"
Khang Hy Đại Đế Trọn Bộ PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khang Hy Đại Đế Trọn Bộ PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
KHANG HY ĐẠI ĐẾ
[2 TẬP]
NHỊ NGUYỆT HÀ
Người dịch
Bùi Hữu Hồng
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI HÀ NỘI – 1999
PDF
cailubietdi
OCR Và Soát Lỗi
Dr. No
Soát Lỗi Và Đóng eBook amylee
Cộng đồng tve-4u.org Cùng đọc, cùng chia sẻ
Dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc Nhà xuất bản văn nghệ Hà Nam
Bản tiếng Việt 1999 – Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản lần thứ nhất
VN-TG-29332-0
LỜI GIỚI THIỆU
Khang Hy (1654-1722) là một vị vua uyên bác, tài trí, 8 tuổi thừa kế ngôi vua, 14 tuổi bắt đầu điều hành chính sự, ở ngôi lâu đến 61 năm, có nhiều sáng kiến lớn lao về kinh tế chính trị, đặt nền móng cho sự phồn vinh thịnh đạt một thời cho đất nước Trung Hoa phong kiến ở giai đoạn cuối (thời thịnh thế Khang Hy – Càn Long nhà Thanh).
KHANG HY ĐẠI ĐẾ là bộ tiểu thuyết lịch sử dài nhiều tập viết về vua Khang Hy. 8 tuổi lên ngôi vua trong hoàn cảnh chính trị vô cùng gay go phức tạp, đã phải đấu tranh chống âm mưu cướp ngôi của tập đoàn Ngao Bái, một đại thần phụ chính.
Khang Hy tuổi nhỏ đã rất thông minh đĩnh ngộ, từng nhận Ngũ Thứ Hữu, một vị cử nhân thi không đổ làm thầy học, để học tập bản lĩnh thống trị phong kiến. Được sự ủng hộ và giúp đỡ của Thái hoàng Thái hậu Hiếu Trang và thị nữ Tô Ma Lạt Cô, Khang Hy đã đoàn kết được một số địa chủ tầng lớp trung, lớp dưới và giới trí thức, hình thành một lực lượng bảo vệ chung quanh thuộc phái ủng hộ nhà vua. Qua nhiều lần đọ sức, đến năm 15 tuổi, ông đã mưu trí bắt Ngao Bái, củng cố được quyền lực ngôi vua, đặt cơ sở chính trị tốt đẹp cho sự chấn hưng vương triều Thanh.
KHANG HY ĐẠI ĐẾ tập trung miêu tả cái hùng tài đại lược nhìn xa trông rộng của Khang Hy trong việc bình định “tam phiên”.
Sau khi mưu trí bắt Ngao Bái, Khang Hy tự mình nắm giữ việc triều chính, nội bộ triều đình tương đối ổn định. Nhưng tình hình trong nước
vẫn vô cùng phức tạp, có bốn mối nguy: Phía nam có tam phiên cát cứ do Ngô Tam Quế cầm đầu quân lính bộ hạ của Vương Bổ Thần làm phản, vùng Trung Nguyên có Dương Khởi Long giả mạo Thái tử Chu Tam, tụ chúng làm loạn, và cấu kết với Thái giám hậu cung, bí mật phối hợp với nhau. Trước khi triệt phiên, được sự phò tá của văn quan võ tướng, Khang Hy đã sắp xếp cẩn mật về mọi mặt quân sự, chính trị, tài chính... lần lượt đập tan chiến tranh gián điệp, mỹ nhân kế của các thế lực thối nát, và thông qua bao cuộc chiến đấu nẩy lửa một mất một còn, cuối cùng đã đánh bại phiến lọan Ngô Tam Quế, bảo vệ nền thống nhất quốc gia.
Thông qua miêu tả cuộc chiến diệt trừ phiến loạn kinh động lòng người, với bao hiểm nguy gian khó muôn trùng, tác giả đã khắc họa hình tượng nhân vật Khang Hy, và khắc họa cá tính đặc trưng của hàng loạt nhân vật Ngũ Thứ Hữu, Chu Bồi Công, Lý Vân Nương, Khổng Tứ Trinh, Hoàng Phủ Bảo Trụ, và Ngô Tam Quế, Ngô Ứng Hùng, Dương Khởi Long, Uông Sĩ Vinh... triển khai sinh động bức tranh lịch sử gian nan khai mở ra thời thịnh thế Khang Hy – Càn Long của vương triều Thanh.
TẬP I
GIÀNH QUYỀN TRỊ NƯỚC
MỞ ĐẦU
Tháng giêng năm Thuận Trị thứ mười tám, một mùa đông rét mướt. Mới vừa qua cái Tết, mà từng đoàn từng đoàn ăn mày như từ dưới đất chui lên, đi ăn xin khắp phố phường. Thành Bắc Kinh, từ cửa Cáp Đức về tây, đoàn người chen chúc nhau dưới các hiên nhà, trong các ngôi miếu nát. Người ta dựng lên những chòi tạm, những lều tranh dưới chân thành cứ từng nhà, từng bếp, như có ý muốn ở lại đây lâu dài. Từ sau khi Lý Sấm Vương thua trận, thành Bắc Kinh bao phen gặp nạn binh đao, nhân khẩu mười phần đã bỏ đi năm sáu. Trong ngoài Đông Trực Môn gạch ngói vung vãi khắp nơi, có chỗ trống trơn, bỗng nhiên người ở đâu kéo đến chật ních. Những người này phần nhiều nói giọng Quan Đông, cũng có không ít người đâu như vùng Trực Lệ, Sơn Đông, Hà Nam, áo quần rách rưới, quấn chiếc thắt lưng rơm, tay cầm chiếc bát sứt dọc đường xin ăn.
“Lạy ông lạy bà, làm phước để đức, rủ lòng cho con miếng cơm thừa! Chúng con từ Nhiệt Hà lánh nạn đến đây, trên có người già, dưới có con nhỏ, xin ông bà thương tình bố thí cho!”
“Nam mô a di đà phật! Của đáng tội! Tai nạn đâu ập đến giữa mùa đông giá rét, đường đi xa biết bao!”
Một chàng trai trẻ vai gánh các thứ dụng cụ hàn nồi xoong, nghe câu nói đó liền dừng chân quay đầu lại, cười nhạt: “Anh là người nhà Thiên tử, làm sao biết được chuyện ở nhà quê! Mẹ nó chứ, quân cờ vàng khoanh mất đất nhà ông, không đi xin ăn thì ăn cái cóc khô gì?” Nói xong, vắt đuôi sam lên cổ bực dọc bỏ đi.
Đến đây chắc có độc giả hỏi: “Khoanh đất” là gì mà ghê gớm làm vậy?
Số là, trước khi người Mãn Châu vào Quan Trung, quân lính “tám cờ” đi đánh giặc đều phải tự trang bị ngựa xe, khí giới. Các “cờ” làm quân nhu cấp dưỡng đều chiếm số đất cờ rất lớn, chủ các cờ, vương công tôn thất tiêu pha hàng ngày cũng tốn số vàng bạc khá nhiều, bèn thành lập các loại trang viên lớn nhỏ khác nhau khắp nơi bên ngoài quan ải. Sau khi vào Quan Trung, hoàng thân quốc thích, bá quan văn võ nhà Minh trước, số thì chết, số thì chạy trốn. Khi Sấm Vương vào kinh, bỏ lại vô số ruộng hoang vô chủ. Đa Nhĩ Cổn bèn ra lệnh “chia hết cho các vương công, đại thần, cùng con cháu và quan lại có công”, tướng lĩnh các cờ đương nhiên là tranh nhau chọn cướp đất tốt. Họ dùng một dây thừng buộc vào hai con ngựa, trên đầu cắm một cây cờ, phía sau quân lính ra sức đuổi đánh, ngựa chạy được mấy vòng thì tính mấy vòng, đất nằm trong vòng khoanh biến thành sản nghiệp của người trong cờ. Gọi là đất khoanh. “Đây là đất khoanh của cờ vàng Tương”, “Đây là đất khoanh của cờ trắng Chính”. Cũng có người ngang ngược hơn, còn đuổi hết số dân trong đất khoanh, hoặc đổi cho họ chút đỉnh đất chua phèn, đó còn là tốt bụng, chứ có kẻ trắng trợn còn thừa cơ cướp bóc nữa kia. Những nơi có khoanh đất, mọi của cải trong nhà phải để lại tất, người vợ xấu xí được “gia ân” theo chồng ra đi, người nào xem được mắt một chút phải ở lại. Làm cho Kinh Kỳ,
Trực Lệ, Sơn Đông, Hà Nam, Sơn Tây suốt bảy mươi bảy châu huyện dọc ngang hai ngàn dặm đâu đâu cũng ruộng vườn hoang vu, rên xiết thảm thương, chết đói đầy đường, tiếng khóc than không dứt. Số người bắt buộc phải mạo hiểm đi “ăn cướp” cũng nhiều vô số kể.
Lại nói, trên phố chùa Vĩnh Hưng ở phía tây kinh thành có một quán trọ nhỏ tên là “Quán Duyệt Bằng” (Mừng bạn). Lấy ý câu nói “Có bạn phương xa đến, cũng không vui mừng sao?”. Sân sau của quán trọ này có mười mấy phòng khách, chuyên để cho sĩ tử vào kinh ở trọ đi thi. Bây giờ còn lâu mới đến kỳ thi, khách khứa còn vắng vẻ. Ba gian nhìn ra đường bày bốn cái bàn bát tiên. Cánh bắc là gian phòng lịch sự, làm phòng ăn. Phía đông có một quầy dài, bán rượu thịt và hàng linh tinh. Hầu bàn đều là người nhà quê, đã đi về ăn Tết rồi, trong quán chỉ còn có mỗi ông chủ họ Hà và mấy em nhỏ học nghề quê ở xa trông coi. Sáng sớm ngày mồng tám tháng Giêng, quán vừa mở cửa, nghe đánh rầm một tiếng, một xác người đổ ập vào trong quán.
Chủ quán Hà Quế Trụ nghe tiếng hô hoán của mấy chú hầu bàn, tròng vội cái quần, đá chiếc ấm vào dưới giường, kéo lê đôi dép bước ra. Thì là một người khoảng hơn hai mươi tuổi, đầu đội chiếc mũ đay xanh, đeo cái đuôi sam dài cả thước, đầu tóc dễ đến hơn hai tháng chưa cạo, mọc dài rậm rạp. Chiếc áo bông rách lỗ chỗ, lộ ra những đốm xơ bông bẩn nát. Mặt anh ta vàng tía như củ gừng sống, hai mắt nhắm tịt, người đã đông cứng lại rồi. Hà Quế Trụ bất giác thở dài: “Của đáng tội! Đây cũng là chuyện thường tình. Đưa anh ta đến đài hóa thân ngoài thành đi. Ôi, ngày hôm nay thật rủi ro!”
Mấy chú hầu bàn kiếm được một chiếc chiếu rách quấn cho người chết, đang tìm cánh cửa hỏng để khiêng đi, thì có tiếng người kêu sau cửa
quán: “Hãy hượm!”
Mọi người quay đầu nhìn lại, một người bước ra ước khoảng ba mươi, đội chiếc mũ quả dưa, áo khoác lụa màu da chồn đen bên trong là chiếc áo dài màu xám, mang đôi ủng đế nhiều lớp, đứng sừng sững giữa cửa. Chủ quán vội cười nói: “Chào cậu hai, đây là một vị tú tài nghèo chết rét trước cửa quán.”
“Chết hay chưa còn phải xem đã”. Vừa nói ông ta vừa bước tới trước, quỳ gối, đặt tay lên mũi chàng trai trẻ, kéo tay bắt mạch một hồi rồi nói: “Người chưa chết đâu! mau mang ra đây bát nước nóng. Không, cho ly rượu nóng trước đã!”. Các chú hầu bàn nhìn nhau, đứng im không nhúc nhích, Hà Quế Trụ vội quát: “Ông đã bảo, sao không nhanh lên?”
Người mới đến là một vị cử nhân, người Triết Châu, tên Ngũ Thứ Hữu, là tài tử nổi tiếng vùng nam bắc Trường Giang. Nhà giàu có, tổ tiên đã có mấy người làm quan to. Chủ quán Hà Quế Trụ trước kia là tôi tớ nhà ông. Vào năm Sùng Trinh, binh đao loạn lạc, gia trưởng họ Ngũ sợ cây to gió cả, bảo gia nhân tìm nương nhờ người thân thích. Ông nội Hà Quế Trụ không có người thân thích bên ngoài, gia trưởng họ Ngũ nhân từ giúp ông mở một cái quán nhỏ tại địa phương. Quân Thanh vào Quan Trung. Sử Khả Pháp chống Thanh ở Dương Châu, sau khi thành bị hạ, trong thành máu chảy thành sông. Nhà họ Hà không sống nổi ở Dương Châu, đã chuyển cả đến Bắc Kinh. Ngũ Thứ Hữu nguyên là học trò Hầu Phương Vực, sau khi nhà Thanh ổn định, đã theo ý trời, thi đậu tú tài, rồi đậu cử nhân. Chỉ vì gia trưởng họ Ngũ lòng hướng về nhà Minh, thề quyết không ăn thóc nhà Thanh, đóng cửa ở nhà chuyên chú giải Đạo đức kinh. Lần này Ngũ Thứ Hữu lên kinh thi gặp ngay Hà Quế Trụ, liền ngụ ở quán Duyệt Bằng. Nay
tuy không còn danh phận chủ tớ, ông Hà vẫn một mực trân trọng tôn kính vị chủ nhỏ trước kia của mình.
Mọi người xúm lại khênh chàng thư sinh sắp chết cóng vào quán, đổ cho một chén rượu nóng, độ mười lăm phút sau, chàng thanh niên mở hí mắt nhìn một cái rồi nhắm lại. Ngũ Thứ Hữu thở phào: “Dọn tạm cái phòng bên cạnh tôi, để anh ấy nằm nghỉ, chăm mấy ngày là khỏi thôi.”
Ông Hà chợt ngần ngừ suy nghĩ: “Vị công tử này cũng lắm chuyện, cứu được người, còn đòi nuôi sống người ta... Mặc kệ anh ta! Trước sau cũng không tốn tiền của ta, đợi người nhà bên Dương Châu đến sẽ đòi nợ.” Ngũ Thứ Hữu thấy chủ quán ngần ngại liền nói: “Cứu một mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng. Vả lại cứu người mà không cứu cho họ sống thì còn ra cái gì?” Ông Hà vội nói: “Làm ngay theo lời ông dạy!”
Đến chạng vạng, chàng thanh niên tỉnh lại. Có lẽ do tác dụng của hai bát to miến gừng thịt gà, sắc mặt chàng ta dần dần hồng hào lên, chỉ còn hơi chóng mặt, thấy Ngũ Thứ Hữu cầm đèn lồng bước vào, bèn cựa quậy như muốn ngồi dậy. Ngũ Thứ Hữu vội ấn chàng nằm xuống: “Anh bạn, đừng động, anh phải nằm yên.” Chàng thanh niên co người, liên tiếp dập đầu xuống gối: “Ân nhân, ngài đã cứu con, núi xanh xanh mãi, nước trong chảy hoài, ơn sâu không nói hết bằng lời, con xin nguyền tan thây nát thịt báo đáp ngài!” Vừa nói, một chuỗi nước mắt lăn tràn trên gương mặt thanh tú của chàng.
Ngũ Thứ Hữu kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh, quan tâm hỏi: “Em tên gì? Đến Bắc Kinh làm gì? Sao lại đến nông nỗi này?” Chàng thanh niên nghiêng mình, bỗng bật lên tiếng thở dài: “Con là người cờ vàng Chính, tên là Minh Châu, kể ra tổ tiên cũng là con rồng cháu phượng. Thân phụ Ni
Nha Cáp là một viên tướng dưới cờ Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn, theo vương vào Quan Trung. Đa Nhĩ Cổn thất cơ, thân phụ bị liên lụy bãi quan, tức giận mang bệnh chữa không khỏi, cảnh nhà sa sút. Con đành theo thúc phụ lưu lạc ở Mông Cổ. Đức ngài A Nhĩ Thái thương tình chúng con, cho một mảnh đất nhỏ cày cấy. Nào ngờ, mùa thu năm ngoái, chủ cờ vàng Tương là Ngao Bái lại đổi lấy đất của cờ vàng Chính, nói là hồi Đa Nhĩ Cổn khoanh đất, cờ vàng Tương bị thiệt, bây giờ phải lấy trở lại. Thế là người ta đã chôn sống gia đình chúng con. Cũng tưởng tên giặc già phải còn nể mặt tổ tông, để lại cho mảnh đất cứu sống đó, ai ngờ tên khốn kiếp cạn tàu ráo máng, đã sai em hắn là Mục Lý Mã ngay trong ngày giá rét đuổi hết cả một thôn chúng con ra ngoài, rồi châm mồi lửa thiêu rụi cả thôn ... thảm ơi là thảm!” Chàng chùi nước mắt, nghẹn ngào: “Chú cháu con phải xin ăn suốt dọc đường từ Nhiệt Hà vào Quan Trung, đến trấn Thái Bình lại gặp bọn cướp bắt buộc phải nhập bọn. Ngài nghĩ xem, phụ thân sống chết thế nào không biết, con làm sao đi làm cái việc ấy được? Chẳng còn cách nào, phải bỏ trốn, thúc phụ bị chúng bắn chết, con đơn độc một mình vào kinh, định tìm đến người bạn cha để nương nhờ, nào ngờ, tình người mỏng hơn tờ giấy, nghe nói gia đình con có xích mích với Ngao Bái, không ai dám chứa chấp, đành phải lưu lạc đầu đường bán chữ kiếm sống. Đáng thương cho con một dòng họ trâm anh phải rơi vào bước đường cùng này… Mấy ngày nay tuyết rơi nhiều quá, bụng lại đói, muốn tránh tuyết ở cửa quán này, ai dè...”
Minh Châu càng nói càng thương tâm, bỗng khóc nức nở: “Ân nhân, ngài là cha mẹ sinh ra con lần thứ hai, là cha mẹ ruột thịt của con! Minh Châu kiếp này không đền đáp được, thì kiếp sau xin kết cỏ ngậm vành báo đáp ân nhân!”
Nghe đến đây, Ngũ Thứ Hữu bất giác mủi lòng, liền an ủi: “Minh Châu, không nên nói nữa. Năm này bá tánh có ai sung sướng gì đâu! Mấy ngày nay thành Bắc Kinh người đi xin ăn nhiều như thế này đều là người ngoài quan ải bị khoanh đất, không còn nhà cửa quay về – Em có còn người thân nào ở kinh sư?”
Minh Châu lắc đầu: “Không còn ai thân thiết, mà có còn cũng khó gặp mặt.”
Ngũ Thứ Hữu vội hỏi: “Có đâu lại như vậy?” Minh Châu suy nghĩ một lát: “Nghe nói có một người cháu dì con, đang là nhũ mẫu của hoàng tử Tam A Ca. Bảy năm trước có gặp mặt một lần, bà đã phải tiến cung. Chốn cung cấm thâm nghiêm đó, bộ dạng con thế này làm sao vào được!” Ngũ Thứ Hữu trầm ngâm giây lát rồi nói: “Em hãy nghỉ tạm ở đây nhé. Em thông thạo chữ nghĩa, lại có công danh, không lo sau này không có cơ hội tiến thân. Vạn nhất không được, qua có thể cho em phong thư đến nhà gia phụ qua xin ông cụ tìm cho bát cơm ăn. Qua là Ngũ Thứ Hữu, người Dương Châu, đang đợi dự thi ở đây. Thi xong kỳ này chúng ta cùng trở về Nam.”
Minh Châu vô cùng thông minh, nghe Ngũ Thứ Hữu nói vậy, vội lăn xuống đất cung kính lạy ba lạy, nói: “Trên có trời xanh, Minh Châu tôi nếu bội bạc quên ân cứu mệnh của Ngũ đại ca, thì sẽ như cây bút này!” Nói xong móc trong tay áo ra một cây bút lông tơ chồn tuyết bẻ gãy làm hai trước ánh đèn.
Hai người đang sôi nổi hàn huyên thì chiếc rèm vải vén lên. ông Hà bước vào nói nhỏ: “Cậu hai này, vừa nãy, Vương Thái giám đứng đầu nha
môn mời đến uống rượu, nói nghe phong phanh, vua Thuận Trị băng hà rồi!”
“Hoàng thượng đã băng hà!” Tin đó không cánh mà bay, qua quầy rượu, quán trà, vườn chơi, những nơi náo nhiệt đông người, chẳng bao lâu đã lan truyền khắp thành Bắc Kinh. Nhưng trước khi công bố chiếu chỉ, người ta chỉ lấp ló đâu đó, len lén nhìn, tìm bạn tri âm thông báo cho nhau làm như sự việc có thật:
“Hoàng thượng mới bai mươi bốn tuổi, còn quá trẻ, làm sao tự nhiên mà băng hà vậy?”
“Ôi dào, người ta họa phước có số, ai mà biết trước được. Ngay như anh đây, tối nay cởi giày lên giường, đã biết chắc sáng hôm sau có còn mang lại được không?”
“Thôi đừng có nói mò! Tôi lại nghe nói là chết vì Đổng nương nương. Hoàng thượng mang bệnh tương tư! Anh quên rồi sao, cái tên Trần gì ấy từ Giang Tô đến? Đúng rồi, Trần Mộng Vân, hắn vẽ chân dung Đổng nương nương, tên đó được thưởng một vạn lượng bạc. Ôi, cả đời anh có thấy được bấy nhiêu bạc không? – Người ta chỉ cần gặp vận may thì phát tài cũng thật là dễ dàng!”
“Cái anh này, cứ nói chuyện là hay đi lạc đề! Tôi nghe nói năm sáu ngày trước đây, Hoàng thượng còn triệu kiến đại nhân Tô Khắc Tát Cáp đấy! Chắc là có uẩn khúc gì chăng?”
“Này – mẹ nó chứ, anh mới là lạc đề! Đây mà là chuyện để anh nói à? Thực thà một tí nhé, băng hà hay không băng hà, liên quan đếch gì đến anh?”
Dù cho dân đen bàn luận thế nào, thì sự việc đã rõ rành rành: Bắt đầu từ mồng tám tháng Giêng, người trong nội phủ đều nhất loạt mặc đồ trắng. Bên trạm ngựa ngoài Ngọ môn, những chiếc kiệu đen sắp một dãy thật dài. Những tiểu Thái giám thích mang lồng chim cút vào quán trà, từ sau ngày Tết cũng không thấy đến nữa. Những việc không bình thường đó khiến cho thị dân Bắc Kinh cứ đoán già đoán non. Một số người già ở Bắc Kinh đã chứng kiến cảnh đưa tang lúc vua Vạn Lịch nhà Đại Minh băng hà, thấy việc làm của hoàng gia ngày nay có vẻ lén lút, không quang minh chính đại, không khỏi kinh ngạc, có điều chỉ ngậm miệng không nói.
Ngũ Thứ Hữu là anh mọt sách, vì trời lạnh, không ra khỏi nhà, chỉ ngồi bên lò sưởi đọc sách. Minh Châu tính thanh niên, người khỏe lên một tí bèn nhúc nhắc đi ra ngoài. Chàng lân la đến phía đông cửa Chính Dương xem cảnh náo nhiệt, chỉ thấy trước dãy kiệu xếp một hàng dài là sáu chiếc kiệu to màu xanh rất dễ nhận thấy, tuyết phía trước dày đến nửa thước. Hỏi thăm mới biết, từ hôm mồng ba, Thân vương Kiệt Thư, Lão Trung Đường Sách Ni, Át Tất Long, Tô Khắc Tát Cáp, Ngao Bái và Hồng Kinh Lược vào kinh thăm vua đều không trở ra, mỗi ngày ba bữa cơm đều do người nhà bỏ trong hộp mang vào. Đang xem mải mê, Minh Châu cảm thấy có người đập nhẹ vào lưng, quay lại nhìn, thấy dưới ánh tuyết một trang thiếu niên anh tuấn, tay nắm chuôi kiếm, đang mỉm cười nhìn chàng.
“Ông là … ai da! Chú em!” Do dự giây lát, Minh Châu kinh ngạc và vui mừng giang hai cánh tay lao tới trước. Đứng trước mặt chàng chính là người con trai độc nhất của bà họ Tôn hiện là nhũ mẫu của Tam A Ca, người em họ Ngụy Đông Đình đã năm năm cách biệt.
Năm năm không gặp, Ngụy Đông Đình đã xinh đẹp ra dáng, trên người mặc chiếc áo cổ tròn thêu sóng biển, một chiếc đao to bản giắt lưng,
dải hồng điều rủ xuống dài đến gần một thước, chiếc quần lụa hồ mới toanh, dưới mang ủng đi ngựa. Xem cách ăn mặc của hắn, Minh Châu bất giác cảm thấy mất hồn, so ra thấy mình thua kém xa.
Minh Châu nắm tay Ngụy Đông Đình, nhìn xem trên dưới, một hồi lâu mới hỏi: “Em à, xa nhau năm năm, em khác xa ngày trước, có còn phục dịch ở Thừa Đức hoàng trang?” Ngụy Đông Đình cười đáp: “Em cũng mới vừa vào kinh sư. Năm ngoái mẹ nhờ vả bao nhiêu người mới kéo em ra được, hiện làm chân sai vặt ở nha môn Tuần phòng. Mẹ nói em còn trẻ phải nghiêm túc trau dồi rèn luyện mấy năm mới phục vụ được Hoàng thượng!”
Minh Châu nghe xong bất giác cúi đầu, thở dài: “Phần anh mới thảm chứ, số phận long đong, biết cách nào khác được! Ôi, sống trên đời chẳng có ý nghĩa gì.” Ngụy Đông Đình không để chàng dốc hết nỗi niềm bực tức, liền kéo tay áo chàng nói: “Đi, chúng ta đến lầu Hợp Tiên ngồi với nhau, bĩ cực thái lai, anh cũng đừng thương tâm làm gì, sắp tới sẽ có đại sự, không biết chừng còn có ân khoa nữa đấy!” Minh Châu nói: “Nguồn tin ở đâu vậy?” Ngụy Đông Đình cười: “Đâu có nguồn nào, chỉ để làm anh vui thôi!” Anh ta nhìn quanh bốn phía, hạ giọng nói nhỏ: “Anh à, vua Thuận Trị đã quy thiên rồi!”
1
Giang sơn rách nát phủi tay xuôi
Biển trời nghiệt ngã không bờ bến
Hoàng đế Thuận Trị không “băng hà”, nhà vua vẫn sống. Giờ này, Thái hậu và Hoàng hậu đã khóc và đi rồi, tấm lòng nhà vua dần dần yên tĩnh lại. Ngồi một mình ở điện Dưỡng Tâm, một mối sầu không tên xâm chiếm cõi lòng. Trong chiếc đỉnh pháp lang bằng vàng ròng, mùi hương bách hợp tỏa ra ngào ngạt. Thuận Trị không chịu được, gọi người lấy ra hết số hương trong chiếc đỉnh, nhưng vẫn cứ ngồi đó, rồi vung tay đi ra khỏi điện Dưỡng Tâm, đứng dưới bậc thềm son, hít một hơi thật dài, hình như muốn dùng không khí mát lạnh trong lành xua đi nỗi niềm sầu muộn trong lòng.
Trời màu xám chì, tầng mây nặng nề, chậm chạp kéo về phương nam, nhà vua ngước đầu nhìn khung trời xanh biến hóa vô thường, lặng yên. Một cơn gió lạnh ào đến, nhà vua tự nhiên đưa tay che hai vai, ông nội thị già Thường Hạo vội vàng bước tới, lấy chiếc áo bào lông chồn thêu rồng nhẹ nhàng khoác lên mình vua. Nhà vua chau mày: “Sao lại thế này?” Thường Hạo chậm rãi quỳ xuống tâu: “Bẩm trình Vạn tuế, Hoàng thái hậu dạy rằng, khi chủ trong lòng không vui thì không được lấy chiếc áo lông
chồn bạch...” Nghe nói là ý chỉ của Hoàng thái hậu, Thuận Trị không nói gì nữa, chỉ lạnh lùng ngước nhìn trời suy nghĩ: “Tuyết đã rơi, thế giới này, hoàng cung này đều sẽ biến thành màu trắng. Ngói lưu ly vàng này, nền gạch xanh này, hạc đồng này, nhật quỹ này... đều sẽ khoác lên một màu trắng. Những chuyện này Hoàng thái hậu quản được sao?”
Năm Thuận Trị thứ mười bảy, với nhà vua là một năm không cát lợi. Bắt đầu từ tháng Giêng, Doanh Thành, Ninh Dương đã báo nạn đói, cho đến tháng sáu, nhiều nơi ở Trực Lệ, Sơn Đông, Thiểm Tây, Túc Châu hạn hán, một ngọn cỏ cũng không sống nổi. Bản thân là người đứng đầu lê dân, nhưng trời xanh không chịu giúp, ắt là có điều thất đức chi đây! Tháng năm, nhà vua xuống chiếu tự hạch tội mình, Tể phụ La Ba Cáp Nạp cũng làm đơn tự kể tội mình, cầu Hoàng thượng cách chức cho thuận lẽ trời. Tháng Sáu, lại đi bộ đến Nam Giao ăn chay nằm đất, lòng thành khẩn quả đã cảm kích được Trời Phật, cho mấy ngày mưa to liên tiếp. Nhà vua giảm được một phần gánh nặng, cảm thấy năm nay dễ thở đôi chút, cho dù năm tai tháng nạn, cũng không đến nỗi chịu tai nạn đến cùng.
Không ngờ đến tháng tám, Hoàng Quý phi Đổng Ngạc ngã bệnh từ trần!
Như sét đánh ngang tai, Thuận Trị kinh hoàng tối tăm mày mặt, chỉ biết khóc khan, mà không có giọt nước mắt nào. Bảy tuổi lên ngôi vua, diệt trừ bè đảng Đa Nhĩ Cổn, quét sạch Nam Minh, đánh tan Trịnh Thành Công. Sau đó lại mở khoa thi chọn hiền sĩ, quyết chí tìm chọn nhân tài người Hán. Bốn phương bắt đầu ổn định, nhà vua còn chưa đến hai mươi, mọi việc êm xuôi, chỉ có hôn nhân là không đẹp ý. Thời Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn ỷ thế làm càn, quyết tình chỉ định con gái của Trác Lễ Khoa Nhĩ Tẩm, thân vương Khắc Đồ Ngô Khắc Thiện là nàng Bác Nhĩ Tề Cẩm làm
Hoàng hậu, Thái hậu lại lấy Đa Nhĩ Cổn, cùng nhau đè ép nhà vua, hệt như kiểu đè đầu xuống chậu bắt ngựa uống nước! Chẳng qua chỉ là ừ ào cho qua chuyện, hai năm sau truất làm “Tịnh phi”, đổi sang ở cung bên. Trong sáu cung, ba nghìn mỹ nữ tô lục chuốc hồng, nhà vua chỉ yêu có mỗi nàng Đổng Ngạc lớn hơn mình năm tuổi.
Có lẽ vì nhớ nhung chồng cũ, nàng Đổng Ngạc từ khi nhập cung lúc nào cũng mày chau mặt rủ. Có trời mới biết được là kiểu tình cảm quỷ quái gì. Nàng Đổng Ngạc càng như vậy, vua Thuận Trị càng không bỏ được nàng, đã tìm đủ phương cách để làm cho nàng vui.
Còn giờ đây, mọi việc đã qua rồi. Hương hồn nàng Đổng Ngạc đã thăng ra ngoài tam giới, có còn gì nữa mà mong? Nhà vua cảm thấy mọi thứ trở thành thô lậu, nhơ bẩn, duy chỉ có mỗi nàng mày chau mặt rủ kia mới là đẹp, nhưng nàng lại bị gió mưa vô tình cuốn phăng đi rồi. Thật chẳng hiểu nổi cuộc sống này, trần thế này làm sao hóa giải nỗi khổ đau kia!
Vua Thuận Trị đứng một hồi trước thềm điện, một cơn gió thổi lại, mấy hạt tuyết bay qua đập lên mặt đau buốt, vua bất giác khẽ rùng mình, lại trở vào trong điện. Từng chồng tấu chương, thông điệp chất cao trên long sàng, vua chẳng thèm nhìn, chỉ bước ngang qua đi vào phòng ấm phía tây. Người đứng đầu số cung nữ hầu cửa tên Tô Ma Lạt Cô hiện là người được việc nhất đối với Thái hậu. Thấy vua bước vào, nàng đưa mắt ra hiệu, các thị vệ hầu trong điện: Oa Hách, Tây Trú, Thiết Khắc Đồ, Giác La Trại Nhĩ Bật liền lặng lẽ cúi đầu thi lễ, và hiểu ý lui ra ngoài.
Nàng Tô đứng dưới hiên lòng cũng ngổn ngang trăm nỗi. Nàng vào cung năm Thuận Trị thứ tám. Là con gái Tá Lãnh cờ xanh Chính, Cách
Lăng Thái. Lên sáu mẹ mất, cha nàng định lấy vợ kế, cầu hôn với cháu gái của chủ cờ Trại Lạc. Cô nàng này dứt khoát nói với bà mối: “Bà nói lại cho ông Cách Lăng Thái nhé, người cũng được thôi, chỉ phải cái của thừa bên mình, cô nàng này lại không chịu khó đi làm mẹ kế người ta đâu, bảo ông ta sớm từ bỏ ý tưởng ngông cuồng đó đi!” Trại Lạc là cấp trên cao nhất của Cách Lăng Thái. Lời nói này từ phía Trại Lạc bay sang đã làm ông khó xử, đang lúng túng thì gặp dịp năm ấy chọn gái đẹp trong cờ để tiến cung, thế là cha liền đưa nàng vào cung. Cũng là duyên phận số trời, bỗng nhiên Hoàng thái hậu Hiếu Trang đến cung Đô Tú, thấy một lũ con gái đẹp đang quỳ trong sân chờ tuyển chọn bèn đến xem, thấy một cô gái nhỏ nhắn mắt sáng tròn xoe ngước nhìn mình, bà kéo cô bé lên nhìn kỹ lại. Từ ngày mẹ mất, nàng cảm thấy chưa có ai tỏ ra yêu thương nàng như vậy, thấy vị phu nhân này vẻ mặt hiền từ, bèn kêu lên tiếng “bà”, nước mắt cũng tuôn tràn bờ mi.
Một giọng trẻ thơ trong trẻo kêu lên làm cho Thái hậu nóng ran cả người, bà cúi người ôm Tô Ma Lạt Cô vào lòng, quay mặt nói với ông Thái giám chủ sự: “Ta cần cô gái này. Chọn thêm một cô gái thực thà một chút theo hầu cô ấy. – Này con, chỗ bà có rất nhiều thức ăn, hãy đi với bà!”
Từ đó, nàng Tô đi theo Thái hậu Hiếu Trang, Thái hậu cả ngày dài rảnh rỗi bèn đùa giỡn với nàng Tô, dạy nàng học chữ, đọc sách, kể chuyện Tam quốc cho nàng nghe. Lớn lên một chút, còn kể không ít điển chương chế độ của triều trước và bản triều. Nàng Tô tư chất rất thông minh, mới mười tuổi đã thuộc không ít thơ ca từ phú, văn chương Bách gia chư tử, mười bốn tuổi học vấn đã đầy bụng. Thái hậu rất vui, bèn sai phái cô đi theo hầu Hoàng đế Thuận Trị.
Mải mê đứng trước hiên một hồi, một cơn gió lạnh lướt qua, nàng khẽ rùng mình, bèn bước vào cửa Nguyệt Động.
Thuận Trị bước vào gác ấm phía tây, nhìn khắp bốn bên càng thấy thương cảm. Kể từ bốn tháng nay, Thuận Trị lui tới nơi này nhiều nhất. Mọi thứ đều y nguyên như hồi sinh thời Đổng phi, trong cái đĩa ngọc đặt trên giá gỗ tử đàn ở góc phòng còn bày mấy quả văn quán màu vàng kim, vẫn còn phảng phất tỏa ra mùi thơm tươi mát; trên bàn, cong queo một sợi dây đứt ra từ chiếc đàn tranh; trên chiếc bàn trang điểm, phấn son, các thứ cài đầu... đều bày ra không suy chuyển. Duy chỉ trên chiếc giường ngà khảm ngọc, mới treo lên một bức chân dung nhỏ của nàng Đổng Ngạc trong trang phục cung phi.
Đây là bức tranh thủy mặc do một họa sĩ được Tuần vũ Giang Ninh Chu Quốc Trị tiến cử vẽ ra. Nàng Đổng Ngạc chết, nhà vua năm ngày liền không nghĩ gì đến ăn uống, chỉ yên lặng nằm trên giường, ngự y hết sức điều trị vẫn không công hiệu. Thái hậu Hiếu Trang Bác Nhĩ Tế Cát Đặc vô cùng lo lắng cũng vô phương. May có ông lão Hồng Thừa Trù thấy nhiều biết rộng nói là: “Bệnh tâm phải dùng tâm mà trị”. Thái hậu bèn truyền ngay ý chỉ, truy phong Đổng Ngạc làm Hoàng hậu, triệu tập mấy mươi vị tài nghệ vẽ vời từ các nơi Trực Lệ, Sơn Đông, Giang Tô... về kinh vẽ chân dung nàng Đổng Ngạc nhằm an ủi nhà vua. Mọi người đều cố sức gắng công, không hiểu sao ai vẽ cũng không giống. Cho đến khi bức tranh của Trần La Vân trình lên, làm kinh động cả hoàng cung, bất kể là người hàng ngày hầu hạ nương nương, hay chỉ một đôi lần gặp mặt, đều cho là rất giống, không chỉ giống cái vẻ ngoài mà giống cả cái thần! Khi Thường Hạo đưa bức tranh trình ngự lãm, nhà vua đang mê man hoa mắt bỗng nhảy xuống giường, ôm bức tranh vào lòng nói. “Ái khanh! Trẫm tưởng khanh
đi rồi, té ra khanh vẫn còn sống!” Thái hậu quá mừng, lấy quỹ nội cung một vạn lượng thưởng ngay cho Trần La Vân, kinh sư lan truyền thành giai thoại. Chu Quốc Trị vượt qua ba cấp đạo, niết, phiên, nhảy phóc một cái thành Tuần vũ Giang Ninh.
Sau đó vua Thuận Trị tuy ăn uống khá hơn nhưng tinh thần mãi không bình phục. Tuy mỗi ngày có tới điện Cần Chánh, nhưng không biết đến tấu nghị của đại thần, cũng không phê duyệt tấu chương, tâm thần bất định, như trong cơn mơ, mỗi ngày vấn an Thái hậu xong, liền rúc đầu vào gian phòng ấm này, nhìn bức họa đến ngây người. Một hôm, một người hầu già của Thái hậu xông vào phòng không qua bẩm báo, nhà vua tức điên người, cũng không nể mặt Thái hậu lệnh cho ông ta quỳ xuống trước thềm tự vả vào mồm bốn mươi cái. Từ đó người trong cung không ai dám quấy rầy nhà vua nơi đây.
Giờ đây, vua Thuận Trị đứng trước bức hình nhỏ, Đổng Ngạc hơi chau đôi mày, dường như vẫn ấp ủ mối tình sâu, lại như có chút oán hờn kín đáo; ống tay áo phất phất giống hệt như vẫn sống thực, đang bước ra từ trong bức tranh sơn thủy lá vàng gió thu. Thuận Trị buột mồm kêu lên: “Trẫm đã có tình với khanh, sao khanh vô tình với Trẫm làm vậy?”
Cũng chính lúc này, cách điện Dưỡng Tâm không xa, trong phòng đợi vào chầu phía đông cung Càn Thanh, cũng có sáu con người đang rầu rĩ trước ánh đèn. Chính bọn họ vừa rồi, khi Thái hậu giá lâm trước điện Dưỡng Tâm, đã bị vua Thuận Trị đuổi ra, giờ này lại không dám trở về phủ với nỗi niềm bực bội, bèn rủ nhau tụ tập ở nơi này.
Người cầm đầu, Khang Thân vương Kiệt Thư, là anh họ của đương kim Hoàng đế Thuận Trị, ông ngồi trên chiếc giường lò nhìn Sách Ni, Át Tất Long, Tô Khắc Tát Cáp, Ngao Bái. Bọn họ người nào cũng giống như ông Phật trên chùa, hoặc ngồi im không nói, hoặc vùi đầu chăm chú hút thuốc, ngay cả Hồng Thừa Trù, một kẻ túc trí đa mưu cũng trầm tư không nói. Kiệt Thư trong lòng nôn nóng: “Các ông hãy nói xem nào! Rốt cục không thành, chắc Hoàng đế phải cắt tóc làm hòa thượng chứ gì?” Tọa trung Nghị chính đại thần Sách Ni với tư cách già nhất, địa vị cũng cao nhất, tuổi gần bảy mươi, liên tiếp mấy ngày liền bị hành hạ, tinh thần mệt mỏi hết chịu nổi, đang nằm co ro trên giường, tỏ ra cực kỳ khốn khổ. Thấy mọi người không ai lên tiếng. Ông bèn thở dài rồi nói: “Xem ra không xong rồi. Còn cách nào chưa giở ra, mấy người chúng ta trói mình chịu tội không nói làm gì, cả đến Thái hậu cũng phải quỳ xin, tất cả đều vô dụng, còn phải thế nào nữa đây?” Ngao Bái ngồi trong góc vẻ mặt giận dữ, nhổ một bãi nước bọt nói: “Còn ra thể thống gì? Một bà vợ chết đi, mà đã như thế, chết không ra chết, sống không ra sống...”
Lời chưa dứt, Sách Ni bèn gạt phăng đi: “Nói cái gì vậy? Toàn ca cẩm oán trách thì được việc gì? Lòng vua đã không thể quay về, hãy nghĩ xem, sau đây nên làm gì đã!”
Át Tất Long ngồi sát bên Ngao Bái thấy vẻ mặt Ngao Bái không nén nổi cơn tức giận bèn rướn người lên nói: “Theo tôi, Hoàng thượng đi chuyến này kể như là “một đi không trở về” rồi, tất phải có di chiếu, thừa tự nhất định là Tam A Ca không còn gì hồ nghi.”
Quả thật là lời nói làm mọi người kinh ngạc! Nhưng trước nay ông là người thông thạo tin tức, việc không chắc đến ba bốn thì không mở miệng,
đương nhiên không thể là nói mò. Tô Khắc Tát Cáp nhỏm người về trước hỏi: “Có chắc vậy không?”
Át Tất Long hạ thấp giọng trả lời: “Đây là Thang Nhược Vọng nói, Tam A Ca đã lên đậu mùa rồi, bảo đảm được một đời khỏi phải lo lắng.” Nghe nói đến Thang Nhược Vọng, mọi người đều không nói gì. Người này là người Nhật Nhĩ Man, đến Trung Quốc truyền giáo đã hơn bốn mươi năm. Từ Quang Khải nhà Minh trước kia đã tiến cử ông công tác ở viện hàn lâm. Người này tinh thông lịch Tây, tính toán nhật nguyệt thực vô cùng chuẩn xác, nên từ khi vào với triều Thanh, bèn làm Khâm thiên lãm chính, nắm chuyên môn thiên văn lịch pháp. Vua Thuận Trị kính trọng ông như thần tiên, Hoàng hậu quyết tình bỏ Phật để quy y Thiên chúa giáo, quả thật nói một là một, nói hai là hai! Quả đúng như lời Thang Nhược Vọng, chắc chắn tự quân ắt phải là Tam A Ca Huyền Hoa không còn hồ nghi gì.
Kiệt Thư suy nghĩ một lát rồi nói: “Bọn ta sao không đưa thẻ cầu kiến Hoàng thượng lần nữa để hỏi cho ra nhẽ!” Lời chưa xong, Ngao Bái bèn trả lại một câu: “Bốn cái chốt cửa sắt đóng chặt ở đó, ông vào làm sao?” Bốn cái chốt cửa sắt là chỉ bốn người bọn Oa Hách. Với bốn người này, ngoài vua Thuận Trị ra, giấy tờ của ai đều không linh nghiệm. Sau câu này, mọi người không ai còn nói lời nào nữa.
Mãi một hồi lâu. Ngao Bái nói: “Thế cũng hay, ai làm Hoàng đế để cho người Di nói là xong thôi!” Tô Khắc Tát Cáp nói: “Người Di hay không phải người Di, chỉ cần nói đúng, cũng không làm gì được hắn!” Ngao Bái rất khinh thường Tô Khắc Tát Cáp, liền đệm một câu: “Ông nói gì nhảm nhí vậy!”
Sách Ni thấy hai người lại muốn kình nhau, bèn ngán ngẩm nói: “Đừng có làm vậy, đều là trọng thần quốc gia, cũng phải giữ chút thể thống chứ.” Hai người nghe thế, cúi đầu không nói nữa. Hồng Thừa Trù cả buổi không nói ngước lên với khuôn mặt thanh mảnh, vươn người lên nói: “Đã biết ý vua là không cãi được, chúng ta hãy đợi xem. Tôi nghĩ Thánh thượng chắc đã an bài.”
Đứng nhìn ngắm rất lâu trước bức hình nhỏ trong căn gác ấm phía tây, vua Thuận Trị bước ra ngoài sân, hoa tuyết vỡ vụn đã rơi dày đến cả tấc, bốn bề tĩnh lặng như một ngôi miếu hoang, nhà vua cảm thấy trong lòng trở lại bình tĩnh hơn nhiều. Đúng như Hồng Thừa Trù ước đoán, nhà vua có rất nhiều việc quan trọng phải an bài trước khi ra đi.
“Bẩm Vạn tuế, Phạm Thừa Mô phụng chỉ đến kiến giá.” Thị vệ Oa Hách đã quỳ phía sau nhỏ nhẹ khởi tấu. “Trời lạnh thế này, Vạn tuế cũng phải...” Không đợi ông ta nói hết, vua Thuận Trị khoát tay, rồi bước vào điện, mới chú ý đến Phạm Thừa Mô đã quỳ ở đó từ lúc nào.
Thuận Trị ngồi xuống chiếc ghế gần giường sưởi, trong phòng khí ấm phừng phừng, một chặp đã thấy cả người nóng ran lên, bất giác mở cúc chiếc áo khoác da. Nàng Tô vội vàng bước lên giúp cởi chiếc áo, rồi lui ra ngoài điện. Nhà vua liếc nhìn Phạm Thừa Mô. Ông ta tuy tuổi mới dưới bốn mươi nhưng mái tóc đã bạc phơ, chiếc đuôi sam trắng từ phía sau như lông công kéo dài tới đất, đầu cúi gập hầu như chạm đất. Nhà vua khẽ ho lên một tiếng, Phạm Thừa Mô biết là Thánh thượng đã tới, đầu dập mạnh ba cái xuống viên gạch vuông, sang sảng khải tấu: “Nô tài Phạm Thừa Mô cung thỉnh Thánh an!”
Vua Thuận Trị hờ hững nói: “Phạm tiên sinh, hãy đứng lên, ngồi trên chiếc đôn kia.”
Phạm Thừa Mô chầm chậm quỳ chân trái đứng lên, tay phải gập chào, khom mình lui xuống bên chiếc ghế thấp hàng đầu bên phải, ghé mông ngồi lên chiếc đôn tròn sứ xanh khắc hoa: “Hoàng thượng triệu thần đêm khuya, không biết có chỉ dụ gì?”
Thuận Trị hít vào một hơi dài, liếc nhìn Phạm Thừa Mô một cái, rồi nói chậm rãi: “Trẫm bữa nay triệu ngươi lại, là cần ngươi thay Trẫm thảo chiếu.” Phạm Thừa Mô thở phào, nghĩ bụng: “Hà tất đang đêm phải tuyên chiếu, chẳng lẽ tình hình đông nam có biến?” Nàng Tô bưng lên một cái nghiên vuông, trong đã có mực mài sẵn, Phạm Thừa Mô lấy hơi chuẩn bị, tay cầm bút đã chấm mực yên lặng đợi nhà vua đọc lên.
Thuận Trị hớp một ngụm trà, sắc mặt càng trở nên trắng bệch, miệng nói: “Trẫm đức mỏng nhưng được vinh dự kế nghiệp đại thống, đến nay đã được mười tám năm, từ khi đứng ra tự quản việc nước đến nay, bất kể dùng người điều việc, kỷ cương phép tắc, so với tiền bối Thái Tổ, Thái Tông, đều sút kém hơn nhiều. Sau khi nhất thống thiên hạ, mỗi ngày bị người Hán dắt mũi, đến nỗi vận nước không tốt, dân tình gian khó nhiều, đó là tội thứ nhất của Trẫm.”
Nghe đến đây, Phạm Thừa Mô kinh hoảng đứng dậy, trong lúc bối rối, mực đầu hút chảy xuống ướt đẫm cả ống tay áo. Ông bỗng cảm thấy mình thất lễ, bèn vội vàng quỳ xuống khải tấu: “Hoàng thượng tuổi nhỏ lên ngôi, ngoài dập tắt khói lửa ngoại xâm, trong dẹp yên gian đảng, vào Quan Trung ổn định cơ đồ, che chở Hoa Hạ, lập nên cơ nghiệp muôn đời không
ai hơn. Thảng hoặc có lúc không như ý, cũng là do trong nước mới ổn định chưa kịp sửa sang, Thánh thượng nói như vậy, thần không dám viết!”
“Đứng dậy!” Thuận Trị lạnh nhạt nói: “Ngươi viết đi!” Nhà vua quá bình tĩnh làm cho Phạm Thừa Mô cảm thấy một cơn ớn sợ, bèn kinh hoàng đứng dậy trở về chỗ ngồi, lấy lại tinh thần, viết rằng: “Trẫm lấy đức mỏng, thừa tự nghiệp lớn, cho đến nay mười tám năm ròng. Từ khi đứng quản việc nước, kỷ cương phép tắc, dùng người điều việc, không thể phát huy cơ ngơi đồ sộ của Thái Tổ, Thái Tông, lại nhởn nhơ theo thói cũ, tạm bợ đến giờ, ngày càng noi theo tục Hán, còn kiểu xưa thuần phác, ngày một đổi thay nhiều, dẫn đến việc trị nước không tốt, dân tình chưa mãn nguyện, là tội thứ nhất của Trẫm vậy.”
Thuận Trị nói tiếp: “Lúc Tiên đế đi xa, Trẫm chỉ mới là chú bé sáu tuổi ngỗ nghịch, chưa làm được cho Người một ngày hiếu đạo. Ta vốn muốn hết lòng hầu hạ Hoàng thái hậu nhằm nguôi ngoai mối ân hận này...” Nhà vua nghẹn ngào, rút từ trên giường chiếc khăn lụa vuông lau mắt, “Giờ đây, Trẫm phải lìa xa dưới gối, lại làm cho Hoàng thái hậu càng đau buồn vì Trẫm...” Nói đến đây hai hàng nước mắt chảy ròng ròng.
Phạm Thừa Mô càng nghe càng hoảng, thần sắc nhợt nhạt, vội vàng quỳ xuống đất, liên tiếp dập đầu, tấu rằng: “Hoàng Thượng xuân thu đang độ, sao lại thốt lên những lời này? Nếu không cho biết nguyên do, thần thà chết không dám phụng mệnh.” Nói xong dập đầu thành tiếng ba cái liền.
Vua Thuận Trị rất hiểu tâm trạng của Phạm Thừa Mô, vua mới hai mươi bốn tuổi nói ra những lời này, đừng nói Phạm Thừa Mô không dám viết, chỉ mấy tháng trước thôi, ngay bản thân nhà vua cũng chưa hề nghĩ tới. Nhưng bây giờ đã muốn thoát tục lìa trần, thì phải cắt đứt mọi thứ tình
duyên, lời nói cũng phải chừa lối thoát, nếu không hậu quả sẽ khôn lường. Nhà vua định thần lại nói: “Phạm tiên sinh, nếu đêm nay, cứ câu nệ phép tắc vua tôi thường tình, thì chiếu thư này viết đến mai cũng chưa xong. Đứng dậy! Trẫm nói thực với khanh, đây là “di chiếu” của Trẫm, Trẫm đã quyết ý bỏ trần tục xuất gia đầu Phật!”
Điều này làm Phạm Thừa Mô xúc động: “Từ Tam Hoàng Ngũ Đế, làm gì có chuyện như thế này! Người Mãn quả là ai ai cũng là giống đa tình! Ông chú Đa Nhĩ Cổn lấy danh nghĩa Nhiếp chính Vương nắm vững triều cương, chỉ vì với Thái hậu có quan hệ mơ chua ngựa gỗ nô đùa với nhau từ nhỏ, không chịu thoán ngôi đoạt cơ đồ. Việc đó mới cách đây có mấy năm, nay lại thêm một vị muốn đi làm hòa thượng!” Bụng nghĩ vậy, nhưng lại nói rằng: “Bỏ cửu tôn, như bỏ giày rách, vốn là việc làm bất đắc dĩ của thánh hiền xưa, là lời nói mua vui. Nay bốn biển quy về trung tâm, muôn dân hài hòa, Thánh thượng có việc gì không làm được, muốn nhẹ bỏ cái tôn nghiêm muôn đời, để bước chân vào nơi bất trắc hay sao?”
Thuận Trị thấy ông ta một mực khuyên can, nói ra toàn bài bản cũ rích, cảm thấy phiền lòng, quát lên một tiếng: “Ý Trẫm đã quyết, Ngươi chớ nhiều lời!”
Phạm Thừa Mô suy nghĩ một lát rồi nói: “Thánh thượng đối với Đổng Hoàng hậu ơn nặng như núi, sống phong Quý phi, chết tặng Hoàng hậu, đối với nương nương quá tốt rồi, hà tất phải ...
“Câm mồm!”, Thuận Trị cười nhạt: “Mỗi người ai cũng có chí riêng, đây đâu phải là chuyện của nhà ngươi?”
“Không phải thần nhiều chuyện, thần thảo chiếu này, Hoàng Thái hậu ắt sẽ biết, thần tuy muôn lần chết đâu có thể chối cãi tội này? Nên mới
dám phạm thượng nói thẳng...”
Lời chưa dứt, chỉ nghe “ầm” một tiếng, Thuận Trị đập bàn giận dữ: “Ngươi sợ Hoàng thái hậu giết ngươi, đã có Trẫm chịu! Ngươi không phụng chiếu, lẽ nào Trẫm không giết được ngươi sao? Viết đi!”
Cái Phạm Thừa Mô cần, chính là câu nói này. Ông run lập cập bò dậy, ngồi lại trên mép ghế, lòng gồng lên, viết tiếp: “Ngày vua cha mất, Trẫm mới sáu tuổi, không thể làm lễ phục tang ba năm, suốt đời hối tiếc. Duy chỉ hết lòng hầu hạ Hoàng Thái hậu, hy vọng đời sau thấu hiểu đã làm tròn chức trách người con, không nói nhiều lòng hối tiếc việc xưa. Nay mãi mãi xa rời dưới gối, lại còn làm đau lòng Thánh mẫu, đó là tội thứ hai của Trẫm.”
Tiếp theo sau tương đối thuận lợi, vua Thuận Trị đã sắp sẵn trong lòng, nói ra đĩnh đạc, nhà vua nói mình không còn tín nhiệm nữa đối với Thân vương quý tộc người Mãn, đối với một số Hán quan động đến là ân thưởng; nói mình có tật ước mơ viển vông mà không dốc lòng tận dụng hiền tài, đối với hiền thần biết họ tốt nhưng không gần gũi, đối với tiểu nhân biết rõ họ sai nhưng không truất bãi; nói việc lập nha môn mười ba, ủy nhiệm hoạn quan, quả thật không khác mấy với sự hắc ám dung tục của các hoàng đế cuối Minh. Nhà vua kể ra mười ba điều thất chính từ khi tự mình thân chính nắm quyền, nói lên một cách bình tĩnh, giống như nói lên sai lầm của ai khác. Phạm Thừa Mô tai nghe tay viết, còn tùy lúc sửa lại, không dám lơ đễnh chút nào, chỉ cảm thấy trong lòng căng thẳng cực độ.
Nói đến đây, Thuận Trị như trút được gánh nặng, thở phào một tiếng: “Trẫm biết sai lầm của Trẫm rất nhiều, sau khi làm xong cũng thường cảm thấy hối tiếc, nhưng chỉ vì thói quen lười biếng, qua rồi không chịu sửa
chữa, đến nỗi sai lầm càng tích càng nhiều, đó là tội thứ mười bốn của Trẫm vậy.” Nhà vua uể oải nằm dựa trên sập ngự, cây đèn sáp nhỏ từng giọt lệ rơi xuống nền gạch xanh láng bóng. Bỗng đồng hồ tang tang gõ lên mười một tiếng – đã là khắc đầu của giờ tí.
Phạm Thừa Mô biết rằng quyết định quan trọng nhất của Hoàng đế Thuận Trị sắp phải truyền xuống, ông chăm chú nín lặng, cầm bút ngồi đợi lệnh. Thuận Trị nghỉ xả hơi một lát, khả gọi: “Nàng Tô Ma Lạt Cô!”
Nàng Tô đứng canh trước cửa điện, đang ghé tai nghe động tĩnh, bỗng nghe tiếng gọi, giật thót mình, vội cúi mình đáp lại: “Dạ, có nô tài đây!”
“Gọi Oa Hách và mấy ông cùng đến nghe.” Nàng Tô vội đáp “Vâng ạ!” rồi đi truyền lệnh. Một chốc, bốn vị thị vệ bên vua có Oa Hách nối nhau lần lượt bước vào, theo thứ tự quỳ xuống lắng nghe. Nàng Tô định lui ra, Thuận Trị lại gọi nàng: “Khanh cũng ở lại đây, Khanh hầu hạ Hoàng Thái hậu mấy năm rồi, Trẫm vẫn coi khanh như em gái, hãy nghe xem để có chuẩn bị cũng tốt.” Nàng Tô chỉ gập đầu, không dám nói lời nào. Nói xong Thuận Trị khẽ ho một tiếng, nói rất rõ ràng từng tiếng một: “Tân Hoàng đế – Trẫm định lập Tam Hoàng tử Huyền Hoa.” Nhà vua ngưng một lát, “các Hoàng tử tuổi sàn sàn nhau, chú bé này tuy nhỏ, nhưng thông minh đĩnh ngộ hơn người, mà cũng đã mọc đậu mùa, Trẫm cũng đã mời nhà sư Tây Tạng, Lạt ma Ngạch Nhi Đắc Cát đoán số mệnh cho rồi, cũng thuộc mạng cực quý – chỗ này không cần viết vào – Mẹ là Đồng thị, phẩm người đoan trang, đôn hậu ôn hòa, đáng là quốc mẫu. Hãy quyết định như vậy nhé.” Thuận Trị vừa suy nghĩ vừa nói, “Hoàng đế nhỏ quá, đương nhiên phải lập mấy vị đại thần phụ chính, Trẫm thấy Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất Long, Ngao Bái, bốn vị này là được.”
Phạm Thừa Mô từng chữ từng câu như khắc vào tâm khảm, lập tức như được uống thang thuốc bổ, người thấy nhẹ nhàng thoải mái: “Cho dù Thái hậu hạch tội thì đã có bốn người đứng trước rồi.” Trong lòng thư thái, hạ bút cũng trôi chảy hơn nhiều. “Đặc mệnh nội đại thần Sách Ni, Tô Khắc Tát Cáp, Át Tất Long, Ngao Bái làm phụ chính đại thần. Những người này đều là trọng thần công cao, Trẫm gửi gắm cả tim gan, mong các khanh ráng sức trung thành, bảo ban vua mới, giúp lo chính sự. Bố cáo trong ngoài, tất cả được biết.”
Thuận Trị vốn yếu đuối, đêm nay trong lòng đặc biệt xúc động, đọc xong bài chiếu thư, mặt đỏ như gấc, nằm trên giường, ho không dứt. Nàng Tô thấy vậy vội vàng đi bưng ống nhổ, Oa Hách vội đứng lên bước tới đấm nhè nhẹ vào lưng vua. Nhà vua lại nắm tay Oa Hách nói: “Ái khanh, khanh cùng ta có tuổi rồi, Hoàng đế nhỏ quả, khanh nên quan tâm tí nhé!” Oa Hách lúc này không sao cầm lòng được “òa” lên khóc ròng, dập đầu xuống đất nói trong tiếng khóc: “Nô tài sao dám không đem tấm lòng son bảo vệ ấu chúa!”
“Đừng khóc,” Thuận Trị khuyên, rồi quay mặt lại hỏi: “Phạm tiên sinh, bốn người này khanh thấy thế nào?”
Phạm Thừa Mô vội đặt bút lên giá bút, lập tức khom mình đáp: “Xin thưa Vạn tuế, bốn vị này đều là trung thần xã tắc, nhận định của Vạn tuế rất sáng suốt.” Dè đâu, Thuận Trị lại lắc đầu nói: “Cũng chưa chắc như vậy đâu, nhưng theo lệ tổ tiên, quan Hán không được làm Phụ chính, Phạm tiên sinh và quan Hán đều nên thể nghiệm quan sát ý sâu của Trẫm. Trong bốn vị này, Sách Ni uy tín, danh vọng, đức tài đều tốt, tiếc thay già rồi; Tô Khắc Tát Cáp có tài, một mực trung thành đảm nhận trách nhiệm, nhưng uy tín danh vọng còn quá cạn; Át Tất Long gặp việc không chịu ra mặt, nhu
nhiều hơn cương, nhưng quyết không đến nỗi sinh sự; Ngao Bái sáng suốt quyết đoán, kiêm tài văn võ, đáng tiếc yếu ở nóng nảy. Bốn người này nếu đồng lòng hiệp đức phò tá ấu chúa, Trẫm có thể yên tâm mà đi.”
Đêm đã khuya, Phạm Thừa Mô đã lui ra, trong Tử Cấm thành, tuyết lớn bay dày đặc, vạn vật đông cứng, kết khối lại trong màn đêm lạnh lẽo. Giọt nước đồng hồ đông cứng, lửa đèn cũng tối đi. Trên giá cắm, giọt nến đỏ như máu rơi thành đống cao, chỉ có tiếng mõ cầm canh não ruột vọng lại từ xa. Vua Thuận Trị ngước khuôn mặt đẫm nước mắt dặn dò Thường Hạo: “Truyền chỉ phòng kính sự, lấy chìa khóa mở cung, Trẫm đã khâm định những người tùng giá lập tức xuất cung!”
2
Hoàng tử lên ngôi, nội giám quát giá
Ngao Bái khoanh đất, quan Phụ chính dối vua
“Đại tang” của Hoàng đế Thuận Trị được cử hành như thật. Linh đường đặt tại điện Dưỡng Tâm. Một chiếc giường chạm trổ, từng xấp từng xấp lụa vàng dùng chỉ kim tuyến thêu đầy văn kinh chữ Phạn đắp lên chiếc quan tài vàng của Hoàng đế, hương An tức cắm trong chiếc lọ vàng ròng Tuyên Đức đặt trước linh cữu, những sợi khói xanh lượn lờ trong đại điện báo hiệu linh hồn chủ nó đã thăng vượt ra ngoài tam giới. Một đạo ý chỉ truyền ra, văn võ bá quan phải tháo bỏ cái dải hồng phe phẩy trên chiếc mũ to. Các quan bộ Lễ đã sớm định ra các trình thức nghi lễ cho vua mới lên ngôi – trước hết thành phục, rồi ban di chiếu, cử hành đại lễ lên ngôi.
Khắc đầu giờ Tỵ, bắt đầu cử hành tiểu liệm Hoàng đế, phía trước cung Càn Thanh tối mò mò các thân vương, quận vương, hoàng thân quốc thích và các quan chức các bộ, viện đứng đấy. Đứng đầu nội phủ, quan Thái giám Ngô Lương Phụ đứng dưới thềm, sắc mặt u ám, cổ nghiêng ngoẹo, môi trên mím chặt môi dưới, cái cằm nhẵn nhụi có một đường rãnh sâu, người không biết cho là ông ta đang giận ai. Thực ra, giờ này trong lòng ông vô cùng đắc ý. Ông Ngô Lương Phụ này vốn là một Trưởng ban trong
phủ Thân vương Khắc Đồ trắc lễ Khoa Nhĩ Tẩm, từ khi Bác Nhĩ Tề Cẩm được chọn vào cung, vì bên cạnh không có người được việc, Thân vương bèn lấy ông ta tô điểm một chút rồi đưa tiến cung. Nói về thân phận, ông vốn là một Thái giám theo hầu Hoàng hậu, nên không mấy năm đã lên chức Phó đô Thái giám Lục cung. Bác Nhĩ Tề Cẩm bị truất làm phi, Hoàng thượng thấy ông là con nuôi Ngao Bái nên không gây khó dễ. Hôm nay, trước khi tiểu liệm, cử tang, lúc các Phụ chính đại thần họp bàn, Át Tất Long đề xuất Ngô Lương Phụ làm Tư nghi, tấu trình Thái hậu chuẩn y. Ông liền cảm thấy gió đã đổi chiều, đi đường cứ ngẩn mặt nhìn người.
Giờ này, lòng ông có chút nôn nóng, cũng có chút ngọt ngào. Kể từ khi Bác Nhĩ Tề Cẩm vào lãnh cung, tám năm nay chưa bao giờ ông lên mặt như hôm nay – Nghị chính vương Kiệt Thư, Nhất đẳng bá Sách Ni, còn cả Tô Khắc Tát Cáp, những Thân vương đại thần trước nay chưa hề để mắt đến nội thị, và còn một đám hoàng thân quốc thích phải xếp hàng trước hàng hiên nước nhỏ giọt, tất cả đều phải nghe theo điều lệnh của ông. Biết bao là oai phong, biết bao là vinh dự!
Khắc hai giờ Tỵ, Sách Ni hơn sáu mươi tuổi, – đứng đầu cố mệnh Phụ chính đại thần đến cung Từ Ninh thỉnh huấn, và nghênh đón Hoàng Thái hậu Ái Tân Giác La – Huyền Hoa đến cung Càn Thanh làm lễ tiểu liệm. Tân Thái hậu Đồng Giai ít ăn ít nói, lời lẽ vụng về, có lúc ứng phó không nổi, bèn liếc nhìn Hiếu Trang Thái hậu nói: “Mời mẹ huấn từ”. Hiếu Trang Thái hoàng Thái hậu nhìn lại, thấy Sách Ni thân già lụ khụ dập đầu sát đất khóc lóc thỉnh huấn, bèn nghĩ tới cảnh ngộ cuộc đời mình: từ bé đã vào cung, lớn lên một chút thì chồng chết, đã qua bao dằn vặt, trải bao hiểm nguy, lòng vòng giữa Đa Nhĩ Cổn và Tế Nhĩ Cáp Lăng, thậm chí đạp lên trinh tiết của mình, khó khăn lắm mới giữ được địa vị của mình, mới được
mấy ngày sống yên ổn, thì xảy ra biến cố! Trong lòng bỗng thấy chua cay, nước mắt tuôn ra: “Ngươi là lão thần tiên triều, phải ứng biến cho phải lẽ. Hoàng đế quyết ý đi xa, đó là việc chẳng đặng đừng, không có cách nào khác hơn. Tam A Ca thông minh, ai cũng biết, các ngươi phải hết sức giúp đỡ, khi Ngài lớn lên đương nhiên không phụ công các ngươi đâu! Chỉ mấy lời đó, nàng Tô hãy đưa Hoàng Thái tử lên điện Dưỡng Tâm.”
Từ phòng sau, nàng Tô dắt ra cậu bé tám tuổi Huyền Hoa. Hình như cậu có vẻ không tự nhiên, cậu lần lượt vấn An Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu rồi nói: “Bà kính mến, cháu muốn A Mẫu cùng đi!” A Mẫu tức là bà vú. Tôn thị nghe nói Hoàng Thái tử gọi, vội vàng chạy ra, nắm tay Huyền Hoa nói: “A Ca này, nghe nói từ nay trở đi, Ngài là Hoàng thượng rồi, không thể tùy tiện. A Mẫu chẳng qua chỉ là một nô tài nuôi nấng Ngài, không được đi đến những nơi đó.”
“Nàng Tô bảo ta, bất kỳ ai cũng phải nghe Hoàng thượng, phải vậy không? Lời của Hoàng thượng là Thánh chỉ, phải vậy không? Bây giờ ta hạ Thánh chỉ. “A Mẫu đi cùng ta!”” Huyền Hoa nói vặn lại. Nàng Tô đứng bên cạnh nhếch mép mỉm cười, đưa mắt nhìn Thái hậu.
Bà Đồng Giai cảm thấy vui mừng và cũng hả lòng hả dạ, nhìn qua mẹ, thấy Hiếu Trang cũng gật đầu mỉm cười. Sách Ni quỳ bên cạnh ngớ người, kinh ngạc nhìn ông chủ nhỏ sắp làm vua thiên hạ. Nhìn thấy Thái hậu gật đầu, Sách Ni vội nói với Tôn thị: “Ngươi không mau cảm tạ đi!”
Nghe vậy, Tôn thị liền quỳ xuống quay về phía Huyền Hoa cúi lạy nói: “Nô tài Tôn thị cảm ơn ông chủ!” Nói xong đứng dậy, Huyền Hoa bước lên phía trước, một tay nắm tay Tôn thị, một tay giữ chặt nàng Tô sắp bước đi, làm Sách Ni hoảng hốt vội đứng dậy, với sự nhạy cảm ít thấy ở
người già, bước nhanh đến một bước, lên giọng hô to: “Hoàng Thái tử khởi giá, lên kiệu đi hầu!”
Ngoài cung Càn Thanh, các hoàng thân, trọng thần nóng lòng chờ đợi. Cố mệnh Phụ thần Át Tất Long xếp thứ hai, lặng lẽ chuyển đến bên cạnh Ngao Bái xếp thứ tư, chớp mắt mấy cái. Ông có cái tật, hễ nói chuyện, trước hết phải chớp mắt mấy cái, không chớp mắt không nói ra lời – lời phải vòng quanh hai lần trong mồm mới mở miệng được: “Ông Ngao Bái này, phòng Thượng thư chuyển sang một cuốn sổ do Oa Hách viết sau khi phục dịch bên Thừa Đức trở về, nói Trung đường khoanh chiếm đất của tám đại hoàng trang. Ông xem...”
Các bắp thịt trên mặt Ngao Bái căng phồng lên, cũng không thèm nhìn thẳng vào mặt Át Tất Long trả lời một cách cứng nhắc: “Vậy thì xin mời ngài cứ phép công mà xử!” Át Tất Long nháy mắt nói tiếp: “Ngao Bái, tôi hỏi không phải với ý đó, cuốn sổ thì tôi đã xử lý rồi, một phường tiểu nhân đặt điều gây hiềm khích, ta vốn không cần nghiêm túc với chúng, lão Trung đường Sách Ni tuổi đã cao, tôi nghĩ việc này nhất định không nên làm phiền ông ta.”
Đối với hạng người này, Ngao Bái không thể chịu thua. Ông quay đầu nhìn thẳng vào mặt Át Tất Long, hơi mỉm cười: “Cảm ơn chiếu cố, Át Công tình cảm cao thượng, ngày sau xin tạ ơn.” Át Tất Long hiểu ý gật gật đầu. “Loại việc này chỉ một lần, không được tái diễn.” Mồm nói nhưng mắt nhìn cố mệnh đại thần Tô Khắc Tát Cáp. Ngao Bái nhìn lại Tô Khắc Tát Cáp, cười nhạt một tiếng rồi gật gật đầu.
“Hoàng Thái tử giá lâm!” Ngô Lương Phụ lên giọng hô, các quan viên lập tức đứng nghiêm lại, cúi đầu xuôi tay. Át Tất Long cũng vội vàng trở về vị trí của mình.
Ở hẻm Tây Vĩnh cung Càn Thanh, nàng Tô và Tôn thị đỡ Huyền Hoa xuống kiệu. Huyền Hoa tính trẻ con hiếu kỳ, thấy trong sân trước điện người đứng chật ních, liền nôn nóng muốn bước nhanh vào ngay. Nàng Tô nói nhỏ vào tai cậu: “Sắp làm Hoàng thượng rồi, đừng trẻ con thế, phải đi chầm chậm, càng tôn nghiêm càng danh giá!” Nói xong cùng Tôn thị quỳ xuống đưa mắt nhìn Huyền Hoa đi vào trong.
Sách Ni đi trước đưa Huyền Hoa chầm chậm đi vào giữa hàng người đứng thẳng tắp. Ngự tiền thị vệ Oa Hách, Tây Trú, Triết Khắc Đồ, Giác La Trại Nhĩ Bật, lưng dắt bảo đao cũng từng bước tiến vào. Khi đi ngang qua bên cạnh Ngô Lương Phụ, Oa Hách trừng mắt nhìn, xem như Ngô Lương Phụ lúc đó thấp xuống ba phân.
Oa Hách là con trai Nội thị đại thần Phi Dương Cổ, năm Thuận Trị thứ tám làm Ngự tiền thị vệ, Thuận Trị không ngày nào không nhìn thấy ông ta trước mặt, Hoàng hậu bị truất ngôi, Ngô Lương Phụ tự tiện lấy trộm cây hốt như ý do Ngài ngự tặng bà, bị Oa Hách bắt quả tang, đánh cho một trận nhừ tử. Ngô Lương Phụ tới khóc kể với vua Thuận Trị, dè đâu nhà vua lại nói: “Ông ta có lương tâm đấy, không thừa lúc người ta rủi ro mà làm chuyện tiểu nhân.” Chính vì có chuyện đó mà ông căm thù Oa Hách đến tận xương tủy.
Vua tôi sáu người bước lên thềm điện. Sách Ni bước lên trước vén áo quỳ xuống, ba đại thần cũng quỳ theo. Sách Ni cao giọng: “Kính mời Hoàng Thái tử nhập điện hành lễ!” Nói xong quay đầu lại thấy Ngao Bái
trong lúc vội vàng quỳ lên ngang hàng với mình, đợi cho Huyền Hoa nhập điện mới quay đầu nói nhỏ giọng nghiêm khắc: “Xin Ngao Công tự trọng!”
Ngao Bái trước nay nể sợ ông. Sách Ni nay tuy già lụ khụ, nhưng ai cũng đều biết, trước kia ông giáo vàng ngựa sắt uy phong hơn đời, ngay cả với Duệ Thân vương cũng không chịu nhường, nhờ vào chút oai phong xưa, danh hiệu công đầu ba triều, trước nay chưa ai dám so đo, cho nên trước mặt Sách Ni tốt nhất là nên khiêm nhường một chút. Lúc đó quần thần ở trên dưới hành lang, trong ngoài thềm đỏ, thấy họ quỳ cũng vội vàng quỳ xuống.
Huyền Hoa bước vào trong điện, gác ấm phía tây treo đầy vải xô rèm trắng, khói hương nghi ngút, mười phần nghiêm trang cung kính, bài vị để giữa chói lọi chữ vàng: “Thế Tổ thế thiên long vận định thống, kiến cực anh duệ, khâm văn hiển võ, đại đức hoằng công, chí nhân thuần hiếu chương Hoàng đế chi vị” – đây chính là Thuận Trị. Theo lời Sách Ni căn dặn từ trước, Huyền Hoa hướng về trước làm đại lễ ba quỳ chín lạy, một nội thị bê sẵn một ly ngự tửu, Huyền Hoa hai tay bưng ngước lên trời rồi nhẹ nhàng rưới xuống linh tiền, lễ xong đứng dậy. Nhìn cảnh này, Sách Ni nhớ đến ơn tri ngô thời tiên đế, mà nay, người đi điện trống, lưu lạc không rõ tăm hơi, hứng thú nhân sinh quả đã hết sạch, bất giác lệ già lã chã khóc lên thành tiếng. Các thái giám, vương công, tôn thất có mặt thấy cảnh phát tang, đều đồng thanh khóc gào, kêu trời khóc đất.
Từ giờ phút này, coi như Hoàng Thái tử đã tiễn biệt “Hoàng đế đi xa”, đã lên ngôi trước linh cữu. Ngô Lương Phụ vẩy phất trần, đã có quan táng lễ chùa Hồng Lư ra xướng lễ, bá quan sì sụp quỳ lạy, Huyền Hoa ngồi trên chiếc long kỷ bọc vải vàng tiếp nhận lạy chầu. Mười tám hàng tỉnh, một
trăm triệu chúng sinh, đều quy tụ dưới sự cai quản của “Đức Khang Hy” mới tám tuổi này.
Khang Hy kiên nhẫn tiếp nhận xong lễ mừng bèn từ từ đứng lên, đi đến trước mặt bốn vị cố mệnh đại thần, đỡ họ đứng lên từng người một. Vừa đỡ vừa hỏi: “Ông là Sách Ni?” “Ông là Tô Khắc Tát Cáp?” “Ông là Át Tất Long?” “Ông là Ngao Bái?” Bốn vị nhất nhất dập đầu xưng thần. Khang Hy nói: “Tiên đế trước khi đi xa có nói, các vị đều là hào kiệt Mãn Châu, là trung thần, bảo Trẫm nghe theo lời các vị, các vị cố làm việc cho tốt!”
Bốn vị nghe nói Tiên đế có di mệnh như vậy, đều cảm động rơi nước mắt, chỉ vì trong ngày vui lên ngôi của vua mới trước linh cữu, không dám khóc thành tiếng, chỉ nghẹn ngào nuốt lệ. Sách Ni dập đầu xuống đất, quay lại nói với ba người kia: “Tiên đế với chúng ta ơn trọng như vậy, lấy gì báo đáp đây? Hôm nay Tự quân lên ngôi, bốn người chúng ta cùng có lời thề: Chúng tôi phụng di chiếu Tiên đế, bảo vệ phù trì ấu chủ, đem hết lòng trung thành và trí tuệ phò tá chính quyền, không tư riêng thân thích, không gây thù oán, không kết bè đảng, không nhận hối lộ, không cầu phú quý bất nghĩa, duy chỉ lấy lòng son trung thành đền ơn Tiên đế. Nếu người nào vì mình mưu lợi riêng, phản lại lời thề này, thì trời chu đất diệt, bị chết thảm thê. Các vị có muốn cùng nhau thề như vậy không?” Ngao Bái tuy trách Sách Ni lắm chuyện, nhưng cũng đành trả lời: “Muốn!” theo như hai vị kia.
Khang Hy không rõ lắm những lời nửa văn nửa bạch, ngay cả những lời vừa nói cũng là do nàng Tô dạy cho trên đường đi đến đây. Nhưng cả một tràng năm, sáu chữ “không” thì cậu hiểu là những lời rất tốt đẹp, bèn trầm tĩnh gật đầu nói: “Tốt, các vị có thể đứng lên!”
Bốn vị đại thần và Nghị chính vương đưa chúng thần lui ra, Hoàng đế Khang Hy như trút được gánh nặng, bỗng chốc trở lại là cậu bé ngây thơ hoạt bát, cũng không bảo tùy tùng đi theo, liền nhảy chân sáo ra ngoài, bọn Oa Hách vội vàng chạy đuổi theo. Khang Hy vừa chạy vừa khoát tay nói: “Các ngươi đừng đến!” Vừa nói đã biến mất sau bức bình phong lưu ly, chạy thẳng đến chỗ A mẫu Tôn thị và nàng Tô đang quỳ ở đường hành lang.
Thấy Khang Hy chạy nhanh quá, Tôn thị nóng ruột kêu to: “Đức Ông của tôi, coi chừng vấp!” Khang Hy như không nghe thấy tiếng kêu, vừa chạy vừa cười khanh khách: “Đứng lên! Đứng lên! Tôi về rồi!” Nói xong rúc đầu vào lòng Tôn thị. Nàng Tô bên cạnh vừa sửa lại vạt áo sau cho vua vừa nói: “Bây giờ là Hoàng thượng rồi, không được xưng “tôi”, mà phải nói “Trẫm” nhé!”
Khang Hy cười nói: “Ngồi nửa ngày, tù túng chết đi được, đưa ta đi thăm Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu nhé.” Tôn thị thân tình véo nhẹ một cái vào mặt vua nói: “Đức Ông hôm nay mới ra mắt, để ta bế ngài đi!” Vừa nói vừa bế ngay Khang Hy vào lòng, ba người nói nói cười cười đi về phía cung Từ Ninh. Bốn vị tiểu Thái giám thấy Thánh giá đi rồi, bèn chạy nhanh theo sau. Vừa qua một khúc quanh, thì nghe thấy một tiếng quát: “Đặt xuống!”
Ba người giật mình hoảng hốt ngước nhìn lên, thì ra là Phó đô Thái giám Ngô Lương Phụ đứng trước mặt. Ngô Lương Phụ trước hết nhìn Khang Hy cười một cái, sau vênh mặt mắng Tôn thị: “Bế Hoàng thượng như vậy chạy khắp cung, còn ra cái thể thống gì hả?” Tôn thị trước nay nhu mì trung thực, thấy Ngô Lương Phụ mặt sắt đen sì, có hơi sợ, len lét đặt Khang Hy xuống nói: “Hoàng thượng hãy còn bé...”
“Bé à? Bé cũng là Hoàng thượng! Ngươi nói là con riêng nhà ngươi sao?” Thấy Tôn thị dám co cương, Ngô Lương Phụ càng tức giận, lớn tiếng sai bảo tiểu Thái giám: “Đi tới cung Từ Ninh gọi thủ lĩnh Thái giám Lý Minh Thôn đến đây.”
Khang Hy ban đầu không hiểu sự tình ra sao, thấy tiểu Thái giám “dạ...” một tiếng rồi chạy đi, bèn quát: “Quay lại!” nhưng lại không biết nên nói gì, chỉ đưa mắt nhìn nàng Tô đang nghiêm trang thần sắc.
Nàng Tô quỳ xuống thỉnh chỉ nói: “Hoàng thượng, việc này giao cho nô tài xử được không?” Khang Hy gật đầu nói: “Trẫm giao nhà ngươi xử lý!”
Bây giờ nàng Tô mới quay người lại nói: “Ngô Lương Phụ, ai cho phép ngươi quát tháo trước mặt Hoàng đế, diễu võ dương oai gì ở đây?”
“Ngươi là cung nữ dưới năm cờ thì biết phép tắc gì?” Ngô Lương Phụ lập tức hạch lại.
“Cung nữ?” nàng Tô cười nhạt, “Hiện giờ ta là Khâm sai, ngươi quỳ xuống!”
“Hả?” Ngô Lương Phụ quay mặt lại, vừa nói mấy tiếng “Ngươi là…”, tiếng “đồ” chưa kịp nói ra, nàng Tô đã giang tay ra, một cái tát gọn dòn, nẩy lửa vào mặt Ngô Lương Phụ. “Chủ cũ vừa mới đi xa, ngươi dám coi thường Hoàng thượng! Phụng chỉ, ngươi phải quỳ xuống! – Hoàng thượng, có nên như vậy không?”
Khang Hy vừa tỉnh ra, mới định bảo hắn “Giáng chỉ”, nhưng vội nói: “Quỳ xuống, vả vào mồm năm mươi cái!”
Ngô Lương Phụ thấy Khang Hy đã lên tiếng, mới miễn cưỡng quỳ xuống. Một tiểu Thái giám vội bước lên xắn tay áo, giang tay định đánh, nàng Tô vội quát: “Ai khiến ngươi làm thế! Hoàng thượng muốn hắn phải tự vả vào mồm! Ngươi hãy đứng đây đếm cho đủ số. – Tâu Đức ông, Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu đang còn đợi Đức ông, chúng ta đi thôi!” Nói rồi ba người đi thẳng một mạch.
Ngô Lương Phụ bị nàng Tô chơi cho một vố đau điếng, tức muốn nổ tròng mắt. Thấy bọn họ đã đi xa mà tên tiểu Thái giám đứng bên cạnh đợi đếm số lần hắn vả mồm, vừa thẹn vừa tức, hắn bỗng vùng đứng lên giang tay cho tên tiểu Thái giám, một cú đấm nổ đom đóm: “Đồ súc sinh đáng chết, mày cũng dám coi thường tao à!”
“Anh nuôi thôi đi, hơn thua gì với bọn nhóc đó?” Ngô Lương Phụ quay đầu lại, thì ra là thị vệ Nạp Mô, con nuôi Ngao Bái. Nạp Mô cười khanh khách: “Ngao Trung đường tối nay mời tiếp khách bảo ông về phủ một lát, Phụ quốc công Ban Bố Nhĩ Thiện, Thị lang Thái Tất Đồ, đại nhân Lạc Thế đều tới dự. Thế nào, có tới không? – Còn muốn hả giận thì dễ ợt!” Ngô Lương Phụ gật đầu, quát tên tiểu Thái giám: “Cút!”
Một ngày vui mừng bị Ngô Lương Phụ quấy rầy, Khang Hy cảm thấy cụt hứng. Tôn thị và nàng Tô đi theo sau cũng thấy lòng nặng trịch. Tôn thị vốn định nhân ngày vui Đức Vạn tuế lên ngôi, trong lòng vui mừng, bà sẽ đem tâu chuyện Ngụy Đông Đình, xin điều hắn từ Nha môn tuần phòng sang làm sai dịch, một là sau này có đường tiến thân, hai là mẹ con cũng được gặp nhau thường xuyên. Ý định này cũng đã bàn bạc trước với nàng Tô. Bà biết rằng cô gái này mới mười lăm tuổi nhưng lại là người tâm phúc của Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu, dáng người khỏi phải
nói, lòng dạ lại rất thông minh, một câu nói ra bằng mười câu của mình! Dè đâu gặp phải tên Ngô Lương Phụ xúi quẩy, nên không dám mở miệng nói gì nữa. Nàng Tô biết rõ nội tình nhưng cũng im lặng, chỉ thầm nghĩ: “Tên Ngô Lương Phụ này hôm nay ăn phải cái bả gì mà to gan thế!” vừa nghĩ vừa lấn tới một bước, cười nói với Khang Hy: “Đức Vạn tuế đừng thèm giận bọn tiểu nhân này làm gì. Hôm nay phải dành được cát lợi, trở về gặp Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu phải vui vẻ lên, hả!” Khang Hy gật đầu, bước nhanh vào cung Từ Ninh.
Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu một người nằm nghiêng trên sạp, một người ngồi duỗi ở cuối đầu bàn, trên bàn xếp những bộ đồ trà tinh xảo, từ sớm đã đợi Khang Hy tới. Vừa thấy Khang Hy trịnh trọng bước vào, phía sau, nàng Tô và Tôn thị chân giẫm lên nền gạch hoa, tay bưng lụa vàng tơ trắng cũng từng bước tiến lên, hai người nhìn nhau cười, không hẹn trước mà cùng nghĩ rằng: “Giống y như một Thiên tử đấy!” Khang Hy tiến lên vấn an, Thái hoàng Thái hậu giang tay kéo lại, ôm vào lòng, hỏi dài hỏi ngắn: “Hôm nay trời rét thế này, con có bị lạnh không? Mẹ con chuẩn bị cho con bao nhiêu là thức ngon, chọn thứ dễ tiêu ăn nhiều một chút!” Nghe mẹ nói vậy, Hoàng Thái hậu vội căn dặn: “Nàng Tô, tìm chiếc áo lông báo tía cho Hoàng đế mặc – nghe Trương Vạn Cường nói, hôm nay con người nhỏ này lại làm người lớn cả một ngày, thật cũng khổ cho con!” Tôn thị vội góp vui: “Ái dà dà! Cơ man là người, quả là tôn nghiêm tráng lệ! Con quỳ bên phía hông, cứ phát run lên. May mà Đức ông là chân mệnh Thiên tử mới vượt qua được, danh giá làm sao, công việc trót lọt!”
Nàng Tô lấy ra áo lông báo tía chậm rãi khoác lên người Khang Hy. Cậu đi đến chiếc kính pha lê khảm vàng ngắm nghía, thấy rất vừa, rồi đĩnh
đạc đi đến trước hai người già, nói: “Chiếc áo này mặc rất đẹp, cảm ơn mẹ!”
Bà Đồng Giai vội nói: “Con ngồi xuống.” Quay người nói với Thái hoàng Thái hậu: “Mấy ngày nay vì việc của Đức ông Thuận Trị ai nấy đều bận rộn, lòng không thanh thản. Con xem Hoàng đế phải tìm một người thầy thích hợp mới được, đã tám tuổi rồi, phải đi học thôi.” Thái hoàng Thái hậu gật đầu cười: “Phải rồi, ta cũng đang nghĩ tới việc đó. Mấy quyển sách học mấy năm nay đều do nàng Tô dạy cho, bây giờ phải tìm ông thầy học cao mới được. Có điều việc này cũng không nên vội vàng, phải chú ý tìm những người phẩm hạnh đoan chính, học vấn uyên bác rồi hẵng hay. Trước mắt phải tìm thêm cho Hoàng đế một người năng nổ, ta thấy nên để nàng Tô sớm hôm hầu hạ cũng yên tâm hơn – Mạn Thư, con có nghe thấy không?”
Nàng Tô vội quỳ xuống thi lễ, đáp rằng: “Con xin tuân ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu! Có điều nô tài còn muốn bày tỏ ý nguyện của kẻ dưới này, không biết có nên nói ra hay không?” Thái hậu vội hỏi: “Cứ nói xem!” Nàng Tô nói: “Nô tài theo Đức Vạn tuế chỉ biết coi nóng lạnh đau ốm thế nào, việc quan trọng nhất đối với Đức Vạn tuế bây giờ là điều cho được mấy người thị vệ tâm phúc giỏi giang. Không phải là nô tỳ cả gan, chứ rốt cùng Đức Vạn tuế tuổi hãy còn nhỏ. Lời xưa nói, “lòng người khó đo”, khó mà nói là trong số đông triều thần, thị vệ không có người có ý xấu...”
Lời nói này đã làm cho hai cung rợn gáy biến sắc. Thái hậu vội nói: “Thế là thế nào? Bên ngoài có tin đồn gì không?” Nàng Tô bèn đem chuyện Ngô Lương Phụ quát tháo nhà vua vừa rồi đầu đuôi kể ra tỉ mỉ cho hai vị nghe.
Nghe xong Thái hoàng Thái hậu hỏi ngay: “Tên Ngô Lương Phụ này là người thế nào? Nó còn trên cả Đô thái giám Lục cung sao?” Thái hậu nghe hỏi vội đứng lên cười nói: “Xem ra trong việc này Mạn Thư và bà Tôn cũng hơi mạnh tay. Chẳng qua tên Ngô Lương Phụ này là con nuôi của quan Phụ chính Ngao Bái, cũng nên nể tình một chút, đừng nên gây khó dễ làm gì. Lần trước khi triệu kiến bốn vị quan Phụ chính đã bàn định, việc bên ngoài dựa vào Sách Ni, việc trong cung coi quản thị vệ do Ngao Bái làm chủ. Đức Bà cứ yên tâm, nó làm được gì? Đã có bọn Oa Hách rồi.” Thái hoàng Thái hậu nghe xong, một hồi lâu mới nói: “Mạn Thư suy nghĩ thấu đáo, điều này thật đáng lo. Nhưng Hoàng đế đã mệt rồi, hôm nay hãy dừng ở đây. Mạn Thư, hầu vua đi nghỉ thôi.”
Khang Hy quỳ thưa hai vị Thái hậu rồi đứng lên theo Tôn thị và nàng Tô, đi được mấy bước bỗng quay lại nói: “Thái hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu, chiếu chỉ đại xá đã công bố chưa?” Thái hậu nghe nói bật cười: “Đi thôi, đi thôi! Còn nghĩ tới chuyện đó sao? Vậy thì bọn họ làm việc gì? Bọn Sách Ni lần trước phụng chiếu đã sắp đặt xong rồi.” Khang Hy nghe xong không nói gì, vội bước theo nàng Tô và Tôn thị.
3
Ngụy Đông Đình phong trần gặp hiệp nữ
Ngũ Thứ Hữu hâm rượu luận công danh
Vua già thoát tục, vua mới lên ngôi, đại xá thiên hạ, mở khoa thi chọn hiền tài, là thông lệ mấy triều truyền lại. Thực ra, chẳng đợi công bố Thánh chiếu, sĩ tử các tỉnh đã sớm xe ngựa rộn ràng, hành lý lên đường rồi. Sau tết, Bắc Kinh liên tiếp có mấy ngày đẹp trời, người ta vui vẻ nghịch băng trên Bắc Hải, như sợ băng sắp tan, thuyền con bằng gỗ trẻ nhỏ nô đùa không dám đặt xuống. Gió xuân nhẹ nhàng lướt qua, tuy vẫn lạnh, nhưng không còn buốt thịt buốt xương. Mười mấy gian phòng khách ở quán Duyệt Bằng dần dần đã chật kín người. Chỉ ba gian phòng trên vẫn một mình Ngũ Thứ Hữu ở. Về sau, người thuê phòng nhiều lên, Ngũ Thứ Hữu cảm thấy áy náy, bèn bảo Minh Châu cùng dọn đến ở nhà phía tây. Hai anh em ngày nào cũng giảng thơ, bình văn, cốt đợi ân chiếu công bố.
Hôm nay “mồng hai tháng hai”, ngày rồng ngẩng đầu. Tuy không phải là lễ tết gì lớn, chỉ cần trong lòng vui vẻ là người ta tìm cớ đi ra ngoài. Ngũ Thứ Hữu đã hẹn với Minh Châu cùng đi chơi Tây Sơn.
Đúng là tiết “Dương xuân sớm”, mới chợt ấm hãy còn lạnh, tơ liễu nhuốm vàng. Hai người sóng đôi dạo bước, tình cờ đến bờ Tây Hà. Nơi
đây là bến thuyền lớn thời Minh trước, chợ búa chen chúc, cửa hàng ken kín, đồ chơi đồ dùng không thiếu thứ gì, hàng bày bán trên nền đất này là nghiên Tống, sứ Minh, đũa vàng chén ngọc tiên triều, bình phong bát bửu chạm vàng, bình ngọc bích Hòa Điền, còn có hàng thuyền nước ngoài đến, đèn thủy tinh pha lê tử đàn, đồng hồ báo giờ, Phật đồng Di Lặc, tẩu thuốc, tranh chữ của danh nhân... thật là lung linh ngập mắt, thứ gì cũng có. Hai người vốn định tìm nơi thanh tịnh, không ngờ lạc đến chốn này, so với trong cửa Tây Trực càng tạp nham hơn nhiều. Minh Châu thấy Ngũ Thứ Hữu trong lòng không vui, bèn nói: “Bên kia sông phong cảnh đẹp, chúng ta qua bên đó đi.” Ngũ Thứ Hữu gật đầu: “Cũng được.”
Đang nói thì nghe bên cạnh một đám đông người reo hò huyên náo, Minh Châu lấn tới xem, thì ra là một đôi giang hồ một trai một gái đang múa võ. Người nam khoảng bốn năm, bốn sáu tay trần đang biểu diễn. Ông ta đẩy dạt vòng người ra, quấn đuôi sam lên đầu vấn thành búi tóc, nhặt dưới đất lên hai viên gạch gãy đôi, mỗi tay nắm một mẩu, năm ngón tay vận khí lấy sức bóp lại, nghe tiếng “rắc” mẩu gạch trong hai bàn tay tức thì vỡ vụn ra. Mọi người đồng thanh khen “hay”!
Người đàn ông lên tiếng: “Chúng tôi lần đầu đến quý địa phương, là người lạ đất, tất cả nhờ bà con chiếu cố, tại hạ tuy có biểu diễn mấy trò vặt, song không dám múa rìu qua mắt thợ, có thất thố gì mong các vị rộng lòng tha thứ!” Nói xong bèn chỉ cô gái đứng bên cạnh: “Đây là tiểu nữ Sử Giám Mai, năm nay mười bảy tuổi, còn chưa nhận sính lễ của ai. Không phải tiểu lão đây ba hoa dối trá, bây giờ để cháu ngồi trên mấy cái bánh dầu vừng này, vị nào kéo cháu lên được, thì xin phụng tặng quân tử về làm con sen hầu hạ, quyết không hối tiếc!”
Minh Châu bất giác xem say sưa. Chàng tựa như đã nhìn thấy cô gái này ở đâu rồi, nhưng không nghĩ ra, quay lại vẫy tay ngoắc Ngũ Thứ Hữu: “Anh cả, lại đây xem, rất thú vị.”
Ngũ Thứ Hữu nhìn cô gái, trong nét kiều diễm có chút gì cang cường mạnh mẽ, tuy không thật đẹp nhưng cũng quyến rũ. Chỉ thấy nàng đứng một bên tay vê bím tóc, nhếch miệng mỉm cười, không có chút gì e thẹn. Nghe ông bố nói xong, bèn đi một thế quyền mời gọi, lưng eo nhẹ bước như gió đùa cành liễu, tiến thoái nhịp nhàng như thuyền lướt sóng, người có nghề thoạt nhìn đã biết, quả là khinh công phi phàm. Nàng trở lại tư thế của môn phái, rồi dạng chân ngồi trên một chồng gồm bảy tám chiếc bánh dầu vừng.
Người đến xem vui mỗi lúc một đông. Mọi người chen lấn nhau, nhưng không có ai dám đứng ra làm thử. Một chặp lâu, một chàng trai mạnh khỏe nhảy vào trong vòng, đỏ mặt nói: “Tôi muốn thử xem!”, vừa nói vừa bước lên trước nắm bả vai cô gái, lấy hết sức kéo, không ngờ cô gái xoay vai một cái, chàng trai bật té văng ra năm sáu thước hơn. Chàng ta bò dậy, phủi đất trên mình nói: “Không tính lần này, cô ta chỉ gặp may thôi!” ông già cười nói: “Thì cứ thử lần nữa xem.”
Chàng trai nọ bèn bước tới kéo cô gái, ai dè dù gắng sức đến mấy, cô gái tuy có xoay qua xoay lại nhưng thân hình như dính chặt xuống mấy chiếc bánh dầu. Chàng trai đỏ mày đỏ mặt, còn cô gái thì cười bướng bỉnh. Chàng ta định thả tay chịu thua, ông già lại nói: “Túc hạ nếu có bạn, có thể mấy người hợp sức lại kéo.” Chàng trai nghe vậy, vẫy tay gọi vào đám đông: “Anh Năm, anh Tư, cháu, các người vào giúp tôi một tay!”
Lời vừa dứt, mấy người trong đám đông lên tiếng chạy ra. Có hai người khoảng hơn ba mươi, người trẻ hơn cũng khoảng hăm nhăm hăm sáu, ai ai cũng lưng dài vai rộng, sức khỏe như hổ cùng bước tới trước. Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu bất giác toát mồ hôi thầm lo cho cô gái. Cô gái rút trong túi ra hai sợi dây màu, mỗi tay nắm một dây, chìa bốn đầu dây ra ngoài, thế là hai người ra sức kéo một tay cô gái. Đang sắp kéo thì chàng trai trẻ nói: “Thế này không được, cô nàng mà buông tay ra thì bọn tôi ngã chỏng gọng.” Ông già cười khà khà: “Buông tay là thua!”
Một cuộc đọ sức lại bắt đầu, bốn chàng trai trẻ mỗi người nắm một đầu dây, dùng hết sức kéo theo một hướng, sức kéo có đến ngàn cân. Nhưng cô gái ngồi trên đống bánh dầu không hề nhúc nhích, mặc cho bốn người đông kéo tây trì. Kéo lâu quá, mấy chiếc bánh dầu chịu không nổi, kêu răng rắc, bị đè nát thành mấy mảnh. Có hơn ngàn người xem chung quanh thấy màn biểu diễn tuyệt chiêu, liền hò reo tán thưởng.
Ngũ Thứ Hữu cũng quên mất mình là thư sinh, cùng mọi người lớn tiếng hò reo: “Hay quá!” Mấy người đứng lặng một hồi, cô gái mới từ từ thu lại hai sợi dây màu, rồi giật mạnh một cái, bốn người không giữ nổi, đành buông tay, ngã chỏng gọng.
Mọi người lại được một trận hò reo khen hay, ông già liền lật cái đồng la lên thu tiền. Đúng lúc đó, bên ngoài vòng bỗng hỗn loạn, mấy tên lực lưỡng như hổ, vừa đẩy người vừa dùng gậy đẩy đám người mua vui. “Tránh ra tránh ra! Đại nhân Mục Lý Mã tới!” Nghe nói “Mục Lý Mã”, Minh Châu bát giác tim đập loạn xạ, lấy tay bấm nhẹ, nói nhỏ với Ngũ Thứ Hữu: “Đại ca, đây chẳng có gì hay, chúng ta đi thôi.” Ngũ Thứ Hữu đang xem say sưa, đâu muốn bỏ đi, lắc đầu nói: “Để xem một chốc nữa rồi hẵng đi.” Minh Châu đành phải đứng lại. Ngay lúc đó, mọi người đã giạt ra chừa
một lối đi. Tên Mục Lý Mã xuống ngựa, ném chiếc roi cho tùy tùng, xắn tay áo lên bước tới trước: “Ông già, đây là con gái của ông hả?”
Ông lão nhìn thấy một vị quan quyền quý, liền chắp tay nói: “Thưa Ngài, đây là nghĩa nữ của tiểu nhân tên Sử Giám Mai.”
“Được đấy!” Mục Lý Mã ha ha cười nhạt, nói: “Nghe nói bốn tên trai tráng kéo không nổi cô ta, công phu cũng khá đấy!” Ông lão vội thưa: “Cảm ơn Đức ngài khen ngợi, cháu chẳng qua mới luyện nội công mấy ngày, thực chỉ đáng làm trò cười cho người qua đường thôi,” Mục Lý Mã quan sát kỹ lưỡng Giám Mai từ trên xuống dưới một hồi rồi quay đầu nói với tên tùy tùng: “Cô gái này khá xinh đẹp, ta lại muốn lĩnh giáo nội công của cô ta!” Nói rồi bèn tiến lên phía trước.
Hai người vừa mới đập tay nhau, chỉ thấy Giám Mai bỗng rút tay lại, ném ra một sợi dây tơ. Mục Lý Mã cười ngạo mạn và lấy tay kéo, nàng hết đường nhường nhịn, nghiêng mình lăn qua một bên, bật đứng thẳng dậy nói: “Đừng có giở trò bậy bạ gian tà, hãy cho thấy công phu đích thực!” Mọi người nghe thấy lập tức cười rộ lên. Ông lão bước lên một bước, xá Mục Lý Mã một cái, và nói: “Ngài thủ đoạn cao cường, chúng tôi chịu thua rồi, mong ngài nhẹ tay thông cảm!”
“Nhẹ tay thông cảm?” Mục Lý Mã cười ha hả, khoát tay. “Lời ông vừa nói không được rồi, ta đã kéo được cô nàng, thì cô nàng phải thuộc về ta! Thế nào? Ta không xứng với cô nàng sao?” Ông lão một tay đỡ nhẹ Giám Mai, còn một tay nắm tay áo Mục Lý Mã nói: “Thưa ngài, nếu ngài đường hoàng kéo cháu lên thì tiểu nhân này không có gì nói nữa, nhưng ngày lại dùng ám khí nhẫn có chất độc thì...” Lời chưa kịp nói xong, Mục Lý Mã
sốt ruột phất tay nói: “Không có thì giờ nghe mi kể lể. Đi!” Hai tên thân binh xông lên, bắt được Sử Giám Mai.
“Khoan đã!” Ngũ Thứ Hữu đứng một bên hết chịu đựng nổi, bước ra trước đám người, chắp hai tay nói đĩnh đạc: “Mục Lý Mã đại nhân! Tại hạ tuy không biết võ công, nhưng cô gái này tự mình đứng dậy, chứ ngài có kéo được cô ta đâu! Đây còn chưa nói, việc gả chồng rước dâu cũng phải chọn ngày lành tháng tốt, ngài làm như vậy có khác gì đi cướp vợ?” Mục Lý Mã nhìn xoi mói Ngũ Thứ Hữu từ trên xuống dưới, rồi cười ha hả: “Mi là tên học trò quèn, không bằng một tên nô tài hạng ba của ta, đây là chỗ cho mi nói hả?”
Ngũ Thứ Hữu thấy hắn vô lễ như vậy, bừng bừng nổi giận, không còn sợ gì nữa. Minh Châu đứng sau kéo tay chàng, chàng lại vùng ra, tiến lên một bước nói: “Đường đường hoàng thành, dưới chân Thiên tử, chính là chỗ nói phải trái. Ông tiều, nhà buôn đều được quyền nói, cớ sao tôi không được nói? Tôi cứ phải nói!”
Lời chưa dứt, chỉ nghe đau nhói trên vai, bị Mục Lý Mã cho một roi: “Đù má, chán sống rồi hả? Con bé làm trò này là chị mày hay em mày mà mày che chở cho nó?” Ngũ Thứ Hữu nhịn đau phẫn nộ quát rằng: “Giữa đường thấy chuyện bất bằng, người nào cũng phải lên tiếng, cần chi phải là chị hay em mới được!” Minh Châu lúc đó đã ngớ người vội chen lên kéo chàng lại. “Huynh trưởng, thôi đừng nói nữa anh!”
Đúng lúc đó, bỗng thấy một chàng trai trẻ từ trong đám người bước ra đi đến trước mặt Giám Mai, kéo tay lên xem, quay lại vái Mục Lý Mã một cái nói: “Mục Lý Mã đại nhân, ngài dùng ám khí hại người bị thương, có thể xem là quang minh chính đại sao?”
Mục Lý Mã thấy người này lưng dắt bảo đao, rất mực trâm anh, cảm thấy người này khó chơi, nhưng không muốn đấu dịu, bèn nghênh mặt hỏi: “Nhà ngươi làm cái gì vậy? Ngươi dám can thiệp vào chuyện của ta sao?” Minh Châu nhìn thấy, biết ngay người này đúng là em họ Ngụy Đông Đình của mình. Đang lúc người đông, lại có việc rắc rối, không tiện gặp riêng, bèn nói với Ngũ Thứ Hữu “Đấy là em họ em, tên Ngụy Đông Đình.” Ngũ Thứ Hữu gật đầu tán thưởng.
Ngụy Đông Đình hai tay chống nạnh, cũng nghênh mặt đáp lại: “Thật là đúng lúc! Tại hạ họ Quản tên Đắc Khoan, cần phải quản những việc như thế này!” Mục Lý Mã vỗ ngực nói: “Ta đường đường Tịnh Tây tướng quân, còn ngươi có công danh gì?” Ngụy Đông Đình lại mỉm cười: “Đừng nói là Tịnh Tây tướng quân, dù là Tây Sở Bá Vương đến đây cũng phải biết phân rõ phải trái!”
Tên Mục Lý Mã này vốn là em ruột của Thái sư đương triều Ngao Bái, thường ngày ngang ngược, coi thường pháp luật, quen thói ức hiếp người. Lần này vào kinh kiếm chức, vốn là do Ngao Bái viết thư gọi lên, nghe nói, định cho hắn làm một việc gì khá lắm. Nhưng hắn trước nay sợ anh một phép, thấy Giám Mai xinh đẹp tài ba, có ý tiện tay cướp về dâng cho anh để lấy lòng, không ngờ gặp phải hai cây gai nhọn Ngũ Thứ Hữu, Ngụy Đông Đình, trong lòng hắn lửa giận bốc lên hừng hực. Nhưng suy đi nghĩ lại: “Chốn kinh sư trọng địa, không nên làm to chuyện, cầm đuốc đứng trước ngọn gió. Ở chỗ người việc đều lộn xộn bốn bề này, cũng dễ sa bẫy lắm, chi bằng đi cho rồi.” Nhìn ngắm một hồi, hắn cười nhạt nói: “Ông lớn có chuyện cần, không lằng nhằng với bọn tép nhép chúng bay, đi!”
“Đi à, được thôi, có điều, phải để người lại!” Ngụy Đông Đình ngẩng đầu quát. Tên Mục Lý Mã chỉ cười cười, nhảy phóc lên ngựa, hô “đi”, hai
tên thân binh vác Giám Mai bỏ chạy. Ngụy Đông Đình cười nhạt, rút phắt bảo đao ra, nhảy phóc lên trước, một tay đấm vào vai tên thân binh đang vác Giám Mai, thuận chân đá ngã tên thứ hai, chỉ nghe một tiếng “mẹ ơi”, trong nháy mắt hai tên thân binh ngã sóng soài trên đất. Sử Giám Mai vùng quay người, phi thân đá một cái, tên thân binh phía trước ngã vập xuống miệng đầy bùn. Người đến xem trò sớm đã tản đi nhiều.
Mục Lý Mã càng giận dữ, vung roi quất xuống đầu Ngụy Đông Đình. Ngụy Đông Đình né ra, thuận tay bắt được ngọn roi kéo một phát, Mục Lý Mã mất đà rơi xuống! Mấy tên thân binh hoảng hốt, một mặt xông lên đỡ chủ mình, một mặt rút dao áp sát Ngụy Đông Đình. Đám đông còn lại thấy chuyện trở nên nghiêm trọng, rần rần kiếm đường tứ tản. Ngũ Thứ Hữu vội vàng thét lão diễn trò: “Chạy nhanh lên!”
Ông lão già vốn không muốn ra tay, bây giờ thấy không còn chỗ thụt lùi, bèn quát lớn “Ăn côn này!” Chỉ thấy ông nhặt dưới đất lên một cái côn ba đốt, múa lên kêu vù vù. Ngọn côn rít lên một hồi, lập tức đánh ngã ba bốn tên đồ đệ của Mục Lý Mã chỉ còn nằm mà rên. Ngụy Đông Đình vốn tưởng lão diễn trò nhát gan, bây giờ thấy ông ra tay quyết liệt, trong lòng tràn đầy khâm phục, Mục Lý Mã thấy sự việc tồi tệ, một mặt rút đao tự vệ, một mặt thét to: “Còn không nhanh đi gọi đội ngựa!” Một tên đầy tớ nhỏ lui ra từ trước, nhảy phóc lên ngựa, ra roi chạy như bay.
Minh Châu một tay kéo Ngũ Thứ Hữu biến vào trong đám đông, vừa thét to với Ngụy Đông Đình: “Thập tam lang, đừng say đánh nữa, chạy mau đi!” Lão già nghe thấy biết là người mình nhắc nhở, vội dùng côn ba đốt tự bảo vệ, vừa đánh vừa lui. Ngụy Đông Đình múa đao loang loáng theo sát phía sau. Minh Châu kéo Ngũ Thứ Hữu nói: “Huynh trưởng, tên này cầu cứu binh mã sẽ tới ngay, chúng ta chạy mau!” Ngũ Thứ Hữu vùng
tay ra lại tiến tới mấy bước, đứng dưới gốc cây già nhìn ra xa. Minh Châu ngớ người, cũng vội chạy lên.
Mắt thấy Ngụy Đông Đình che chở cha con lão già chạy qua một cái cầu nhỏ, còn chàng đứng lại đầu cầu, mười mấy tên thân binh cầm đao từ từ tiến sát về phía chàng. Ngụy Đông Đình bỗng đứng thẳng lên, ung dung cho đao vào bao, từ từ lấy trong túi ra một vật, thuận tay huơ lên, bốn tên thân binh đứng trước “ối” lên một tiếng, ôm mặt ngã xuống, lăn lộn rên rỉ một cách đau đớn, mấy tên phía sau không biết chuyện gì liền chạy lên đỡ dậy, thấy tên nào trên mặt cũng có mười mấy cây kim bạc cực nhỏ, có hai tên bị đâm vào mắt. Bọn chúng vừa la hét, vừa luýnh quýnh nhổ kim ra. Còn lại mấy tên nhìn nhau, trân trân nhìn ba người qua cầu, đi vào trong rừng cây bên kia bờ. Ngũ Thứ Hữu nhìn thấy bọn chúng không đuổi theo nữa mới kéo Minh Châu nói: “Chúng ta về thôi.”
Ngụy Đông Đình đánh bại bọn thân binh liền đi ngay vào rừng, tìm thấy cha con Giám Mai dưới gốc một cây liễu già ở sâu trong rừng. Ông lão thấy Ngụy Đông Đình đi tới, vội đứng lên vái chào nói: “Tráng sĩ, hôm nay không có ngài ra tay cứu giúp, thì cha con già khó mà thoát khỏi bàn tay độc ác của chúng. Cảm ơn đại ân của tráng sĩ, xin trước hết nhận của già một lễ!” nói xong quỳ xuống lạy một lạy. Rồi tiếp: “Giám Mai, mau lạy tạ ân nhân!” Cô gái khom lưng định lạy, Ngụy Đông Đình hoảng hồn bước lên hai tay đỡ dậy. Lúc đó chàng mới nhìn kỹ, bỗng thất thanh kêu lên kinh ngạc: “A, có phải là em Mai!”
Nghe nói tên mình, Giám Mai cũng kinh ngạc, xem kỹ lại. Cũng thất thanh kêu lên: “Anh Đình, bây giờ mới gặp được anh.” Nói xong hai dòng nước mắt lăn xuống gò má. Đông Đình thấy nàng khóc, tay chân luống
cuống, vội đưa cho nàng chiếc khăn tay vuông, nói rằng: “Vừa rồi chỉ lo đánh nhau, không kịp nhận ra em!”
Giám Mai thấy ông lão kinh ngạc, vội cười nói: “Nghĩa phụ, đây là anh Đông Đình mà con thường nói với cha đó, anh phục dịch ở hoàng trang Nhiệt Hà, chúng con là đồng hương....” Rồi quay lại nói với Đông Đình: “Đây là cha nuôi của em, Sử Long Bưu, cha con em cùng vào kinh...” Giám Mai đang nói, liếc thấy Sử Long Bưu đưa mắt làm hiệu, bèn chuyển câu chuyện “chính là để tìm anh đây.”
“Sử Long Bưu?” Ngụy Đông Đình chau mày suy nghĩ, bỗng kêu lên: “Có phải là Sử đại hiệp mà giới giang hồ gọi là La hán sắt?” Ông lão mỉm cười: “Đúng là kẻ bất tài này, thực ra không xứng với danh tiếng.” Ngụy Đông Đình vội nói: “Vậy sao hai người có duyên nhận nhau làm cha con?” Ông lão thở dài nói: “Nói ra thì dài dòng, đã đến nương nhờ anh, chúng ta hãy về nhà trước đã, rồi hẵng kể sau, anh đang trú ở đâu?”
Một lời làm Ngụy Đông Đình bừng tỉnh, chàng trả lời: “Cháu đang ở nhà số ba phía đông cầu Hổ Phường”, vừa đứng dậy nhìn bốn phía rồi nói: “Sử lão bá, bác hãy ở đây đừng đi đâu, cháu đi thuê cái kiệu rồi chúng ta hãy đi.” Nói xong một mình rời rừng cây chạy thẳng ra ngoài.
Không ngờ hội miếu bên bờ Tây Hà xảy ra sự việc nên tan hội lâu rồi, xung quanh không có kiệu. Ngụy Đông Đình tìm cả nửa canh giờ, khá vất vả mới nhìn thấy một chiếc xe kiệu, bèn bảo phu xe đợi ở bên đường còn mình quay lại tìm Giám Mai và Sử Long Bưu. Chưa kịp đến gần cây liễu già, đã thấy cỏ cây nhàu nát, nghĩ bụng “không xong rồi”, vội chạy mấy bước đến chỗ cây liễu già chỉ thấy rừng trống không, đâu còn bóng dáng hai cha con Giám Mai!
Ngụy Đông Đình dò tìm kỹ, chỉ thấy một chiếc ngọc bội rơi trong đám cỏ nát, nhặt lên thấy là vật tùy thân của Giám Mai, một chốc, mồ hôi vã ra, nhìn thấy dấu chân, chàng nói: “Ta tính sai rồi, sớm biết thế này, cùng đi với nhau thì có sao!” Không một chút chậm trễ, chàng chạy ra khỏi rừng, chạy ra đường lên xe, bảo: “Nhanh lên, đến Cấm Thành!”
Ngụy Đông Đình vào kinh, phục vụ ở phủ Nội Vụ, tính đi tính lại mới có hai tháng, người quen biết chưa nhiều. Lần này nóng muốn gặp mẹ ở trong cung, muốn nhờ người nhắn tin, hỏi đến mấy người đều nói “chịu thôi”, chàng cũng phải đành thôi mơ ước, nhanh nhanh trở về.
Chàng vừa ra khỏi cửa phủ Nội Vụ, đụng ngay Tiểu Mao lắc lư đi tới, vụt nhớ ra, chú ta phục vụ ở phòng ngự trà nội cung. Anh họ chú là Văn Thốn Sinh cũng ở phủ Nội Vụ, đã có gặp chú đôi lần. Chú nhóc nhất định là thua bạc hết nhẵn tiền, đến tìm anh họ kêu cứu, bèn với tay kéo chú lại, cười rằng: “Tiểu Mao, đi tìm anh họ phải không?”
Tiểu Mao đáp “ừ” ngẩng đầu nhìn thấy là Ngụy Đông Đình vội hỏi: “Anh họ tôi có trong đó chứ?” Ngụy Đông Đình nói: “Anh chú đang làm việc với các quan, đâu có thì giờ gặp chú?” Tiểu Mao thấy mất hứng, quay gót định đi. Ngụy Đông Đình vội nói: “Anh chú và ta đối với nhau rất tốt, chú có gì khó khăn hãy nói với ta, cái gì làm được, ta giúp cho, cái gì không làm được, ta sẽ nhắn giúp cho chú.” Tiểu Mao nhíu mày: “Nói ra xấu hổ chết được! Hôm qua trở về, mẹ em bệnh nặng lắm, nhưng chưa có tiền mua thuốc, đi tìm anh họ mượn chút đỉnh.”
Ngụy Đông Đình nghĩ rằng hắn nói dối, trong lòng cười thầm, đập vào vai hắn một cái: “Người anh em thật là tận hiếu, chuyện chút đỉnh đó anh giúp được, chú cần bao nhiêu?” Tiểu Mao thẹn thùng nói: “Đâu có dám
làm phiền anh. Thực ra cũng không nhiều, một chuỗi rưỡi là đủ.” Ngụy Đông Đình cười ha hả: “Một chuỗi thì làm được chuyện gì? Đây năm lượng, chú mang về thuốc cho bá mẫu, mua thêm tí thuốc bổ thì mau khỏi bệnh thôi.” Tiểu Mao cảm thấy bất ngờ, trừng trừng nhìn Ngụy Đông Đình: “Anh lĩnh mỗi tháng chưa được năm lượng, làm sao em dám lấy bấy nhiêu?” Ngụy Đông Đình nói: “Anh em mình cả mà, nói vậy người ta cười cho.”
“Vậy thì em xin cảm ơn anh.” Tiểu Mao hai tay nhận lấy bạc, lui bộ quỳ một chân chào rất thành thạo: “Anh Ngụy thật là tốt!” Ngụy Đông Đình thấy hắn định đi, làm ra vẻ lơ đễnh hỏi: “Bây giờ chú đi đâu đây?” “Trở về bên ấy, hôm nay phiên em phục dịch, đến sáng sớm hôm sau mới hết phiên!”
“Bên ấy” là đại nội. Đúng là buồn ngủ mà gặp chiếu manh, nhưng không thể vồ vập quá. Ngụy Đông Đình làm như không để ý “hả” một tiếng rồi hỏi: “Em có biết bà Tôn thị ở bên cạnh Hoàng thượng không?” Tiểu Mao nghe nói liền cười: “Đừng nói Tôn ma ma, ngay đến chị cả Tô Ma Lạt Cô, ai không đến phòng ngự trà? Đó là thuộc hàng tâm phúc số một của Hoàng thượng! Anh có việc gì không?” Ngụy Đông Đình cười nói: “Đó là mẹ anh.”
“Ôi chao!” Tiểu Mao vừa nghe vội quỳ chào lần nữa: “Em nói anh làm việc lanh lẹ vui vẻ, không dè Đức ông Ngụy, ngài là quý nhân!” Ngụy Đông Đình cười ôm lấy chú, nói: “Đừng ba hoa, em lần này trở về tiện thể nhắn giùm anh, gặp Tôn ma ma, nói là anh chờ bà cụ ở bên ngoài cửa góc Tây, có chút việc cần.” Tiểu Mao cười nói: “Có sá gì bấy nhiêu, về sau còn nhiều dịp còn phải nhờ vả bà cụ anh nữa kia.” Nói xong, đã biến mất tăm.
Ngụy Đông Đình đợi ở cửa góc Tây có đến nửa canh giờ, trời sắp đứng bóng Tôn thị mới ra được. Nhũ mẫu Hoàng đế theo phép không được ra ngoài gặp người nhà, sợ rằng gặp người nhà, nói lên những khó khăn phiền não, trong lòng buồn bã, có ảnh hưởng đến chất lượng sữa. Bắt đầu từ thời Thế Tổ Thuận Trị, quy định này mới nới lỏng đôi chút.
Tôn thị vừa ra khỏi cửa góc đã ngẩn mặt hỏi: “Cần gặp ta gấp, có việc gì vậy? Ta đang hầu hạ ông chủ. Nếu chỉ vì những việc lặt vặt, con phải cẩn thận đấy!” Ngụy Đông Đình nghe mẹ mắng, cứ cười trừ trả lời: “Con mà không có việc gì thì đâu dám kinh động đến mẹ. Em Mai đã bị người ta cướp đi rồi!”
Tôn thị mới nghe đã nóng ruột, vội hỏi liền một dây: “Con gặp em ở đâu? Em nó làm sao lại đến đây? Ai cướp nó đi?” Ngụy Đông Đình “hầy” một tiếng, vỗ đùi nói: “Thật là xúi quẩy!” Rồi kể tỉ mỉ đầu đuôi câu chuyện cho mẹ nghe. Tôn thị ngớ người một lúc lâu rồi nói: “Con bé số khổ làm sao! Mẹ em trước lúc chết còn kéo tay mẹ, gửi gắm mẹ chăm sóc nuôi em trưởng thành, đâu có ngờ là mẹ vừa tiến cung thì hai gia đình gặp chuyện đau lòng. Bây giờ biết làm sao đây?” Ngụy Đông Đình cũng than rằng: “Chưa kịp hỏi cái gì, vì sao cô rời gia đình, làm sao cô gặp Sử đại hiệp và học được võ nghệ, thật chẳng hiểu ra sao cả!” Tôn thị xỉ mũi, lấy cái khăn lụa trắng tinh lau nước mắt nói: “Việc đã như thế này có sốt ruột cũng không được gì, con hãy dò hỏi xem họ ở đâu, rồi chúng ta sẽ tìm cách. Cô bé này thông minh gấp mười con, mẹ nghĩ chắc sẽ không xảy ra việc gì lớn đâu. Khi tiện dịp, mẹ sẽ cầu Đức ông nghĩ cách giúp, công việc chắc gỡ cũng ra thôi.”
Ngụy Đông Đình vốn muốn tìm mẹ để xin mẹ lời khuyên. Mẹ vào kinh nhiều năm, hiện đang là nhũ mẫu, nhất định sẽ biết cách, nào ngờ mẹ
cũng không nắm được gì hơn, chỉ đành trả lời “Vâng ạ.” Quay lại mới đi mấy bước, Tôn thị gọi giật lại: “Đức ông nói sẽ gọi con vào phục dịch ở nội đình, không biết chừng nắm được cái Ngự tiền hành tẩu! Tuy cũng là người của phủ Nội Vụ nhưng danh phận khác hơn nhiều, con phải cẩn trọng, nếu để người ta xì xào, mẹ không chịu đâu! Con phải tìm cho ra em Mai, trước tiên hãy đưa về chỗ con, rồi nhắn tin cho mẹ!” Nói xong, bèn đi vào trong cửa.
Vốn muốn ra ngoài thành, đi “đạp thanh” thưởng xuân nhưng lại gặp chuyện không vui, bốn năm ngày liền, Ngũ Thứ Hữu không ra khỏi cửa, mỗi lần nghĩ lại việc đó nỗi giận khó nguôi. Minh Châu thấy anh nằm trên giường, phiền muộn không yên, biết là anh lại đang tức giận vì hành động ngang ngược của Mục Lý Mã. Hồi lâu, mới hỏi ngập ngừng: “Anh cả, kỳ thi mùa xuân sắp mở rồi nhỉ!”
Ngũ Thứ Hữu đang định trả lời, thì nghe tiếng khua rèm trúc, Hà Quế Trụ bước vào phòng, tay trái cấp một hộp tứ hỉ, tay phải ôm một cái hũ to bằng cái đấu. Ông đặt cái hộp lên bàn, từ từ để cái hũ dưới chân bàn, theo thế đó chào Ngũ Thứ Hữu và nói: “Cậu hai, kỳ thi mùa xuân năm nay không mở, có điều vua mới lên ngôi, nhất định gia khoa tuyển sĩ, cậu hai khoa này nhất định toại nguyện thôi?” Vừa nói, ông vừa cười hì hì mở cái hộp ra: trên cái vỉ còn bốc hơi nghi ngút đặt một tầng bánh ngọt, một tầng bánh chưng, một tầng ba ba chưng nhừ, còn có một cây bút, thỏi mực và một cây như ý, sắp xếp ngay ngắn trông thật đẹp mắt. Hà Quế Trụ đặt từng món từng món đồ lên bàn, lại giở ra cái vỉ dưới, thì là sáu đĩa thức ăn. Trong khoảnh khắc, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt khắp phòng. Hà Quế Trụ vừa sắp xếp vừa nói: “Đây là chút lòng thành kính, mời cậu hai thưởng
thức. Tôi biết nhà cậu hai đời đời đại Nho không tin thứ này, nhưng chỉ cốt mong được cái cát lợi!”
Không khí đang nặng nề, từ lúc Hà Quế Trụ đến đã trở nên linh hoạt. Ngũ Thứ Hữu bật dậy xỏ chân vào dép, cười nói: “Thật làm khổ cho ông, dù có cát lợi hay không cát lợi, trước hết phải hưởng lộc đã. Em Minh Châu, ông Trụ, đây không có người ngoài nào, chúng ta ba người dứt khoát ngồi vào.” Hà Quế Trụ thấy công tử hoan hỉ, cũng cảm thấy vui vẻ, lại nghe mời mình cùng ngồi uống rượu, cái kiểu lộ mặt ngang vai này, đời ông đời cha chắc chưa từng có. Miệng nói “không dám”, trong lòng lại rất muốn. Vội gọi hầu bàn: “Đem cái lò than dùng hôm Tết quạt lên mang vào đây hâm rượu. Bé Ba, mày đừng tới phía trước nữa, mà đến lầu Gia Hưng mời cô Thúy lặng lẽ đến đây...”
Ngũ Thứ Hữu tưởng ông ta định gọi ca kỹ, vội nói: “Đừng, tôi sợ nhất món này, hơn nữa bây giờ đang có quốc tang!” Hà Quế Trụ cười: “Không sao, cô Thúy không phải người lầu xanh, chẳng qua chỉ giúp mấy người bên viện Thu Hương chép nhạc, chép lời ca, cũng kể là người có danh giá. Cậu hai chú ý tự nhiên là được, vả lại tuy quốc tang, nhưng cũng là ngày vui mừng vua mới lên ngôi, nhà đại gia đều không kỵ húy huống gì chúng ta! Em Bảy viện Thu Hương hôm qua còn đến nhà Trung đường Ngao Bái hát hội. Nhà chúng ta nhỏ, cậu hai cần đạt công danh, cô đến hát khúc nhạc giúp vui có gì quá đáng đâu!” Bé Ba thấy Ngũ Công tử không ngăn nữa, vội vàng chạy đi.
Ba ly rượu nóng vào bụng, bộ mặt ủ rũ của Ngũ Thứ Hữu đã nở ra, đặt mạnh ly rượu xuống bàn, anh cười nói: “Nói đến hai tiếng công danh, nghĩ ra là ngũ vị đều có đủ, có ý nghĩa đến đỉnh cao, mà không ý nghĩa cũng đến cùng cực.” Minh Châu tợp một ngụm rượu, gắp một đũa hải sâm chưng,
vừa nhai vừa cười hỏi: “Xin hỏi anh cả, có ý nghĩa như thế nào?” Ngũ Thứ Hữu cười nói: “Hiền đệ, ta không biết chứ ông Trụ thì hiểu rõ – ông nói cho chú ấy biết đi!” Quý Trụ uống mấy ly có hơi ngà ngà, nghe công tử nói đến mình, bèn nâng ly cười nói: “Là cái đức quân tử vì xã tắc, đó là câu nói mà cụ tổ thường hay nói. Tôi là con trong nhà nên nghe mãi rồi. Nhà công tử bảy đời đã có bốn Trạng nguyên, 30 Tiến sĩ, tiếng tăm trùm khắp đất Dương Châu! Người ta nhìn nhà họ Ngũ như đứng dưới đất nhìn lên trời. Nói như lời cụ tổ “Sáng tổ vinh thân rợp cháu con. Việc tốt như thế này dĩ nhiên là có ý nghĩa!” Nói xong bưng cốc to lên, “chụt” một cái nuốt luôn. Ngũ Thứ Hữu vỗ tay cười lớn: “Nói đúng, giải sát ý là: “Ra thì xe ngựa, vào thì nhà cao, trên nhà cao nhất hô, ở dưới thềm bá ứng ….” Đây là câu nói của Bồ Lưu Tiên tiên sinh, ông Trụ có thể giải hay đấy!” Đây là lần đầu tiên Minh Châu nghe việc đời trước của nhà họ Ngũ, trong lòng cảm thấy rất vui, vội nhấp một ngụm rượu nói: “Còn nói “không ý nghĩa” là thế nào?”
Quế Trụ không dám trả lời, nhìn ly rượu lặng yên một chập rồi nói: “Cái này tôi không được rõ. Nghĩ là làm quan tuy tốt, nhưng phải nhọc lòng; đọc sách tuy tốt nhưng là chuyện khổ, nhưng cái này thì...” Ngũ Thứ Hữu đang định nói thì ngoài cửa sổ tiếng bé Ba vọng tới: “Chị Thúy, ở đây rồi, nhà chủ đang đợi chị đấy!” Hà Quế Trụ nghe nói cô Thúy đến, vội đứng dậy vén rèm vừa cười nói: “Chào chị Thúy! Mau lại đây gặp cậu hai!”
Thúy Hoàn Nhĩ cười bước vào phòng đường hoàng chào Ngũ Thứ Hữu và Minh Châu nói hai lần vạn phúc. Ngũ Thứ Hữu, Minh Châu nhìn kỹ cô Thúy suýt nữa bật cười. Vốn chỉ là cô gái mười tám, mười chín tuổi, trên đầu không có trang sức gì, thân trên mặc chiếc áo ngoài cộc tay màu trắng, phía dưới là chiếc váy xếp màu xanh, trán hơi cao một chút, trên mặt
thoa phấn mỏng, mày ngài thanh mảnh, đuôi mày hơi nhăn, dáng điệu đĩnh đạc. Nàng ngước đầu nhìn thấy một lượt, cười nói: “Đây là để cho công tử thêm sức vào trường thi rồi.”
Ngũ Thứ Hữu vốn hơi lúng túng, thấy cô nàng tự nhiên thoải mái, tự cảm thấy tức cười, liền nói: “Tôi vốn không quan tâm việc này lắm, nhưng đã bày ra rồi mọi người tiện thể vui một chốc – không nên câu thúc. Mọi người cùng ngồi xuống.” Nói xong đứng dậy bưng cốc rượu đưa mời.
Cô Thúy vội đứng lên đưa hai tay đón, lấy khăn tay che miệng uống một hơi, cảm ơn rồi ghé người ngồi xuống bên cạnh Ngũ Thứ Hữu, cúi đầu bụm miệng cười. Mãi sau mới nói: “Đa tạ hậu ý công tử, nhưng đã mời em tới, thì công tử nên uống nhiều, phận gái em xin giúp vui mới phải.” Nói xong lấy cái ống tiêu từ trong túi lụa, “Các vị cứ uống rượu, em xin thổi tiêu giúp vui!”
Minh Châu vốn giỏi thổi tiêu, nhìn thấy ống tiêu chạm vàng khảm bạc, nổi máu lên, bèn nói: “Bà chị không chê, chi bằng để em thổi tiêu, bà chị hát có phải hay không?” Quế Trụ vỗ tay cười nói: “Phải đấy!” Ngũ Thứ Hữu cũng cười: “Chúng tôi được thơm lây rồi.”
Minh Châu đưa ống tiêu lên môi cười hỏi: “Chị hát bài gì?” Cô Thúy suy nghĩ rồi nói: “Hát một đoạn Tơ khéo đài trang của Thang học sĩ nhé.” Minh Châu nói: “Được. Thổi điệu Ngũ cung dưỡng” Ngũ Thứ Hữu không hiểu việc này, chỉ ngồi nghe. Minh Châu năm đầu ngón tay mềm mại, tiếng sáo bay bổng xa vời. Cô Thúy liếc nhìn tán thưởng: “Thổi hay quá!” rồi vỗ nhịp hát rằng:
Gặp được nhau, một khắc ngày xuân, dặn dò ai đó?
Chàng là khách say xuân, trong đêm trăng vắng rượu.
Người xa rồi, mênh mang tình này ai biết?
Người đi hết, đèn hoa cũng tắt, người mong hoa ngày sau. Nghĩ tới chàng, càng trách người lạnh nhạt biệt tăm!
Hát xong, mọi người vỗ tay tán thưởng, Minh Châu trêu: “Người như chị thì ai dám “lạnh nhạt biệt tăm”?” Hà Quế Trụ nói: “Lời này quá văn hoa. Tôi thì nghĩ hôm trước anh hát cái gì “lời hoang đường” không sai.” Minh Châu cười khì khì: “Chắc là “bói quẻ ma” rồi!” Nói xong lại thổi tiêu, cô Thúy lại hát:
Chiều xuống khi không còn son phấn,
Nghe tiếng lá xạc xào từng cơn mưa ớn lạnh.
Phải chăng là ai đó gõ nhịp răng?
Xa nhìn dòng nước chảy xuôi, không thấy người trở lại, nước mắt tuôn lã chã.
Lòng tưởng nhớ chàng nhưng lại giận,
Tay mân mê chiếc giày thêu, thầm gieo quẻ rủi may!
Cô Thúy hát xong, Minh Châu liền kêu “hay”, Ngũ Thứ Hữu cũng cười nói: “Được lắm, sang hèn đều nghe được – nhưng “chiếc giày thêu gieo quẻ rủi may” là thế nào xin được thỉnh giáo?” Cô Thúy ngập ngừng một lát, chưa kịp mở miệng thì Quế Trụ đã nói: “Cô bé này biết rằng – chồng đi xa nhà, vợ ở nhà sốt ruột ngóng ngày về, nhưng xấu hổ bèn bày chuyện rủi may, lấy chiếc giày thêu chỉ đỏ ném xuống đất, nếu giày lật ngửa thì chồng sắp trở về, nếu giày lật úp chưa về ngay được – Có phải vậy không nào?” Cách giải thích rất thô sơ này lại rất chính xác, không ai là không cười. Minh Châu chợt nhớ ra, hỏi: “Anh cả, hồi nãy nói công danh có ý nghĩa, không có ý nghĩa, không biết như thế này có phải là không có ý nghĩa?” Ngũ Thứ Hữu nói: “Em ơi, anh sẽ nói cho em hay.” Vừa dứt
lời, ngoài cửa có tiếng người nói: “Các huynh đệ vui vẻ thế này, sao lại không nhớ tới người anh em này?”
4
Vua Khang Hy đêm đến quán Duyệt Bằng
Ngô Lương Phụ tự ý bắt thị vệ
Câu nói chưa dứt, Ngụy Đông Đình đã vén rèm bước vào, “À, em Minh Châu, đã định kiếm em từ lâu nhưng mãi đến nay mới rảnh.” Mọi người vội đứng lên vái chào, Ngũ Thứ Hữu càng vui hơn khi thấy đúng là chàng trai trẻ đã ra tay cứu người ở bờ Tây Hà mấy hôm trước, bèn vội vàng: “Mời ngồi mời ngồi, hôm nay thật tốt ngày. Đi chơi bờ Tây Hà được biết Ngụy hiền đệ, vô cũng ngưỡng mộ, không ngờ lại được gặp nhau nhanh như vậy. Đúng là ngọn gió tốt đưa chú đến, cùng ta chuốc rượu!”. Nói xong kéo Ngụy Đông Đình ngồi xuống. Cô Thúy chăm chú nhìn chàng thiếu niên đằng sau Ngụy Đông Đình, đâu khoảng trên dưới mười tuổi, đứng yên lặng bên cánh cửa, vội hỏi: “Vị công tử này có phải cùng đến một lượt với ngài Ngụy không ạ?” Ngụy Đông Đình nghe hỏi vội nói: “Đây là Công tử Long nhà tôi, cùng tôi đi dạo, không ngờ lại tới đây – Chúng ta xem một tí rồi đi vậy!”
Chàng thiếu niên vội vòng tay vái chào mọi người và nói: “Đã tới thì ngồi, chúng ta ngồi lại một chốc không hề gì.” Mọi người thấy chàng tuy tuổi nhỏ nhưng cử chỉ đường hoàng, tự nhiên thoải mái, lại thấy Ngụy
Đông Đình một mực tôn trọng chàng, nên cũng không dám coi thường. Ngũ Thứ Hữu vội nói: “Mời chúng ta cùng nhập cuộc.” Ngụy Đông Đình muốn nhường chàng thiếu niên ngồi lên trên bèn nói: “Xét về ngôi thứ thì công tử đây cao nhất, cần phải ngồi lên phía trên.” Chàng thiếu niên xua tay nói: “Đây không phải trong nhà, câu thúc lễ nghi làm gì!”. Nói xong bèn ngồi xuống bên cạnh nàng Thúy. “Chúng tôi đến đây lâu rồi, vừa nãy nghe Ngũ tiên sinh bàn luận về công danh, rất thú vị, xin mời tiếp tục.”
Mọi người về chỗ ngồi, đổi chén rượu mới. Ngũ Thứ Hữu lên tiếng: “Nói không ý nghĩa, không phải như Quế Trụ nói đâu. Liễu Hà Đông nói: “phàm người làm quan từ sĩ mà ra, đều phục dịch cho dân”, đã gọi làm quan, tức là làm đầy tớ cho bá tánh, thì không nên sợ lao tâm, sợ khổ.” Công tử Long nghe rồi cười hỏi: “Tôi lại nghe nói, bá quan đều là đầy tớ của Hoàng thượng, sao tiên sinh lại nói là đầy tớ của bá tánh?”
Ngũ Thứ Hữu cười: “Mệnh của Thiên tử đều gắn với mệnh dân, so ra thì mệnh dân quan trọng hơn. Được lòng dân, thì giang sơn bền vững; mất lòng dân thì dù Thiên tử, Hoàng thượng cũng đi đời nhà ma!” Ngụy Đông Đình nghe thấy, nét mặt bỗng trắng bệch. Chàng quay mặt nhìn Công tử Long, thấy chàng ta một mực chú ý lắng nghe, không có vẻ gì là chán, mới yên lòng.
Ngũ Thứ Hữu lại cười: “Chúng ta đang nói chuyện công danh. Từ xưa tới nay, cách chọn hiền sĩ đã bao lần thay đổi. Từ chế độ hương tuyển đổi sang phép cửu phẩm quan nhân, rồi cửu phẩm quan nhân đổi sang chế độ khoa cử như ngày nay. Thời xưa sĩ tử còn có thể coi thường công khanh, ngao du các nước, thuyết phục chư hầu, tìm chủ mà theo. Từ nhà Đường mở khoa thi, thói tục khác hẳn, chuộng nói suông, nhẹ việc thực, văn phong phù phiếm, nhân cách kẻ sĩ ngày càng xuống dốc, đã không có chí an dân,
lại không có tài trị nước, những kẻ mưu hư danh, cầu bổng lộc ngày càng nhiều. Triều đình dựa vào đó chọn hiền sĩ mong cầu nước mạnh dân giàu thì làm sao được!”
Ngũ Thứ Hữu nâng ly rượu nóng Hà Quế Trụ vừa hâm xong, mặt đỏ bừng, cười nói: “Cứ lấy việc sĩ tử vào trường thi đã có bảy cái giống.”
Công tử Long nghe rất hào hứng, cũng hớp một ngụm rượu hỏi: “Bảy cái giống là gì?”
Ngũ Thứ Hữu bẻ đốt ngón tay nói: “Tiên sinh Mai Ngẫu Trường ở thành Tuyên đã từng nói với tôi, tú tài vào thi, chân trần đeo giỏ, giống ăn mày: xướng danh vào thi, quan trên quát chửi, sai dịch bắt bẻ, giống ở tù; vào phòng thi, từng cửa ló đầu, từng phòng lòi chân, giống như ong cuối thu gặp lạnh; thi xong ra ngoài, tinh thần hỗn loạn, đất trời đổi sắc, giống như chim bệnh sổ lồng.”
Nghe đến đây Minh Châu bật cười, chàng là người từng trải, nên hiểu được ý vị bên trong. Ngũ Thứ Hữu lại gập ngón tay trỏ nói: “Trở về chỗ trọ, đợi chờ tin tức, như ngồi trên thảm gai bồn chồn lo lắng, giống như khỉ con đeo xích; nếu mà trên bảng không có tên, bỗng biến đổi thần sắc, giống như có tang cha mẹ; một thời gian sau, bình tĩnh lại thấy ngứa nghề, lại tha rác làm tổ, giống như chim cu ấp trứng. Bảy cái giống là như vậy đó.”
Mọi người chăm chú lắng nghe, đầu tiên cảm thấy buồn cười, sau không hiểu sao không cười được. Một hồi lâu, Ngụy Đông Đình mới cười nói: “Tiên sinh phác họa chân dung những người đó sao mà giống y như đúc, không sai một ly!” Công tử Long cũng cười nói: “Nghe tiên sinh nói vậy mọi người thấy thất vọng to, từ trong “bảy cái giống” đó tìm cho ra
Chu Công, Y Doãn, chẳng phải là trò khôi hài lớn hay sao?” Mọi người nghe đều bật cười. Minh Châu vừa cười vừa nói với Ngũ Thứ Hữu: “Vị tiểu ca này chỉ mới mười tuổi, mà sao nhanh nhẹn thế! Quả thật là mặt mày tươi vui lời khôn khéo, coi như đã chú giải cho lời nói của đại ca rồi đó!” Nhưng Ngũ Thứ Hữu lại không cười, chỉ nhìn thẳng vào Công tử Long, gật gật đầu trầm ngâm.
Quế Trụ thấy Ngụy Đông Đình uống rượu rất ít, mỗi lần nâng ly, rượu mới thấm ướt môi đã đặt xuống, bèn cười nói: “Minh Châu đại gia đã từng khoe là Ngụy gia trước nay tửu lượng tày sông bể, nhưng hôm nay chẳng có hứng thú, phải chăng là rượu dở?” Ngụy Đông Đình vội nói: “Người em này có bệnh, đã bỏ rượu từ lâu nhưng hôm nay thấy mọi người vui vẻ, cũng vui lây nên làm mấy ly.” Công tử Long cười ngắt lời: “Chi phải như vậy! Hôm nay anh phải so tài cùng với các anh đây xem cao ai thấp!” Minh Châu cười rót ra một ly đầy đưa tới, nói: “Được rồi! Làm gì có bệnh! Công tử Long nói anh uống được, còn trốn tránh nữa sao?” Ngụy Đông Đình thẹn thùng liếc nhìn Công tử Long, cười nói “Vậy tôi xin xả thân theo quân tử thôi!”
Hà Quế Tru đi ra ngoài. Một lát sau cười hì hì bê lại ống rút thăm và nói: “Đây là ống thăm uống rượu để các hiếu liêm giải sầu, chúng ta cũng rút thăm uống rượu cho vui có được không?” Ngũ Thứ Hữu đứng lên cười nói: “Cũng được, không bàn công danh, bàn tửu vận. Coi như tôi lớn tuổi nhất, tôi xin bắt đầu!” Nói xong bèn rút trong ống ra một chiếc thẻ, nắm chặt trong tay, không nói gì. Nàng Thúy liền hỏi: “Thăm thế nào?” Ngũ Thứ Hữu gắp thức ăn không nói năng. Ngụy Đông Đình đứng dậy định lấy cái thẻ lên xem, Ngũ Thứ Hữu lại xua tay. Ngụy Đông Đình cười hỏi: “Chẳng lẽ không cho ai xem sao?” Ngũ Thứ Hữu nuốt miếng thức ăn, chỉ
gật đầu cười mỉm, vẫn không lên tiếng. Hà Quế Trụ hết chịu nổi, bèn nói: “Cậu hai chơi trò đố câm sao? Cậu cứ nói phải ai uống thì người đó uống thôi!” Ngũ Thứ Hữu vẫn không lên tiếng, chỉ cắm cúi gắp thức ăn cho vào mồm. Minh Châu nói: “Tôi đoán là cái thẻ này không nhã nên đại ca không chịu nói ra.” Ngũ Thứ Hữu cười, lắc đầu. Công tử Long không hiểu việc này, nên chỉ lặng lẽ nhìn xem.
Một lúc lâu, Ngũ Thứ Hữu mới đưa thẻ lại cho Minh Châu, Minh Châu đọc lên là: “Đào lý không nói, sau tự mở lối – không nói không uống, người nói phạt ba chén.” Xem ra trong bàn tiệc chỉ có Ngũ Thứ Hữu và Công tử Long không mở miệng nói, cô Thúy cười nói: “Cái thăm này xem ra quá ác, em uống không nổi đâu! Chúng ta uống xong, tìm trò chơi khác thôi!”
Mọi người uống được ba chén, Ngũ Thứ Hữu, Minh Châu, Hà Quý Trụ đã hơi ngà ngà say. Cô Thúy mặt cũng đã đỏ, nói: “Em say rồi, chịu không nổi nữa rồi!” Ngũ Thứ Hữu kêu to: “Chưa say đâu! Mới uống tí tẹo làm sao mà ngã được? Hồi ở Dương Châu, tôi với anh cả, hai người vừa uống vừa trò chuyện, luận bàn thời sự, uống hơn nửa ngày, thế mới gọi là uống rượu chứ!” Nói xong vô cùng cảm khái. Minh Châu bỗng đập bàn thét to: “Đừng nói thời sự! Tên giặc già chưa chết, thì nước chưa yên, dân chưa yên!”
“Tên giặc già là ai?” Công tử Long giật mình thấy anh ta đập bàn đứng lên. Những lời sau đó chàng nghe không rõ, bèn hỏi lại: “Tên giặc già có can hệ gì với chuyện thời sự?”
Ngụy Đông Đình thấy Minh Châu nổi điên, biết là đã say, vội nói: “Chú em, chú nói cái gì vậy? Hôm nay sao thế này?” Ngũ Thứ Hữu suy
nghĩ, tiếp lời: “Nói thật! Ngao Bái chính là tên giặc nước hiện nay đó, Ngao Bái không chết thì triều đình Thanh khó có được thái bình!”
Công tử Long thấy Ngụy Đông Đình đứng lên định dìu Ngũ Thứ Hữu đi nghỉ, vội xua tay ngăn lại hỏi: “Ngao Bái cũng vào Quan Trung từ những ngày đầu, công lao hiển hách, sao tiên sinh lại cho ông ta là giặc nước?” Ngũ Thứ Hữu đã mắt say lờ đờ, thấy cậu bé này cật vấn đến cùng như một ông cụ non, cảm thấy thích thú, bèn cười nói: “Các quyền thần xưa nay, người nào không có công lao? Quan làm loạn nước không phải là giặc nước hay sao? tàn sát dân mưu lợi cho riêng mình không phải là giặc dân hay sao?” Nói xong chỉ tay vào Minh Châu, nói với Ngụy Đông Đình: “Nói ngay người anh em họ của anh đây, đường đường là con nhà gia thế, bây giờ bị đẩy đến cảnh nhà tan người mất, mẹ con chia lìa. Cái phép khoanh đất quả thực hại dân vô cùng. Bắc Kinh, trong thành ăn xin thành đàn, còn ngoài thành, bạt ngàn đất đai phì nhiêu đã biến thành bãi hoang cho bầy cáo thỏ! Hãy đợi xem, kỳ thi sách vấn lần này, tôi phải đau lòng nói lên cái lệ khoanh đất.” Nói xong với ly rượu ngửa cổ uống cạn. Lúc đó Minh Châu không còn nén nổi, nhắm mắt lặng yên, những giọt nước mắt nóng hổi trào ra.
Cảnh tượng này không thể kéo dài, nếu cứ tiếp tục uống nữa, không biết còn nói ra những gì nữa đây. Ngụy Đông Đình thừa dịp đứng lên nói: “Khuya quá rồi, Công tử Long ngày mai còn học bài, sợ Thái phu nhân nóng ruột, chúng tôi xin cáo từ.” Nói xong, kéo tay Công tử Long từ biệt mọi người, bước ra ngoài.
Ra khỏi quán Duyệt Bằng, trời đã tối đen. Ngụy Đông Đình xốc lại bao kiếm, thấy xung quanh không một bóng người, mới quay lại cười nói với Khang Hy ở phía sau: “Bẩm ông, hôm nay may mà không say, nếu
không nô tài nhất định phải bị mẹ mắng cho một trận. Đại nhân Sách Ngạch Đồ tiến cử nô tài phục vụ cho Đức ông, làm hỏng việc, ngay cả với lão Trung đường Sách Ni cũng không dám nhìn mặt nữa!” Khang Hy cười đáp: “Mấy ông bạn của ngươi rất hay, ngươi phải gần gũi với họ nhiều hơn nữa, ông Ngũ Thứ Hữu xem ra rất có kiến thức.” Ngụy Đông Đình cúi người đáp lời: “Đúng vậy. Ngũ tiên sinh học vấn không tồi, có điều hơi khùng.” Khang Hy gật đầu: “Khùng mà không nịnh, Trẫm lại thích kiểu đó. Ông ta tính ngay thẳng, trong lòng có chuyện bất bình, không để ông ta nói thì sao được!”
Một hồi lâu, Khang Hy lại hỏi: “Trước kia ngươi đã quen biết Ngũ Thứ Hữu?” Ngụy Đông Đình bèn đem chuyện cứu Giám Mai ở bờ Tây Hà kể cho Khang Hy nghe. Khang Hy nghe rất hào hứng, thấy nói cha con Giám Mai biến mất, cảm thấy bất ngờ, bèn dừng lại hỏi: “Vậy cha con họ về sau thế nào?” Ngụy Đông Đình thở dài nói: “Chỉ sợ rơi vào tay Ngao Bái. Ông chủ muốn biết tung tích họ thì hãy để nô tài dần dần tìm hỏi.” Khang Hy gật đầu, muốn nói gì nhưng chỉ lắc đầu làm thinh.
Vua tôi hai người vừa đi vừa nói chuyện, đã đến cửa Chính Dương. Những người hộ tống còn ngồi cả đấy, ai cũng sốt ruột, thấy họ trở về đều tươi tỉnh lên, liền khênh Khang Hy lên cầu lớn. Nhân lúc chưa khởi giá, Tôn thị vội khoác cho Khang Hy chiếc áo lông chồn màu vàng rực, và trách mắng Ngụy Đông Đình: “Mi quả là to gan! Ra đi là không muốn trở về, Đức Vạn tuế mà bị lạnh, ta sẽ róc da mi ra đó!” Ngụy Đông Đình cúi đầu chỉ cười, không trả lời, Khang Hy hơi chột dạ, vội nói: “Chính Trẫm không muốn trở về.” Tôn thị đành không nói nữa.
Đi tới cửa bên tả lầu Ngũ Phụng, Khang Hy nói: “Đã tới đại nội, Trẫm muốn xuống đi bộ.” Tôn thị đứng bên khuyên giải: “Bẩm Vạn tuế, xin
đừng thế! Trời đã tối rồi, gió thổi lạnh lắm, nếu bị cảm lạnh, hai vị Phật gia bắt tội thì nô tài già này phải lãnh đủ” Khang Hy cười gật đầu, ngồi kiệu tiến vào đại nội, nàng Tô đã đợi ở hẻm Vĩnh Hạng từ sớm.
Nàng Tô dìu Khang Hy xuống kiệu, đưa vào cung Khôn Ninh, trên đường đi không nói một lời. Khang Hy thấy nàng Tô nét mặt âu sầu, tưởng rằng mình về muộn nàng không bằng lòng, vội nói: “Ngươi thường nói làm vua là phải gần dân, làm sao ta mới đi có một chút đã làm ngươi âu sầu làm vậy?” Nàng Tô rót trà rồi nói: “Không phải như vậy đâu.”
Khang Hy ngồi xuống hỏi riết tới: “Lạ thật, vậy là việc gì?” Nàng Tô lắc đầu: “Tôi cũng không biết nữa, hồi xế này, Ngô Lương Phụ dẫn một tốp người bên ngoài vào bắt Oa Hách, Tây Trú, Chiết Khắc Đồ, Giác La Trại Nhĩ Bật đưa cả đến phòng Kính sự, không biết có tội lệ gì, cũng không nghe tin tức gì!”
Mới rời cung có nửa ngày mà đã có việc như vậy, Khang Hy hốt hoảng đến nỗi trà nóng bắn ra, vội hỏi: “Bắt người phải có tội gì chứ, tên Oa Hách này Trẫm biết rất rõ, lại là người Tiên đế đã tin dùng, lấy lý gì mà bắt ông ta?” Nàng Tô nói: “Lý do gì thì nô tài không biết, nghe Tứ Hỷ nói đâu như là ý kiến của mấy vị Phụ chính.”
Khang Hy nghe cứ thấy như lửa đốt trong tim, bỗng bật dậy đi quanh phòng hai vòng, đập bàn hỏi: “Còn Kiệt Thư, ông ta là Nghị chính Vương, lẽ nào ông cũng câm? Còn Tô Khắc Tát Cáp, ông ta làm gì?”
Nàng Tô lạnh lùng nói: “Đại nhân Tô Khắc Tát Cáp đương nhiên không tranh được với mọi người, Sách Ni nói là bị bệnh. Kiệt Thư sợ đến nỗi hai đầu gối mềm ra, đại nhân Át Tất Long còn trơn hơn dầu! Bệ hạ còn chưa thấy được điệu bộ của Nạp Mô lúc đó, đi sau Ngao Bái đến cửa
Càn Thanh, vừa phẩy tay một cái, mười bảy, mười tám con người xông lên, bắt người trói lại dắt đi, y như trong sân riêng nhà họ!”
Khang Hy thấy nàng Tô càng nói càng lên giọng, như không kiềm nén nổi, biết rằng sự việc nghiêm trọng hơn mình tưởng. Không kể Oa Hách có tội hay không có tội, như vậy là quan Phụ chính đã coi thường mình quá đáng, dám tự quyền vào đại nội bắt người, việc này tuyệt đối không được phép. Liền nói ngay: “Ngươi đi! Truyền người coi việc ở phòng Kính sự đến đây, ta cần hỏi!”
Nàng Tô thấy Khang Hy nôn nóng, thì bình tĩnh trở lại, hết sức khuyên giải: “Hôm nay muộn rồi, thêm nữa, phòng Kính sự chắc gì đã biết căn nguyên. Ngày mai nghị triều, Bệ hạ hỏi xem họ trả lời ra sao.”
5
Cha con Oa Hách cả hai bị giết
Hoạn quan đại nội riêng chịu mất đầu
Ngày hôm sau, vào canh năm, Khang Hy đã tỉnh giấc. Nàng Tô và Tôn thị đã lo sẵn sàng quần áo, người phòng Kính sự sớm đến thỉnh giá, kiệu khênh đã chuẩn bị xong. Khang Hy vội vàng súc miệng bằng nước muối nhạt, ăn vội mấy chiếc bánh điểm tâm, rồi ra lệnh khởi giá đến cửa Càn Thanh. Từ lúc vua Thuận Trị lên ngôi có đặt ra quy định, Hoàng đế phải triệu kiến đại thần một lần, vua Thuận Trị cũng tự mình thực hành. Các Hoàng tử phải dậy từ canh tư mỗi ngày tự tiễn đưa phụ hoàng ngự triều, sau mới trở về thư phòng của mình, nên việc dậy sớm đối với Khang Hy đã trở thành thói quen từ nhỏ.
Một đêm ngủ không tốt, Khang Hy có đôi phần ngái ngủ. Nhưng ngủ dậy, theo lệ đi mấy vòng quyền, mồ hôi vã ra, cơn buồn ngủ tan biến sạch. Bây giờ, ngồi trên kiệu, hứng gió sớm phía trước thổi lại, thật mát mẻ, cảm thấy tinh thần yên tĩnh nhiều.
Đến cửa Càn Thanh, đúng giờ Dần hai khắc. Chỉ thấy Kiệt Thư ở hàng đầu, phía sau bọn Ngao Bái, Át Tất Long và Tô Khắc Tát Cáp đang quỳ. Tư chính đại thần Sách Ngạch Đồ ôm một chồng văn thư, cúi người
đứng sau ba vị đại thần. Hai hàng ngự tiền vệ sĩ, áo thô tươi màu, lưng đeo bảo kiếm đứng riêng ở dưới hiên. Khang Hy đưa mắt nhìn qua một lượt, thấy Ngụy Đông Đình gục đầu đứng ở cuối hàng, chỉ không thấy bốn người bọn Oa Hách, trong lòng bỗng nổi cơn giận dữ, không đợi ai dìu, bèn nhảy tót xuống, vung tay bước vào điện ngồi vào ghế giữa. Tiến đến Tô Khắc Tát Cáp vén màn lên, Kiệt Thư, Ngao Bái, Át Tất Long và Sách Ngạch Đồ nối đuôi cùng vào, quỳ thành chữ nhất.
Tiết lược tấu chương theo lệ, do Sách Ngạch Đồ bẩm báo. Một bản là thi Hương, thi Hội, thi Đình về thời nghệ chỉ dùng sách luận; một bản là triều Thanh miễn trừ thuế ruộng trước năm Thuận Trị thứ mười lăm còn chưa nộp; còn thêm một bản tấu báo Cảnh Kế Mậu đánh chiếm Đồng Sơn; bản cuối cùng do phi ngựa sáu trăm dặm đường cấp báo, nói đã bao vây chặt bọn tàn quân của Lý Sấm Vương là Lý Lai Hanh, Hách Dao Kỳ ở núi Mao Lộc Vân Dương, xin triều đình tăng binh tiến đánh quét sạch. Những việc này Khang Hy không rõ lắm, Sách Ni vừa đọc vừa giảng cho Khang Hy nghe, tốn hết một canh giờ.
Khang Hy vừa nghe vừa nghịch thanh ngọc Như ý để trên bàn, suy tính nên hỏi như thế nào về việc Oa Hách. Vua liếc nhìn xuống dưới, thấy Tô Khắc Tát Cáp im lặng quỳ mọp xuống đất, Át Tất Long không ngừng nhìn trộm Ngao Bái. Ngao Bái nghe đã chán ngán, bèn ngẩng đầu cắt lời Sách Ngạch Đồ: “Ông chỉ cần đọc thôi, ai bảo giảng? Hoàng thượng lẽ nào không bằng ông?”
Sách Ngạch Đồ vội cười nói: “Xin bẩm Trung đường, đây là ý chỉ của Thái hoàng Thái hậu, sợ Hoàng thượng nghe không hiểu, nên cố ý bảo tôi giảng giải.” Không đợi nói xong, Ngao Bái ngắt lời: “Những tấu chương này, Đình ký đã phát đi rồi, hà tất phải lắm lời như vậy!”
Khang Hy thấy Sách Ngạch Đồ vẻ mặt khó chịu, bèn lên tiếng hỏi: “Sách Ngạch Đồ, bệnh tình cha ngươi thế nào rồi?” Nghe vua nói đến hình tình của cha mình, Sách Ngạch Đồ vội quỳ xuống dập đầu trả lời: “Nhờ hồng phúc bề trên, sáng nay chứng hen đã đỡ chút ít.”
“Ừ, trở về nói Trẫm hỏi thăm.”
“Tạ ơn Bệ hạ.” Sách Ngạch Đồ vội cúi đầu tâu.
Ngao Bái thấy Khang Hy không còn hỏi gì, bèn nói: “Hoàng thượng nếu không có Thánh dụ, xin cho nô tài chúng tôi cáo lui.” Nói xong bèn định đứng lên.
Khang Hy đặt nhẹ thanh Như ý xuống bàn, nói: “Vội gì, Trẫm có chuyện muốn hỏi – Bọn Oa Hách, Tây Trú trước nay phục dịch cho Trẫm, Trẫm thấy không có gì sai, vì sao hôm qua quan Phụ chính cho người đến bắt đi? Bây giờ xử họ thế nào, Trẫm muốn nghe thử.”
Theo định lệ tổ tiên, Hoàng đế chưa nắm quyền bính thì xử lý mọi việc triều chính toàn quyền ủy thác cho các quan đại thần Phụ chính, việc tấu bẩm hàng ngày thực tế chỉ là thủ tục hành chính khuôn sáo, nghe xong thì thôi. Bây giờ Khang Hy muốn tra hỏi việc này. Át Tất Long cảm thấy bất ngờ, ngớ ra một hồi rồi khấu đầu trả lời: “Khải tấu Hoàng thượng, Oa Hách, Tây Trú, Chiết Khắc Đồ, Giác La Trại Nhĩ Bật tự ý cưỡi ngự mã, sử dụng cung tên ngự dụng bắn hươu trong ngự uyển, thật là đại bất kính! Hôm qua chúng thần họp bàn, đã cách chức bắt tra hỏi bốn tên này, hiện đang giam giữ ở phủ Nội Vụ chờ xét xử, còn xử phạt thế nào...” Ông suy nghĩ một lát rồi tiếp: “Phụ chính còn chưa bàn, đợi chúng thần họp bàn xong sẽ tấu trình Vạn tuế.”
Ngao Bái rất không bằng lòng cách trả lời của Át Tất Long, nhưng Át Tất Long trước nay với mình chỉ là ừ ào cho qua chuyện, cũng không cách nào khác. Suy nghĩ một hồi, cảm thấy bực bội, bèn ngửng đầu lạnh lùng nói: “Hoàng thượng hãy còn nhỏ, những việc chính sự này nên theo quy chế tiên đế để lại, do bọn thần quyết định thi hành!”
Lời chưa đứt, Khang Hy bỗng hỏi lại một câu: “Lẽ nào Trẫm muốn hỏi một câu cũng không được?”
Một câu hỏi làm những vị đại thần nghẹn họng, đành cúi đầu im lặng. Ngao Bái nghĩ bụng: “Hôm nay mà không chặn được, về sau việc gì cũng hỏi thì còn Phụ chính cái nỗi gì?” Rất lâu, Ngao Bái mới nói chậm rãi: “Theo giáo huấn tổ tiên, Hoàng thượng còn chưa nắm chính sự, thì không được hỏi. Có điều việc này can hệ đến nội cung, cũng có thể cho ngoại lệ.”
Thế có nghĩa là “lần sau không được ngoại lệ”, Khang Hy nghe được điều ấy, nhà vua dằn cơn tức giận, cười nhạt nói: “Được, theo như ngươi vừa nói, vậy tên Oa Hách phạm tội gì?”
“Tự ý cưỡi ngự mã trong Tử Cấm thành”, Ngao Bái nghiến răng, ngẩng đầu nói: “là tội khi quân, phải bêu đầu; cha hắn Phi Dương Cổ dạy con không nghiêm, nói lời oán trách, gào thét ở công đường, cũng phải bêu đầu!”
“Bêu đầu” tức là chặt đầu. Khang Hy giật thót người: “Bốn người bọn Oa Hách là thị vệ bên cạnh Tiên đế. Phi Dương Cổ là đại thần nội cung, trước hay cẩn thận, không có sai sót, chỉ vì cưỡi ngự mã mà xử tội chết, thật quá mức! Trẫm cho rằng đánh đòn là đủ rồi.”
“Muộn rồi!” Ngao Bái cười nhạt tâu lại: “Hoàng thượng, luật nước không thể tư vị mà bỏ đi, xưa đã dạy rõ! Phi Dương Cố và bốn tên Oa
Hách đã bị hành hình chiều hôm qua rồi.”
Câu nói đã làm Át Tất Long và Tô Khắc Tát Cáp hoảng hồn, bọn họ nhìn nhau, sắc mặt trắng bệch. Tô Khắc Tát Cáp dập đầu tâu: “Việc giết Oa Hách, chúng thần chưa bàn đến. Chỉ là Ngao Trung đường tự ý quyết định. Tự ý giết cận thần của Thiên tử, xin Hoàng thượng hỏi tội!” Ngao Bái cười khanh khách nói: “Tô Trung đường, Oa Hách tự ý cưỡi ngự mã, ông chẳng chửi “tên nô tài đáng chết” là gì? Sau khi chết thật rồi, ông lại thương xót hắn như vậy?” Tô Khắc Tát Cáp một lúc nghẹn lời, đang suy nghĩ tìm lời đối đáp, thì thấy Thái hoàng Thái hậu sa sầm nét mặt vịn nàng Tô bước vào điện. Át Tất Long biết bà Thái hậu này tinh nhanh năng nổ, bỗng đâu nhụt chí, cúi mọp xuống đất, không dám thở mạnh. Ngao Bái giật thót tim nhưng cố trấn tĩnh suy nghĩ: “Bà không còn như năm xưa, nay không còn Đa Nhi Cổn đỡ lưng rồi!” Dù nghĩ như vậy nhưng lặng im không nói một lời nào.
Một lúc lâu mới nghe Thái hoàng Thái hậu nói bình tĩnh: “Ta già lão chẳng còn làm được gì, mấy năm nay chỉ nghĩ đến hưởng phúc, mong có ngày thái bình, mọi người bình yên, thì có thể nhắm mắt đi gặp Thái Tổ, Thái Tông. Mấy vị Phụ chính các ông, ta vốn thấy cũng được, trong lòng rất yên ổn.” Mọi người đang ngạc nhiên sao bà lại nói những việc này, bỗng nhiên bà đổi giọng, bà nói lớn: “Ai dè không phải như vậy! Các ngươi cho rằng ta không giết được các ngươi sao?” Một tiếng vỗ bàn đánh “rầm”. Giọng bà xúc động phẫn nộ, cả Khang Hy cũng sợ phát run. Ngày thường chỉ thấy là một bà nội hiền từ, Kiệt Thư nhiều lần nói các thân vương, con cháu nhà quyền quý đều sợ bà, mình chưa tin, nay thấy sắc mặt bà, mới coi là mở được tầm mắt.
Ba vị Phụ chính liên tiếp dập đầu, Tô Khắc Tát Cáp tâu giọng run run, “Nô tài ….” “Không phải việc của ngươi!” Thái hoàng Thái Hậu không để hắn nói hết câu đã lạnh lùng chặn lại: “Ta muốn biết, Át Tất Long và Ngao Bái, ai đỡ lưng cho bọn ngươi, dám làm việc tày đình này! Dám tự ý vào đại nội bắt người, không tâu mà chém, quả là một việc kỳ lạ chưa hề thấy từ khi bản triều lập quốc!” Thấy Thái Hoàng Thái hậu hùng hổ hăm doa, ba vị đại thần vẫn chỉ im lặng quỳ mọp.
Át Tất Long cảm thấy mình không nói thì không khí không sao dịu lại được, bèn khẽ đằng hắng và nói: “Thái hoàng Thái hậu thiên tuế! Bọn thần không phải vào đại nội bắt người, là Thái giám Ngô Lương Phụ gọi ra, bắt chúng bên ngoài cửa.” Sách Ngạch Đồ thừa dịp cũng khuyên giải: “Hoàng thượng, Thái hoàng Thái hậu bớt giận! Chớ có tức giận mà tổn hao kim tôn ngọc thể!” Nói xong liếc mắt ra hiệu Khang Hy lên tiếng. Tô Khắc Tát Cáp đứng một bên chỉ im lặng.
Khang Hy không để ý cái liếc mắt của Sách Ngạch Đồ, nhưng Hoàng Thái hậu lại nhìn thấy, bèn đứng dậy kéo tay Khang Hy cười nhạt: “Gạo đã nấu thành cơm, còn nói đến làm gì nữa! Hoàng đế dưới mắt các ngươi chẳng qua chỉ là một cậu bé tinh nghịch không hiểu biết, hôm nay, chỉ là ta mụ già lắm chuyện! Chúng ta làm gì có “kim tôn ngọc thể”! Các vị Phụ chính tức giận mới đáng lo chứ!” Nói xong kéo tay Khang Hy bỏ đi, thanh ngọc Như ý bị kéo rơi xuống vỡ tan.
Số người cùng Khang Hy đi rồi, trong điện chết lặng, ai cũng tái mặt, chỉ Ngao Bái coi như không có chuyện gì, đứng lên cười nói: “Không quỳ nữa, bãi chầu rồi, chúng ta về thôi! Ngày mai mình tôi đến nhà đại nhân Tô Khắc Tát Cáp nhận tội!”
"""