"
Kẻ May Mắn - Safe Haven - Nicholas Sparks PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kẻ May Mắn - Safe Haven - Nicholas Sparks PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Kẻ May Mắn Tựa Gốc: The lucky one
Tác Giả: Nicholas Sparks
Dịch: Khánh Linh - Nhật Minh
Nhà xuất bản: Văn Học
Ngày xuất bản: 26/11/2012
Nguồn sách và chụp pic: Misa Nguyễn
Thực hiện ebook: Nguyen Thu Phuong, Cậu bé ném kẹo, Đánhboss Xongmới Ngủngon, Hoài Thương, Trang Kao, Phi phi Yên Vũ, Gấu Nhồi Boom, Marie Hoang, Annabelle Tran, Mai Thanh.
Biên tập và Ebook: Tina
Nguồn: https://www.facebook.com/groups/chamchilamebookfree/
MỤC LỤC
Tóm tắt nội dung
Thông tin tác giả
1
2 3 4 5
6 7 8 9 10
11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27
28 29 30 31 32 33 34 35 36
37 38
Phần kết
Tóm tắt nội dung
Một bức ảnh vô tình tìm thấy dưới lớp cát sa mạc dường như mang lại quá nhiều may mắn cho Logan Thibault, chàng lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ. Những ván bài anh thắng liên tiếp cũng không là gì so với sự sống sót qua những trận phục kích ác liệt nhất nơi chiến trường, khi đồng đội anh không mấy người qua khỏi. Tấm ảnh ấy mang hình một cô gái. Sống sót trở về quê nhà Colorado từ đợt làm nghĩa vụ thứ tại Iraq, Logan không sao gạt nổi hình ảnh xinh đẹp ấy đó ra khỏi tâm trí. Tin rằng chính cô đang nắm giữ chìa khóa số phận mình, Logan lên đường cuốc bộ xuyên đất nước để tìm kiếm. Cuối cùng anh đã tìm ra. Cô gái ấy chính là Elizabeth. Elizabeth sống tại một trại nuôi và huấn luyện chó cùng người bà của mình. Bà của Beth đã quyết định thuê Logan làm việc sau khi nhìn thấy cách anh ra lệnh cho mấy chú chó, mặc cho sự phản đối của cô. Logan chẳng bao giờ ngờ người phụ nữ vừa mạnh mẽ vừa yếu mềm mà anh tìm được nơi thị trấn nhỏ Hampton lại chính là cô gái anh đã chờ cả đời
“... Cô gái ấy tóc vàng, đang nở một nụ cười với đôi mắt tinh nghịch màu hạt dẻ, mặc chiếc quần jeans, và cái áo thun in chữ Lucky Lady (Quý bà may mắn) ở đằng trước. Phía sau cô là một băng rôn mang chữ “Hội chợ Hampton”. Một con chó chăn cừu Đức, với cái mũi xám, đứng bên cạnh cô. Trong đám đông phía sau sau là hai người thanh niên trẻ, họ tập trung
gần quầy bán vé và có vẻ như hơi lơ đãng. Họ mặc áo thun có in hình logo. Ba cây thường xuân nhô lên từ đằng xa, những cái ngọn nhọn hoắt, loại cây có thể gặp ở bất kỳ đâu. Phía sau bức atnh là hàng chữ viết tay: “Bảo trọng nhé, E.”
Lúc đó anh không để ý mấy đến những thứ thế này. Theo bản năng, anh đã
định vứt nó đi. Anh hầu như đã làm như thế, nhưng khi đó bất chợt anh nghĩ rằng người nào đánh mất nó có thể sẽ muốn tìm lại. Nó rõ ràng là mang một ý nghĩa đặc biệt với ai đó. Khi trở về trại, anh đính bức ảnh lên trên tường thông tin gần cửa ra vào trung tâm tin học, vì cho rằng khá nhiều cư dân của khu trại này đi ngang qua đó. Chắc chắn sẽ có ai đó nhận lại nó.
Một tuần trôi qua, rồi mười ngày sau. Bức ảnh vẫn còn ở nguyên đó. Lúc đó, trung đội của anh phải tập luyện hàng giờ luyện mỗi ngày, và những ván bài xì phé ngày càng căng thẳng. Một vài gã đã thua đến cả nghìn đô la, người ta còn đồn rằng một tay chơi tự do nào đó còn thua đến 10 nghìn đô la. Thibault, sau lần thua đáng xầu hổ lúc đầu, quyết định sẽ dành thời giờ rảnh để suy xét về cuộc chiến và nghĩ xem mình sẽ phản ứng thế nào khi bị bắn. Khi đi lang thang qua khu trung tâm tin học ba ngày trước cuộc chiến, anh trông thây bức ảnh vẫn còn đính trên bảng, và vì một lý do nào đó mà chính anh cũng không hiểu được, anh lấy bức ảnh xuống và nhét vào trong túi...”
Kẻ may mắn là khúc ca tán dương một câu chuyện tình yêu tuyệt đẹp giữa hai con người xa lạ và ràng buộc nhau bởi sợi dây định mệnh vô hình. Logan từ ước muốn tìm thấy cô gái mang lại cho anh nhiều xúc cảm bí ẩn đã nhanh chóng trở thành khao khát mãnh liệt có được tình yêu nơi Elizabeth. Một cô gái với cuộc sống thực tại không thiếu những phức tạp như Elizabeth liệu có thể cùng Logan đi đến chặng cuối của cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc thực sự? Định mệnh có thật sự tồn tại hay không? Phải chăng định mệchân mỗi chúng ta dù ở những điều nhỏ nhặt nhất hay những bước ngoặt làm thay đổi cuộc đời mỗi người? Câu hỏi muôn thuở này chính là vấn đề trung tâm của cuốn tiểu thuyết Kẻ may mắn mà Nicholas Sparks cố gắng giải quyết một cách thấu đáo, sâu sắc trong suốt hơn 400 trang sách. Ngọt ngào, lãng mạn và quá nhiều cảm xúc chân thành
cho một tác phẩm về tình yêu như Kẻ may mắn!
Thông tin tác giả
Nicholas Sparks sinh ngày 31 tháng 12 năm 1965, tại Omaha, Nebraska, Mỹ. Cha ông là giáo sư và mẹ làm nội trợ. Ông có một anh trai và một em gái, người em gái này đã mất khi mới 33 tuổi. Cô chính là nguồn cảm hứng cho các nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết A walk to remember của ông. Ông tốt nghiệp ngành tài chính, Đại học Notre Dame năm 1988 và là một trong những sinh viên đứng đầu được vinh danh. Khởi đầu rực rỡ với The notebook vào năm 1996 - tác phẩm được xem là hiện tượng của ngành xuất bản, tác phẩm mà Time Warner Book Group phải chi tới 1 triệu USD để mua bản quyền - đến nay, Nicholas đã cho ra mắt 15 đầu sách và tất cả đều trở thành best - sellers ở Mỹ, đồng thời được dịch ra 35 thứ tiếng. Những câu chuyện đầy cảm hứng của Nicholas Sparks về cuộc sống và tình yêu đẹp phi thường của những con người bình thường luôn chiếm được cảm tình của độc giả trên toàn thế giới. Một số tác phẩm nổi bật khác của Nicholas Sparks: Lựa chọn của trái tim; Bản tình ca cuối cùng; John yêu dấu; Những đêm ở Rodanthe; Thiên đường bình yên;...
Thông tin thêm
Kẻ may mắn (tựa gốc: The lucky one) - phát hành vào tháng 9/2008 - là cuốn tiểu thuyết thứ 7 của Nicholas Sparks được chuyển thể thành phim. Bộ phim được hoàn thành vào năm 2012 với sự chỉ đạo diễn xuất của Scott Hicks và sự tham gia của các diễn viên nổi tiếng: Zac Efron, Taylor Schilling, Blythe Danner... Mời các bạn tìm đọc!
Lời tựa
Tặng Jamie Raab và Dennis Dalrymple
Một năm để nhớ...
và một năm để quên.
Trái tim tôi luôn ở bên các bạn.
1
fe
Clayton và Thibault
Đội phó Keith Clayton không hề nghe thấy tiếng họ tiến lại, và khi nhìn gần, vẻ ngoài của họ cũng chẳng làm gã thích thú hơn chút nào so với lúc mới nhìn thấy. Một phần là do con chó. Gã không thích béc giê Đức, mà con này dù đang đứng yên nhưng vẫn nhắc gã nhớ tới Panther, con chó cảnh sát đi cùng gã đội phó Kenny Moore, vốn chỉ cần thoáng nhìn thấy hiệu lệnh là nhanh như cắt cắn vào đũng quần kẻ tình nghi. Clayton thường coi Moore như một gã ngớ ngẩn, nhưng dù sao thì đó cũng là người duy nhất trong đội gã có thể tạm coi là bạn, và phải thừa nhận là Moore có cách tường thuật mấy vụ ngoạm đũng quần khiến gã phải cười vỡ bụng. Và chắc chắn là Moore sẽ đánh giá cao cái bữa tiệc tắm tiên nho nhỏ mà gã vừa phá ngang khi bí mật theo dõi hai cô nữ sinh nằm tắm nắng bên lạch nước trong vẻ đẹp mơn mởn tuổi thanh xuân. Gã mới ở đó chừng vài phút và chỉ vừa giơ cái máy ảnh kỹ thuật số lên bấm được hai pô thì thấy cô thứ ba xuất hiện sau bụi tú cầu. Giấu vội chiếc máy ảnh vào bụi cây, gã bước ra từ sau cái cây và ngay lập tức mặt đối mặt với cô nữ sinh.
“Chà, chúng ta có gì ở đây thế này?” gã dài giọng, cố gắng dồn cô gái vào thế bị động.
Gã không thích bị bắt quả tang, và cũng chẳng hài lòng với kiểu mở màn
chán ngắt thế này của mình. Bình thường miệng lưỡi gã dẻo hơn cơ. Dẻo hơn nhiều. May thay, cô gái quá bối rối đến độ không để ý đến cái gì nữa, thậm chí còn suýt bị vấp khi cố gắng lùi lại. Vừa lắp bắp trả lời gì đó, cô vừa cố gắng lấy tay che thân. Cứ nh được xem cô nàng chơi trò Twister[1] một mình vậy.
[1] Twister: một trò chơi phổ biến ở Mỹ, trong đó hai người chơi đặt cả hai tay và hai chân vào các vòng tròn màu trên sân chơi, sau đó theo lệnh của người điều khiển, ví dụ “chân trái vàng; tay phải đỏ", hai người chơi
phải dùng đúng tay hoặc chân theo lệnh để chạm được vào vòng tròn có màu như hiệu lệnh. (Các chú thích trong sách đều là của người dịch.)
Clayton chẳng buồn nhìn đi chỗ khác. Thay vào đó gã cười cười, làm bộ không để ý đến cơ thể của cô gái, cứ như thể đối với gã, tình cờ bắt gặp các cô gái khỏa thân trong rừng là chuyện thường ngày ở huyện vậy. Gã dám chắc cô gái không biết gì về cái máy ảnh.
“Bình tĩnh nào. Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy?” gã hỏi.
Dù gã biết thừa là chuyện gì. Hè nào mà trò này chẳng diễn ra vài lần, nhưng nhiều nhất là vào tháng Tám: các nữ sinh từ Chapel Hill hoặc NC State đều đổ về bãi tắm ở Emerald Isle để tận hưởng kỳ nghỉ cuối tuần dài cuối cùng trước khi vào học kỳ mùa thu, thường thì bọn họ đi vòng theo con đường chở gỗ hồi xưa, chạy quanh co khúc khuỷu chừng gần hai ki lô mét thì tới rừng quốc gia rồi tiếp tục đâm ra chỗ con lạch Swan thình lình ngoặt về phía sông South. Ở đấy có một bãi tắm phủ đầy đá cuội, địa điểm tắm nắng “nude” nổi tiếng - vì sao lại thế thì Clayton cũng không rõ - và gã
thường cố tình đảo qua đảo lại nơi đó, biết đâu lại gặp may. Hai tuần trước gã nhìn thấy sáu cô nàng cực xinh; nhưng hôm nay chỉ có ba cô, mà hai cô nằm trên khăn tắm thì đang lấy áo rồi. Một cô trong nhóm trông có hơi nặng nề chút nhưng hai cô còn lại - tính cả cô gái tóc đen đang đứng trước mặt gã - thì sở hữu thân hình có thể khiến cả lũ con trai phát điên. Đội phó cảnh sát cũng không phải ngoại lệ.
“Bọn em không biết có người ở đây! Bọn em cứ tưởng không vấn đề gì chứ.”
Gương mặt cô gái toát lên vẻ ngây thơ vô tội đủ để khiến gã tự hỏi, Chắc bố cô sẽ chẳng mấy tự hào nếu biết con gái bé bỏng của mìàm gì đâu nhỉ? Gã thấy buồn cười khi tưởng tượng xem cô gái sẽ trả lời như thế nào, nhưng vì đang mặc đồng phục nên gã hiểu mình phải nói gì đó ra dáng một chút. Thêm nữa, Clayton cũng biết rằng gã đang mạo hiểm với vận may của mình: nếu chuyện cảnh sát đi tuần khu vực này mà lan rộng ra thì sẽ chẳng cô nữ sinh nào dám đến đây nữa, mà gã thì không thích viễn cảnh ấy tẹo nào.
“Đi nói chuyện với các bạn cô xem nào.”
Gã theo cô nữ sinh đi về phía bãi tắm, thích thú thưởng thức màn trình diễn nho nhỏ khi cô cố gắng che tấm lưng trần một cách vô vọng. Lúc họ ra khỏi đám cây cối bước tới bãi trống bên bờ sông thì các bạn cô đã mặc xong áo. Cô gái tóc đen chạy tới chỗ các bạn mình, làm đổ vài lon bia trong khi vội vã quơ chiếc khăn tắm. Clayton ra hiệu về phía một cái cây gần đó.
“Các cô không nhìn thấy cái biển à?”
Ba cô gái nhìn theo tay gã. Hệt mấy con cừu đang chờ mệnh lệnh tiếp theo, gã nghĩ thầm. Cái biển báo, nhỏ xíu và bị khuất một phần sau những cành sồi già sà thấp, được treo ở đó theo lệnh của thẩm phán Kendrick Clayton, người tình cờ lại là chú của gã. Chính Keith đề xuất ý tưởng biển bọt này; gã biết việc ngăn cấm công khai chỉ càng làm tăng sức hấp dẫn của nơi này mà thôi.
“Bọn em không nhìn thấy nó!” cô gái tóc đen kêu lên, quay lại nhìn gã. “Bọn em không biết! Bọn em mới nghe đến chỗ này vài ngày trước!” Cô tiếp tục phản kháng trong lúc đánh vật với cái khăn tắm; còn hai cô kia thì quá sợ đến nỗi chẳng làm được gì ngoài chuyện cố gắng xỏ chân vào chiếc quần bikini. “Đây là lần đầu tiên bọn em tới đây!”
Câu nói bật ra như một tiếng rên, khiến giọng cô nghe chẳng khác nào một nữ sinh trường dòng hư hỏng. Mà có lẽ cả ba cô này đều thế thật. Bọn họ có cái dáng vẻ đó mà.
“Các cô có biết ở quốc gia này khỏa thân nơi công cộng là phạm luật không?”
Nhìn những khuôn mặt trẻ trung càng lúc càng tái mét, gã biết bọn họ đang
tưởng tượng ra cái tội nho nhỏ ấy sẽ bị ghi trong lý lịch. Cảnh này cũng thú vị ra phết, nhưng gã tự nhắc mình không nên để chuyện đi quá xa.
“Tên cô là gì?”
“Amy.” Cô gái tóc đen nuốt nước bọt. “Amy White.”
“Cô từ đâu tới?”
“Chapel Hill. Nhưng quê em ở Charlotte.”
“Tôi thấy ở kia có chất cồn. Các cô đã hai mươi mốt tuổi hết rồi chứ?” Lần đầu tiên cả hai cô kia cũng đồng thanh lên tiếng. “Vâng, thưa ngài.”
“Được rồi Amy. Giờ tôi sẽ cho cô biết tôi định làm gì. Tôi sẽ tin lời cô là các cô không nhìn thấy biển báo kia, và các cô đã đủ tuổi để được phép uống rượu, vậy nên tôi sẽ không làm chuyện này nghiêm trọng hơn. Tôi sẽ giả vờ như không ở đây. Miễn là ba cô hứa sẽ không nói với sếp tôi là tôi đã thả các cô đi.”
Họ không chắc có nên tin gã hay không.
“Thật chứ?”
“Thật,” gã nói. “Tôi cũng từng học đại học mà.” Thực ra là Clayton chưa từng, nhưng gã biết nói thế nghe có vẻ oách. “Và có lẽ các cô muốn mặc quần áo vào. Các cô không biết đấy thôi - không chừng có kẻ đang rình rập quanh đây cũng nên.” Rồi gã thoáng mỉm cười. “Hãy đảm bảo là các cô sẽ dọn sạch đống lon kia, được chứ?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Tôi đánh giá cao điều đó.” Gã quay đi.
“Thế thôi ư?
Ngoái đầu lại, gã nở một nụ cười nữa. “Thế thôi. Các cô cẩn trọng nhé.”
Clayton lách qua bụi cây, thỉnh thoảng cúi thấp tránh mấy cành cây trên đường trở về chỗ xe tuần tra, tự nhủ mình đã xử lý ngon vụ này. Quá ngon là đằng khác. Rõ ràng Amy đã cười với gã, và khi quay đi, gã còn thoáng nghĩ đến chuyện quay lại xin số của cô nàng. Nhưng rồi gã quyết định là
không nên, có lẽ tốt hơn hết cứ để mọi chuyện dừng ở mức êm đẹp thế này được rồi. Chắc chắn khi trở về, họ sẽ kể cho bạn bè rằng mặc dù bị một sĩ quan cảnh sát bắt quả tang đang tắm tiên nhưng vẫn không sao. Rồi tiếng lành đồn xa, thiên hạ sẽ biết những cảnh sát ở vùng này rất thoáng. Dẫu sao, trong khi len lỏi qua đám cây cối, gã vẫn thầm hy vọng những bức ảnh được rõ nét. Chúng sẽ là thứ bổ sung tuyệt vời cho bộ sưu tập nho nhỏ của gã.
Nói chung thì hôm nay là một ngày tuyệt vời. Vừa định quay lại lấy cái máy ảnh thì gã nghe thấy tiếng huýt sáo. Lần theo hướng phát ra tiếng động, gã đi về phía con đường chở gỗ và nhìn thấy một kẻ lạ mặt dắt con chó đang bước chậm rãi, nom giống một gã hippie những năm sáu mươi.
Kẻ lạ mặt đó không đi cùng ba cô gái kia. Clayton tin chắc như vậy. Trước hết anh ta quá già so với một sinh viên; ít nhất cũng phải gần ba mươi rồi. Mái tóc dài kia khiến Clayton liên tưởng tới một cái ổ chuột; còn trên lưng anh ta, Clayton có thể nhìn thấy mép cái túi ngủ gồ lên chỗ đáy chiếc ba lô. Đây không thể nào là một người đi dã ngoại một ngày tới bãi tắm này; nhìn anh ta giống một người đi bộ đường trường, thậm chí có thể cắm trại ngoài trời nữa. Không biết anh ta đã ở đây bao lâu và đã thấy những gì rồi.
Ví dụ như việc Clayton chụp lén?
Không thể nào. Không thể thấy được. Chỗ gã nấp cách xa con đường chính, toàn bụi cây rậm rạp, và nếu có người đi qua cánh rừng thì gã phải nghe thấy chứ. Đúng không? Hơn nữa, chỗ này chẳng có gì hay ho để mà lang thang. Họ đang ở giữa một nơi hoang vu hẻo lánh, và gã không hề muốn
một đám hippie hãm tài lập dị phá hỏng nơi dành cho mấy cô nữ sinh này một chút nào.
Đúng lúc đó, kẻ lạ mặt đi ngang qua Clayton. Anh ta đang ở gần xe tuần tra và đang hướng về phía chiếc Jeep của ba cô gái. Clayton bước lên mặt đường và hắng giọng. Kẻ lạ mặt và con chó liền quay sang phía có tiếng động.
Đứng từ xa, Clayton tiếp tục đánh giá họ. Dường như kẻ lạ mặt lẫn con chó đều không bất ngờ trước sự xuất hiện đột ngột của Clayton, và cái nhìn của anh ta có vẻ gì đó khiến Clayton cảm thấy bối rối. Cứ như là anh ta đang chờ gã lộ diện vậy. Con chó béc giê cũng thế. Thái độ của nó vừa thờ ơ vừa cảnh giác - và rất thông minh - giống y như con Panther mỗi khi chực chờ được Moore thả ra. Clayton chột dạ. Tự chủ lắm gã mới không đưa tay phòng thủ chỗ kín.
Suốt một phút dài dằng dặc, hai bên cứ thế nhìn nhau chằm chặp. Từ lâu Clayton đã biết rằng bộ đồng phục của gã làm cho khối kẻ phải sợ. Mọi người, kể cả vô tội đi nữa, đều thấy lo lắng khi đụng đến pháp luật, và gã cho rằng anh chàng này cũng không phải ngoại lệ. Đó chính là một trong những lý do khiến gã yêu cái nghề này.
“Anh có dây xích cho con chó chứ?” gã cất giọng giống kiểu ra lệnh hơn là hỏi.
“Trong ba lô của tôi.”
Clayton không hề nghe ra thổ âm. “Tiếng Anh kiểu Johnny Carson[2],” như mẹ gã từng gọi. “Vậy thì lấy ra tròng cho nó đi.”
[2] John Carson (1925-2005): người Mỹ, diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng.
“Đừng lo. Nó sẽ không nhúc nhích trừ phi tôi ra lệnh.”
“Cứ tròng vào.”
Kẻ lạ mặt hạ cái ba lô xuống và bắt đầu lục lọi; Clayton rướn cổ hòng liếc xem trong đó có gì giống như ma túy hay vũ khí không. Một lúc sau, cái xích đã được buộc vào cổ con chó và kẻ lạ mặt nhìn Clayton vẻ muốn hỏi, “Giờ
“Anh đang làm gì ở đây?” Clayton lên tiếng.
“Đi bộ đường trường.”
“Cái ba lô đó mà vác đi đường trường cũng mệt đấy nhỉ.” Kẻ lạ mặt không nói gì.
“Hay anh đang rình rập dòm ngó gì ở đây?”
“Đó là những gì mà mọi người tới đây hay làm hả?” Clayton không thích giọng điệu cũng như ẩn ý của anh ta. “Tôi muốn xem giấy tờ của anh.”
Kẻ lạ mặt lại cúi xuống ba lô rồi lấy cuốn hộ chiếu ra. Sau khi giơ tay ra hiệu cho con chó đứng yên, anh ta tiến tới trước Clayton đưa hộ chiếu cho gã.
“Không có bằng lái xe hả?” Clayton hỏi.
“Tôi không có.”
Clayton xem xét tên của kẻ lạ mặt, môi gã mấp máy. “Logan Thibault.” Người kia gật đầu.
“Anh từ đâu tới?”
“Colorado.”
“Một hành trình dài đấy nhỉ.”
Kẻ lạ mặt im lặng.
“Cụ thể là anh định đi đâu
“Đến Arden.”
“Có cái gì ở Arden?”
“Tôi không biết. Tôi chưa đến đó bao giờ.”
Clayton nhíu mày trước câu trả lời đó. Quá trơn tru? Quá... thách thức? Quá gì đó. Mà cái quái gì cũng được. Dù sao thì gã cũng không hề thích
tay này. “Anh đợi ở đây,” gã nói. “Anh không phiền nếu tôi kiểm tra lại cái này chứ?”
“Xin cứ tự nhiên.”
Trong khi quay về xe tuần tra, Clayton ngoái đầu lại và thấy Thibault đang mở ba lô lấy ra một cái bát nhỏ rồi rót hết phần nước còn trong một cái chai vào đó. Nom như anh ta chẳng hề lo nghĩ cái gì trên đời này cả.
Bọn tao sẽ tìm ra cái gì đó chứ hả? Ngồi trong xe tuần tra, Clayton đang hì hục đánh vần cái tên “Thibault” qua bộ đàm thì đồng nghiệp ở đầu dây kia ngắt lời.
“Là Thibault, phát âm như T-bow, không phải Thigh-bolt. Đó là một cái tên Pháp.”
“Sao tôi lại phải quan tâm nó phát âm thế nào chứ hả?”
“Tôi chỉ định nói...”
“Sao cũng được, Marge. Cứ kiểm tra nó được chứ?”
“Trông hắn có giống người Pháp không?”
“Thế quái nào mà tôi biết được một gã người Pháp trông như thế nào?” “Tôi chỉ tò mò thôi. Đừng có cáu kỉ như thế. Tôi đang hơi bận.”
Phải rồi, bận lắm luôn, Clayton nghĩ. Chắc là bận ăn bánh rán như mọi khi chứ gì. Marge có thể chén hết ít nhất là một tá bánh Krispy Kremes một ngày. Cô ta phải nặng tạ rưỡi là ít.
Qua cửa bên của xe, gã thấy tay Thibault đang ngồi xổm bên cạnh con chó mà thầm thì với nó trong khi nó uống nước. Clayton lắc đầu: nói chuyện với loài vật à? Thật vớ vẩn. Làm như chó có thể hiểu được cái gì khác ngoài mấy câu mệnh lệnh căn bản nhất vậy. Vợ cũ của Clayton cũng từng làm thế. Cô ta đối xử với chó như với con người, đáng ra gã phải nhìn vào đó mà tránh xa cô ta ngay từ đầu mới phải.
“Tôi không tìm thấy gì cả,” có tiếng Marge nói. Nghe như cô ta đang nhai cái gì đó. “Không thấy trát tòa chưa giải tỏa nào liên quan tới cái tên Thibault này.”
“Cô chắc chứ?”
“Chắc chắn. Công việc của tôi tôi phải biết chứ.”
Clayton vẫn còn nói chuyện qua bộ đàm thì kẻ lạ mặt đã cất cái bát vào ba lô rồi lẳng ba lô lên vai.
“Sáng nay có cuộc gọi nào bất thường không? Như là có người lảng vảng đâu đó chẳng hạn?” Clayton hỏi.
“Không. Sáng nay khá yên tĩnh. À mà anh đang ở đâu vậy? Bố anh đang tìmanh đấy.”
Bố của Clayton là cảnh sát trưởng hạt này.
“Bảo ông ấy là tôi sẽ về ngay.”
Ông ấy có vẻ tức giận.
“Cứ bảo ông ấy tôi đang đi tuần tra, được
Để ông ấy biết tôi đang làm việc và không nói gì nữa.
“Được rồi.”
Có thế chứ.
“Thôi, tôi phải đi đây.”
Gã cất bộ đàm và ngồi im, cảm thấy hơi thất vọng một chút. Kể mà được thấy tên đó xoay xở trong khám với mái tóc kiểu con gái và tất tần tật mấy thứ kia thì sẽ vui lắm. Nếu thế thì anh em nhà Landry sẽ có một ngày thỏa
thích với hắn. Chúng là “khách quen” ở phòng tạm giam vào các tối thứ Bảy: uống rượu và phá phách, gây mất trật tự, đánh lộn, mà lúc nào cũng là chúng tự đánh nhau. Trừ phi bị nhốt vào khám. Khi đó thì chúng đánh người khác.
Clayton nghịch cái tay nắm cửa xe. Mà lần này thì ông già giận dữ vì điều gì nhỉ? Chàng công tử bột thấy chột dạ... Làm cái này đi. Làm cái kia đi. Con đã xử lý mớ giấy tờ đó chưa? Tại sao lại đến muộn? Con vừa ở đâu về? Đã rất nhiều lần gã chỉ muốn nói lão đi mà lo cái công việc khốn kiếp của lão ấy. Lão vẫn tưởng lão đang điều hành mọi thứ ở đây cơ đấy.
Nhưng thôi, không sao. Sớm muộn gì thì gã cũng sẽ biết thôi. Giờ là lúc tống khứ tên hippie quái đản kia khỏi đây, trước khi đám nữ sinh đi tới. Mấy cô nàng đó nghĩ đây là chỗ riêng tư, đúng chứ? Bọn hippie như thế kia có thể phá hỏng chốn này mất.
Clayton ra khỏi xe, đóng cửa lại. Con chó ngỏng đầu về phía Clayton đang tiến đến. Gã đưa trả hộ chiếu. “Xin lỗi đã làm phiền, anh Thibault.” Lần này thì gã cố tình phát âm sai cái tên. “Tôi chỉ làm công việc của mình. Tất nhiên, trừ phi anh có thuốc phiện hay súng ở trong ba lô.”
“Tôi không có.”
“Anh có đồng ý để tôi kiểm tra không?”
“Không hẳn. Luật sửa đổi lần thứ tư và các luật khác.”
“Tôi thấy trong đó có túi ngủ. Anh cắm trại à?”
“Tối qua tôi ngủ ở hạt Burke.”
Clayton dò xét kẻ lạ mặt, ngẫm nghĩ về câu trả lời.
“Quanh đây không có khu cắm trại nào hết.”
Anh ta im lặng.
Bây giờ thì Clayton là người nhìn đi chỗ khác. “Có lẽ anh nên xích con chó này lại.”
“Tôi không nghĩ là hạt này có luật phải xích chó.”
“Đúng. Để an toàn cho con chó của anh thôi. Trên đường cái có rất nhiều xe cộ.”
“Tôi sẽ để ý.”
“Được rồi.” Clayton dợm quay người nhưng rồi khựng lại lần nữa. “Nếu không phiền thì cho tôi hỏi anh đã ở đây được bao lâu?”
“Tôi vừa mới tới. Sao vậy?”
Cách trả lời của Thibault có gì đó khiến Clayton phân vân, và gã lưỡng lự trước khi tự trấn an rằng không thể nào có chuyện tên này biết gã đã làm gì được.
“Không có gì,” Clayton đáp.
“Tôi có thể đi được chưa?”
“Ừ. Được rồi.
Clayton quan sát kẻ lạ mặt và con chó của anh ta bước tới con đường chở gỗ rồi rẽ sang đường mòn dẫn vào rừng. Khi anh ta đi khuất, Clayton quay lại chỗ nấp ban đầu để tìm cái máy ảnh. Gã thò tay vào bụi rậm, đá đá mấy đống lá thông khô cố dò đi dò lại dấu chân của mình để chắc chắn gã đang ở đúng chỗ. Cuối cùng, gã khuỵu xuống và bắt đầu hoảng sợ. Cái máy ảnh đó là của văn phòng cảnh sát trưởng. Gã chỉ mượn nó cho những chuyến đi
chơi đặc biệt như thế này, và bố gã sẽ tra hỏi bằng chết nếu cái máy ảnh đó mất thật. Tệ hơn nữa là nếu nó lại được tìm thấy với cái thẻ nhớ đầy nhóc hình khỏa thân. Bố gã là người triệt để tuân thủ lễ giáo và trách nhiệm.
Vài phút trôi qua. Gã nghe thấy tiếng khởi động xe ở đằng xa. Chắc là mấy cô nữ sinh chuẩn bị rời đi; gã chỉ hơi lăn tăn chuyện họ sẽ nghĩ gì nếu thấy xe của gã vẫn còn ở đó.
Vấn đề chính lúc này là: cái máy ảnh đã biến mất.
Không phải bị mất. Mà là biến mất. Và gã chắc chắn một điều là cái máy không tự chạy đâu được. Cũng không thể có chuyện lũ con gái phát hiện ra nó. Thế tức là Thigh-bolt đã chơi xỏ gã. Thigh-bolt. Đang chơi gã. Thật không thể tin nổi. Gã biết tên đó đóng kịch quá trơn tru mà, quá giống cái kiểu “Tôi biết anh đã làm gì vào mùa hè năm ngoái”[3] mà.
[3] . Tên một bộ phim kinh dị của Mỹ.
Không thể để cho hắn mang thứ đó đi trót lọt được. Không một tên hippie bẩn thỉu, đồng bóng, thích nói chuyện với chó nào được qua mặt Keith Clayton này. Ít nhất là chừng nào gã còn sống trên đời.
Vừa len lỏi lách qua những cành cây để trở ra đường cái, Clayton vừa tưởng tượng cảnh bắt được tên Logan Thigh-bolt kia và tiến hành một cuộc lục soát nho nhỏ. Mà đó mới chỉ là bắt đầu thôi. Tiếp theo sẽ còn những thứ khác nữa, chác chắn là vậy. Tên đó dám chơi gã à? Không xong đâu. Dù sao cũng không phải ở thị trấn này. Gã đếch thèm lo tới con chó. Nó làm càn ư? thì bái bai, cún con. Đơn giản là vậy. Chó béc giê Đức cũng là một loại vũ khí - trong vùng không có tòa án nào là không chấp nhận lý lẽ này.
Dù sao thì việc đầu tiên cần làm là phải tìm tên Thibault. Lấy lại cái máy ảnh. Rồi vạch ra bước tiếp theo.
Ấy thế nhưng khi tới gần chiếc xe của mình, Clayton mới nhận ra rằng hai bánh sau đã xẹp lép.
“Anh nói tên anh là gì nhỉ?”
Vài phút sau, Thibault nhoài người qua ghế trước của chiếc Jeep, gào át tiếng gió vù vù. “Logan Thibault.” Anh giơ ngón tay cái chỉ ngược ra sau. “Còn đây là Zeus.”
Zeus ngồi ở đuôi xe, lưỡi thè lè, hếch mũi lên hứng gió khi chiếc Jeep phóng vèo vèo trên đường cao tốc.
“Con chó đẹp thật. Em là Amy. Đây là Jennifer và Lori.” Thibault ngoái lại phía sau. “Xin chào.”
“Chào.”
Hai cô có vẻ lơ đãng. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, Thibault nghĩ, nếu xét đến những gì họ vừa phải trải qua. “Cảm ơn vì đã cho tôi đi nhờ.”
“Có gì đâu. Anh nói là anh định đi Hampton?”
“Nếu nơi đó không quá xa!”
“Ngay trên đường chúng ta đi đó.”
Sau khi rời khỏi con đường chở gỗ và kiểm tra một số thứ, Thibault đã lén ngược trở lại con đường đó vừa đúng lúc xe của các cô gái đi tới. Anh giơ ngón cái ra hiệu, thầm cảm thấy may mắn là có Zeus đi cùng, và gần như ngay lập tức, chiếc xe đỗ lại bên vệ đường.
Đôi khi mọi việc diễn ra suôn sẻ như thể được sắp đặt sẵn vậy.
Tuy nhiên Thibault đã giả vờ, thực ra anh nhìn thấy ba cô gái từ sáng sớm, khi họ mới đến - anh cắm trại ở ngay sau một gò đất cạnh bãi tắm - nhưng đã cho họ sự riêng tư mà họ đáng được hưởng ngay khi họ bắt đầu cởi quần áo. Đối với anh, cái việc họ làm là vô hại và chẳng xấu xa gì; ngoài anh ra thì chỉ có mỗi mình họ ở đấy, mà anh cũng chẳng có ý định nấn ná gần đó để nhìn lén. Ai quan tâm họ cởi hết quần áo hay là mặc đồ hóa trang gà con cơ chứ? Đó không phải là việc của anh, và anh đã định cứ để
mặc họ thoải mái, nhưng rồi anh chợt nhìn thấy gã cảnh sát lái chiếc xe của Văn phòng Cảnh sát trưởng quận Hampton trườn tới.
Qua kính chắn gió của chiếc xe, Thibault nhìn thấy gã cảnh sát rõ mồn một và nhận ra có gì đó không ổn trên nét mặt gã. Khó mà nói chính xác đó là gì, nhưng anh không định tốn thời gian mà phân với chả tích. Anh vòng lại, cắt ngang qua khu rừng và tới nơi vừa kịp lúc nhìn thấy tay cảnh sát kiểm tra thẻ nhớ trong cái máy ảnh trên tay trước khi lặng lẽ đóng cửa xe lại. Anh quan sát gã lén lút đi tới một gò đất. Anh thừa biết là có thể tay cảnh sát này đang thực thi nhiệm vụ, nhưng sao trông gã cứ như kiểu con Zeus mỗi khi chờ miếng thịt bò vậy. Hơi quá phấn khích hơn bình thường.
Thibault để Zeus ở nguyên tại chỗ, còn anh thì đi theo gã cảnh sát, cố giữ khoảng cách để gã không phát hiện ra. Và toàn bộ phần còn lại của kế hoạch phát sinh ngoài dự kiến. Anh biết rằng việc bắt tận tay day tận mặt là không thể - tay cảnh sát có thể tuyên bố là đang thu thập chứng cứ, và lời nói của gã chống lại một kẻ lạ mặt như anh sẽ rất khó mà phản bác. Bất cứ sự động thủ nào cũng vô nghĩa, chỉ tổ gây thêm rắc rối mà thôi, dù rằng trong lòng anh rất muốn đấu tay đôi với gã này. Thật may thay - hoặc thật rủi thay, anh tự nhủ, cũng còn tùy vào cách nhìn nhận vấn đề - cô gái đó xuất hiện, tay cảnh sát hoảng sợ, và rồi Thibault đã nhìn thấy chỗ gã giấu máy ảnh. Khi Clayton cùng cô gái đi về phía các bạn của cô, Thibault nhặt lấy chiếc máy ảnh. Đáng lẽ cứ thế mà bỏ đi cũng được nhưng anh lại quyết định phải cho gã này một bài học. Chẳng phải đao to búa lớn gì, chỉ là một bài học nhằm đảm bảo danh dự của ba cô gái không bị tổn hại, để anh tiếp tục hành trình và phá hỏng luôn ngày hôm nay của tay cảnh sát. Nghĩ thế nên anh quay lại xì le của gã.
“Ồ, suýt nữa thì quên,” Thibault mở lời. “Tôi tìm thấy cái máy ảnh của các
cô trong bụi rậm.”
“Không phải của tôi. Lori, Jen... các cậu có mất máy ảnh không?” Cả hai lắc đầu.
“Thôi các cô cứ giữ nó đi,” Thibault vừa nói vừa để máy xuống ghế. “Và cảm ơn đã cho đi nhờ. Tôi có một cái rồi.”
“Anh chắc chứ? Chắc đắt phết đấy.”
“Chắc mà.”
“Cảm ơn anh.”
Thibault để ý bóng nắng nhảy nhót trên gương mặt Amy, cô có sức hấp dẫn của một tiểu thư thành thị với đường nét sắc sảo, nước da màu ô liu và đôi mắt nâu ánh vàng. Anh tưởng tượng có thể ngắm Amy hàng giờ không chán.
“Này... cuối tuần này anh có bận việc gì không?” Amy hỏi. “Chúng tôi định
đi biển chơi.”
“Cảm ơn cô đã mời, nhưng tôi không thể.” “Tôi cá là anh có hẹn với bạn gái chứ gì.” “Điều gì khiến cô nghĩ thế?”
“Nhìn anh tôi đoán thế.”
Thibault ép mình phải quay đi. “Đại loại vậy.”
2
fe
Thibault
Thật kỳ lạ khi nghĩ về những biến cố có thể xảy ra trong cuộc đời một người đàn ông. Mới chỉ hơn một năm trước, chắc Thibault đã nhảy cẫng lên nếu được tận hưởng những ngày nghỉ cuối tuần với Amy và đám bạn cô. Có thể đấy chính là điều anh cần; vậy mà khi họ thả anh xuống ngay rìa thị trấn Hampton, giữa cái nóng hầm hập của buổi trưa tháng Tám, anh vẫy chào tạm biệt mà lòng thấy nhẹ nhõm đến lạ kỳ. Việc cố tỏ ra thoải mái bên các cô gái khiến anh thấy kiệt sức.
Kể từ khi rời Colorado năm tháng trước, anh chưa từng dành quá vài tiếng đồng hồ bên cạnh bất cứ ai, trừ một bác nông dân lớn tuổi vắt sữa bò ở Nam Little Rock, người đã cho anh sử dụng một phòng ngủ bỏ không trên lầu sau bữa tối diễn ra gần như trong yên lặng giữa hai người. Anh rất cảm kích vì ông cụ không ép anh giải thích lý do anh tỏ ra như vậy. Không hỏi, không tò mò, không bóng gió. Chỉ đơn giản chấp nhận là Thibault không thích trò chuyện. Để đáp lại, Thibault đã dành vài ngày để giúp ông sửa mái chuồng bò trước khi lại tiếp tục khăn gói lên đường, với Zeus lẽo đẽo theo sau.
Ngoại trừ lúc được ba cô gái cho đi nhờ ra, còn lại thì Thibault đã cuốc bộ hết cả chặng đường dài. Kể từ lúc vứt chùm chìa khóa căn hộ của mình
ở phòng quản lý chung cư hồi giữa tháng Ba, anh đã phải thay đến tám đôi giày, chủ yếu sống nhờ lương khô PowerBars và nước trong khi một mình rong ruổi trên những chặng đường dài nối liền các thành phố và thị trấn. Có lần, ở Tennessee, anh đã ăn một lúc hết năm chồng bánh bột mì rán sau khi cuốc bộ gần ba ngày mà không có gì vào bụng. Với Zeus làm bạn đồng hành, anh đã đi qua bão tuyết, mưa đá, dông tố và nắng gắt đến độ hai cánh tay bỏng rộp; anh đã nhìn thấy một cơn lốc xoáy đang trong quá trình hình thành gần Tulsa, bang Oklahoừng suýt bị sét đánh hai lần. Đôi lần, tự dưng không muốn đi theo đường lớn, anh đã đi đường vòng để rồi bị lạc lung tung, khiến cho chuyến đi bị kéo dài thêm. Thường anh đi bộ tới chừng nào mệt lử, chập tối thì bắt đầu tìm nơi cắm trại, chỗ nào cũng được miễn là anh và con Zeus không bị làm phiền. Buổi sáng, trước khi mặt trời kịp mọc, anh lại lên đường nên không ai biết họ đã ở đó. Cho đến lúc này thì họ chưa từng bị ai quấy rầy.
Thibault tính ra mình đã đi trung bình hơn ba mươi ki lô mét mỗi ngày, mặc dù anh chưa bao giờ ghi chép lại cả thời gian lẫn độ dài quãng đường. Đó không phải là mục đích của hành trình này. Anh có thể tưởng tượng ra người này thì nghĩ anh đang đi xa khỏi những hồi ức về cái thế giới mà anh bỏ lại sau lưng, nghe có vẻ thi vị, người kia lại cho là anh đi chỉ để đi thế thôi. Nhưng cả hai đều không đúng. Anh thích đi bộ, và anh có một số nơi cần đến. Chỉ đơn giản vậy thôi. Anh thích được tự do muốn đi lúc nào thì đi, muốn đến chỗ nào thì đến, muốn nhanh thì nhanh muốn chậm thì chậm. Sau bốn năm phải tuân lệnh trong lực lượng lính thủy đánh bộ thì sự tự do tự tại này thật hấp dẫn với anh.
Mẹ Thibault rất lo lắng cho anh, nhưng bà mẹ nào mà chả thế. Mà không thì đấy cũng là cái tính cố hữu của mẹ anh rồi. Cứ vài ngày Thibault lại gọi điện về một lần để bà biết rằng anh vẫn ổn; và lần nào cũng vậy, cứ mỗi khi ngắt máy, anh lại thấy mình thật không phải với bà. Hầu như suốt cả
năm năm qua anh xa nhà, và ba lần sang Iraq thì cả ba lần anh đều phải nghe bà thuyết giảng qua điện thoại, nhắc nhở anh không được làm điều gì dại dột. Anh chẳng làm gì dại dột, ấy vậy mà cũng đã hơn vài lần suýt chết. Dù Thibault chưa bao giờ kể cho mẹ nghe về những chuyện ấy nhưng bà đọc được trên báo. Đêm trước khi Thibault lên đường bà khóc lóc, “Lại đi... Mẹ thấy tất cả những chuyện này thật điên rồ.”
Có thể là điên rồ. Cũng có thể là không. Anh cũng không biết nữa. “Mày nghĩ sao, Zeus?”
Con chó ngước lên khi nghe gọi tên mình và lặng lẽ bước đến bên anh. “Ừ, tao biết. Mày đang đói. Còn gì khác không?”
Thibault dừng lại trong bãi đỗ xe trước một nhà trọ tuềnh toàng ở rìa thị trấn. Anh lấy cái bát và chỗ thức ăn dành cho chó cuối cùng. Trong khi Zeus bắt đầu ăn thì anh tranh thủ ngắm nhìn thị trấn.
Hampton không phải nơi xấu nhất mà anh từng thấy, dĩ nhiên là không rồi, nhưng cũng chẳng phải là nơi đẹp nhất. Thị trấn này nằm dọc hai bờ sông South, cách Wilmington và bờ biển khoảng sáu mươi ki lô mét về phía Tây Bắc. Thoạt nhìn, có vẻ nó chẳng khác gì so với hàng ngàn thị trấn tự cung
tự cấp nằm rải rác khắp miền Nam của những người công nhân luôn tự hào về lịch sử của mình. Vài hộp đèn giao thông treo lủng lẳng trên những sợi dây võng xuống làm cản trở giao thông khi xe cộ lách lên cây cầu bắc qua sông, hai bên con phố chính là những tòa nhà gạch thấp tầng san sát nhau kéo dài khoảng nửa cây số, trên các cửa trước in tên những địa điểm ăn uống hoặc mua sắm đồ ngũ kim. Đó đây vài cây mộc lan già mọc rải rác, rễ phình lên khiến vỉa hè cũng bị nhấp nhô theo. Đằng xa, anh nhìn thấy cả một cột ống biển hiệu cắt tóc cổ lỗ sĩ và những cụ già ngồi chờ trên chiếc ghế băng đặt ngoài cửa tiệm. Anh mỉm cười. Cảnh tượng cũ kỹ là lạ, tựa hồ như đang ở những năm năm mươi của thế kỷ trước vậy.
Tuy nhiên, sau khi quan sát kỹ hơn, anh cảm thấy những ấn tượng ban đầu ấy thật sai lầm. Dù nằm ngay bên bờ sông - mà cũng có thể chính vì thế - anh vẫn thấy tình trạng xuống cấp gần những đường bao mái, nơi những đống gạch đổ nát sát chân tường, trên những vết ố bẩn đã phai màu cao tới cả mét tính từ móng cho thấy ở đây đã từng xảy ra lụt lội nghiêm trọng. Chưa có cửa hàng nào đóng cửa, nhưng nhìn vài chiếc xe đỗ lèo tèo bên ngoài, anh tự hỏi họ có thể buôn bán được bao lâu. Những khu thương mại ở các thị trấn nhỏ sắp sửa theo gót bọn khủng long, và nếu thị trấn này cũng giống như hầu hết những nơi mà anh đã đi qua thì anh đoán có lẽ đã mọc lên một khu buôn bán khác mới hơn, nơi gần như chắc chắn đã có Wal Mart hay Piggly Wiggly[1], đặt dấu chấm hết cho phần này của thị trấn.
[1]. Wal-Mart và Piggly-Wiggly là hai hệ thống siêu thị bán lẻ lớn của Mỹ.
Kể cũng lạ. Anh đang ở đây. Anh không nhớ mình từng hình dung thế nào về Hampton, nhưng chắc không phải thế này.
Mà thôi, thị trấn có thế nào không phải việc của mình. Nhìn Zeus đang liếmnốt cái bát, Thibault tự hỏi phải mất bao lâu nữa mới tìm thấy cô ấy. Người phụ nữ trong bức ảnh. Người mà anh đang kiếm tìm.
Nhưng anh sẽ tìm thấy cô. Đó là điều chắc chắn. Anh nhấc ba lô lên. “Mày sẵn sàng chưa?”
Zeus nghiêng đầu.
“Chúng ta sẽ thuê một phòng. Tao muốn ăn và tắm rửa. Mà cả mày cũng phải tắm nữa.”
Thibault đi được vài bước thì nhận ra Zeus vẫn không nhúc nhích. Anh ngoái đầu lại.
“Đừng có nhìn tao như vậy. Dứt khoát mày phải tắm. Có mùi rồi đấy.” Zeus vẫn đứng im.
“Thôi được. Tùy mày. Tao đi đây.”
Anh bước về phía phòng quản lý để đăng ký, thừa biết kiểu gì Zeus cũng đi theo. Nói cho cùng, Zeus luôn đi theo anh.
Cho đến trước khi nhặt được bức ảnh đó, cuộc sống của Thibault đã diễn ra đúng như anh dự tính. Lúc nào anh cũng có sẵn một kế hoạch. Anh muốn ở trường mình phải được loại giỏi, và anh đã được loại giỏi; anh muốn tham gia nhiều môn thể thao, và anh đã chơi gần như tất cả các môn. Anh muốn học piano và violin, và anh đã giỏi tới mức có thể tự sáng tác nhạc. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Colorado, anh quyết định gia nhập lực lượng lính thủy đánh bộ. Người tuyển quân mừng rỡ khi thấy anh chọn đi lính thay vì trở thành một nhân viên văn phòng. Bị sốc, nhưng mừng rỡ. Hầu như chẳng có ai tốt nghiệp đại học mà lại khao khát được làm một anh lính quèn, ấy nhưng đó chính là điều mà anh muốn.
Vụ đánh bom Trung tâm Thương mại Thế giới chẳng liên quan mấy tới quyết định này của anh. Việc nhập ngũ dường như là một điều hết sức tự nhiên, bởi lẽ bố anh cũng từng phục vụ lực lượng lính thủy đánh bộ suốt hai mươi lăm năm. Nhập ngũ là một anh lính trơn và giải ũ với quân hàm trung sĩ, mái tóc hoa râm và gương mặt rắn rỏi có thể dọa được tất cả mọi người trừ vợ ông và trung đội mà ông chỉ huy. Ông coi những chàng trai ấy như con mình, và mục tiêu duy nhất của ông, như ông thường nói với họ, là trả họ về với mẹ, bình an, mạnh khỏe và trưởng thành. Ông đã dự chừng hơn năm chục đám cưới của cấp dưới, những người không thể nào tưởng tượng được mình đi cưới vợ mà không có ông chúc phúc. Ông cũng là một lính thủy đánh bộ xuất sắc. Ông được trao tặng một huân chương Bronze Star và hai huân chương Purple Heart tại Việt Nam; từng nhiều năm tham gia các chiến dịch Grenada, Panama, Bosnia và Cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất. Ông là người không bao giờ ngại thuyên chuyển, và Thibault đã
trải phần lớn thời niên thiếu theo ông đi hết nơi này đến nơi khác, sống trong các căn cứ quân sự trên khắp thế giới. Về một số mặt nào đó thì Okinawa có vẻ giống quê nhà của Thibaut hơn là Colorado, và mặc dù vốn tiếng Nhật anh đã rơi rớt nhiều nhưng anh nghĩ chỉ một tuần ở Tokyo là anh sẽ lại lưu loát thứ ngôn ngữ này ngay. Giống như bố, anh đã định sẽ theo đuổi binh nghiệp đến cùng rồi nghỉ hưu, nhưng khác với ông, anh lại muốn sống thật lâu sau đó để hưởng thụ. Bố anh đã mất vì một cơn đau tim chỉ hai năm sau lần cuối cùng ông cởi bộ quân phục màu xanh treo lên giá. Một cơn nhồi máu cơ tim mạnh và đột ngột. Mới một phút trước ông còn xúc tuyết khỏi con đường dẫn vào nhà thì phút sau ông đã ra đi. Chuyện xảy ra từ mười ba năm trước. Khi đó Thibault mười lăm tuổi.
Đối với Thibault, ngày bố mất và đám tang sau đó là những ký ức đáng nhớ nhất trong quãng đời trước khi anh gia nhập lính thủy đánh bộ. Được nuôi dạy trong môi trường nhà binh khiến người ta biết cách tự xóa nhòa ký ức, đơn giản vì họ phải di chuyển quá nhiều. Những người bạn đến rồi đi; quần áo được gói ghém rồi gỡ ra, thứ gì trong nhà không cần thiết sẽ thường xuyên bị vứt bỏ; và kết quả là chẳng còn lại gì nhiều. Đó là những giai đoạn khó khăn, nhưng chúng khiến một đứa trẻ trở nên mạnh mẽ theo cái cách mà đa số mọi người không hiểu nổi. Nó học được rằng, khi ai đó bị bỏ lại sau lưng thì chắc chắn sẽ có người mới thế chỗ; rằng nơi nào cũng đem lại cả điều tốt và điều xấu. Tất cả những điều này khiến một đứa trẻ lớn nhanh hơn.
Thậm chí những năm đại học cũng mờ nhạt đối với Thibault, nhưng dẫu sao thì quãng đời đó ai cũng như ai cả thôi. Cả tuần vùi đầu vào sách vở, cuối tuần chơi bời, tới kỳ thi thì nhồi nhồi nhét nhét, ở ký túc xá đồ ăn dở tệ, và hai cô bạn gái, trong đó có một cô kéo dài được hơn một năm tí chút. Đó là câu chuyện muôn thuở của tất cả những ai từng học đại học, nhưng rất ít câu chuyện để lại dư âm dài lâu. Rốt cuộc thì chỉ có kiến thức
của anh là ở lại. Thú thật, Thibault cảm thấy đời mình vẫn chưa thật sự bắt đầu cho đến căn cứ Paris tham gia khóa huấn luyện cơ bản. Vừa bước xuống xe buýt, anh đã nghe tiếng viên trung sĩ huấn luyện quát vào tai. Trên đời này chỉ duy nhất các trung sĩ huấn luyện là khiến anh tin rằng đời anh từ trước đến nay chẳng đáng một xu. Bây giờ anh đã là người của họ, chấm hết. Anh giỏi thể thao? Hãy chống đẩy năm mươi lần cho tôi, Ngài Thủ Quân. Anh tốt nghiệp đại học? Hãy ráp khẩu súng này, Einstein. Hay anh có bố từng ở lính thủy đánh bộ? Hãy lau chùi cái máy xén này, giống như bố anh từng làm ấy. Toàn những trò rập khuôn cũ rích. Chạy, đi đều, nghiêm, lăn qua bùn, trèo tường: chả có gì trong khóa huấn luyện cơ bản làm anh bất ngờ.
Phải công nhận rằng khóa tập huấn này tương đối có tác dụng. Nó quật người ta xuống bùn, đánh người ta tơi tả, nhưng cuối cùng cũng rèn đúc nên những tay lính thủy đánh bộ. Hoặc đó là những gì họ nói. Dù gì thì Thibault cũng không gục gã. Anh vượt qua thử thách, nhẫn nhịn, tuân lệnh, và giữ nguyên bản chất của mình. Cuối cùng thì anh đã trở thành một lính thủy đánh bộ.
Sau khóa huấn luyện, anh được điều động về tiểu đoàn l, trung đoàn 5 đóng tại trại Pendleton. San Diego chính là kiểu thành phố mà anh thích, với khí hậu dễ chịu, những bãi tắm xinh đẹp, và phụ nữ lại càng quyến rũ hơn nữa. Nhưng thời kỳ đó chẳng kéo dài được bao lâu. Tháng Giêng năm 2003, ngay khi vừa bước sang tuổi Hai mươi ba, anh được đưa tới Kuwait để tham gia Chiến dịch giải phóng Iraq. Trại Doha, nằm trong một khu công nghiệp ở thành phố Kuwait, được trưng dụng thành khu quân sự kể từ Cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất, trông chả khác nào một thành phố nhỏ. Ở đó có một phòng tập thể thao, một trung tâm máy tính, một trạm bán hàng cho quân đội, các địa điểm ăn uống và bạt ngàn lều dã chiến trải dài tới tận chân trời. Nơi này vốn đã bận rộn nay càng trở nên bận rộn hơn do phải
chuẩn bị cho cuộc tấn công, mà ngay từ đầu mọi thứ đã hỗn độn lắm rồi. Những ngày anh ở đây là một chuỗi các cuộc họp dài lê thê lếch thếch, các buổi rèn luyện thể lực và diễn tập nhiều phương án tác chiến thay đổi. Phải tập đi tập lại hàng trăm lần cách thức mặc quần áo chống vũ khí hóa học. Lại còn những lời đồn đại liên miên nữa chứ. Nản nhất là cứ phải cố xác định xem lời nói của ai có khả năng là thật. Ai cũng biết một ai đó quen một người nào đó nghe được chính xác cái chuyện đã xảy ra. Hôm nay thấy nói chuẩn bị tấn công ngay lập tức, ngày mai lại nghe nói kế hoạch tấn công sẽ hoãn lại. Lúc đầu thấy nói hướng tấn công chính là từ phía Bắc và Nam, sau đó có người lại bảo là chỉ từ hướng Nam mà thôi, mà có thể cũng chả phải vậy nữa. Hôm nay nghe nói kẻ thù có vũ khí hóa học và họ định sử dụng chúng; hôm sau lại có thông tin rằng họ không dám dùng sợ nước Mỹ sẽ giáng trả bằng vũ khí nguyên tử. Người này xì xào rằng Vệ binh Cộng hòa của Iraq có kế hoạch lập tuyến tử thay sát biên giới; người kia lại thề thốt tuyến tử thủ sẽ được dựng lên ở gần Baghdad. Lại có những người khác chắc chắn rằng đối phương sẽ sống chết gần các giếng dầu. Tóm lại là, chẳng ai biết gì cả, điều này chỉ càng kích động trí tưởng tượng của một trăm năm mươi ngàn quân lính đang tập kết ở Kuwait mà thôi.
Đại bộ phận lính tráng chỉ là những đứa trẻ. Nhiều khi mọi người quên mất điều này. Mười tám, mười chín, hai mươi tuổi - phân nửa số quân nhân này thậm chí còn chưa đủ tuổi để mua một cốc bia. Chúng tự tin, được huấn luyện tốt và háo hức xông pha, nhưng không thể nào lờ đi cái thực tế về những điều sẽ xảy đến với chúng. Một số sẽ chết. Có đứa nói về điều đó hết sức thoải mái, những đứa khác thì viết thư về cho gia đình rồi đưa cho sĩ quan tuyên úy. Chúng nhanh chóng trở nên cáu bẳn. Một số khó ngủ, số khác thì lại ngủ li bì suốt ngày. Thibault quan sát tất cả những chuyện này với thái độ thờ ơ đến kỳ lạ. Chào mừng đến với chiến tranh - bên tai anh vẫn văng vẳng lời bố nói. Luôn luôn có một từ để tả nó, ấy là SNAFU: lúc nào cũng hỗn loạn như vậy, không có gì lạ hết[2].
[2]. Nguyên văn là: “SNAFU: Situation normal, all f_ed up”. Viết đầy đủ là: Situation normal, all fucked up, hoặc đôi khi để tránh bất lịch sự, người ta thường viết Situation normal, all fouled up. Ban đầu, cụm từ viết tắt được sử dụng phổ biến trong quân đội, với lối nói hài hước để chỉ một sự việc xảy ra như vốn dĩ vẫn vậy. Sau này, từ “snafu" được bình thường hóa, trở thành tiếng lóng ám chỉ sự hỗn loạn, tình trạng hoang mang.
Không phải là Thibault hoàn toàn miễn nhiễm với tình trạng căng thẳng leo thang, và cũng như tất cả mọi người, anh cần một lối thoát. Không thể không có một giải pháp nào đó. Anh bắt đầu chơi poker. Bố anh từng dạy anh chơi, và anh biết chơi... hoặc nghĩ là mình biết chơi. Rồi anh nhanh chóng hiểu ra rằng những người khác còn chơi giỏi hơn. Trong ba tuần đầu tiên, anh nướng sạch số tiền tích cóp được kể từ khi nhập ngũ. Đáng ra phải hạ bài thì anh lại theo, và ngược lại, khi cần theo thì anh lại hạ. Số tiền học nghề như thế cũng không có gì nhiều, vả lại dù có giữ được tiền thì anh cũng chẳng có mấy chỗ mà tiêu, tuy nhiên anh vẫn thấy ức chế trong nhiều ngày liền. Anh ghét bị thua.
Thuốc giải duy nhất là chạy đường dài vào buổi sáng trước khi mặt trời mọc. Lúc đó trời thường rất lạnh; mặc dù đã tới Trung Đông được một tháng nhưng anh vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sao sa mạc có thể lạnh đến thế. Anh mải miết chạy dưới bầu trời đầy sao, hơi thở thoát ra thành từng làn khói mỏng trong không trung.
Một lần, khi sắp kết thúc đường chạy và căn lều của anh đã hiện ra phía xa xa, Thibault bắt đầu chạy chậm lại. Mặt trời đang nhô lên khỏi đường chân trời, tỏa ánh vàng rực rỡ khắp sa mạc khô cằn. Chống tay lên hông, anh cố
gắng thở đều. Và rồi, đúng lúc đó, khóe mắt anh bắt được ánh sáng yếu ớt hắt lên từ một bức ảnh bị vùi một nửa dưới cát. Thibault dừng lại nhặt bức
ảnh lên và nhận ra nó được tráng laminate, dù rẻ tiền nhưng rất cẩn thận, chắc là để bảo vệ khỏi tác động của môi trường. Anh phủi bụi, lau sạch bức ảnh, và đó là lần đầu tiên anh nhìn thấy cô.
Đó là một cô gái tóc vàng đang mỉm cười, đôi mắt màu ngọc bích ánh lên vẻ tinh nghịch, mặc quần jean và áo phông có hàng chữ QUÝ CÔ MAY MẮN trên ngực. Đằng sau cô là biển hiệu ghi PHIÊN CHỢ HAMPTON. Đứng cạnh cô là một con béc giê mõm xám. Trong đám đông phía sau cô là hình ảnh hơi bị nhòe nét của hai thanh niên mặc áo phông in logo đứng cạnh quầy bán vé. Phía xa xa là ba cây thường xanh, loại cây có thể mọc ở hầu như bất cứ đâu. Mặt sau của bức ảnh có dòng chữ viết tay, “Hãy bảo trọng! E.”
Tuy nhiên, ngay lúc ấy thì anh chẳng nhìn ra bất cứ chi tiết nào cả. Thoạt đầu, theo bản năng, anh đã chực quăng nó đi. Nhưng đúng lúc định làm vậy thì anh chợt nghĩ rằng bất cứ ai đã làm mất nó có thể sẽ muốn nhận lại. Rõ ràng là bức ảnh này có ý nghĩa nào đó với một ai đó.
Khi trở lại trại, anh ghim bức ảnh lên bảng thông báo gần lối vào của trung tâm máy tính vì nghĩ rằng không lúc này thì lúc khác, hầu như tất cả mọi người ở trại đều ghé qua đây. Thể nào cũng có người nhận lại bức ảnh.
Một tuần, rồi mười ngày trôi qua. Bức ảnh vẫn chưa có ai nhận lại. Thời gian đó trung đội của anh phải luyện tập ròng rã nhiều tiếng đồng hồ mỗi ngày, còn những ván poker thì trở nên ăn thua thực sự. Vài người bị thua hàng ngàn đô la; cả trại xì xào có một hạ sĩ đã mất đến gần mười ngàn đô.
Riêng Thibault đã từ bỏ hẳn thú cờ bạc sau thất bại ê chề trong lần đầu thử
vận may. Anh thích dành thời gian rỗi để nghĩ về cuộc tấn công sắp tới và tự hỏi mình sẽ thế nào nếu bị dính đạn. Ba ngày trước khi diễn ra cuộc tấn công, khi lững t ngang qua trung tâm máy tính, anh thấy bức ảnh vẫn còn ghim trên bảng thông báo, và vì một lý do nào đó mà đến giờ anh vẫn không thể hiểu nổi, anh đã gỡ nó ra cho vào túi.
Tối hôm đó, Victor, bạn thân nhất của Thibault trong tổ - họ đã cùng nhau trải qua khóa huấn luyện cơ bản - rủ anh chơi poker bất chấp thái độ của anh. Với lưng vốn ít ỏi, Thibault bắt đầu cuộc chơi một cách dè dặt và không cho là mình có thể ngồi lại quá nửa tiếng. Ba ván đầu anh bỏ bài, rồi bốc được một bộ sảnh ở ván thứ tư cùng một bộ cù lũ trong ván thứ sáu. Các quân bài liên tục đẹp như mơ - thùng, phá, sảnh, cù lũ. Chừng giữa cuộc chơi lúc nửa đêm, anh đã gỡ lại toàn bộ số tiền thua lúc trước. Người trước bỏ cuộc, kẻ sau thế chỗ. Thibault chơi tiếp. Đến lượt họ ra đi, anh vẫn ở lại. Vận may liên tục mỉm cười, và khi bình minh ló dạng, anh đã thắng được số tiền còn nhiều hơn cả sáu tháng lương lính đầu tiên của mình.
Mãi tới khi cùng Victor rời khỏi bàn, Thibault mới chợt nhận ra là suốt từ đầu cuộc chơi đến giờ, bức ảnh vẫn đang nằm trong túi anh. Khi về tới lều, anh cho Victor xem bức ảnh và chỉ vào dòng chữ trên áo cô gái. Bố mẹ Victor là dân nhập cư trái phép sống gần Bakersfield, bang California, anh chàng không chỉ theo đạo mà còn tin vào các thể loại điềm báo. Sấm chớp, đường ngã ba và mèo đen là những thứ linh ứng nhất Trước khi tới đây, có lần Victor đã kể cho Thibault nghe về một ông chú có đôi mắt quỷ: "Khi chú ấy nhìn cậu theo một kiểu nào đấy thì chuyện cậu chết chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.” Vẻ nghiêm túc của Victor khiến cho Thibault cảm thấy như được trở về tuổi lên mười, say sưa nghe Victor kể chuyện với một cái đèn pin chống dưới cằm. Khi đó anh không bình luận gì cả. Mỗi người mỗi kiểu. Victor muốn tin vào điềm báo à? Tốt thôi. Điều quan
trọng là tài bắn súng của Victor đủ siêu để được chọn vào đội bắn tỉa, và anh thì tin cậu chàng đủ để phó thác cuộc đời mình cho bạn.
Victor nhìn chằm chằm vào bức ảnh trước khi trả lại nó. “Cậu bảo cậu tìm thấy thứ này lúc bình minh hả?”
“Ừ.”
“Khi mặt trời lên là quãng thời gian mạnh nhất trong ngày đấy.” “Cái đấy cậu đã nói rồi.”
“Đó là dấu hiệu,” Victor nói. “Cô ấy là bùa may mắn của cậu. Thấy cái áo cô ấy đang mặc chứ?”
“Chắc chỉ may mắn đêm nay thôi.”
“Không chỉ đêm nay đâu. Cậu tìm thấy bức ảnh là có lý của nó. Không ai nhận bức ảnh cũng có lý của nó. Và rồi cậu quyết định lấy lại cũng có lý của nó nốt. Có nghĩa là chỉ duy nhất cậu mới có được bức ảnh mà thôi.”
Thibault muốn nói gì đó về người đánh mất bức ảnh và anh cảm thấy thế nào về chuyện này, nhưng rồi anh quyết định im lặng. Anh nằm xuống giường và đan hai bàn tay kê dưới đầu.
Victor cũng làm như Thibault rồi bổ sung, “Tớ mừng cho cậu. Từ giờ trở đi, may mắn sẽ luôn ở bên cậu.”
“Tớ cũng mong là thế.”
“Nhưng cậu đừng bao giờ để mất bức ảnh.”
“Sao?”
“Nếu mất thì sau đó cái bùa sẽ gây tác dụng ngược.”
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là cậu sẽ gặp rủi ro. Mà trong chiến tranh, rủi ro là gì thì cậu cũng biết rồi đấy.”
* * *
Mọi thứ bên trong phòng nghỉ cũng xấu xí y hệt vẻ bề ngoài của nhà trọ: gỗ ván ốp tường, bóng đèn thòng xuống từ trần nhà bằng dây xích, thảm trải sàn dệt từ loại sợi thô lởm chởm, một chiếc ti vi được bắt chặt vào đế. Có vẻ như căn phòng đã được trang trí từ giữa những năm bảy mươi rồi từ đó đến nay chưa bao giờ được nâng cấp, và nó gợi cho Thibault nhớ đến những chỗ mà bố anh đã chọn làm nơi dừng chân trong chuyến đi nghỉ xuyên vùng Tây Nam của gia đình, khi anh còn nhỏ. Cả nhà thường ngủ qua đêm trong những nhà nghỉ ngay sát đường cao tốc, và miễn sao chúng tương đối sạch sẽ thì ông đều duyệt hết. Mẹ anh không nghĩ thế, nhưng bà có thể làm gì chứ? Xung quanh đấy chẳng có cái khách sạn Bốn Mùa nào, mà kể cả có đi nữa thì họ cũng đâu đủ tiền thuê.
Thibault có một thói quen giống bố mỗi khi bước vào phòng trọ: anh kéo tấm phủ giường ra để chắc chắn rằng vải lót nệm sạch sẽ, rồi kiểm tra tấm che bồn tắm xem có mốc meo không, có tóc ở trong bồn rửa không. Mặc dù có những chỗ bị ố bẩn, vòi nước hơi bị rỏ giọt, phảng phất mùi thuốc lá, nhưng nơi này vẫn sạch sẽ hơn anh tưởng. Lại còn không đắt nữa. Thibault đã trả trước tiền thuê một tuần, không bị hỏi câu nào, không tiền thêm cho chó. Gì thì gì, thế là hời rồi. Anh không có thẻ tín dụng, không có thẻ ghi nợ, không có cả thẻ ATM, không có địa chỉ email và không có cả điện thoại di động. Anh đã mang theo gần như tất cả những gì mình có. Anh có tài khoản ngân hàng, nơi có thể chuyển tiền cho anh khi cần. Nó được đăng ký dưới tên một công ty chứ không phải tên anh. Anh chẳng giàu có gì. Thậm chí còn không thuộc diện trung lưu nữa. Cái công ty đó thực chất chả làm gì cả. Chỉ đơn giản là anh thích sự riêng tư.
Anh dẫn Zeus đến bồn, tắm rửa cho nó bằng chai dầu gội để trong ba lô.
Rồi đến lượt anh tắm và tròng vào người bộ quần áo sạch cuối cùng. Ngồi trên giường, anh mở lật hết một lượt cuốn danh bạ điện thoại, tìm kiếm một điều gì đó đặc biệt nhưng không gặp may. Rồi anh viết một tờ giấy nhắc mang đồ đi giặt là khi nào có thời gian, sau đó quyết định kiếm cái gì bỏ bụng tại một nhà hàng nhỏ mà anh đã nhìn thấy ngay dưới phố.
Khi anh tới đó, họ không cho Zeus vào, việc này không có gì bất ngờ. Thế là cu cậu đành phải nằm ở ngoài cửa rồi ngủ mất. Thibault gọi bánh kẹp pho mát và thịt rán, tráng miệng bằng sữa sô cô la, cuối cùng anh gọi thêm một bánh kẹp pho mát cho Zeus. Trở ra, Thibault nhìn Zeus ngoạm sạch cái bánh trong chưa đến hai mươi giây rồi lại ngó lên nhìn anh.
“Rất vui khi thấy mày khoái nó. Đi nào.”
Thibault mua bản đồ thị trấn ở một cửa hàng tạp hóa rồi tới ngồi trên một băng ghế gần quảng trường thị trấn - một trong những công viên kiểu cổ bao quanh bốn mặt là những con phố san sát các cửa hàng cửa hiệu. Với những hàng cây cổ thụ, một sân chơi cho trẻ em và rất nhiều hoa, nom công không được đông vui cho lắm: có mấy bà mẹ đứng tám chuyện với nhau trong khi trẻ con thì chơi cầu trượt hay lượn tới lượn lui trên xích đu. Thibault dòm kỹ mặt đám phụ nữ, rồi khi chắc chắn rằng cô không có trong số ấy thì anh quay lại trải tấm bản đồ ra, trước khi họ bắt đầu lo lắng về sự có mặt của anh. Những bà mẹ có con nhỏ lúc nào cũng lo lắng khi thấy một gã đơn độc lảng vảng xung quanh mà chẳng chủ định làm gì hết. Anh không trách họ. Xã hội giờ đầy rẫy bọn điên mà.
Vừa nghiên cứu bản đồ, anh vừa định hướng xem mình đang ở đâu và vạch
ra bước đi tiếp theo. Anh không hề ảo tưởng rằng chuyện này sẽ dễ dàng. Xét cho cùng thì anh đâu biết gì nhiều. Tất cả những gì anh có là một bức ảnh - không họ tên hay địa chỉ. Không thông tin về nghề nghiệp. Không số điện thoại. Không đề ngày tháng. Không có gì ngoài một khuôn mặt trong
đám đông.
Nhưng cũng có một vài manh mối. Anh đã nhiều lần nghiên cứu kỹ các chi tiết trên bức ảnh, và anh bắt đầu bằng những gì mình biết. Bức ảnh được chụp ở Hampton. Nom cô gái trong ảnh khoảng chừng hai mươi hai mốt tuổi. Cô rất cuốn hút. Cô có một con chó béc giê, hoặc là quen chủ của nó. Tên cô bắt đầu bằng chữ E. Emma, Elaine, Elise, Eileen, Ellen, Emily, Erin, Erica... đó là những cái tên phổ biến nhất, mặc dù anh biết ở miền Nam còn có những cái tên như là Erdine hay Elspe. Cô gái đã đến một hội chợ với một người sau này sang Iraq. Cô ấy đưa cho người này bức ảnh, và Thibault tìm thấy nó vào tháng Hai năm 2003, có nghĩa là bức ảnh phải được chụp từ trước đấy nữa. Như vậy thì giờ người phụ nữ này phải gần ba mươi rồi. Đằng xa xa có một hàng ba cây thường xanh. Đó là tất cả những gì anh biết. Dữ kiện anh có.
Rồi anh xây dựng các giả thiết, bắt đầu là với Hampton. Hampton là địa danh khá phổ biến. Chỉ cần gõ từ khóa lên mạng là sẽ cho ra rất nhiều kết quả. Các hạt và thị trấn: Nam Carolina, Virginia, New Hampshire, Iowa,
Nebraska, Georgia. Còn những nơi khác nữa. Rất nhiều. Và tất nhiên, còn một Hampton là hạt Hampton ở Bắc Carolina.
Mặc dù không có cột mốc nào rõ ràng trong khung cảnh phía sau người phụ nữ trong ảnh - chẳng hạn hình ảnh Monticello cho biết đang ở bang Virginia, hay một tấm biển CHÀO MỪNG TỚI IOWA! - nhưng cũng có đươc chút thông tin. Không phải từ người phụ nữ, mà là từ mấy thanh niên
phía sau đang đứng xếp hàng mua vé. Hai người trong số họ mặc áo có in logo. Một cái in hình Homer Simpson, chả có ý nghĩa gì. Cái kia có từ “DAVIDSON” ngang ngực áo, lúc đầu tưởng cũng chẳng có ý nghĩa gì, kể cả khi Thibault suy ngẫm về nó. Thoạt tiên anh cứ nghĩ rằng đây là từ viết t của Harley Davidson, tên một loại mô tô. Nhưng một thao tác trên Google đã làm vấn đề sáng tỏ. Anh biết được Davidson cũng là tên của một trường đại học danh tiếng gần Charlotte, Bắc Carolina. Chọn lọc và đầy thử thách, trọng tâm là liberal arts[3]. Lướt qua cẩm nang của trường này, anh tìm thấy mẫu áo y hệt như vậy.
[3]. Liberal Arts: chương trình đại học truyền đạt kiến thúc tổng hợp về toán, khoa học, ngôn ngữ, lịch sử, triết học; phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, tổng hợp kiến thức. Liberal Arts không đi sâu vào một ngành nghề nào mà chú trọng đào tạo phương pháp tư duy cho học sinh.
Tuy nhiên anh hiểu cái áo không thể đảm bảo rằng bức ảnh được chụp ở Bắc Carolina. Biết đâu ai đó học trường này đã cho anh chàng trong bức ảnh cái áo; biết đâu anh ta là học sinh ngoài bang, biết đâu anh ta chỉ thích màu sắc của chiếc áo, biết đâu anh ta đã tốt nghiệp và chuyển đến nơi khác. Nhưng ngoài chi tiết này ra thì chẳng còn manh mối nào nữa, thế là trước khi rời Colorado, Thibault đã gọi điện đến Phòng Thương mại Hampton và được họ xác nhận rằng hạt có tổ chức hội chợ thường niên vào mùa hè. Thêm một tín hiệu tốt. Anh đã có một đích đến, nhưng vẫn chưa chắc là đúng. Anh chỉ giả định rằng đó là nơi mình đang tìm mà thôi. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó không thể giải thích nổi, anh cảm chấy chính là nó.
Còn vài giả định khác nữa, nhưng anh sẽ trở lại với chúng sau. Việc đầu
tiên phải làm là tìm đến nơi hội chợ đó đã diễn ra. Hy vọng rằng hội chợ của hạt này được tổ chức ở một địa điểm cố định; anh mong người nào có thể chỉ đường cho anh thì cũng có thể giải đáp luôn khúc mắc. Nơi tốt nhất để tìm một người như vậy là trong các cửa hàng quanh đây. Không phải cửa hàng quà lưu niệm hay cửa hàng đồ cổ - những chỗ đó thường là của những người mới dọn đến, những người từ miền Bắc đi tìm một cuộc sống yên tĩnh với khí hậu ấm áp hơn. Thay vào đó, theo anh, khả dĩ nhất chỉ có thể là một nơi như cửa hàng đồ ngũ kim địa phương, một quán bar, hoặc một văn phòng nhà đất. Anh cho rằng mình sẽ nhận ra chỗ đó khi nhìn thấy nó.
Thibault muốn biết chính xác địa điểm nơi bức ảnh được chụp. Không phải là để hình dung rõ hơn người phụ nữ đó là ai. Nơi diễn ra hội chợ có lẽ cũng chẳng giúp gì
Anh muốn biết có phải ở chỗ đó có ba cái cây thường xanh cao vút mọc sát nhau hay không, loài cây lá kim này có thể mọc hầu như ở bất cứ đâu.
3
fe
Beth
Beth đặt lon Diet Coke của cô xuống bên cạnh, hài lòng vì thấy Ben đang rất vui vẻ trong bữa tiệc sinh nhật của Zach, bạn nó. Cô đang ước thầm giá như thằng bé không phải tới chỗ của bố nó thì Melody đến ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.
“Ý tưởng hay chứ hả? Súng nước vui ra trò.” Melody mỉm cười, để lộ hàm răng được tẩy hơi quá trắng trong khi da thì lại quá sậm, như thể cô vừa mới đi nhuộm da về vậy. Mà chắc thế thật. Từ hồi còn học cấp ba Melody đã rất tự đắc với ngoại hình của mình, và dạo gần đây có vẻ như nó đã trở thành nỗi ám ảnh của cô.
“Hy vọng bọn trẻ sẽ không chĩa mấy khẩu Super Soaker đó vào mình.”
“Khôn hồn thì đừng có làm vậy,” Melody cau mày. “Mình đã bảo Zach nếu nó làm thế thì mình sẽ giải tán hết.” Cô ngả ra sau cho thoải mái hơn. “Hè này cậu biến đi đâu vậy? Chả thấy cậu đâu cả, mình gọi điện cũng không
trả lời.”
“Mình biết. Xin lỗi. Hè này mình tu ấy mà. Đang cố hết sức bắt kịp bà và trại chó, và cả việc huấn luyện chúng nữa. Mình không hiểu làm thế nàoà bà có thể xoay xở được suốt một thời gian dài như thế.”
“Dạo này bà Nana ổn chứ?”
Bà Nana là bà của Beth. Bà nuôi dạy Beth từ khi cô mới lên ba, sau khi bố mẹ cô mất vì tai nạn ô tô. Cô gật đầu. “Ừ, bà đang hồi phục dần, nhưng cơn đột quỵ làm cho bà mất sức nhiều. Nửa thân trái của bà thật sự là vẫn còn yếu lắm. Bà có thể tự lo liệu một phần việc huấn luyện, nhưng điều hành trại chó và huấn luyện lũ chó thì vẫn là quá sức. Cậu cũng biết thừa là bà phải rất cố gắng rồi đấy. Lúc nào mình cũng lo bà đang làm quá sức thôi.”
“Mình thấy tuần này bà còn quay lại đội hợp xướng nữa cơ.”
Bà Nana đã tham gia đội hợp xướng của nhà thờ First Baptist suốt hơn ba mươi năm, và Beth hiểu rằng đó là một trong những niềm đam mê của bà.
“Tuần trước là buổi tập lại đầu tiên của bà, nhưng mình không chắc bà có hát gì nhiều không. Lúc về bà ngủ liền hai tiếng luôn.”
Melody gật đầu. “Vào đầu năm học thì sao?”
“Mình cũng không biết nữa.”
“Cậu vẫn sẽ đi dạy chứ?”
“Hy vọng là vậy.”
“Hy vọng? Cậu sẽ không dự các buổi họp giáo viên tuần tới à?”
Beth thậm chí còn không muốn nghĩ đến vụ đó chứ nói gì tới việc trò chuyện về nó, nhưng cô biết Melody có ý tốt. “Ừ, nhưng thế không có nghĩa là mình sẽ đi dạy. Mình biết mình sẽ làm khó cho trường, nhưng cũng không thể để bà ở nhà một mình cả ngày được. Kiểu gì thì cũng chưa thể được. Vả lại, ai sẽ giúp bà điều hành trại chó? Bà mình không thể dạy mấy con chó cả ngày được.
“Cậu không thuê người giúp được à?” Melody gợi ý.
“Mình cũng đang cố đây. Mình kể cậu nghe chuyện đầu mùa hè này chưa
nhỉ? Mình đã thuê được một gã, gã đến được hai lần rồi chuồn mất ngay vào dịp nghỉ cuối tuần. Gã thứ hai cũng vậy. Sau đó chẳng ai thèm đến nữa. Thành ra tấm biển “Tuyển người” được treo mãi trên cửa sổ nhà mình thế đó.”
“David luôn phàn nàn về tình trạng thiếu người giỏi.”
“Cứ bảo cậu ấy trả họ mức lương tối thiểu đi rồi hẵng phàn nàn. Thậm chí cả bọn học sinh cấp ba còn chẳng muốn cọ rửa cũi nữa là. Chúng nói công việc đó gớm ghiếc.”
“Lại bèo bọt nữa.”
Beth bật cười, “Ừ, đúng đấy,” cô thừa nhận. “Nhưng mình không còn thời gian nữa. Mình không nghĩ là có thể thay đổi được gì trước tuần tới, và nếu vậy thì mọi chuyện sẽ tệ hơn nữa. Mình thực sự thích huấn luyện chó. Chúng dễ bảo gấp đôi lũ học trò ấy.”
“Giống thằng con mình?”
“Con cậu rất dễ bảo. Tin mình đi.”
Melody quay về phía Ben. “Cu cậu cao hơn so với lần trước mình gặp đấy.”
“Gần ba xăng ti mét,” Beth nói, thầm nghĩ Melody thật đáng yêu vì đã nhận ra điều đó. Ben luôn bé hơn so với tuổi, lúc nào cũng đứng ở hàng đầu, ngoài cùng bên trái trong ảnh chụp cả lớp, thấp hơn nửa cái đầu so với đứa bé ngồi cạnh. Zach, con trai của Melody, thì hoàn toàn đối lập: ngoài cùng bên phải, hàng cuối, luôn là đứa cao nhất lớp.
“Mình nghe nói học kỳ này Ben không chơi bóng đá nữa,” Melody nói.>“Nó muốn thử cái gì đó khác.”
“Như cái gì?”
“Nó muốn học chơi violin. Nó sẽ theo học lớp của bà Hastings.” “Bà ấy vẫn dạy cơ á? Ít nhất bà cũng phải chín mươi rồi còn gì.”
“Nhưng bà ấy thừa kiên nhẫn để dạy người mới bắt đầu. Hoặc ít nhất thì bà nói với mình như vậy. Và Ben rất thích bà ấy. Đó là điều quan trọng nhất.”
“Tốt quá,” Melody nói. “Mình cá là cu cậu sẽ chơi rất giỏi. Còn Zach chắc
là rất dở.”
“Chúng sẽ không cùng một đội. Zach sẽ chơi cho đội năng khiếu, đúng không?”
“Nếu nó cố gắng.”
“Nó sẽ làm được thôi.”
Mà đúng thế thật. Zach là đứa trẻ bẩm sinh đã tự tin và thích cạnh tranh, trưởng thành sớm, luôn nổi trội hơn những đứa ít năng khiếu hơn trên sân. Như Ben chẳng hạn. Thậm chí ngay cả lúc này, khi Ben đang chạy vòng quanh sân với khẩu Super Soaker thì cu cậu cũng không đọ được với Zach. Tốt tính và dễ thương, nhưng Ben lại không phải là một vận động viên giỏi, điều này không ngừng làm chồng cũ của cô tức điên. Năm ngoái, anh ta đã đứng tại đường biên sân bóng với vẻ mặt cau có như khỉ, đây cũng là một lý do khác khiến Ben không thích chơi bóng.
“David có tham gia huấn luyện nữa không?”
David là chồng của Melody và là một trong hai bác sĩ nhi của thị trấn. “Anh ấy vẫn chưa quyết định. Từ ngày Hoskins nghỉ, anh ấy phải trực nhiều hơn. Anh ấy rất ghét trực, nhưng làm sao được? Họ vẫn đang cố
gắng tìm thêm bác sĩ khác, nhưng rất khó. Chẳng phải ai cũng muốn làm việc ở một thị trấn nhỏ, nhất là khi bệnh viện gần nhất ở Wilmington cách tận bốn lăm phút đi xe. Chuyện đó khiến ngày làm việc dài hơn. Gần như ngày nào cũng tám giờ tối anh ấy mới về nhà. Thậm chí đôi khi còn muộn hơn nữa.” Beth nhận thấy vẻ lo lắng trong giọng nói của Melody, và cô đoán bạn mình đang nghĩ về chuyện vụng trộm của David mà anh chàng đã thú nhận là kéo dài tới tận mùa đông năm ngoái. Beth hiểu lúc này mình nên im lặng thì hơn. Ngay từ lần đầu nghe mọi người đồn thổi, cô đã quyết định họ sẽ chỉ nói đến chuyện đó một khi Melody muốn nghe. Còn không? Tốt thôi. Đó không phải là việc của cô.
“Còn cậu thì sao? Cậu có đang hẹn hò với ai không thế?” Beth nhăn mặt. “Không. Chẳng ai cả từ sau vụ Adam.”
“Có chuyện quái gì với Adam vậy?”
“Mình không biết.”
Melody lắc đầu. “Mình không thể nói rằng mình ghen với cậu. Mình chưa bao giờ thích hẹn hò cả.”
“Ừ, nhưng ít nhất thì cậu giỏi vụ đó. Mình thì thật kinh khủng.”
“Cậu đang thổi phồng lên đấy thôi.”
“Không hề. Nhưng đó không phải là vấn đề lớn. Cái chính là mình không chắc mình còn đủ năng lượng cho chuyện đó nữa không. Mặc quần lọt khe, cạo lông chân, à ơi tán tỉnh, giả vờ vui vẻ với các bạn của gã. Có vẻ như tất cả những trò đó cần quá nhiều sức lực.”
Melody nhăn mũi. “Cậu không cạo lông chân ư?”
“Tất nhiên là mình có chứ,” cô nói, rồi hạ thấp giọng, “Ờ thì cũng khá thường xuyên mà.” Cô ngồi thẳng lưng lên. “Nhưng cậu biết rồi đấy. Hẹn hò là một việc khó khăn. Đặc biệt là đối với những người cỡ tuổi mình.”
“Ôi thôi đi. Cậu còn chưa đến ba mươi mà, và cậu vẫn có thể làm cánh đàn ông chết mê chết mệt ấy chứ.”
Beth đã nghe nói như thế nhiều quá rồi, và cô cũng không thể lờ đi cái thực tế là đám đàn ông - kể cả đã có gia đình - vẫn thường dài cổ ngoái theo cô mỗi khi cô đi ngang qua. Trong ba năm đầu dạy học, chỉ có duy nhất một ông bố một mình đến trao đổi việc học tập của con cái với cô. Những trường hợp khác đều là các bà mẹ. Cô nhớ là cách đây vài năm đã thổ lộ điều băn khoăn đó với bà, và bà bảo, “Họ không muốn để cháu một mình với chồng họ đâu, vì cháu xinh xắn như quả bí ngô ngày lễ hội vậy.” Bà
lúc nào cũng có kiểu nói chẳng giống ai về mọi thứ thế đấy.
“Cậu quên mất ta đang sống ở đâu rồi,” Beth nói. “Ở đây không có nhiều đàn ông độc thân cỡ tuổi mình. Với cả nếu ngần này tuổi mà còn độc thân thì chắc chắn là có vấn đề.”
“Không đúng.”
“Có thể ở thành phố thì có. Nhưng còn quanh đây thì sao? Trong thị trấn này? Tin mình đi. Mình sống ở đây từ lúc còn quấn tã đến giờ, ngay cả khi học đại học, mình cũng đi tàu điện từ nhà đến trường. Trong vài lần hiếm hoi có người hẹn hò với mình thì bọn mình đi chơi hai ba lần gì đó, và rồi họ chẳng gọi điện nữa. Đừng hỏi mình vì sao.” Cô phẩy tay vẻ bất cần. “Nhưng chả vấn đề gì. Mình đã có Ben và bà chứ đâu phải chỉ lọ mọ một mình với hàng tá mèo vây quanh đâu hả.”
“Ừ. Cậu chỉ có cả đàn chó thôi.”
“Không phải chó của mình. Là chó của người khác. Có sự khác nhau đấy.” “Ừ phải rồi,” Melody phá lên cười. “Khác nhau lớn đấy.”
Ở bên kia sân, Ben đang lăm lăm khẩu súng nước đuổi theo lũ trẻ thì bất ngờ trượt ngã. Kính của nó rơi vào đám cỏ. Beth biết là mình không nên lại xem con trai thế nào: lần gần đây nhất khi cô cố gắng giúp Ben, thằng bé đã ngượng ra mặt. Nó lần mò xung quanh cho tới khi tìm được cặp kính, đứng lên và lại chạy tiếp.
“Chúng lớn nhanh quá nhỉ?” Melody cắt ngang dòng suy nghĩ của Beth. “Mình biết là câu đó nhàm quá rồi, nhưng thực sự là thế. Mình nhớ mẹ mình đã nói chúng sẽ lớn nhanh như thổi, lúc ấy mình còn nghĩ là bà chẳng biết bà đang nói gì. Mình sốt ruột mong Zach lớn nhanh hơn chút nữa. Tất nhiên, lúc đó nó hay bị đau bụng, và đêm nào mình cũng chỉ được ngủ được hai ba tiếng, ròng rã hơn một tháng trời. Thế mà bây giờ chúng sắp vào cấp hai đến nơi rồi.”
“Chưa. Còn một năm nữa cơ.”
“Mình biết. Nhưng nó vẫn khiến mình lo lắng.”
“Vì sao?”
“Cậu biết đấy... đây là lứa tuổi bất trị mà. Bọn trẻ đang trong thời kỳ bắt đầu nhận biết thế giới của người lớn, mà lại chưa đủ trưởng thành như người lớn để xử lý được mọi việc xảy ra xung quanh. Rồi lại còn bao nhiêu cám dỗ, và chúng không còn nghe lời cậu như ngày nào nữa, tâm tính thì bất ổn, rồi mình sẽ là người đầu tiên thú nhận rằng mình không trông
chờ điều đó xảy đến đâu. Cậu là giáo viên. Cậu hiểu mà.” “Đó là lý do vì sao mình dạy lớp Hai.”
“Một lựa chọn đúng đắn.” Giọng Melody chùng xuống. “Cậu đã nghe nói về Elliot Spencer chưa?”
“Mình chẳng nghe được gì nhiều. Mình đang làm nữ tu mà, cậu quên à?” “Nó bị bắt vì bán ma túy.”
“Nó chỉ hơn Ben vài tuổi mà!”
“Và vẫn còn đang học cấp hai.”
“Giờ thì cậu bắt đầu làm mình lo
Melody đảo mắt. “Đừng lo. Nếu con mình mà giống Ben thì mình chả có lý do gì để mà lo cả. Ben có tâm hồn già dặn. Thằng bé lúc nào cũng lịch sự, lúc nào cũng tốt bụng, lúc nào cũng là đứa đầu tiên giúp những đứa bé hơn.
Nó là đứa biết cảm thông. Nhưng thằng Zach nhà mình thì ngược lại.” “Zach cũng rất ngoan còn gì.”
“Mình biết. Nhưng lúc nào nó cũng khó bảo hơn Ben nhiều. Và nó hay đua đòi hơn Ben nữa.”
“Nãy giờ cậu có nhìn chúng chơi không? Mình ngồi đây thì thấy Ben toàn chạy theo đuôi những đứa khác thôi.”
“Cậu hiểu là mình muốn nói gì mà.”
Đúng là Beth hiểu. Ngay từ khi còn bé, Ben đã bằng lòng với con đường riêng của nó. Điều đó thật tốt, cô đã phải thừa nhận như vậy, vì con đường mà thằng bé chọn tương đối ổn. Mặc dù không có nhiều bạn nhưng nó lại có nhiều mối quan tâm để tự mình theo đuổi. Cũng toàn những thú vui lành mạnh. Nó hầu như không thích chơi điện tử hay lướt Web, ti vi thì thi thoảng mới xem và thường xem chừng ba mươi phút là tắt. Thay vào đó, nó đọc sách hoặc chơi cờ vua (một trò chơi mà dường như ở một mức độ nào đó, cu cậu tự mày mò tìm hiểu bằng trực giác) trên bảng trò chơi điện tử được tặng nhân dịp Giáng sinh. Nó rất thích đọc và viết. Nó còn thích cả bầy chó trong trại, nhưng lũ chó thường tỏ vẻ bồn chồn do bị nhốt lâu và thường tảng lờ cu cậu đi. Ben dành nhiều buổi chiều để chơi ném bóng tennis với lũ chó, và hầu hét số bóng đó chẳng bao giờ được tha về.
“Tất cả sẽ ổn thôi.”
“Mong là vậy.” Melody đặt cốc của mình sang một bên. “Chắc mình nên đi lấy bánh thôi nhỉ? Zach có buổi tập lúc năm giờ.”
“Trời nóng đấy.”
Melody đứng lên. “Mình chắc là nó sẽ muốn mang theo khẩu súng bắn nước. Có khi lại bắn cả nước vào huấn luyện viên cũng nên.”
“Cậu có muốn mình giúp gì không?”
“Không, cảm ơn cậu. Cứ ngồi đây thư giãn đi. Mình sẽ quay lại ngay.”
Beth nhìn Melody đi khuất mà chợt nhận ra bạn mình đã gầy đi quá nhiều. Phải sút đến năm, bảy ký lô so với lần gặp trước. Hẳn là do bị căng thẳng, cô nghĩ. Chuyện của David đã vắt kiệt sức lực của Melody, nhưng không giống Beth trong hoàn cảnh tương tự, Melody đã quyết tâm cứu vãn cuộc hôn nhân của mình. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, hai cuộc hôn nhân của hai cô quá khác nhau. David đã phạm sai lầm lớn, và điều đó làm Melody đau đớn, nhưng bất chấp tất cả, bề ngoài họ luôn tỏ ra là một đôi hạnh phúc. Ngược lại, cuộc hôn nhân của Beth thất bại ngay từ khi mới bắt đầu.
Đúng như bà đã đoán trước. Bà có khả năng đánh giá con người qua cái nhìn đầu tiên, và bà có cái kiểu nhún vai rất đặc trưng khi không thích ai đó. Khi Beth thông báo cô đã mang bầu và thay vì vào đại học thì cô cùng bạn trai cũ quyết định sẽ cưới nhau, bà bắt đầu nhún vai nhiều đến nỗi giống như kiểu bị co giật thần kinh vậy. Tất nhiên khi đó Beth đã lờ đi và cho là bà không cho anh ấy một cơ hội. Bà đâu biết rõ anh ấy. Bọn cháu sẽ hạnh phúc. Ấy nhưng tuyệt nhiên không. Viễn cảnh đó không bao giờ xảy ra. Bà luôn tỏ ra lịch sự nhã nhặn khi gặp anh ta đến nhà, nhưng những cái nhún vai vẫn không ngừng mãi đến khi Beth lại quay về nhà bà ở cách đây mười năm. Cuộc hôn nhân kéo dài chưa đầy chín tháng; Ben được năm tuần tuổi. Bà đã hoàn toàn đúng về con người anh ta.
Melody biến mất vào trong nhà rồi xuất hiện trở lại sau đó mấy phút, theo sau là David. Anh đang cầm dao nĩa đĩa giấy, rõ là đang bân rộn. Cô có thể thấy những mảng tóc hoa râm gần vành tai anh, và những nếp nhăn sâu nơi vầng trán. Lần gặp trước, những nếp nhăn ấy còn chưa rõ, và cô đoán đó là một dấu hiệu khác của đợt căng thẳng mà David trải qua.
Đôi khi, Beth tự hỏi cuộc sống của mình sẽ thế nào nếu mình lập gia đình. Không phải với người chồng cũ, dĩ nhiên. Nghĩ tới thôi cô cũng rùng cả mình. Ơn Chúa, phải chịu đựng anh ta mỗi cuối tuần đã là quá đủ rồi. Nhưng với ai đó khác thì sao. Ai đó... tốt hơn. Dù sao thì có vẻ như đó cũng là ý kiến hay, ít nhất cũng là trên lý thuyết. Sau mười năm, cô đã quen với cuộc sống của mình, và cho dù có thể sẽ rất tuyệt nếu như có ai đó để thi thoảng xoa bóp lưng hay chia sẻ với cô những buổhảnh thơi sau cả ngày bận rộn nhưng cô vẫn thấy hay hay vui vui khi được vận bộ pyjama đi loanh quanh cả ngày thứ Bảy nếu muốn. Đôi khi cô vẫn làm vậy đấy. Cả Ben nữa. Họ gọi đó là “ngày lười biếng”. Những ngày tuyệt vời nhất. Đôi khi hai mẹ con chẳng thiết làm gì ngoài việc gọi pizza và xem phim. Tuyệt cú mèo!
Vả chăng, nếu yêu đương hẹn hò đã khó khăn thì hôn nhân còn khó khăn hơn nữa. Melody và David không phải cặp đôi duy nhất phải vật lộn với nó; dường như hầu hết các cặp vợ chồng đều gặp khó khăn. Một kết cục
không thể tránh khỏi. Bà thường nói thế nào nhỉ? Dính hai con người khác nhau với những kỳ vọng khác nhau dưới một mái nhà không phải lúc nào cũng như lăn tôm với bột trong lễ Phục sinh.
Chính xác. Dù rằng cô không chắc bà lấy những phép ẩn dụ đó từ đâu nữa.
Liếc nhìn đồng hồ, cô biết bữa tiệc sắp kết thúc, cô phải quay về nhà xem bà thế nào. Chắc chắn cô sẽ tìm thấy bà trong trại chó, đang ngồi sau bàn làm việc hoặc đi kiểm tra lũ chó cho mà xem. Bà vẫn bướng bỉnh như vậy. Chân trái của bà hầu như không thể đứng được nữa cũng đâu hề hấn gì nhỉ? Chân bà tuy không khỏe khoắn nhưng cũng đâu phải sáp ong chứ. Ngộ nhỡ bà ngã và bị thương thì sao? Bà có phải là cái bình sứ mỏng manh đâu hả. Tay trái của bà đâu còn cử động dễ dàng được nữa? Miễn là bà múc được xúp vào mồm, còn đâu chẳng cần.
Bà quả thực là độc nhất vô nhị trên thế gian này, xin Chúa phù hộ bà, như từ trước đến giờ vẫn thế.
“Mẹ ơi!”
Mải suy nghĩ, cô không nhìn thấy Ben đang đến gần. Khuôn mặt lấm tấm tàn nhang của cu cậu nhễ nhại mồ hôi. Nước nhỏ tong tong từ bộ đồ của nó, áo thì lấm lem vết cỏ ố mà cô không chắc liệu có giặt sạch được không.
“Sao vậy con?”
“Mẹ cho con ở nhà Zach tối nay mẹ nhé?”
“Mẹ tưởng bạn ấy có buổi tập bóng.
“Sau buổi tập cơ ạ. Nhiều bạn khác cũng ngủ lại nhà nó. Nó được mẹ tặng một bộ Guitar Hero làm quà sinh nhật.”
Nhưng cô biết lý do thật sự khiến thằng bé muốn ngủ lại nhà bạn. “Tối nay thì không được. Bố sẽ đến đón lúc năm giờ.”
“Mẹ có thể gọi xin bố được không ạ?”
“Mẹ sẽ cố. Nhưng con biết đấy...”
Ben gật đầu, và như thường lệ, mỗi khi việc này diễn ra, Beth lại thấy nhói đau trong tim. “Vâng, con biết.”
Nắng chiếu qua cửa kính ô tô nóng như thiêu đốt, và cô ước gì mình đã đi sửa điều hòa xe. Cô kéo cửa kính thấp xuống, gió thổi tóc quất vào mặt ran rát. Cô lại tự nhủ mình cần phải đi cắt tóc. Cô tưởng tượng ra cảnh sẽ nói với anh thợ cắt tóc, Cứ tỉa hết đi, Terri. Cắt sao cho tôi giống con trai ấy! Nhưng cô biết đến lúc ấy rồi thì mình vẫn phải bảo anh ta tỉa cho một cái đầu bình thường mà thôi. Trong một vài chuyện, cô rất là nhát.
“Nom các con chơi rất vui.”
“Vâng.”
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Mẹ, con mệt lắm.”
Beth chỉ vào quầy Dairy Queen ở đằng xa. “Con có muốn ra đó mua kem không?”
“Kem không tốt cho con ạ.”
“Nào, mẹ của con. Chắc mẹ mới là người phải nói câu đó chứ nhỉ. Mẹ chỉ nghĩ rằng nếu con thấy nóng thì chắc con sẽ thích ăn kem thôi.”
“Con không đói. Con vừa ăn bánh.”
“Được rồi. Tùy con. Nhưng về đến nhà thì đừng có trách mẹ nếu lúc đấy mới nhận ra mình đã bỏ lỡ một cơ hội nhé.”
“Vâng,” Ben quay mặt ra phía cửa sổ.
“Này, nhà vô địch. Con ổn chứ?”
Giọng thằng bé gần như bị gió thổi bạt đi. “Tại sao con phải đến chỗ bố? Ở đó chẳng có gì vui hết. Bố bắt con phải đi ngủ lúc chín giờ, cứ như là con vẫn học lớp Hai hay gì đó. Con thì thậm chí còn chẳng thấy mệt nữa là. Còn ngày mai, bố sẽ bắt con phải làm việc nhà cả ngày cho xem.”
“Mẹ tưởng bố sẽ đưa con tới nhà ông nội ăn trưa sau khi đi nhà thờ chứ.”
“Con vẫn không muốn đi.”
Mẹ cũng không muốn con đi, Beth nghĩ. Nhưng cô có thể làm gì được chứ?
“Sao con không mang một quyển sách đi đọc nhỉ?” cô gợi ý. “Con có thể đọc truyện ở phòng con tối nay, rồi nếu ngày mai con thấy chán, con lại đọc tiếp ở đó.”
“Lúc nào mẹ cũng nói vậy.”
Bởi vì mẹ chẳng biết nói gì với con nữa, cô nghĩ. “Hay con muốn đi hiệu sách không?” “Không,” thằng bé đáp. Nhưng Beth hiểu nó không có ý như thế.
“Dù sao thì con cũng đi cùng mẹ chứ. Mẹ muốn mua sách.” “Dạ.”
“Mẹ rất tiếc vì chuyện này, con biết mà.”
“Vâng, con hiểu.”
Đi hiệu sách có làm Ben phấn chấn hơn một chút. Mặc dù cuối cùng thì nó cũng chọn hai cuốn truyện trinh thám Hardy Boys nhưng Beth nhận ra dáng đi lừ đừ của thằng bé khi họ xếp hàng đợi tính tiền. Trên đường trở về. Ben vờ mở một cuốn ra đọc. Beth biết thằng bé làm vậy để cô khỏi hỏi han hay miễn cưỡng pha trò hòng làm nó thấy thoải mái hơn trước viễn cảnh phải ngủ ở nhà bố. Mười tuổi, Ben đã tỏ ra rất giỏi trong việc phán đoán hành vi của mẹ.
Beth ghét cái thực tế là thằng bé không thích đến chỗ bố. Cô nhìn Ben đi vào trong nhà, biết nó đang lên phòng lấy đồ đạc. Thay vì đi theo, cô ngồi lại bậc cửa và lần thứ một nghìn lẻ một, cô ước rằng mình có một cái xích đu. Trời vẫn nóng phát rồ, và qua những tiếng gầm gừ vọng lại từ chó sau vườn, có thể thấy rõ là lũ chó cũng đang phải chịu đựng cái nóng này. Cô căng tai nghe ngóng tiếng bà trong nhà. Nếu bà ở trong bếp khi Ben đi qua thì chắc chắn cô đã nghe thấy tiếng bà rồi. Bà đúng là một đài phát thanh di động. Không phải vì cơn đột quỵ ngày trước, mà đó là một phần cá tính của bà. Bảy mươi sáu tuổi mà cứ như muời sáu mười bảy, bà cười to, khua muỗng ầm ĩ trong chảo khi nấu nướng, mê bóng chuyền, vặn đài đến váng óc mỗi khi kênh NPR phát nhạc Big Band[1]. “Thứ âm nhạc như vậy không tự dưng mà mọc lên như nấm, đúng không.” Ngày nào bà cũng chân xỏ ủng cao su, mình khoác áo che bụi, đầu đội chiếc mũ rơm quá khổ, đi qua khu vườn sang bên trại chó, huấn luyện lũ chó theo chủ, đi đứng, dừng lại theo mệnh lệnh, mãi đến khi bị đột quỵ bà mới chịu nghỉ ngơi.
[1]. Big Band là một kiểu nhạc đồng diễn kết hợp với nhạc Jazz, loại nhạc thịnh hành từ những năm 1930 đến cuối những năm 1950, sau thời đại nhạc
Swing.
Nhiều năm về trước, cùng với chồng, bà đã dạy lũ chó làm gần như tất cả mọi thứ. Họ cùng nhau nuôi dưỡng và huấn luyện chó săn, chó giúp việc cho người mù, chó dò tìm ma túy cho cảnh sát, chó giữ nhà. Giờ ông đã mất, bà chỉ thỉnh thoảng mới làm những việc đó. Không phải vì bà không biết cách huấn luyện; bà thường đảm nhiệm phần lớn công việc huấn luyện là đằng khác. Nhưng huấn luyện một con chó giữ nhà thì phải mất đến mười bốn tháng, mà bà thì có thể yêu quý con vật ngay từ khi mới nhìn thấy chúng, thành thử mỗi khi phải trả nó lại cho chủ sau một thời gian dài gắn bó như vậy trái tim bà luôn luôn nhói đau. Giờ đây, chẳng còn ông bên cạnh bà để an ủi, “Ta đã bán nó rồi, ta không có quyền lựa chọn bà ạ”, bà thấy dễ dàng hơn khi quyết định từ bỏ phần việc này.
Thay vào đó, bà mở trường huấn luyện chó biết nghe lời. Mọi người sẽ gửi chó đến đây một vài tuần - trại lính cún, bà gọi như vậy - và bà sẽ dạy chúng thực hiện các mệnh lệnh ngồi, nằm, đứng im, đi, theo chủ. Đó là những lệnh đơn giản mà hầu như chú chó nào cũng có thể hiểu rất nhanh. Thường cứ hai tuần là có khoảng mười lăm đến hai nhăm con “tốt nghiệp”, và mỗi con cần độ hai mươi phút huấn luyện mỗi ngày. Nếu kéo dài thời gian huấn luyện hơn chút nữa thì lũ chó sẽ mất hứng thú ngay. Dạy khoảng mười lăm con thì không sao, nhưng lên đến hai lăm con thì sẽ rất mệt, đã thế con nào cũng cần được dắt đi dạo hằng ngày. Đấy là còn chưa kể đến việc cho ăn, dọn chuồng, gọi điện trao đổi với khách hàng và những công việc giấy tờ khác. Gần như suốt cả mùa hè, Beth đã phải làm việc mười hai, mười ba tiếng một ngày.
Họ luôn luôn bận rộn. Huấn luyện một con chó không có gì khó khăn - từ khi mười hai tuổi, Beth đã giúp đỡ bà những lúc có thể - rồi còn hàng tá
sách về chủ đề này nữa. Ngoài ra, bệnh viện thú y cũng có các buổi dạy dành cho chó và chủ của chúng vào mỗi sáng thứ Bảy với học phí không đáng kể. Beth biết hầu như ai cũng có thể dành ra hai mươi phút mỗi ngày trong vài tuần để huấn luyện chó của họ. Nhưng họ lại không làm thế. Thay vào đó, họ cất công lặn lội từ những nơi rất xa như Florida hay Tennessee để nhờ người khác huấn luyện chúng. Cứ cho là bà Nana nổi tiếng là người huấn luyện chó tốt đi, nhưng thực tế là bà chỉ dạy chúng tuân lệnh ngồi, đi theo chủ và đứng im. Chẳng phải là môn khoa học cao siêu gì cho cam. Ấy thế mà người ta lại vô cùng biết ơn. Và trăm lần như một, họ luôn luôn tỏ ra sửng sốt.
Beth xem đồng hồ. Keith - chồng cũ của cô - sắp tới đây. Mặc dù cô có một số vấn đề với người đàn ông này - Chúa chứng giám, những vấn đề rất nghiêm trọng - nhưng anh ta được chung quyền chăm sóc con, đơn giản như vậy, và cô đã cố hết sức để chấp nhận điều đó. Beth hay an ủi mình rằng việc ở cùng bố rất quan trọng đối với Ben. Con trai cần dành thời gian bên bố của chúng, đặc biệt là giai đoạn thanh thiếu niên, và Beth thừa nhận rằng Keith không phải người xấu. Chưa chín chắn, nhưng không xấu. Đôi khi Keith cũng làm vài ly bia, nhưng không nghiện bia rượu; anh ta không hút chích; và cũng chưa từng lạm dụng cả ba thứ đó. Chủ nhật nào Keith cũng đến nhà thờ, anh ta có công việc ổn định và luôn gửi tiền nuôi con đúng hạn. Hay, đúng hơn là, gia đình anh ta luôn gửi tiền đúng hạn. Họ gửi tiền vì ý thức trách nhiệm, một trong nhiều điều mà gia đình đó đã củng cố qua hàng bao nhiêu năm nay. Và trong phần lớn những dịp cuối tuần dành cho cậu con trai, Keith luôn tránh đưa các cô bạn gái mà anh ta thay như thay áo về nhà mình. Từ khóa ở đây là: “phần lớn”. Gần đây anh ta có tiến bộ hơn, nhưng cô khá chắc rằng điều này liên quan tới mối quan hệ hiện tại của anh ta với mấy cô bồ hơn là tới lời tái cam kết về nghĩa vụ làm cha. Lẽ ra cô cũng chẳng bận tâm lắm về việc này, nếu không phải vì tuổi tác mấy cô bồ gần đây của anh ta thường gần với Ben hơn là với bố nó, và thói thường thì đám đó có chỉ số IQ nông cạn như bát đựng salat vậy. Cô không hề ác ý; chính Ben cũng thấy thế. Vài tháng trước, Ben đã phải giúp một
trong số những cô bạn gái của bố nó nấu món mì ống pho mát Kraft thứ hai sau khi mẻ đầu tiên bị cháy. Những hướng dẫn trên hộp như “thêm sữa, bơ, sau đó trộn và khuấy” rõ ràng là quá khả năng của cô ta.
Tuy nhiên, đó không phải là điều làm Ben thấy phiền nhất. Mấy cô bạn gái đó cũng ổn - họ đối xử với Ben như với một cậu em trai hơn là con trai. Ben cũng chẳng hề buồn bực khi phải làm những việc lặt vặt trong nhà. Có thể nó phải quét vườn hay lau bếp và đổ rác, nhưng điều đó không có nghĩa là chồng cũ của cô coi con trai như thằng sai vặt. Làm việc nhà cũng tốt cho nó; ở với cô thằng bé cũng phải làm việc nhà vào cuối tuần thôi. Không, vấn đề là ở cái tính trẻ con của Keith, anh ta không ngừng tỏ ra thất vọng về Ben. Keith muốn một vận động viên thể thao, chứ không phải là một thằng con thích chơi violin. Anh ta muốn có người cùng đi săn bắn; nhưng thay vì thế lại có thằng con thích đọc sách. Anh ta muốn con trai mình biết chơi bóng rổ; nên anh ta khó chịu vì thằng con cận thị vụng về.
Keith không bao giờ nói những điều ấy với Ben hay Beth, mà anh ta cũng chẳng cần làm vậy. Tất cả thể hiện quá rõ ràng qua cái lối anh ta tỏ ra khinh bỉ mỗi khi nhìn Ben chơi bóng, cái kiểu anh ta từ chối ban một lời khen khi thằng bé chiến thắng trong vòng đấu cuối của giải cờ vua, và cái cách anh ta liên tục ép Ben phải là ai đó chứ không phải là chính nó. Những điều này khiến Beth vừa phát điên vừa đau lòng, nhưng với Ben thì còn tệ hơn thế nhiều. Bao năm qua, nó đã cố làm hài lòng bố, nhưng rồi thằng bé tội nghiệp cũng thấy kiệt sức. Ví dụ như học bắt bóng. Chẳng hại gì, đúng không? Lẽ ra Ben đã học được cách yêu thích môn thể thao này. Biết đâu nó còn cò thể tham gia giải đấu thiếu niên. Hiểu rõ ý của Keith khi anh ta gợi ý nó chơi môn này ban đầu Ben rất sốt sắng. Nhưng không lâu sau, thằng bé đâra chán ghét khi nghĩ tới giải đấu. Nếu nó bắt được ba quả liên tiếp, bố nó sẽ muốn nó bắt được bốn quả. Khi đã bắt được bốn quả, thì lại phải cố gắng năm quả. Thậm chí ngay cả khi nó làm được hơn
thế, bố nó lại muốn nó không trượt quả nào. Rồi thì vừa bắt vừa chạy tiến. Vừa bắt vừa chạy lùi. Trượt chân cũng bắt. Ngã chúi đầu xuống cũng bắt. Bắt những quả bóng bố nó cố ném ở mức khó nhất có thể. Và nếu nó để rớt một quả? Tận thế đến nơi! Bố thằng bé không phải kiểu người sẽ nói, “Cố
gắng tốt đấy, quán quân”, hay “Rất nỗ lực!”. Không, anh ta sẽ thét lên “Nào, thôi ngay cái trò vờ vịt đó đi!”
Ôi, Beth đã nói với anh ta về việc đó. Nói đến phát chán. Lời vào tai này thì lại ra tai kia. Vẫn như cũ. Bỏ qua sự chưa trưởng thành, mà có lẽ chính vì cái sự chưa trưởng thành ấy thì đúng hơn, Keith rất bướng bỉnh và bảo
thủ trong nhiều chuyện, và nuôi dạy Ben cũng là một trong số dó. Anh ta muốn có một đứa con trai theo kiểu của mình, và có Chúa chứng giám, anh ta đang nhào nặn nó. Và đúng như cô dự đoán, Ben chuyển sang phản ứng theo cái kiểu thụ động-gây hấn đặc trưng của mình. Nó bắt đầu để rớt mọi thứ Keith ném cho, thậm chí cả những quả lốp đơn giản nhất, đồng thời làm ngơ trước sự thất vọng ngày càng tăng của bố, cho đến khi anh ta giận dữ lột đôi găng ném xuống đất, lao vào trong nhà giận dỗi suốt khoảng thời gian còn lại của buổi chiều. Ben vờ như không thấy gì, ngồi một chỗ dưới gốc cây thông đọc sách cho đến khi mẹ đến đón vài giờ sau đó.
Beth và chồng cũ không chỉ cãi nhau về Ben; họ như lửa với băng vậy. Rõ ràng hơn thì Keith là lửa còn Beth là băng. Anh ta vẫn còn bám lấy cô, khiến cô cảm thấy khó chịu không dứt. Chả hiểu thế quái nào mà anh ta vẫn cho là cô hẵng còn muốn dính dáng tới anh ta; nhưng dù cô có nói thế nào đi nữa cũng không ngăn được anh ta cứ sán lại tán tỉnh. Cô hầu như không thể nhớ nổi tại sao hồi xa xưa kia cô lại thích anh ta. Cô có thể liệt kê ra những lý do mình kết hôn - cô còn trẻ và ngốc nghếch, đấy là lý do trước nhất, và lại bị dính bầu - nhưng bây giờ thì, bất cứ khi nào bị anh ta săm soi từ đầu tới chân, cô đều cảm thấy muốn co rúm lại. Anh ta không phải mẫu người của cô. Thành thật mà nói, Keith chưa bao giờ là mẫu người
của cô. Nếu cả cuộc đời cô là một cuốn băng video, thì hôn nhân chính là phần mà cô vui mừng được xóa đi nhất. Trừ việc có Ben, tất nhiên.
Beth ước gì có cậu em trai Drake ở đây, và cô lại thấy nhói đau khi nghĩ đến cậu. Mỗi khi Drake đến, Ben chạy theo cậu như kiểu lũ chó đi theo bà vậy. Hai cậu cháu cùng nhau lang thang bắt bướm hoặc dành hàng giờ chơi trong nhà cây mà ông ngoại đã xây. Để lên ngôi nhà đó chỉ có một đường duy nhất là đi qua cây cầu yếu ớt bắc ngang một trong hai con suối chảy qua khu đất thuộc sở hữu của gia đình. Không giống chồng cũ của cô, Drake yêu quý và chấp nhận Ben, và xét trên nhiều phương diện, cậu ấy có vẻ giống bố của Ben hơn là ông bố thật của thằng bé. Ben yêu mến Drake, và cô yêu mến Drake bởi cung cách cậu ấy lặng lẽ xây dựng lòng tin nơi con trai cô. Cô nhớ đã một lần cảm ơn cậu về điều đó, nhưng cậu chỉ nhún vai trả lời như để giải thích, “Đơn giản là em thích chơi với thằng bé thôi mà.”
Beth biết mình cần đi xem bà thế nào. Đứng dậy khỏi ghế, cô nhận thấy có ánh đèn trong văn phòng, nhưng cô không nghĩ bà đang xem hồ sơ giấy tờ. Có lẽ bà ở ngoài khu rào quây sau trại chó thì đúng hơn, và Beth đi về hướng đó. Hy vọng bà không nghĩ đến việc cố gắng dắt lũ chó đi dạo. Nếu chẳng may chúng giật dây xích thì bà sẽ không thể giữ được thăng bằng, mà cũng không giữ được chúng nữa. Nhưng đây lại là một trong những việc bà thích làm hơn cả. Bà luôn cho rằng hầu hết lũ chó chưa được tập tành đủ, và trang trại quả là nơi tuyệt vời để bù đắp thiếu sót đó. Rộng gần bảy mươi héc ta, nó kiêu hãnh phô những cánh đồng trải dài bát ngát, bọc quanh là rừng cây gỗ cứng nguyên sinh, gần chục con đường mòn ngang dọc và hai con suối chảy thẳng ra sông South. Được mua cách đây năm mươi năm với cái giá rẻ mạt, bây giờ trang trại lại rất có giá. Ấy là ông luật sư nói vậy. Ông ta đã qua thăm chỗ này và gợi ý với bà về khả năng bán đất.
Beth biết rõ ai đứng sau vụ này. Bà cũng vậy, nên bà vờ ngây ngô khi ông luật sư nói chuyện. Bà chăm chú nhìn ông ta với đôi mắt mở to, trống rỗng, thả từng quả nho xuống sàn nhà, và lẩm bẩm gì đó chả ai hiểu nổi. Sau khi ông luật sư ra về, bà và Beth ngồi cười khúc khích hàng giờ không thôi.
Liếc qua cửa phòng làm việc, cô không thấy bóng dáng của bà, nhưng có thể nghe thấy tiếng bà vọng ra từ khu rào quầy.
“Đứng im... lại đây. Được rồi cô gái! Đi giỏi lắm!”
Vòng qua góc sân, Beth nhìn thấy Nana đang khen một con chó Shih Tzu khi nó chạy từng bước thong thả về phía bà. Nó làm Beth liên tưỏng đến những con chó đồ chơi bán đầy ở Wal-Mart.
“Bà, bà đang làm gì vậy? Bà không nên ra đây mà.”
“A, chào Beth.” Không như hai tháng trước, giờ đây bà hầu như không nói lắp nữa.
Beth chống nạnh. “Bà không nên ra đây một mình chứ!”
"""