý chuyện này lắm, hình như sau đó một người trông có vẻ là mẹ cô bé đi từ phòng ra. Thế là Goutarou nhìn về phía căn phòng. Chậm chút nào. Quả nhiên, một cô gái với mái tóc đen nhánh và nước da trắng đến mức tưởng như có thể nhìn thấu được xuất hiện. Trông cô ấy chắc khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi. Cô ấy mặc một chiếc áo len mỏng màu hồng nhạt mang hương vị mùa xuân và một chiếc váy tầng màu be. Cô gái đi ra và khẽ lẩm bẩm: “Ôi cái con bé này, mai mới là khai giảng cơ mà…” Tuy nói thế nhưng trông cô ấy chẳng có vẻ gì là chán nản cả, ngược lại trông cô ấy lại rất hạnh phúc. Nhìn đến gương mặt của cô gái ấy, Goutarou bỗng giật mình. Ớ? Goutarou nhận ra gương mặt ấy. Gương mặt ấy giống hệt gương mặt của cô gái mặc váy liền trắng vẫn luôn ngồi đọc tiểu thuyết ở chiếc ghế này. Nhưng biết đâu đây chỉ là người giống người thì sao. Trí nhớ của con người vốn là thứ rất mơ hồ. Giờ thì Goutarou cảm thấy thật hỗn loạn. “Thế này không sao thật chứ?” Nagare buông tay xuống, híp đôi mắt vốn đã nhỏ như sợi chỉ của mình lại và bắt chuyện với cô gái. Từ vẻ mặt của anh lúc này khó mà nhận ra điều gì, thế nhưng ngữ điệu ấy thể hiện rõ sự lo lắng cho cô gái. Vậy mà, cô gái ấy lại chỉ lắc đầu, mỉm cười nói: “Không sao đâu. Chỉ đi ngắm hoa anh đào gần đây thôi mà.” Nghe hai người nói chuyện, có vẻ như cô gái này không được khỏe, thế nhưng Goutarou lại chẳng thấy cô ấy có vẻ gì là khổ sở cả. Vì niềm vui, hạnh phúc của con cái thì dù khổ sở thế nào cũng chịu được, với một người từng một mình nuôi con như Goutarou, anh rất thấu hiểu điều này. “Vậy, nhờ Nagare trông quán nhé.” Nói rồi, cô gái tiến về phía cửa, đến đây, cô quay người lại, cúi đầu chào Goutarou rồi đi ra ngoài. Leng keng. Cô gái vừa đi ra ngoài thì Shuichi cũng quay vào. A… Từ nãy đến giờ, Goutarou vẫn luôn suy nghĩ về chuyện cô gái kia, thế nhưng giây phút Shuichi xuất hiện, hình ảnh cô gái trong đầu anh cũng biến mất luôn. Có thể nói là anh đã nhớ lại mục đích chính mình đến đây. Dáng vẻ của Shuichi lúc này đây vẫn luôn trẻ trung đúng như trong ký ức của Goutarou. Và ngược lại, từ con mắt của Shuichi, Goutarou bây giờ lại già đi một cách đáng kinh ngạc. “Ớ?” Shuichi bối rối nhìn chằm chằm vào Goutarou không hiểu tại sao mình mới đi vệ sinh một lúc mà người đã già thành như vậy. “Shuichi.” Goutarou vừa mới gọi một tiếng thì Shuichi đã giơ hai tay về phía trước xua xua. “Từ từ đã, từ từ đã, từ từ đã.” Thế rồi Shuichi đứng nguyên một chỗ, nhìn Goutarou chằm chằm bằng đôi mắt sắc lẻm. Chết rồi. Goutarou thầm đoán, chính Shuichi đã chỉ cho mình biết chuyện quán cà phê này có thể đi về quá khứ thế nên dù bản thân mình có xuất hiện trong bộ dạng già nua thì cậu ấy cũng có thể nắm bắt tình hình ngay lập tức. Và suy đoán này của Goutarou cũng có căn cứ cả. Shuichi từ lâu đã nổi tiếng là người có óc quan sát. Xét về khả năng quan sát, phân tích và phán đoán, Shuichi là người có tài năng vượt trội, chính tài năng ấy đã làm nên một cầu thủ Shuichi hạng nhất một thời. Trước mỗi trận đấu, Shuichi thường điều tra toàn bộ về thói quen, tính cách của đối thủ của mình và ghi nhớ tất cả trong đầu. Với vai trò chỉ huy, Shuichi luôn làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo mọi người cản trở đối thủ và giúp tiền đạo tiến công ghi điểm. Dù là trong hoàn cảnh khó khăn cỡ nào, những phân tích và phán đoán của Shuichi cũng chưa bao giờ nhầm lẫn cà. Chỉ là, tình huống hiện nay có lẽ khó tin đến mức ngay cả Shuichi cũng khó mà tiếp thu nổi. Goutarou dùng hai tay chạm vào tách cà phê để kiểm tra độ ấm vừa định giải thích tình huống của bản thân. “Shuichi này, thực ra…” Thế nhưng, cà phê lại nguội nhanh hơn Goutarou tưởng tượng nên nếu muốn nói hết những điều mình muốn trước khi cà phê nguội ngắt thì anh không còn thời gian để giải thích tình huống nữa. Trên trán Goutarou giờ lại toát đầy mồ hôi. Mình nên nói gì bây giờ nhỉ? Goutarou bối rối. Nếu giải thích từ đầu thì chắc chắn cà phê sẽ nguội trước khi anh nói hết. Nếu như Shuichi không tin anh đến từ tương lai thì chuyến đi này của Goutarou sẽ chẳng đạt được mục đích. Mình có thể giải thích rõ ràng được không nhỉ? Không, chắc chắn không rồi. Bản thân Goutarou cũng biết rất rõ rằng mình không giỏi trong những việc như thế này. Giá mà có dư dả thời gian thì tốt. Thế nhưng, hiện tại anh lại chẳng biết khi nào thì cà phê sẽ lạnh ngắt, thêm vào đó, Shuichi lại đang nhìn anh chằm chằm với vẻ cảnh giác. Ánh mắt ấy làm trái tim Goutarou thắt lại. “Dù tớ có nói cậu hãy tin tớ đi thì có lẽ cậu cũng không tin…” Dù gì cũng phải nói nhưng ngay lúc Goutarou vừa bắt đầu thì… “Cậu đến từ tương lai à?” Shuichi đã cực kỳ thận trọng đặt câu hỏi như đối với một người bất đồng ngôn ngữ với mình. “Ừ!” Goutarou cao hứng trước óc quan sát tuyệt vời của Shuichi, anh cao giọng trả lời. Shuichi lấy tay chống trán, lầm bầm mấy câu nghe không rõ, sau đó lại hỏi tiếp: “Mấy năm sau?” “Sao?” “Cậu từ tương lai bao nhiêu năm sau đến đây?” Shuichi vừa bán tín bán nghi nói, vừa ổn định lại tâm trạng của bản thân để tiếp nhận tình huống này. Trước đây, anh cũng làm như vậy trước mỗi trận đấu rugby, thu thập từng chút từng chút thông tin một. Cậu ấy chẳng khác gì với trước đây. Goutarou trả lời từng câu hỏi của Shuichi. Bởi đây chính là cách tốt nhất để Shuichi có thể tin tưởng vào câu chuyện của anh. “Hai mươi hai năm sau.” “Hai mươi hai năm?” Shuichi mở tròn mắt. Ngay cả lúc thấy Goutarou sống vất vưởng trên đường trông anh cũng không ngạc nhiên đến thế. Người đã chỉ cho Goutarou biết quán cà phê này có thể đi về quá khứ chính là Shuichi, nhưng anh ấy cũng không ngờ bản thân mình lại thực sự gặp được một người đến từ tương lai thế này. Thêm vào đó, mới chỉ một lúc bản thân đi vệ sinh mà Goutarou đang nói chuyện với mình trước đó đã già thêm hai mươi hai tuổi thì làm sao mà anh không ngạc nhiên cho được. “Cậu già rồi.” Lẩm bẩm một câu như vậy, vẻ mặt của Shuichi đã dịu đi một chút. Đây là dấu hiệu cho thấy căng thẳng đã được giải trừ. Nghe vậy, Goutarou cũng hào hứng đáp lại. “Ừ.” Một ông chú năm mươi mốt tuổi lại hào hứng như một đứa trẻ trước mặt một anh chàng hai mươi chín tuổi. Với Goutarou mà nói, đây là cuộc hội ngộ sau hai mươi hai năm với vị ân nhân đã cứu giúp cả cuộc đời mình. “Trông cậu vẫn khỏe mạnh lắm.” Nói rồi hai mắt Shuichi đỏ hoe. “Này, này… sao cậu.” Thấy Shuichi như vậy, Goutarou luống cuống định đứng dậy. Trước đó, Goutarou đã dự đoán Shuichi sẽ rất ngạc nhiên khi thấy bản thân già cả như vậy nhưng anh cũng không ngờ Shuichi còn có phản ứng như thế này. Shuichi đi đến trước mặt Goutarou và ngồi vào chiếc ghế đối diện. “Shuichi?” Có tiếng nước mắt tí tách rơi. Goutarou hoảng hốt lên tiếng. Thế nhưng Shuichi đã run rẩy nói: “Bộ vest đẹp đấy…” Thế rồi, tiếng nước mắt lại tí tách rơi. “… Nó rất hợp với cậu.” Goutarou đang ngồi trước mắt Shuichi lúc này đúng là dáng vẻ mà Shuichi định giúp cậu ta vực dậy một lần nữa. Goutarou mà lúc nãy anh gặp trên đường đều đã nhão nhoét cả về hình thức lẫn tâm hồn mất rồi. Thế nên, trông thấy Goutarou trước mặt mình lúc này, Shuichi thực sự vui mừng từ tận sâu trong tâm hồn. “Hai mươi hai năm rồi sao… cậu vất vả quá.” “Không, cũng chỉ như cái chớp mắt thôi mà.” “Vậy sao?” “Ừ.” Shuichi mỉm cười mà mắt vẫn đỏ hoe. “Tất cả là nhờ có cậu.” Goutarou nói. “Vậy sao, ha ha ha.” Shuichi cười to rồi lấy khăn tay ra xì mũi. Nhưng tiếng nước mắt rơi xuống mặt bàn vẫn không ngừng lại. “Vậy?” Shuichi nhìn Goutarou như muốn nói, “Cậu đến đây làm gì?” Thực ra Shuichi cũng không định hỏi dồn dập như vậy. Nhưng anh ấy biết theo quy tắc của quán cà phê này thì cuộc gặp gỡ của đôi bên sẽ bị hạn chế về thời gian. Thêm vào đó, anh ấy cũng không nghĩ ra được lý do vì sao Goutarou lại lặn lội về đây gặp mình thế này. Thế nên Shuichi chọn cách hỏi trực tiếp nhất để đi vào vấn đề. Tuy nhiên lần này Goutarou lại chẳng trả lời ngay. “Sao vậy?” Giọng điệu của Shuichi như thể đang dỗ dành một đứa bé đang khóc nhè vậy. Goutarou lại với tay lấy tách cà phê, vừa kiểm tra độ ấm bên trong vừa thận trọng nói: “Haruka sắp kết hôn rồi.” “… Gì cơ?” Quả nhiên, Shuichi cũng hết sức bất ngờ trước những lời này. Trong giây phút ấy, Shuichi cũng quên cả cười. Cũng đúng thôi, lúc này với Shuichi thì Haruka chỉ là một cô bé con mới chào đời thôi mà. “Cái gì? Cái gì cơ? Cậu nói cái gì?” “Từ từ, cậu bình tĩnh đã nào.” Chuyện Shuichi kích động như vậy cũng nằm trong dự đoán của Goutarou. Vừa nói vài lời trấn định Shuichi, Goutarou vừa nhấp một ngụm cà phê. Anh không biết khoảng bao nhiêu độ thì cà phê được cho là nguội nữa, nhưng ít nhất hiện tại nó vẫn còn ấm hơn nhiệt độ cơ thể con người. Vẫn còn chút thời gian. Goutarou để lại tách cà phê xuống đĩa rồi sắp xếp mọi thứ trong đầu, kể lại câu chuyện đã chuẩn bị trước đó. Anh cố gắng trấn tĩnh hết mức có thể. Bởi anh không muốn Shuichi nhận ra chuyện bản thân mình sẽ chết. “Thực ra trong tương lai, cậu định để cho bản thân của hai mươi hai năm trước thực hiện bài phát biểu trong đám cưới của Haruka.” “Tớ á?” “Ngạc nhiên không?” “Ngạc nhiên…” “Vì Shuichi trong tương lai không đến đây gặp cậu được nên…” “… Nên cậu mới đến thay sao?” “Ừ.” Goutarou lại cảm thán sức quan sát của Shuichi. “Tôi hiểu rồi…” “Thế nào? Thú vị không?” “Đúng là rất thú vị.” “Đúng thế mà.” Goutarou lấy một chiếc máy ảnh mới mua ra. Loại máy ảnh này là máy ảnh cỡ nhỏ có thể ghi hình mà hai mươi hai năm trước vẫn chưa có. “Đây là?” “Máy ảnh đấy.” “Nó nhỏ thế này cơ à?” “Ừ. Nó có thể quay phim nữa.” “Cả quay phim nữa sao?” “Ừ.” “Tuyệt thật đấy.” Shuichi nhìn chằm chằm vào Goutarou đang lúng túng tìm nút bật nguồn. “Cậu mới mua nó à?” “Hả? Ừ.” Goutarou vô thức đáp lại. “Cậu vẫn sơ ý như ngày nào.” Shuichi nghiêm túc nói. “Xin lỗi… Nếu tớ hỏi kỹ cách sử dụng thì tốt rồi.” Nghe Shuichi nói vậy, hai tai Goutarou đỏ bừng. “Không phải chuyện chiếc máy ảnh…” Shuichi lại lầm bầm. “Sao?” “Chẳng có gì cả.” Shuichi nói rồi duỗi tay ra lấy tách cà phê trước mặt Goutarou. Dường như anh ấy đã nhận ra thời gian hai người gặp nhau chỉ đến khi tách cà phê này nguội. “Được rồi!” Shuichi hô một câu lấy tinh thần, sau đó đứng dậy, xoay lưng về phía Goutarou. “Làm một phát ăn ngay chứ?” Shuichi nói. Goutarou cũng kiểm tra lại độ ấm của cà phê. Giờ có lẽ cũng chẳng còn thời gian để quay đi quay lại nhiều lần nữa, thế nên anh đáp: “Ừ, nhờ cậu cả đấy…” “Quay thôi.” Goutarou nói rồi nhấn nút ghi hình của máy ảnh. Ngay lúc này, Shuichi lại lẩm bẩm: “… Cậu từ trước đã không biết nói dối.” Nhưng có lẽ Goutarou không nghe được câu nói ấy nên anh chẳng có phản ứng gì đặc biệt cả mà tiếp tục hướng máy quay về phía Shuichi. “Gửi tới Haruka của bố ở hai mươi hai năm sau. Chúc mừng con đã kết hôn.” Nói được câu đầu tiên này, Shuichi lấy chiếc máy ảnh từ tay Goutarou và lui lại đến một khoảng cách mà anh không với đến được. “Này.” Ngay lúc Goutarou định với tay ra thì Shuichi đã lớn tiếng quát: “Đừng di chuyển!” Nghe vậy, Goutarou sững người một giây. Anh vô thức lại định đứng dậy, quên mất quy tắc của quán này là khi quay về quá khứ tuyệt đối không được đứng dậy khỏi ghế. Nếu đứng dậy bản thân sẽ bị cưỡng chế đưa về hiện tại. “Cậu định làm gì?” Goutarou cất tiếng hỏi. Giọng của anh vang vọng khắp trong quán, thật may là lúc này chỉ còn hai vị khách là Goutarou và Shuichi ở đây cộng thêm một Nagare đang đứng trong quầy nữa mà thôi. Thêm vào đó, Nagare chỉ khoanh tay đứng im ở đó như thể chẳng để ý gì đến hành động của hai người họ cả. Shuichi thở “phù” một hơi, sau đó anh ấy lại hướng máy ảnh về phía mình và tiếp tục nói. “Haruka, chúc mừng con.” Goutarou không hiểu vì sao Shuichi lại lấy máy ảnh của mình, thế nhưng thấy Shuichi vẫn gửi lời chúc tới Haruka anh cũng thở phào nhẹ nhõm. “… Ngày con được sinh ra cũng là ngày hoa anh đào nở rộ… Cho đến tận bây giờ, bố vẫn nhớ rõ cảm giác khi lần đầu ôm một cô bé đỏ hỏn, nhỏ xíu là con.” Goutarou thầm cảm thấy may mắn vì Shuichi rất phối hợp để quay đoạn video này. Anh với tay lấy tách cà phê, định khi nào đoạn video kết thúc thì bản thân cũng quay về luôn. “Chỉ cần nhìn thấy nụ cười của con là bố đã cảm thấy rất hạnh phúc. Nhìn gương mặt say ngủ của con là bố lại được tiếp thêm sức mạnh để cố gắng. Con được sinh ra khiến bố trở thành người hạnh phúc nhất trên đời này. Con quan trọng với bố hơn bất cứ ai. Vì con, bố có thể làm mọi chuyện…” Mọi chuyện đang tiến triển theo đúng kế hoạch của Goutarou. Giờ chỉ còn việc lấy lại máy ảnh và quay về nữa thôi. Vốn chỉ còn mỗi việc đó nữa thôi. “Bố luôn mong, luôn…” Nói đến đây, đột nhiên giọng Shuichi nghẹn lại. “… luôn mong con được hạnh phúc.” Tí tách, tí tách. “Shuichi?” “Thôi đủ rồi.” “Ớ?” “Nói dối thế đủ rồi, Goutarou…” “Nói dối? Điều gì?” Shuichi nhìn lên trần nhà và hít một hơi sâu. Hai mắt anh lại đỏ bừng. “Shuichi?” Shuichi tự cắn mu bàn tay mình. Đau đớn giúp anh tìm lại lý trí. “Shuichi!” Tí tách. “Đám cưới của Haruka…” Tí tách, tí tách. “… Tớ không tham dự được đúng không.” Shuichi vừa nghiến răng vừa nói từng từ từng chữ một. “Cậu, cậu nói cái gì thế hả. Ai bảo cậu như thế hả…” Shuichi lại ngắt đứt những lời một mực phủ nhận của Goutarou. “Tớ, chẳng có, lý do gì, để tin, vào lời, nói dối, đó được.” “Không phải nói dối.” Nghe được những lời này, Shuichi lại dùng đôi mắt đỏ hoe nhìn chằm chằm vào Goutarou. “… Thế, tại sao, cậu lại cứ khóc mãi thế hả?” Shuichi nghẹn ngào. “Gì cơ?” Tí tách, tí tách, tí tách… Goutarou thầm nghĩ, “Không thể nào.” Nhưng đúng như lời Shuichi nói. Trên gương mặt Goutarou lúc này là những giọt nước mắt lã chã rơi. Goutarou vội vã lau đi những giọt nước mắt ấy, vậy nhưng lau mãi, lau mãi thì tiếng những giọt nước mắt rơi xuống mặt bàn vẫn cứ vang lên. “Ơ, sao thế này. Từ lúc nào nhỉ?” “Cậu không nhận ra sao? Ngay từ đầu…” “Từ đầu?” “Ừ, từ lúc tớ vào nhà vệ sinh ra, cậu đã khóc suốt…” Goutarou nhìn xuống bàn. Chiếc bàn trước mặt anh giờ đã bị nước mắt đọng thành một vũng nước mất rồi. “Đây, đây là…” “Vả lại…” “?” “Cậu chỉ gọi con bé là Haruka không.” “!” “Có lẽ cậu gọi thế theo thói quen, nhưng đó cũng là cậu đã nuôi nấng Haruka như con gái của mình… đúng không.” “Shuichi…” “Thế nên…” “Không phải thế…” “Nói thật cho tớ biết…” “…” “Tớ…” “Từ đã…” “… sẽ chết sao?” Tí tách, tí tách, tí tách… Thay cho câu trả lời, nước mắt của Goutarou lại càng nhiều hơn. “… Vậy sao.” Nghe Shuichi nói vậy, Goutarou lắc đầu quầy quậy như một đứa trẻ. Nhưng anh chẳng thể nói dối Shuichi được nữa. Và rồi, nước mắt anh cứ chảy mãi, chảy mãi mà chẳng thể kiềm lại được. Hai vai của Goutarou run run, thậm chí cổ họng còn phát ra những tiếng nức nở. Tuy vậy, anh vẫn cố mím chặt môi, thậm chí còn cúi gằm mặt xuống như thể muốn che đi những giọt nước mắt của mình. Shuichi loạng choạng đi đến chiếc bàn gần cửa ra nhất và ngồi xuống. “… Khi nào?” Shuichi đang hỏi cái chết của bản thân là khi nào. Goutarou định uống hết cốc cà phê và quay về tương lai luôn, nhưng hai tay anh vẫn cứ nắm chặt, căng cứng để trên đầu gối, cả người cứng ngắc không cử động được. “… Cậu… đừng… nói dối… tớ nữa.” Shuichi nhìn Goutarou với ánh mắt cảnh cáo. Không trốn tránh được ánh mắt ấy, Goutarou chắp hai tay lại như thể đang cầu nguyện, sau đó chống lên trán và hít một hơi sâu. “Một năm sau…” “… một năm, sau?” “Tai nạn giao thông…” “Vậy, vậy sao…” “Chị Youko cũng…” “Vậy, vậy sao… Youko cũng…” “Thế nên tớ… đã nuôi… bé… Haruka…” Lúc này, Goutarou lại khá kỳ quặc khi tự nhiên thêm chữ “bé” lúc gọi tên Haruka, nhưng Shuichi cũng chỉ vừa cười vừa nói: “Vậy sao…” “Và… tớ nghĩ sẽ kết thúc tất cả trong hôm nay.” Giọng Goutarou nhỏ dần nhỏ dần rồi như mất hẳn. Trong suốt hai mươi hai năm này, Goutarou chẳng thể nào tháo gỡ nổi suy nghĩ rằng mối quan hệ cha con với Haruka là dựa trên cái chết của Shuichi. Thêm vào đó, cuộc sống hai cha con thế này lại khiến Goutarou thực sự cảm thấy hạnh phúc. Nhưng càng cảm thấy hạnh phúc thì cái ý niệm “bản thân chẳng có gì đáng để được hạnh phúc khi mà mình đã chiếm chỗ của Shuichi trong anh lại ngay càng mãnh liệt. Nếu anh sớm nói cho Haruka biết bản thân không phải là cha đẻ của cô thì có lẽ mối quan hệ giữa hai người đã khác hiện tại rồi. Nhưng giờ có hối hận thì cũng đã muộn. Đám cưới của Haruka đã đến gần. Và việc bản thân cứ kéo dài mãi thời khắc phơi bày sự thật này lại ngày càng đè nặng tinh thần Goutarou. Tớ đã không nói sự thật vì sợ mất đi niềm hạnh phúc của bản thân. Và đây chẳng khác gì là sự phản bội đối với ân nhân của mình là Shuichi cũng như với Haruka. Một kẻ như tớ không có tư cách để tham dự một lễ cưới quan trọng như vậy. Thế nên, Goutarou đã định sau khi nói hết sự thật sẽ biến mất, không xuất hiện trước mắt Haruka nữa. Shuichi cầm chiếc máy ảnh rồi từ từ đứng dậy, đi đến bên cạnh Goutarou và hướng camera của máy ảnh sao cho cả hai người đều vào được khung hình, sau đó khoác tay lên vai Goutarou và nói: “Cậu định không tham dự lễ cưới sao?” Shuichi lắc nhẹ hai vai Goutarou. Shuichi đã nhìn thấu tất cả suy nghĩ của Goutarou. “… Ừ.” Goutarou rầu rĩ đáp. “Bố của Haruka là Shuichi, là cậu… Thế nhưng… thế nhưng, tớ lại không nói cho Haruka biết điều đó. Trong khi tớ, cuộc đời tớ là nhờ có cậu cứu vớt… Đây là chuyện tớ không được phép nghĩ đến… nếu như, Haruka, thực sự là con gái… của tớ…” Goutarou nghẹn lại. “Thế mà tớ lại nghĩ thế đấy…” Goutarou lấy hai tay ôm mặt, khóc tu tu như một đứa trẻ. Đúng vậy, Goutarou vẫn luôn tự dằn vặt bản thân. Cái suy nghĩ “nếu Haruka là con gái của mình” ấy chẳng khác nào anh đang phủ định sự tồn tại của Shuichi cả. Càng biết ơn Shuichi thì Goutarou lại càng thấy ghê tởm chính bản thân mình khi có suy nghĩ như thế. “Vậy sao. Tớ biết rồi… Cậu, cậu lại tự dằn vặt mình chứ gì.” Shuichi lớn tiếng nói. “Tớ hiểu rồi… chúng ta sẽ kết thúc mọi chuyện trong hôm nay.” Rồi Shuichi thì thầm vào tai Goutarou như vậy. “Xin, xin lỗi…” Goutarou đáp. Nước mắt từ kẽ tay lại chảy tí tách xuống mặt bàn. “Được rồi!” Nói rồi, Shuichi lại hướng máy quay về phía mình và nói: “Haruka này, bố có một ý kiến.” Giọng của anh vang vọng khắp quán. “Từ hôm nay trở đi…” Nói rồi Shuichi kéo Goutarou lại gần rồi nói. “Bố của con sẽ có hai người là bố và bố Goutarou nhé.” Goutarou cứng đờ. Nhưng Shuichi cũng chẳng để ý đến điều đó. “Từ hôm nay trở đi con sẽ có thêm một người bố nữa. Thế nào? Có được không con?” Anh vẫn tiếp tục nói. Cuối cùng, Goutarou cũng ngẩng đầu lên. “… Cậu nói cái gì thế hả?” Shuichi quay về phía Goutarou và nghiêm cẩn nói: “Cậu, phải hạnh phúc đấy nhé!” Rồi Shuichi lại nói thêm: “Đừng để ý đến tớ và tự dằn vặt mình nữa…” Goutarou chợt nhớ lại ngày xưa. Shuichi lúc nào cũng như vậy, dù trong hoàn cảnh khó khăn đến thế nào thì anh ấy vẫn sẽ lạc quan tiến bước. Dù vào thời điểm nào, dù trong hoàn cảnh ra sao, anh ấy vẫn chỉ nhìn về phía trước. Dù biết rằng bản thân sẽ chết, nhưng anh ấy vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người khác… “Cậu phải hạnh phúc đấy, Goutarou…” Trong một góc nhỏ của quán cà phê, hai người đàn ông vạm vỡ đang chụm vai vào nhau khóc nức nở. Chiếc quạt trần trên đầu họ cứ chầm chậm, chầm chậm quay. Người ngừng khóc trước là Shuichi. Anh nắm vai Goutarou và nói: “Được rồi, ngẩng mặt lên đi. Chúng ta cùng gửi lời chúc tới đám cưới của Haruka nào.” Goutarou dựa vào cánh tay của Shuichi và ngẩng mặt lên, nhưng gương mặt ấy giờ lem luốc đầy nước mắt. “Xem cậu kìa, cười một cái coi.” “…” “Nhanh nào, hai chúng ta cùng cười và nói chúc mừng đám cưới Haruka đi nào.” Goutarou cố gắng nở một nụ cười nhưng anh lại chẳng thành công. Thấy dáng vẻ này của Goutarou, Shuichi cười nhạo anh một cái: “Ha ha ha, mặt cậu buồn cười quá đi.” Nói rồi Shuichi nhét chiếc máy ảnh vào tay Goutarou. “Cậu nhất định phải cho Haruka xem video này đấy.” Nói rồi, Shuichi đứng phắt dậy. “Xin lỗi.” Goutarou vẫn không ngừng được nước mắt. “Cà phê có ngon không ạ?” Đứng trong quầy bar, Nagare đột nhiên nói một câu. Có lẽ đây cũng là lời nhắc nhở của Nagare: Đừng quên thời điểm cà phê nguội nhé. Nghe vậy, Shuichi kêu “A” một tiếng. Goutarou nhìn chằm chằm vào Shuichi và hét lên: “Shuichi!” “Không sao. Tớ không sao mà.” Mặc dù Shuichi đã nói vậy nhưng biểu hiện của Goutarou vẫn như đưa đám. Thấy vậy, Shuichi cười khổ, vỗ vai Goutarou một phát và bảo: “Được rồi, cậu định biến thành con ma giấy rồi đến dự đám cưới của Haruka sao?” Goutarou ngẩng đầu nhìn Shuichi qua làn nước mắt. “Xin lỗi.” Shuichi xua tay nói: “Được rồi. Cậu uống đi.” Lần này, Goutarou duỗi tay lấy tách cà phê, thấy cà phê bên trong cũng sắp nguội hết, anh vội vàng uống hết một hơi. “A…” Cảm giác mơ hồ lúc nãy lại bao trùm lấy Goutarou. “Shuichi!” Goutarou cất tiếng gọi, nhưng vào lúc này, khi mà bản thân đang dần biến thành hơi nước, có vẻ giọng của anh không còn đến được chỗ của Shuichi nữa. Chỉ là ngay khi cảnh vật xung quanh bắt đầu rung chuyển, trong cơn mơ màng, Goutarou lại nghe rõ ràng một câu: “Haruka nhờ cậu nhé.” Goutarou của hai mươi hai năm trước cũng đã được nghe những lời này vào một ngày hoa anh đào nở đầy trời như những bông hoa tuyết của một tháng sau đó. Không biết từ lúc nào, Goutarou lại mất dần ý thức khi dòng chảy quay về tương lai tăng tốc độ ngang với tốc độ phản lực y như lúc đến. “Chú ơi”. Tiếng gọi của Miki khiến Goutarou giật mình tỉnh lại. Mọi thứ trong quán vẫn không hề thay đổi, nhưng trước mặt anh lúc này là Miki, Nagare và Kazu. Mình vừa mơ sao? Goutarou đột nhiên để ý đến chiếc máy ảnh trong tay mình. Anh vội vàng nhấn nút tua lại đoạn phim. Goutarou cứ nhìn chằm chằm vào chiếc máy ảnh đấy một lúc lâu, cho đến khi cô gái mặc váy liền trắng từ trong nhà vệ sinh đi ra, đến trước mặt anh và nói: “Tránh ra.” Một giọng nói trầm thấp, đáng sợ. Goutarou vội đáp: “Xin lỗi.” Rồi anh nhanh chóng đứng dậy, nhường chỗ cho cô gái mặc váy liền trắng. Cô gái mặc váy liền trắng điềm tĩnh ngồi xuống ghế và gõ một cái đánh cạch vào tách cà phê để trên bàn. Dọn đi. Miki vội vàng cầm lấy tách cà phê đó. Cô bé cũng chẳng dùng đến khay nữa mà trực tiếp dùng hai tay giữ tách, hì hục lách qua Goutarou rồi chạy đến chỗ Nagare đang đứng trong quầy bar. Miki đưa tách cà phê cho Nagare và nói: “Chú khóc rồi, không sao chứ?” Cô nhóc vẫn dùng giọng điệu kỳ quặc của riêng mình. Nagare nhìn sang cũng thấy Goutarou vừa xem đoạn phim vừa khóc rưng rức, anh hỏi: “Anh không sao chứ?” Goutarou vừa xem vừa đáp: “Vâng, tôi không sao.” “Vậy sao.” Nói rồi, Nagare nhìn xuống Miki và bảo: “Chú ấy bảo không sao kìa.” Lúc này, Kazu đã mang ra một tách cà phê mới cho cô gái mặc váy liền trắng. “Mọi chuyện thế nào rồi?” Vừa hỏi chuyện Goutarou, Kazu vừa đi đến chiếc bàn kia, lấy khăn lau sạch rồi đặt một tách cà phê xuống trước mặt cô gái. Goutarou lẩm bẩm: “Nhất định phải hạnh phúc…” Rồi khi nhìn sang chiếc ghế đó, Goutarou bối rối nói tiếp. “Cậu ấy nói như vậy.” “Vậy sao…” Kazu cũng chỉ đáp lại một câu như thế. Trong màn hình camera là hình ảnh Shuichi đang nắm vai Goutarou và sau đó là tiếng của Shuichi “Cười lên nào, cười lên nào.” vang lên. “Này, đến khi nào thì tiểu nữ được làm chuyện này?” Khi Goutarou đi đến quầy tính tiền, Miki đột nhiên kéo áo phông của Nagare và hỏi. “Bố đã bảo con thôi dùng từ tiểu nữ ấy đi rồi mà.” “Nhưng mà tiểu nữ muốn làm lắm.” “Bố sẽ không để cho người suốt ngày tự gọi mình là tiểu nữ làm việc này đâu.” “Đây là một sự hèn nhát.” “Con vừa nói gì?” Nghe đoạn nói chuyện của hai bố con Nagare, Goutarou vốn đã định đi ra ngoài lại dừng bước chân. “Xin lỗi…” Anh cất tiếng hỏi Kazu khi cô đang nhìn hai bố con Nagare. “Vâng?” Kazu trả lời. “Cô ấy là mẹ của cô đúng không?” Goutarou hỏi và nhìn về phía cô gái mặc váy liền trắng. Kazu nhìn theo ánh mắt của Goutarou và nói: “Vâng.” Goutarou thầm nghĩ: Tại sao mẹ của cô lại quay về quá khứ và không trở lại nữa? Nhưng nhìn Kazu mặt không biểu cảm quan sát cô gái mặc váy liền trắng, Goutarou có cảm giác như chẳng thể hỏi thêm điều gì được nữa. Dù sao thì trước khi anh quay về quá khứ, Kazu từng nói cô gái ấy quay về quá khứ để gặp người chồng đã mất của mình và không quay về được nữa. Cô bé này có lẽ còn đau khổ hơn cả mình. Goutarou nghĩ. Nhưng anh cũng chẳng tìm được lời nào để nói thêm cả. Cuối cùng, anh chỉ nói thêm một câu: “Cảm ơn mọi người rất nhiều…” Sau đó rời quán. Leng keng. “Hai mươi hai năm trước sao…” Nagare thở dài một hơi. “Khi đó cũng đúng lúc em bảy tuổi nhỉ…” Đứng ở trong quầy bar, Nagare bắt chuyện với Kazu. “… Vâng.” “Anh cũng mong em được hạnh phúc…” Nagare lại tự lầm bầm một câu như vậy. “Em…” Dường như Kazu đang định nói điều gì đó, nhưng đúng lúc này Miki lại lên tiếng: “Này, đến khi nào thì tiểu nữ cũng được làm việc đó?” Cô bé lại kéo ống quần của Nagare. Nhìn Miki như vậy, Kazu nở nụ cười thật dịu dàng. “… Ôi cái con bé này!” Nagare thở dài một hơi rồi đáp một câu ứng phó. “Một lúc nào đó.” “Một lúc nào đó là khi nào? Là thứ mấy, mấy giờ, mấy phút?” “Một lúc nào đó là một lúc nào đó.” “Không hiểu.” Miki vẫn cứ bám chặt lấy chân của Nagare không buông. “Nếu con đi ngủ…” Ngay lúc Nagare không chịu được sự nhõng nhẽo này Kazu lại xen vào: “Miki cũng…” Thế rồi Kazu bước đến trước mặt Miki, cúi người xuống, nhìn thẳng vào mắt cô bé và nói: “Khi nào cháu lên bảy…” Giọng Kazu thật dịu dàng. Miki nhìn Kazu hỏi lại? “Thật sao?” “Thật.” Miki ngẩng đầu lên, chờ câu trả lời của Nagare. Vẻ mặt Nagare vặn vẹo, nhịn không được thở dài một hơi: “Ừ.” Rồi anh cũng gật gật hai ba cái. “Tuyệt vời.” Miki nhảy cẫng lên đầy vui sướng, sau đó liền lạch bạch chạy vào trong phòng. “Chẳng khiến người ta bớt lo gì cả.” Nagare lầm bầm một câu rồi cũng đi theo Miki. Chỉ còn lại mình Kazu, cô liếc nhìn cô gái mặc váy liền trắng và nói: “Xin lỗi mẹ, con, vẫn chưa…” Cạch, cạch, cạch, chỉ còn lại tiếng của ba chiếc đồng hồ như đang quanh quẩn bên Kazu. Cho đến mãi về sau… Cho đến mãi về sau… câu chuyện thứ hai Mẹ con Có tiếng dế chuông gáy rích rích, vậy là mùa thu đã đến rồi. Cái cảm giác ấy hết sức đặc biệt, và những tiếng côn trùng kêu như thế, nếu không phải là người Nhật hay người dân vùng Polysinea thì sẽ chỉ thấy chúng là những tiếng ồn ngoài tự nhiên mà thôi. Có một giả thuyết cho rằng người Nhật Bản và người Polysinea hiện nay đều có nguồn gốc là người Mông Cổ di chuyển xuống phía nam sinh sống. Phát âm của tiếng Samoa, một trong các ngôn ngữ của người dân Polysinea cũng rất giống tiếng Nhật. Tiếng Nhật có năm nguyên âm là a, i, u, e, o, và từ đơn được tạo thành từ phụ âm cùng nguyên âm hoặc chỉ đơn thuần là nguyên âm. Trong tiếng Nhật còn có thêm một lớp từ đặc biệt nữa là từ tượng thanh và từ tượng hình. Chúng ta có thể dùng lớp từ này để diễn tả lại những hiện tượng tự nhiên như “nước sông chảy cuồn cuộn”, “gió thổi vù vù”, hay “mặt trời nắng chói chang”… Thậm chí, chúng còn được vận dụng trong truyện tranh hiện đại ngày nay. Trong truyện tranh của Nhật Bản, chúng được sử dụng bên cạnh lời thoại của nhân vật để tạo thêm hiệu ứng như: “đùng”, “đoàng”, “rón rén”, “ầm mmm”. Như vậy, nhờ vào việc “ngôn từ hóa” những cảm giác đặc trưng của người Nhật mà truyện tranh Nhật Bản đã tạo nên tính chân thực cho từng tình huống trong truyện. Có những bài hát còn đưa nguyên những biểu hiện ngôn từ như thế vào trong lời của nó. Ơ kìa chú ve đang kêu Ri ri ri, ri ri ri Ơ kìa, chú dế chuông cũng đang kêu nữa Rích rích, rích rích Một buổi chiều nọ… Tokita Miki đang cao giọng hát bài “Tiếng kêu của các loài côn trùng” ấy… Cô bé đang gắng hết sức cất cao giọng bài hát mới được học ở trường cho bố nghe. Chỉ là phải nghe một giọng quá cao, cộng thêm vài chỗ sai nhạc thì lông mày của Nagare cũng nhíu chặt lại, miệng cũng mím chặt, kéo thành hình chữ へ. Kêu suốt đêm giữa bầu trời mùa thu, Ôi hay quá, tiếng kêu của các loài côn trùng. Bài hát kết thúc, Kijime Kyouko đứng lên vỗ tay nhiệt liệt và không ngớt lời “hay quá, tuyệt quá”… Nãy giờ, Kyouko vẫn ngồi ở ghế trước quầy bar nghe Miki hát. Được Kyouko khen, Miki mỉm cười đầy tự hào và… “Ơ kìa, chú…” Cô bé lại bắt đầu hát thêm một lần nữa. “Được rồi, bố biết rồi, bố biết rồi.” Nagare nhất quyết dừng bài hát này lại. Thực ra phải nghe đến ba lần một bài hát như thế thì ai cũng chán ngấy lên được. “Bố nghe con hát rồi. Giờ thì con đi cất cặp sách đi đã.” Nagare nhấc chiếc cặp sách vẫn để trên quầy bar, vừa đưa cho Miki vừa nói. Có lẽ khá hài lòng trước lời khen của Kyouko, Miki nhận lấy chiếc cặp, lễ phép nói “vâng” rồi chạy vào phòng. Ri ri ri, ri ri ri Miki vừa đi mất thì Tokita Kazu, phục vụ của quán cũng xuất hiện. “Đã vào thu rồi chị nhỉ?” Kazu bắt chuyện với Kyouko. Dường như bài hát của Miki đã mang theo hơi thở mùa thu đến với quán cà phê vốn chẳng bao giờ cảm nhận được sự thay đổi của thời tiết này. Leng keng. Tiếng chuông cửa vang lên, một bóng người tiến vào trong quán. Đó chính là Manda Kyoshi, cảnh sát hình sự của sở cảnh sát Kanda. Dù mới là thượng tuần tháng Mười, thế nhưng buổi sáng sớm và tối muộn trời vẫn khá lạnh. Kyoshi tiến vào, vừa cởi chiếc áo khoác mỏng vừa ngồi xuống chiếc bàn gần cửa ra nhất. “Xin chào quý khách.” Vừa rót nước, Kazu vừa cất tiếng chào. “Cho tôi một tách cà phê.” Kyoshi nói. Đứng trong quầy, Nagare đáp “Vâng” một tiếng, sau đó đi vào trong bếp. Đợi đến khi Nagare biến mất hẳn trong căn bếp, Kyouko mới nhỏ giọng nói với Kazu: “Nhắc đến chị mới nhớ, hôm trước chị thấy em đi cùng một chàng trai ở trước nhà ga. Anh chàng đó là ai thế? Bạn trai em à?” Vừa nói, Kyouko vừa cười, mắt sáng lấp lánh như thể không bỏ sót bất cứ một biểu hiện nào trên mặt của Kazu lúc này. Chỉ là Kazu vẫn thản nhiên đáp: “Vâng, đúng vậy.” Kyouko há hốc miệng, ngạc nhiên hỏi: “Sao cơ? Kazu, em có bạn trai thật sao?” Cô cất cao giọng hỏi, chống người lên quầy bar và nhích gần về phía Kazu. “Vâng.” “Mới đó mà…?” “Anh ấy là đàn anh học cùng trường đại học với em…” “… Thế tức là cả hai yêu nhau cũng được mười năm rồi à?” “À không, mùa xuân vừa rồi tụi em mới bắt đầu hẹn hò.” “Năm nay á?” “Vâng.” Kyouko thở dài một hơi “vậy sao” rồi ngả người ra sau đến mức tưởng chừng như sắp ngã khỏi ghế đến nơi. Thế nhưng, người ngạc nhiên trong lúc này cũng chỉ có mình Kyouko. Ngồi gần cửa ra vào, Kyoshi có vẻ không có hứng thú lắm với chuyện ấy. Ông chỉ lấy một cuốn sổ tay màu đen từ trong túi ra và lơ đãng nhìn vào đó. Kyouko gọi với vào trong bếp: “Nagare ơi, anh có biết Kazu có bạn trai không này?” Vừa gọi xong, Kyouko đã chột dạ nhìn sắc mặt của Kazu. Chết, không biết mình có nói to quá không? Ấy thế nhưng, Kazu vẫn lặng lẽ đứng đó lau chùi mấy chiếc ly như không có chuyện gì xảy ra. Với Kazu, chuyện này cũng chẳng phải là chuyện gì nghiêm trọng cả. Có người hỏi thì cô trả lời thôi. Chờ mãi không thấy Nagare trả lời, Kyouko lại gọi: “Này?” Mãi một lúc sau, Nagare mới lên tiếng: “À, vâng.” Không hiểu sao nghe câu trả lời ấy, Kyouko lại có cảm giác Nagare còn ngượng ngùng, khó mở miệng hơn cả Kazu. “Thật sao…” Kyouko lại nhìn chằm chằm vào Kazu và hỏi lại. Nhưng đúng lúc này Nagare đã đi ra: “Chuyện này đáng ngạc nhiên đến thế sao?” Nói rồi, Nagare đưa tách cà phê cho Kyoshi. Kyoshi vui vẻ nhận lấy, đưa nó lên gần miệng và hít một hơi thật sâu. Nhìn thấy cảnh này, đôi mắt híp của Nagare cong lại như sợi chỉ. Anh vốn có một niềm tự hào đặc biệt với những món mình phục vụ trong cửa hàng này. Và nụ cười của Kyoshi lúc này chính là sự tán thưởng dành cho anh. Nagare mang theo sự tự hào ấy quay lại quầy bar. Chờ Nagare quay lại, Kyouko lại tiếp tục câu chuyện, chẳng để ý đến sự tự hào, mãn nguyện của Nagare lúc này. “Không, chỉ là Kazu ý mà, cô ấy chẳng phải vẫn luôn khiến cho mọi người cảm giác rằng cô ấy không cảm nhận được mấy chuyện yêu đương như thế hay sao?” “Vậy sao?” Nagare híp đôi mắt vốn đã nhỏ ti hi của mình lại, vừa câu được câu chăng đáp chuyện Kyouko vừa lau chùi chiếc khay bằng bạc. Với anh, tám chuyện về bạn trai của Kazu cũng chẳng quan trọng bằng nụ cười của Kyoshi lúc nãy. Thấy Nagare như vậy, Kyouko lại quay sang hỏi Kazu. “Hôm đó, hai người đi đâu thế?” “Tụi em đi mua quà.” “Quà?” “Sắp tới ngày sinh nhật của mẹ anh ấy…” “Chị hiểu rồi, hiểu rồi.” Thế rồi, Kyouko cứ hỏi về bạn trai của Kazu mãi một lúc lâu, nào là ấn tượng ban đầu thế nào, được tỏ tình ra sao… Mỗi câu hỏi của cô Kazu đều trả lời hết, thế nên Kyouko cứ hỏi mãi mà chẳng biết chán. Trong số những câu trả lời ấy, điều khiến Kyouko thấy hứng thú nhất chính là Kazu được anh bạn trai kia tỏ tình không phải chỉ một mà đến ba lần. Lần đầu tiên là khi cả hai mới quen nhau chưa lâu và lần thứ ba là ba năm sau đó, cũng là mùa xuân năm nay. Kazu cũng chẳng giấu giếm điều gì trước những câu hỏi của Kyouko, thế nhưng khi bị hỏi tại sao từ chối hai lần tỏ tình trước và đến lần thứ ba lại đồng ý hẹn hò thì cô chỉ nói một cách mơ hồ: “Em cũng không biết.” Nghe được hết những điều muốn nghe, Kyouko chống má, cười mãn nguyện, đồng thời cũng nhờ Nagare pha thêm một tách cà phê nữa. “Con bé có bạn trai khiến chị vui mừng thế sao?” Vừa pha cà phê, Nagare vừa hỏi Kyouko. Nghe vậy, Kyouko cười khúc khích nói: “Mẹ tôi lúc nào cũng bảo muốn Kazu sớm lấy chồng và được hạnh phúc đấy.” Người mà Kyouko đang nhắc đến là mẹ cô, bà Kinuyo, vừa qua đời một tháng trước sau quãng thời gian dài chống chọi lại bệnh tật. Bà Kinuyo chính là cô giáo dạy vẽ cho Kazu từ những ngày cô còn bé tí. Bà rất thích cà phê do Nagare pha, thế nên cho đến tận khi phải nhập viện, bà vẫn thường đến đây những lúc rảnh rỗi. Chính vì thế, với Kazu và cả Nagare, bà chính là một người đã chiếm trọn một phần tâm trí của họ. “Vậy sao…” Nagare nhắm mắt lại, lầm bầm vài câu. Đứng bên cạnh anh, Kazu vẫn chẳng nói gì, nhưng cô cũng ngừng động tác lau chùi ly cốc của mình. Có lẽ cảm thấy bầu không khí khá nặng nề, Kyouko lại lên tiếng: “Thôi nào, xin lỗi nhé. Tôi nói thế không phải để mọi người lại đau lòng đâu. Hai người đừng hiểu nhầm nhé.” Tất nhiên là Kazu hiểu Kyouko không cố ý làm vậy, thế nên cô mỉm cười dịu dàng, một nụ cười mà chẳng mấy khi được thấy và bảo: “Không sao, cảm ơn chị.” Mặc dù có chút lúng túng nhưng thấy Kazu đã hiểu tâm ý của bà Kinuyo, Kyouko cũng vui vẻ đáp: “Ừm.” “Xin lỗi.” Kyoshi đột nhiên chen vào cuộc hội thoại của họ. Từ lúc vào quán đến giờ, Kyoshi vẫn lặng lẽ ngồi một chỗ và thưởng thức ly cà phê của mình, nhưng vừa rồi cũng chính ông đã xen vào cuộc nói chuyện của họ. Bằng chứng chính là: “Xin lỗi, tôi có chuyện này muốn hỏi…” Ông ấy nói với vẻ áy náy. Mặc dù chẳng biết ông ấy định hỏi ai và hỏi điều gì, nhưng Kyouko vẫn đáp lại ngay “Vâng?”, Nagare cũng nói: “Có chuyện gì thế ạ?”. Kazu vẫn đứng đó chẳng nói gì, nhưng tầm mắt của cô cũng đang hướng về Kyoshi. Kyoshi bỏ chiếc mũ thám tử đã cũ của mình xuống, cào nhẹ mái tóc bạc và xấu hổ nói: “Thực ra tôi đang không biết nên tặng vợ mình món quà gì trong ngày sinh nhật cô ấy…” “Món quà cho bà nhà sao?” Nagare hỏi. “Vâng.” Có lẽ vừa nghe chuyện Kazu đi chọn quà sinh nhật cho mẹ của bạn trai, Kyoshi nghĩ mình cũng có thể tham khảo từ đó một chút cũng nên. Nghe vậy, Kyouko chỉ lạnh nhạt “hửm” vài tiếng, ấy thế nhưng Kazu lại nghiêm túc hỏi lại: “Vậy năm ngoái chú tặng gì cho cô ạ?” Kyoushi lại cào cào mái tóc bạc của mình rồi ấp úng nói: “Chuyện này cũng hơi xấu hổ, nhưng mà trước tới nay tôi chưa từng tặng bà ấy món quà gì cả. Thế nên, hiện giờ tôi cũng không biết nên tặng bà ấy món quà gì nữa…” “Ôi, từ trước tới nay anh không tặng vợ mình món quà nào sao? Thế sao tự dưng hiện giờ lại…” Kyouko ngạc nhiên hỏi. “Không, thực ra cũng chẳng có lý do gì đặc biệt cả…” Vừa nói với Kyouko, Kyoshi vừa với tay lấy tách cà phê mà mình đã uống hết từ nãy. Nhìn thấy cảnh này, Kyouko lại bất chợt nảy ra ý nghĩ, “Người này thật thú vị.”, vừa cố gắng nín cười. Nagare vẫn khoanh tay lắng nghe nãy giờ đột nhiên lẩm bẩm một câu: “Quả nhiên”, sau đó nghẹn đỏ mặt nói: “Tôi thấy chú tặng gì thì cô ấy cũng sẽ vui thôi.” Nhưng ngay lập tức Kyouko lại nói lại: “Như thế mới là khó nhất đấy.” Thế là Nagare lại nhún vai: “Xin lỗi.” Cầm bình thủy tinh trong tay, Kazu vừa thêm cà phê cho Kyoshi vừa nói: “Chú thấy vòng cổ thế nào ạ?” “Vòng cổ sao?” “Nó cũng không cần quá phô trương…” Vừa nói, Kazu vừa kéo chiếc vòng cổ của mình ra cho Kyoshi nhìn. Chiếc vòng cổ ấy mảnh đến mức nếu không cầm lên chắc chẳng ai để ý đến nó cả. “Đâu, đâu? A, được đấy chứ. Phụ nữ ý mà, dù đến bao nhiêu tuổi rồi thì cũng không thể cầm lòng trước những món đồ này được đâu.” Kyouko nhìn chiếc vòng cổ trong tay Kazu gật đầu tán thành. “Vậy, cô Kazu năm nay bao nhiêu tuổi ý nhỉ?” “Hai mươi chín ạ.” “… Hai mươi chín.” Kyoshi lại trầm ngâm như suy nghĩ điều gì đó. Nhìn vẻ mặt của Kyoshi, Kyouko than: “Cái gì? Ông anh để ý đến chuyện tuổi tác sao? Đừng lo, không sao đâu. Điều quan trọng là tấm lòng của mình mà. Tôi nghĩ chắc vợ của ông anh sẽ rất vui đấy.” Nghe đến đây, Kyoshi cũng tươi tỉnh trở lại. “Tôi hiểu rồi. Cảm ơn mọi người.” “Cố lên ông anh.” Có lẽ Kyouko cũng không nghĩ rằng một vị cảnh sát hình sự già không mấy tinh tế trong những chuyện này như Kyoshi lại có thể chuẩn bị quà sinh nhật cho vợ. Cô thấy ngạc nhiên, cảm động và hơn hết là muốn cổ vũ thật nhiều cho Kyoshi. “Vâng.” Nói rồi, Kyoshi đội lại chiếc mũ thám tử và với tay lấy cốc cà phê. Lúc này, Kazu cũng mỉm cười. Ơ kìa, chú sư tử đang gầm gào Grào grào, grào grào. Từ phòng trong, giọng hát của Miki lại vang lên. “Còn có cả lời bài hát như thế sao?” Kyouko khoanh tay trước ngực nhìn về phía căn phòng. “Bài này có vẻ đang nổi.” Nagare đáp. “Lời mới sao?” “Vâng.” “Trẻ con đúng là có thể hát bất cứ thứ gì nhỉ. Hồi bằng tuổi Yousuke nhà tôi với bé Miki hiện giờ, tôi cũng hay chế lời linh tinh lắm. Giờ nghĩ lại vẫn thấy mình thật ấu trĩ.” Kyouko mỉm cười nói với vẻ đầy hoài niệm, rồi cô lại nhìn về phía căn phòng bên trong. “Đúng rồi, sao gần đây chị không cho Yousuke đến nữa vậy?” Nagare chuyển chủ đề. Yousuke là con trai của Kyouko, năm nay cậu bé học lớp bốn và là một cậu bé mê đá bóng. Hồi còn mồ ma bà Kinuyo, Kyouko thường hay dẫn Yousuke đến đây mua cà phê do Nagare pha về cho bà trong thời gian bà nhập viện. “Gì cơ?” “Yousuke ý.” “A, vâng.” Kyouko lẩm bẩm. Cô với tay lấy cốc nước trước mặt uống một ngụm và nói: “Nó chỉ đến đây vì mẹ tôi nhờ mà thôi.” Yousuke không đến đây nữa kể từ khi bà Kinuyo qua đời. Sau nửa năm chiến đấu với bệnh tật, bà Kinuyo đã trút hơi thở cuối cùng, ra đi thanh thản như một người đang ngủ say khi đã được nhấp một ngụm cà phê cuối cùng do Nagare pha. Một cậu bé học tiểu học vẫn chưa được uống cà phê như Yousuke, cậu chỉ đến đây để mua cà phê do Nagare pha và mang về cho bà mình đang nằm viện mà thôi. Vào cuối mùa hè, khi mà bà Kinuyo đã nhập viện được nửa năm, Kyouko cũng từng nói: “Tôi đã chuẩn bị tâm lý rồi.”, thế nhưng tính đến nay, bà Kinuyo cũng mới mất được một tháng. Thế nên, Kyouko vẫn chẳng thể giấu nổi nỗi nhớ thương trong lòng mình. Nagare cũng không ngờ chuyện Yousuke không đến đây lại có liên hệ trực tiếp tới chuyện của bà Kinuyo, thế nên giờ anh cũng cảm thấy hối hận khi mình chuyển chủ đề một cách chủ quan như vậy. “… Tôi xin lỗi.” Nagare cúi đầu xin lỗi. Ngay lúc đó. Ơ kìa, chú gà trống cũng đang gáy vang Ò ó o, ò ó o o o o… Giọng hát tràn đầy sức sống của Miki lại vọng ra. Kyouko phì cười trước những lời chế của Miki. Có lẽ, cô ấy cũng thở phào vì bầu không khí bị mình làm trầm lắng xuống cuối cùng cũng được thay đổi. May quá đi. Thế rồi Kyouko lại cười lớn tiếng nói: “Giờ thì gà trống lại thay cho chim sẻ rồi sao.” Có lẽ Nagare cũng có ý nghĩ tương tự như thế. “Một bài hát kỳ cục…” Nói rồi, anh thở dài một hơi, sau đó cũng biến mất vào trong phòng. “Bé Miki dễ thương ghê.” Kyouko nhìn theo bóng Nagare rồi tự lẩm bẩm một mình. “Cảm ơn vì ly cà phê.” Chờ khi bầu không khí trong quán thay đổi, Kyoshi cũng đứng dậy, cầm lấy phiếu ghi hàng và đi đến quầy tính tiền. Ông lấy mấy đồng tiền từ trong ví đựng tiền xu ra, cẩn thận đặt lên bàn. Những đồng xu va vào nhau tạo nên những tiếng leng keng. Thế rồi, Kyoshi nghiêm chỉnh cúi đầu. “Cảm ơn cô vì lời khuyên quý báu.” Nói rồi, Kyoshi cũng rời quán. Leng keng. Trong quán giờ chỉ còn lại Kyouko và Kazu. Kazu nhận lấy tiền cà phê, vừa gõ máy tính tiền cạch cạch, vừa lẩm bẩm: “Anh Yukio sao lại… Yukio là em trai của Kyouko, hiện đang sống ở Kyoto và đang phấn đấu để trở thành một nghệ nhân làm gốm. Có lẽ chính Kyouko cũng không nghĩ sẽ đột nhiên nghe được tên em trai mình từ miệng Kazu như vậy, thế nên cô ấy ngớ người, nhìn chằm chằm vào Kazu. Nhưng Kazu lại vẫn thản nhiên thêm nước vào chiếc cốc không trước mặt Kyouko. Đúng là chuyện gì cũng bị cô ấy nhìn thấu. Kyouko thở dài một hơi. “Chị không nói chuyện mẹ chị nhập viện cho Yukio biết. Bởi lúc đó mẹ chị cấm không cho nói với nó…” Nói rồi, Kyouko lại với tay cầm chiếc cốc. Cô giơ nó lên vài centimet, không uống nó mà lại chậm rãi lắc nhẹ. “Thế nên giờ chắc nó đang giận lắm. Nó còn chẳng đến đám tang nữa.” Tầm mắt của Kyouko đặt hết lên ly nước trong tay. Thực ra cô vẫn chẳng thể liên lạc được với Yukio. Lần nào cô gọi điện thoại cho cậu ấy cũng chỉ nghe được giọng nói của tổng đài: “Thuê bao quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được.” Thậm chí, cô còn gọi điện đến lò gốm nơi Yukio phụ việc ở đó, thế nhưng lúc gọi đến cô mới biết Yukio đã nghỉ việc từ vài ngày trước và giờ chẳng ai biết cậu ấy đã đi đâu. “Giờ chị cũng chẳng biết nó đang ở đâu và làm gì nữa cả…” Vì không nói với Yukio chuyện bà Kinuyo nhập viện mà suốt một tháng nay, Kyouko lúc nào cũng trăn trở đến mất ăn mất ngủ. Nếu mình bị người khác đối xử giống vậy, chẳng biết mình sẽ tức giận đến mức làm gì nữa. Có tin đồn về quán cà phê này là “có thể trở về quá khứ”. Tất nhiên, chính Kyouko cũng từng nhìn thấy những vị khách đến đây vì muốn quay lại quá khứ. Chỉ là bản thân cô lại chẳng bao giờ nghĩ mình sẽ có cơ duyên gặp được những chuyện kỳ diệu như quay lại quá khứ, sửa chữa lỗi lầm như thế. Tuy nhiên, Kyouko giờ đây có chuyện rất muốn sửa sai, nhưng cô cũng biết mình sẽ chẳng thể sửa sai được nữa. Bởi vì dù cô có quay lại quá khứ đi chăng nữa thì, Khi quay lại quá khứ, dù có nỗ lực thế nào thì cũng không thể thay đổi được hiện tại. Đó chính là quy tắc. Giả như cô có quay lại cái ngày bà Kinuyo nhập viện và viết thư cho Yukio thì với quy tắc này, bức thư ấy cũng chẳng thể đến tay anh được. Và giả như bức thư ấy có đến được tay Yukio thật thì cũng sẽ có một lý do nào đó khiến Yukio không đọc được nó và kết quả là anh cũng chẳng biết được chuyện bà Kinuyo nhập viện cũng như có thể đến kịp đám tang của bà. Tất cả chính là vì có quy tắc ấy. Nói tóm lại, dù Kyouko có trở về quá khứ, cô cũng chẳng thể thay đổi được hiện tại. Nếu đã như vậy cô còn trở về quá khứ làm gì nữa. “Chị biết mẹ mình không muốn để Yukio lo lắng…” Nhưng chính suy nghĩ ấy lại khiến cho Kyouko bị dằn vặt, khó xử. “Thế nhưng…” Kyouko lấy hai tay che mặt, vai cô run run. Kazu không ngừng công việc trong tay nhưng cô cũng không bắt chuyện với Kyouko như mọi lần. Và thời gian cứ thế trôi qua trong tĩnh lặng. Ơ kìa, papa đến rồi. Pư pư, pư pư, con sâu đánh rắm thối, Kêu suốt đêm giữa bầu trời mùa thu, Ôi hay quá, tiếng kêu của các loài côn trùng. Những lời hát kỳ quặc của Miki từ trong phòng lại vang lên nhưng lần này, tiếng cười của Kyouko lại không lan ra khắp quán nữa. Tối hôm đó… Trong quán chỉ còn lại mình Kazu, không, chính xác phải là Kazu và cô gái mặc váy liền trắng đó. Kazu dọn dẹp lại quán, còn cô gái mặc váy liền trắng ngồi lặng yên đọc tiểu thuyết như bình thường. Có lẽ cô ấy cũng đọc sắp hết cuốn sách đó rồi, vì phần sách bên tay trái cô ấy cũng chỉ còn lại vài trang. Kazu rất thích khoảng thời gian sau khi đóng cửa quán. Không phải vì cô thích lau chùi, dọn dẹp mà cô thích công việc không cần nghĩ ngợi gì cả, chỉ cần lặng lẽ mà làm thôi. Với Kazu mà nói, chuyện này cũng giống như vẽ tranh vậy. Cô có thể chỉ cần dùng một chiếc bút chì là đã có thể tái hiện lại được đồ vật trước mặt hệt như là ảnh chụp vậy. Và cô cũng rất thích thủ pháp vẽ tranh của trường phái siêu thực. Thêm vào đó, cô cũng chỉ vẽ những gì mình thấy trong thực tại chứ chẳng bao giờ vẽ những thứ tưởng tượng hay hư cấu không có thực cả. Khi đó, cô chẳng để bất cứ tình cảm gì ảnh hưởng đến chuyện vẽ tranh này cả, chỉ đơn thuần là vẽ lại những vật mình nhìn thấy lên vải vẽ mà không nghĩ ngợi gì. Cô chính là thích công việc như thế đó. Cộp. Cô gái mặc váy liền trắng đọc xong một cuốn tiểu thuyết, tiếng gập sách của cô vang vọng khắp quán. Thế rồi cô gái ấy đặt cuốn tiểu thuyết lên bàn và với tay lấy cốc cà phê trước mặt. Thấy cảnh này, Kazu liền lôi một cuốn tiểu thuyết khác từ dưới quầy bar ra và đặt trước mặt cô gái. “Cuốn này… không biết mẹ có thích cuốn này không…” Nói rồi, Kazu đẩy cuốn sách đến trước mặt cô gái và lấy cuốn sách cô ấy đã đọc xong về. Kazu làm mọi việc hết sức thuần thục như thể cô đã lặp lại nó cả chục lần rồi vậy. Chỉ là lúc này trông cô cũng không lạnh nhạt như bình thường mà như thể đang tặng một món quà mà bản thân đã lựa chọn kỹ càng cho một người mình rất thích vậy. Muốn nhìn thấy vẻ mặt hạnh phúc của đối phương. Đó chính là những cảm xúc tự nhiên nhất của người tặng quà. Vừa tưởng tượng ra phản ứng của đối phương vừa tỉ mỉ lựa chọn món quà làm người đó vui, chẳng mấy chốc mà thời gian trôi đi rất nhanh. Tốc độ đọc của cô gái mặc váy trang cũng không nhanh. Dù suốt một ngày, cô ấy chẳng làm gì ngoài đọc tiểu thuyết, nhưng cũng phải mất đến hai ngày cô ấy mới đọc xong một quyển. Vì cô ấy mà mỗi tuần Kazu đều đến thư viện một lần để tìm mượn tiểu thuyết. Thực ra Kazu làm chuyện này cũng chẳng phải đặc biệt muốn tặng quà gì đó cho cô gái mặc váy trắng kia, nhưng việc mượn những cuốn tiểu thuyết cho cô ấy đối với Kazu cũng không đơn thuần chỉ là một “công việc”. Cho đến vài năm trước, cô gái mặc váy liền trắng vẫn đọc đi đọc lại một cuốn tiểu thuyết với tựa đề là “Người yêu”. Và Kazu bắt đầu việc đổi những cuốn sách mới cho cô ấy là từ lúc cô nhìn thấy Miki nói “Ngày nào cũng đọc một cuốn sách giống nhau, cô không chán sao?”, rồi đưa cho cô gái mặc váy liền trắng cuốn sách ehon của mình. Nếu cô ấy vui với những cuốn tiểu thuyết mình chọn cho cô ấy thì… Chỉ là cô gái mặc váy liền trắng chẳng nhận ra những suy nghĩ đó của Kazu, cô ấy chỉ với tay lấy cuốn tiểu thuyết được đưa đến trước mặt và lặng lẽ lật trang đầu tiên. “…” Như những hạt cát cứ yên lặng chuyển động trong một chiếc đồng hồ cát, sự “kỳ vọng” của Kazu cũng lặng lẽ mà biến mất. Leng keng. Quá thời gian mở cửa, chắc chắn ngoài cửa quán đã treo tấm bảng “closed” lên rồi, nhưng chuông cửa lại vẫn cứ vang lên. Chỉ là lúc này Kazu chẳng nghĩ đến những chuyện như “Đã muộn thế này rồi ai còn đến chứ?” Cô cũng không vội vàng gì mà bình tĩnh nhìn ra cửa rồi từ từ quay vào trong quầy. Người bước vào quán lúc này là một người đàn ông với gương mặt sạm đen, trông anh ta cũng đã ngoài ba mươi tuổi. Anh ta mặc một chiếc áo phông màu đen với cổ áo chữ V và một chiếc áo khoác ngoài màu nâu, bên dưới là một chiếc quần cùng màu và một đôi giày đen. Anh ta hờ hững nhìn khắp trong quán. Trông anh ta lúc này chẳng có một chút sinh khí nào cả. “Xin chào quý khách.” Nghe tiếng Kazu, người đàn ông yếu ớt nói: “Nơi này nghỉ rồi sao?” Có lẽ không phải anh ta không biết nơi này đã đến giờ đóng cửa. “Không sao ạ.” Nói rồi, Kazu chỉ tay về phía ghế ở quầy bar, ra hiệu mời anh ta ngồi. Người đàn ông ngồi xuống ghế, nhưng có lẽ do quá mệt mỏi nên mỗi động tác của anh ta đều như thể đang trong một đoạn phim quay chậm vậy. “Quý khách uống gì ạ?” “À, không…” Nếu có một vị khách đến sau giờ làm việc, lại chẳng gọi đồ gì, có lẽ với các nhân viên bình thường đây hẳn là điều rất khó chịu. Thế nhưng, “Tôi hiểu rồi.” Kazu cũng chẳng mấy để tâm, cô lặng lẽ rót một cốc nước và đưa cho người đàn ông. “A…” Có lẽ chính bản thân người đàn ông cũng đã nhận ra hành động của mình thật kỳ quặc, anh vội vàng bổ sung: “Xin… xin lỗi. Vậy, cô cho tôi một tách cà phê nhé.” “Xin quý khách đợi trong giây lát.” Kazu cụp mắt xuống nói rồi lặng lẽ đi vào trong bếp. Chờ đến khi Kazu không còn ở đấy nữa, người đàn ông mới thở dài một hơi và bắt đầu nhìn bài trí bên trong quán cà phê được nhuộm màu nâu đỏ. Một chiếc đèn tường tỏa ánh sáng yếu ớt, một chiếc quạt trần đang chầm chậm quay, ba chiếc đồng hồ quả lắc chỉ ba giờ khác nhau và một người phụ nữ mặc váy liền trắng đang ngồi trong một góc quán đọc tiểu thuyết. Khi Kazu quay lại, người đàn ông đột nhiên hỏi: “Cái đó… cô gái kia thực sự là linh hồn sao?” “Vâng.” Người đàn ông đưa ra câu hỏi bất chợt, còn Kazu lại lạnh nhạt trả lời. Thực ra có rất nhiều vị khách đến đây vì hứng thú với tin đồn có thể quay về quá khứ của quán này, và những lời như vậy đối với Kazu đã trở thành một điều quen thuộc. “Vậy sao…” Người đàn ông chán nản nói. Thế rồi Kazu cũng chuẩn bị pha cà phê ngay trước mắt anh ta. Thông thường, Kazu vẫn hay pha cà phê bằng bình cầu syphon. Đặc trưng của cách pha này là nước trong bình được đun sôi, sau đó lại chảy tí tách ngược xuống bình thủy tinh bên dưới, hòa cùng cà phê. Kazu chính là thích nhìn quá trình ấy. Thế nhưng, không hiểu sao hôm nay cô không dùng bình cầu syphon để pha cà phê như mọi khi mà lại mang một bộ cà phê phin từ trong bếp ra. Thậm chí, cô còn mang cả một chiếc máy xay cà phê ra nữa, thế nên chắc hẳn cô cũng định xay cà phê ở ngoài này luôn. Cà phê phin chính là sở trường của Nagare, chủ quán cà phê này. Khi pha cà phê phin, giấy lọc sẽ được gấp thành một chiếc phễu, sau đó cho bột cà phê vào, che thêm nước sôi rồi để nó từ từ chiết xuất thành cà phê, chảy xuống cốc. Bình thường, Kazu vẫn chê cách pha này phiền phức nên chẳng bao giờ dùng đến nó. Bên trong quán, Kazu lặng lẽ xay hạt cà phê, chẳng nói câu gì. Thấy cô không nói chuyện, người đàn ông cũng chỉ gãi gãi đầu chán nản. Có vẻ anh ta cũng không phải là kiểu người hay bắt chuyện với người khác. Một lúc lâu sau, hương cà phê chậm rãi lan tỏa khắp trong quán. “Để quý khách phải đợi lâu.” Kazu đưa tách cà phê đang bốc hơi nóng đến trước mặt người đàn ông. “…” Người đàn ông cứ ngồi yên như thế nhìn tách cà phê như thể một đoạn phim đang bị dừng hình vậy. Đứng trong quầy, Kazu cũng chẳng để ý đến điều đó mà thuần thục dọn dẹp những dụng cụ mình vừa mang ra. Không gian trong quán lại rơi vào tĩnh lặng, chỉ còn lại tiếng lật sách của cô gái mặc váy liền trắng kia. Một lúc sau, người đàn ông cũng đưa tay ra cầm tách cà phê. Nếu là một vị khách thích cà phê, người đó chắc hẳn sẽ phải hít một hơi đầy lồng ngực hương vị cà phê mới pha này, nhưng người đàn ông vẫn chẳng có biểu hiện gì đặc biệt cả, anh ta chỉ đơn giản đưa tách cà phê lên một và nhấp một ngụm. “Đây là…” Từ lúc vào đây đến giờ, người đàn ông ấy hầu như chẳng có biểu hiện gì cả nhưng giờ có lẽ vì khá ngạc nhiên với vị chua của tách cà phê mà hai đầu lông mày của anh ta nhíu chặt lại, lầm bầm vài tiếng. Loại cà phê anh ta đang uống là cà phê moka, rất thơm nhưng vị chua cũng rất mạnh. Bị say mê bởi hương vị ấy, Nagare đã quyết định chỉ phục vụ loại cà phê này trong quán. Thế nhưng, với những người không thích cà phê thì hương vị của moka hay loại cà phê Kilimanjaro có đặc trưng rất mạnh và không ít người cảm thấy không quen giống như người đàn ông này. Tên của cà phê hầu hết đều xuất phát từ nơi sản xuất ra loại cà phê đó. Moka là hạt cà phê của Yemen và Ethiopia vốn được buôn bán tại cảng Moka của Yemen, còn cà phê Kilimanjaro lại là hạt cà phê của Tanzania. Nagare thích dùng hạt cà phê của Ethiopia và cũng có những vị khách hàng yêu thích hương vị này của nó. “Đây là cà phê Moka harar, loại cà phê mà cô Kinuyo yêu thích.” Nghe Kazu nói lời này, người đàn ông “ớ?” lên một tiếng rồi giật mình kinh sợ nhìn cô. Tất nhiên, anh ta không ngạc nhiên với cái tên của loại cà phê này. Điều anh ta ngạc nhiên là bản thân chưa nói tên mà tại sao nhân viên của cửa hàng này lại biết anh có quan hệ với Kinuyo. Người đàn ông ấy tên là Mita Yukio, anh là con trai của Kinuyo và em trai của Kyouko, một người đang phấn đấu để trở thành một thợ gốm. Từ lâu, bà Kinuyo đã là khách quen của quán này, thế nhưng với Yukio thì hôm nay mới là lần đầu anh đến quán. Ngay cả Kyouko, người sống cách đây có mười lăm phút đi xe cũng chỉ thường xuyên đến đây kể từ khi bà Kinuyo vào viện và nhờ cô đến mua cà phê giùm. Yukio hoảng hốt nhìn Kazu nhưng Kazu lại chẳng để ý đến ánh nhìn đó mà lặng lẽ mỉm cười như thể muốn nói: Tôi đã chờ anh lâu rồi. “Từ khi nào…” Yukio lầm bầm. Anh vừa gãi đầu vừa hỏi: “… Mà cô biết tôi là con của bà?” Thực ra Yukio cũng chẳng có ý định giấu giếm thân phận của mình làm gì, anh cũng chỉ đơn thuần là tò mò mà thôi. Nghe Yukio hỏi, Kazu vừa dọn dẹp bộ phin pha cà phê vừa nói: “Vì gương mặt hai người rất giống nhau…” Yukio bối rối lấy hai tay che mặt. Có lẽ, đây là lần đầu tiên có người nói với anh câu đó nên trông anh khó có thể tiếp nhận ngay được. “Tình cờ thật, ban ngày chị Kyouko mới đến đây và chúng tôi có nói chuyện về anh. Thế nên tôi nghĩ có lẽ…” “Là vậy sao…” Nghe Kazu nói, Yukio cụp mắt trong giây lát. “Tôi là Mita Yukio.” Yukio xưng tên và cúi đầu chào. “Tokita Kazu.” Kazu cũng cúi đầu chào lại. Nghe thấy tên của Kazu, Yukio lầm bầm: “Trước đây mẹ tôi có kể về cô trong thư. Rồi cả chuyện về quán cà phê…” Nói rồi anh ta lại nhìn về phía cô gái mặc váy liền trắng. Yukio nuốt nước bọt cái ực, sau đó anh đứng dậy, cúi đầu và nói: “Xin hãy đưa tôi về quá khứ, cái ngày mà mẹ tôi còn sống trên cõi đời này.” Từ nhỏ, Yukio đã là một cậu bé rất ngoan, nghiêm túc và là kiểu người sẽ làm mọi việc đến cùng. Với những việc đã được giao, dù không có ai đứng bên giám sát thì anh cũng sẽ nghiêm chỉnh hoàn thành nó. Ví dụ như trong giờ dọn vệ sinh ở trường tiểu học chẳng hạn, dù lúc đó các bạn có đi chơi hết, Yukio vẫn sẽ một mình lặng lẽ làm tiếp công việc. Tính cách anh khá ôn hòa, đối với ai anh cũng rất dịu dàng. Suốt từ cấp một, cấp hai rồi cấp ba, lúc nào anh cũng trầm lặng và chẳng có gì nổi bật cả. Với mọi người, anh như một cậu bé từ trong tranh bước ra. Và rồi một cơ hội thay đổi đã đến với Yukio. Đó chính là chuyến thăm quan hồi cấp ba. Trong chuyến tham quan ấy, học sinh sẽ được trải nghiệm các hoạt động ở các làng nghề thủ công truyền thống gồm làm gốm, làm quạt, in ấn và mây tre đan ở Kyoto. Ngày đó, Yukio đã chọn làm gốm. Đó là lần đầu tiên Yukio dùng đến bàn xoay làm gốm nhưng tác phẩm anh làm ra lại vượt trội hơn hẳn tác phẩm của các học sinh khác. Thậm chí, thầy giáo hướng dẫn còn tuyên dương anh rằng: “Đây là lần đầu tiên thầy thấy có một bạn làm được đẹp như thế này. Em rất có thiên phú về làm gốm.” Với Yukio mà nói, đó chính là những lời tán dương mà trước nay anh chưa một lần được nghe. Từ sau chuyến thăm quan ấy, giấc mơ muốn trở thành thợ làm gốm bắt đầu nhen nhóm trong Yukio. Tuy nhiên khi đó, Yukio cũng chẳng biết cụ thể phải làm gì để trở thành một thợ làm gốm cả. Và sau khi đi tham quan về, anh vẫn trằn trọc suốt một thời gian dài. Thế rồi đến một ngày, anh nhìn thấy trên ti vi hình ảnh của nghệ nhân làm gốm Katsura Yamagishi đang giới thiệu về sản phẩm của mình. Ông ấy nói: “Bốn mươi năm làm gốm, cuối cùng tôi cũng đã tạo ra được sản phẩm ưng ý.” Câu nói ấy đã tác động mạnh đến Yukio khi đó. Ngày đó, Yukio cũng chẳng có gì bất mãn với một cuộc sống bình đạm như bao người cả, chỉ là đâu đó trong trái tim vẫn luôn có tiếng nói rằng Mình muốn tìm một công việc đáng giá để mình dành cả đời này cho nó. Và Katsura Yamagishi khi đó đã trở thành mục tiêu hướng đến, là tồn tại thần thánh trong lòng Yukio. Có hai con đường chính để trở thành một thợ làm gốm, một là đến học tại các trường đại học mỹ thuật hay những trường dạy nghề, hai là đến làm đệ tử tại các gia đình làm gốm, vừa làm vừa học. Và Yukio ngày đó đã không đến trường mà chọn làm đệ tử của gia đình Katsura Yamagishi ở Kyoto. Bởi anh rất thích câu nói của nghệ nhân Katsura trên ti vi ngày đó: “Để trở thành người đứng đầu, bạn phải tiếp xúc với những người đứng đầu.” Chỉ là khi nói chuyện muốn trở thành thợ gốm với bố mình là ông Seiichi, anh đã bị bố phản đối: “Dù đây có là nghề mà hàng ngàn, hàng vạn người hướng đến, nhưng những người thực sự có thể kiếm cơm ăn bằng nghề làm gốm này lại chỉ giới hạn trong những người có tài năng và những người đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Bố không nghĩ con có tài năng ấy đâu.” Mặc dù bị bố phản đối, Yukio vẫn không từ bỏ giấc mơ của mình. Nhưng nếu đi học ở các trường đại học hay các trường nghề, học phí của anh sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình. Yukio cũng không muốn vì sự cố chấp của bản thân mà gây phiền toái cho mọi người, thế nên anh càng quyết tâm vừa làm vừa học để trở thành một thợ làm gốm. Dù ông Seiichi có phản đối, nhưng cuối cùng bà Kinuyo vẫn giúp anh thuyết phục ông và sau khi tốt nghiệp cấp ba, anh đã chuyển đến Kyoto. Tất nhiên, nơi anh chọn đến xin làm đệ tử không đâu khác chính là gia đình nhà Katsura. Ngày anh đi Kyoto, bà Kinuyo và Kyouko đã ra tận nhà ga để tiễn. Khi đó, bà Kinuyo nói: “Nó hơi ít nhưng…” rồi đưa con dấu cùng sổ tiết kiệm của mình cho anh. Yukio biết số tiền này là bà Kinuyo đã phải tích góp từng đồng mới có được, bởi ngày trước bà từng nói: “Một ngày nào đó mẹ muốn đi du lịch nước ngoài cùng ba các con.” Thế nên Yukio đã từ chối nhận nó: “Con không cầm đâu” nhưng bà Kinuyo cũng cương quyết không nhận lại: “Cầm nó thì có phiền gì đâu cơ chứ.” Lúc này, tàu Shinkansen đã kéo còi báo hiệu chuẩn bị xuất phát, Yukio đành phải nhận con dấu và quyển sổ tiết kiệm, sau đó cúi đầu chào hai người rồi lên đường đến Kyoto. Yukio đi rồi, Kyouko có nói “Mẹ ơi, mình về thôi” thì bà Kinuyo vẫn cứ đứng ở sân ga một lúc lâu, mãi cho tới khi không còn thấy bóng dáng đoàn tàu nữa mới ra về. “Khi quay về quá khứ, dù anh có làm gì thì cũng không thể thay đổi được hiện tại đâu.” Kazu lại bắt đầu giải thích các quy tắc như mọi khi. Đặc biệt khi đối tượng khách hàng lại là một người đã mất thì cô lại càng phải truyền đạt lại quy tắc này. Sinh ly tử biệt. Một chuyện hết sức bất ngờ. Và với một người vốn không biết bà Kinuyo nhập viện như Yukio, chuyện này lại càng đột ngột hơn nữa. Chỉ là dường như chính bản thân Yukio có vẻ cũng biết đến quy tắc này rồi, anh chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên cả. “Tôi biết.” Bệnh ung thư của bà Kinuyo được phát hiện vào mùa xuân năm nay. Khi đó, bà đã được chẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối và thời gian còn lại cũng chỉ là nửa năm nữa. Bác sĩ từng nói với Kyouko rằng nếu bệnh tình của bà Kinuyo được phát hiện sớm hơn ba tháng thì chưa biết chừng còn có thể cứu vãn. Thế nhưng, với cái quy tắc không thể thay đổi hiện tại này, dù cô ấy có quay về quá khứ, cố gắng để bà Kinuyo phát hiện bệnh tình của mình sớm hơn thì sự thực bà ấy sẽ mất cũng chẳng hề thay đổi được. Kazu nghĩ có lẽ Yukio cũng được bà Kinuyo kể cho phần nào những quy tắc của quán này rồi, thế nên cô nói: “Tôi có cần giải thích ngắn gọn những quy tắc của quán cho anh không?” Yukio suy nghĩ trong giây lát rồi đáp: “Vâng, nhờ cô.” Kazu ngừng công việc trong tay và bắt đầu giải thích về các quy tắc. “Trước hết, dù có quay lại quá khứ, anh cũng không thể gặp được những người chưa từng đến quán cà phê này bao giờ.” Nghe được quy tắc này, Yukio gật đầu đáp luôn: “Tôi biết rồi.” Nếu như người đó lại chỉ đến đây một lần hay vừa đến đã lại về luôn thì tỉ lệ gặp được cũng rất thấp, chỉ là với một khách quen như bà Kinuyo thì tỉ lệ anh gặp được bà ấy là rất cao. Kazu cho rằng chuyện tỉ lệ cao thấp này cũng chẳng cần phải nói trong trường hợp của Yukio nên cô chuyển sang quy tắc tiếp theo. “Quy tắc thứ hai là như lúc nãy tôi cũng có nói, khi quay trở lại quá khứ, dù anh có cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể thay đổi được hiện tại.” Với quy tắc này, Yukio cũng không thắc mắc gì mà đáp luôn: “Tôi biết rồi.” “Quy tắc thứ ba, để quay về quá khứ, anh phải ngồi vào một chiếc ghế đặc biệt, là chiếc ghế mà cô gái kia đang ngồi…” Nói đến đây, Kazu nhìn về phía cô gái mặc váy trắng ngồi trong góc. Và Yukio cũng nhìn theo ánh mắt cô. “Anh chỉ có thể ngồi vào đó khi cô gái ấy đứng dậy đi vệ sinh mà thôi.” “Vậy thời điểm đó là khi nào?” “Tôi không biết… Thế nhưng trong một ngày cô ấy nhất định sẽ đi vệ sinh một lần…” “Vậy là tôi chỉ cần đợi đúng không?” “Đúng vậy.” “Tôi biết rồi.” Yukio đáp. Kazu bình thường đã là người ít nói, nay gặp Yukio cũng chẳng hỏi han hay nói thêm gì, thế nên việc giải thích quy tắc cứ thế mà tiến hành tiếp. “Quy tắc thứ tư, dù có quay về quá khứ, anh cũng không thể đứng dậy và di chuyển khỏi ghế, nếu anh làm vậy, anh sẽ bi cưỡng chế quay trở về hiện tại.” Nếu quên mất quy tắc này, dù khó khăn lắm anh mới quay về được quá khứ thì cũng chỉ dẫn đến kết quả đáng buồn là ngay lập tức bị kéo về hiện tại. “Quy tắc thứ năm, thời gian anh có thể trở về quá khứ là từ lúc tôi rót cho anh một tách cà phê cho đến khi tách cà phê ấy nguội.” Nói đến đây, Kazu lại với tay lấy cốc nước trống trước mặt Yukio. Có lẽ do khát nên Yukio uống khá nhiều nước. Rồi những quy tắc phiền toái cũng không chỉ có vậy. Mỗi người chỉ có thể di chuyển vượt thời gian một lần duy nhất mà chẳng có lần thứ hai. Người ngồi lên chiếc ghế đó có thể đi chụp ảnh ở quá khứ hay tương lai, cũng có thể đến những khoảng thời gian đó để trao, nhận quà… Và tách cà phê ấy, dù có sử dụng bình giữ nhiệt cũng chẳng có tác dụng gì. Cà phê vẫn sẽ nguội đi với tốc độ bình thường. Thực ra nơi này từng rất nổi tiếng là “quán cà phê có thể quay về quá khứ” khi từng được một tạp chí đăng bài về truyền thuyết đô thị nơi đây. Thế nhưng, phải nói chính xác là quán cà phê này có thể đi đến cả tương lai nữa. Chỉ là hầu như không có ai lựa chọn đến tương lai cả. Bởi dù ta có đến được khoảng thời gian trong tương lai như mong muốn thì ta cũng không biết được người ta muốn gặp trong tương lai có ở quán cà phê này vào thời điểm đó hay không, chẳng ai có thể biết được những chuyện xảy ra trong tương lai như thế cả. Nếu không phải có một lý do, điều kiện đặc biệt nào đó thì với một khoảng thời gian ngắn như thế, dù có đến được tương lai thì tỉ lệ ta có thể gặp được người mình muốn gặp cũng rất thấp. Và như vậy rất dễ dẫn đến tình trạng đi đến đó mà chẳng được kết quả gì. Thế nhưng, Kazu cũng không giải thích hết những quy tắc đó. Thông thường, cô chỉ giải thích năm quy tắc này. Với những quy tắc còn lại, nếu khách hàng có hỏi thì cô sẽ trả lời. Yukio lại nhấp một ngụm nước mà Kazu vừa mới rót thêm rồi nhìn """