"Hồng Lâu Án: Địch Công Kỳ Án 8 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồng Lâu Án: Địch Công Kỳ Án 8 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #09 HỒNG LÂU ÁN The Red Pavilion (1961) Nguyệt Minh dịch Địa đồ phác họa đảo Bồng Lai 1. Khách điếm Vĩnh Lạc, 2. Hồng lâu, 3. Phòng của Thu Nguyệt, 4. Tửu lâu, 5. Nhà tắm, 6. Đạo quán, 7. Khách điếm Đào Hoa, 8. Sòng bạc Hằng Phong Trang, 9. Gia Hạc lâu, 10. Cầu Hoán Hồn, 11. Miếu thờ Triệu Công Minh, 12. Dinh thự của Phong Đại, 13. Cửa hiệu đồ cổ của Ôn Nguyên, 14. Viện tử của thanh lâu, 15. Căn lều của Lăng thị, 16. Nhà của Giải Tử, 17. Bến thuyền, 18. Bãi đất hoang Giới thiệu Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, Huyện lệnh Phổ Dương, thuộc địa phận phủ Kim Hoa, ông thường được gọi là ‘Địch huyện lệnh’ hay ‘Huyện lệnh’. Mà VINH, trợ thủ thân cận của Địch huyện lệnh. Các nhân vật khác LỖ QUAN TÙNG, Huyện lệnh Quyên Thành. THU NGUYỆT, Hoa khôi đảo Bồng Lai. NGÂN TIÊN, một kỹ nữ. KHỞI NGỌC BA, một thư sinh. LÝ LIÊN, một vị Trạng nguyên trẻ tuổi. LÝ VỆ ĐĨNH, một Đô ngự sử đã hồi hưu. PHONG ĐẠI, quản sự đảo Bồng Lai, chủ các sòng bạc và kỹ viện. NGỌC HOÀN, nhi nữ của Phong Đại. ĐÀO ĐỨC, chủ của phường hội buôn rượu. ĐÀO QUANG, phụ thân của Đào Đức. ÔN NGUYÊN, chủ hiệu đồ cổ. LĂNG THỊ, một kỹ nữ đã giải nghệ, người dạy Ngân Tiên hát. GIẢI TỬ, thủ hạ của Phong Đại. Ử HÀ TỬ, thủ hạ của Phong Đại. Các vụ án trong truyện Vụ án NÀNG HOA KHÔI NHẪN TÂM. Vụ án VỊ TRẠNG NGUYÊN SI TÌNH. Vụ án ĐÔI TÌNH NHÂN BẤT HẠNH. HỒI 1 Lữ khách nghỉ chân tại Hồng lâu Huyện lệnh gặp gỡ vị Hoa khôi “Chư vị khách quan, hiện vẫn đang là lễ Xá tội vong nhân, đây cũng là tháng bận rộn nhất của bản quán trong mùa hè. Xin lỗi các ngài.” Chủ khách điếm nói. Gã nhìn vị khách râu dài đứng trước quầy bằng ánh mắt đầy tiếc rẻ. Mặc dù vị khách kia mặc áo choàng nâu và đội chiếc mũ đen chẳng cho thấy phẩm tước, nhưng khí chất quyền quý vẫn cho thấy ông hẳn phải là một quan viên, loại khách trọ mà gã có thể tính giá cao hơn chút đỉnh. Ánh mắt thất vọng thoáng xuất hiện trên khuôn mặt nam nhân râu dài. Ông đưa tay lau mồ hôi trên trán, sau đó khẽ nói với nam nhân lực lưỡng phía sau, “Ta đã quên mất lễ Xá tội vong nhân! Lẽ ra ta nên lưu tâm tới những bàn thờ đặt ở hai bên đường. Đây đã là khách điếm thứ ba chúng ta hỏi thăm. Tốt hơn hết chúng ta không nghỉ chân nữa mà phi ngựa đến thẳng Quyên Thành luôn tối nay. Sẽ mất bao lâu mới tới nơi?” Viên trợ thủ nhún đôi vai rộng. “Bẩm đại nhân, rất khó để nói vì thuộc hạ không biết rõ khu vực phía bắc Quyên Thành lắm. Hơn nữa, đêm cũng sắp xuống rồi và mọi thứ sẽ trở nên khó khăn hơn. Chúng ta sẽ phải vượt qua hai hay ba thủy lộ nữa. Có thể khi vào được thành đã là nửa đêm, nếu chúng ta may mắn đón được đò.” Một lão gia nhân đang dọn dẹp những cây nến trên quầy hàng chợt bắt gặp ánh nhìn của gã chưởng quỹ. Lão cất giọng the thé, “Lão gia, sao ngài không để những quan khách kia thuê ở Hồng lâu?” Gã chưởng quỹ xoa xoa chiếc cằm tròn và đáp với vẻ nghi ngại, “Gian phòng đó tất nhiên là tốt. Nó quay mặt về hướng tây và luôn mát mẻ trong suốt mùa hè. Nhưng nó đã bị bỏ trống lâu ngày và chưa được thông gió…” “Có phòng trống thì bọn ta thuê!” Nam nhân râu dài vội ngắt lời và quay sang nói với trợ thủ, “Chúng ta đã ròng rã trên đường từ sáng sớm. Lấy mã yên bao xuống rồi giao ngựa cho giám mã đi!” “Mời các ngài lên phòng. Nhưng tiểu nhân cũng cần nói trước...” Gã đang nói thì bị ngắt lời, “Ta không ngại trả thêm tiền, cứ cho chúng ta thuê!” Gã chưởng quỹ mở cuốn sổ đăng kí ra, lật đến trang có ghi ‘ngày 28 tháng Bảy’ và đẩy sổ về phía khách. Vị khách chấm mực rồi viết lên đó dòng chữ ‘Địch Nhân Kiệt, Huyện lệnh Phổ Dương, trên đường từ kinh đô trở về nhiệm sở. Đi cùng là trợ thủ tên Mã Vinh’. Khi đưa trả cuốn sổ, ông đưa mắt nhìn tên khách điếm được viết lớn trên bìa sổ, ‘Khách điếm Vĩnh Lạc’. “Thật vinh dự cho thảo dân khi được đón tiếp huyện lệnh đại nhân huyện bên!” Gã chưởng quỹ nói bằng giọng mềm mỏng. Nhưng lúc nhìn theo bóng lưng của hai vị khách, gã lại lẩm bẩm, “Nguy thật! Người kia nổi tiếng là hay chõ mũi vào mọi sự. Hi vọng ông ta sẽ không nhận ra điều gì!” Nói rồi, gã lại lắc đầu đầy lo lắng. Lão gia nhân đưa Địch huyện lệnh đi dọc theo hành lang vào sân trong. Hai bên là các dãy nhà lớn hai lầu. Tiếng nói cười ồn ào vọng ra từ phía sau những khung cửa giấy đang sáng đèn. “Tất cả các gian phòng đều đã bị thuê hết, từng gian một!” Lão gia nhân râu bạc khẽ hắng giọng khi đưa ông đi qua cánh cổng cao tráng lệ chỗ cuối sân. Bấy giờ, đoàn người bước vào một hoa viên xinh đẹp có tường bao quanh. Ánh trăng chiếu xuống những khóm hoa được sắp xếp khéo léo và đọng trên mặt ao cá phẳng lặng như gương. Địch huyện lệnh nâng ống tay áo rộng lau mồ hôi trên mặt. Không khí nơi đây thật nóng bức và ngột ngạt, ngay cả khi họ đang đứng ở nơi thoáng khí như thế này. Tiếng nói cười và đàn hát vẫn cứ văng vẳng vọng sang từ phía dãy phòng bên phải. Ở “Ở đây, mọi cuộc vui bắt đầu sớm quá!” Ông nhận xét. “Bẩm đại nhân, buổi sáng là thời điểm duy nhất trong ngày mà đảo Bồng Lai này thôi vang tiếng đàn ca!” Lão gia nhân trả lời bằng giọng đầy tự hào. “Tất cả các hoạt động trên đảo bắt đầu trước bữa trưa. Bữa trưa kéo dài đến chiều, bữa chiều kéo dài tới tối, còn bữa tối lại kéo dài tới lúc dùng điểm tâm sáng hôm sau. Thưa đại nhân, hẳn ngài cũng thấy đảo Bồng Lai là một nơi vô cùng phồn hoa náo nhiệt.” “Mong rằng sự ồn ào đó sẽ không làm phiền đến ta. Hôm nay đã rong ruổi cả một ngày trên lưng ngựa, sáng mai lại phải khởi hành, ta muốn đi nghỉ sớm. Phòng ta thực sự yên tĩnh chứ?” “Dạ thưa, chắc chắn rồi, vô cùng yên tĩnh là đằng khác!” Lão gia nhân lẩm bẩm. Sau đó, lão gia nhân rảo bước, dẫn Huyện lệnh đi qua một hành lang dài và mờ tối. Cuối hành lang là một cánh cửa cao. Lão nâng đèn lồng lên, để ánh sáng rọi vào một cánh cửa được chạm trổ tinh xảo và được thếp vàng. Đẩy cánh cửa nặng nề ra, lão nhấn mạnh, “Thưa đại nhân, gian phòng này ở ngay phía sau khách điếm. Từ đây có thể nhìn ra lâm viên tuyệt đẹp. Và cũng rất yên tĩnh.” Địch huyện lệnh được dẫn tới một tiền sảnh nhỏ, hai phía đều có lối đi. Lão gia nhân kéo tấm rèm phía bên phải sang một bên và dẫn ông vào một gian phòng rộng rãi. Sau đó, lão đi thẳng tới phía chiếc bàn kê giữa phòng, thắp hai ngọn nến bạc đặt trên bàn, rồi ra mở cửa chính và cửa sổ ở vách tường phía trong. Huyện lệnh thấy phòng hơi có mùi ẩm mốc nhưng nhìn chung cũng khá tiện nghi. Bộ bàn ghế bằng gỗ đàn hương được chạm khắc và đánh bóng, làm lộ ra màu gỗ tự nhiên. Một tràng kỷ cũng làm từ gỗ đàn hương được kê dựa vào vách phải, đối diện với một bàn trang điểm thanh nhã. Tất cả đều là những món đồ cổ còn tốt. Những cuộn tranh vẽ chim muông hay hoa cỏ trên tường đều là hàng thượng phẩm, ông nhận thấy cánh cửa sau mở ra một khoảng hiên rộng, ba phía được bao phủ bởi những chùm hoa tử đằng rủ xuống từ giàn tre đan. Phía trước và bên dưới là một hàng rào những bụi cây cao mọc chen chúc, còn phía đằng xa là một lâm viên rộng lớn với vô số đèn lồng lụa rực rỡ treo trên những cành cây cao. Xa hơn nữa là một tòa lầu hai tầng ẩn mình trong những tán lá xanh. Nếu không kể đến tiếng nhạc văng vẳng vọng ra từ đó thì nơi này cũng khá yên tĩnh. “Thưa đại nhân, đây là khách sảnh, còn buồng ngủ ở phía bên kia,” lão nhân râu bạc khúm núm nói. Lão dẫn Huyện lệnh quay trở lại tiền sảnh và mở cánh cửa gỗ nặng trịch ở phía bên trái bằng một chiếc chìa khóa khá tinh vi. “Tại sao phải dùng đến loại khóa phức tạp như vậy?” Địch huyện lệnh thắc mắc. “Ta hiếm khi thấy cửa buồng trong phải lắp khóa. Để đề phòng trộm cắp sao?” Lão gia nhân mỉm cười ranh mãnh. “Khách phong lưu ở đây ưa thích… sự riêng tư, thưa đại nhân!” Lão khẽ cười rồi nhanh chóng nói tiếp, “Hôm trước, ổ khóa cũ bị hỏng. Nó đã được thay thế bằng ổ khóa cùng loại, có thể mở được từ cả bên trong lẫn bên ngoài.” Vật dụng trong buồng ngủ cũng có vẻ xa xỉ. Chiếc giường lớn có màn che gấm đỏ được đặt ở phía bên trái. Phía trước giường là một chiếc bàn và vài cái ghế, còn có chậu rửa mặt và bàn trang điểm ở góc đối diện. Chúng đều làm từ gỗ chạm và được phủ sơn đỏ. Tấm thảm dày trải sàn cũng màu đỏ. Khi lão nhân mở cánh cửa sổ duy nhất trên vách trong, Huyện lệnh mới nhìn thấy lâm viên phía sau khách điếm qua những chấn song bằng sắt nặng nề. “Nơi này được gọi là Hồng lâu bởi vì vật dụng trong buồng ngủ đều có màu đỏ sao?” “Đúng vậy, thưa đại nhân. Gian phòng đã tồn tại được tám mươi năm rồi, kể từ lúc xây khách điếm này. Thảo dân sẽ gọi người mang trà đến hầu ngài. Ngài sẽ dùng bữa tối bên ngoài hay sao ạ?” “Không. Ta muốn dùng cơm tối tại đây.” Họ quay trở lại khách sảnh vừa lúc Mã Vinh xách hai chiếc túi lớn đến. Lão gia nhân lặng lẽ ra khỏi phòng. Mã Vinh mở túi, lấy trang phục của chủ ra và đặt lên tràng kỷ. Y có quai hàm rộng, khuôn mặt nhẵn thín ngoại trừ một hàm ria ngắn. Trước đây, y từng là phường lục lâm thảo khấu nhưng vài năm trước đã cải tà quy chính, đi theo phụ giúp Địch huyện lệnh. Xuất thân con nhà võ là một lợi thế giúp y đối phó với những tội nhân cường bạo và thực thi các nhiệm vụ nguy hiểm. “Ngươi có thể ngủ trên tràng kỷ này, chỉ đêm nay thôi. Thế thì ngươi khỏi cần tìm chỗ trú ở bên ngoài.” “Thưa, thuộc hạ có thể tự lo liệu được!” Y vui vẻ trả lời. “Tốt thôi, miễn là ngươi đừng vung tiền vào mỹ tửu và nữ sắc! Đảo Bồng Lai này khét tiếng với sòng bạc và kỹ viện. Những người ở đây rất biết cách moi tiền đấy.” Mã Vinh vừa cười vừa đáp, “Những người này đừng hòng móc được xu nào từ túi thuộc hạ. Vì sao nơi này được gọi là đảo, thưa đại nhân?” “Tất nhiên là vì nơi này được bao quanh bởi những thủy lộ. Nhưng tập trung vào vấn đề chính nào! Mã Vinh, ngươi nhớ tên cây cầu đá mà chúng ta nhìn thấy khi tới đây chứ? Nó có tên là cầu Hoán Hồn, bởi bầu không khí ở đảo Bồng Lai có thể làm thay đổi tất cả những người đến đây và biến họ thành những kẻ phá gia chi tử. Ngươi sẽ phải chi tiêu cho nhiều chuyện. Có phải ngươi đã được thúc phụ để lại cho hai nén vàng?” “Đúng thế, thưa đại nhân! Nhưng thuộc hạ sẽ không động đến chỗ vàng đó. Khi về già, thuộc hạ sẽ mua một ngôi nhà nhỏ và một chiếc thuyền chài ở quê nhà để sinh sống. Bây giờ, thuộc hạ có hai đĩnh bạc để đi thử vận may ở chiếu bạc!” “Ngươi phải trở về trước giờ điểm tâm sáng mai. Nếu xuất phát sớm thì chúng ta có thể băng qua khu vực phía bắc Quyên Thành trong khoảng hai canh giờ và đến được Quyên Thành vào giữa trưa. Ta phải ghé thăm vị đồng liêu họ Lỗ. Ta không thể đi qua mà không ghé thăm ông ta. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục về Phổ Dương.” Viên trợ thủ vạm vỡ cúi chào và chúc ông một đêm an giấc. Khi đi ngang qua tỳ nữ đang mang khay trà tới, y khẽ nháy mắt với nàng. “Ta sẽ dùng trà ngoài hiên,” Địch huyện lệnh nói với thiếu nữ. “Ngươi hãy đưa cơm tối lên đây, càng sớm càng tốt.” Khi tỳ nữ đi khỏi, Huyện lệnh bước từng bước ra ngoài hiên, ông ngồi xuống cái ghế tre đặt gần chiếc bàn tròn nhỏ ở đó, duỗi dài đôi chân tê cứng ra. Nhấm nháp dư vị của chén trà nóng, ông hài lòng nghĩ lại những chuyện đã diễn ra suôn sẻ trong hai tuần đến Trường An. Ông được Bộ Hình triệu về kinh để đưa ra bằng chứng chi tiết cho vụ án chùa Phổ Độ mà ông xử vào năm trước. Giờ đây, Địch huyện lệnh muốn quay lại Phổ Dương. Tuy nhiên, lụt lội đã làm chậm trễ hành trình trở về. Dù phải đi vòng qua Quyên Thành nhưng chắc ông cũng chỉ chậm mất một ngày. Mặc dù không thích bầu không khí náo nhiệt của đảo Bồng Lai, ông vẫn tự thấy mình may mắn khi kiếm được một gian phòng yên tĩnh ở trong một khách điếm hạng sang thế này. Ông sẽ tắm thật nhanh, ăn một bữa tối đơn giản rồi nghỉ ngơi cho thoải mái. Vừa tựa lưng vào ghế, Huyện lệnh chợt thấy cứng người, ông cảm giác như có ai đó đang theo dõi mình. Quay người lại trên ghế, ông đưa mắt nhìn quanh khách sảnh phía sau. Không có ai ở đó. Ông đứng dậy, bước về phía khung cửa sổ của Hồng lâu và nhìn vào bên trong, nhưng căn phòng đó trống không. Sau đó, ông bước về phía lan can và xem xét kỹ lưỡng những khóm cây mọc chen chúc dọc hàng hiên phía trước. Trong bóng tối, ông đã cố quan sát nhưng không thấy gì đáng ngại. Tuy nhiên, ông chú ý thấy một mùi hôi nồng khó chịu như mùi lá mục đâu đây. Huyện lệnh lại ngồi xuống, ông nghĩ chắc đây chỉ là tưởng tượng của mình mà thôi. Sau khi kéo ghế sát lại lan can, ông nhìn ra lâm viên, nơi ánh sáng mờ ảo từ những chiếc đèn lồng ẩn sau tán lá tạo ra một cảnh tượng dễ chịu. Nhưng tâm trạng Địch huyện lệnh lúc này không còn thoải mái như trước. Không khí nơi đây càng lúc càng nóng bức. Lâm viên không một bóng người dường như đang ẩn chứa một điều gì đó nguy hiểm và đầy thù địch. Có tiếng sột soạt giữa đám hoa tử đằng khiến Huyện lệnh phải đưa mắt nhìn, ông mơ hồ thấy một thiếu nữ đứng ở cuối hành lang, nửa thân mình khuất sau những chùm hoa màu lam biếc. Ông thở phào nhẹ nhõm, quay lại phía lâm viên và ra lệnh, “Ngươi hãy đặt khay đồ ăn xuống chiếc bàn nhỏ này.” Thay cho tiếng trả lời là một tràng cười khúc khích. Ông nhìn lại lần nữa. Đó không phải tỳ nữ mà ông đang đợi. Đây là một nữ nhân cao ráo, mình khoác một tấm áo choàng trắng bằng sa mỏng, mái tóc đen bóng buộc hờ. Ông nói bằng giọng hối lỗi, “Mong cô nương thứ lỗi, ta cứ nghĩ ngươi là thị nữ.” “Chắc chắn không phải là một sự nhầm lẫn đáng yêu đâu, lão gia à!” Nàng nhận xét bằng chất giọng dễ nghe của một người có học thức. Thiếu nữ cúi người xuống và bước ra từ phía gốc cây tử đằng. Lúc này, Địch Huyện lệnh mới nhận thấy đằng sau nàng là một cánh cửa nhỏ ở lan can. Có lẽ cánh cửa đó dẫn ra một con đường chạy dọc theo khách điếm. Khi thiếu nữ đến gần hơn, ông mới nhận ra rằng nàng rất đẹp. Gương mặt hình trái xoan với chiếc mũi thẳng cùng đôi mắt to có hồn như biết nói. Làn sa ướt trên thân hình nàng để lộ làn da trắng mềm mại và tôn lên những đường cong gợi cảm đầy khiêu khích. Nàng đung đưa chiếc hộp đựng đồ tắm, dựa lưng vào lan can và nhìn Huyện lệnh với ánh nhìn săm soi đầy xấc xược. “Cô nương cũng mắc sai lầm rồi đấy.” Địch huyện lệnh nói với vẻ khó chịu. “Đây là một gian phòng riêng tư, cô nương hiểu chứ?” “Nơi tư mật sao? Với thiếp thì không có chốn nào trên đảo này là riêng tư cả, thưa lão gia!” “Cô nương là ai?” “Thiếp là Hoa khôi của đảo Bồng Lai.” “Ta hiểu rồi,” Địch huyện lệnh chậm rãi đáp. Đưa tay lên vuốt chòm râu, ông âm thầm đánh giá tình huống khó xử này. Ông biết rằng mỗi năm, giới thân hào nhân sĩ ở chốn hưởng lạc nổi tiếng này lại tụ họp để tuyển chọn ra kỹ nữ xinh đẹp và tài năng nhất làm Hoa khôi. Nàng nào được chọn sẽ chiếm giữ một vị trí cao trong thanh lâu phường, trở thành người dẫn đầu cách ăn mặc, cũng có tiếng nói trong giới ‘buôn phấn bán hương’, ông cần phải thoát khỏi thiếu nữ với trang phục hớ hênh này mà không làm nàng cảm thấy bị xúc phạm. Huyện lệnh lịch sự hỏi, “Do đâu mà ta lại nhận được vinh dự bất ngờ thế này?” “Đây chỉ là một tai nạn hiếm khi xảy ra thôi. Thiếp tới từ nhà tắm lớn ở phía bên kia lâm viên. Đây là con đường tắt đi ngang qua khách điếm để trở về phòng. Phòng của thiếp nằm ở mấy gốc thông bên trái ở đằng kia. Thiếp cứ nghĩ gian phòng này không có người ở, lão gia hiểu chứ?” Địch huyện lệnh nhìn thiếu nữ bằng ánh mắt sắc bén. “Ta có cảm giác cô nương đã theo dõi ta được một lúc rồi.” “Thiếp không có thói quen quan sát ai hết. Chỉ có mọi người nhìn ngắm thiếp thôi.” Tuy nói năng một cách ngạo mạn nhưng Hoa khôi cũng không khỏi lo lắng. Nàng liếc nhanh về phía cánh cửa khách sảnh đang mở rồi cau mày hỏi, “Sao lão gia lại có cái suy nghĩ ngớ ngẩn là thiếp theo dõi ngài?” “Ta chỉ có một cảm giác mơ hồ là mình đang bị theo dõi.” Nàng kéo chiếc áo choàng sát vào thân thể mềm mại, gần như trần trụi dưới làn vải mỏng.�� Địch Công gặp Hoa khôi dưới giàn hoa “Thật kỳ lạ. Thiếp cũng có cảm giác như vậy khi tới đây.” Nàng ngừng một chút, sau đó khoát tay nói bằng giọng đùa cợt, “Nhưng thiếp không quan tâm vì đã quá quen với việc bị bám gót rồi!” Hoa khôi bật cười, tiếng cười giòn tan. Nhưng đột nhiên nàng im bặt, khuôn mặt trở nên tái nhợt. Địch huyện lệnh quay đầu. Ông cũng nghe thấy tiếng cười khúc khích kỳ quặc lẫn vào tiếng cười của thiếu nữ kia. Dường như âm thanh đó đến từ phía cạnh cửa sổ buồng ngủ. Hoa khôi nuốt nước bọt và vội vã hỏi, “Ai đang ở trong Hồng lâu vậy?” “Không có ai hết.” Nàng nhanh chóng đưa mắt dò xét từ trái sang phải, sau đó quay lại và nhìn chằm chằm về phía tòa lầu trong lâm viên. Tiếng sáo nhạc đã dừng. Chỉ có tiếng vỗ tay, tiếp đó là tiếng cười, tiếng huýt sáo vang lên. Để phá vỡ bầu không khí kỳ quặc đó, Địch Huyện lệnh làm như vô tình hỏi, “Những người ở đằng kia dường như rất vui vẻ.” “Đó là tửu lâu trong lâm viên. Ở dưới lầu, người ta phục vụ những món ăn đặc sắc, còn ở trên lầu thì dành riêng cho… những thú vui thân mật hơn.” “Hẳn rồi. Thật vinh hạnh cho ta khi có cơ hội gặp gỡ nữ nhân xinh đẹp nhất đảo Bồng Lai. Tuy nhiên, thật đáng tiếc, do đêm nay bận rộn công sự và sáng mai còn phải tiếp tục hành trình, ta không thể tiếp cô nương lâu hơn.” Tuy nhiên, thiếu nữ đó không hề di chuyển. Nàng đặt chiếc hộp đựng đồ tắm xuống sàn, vòng tay ra sau đầu và ngả người về phía sau, để lộ bộ ngực đầy đặn, vòng eo mảnh mai và cặp đùi săn chắc. Ông không thể không để ý thấy rằng toàn bộ thân thể đều được chăm sóc tỉ mỉ theo thói quen của các kỹ nữ. Thấy Địch huyện lệnh nhanh chóng quay mặt đi, nàng điềm tĩnh nói, “Chẳng bao giờ ngài có thể ngắm thiếp nhiều hơn vừa nãy được đâu.” Nàng tỏ ra khá thích thú khi nhìn thấy vị đại nhân trước mặt bối rối im lặng. Sau đó, nàng thả tay xuống và nói một cách đầy mãn nguyện, “Thiếp không vội, đặc biệt là bây giờ. Bữa tiệc tối nay dành riêng cho thiếp và một vị khách quen sẽ qua đón thiếp, ông ta có thể đợi. Hãy cho thiếp biết vài điều về lão gia đi. Ngài trông có vẻ nghiêm trang với bộ râu dài này. Hẳn ngài là một quan viên đến từ kinh thành.” “Không đâu, ta chỉ giữ một chức nhỏ ở địa phương mà thôi, không đáng được xếp vào danh sách những người ái mộ cô nương!” Ông đứng dậy và nói thêm, “Ta phải chuẩn bị để ra ngoài ngay bây giờ. Ta không dám mạn phép giữ cô nương lâu thêm nữa. Hơn nữa, cô nương không cần về phòng thay xiêm y sao?” Đôi môi đỏ mọng của Hoa khôi cong lên thành một nụ cười khinh bỉ. “Đừng cố làm bộ như một gã thầy tu không ưa nữ sắc! Thiếp đã nhìn thấy ánh mắt lúc nãy, đừng giả bộ như ngài không khát khao có được thứ mà mình đã nhìn thấy!” “Đối với một kẻ tầm thường như ta,” Huyện lệnh nhận định một cách cứng nhắc, “khao khát đó chẳng phải quá hão huyền hay sao?” Hoa khôi nhíu mày. Lúc này, ông nhận thấy một nét ác độc hiện lên trên khóe miệng nàng. “Quả thật là hão huyền!” Nàng nói lớn. “Lúc đầu, thiếp nghĩ mình thích vẻ trầm tĩnh của ngài, nhưng giờ thiếp đã hiểu. Ngài không hề để ý tới thiếp một chút nào.” “Cô nương oán trách ta sao?” Mặt Hoa khôi đỏ ửng lên vì giận dữ. Nàng quay lại phía hành lang, nhặt hộp đựng đồ tắm lên, “Một viên quan nhỏ như ngài mà cũng dám bỡn cợt thiếp! Nói cho ngài hay, ba ngày trước, một thư sinh đến từ kinh thành đã tự sát vì thiếp đấy!” “Dường như cô nương không hề tiếc thương cho chàng trai ấy!” “Nếu phải thương tiếc cho tất cả những tên ngốc tự chuốc lấy rắc rối vì thiếp,” nàng gằn lên với vẻ độc địa, “thì chắc thiếp sẽ mất cả đời để tang cho họ mất!” “Cô nương không nên nói về người chết và việc để tang,” Địch huyện lệnh cảnh báo. “Bây giờ vẫn đang là lễ Xá tội vong nhân. Cánh cửa Địa ngục vẫn còn mở, những linh hồn được thả ra vẫn đang quanh quẩn bên cạnh chúng ta.” Có một khoảng lặng trong tiếng nhạc phát ra ở tòa lầu trong lâm viên. Đột nhiên, tiếng cười khúc khích lại một lần nữa vang lên, rất khẽ. Dường như nó đến từ những bụi cây dưới mái hiên. Mặt của Hoa khôi giật giật. Nàng vội vã thốt lên, “Thiếp đến phát bệnh và quá mệt mỏi với chốn ảm đạm này rồi! Cảm tạ trời xanh, thiếp sẽ mãi rời khỏi nơi này. Một đại quan, một thi nhân giàu có, sẽ đến và chuộc thiếp ra ngoài. Sau đó thiếp sẽ trở thành Tri huyện phu nhân. Lúc đó thì, đại nhân, ngài sẽ nói gì đây?” “Ta chỉ có thể chúc mừng cô nương và vị đại nhân đó.” Nàng cúi đầu xuống và dường như đã bớt giận. Lúc sau, nàng quay đầu bước đi và nói, “Vị đại quan đó rất may mắn! Nhưng thê thiếp của ông ta sẽ không được như vậy. Thiếp sẽ đuổi họ ra khỏi nhà trong thời gian sớm nhất! Thiếp không có thói quen chia sẻ tình lang!” Hoa khôi đi đến đầu kia của hành lang, đung đưa bờ hông quyến rũ. Nàng lướt qua khóm hoa tử đằng rồi biến mất, rõ là có một cầu thang dẫn xuống dưới ở phía đó. Giai nhân đã khuất bóng, chỉ vương lại hương dầu thơm đắt tiền. Đột nhiên, hương thơm bị át bởi một mùi thối rữa khiến người ta phải buồn nôn. Nó xuất phát từ bụi cây phía trước hàng hiên. Địch huyện lệnh nhìn qua lan can, giật mình lùi lại vì kinh ngạc. Giữa bụi cây, có một tên ăn mày mình mẩy lở loét đang đứng đó. Cơ thể hắn gầy gò, y phục rách nát dính đầy bùn đất. Nửa bên trái khuôn mặt đang sưng lên của hắn là những vết lở loét, một con mắt đã biến mất. Con mắt còn lại nhìn chằm chằm vào ông với vẻ ác độc. Ló ra từ phía dưới lớp y phục rách nát là một bàn tay biến dạng chỉ còn lại vài đốt ngón tay. Địch huyện lệnh vội vàng lần trong tay áo và móc ra vài đồng xu. Những con người bất hạnh thường phải cố gắng tồn tại bằng cách đi ăn xin. Tuy thế, đôi môi tái của hắn lại cong lên thành một nụ cười đáng kinh tởm. Hắn lẩm bẩm điều gì đó rồi quay đầu bước đi, biến mất giữa những lùm cây. HỒI 2 Đảo Bồng Lai, đồng liêu gặp mặt Án tự sát, Địch Công nhận phá Bất giác rùng mình, Địch huyện lệnh bỏ lại mấy đồng xu vào tay áo. Sự khác biệt giữa vẻ đẹp hoàn mỹ của nàng Hoa khôi và vẻ ngoài ghê tởm của kẻ khất cái khiến ông không khỏi bàng hoàng. “Thuộc hạ có tin tốt đây, thưa đại nhân!” Một giọng nói hớn hở cất lên sau lưng ông. Thấy Địch huyện lệnh quay lại với nụ cười hài lòng, Mã Vinh hào hứng nói tiếp, “Lỗ Tri huyện cũng đang ở đảo Bồng Lai này. Ở cách đây ba con phố, thuộc hạ nhìn thấy một toán Bộ khoái đang xếp hàng trước một kiệu quan lớn. Thuộc hạ hỏi kiệu ấy của ai thì họ đáp lại rằng là kiệu của Lỗ đại nhân. Ngài ấy đã ở đây được vài ngày rồi, tối nay sẽ trở về trấn. Nghe đến đấy thì thuộc hạ liền quay về để tâu lại với ngài.” “Thế thì tốt quá rồi. Ta có thể gặp ông ấy ở đây mà không cần tốn công đến Quyên Thành. Chúng ta có thể về nhà sớm hơn một ngày. Hãy mau đến gặp họ Lỗ trước khi ông ấy rời khỏi đây nào.” Họ vội vàng rời Hồng lâu và ra đến cổng trước của khách điếm. Dọc hai bên con phố đông đúc là các tửu điếm và sòng bạc treo đèn lồng sặc sỡ. Mã Vinh vừa đi vừa hớn hở lia mắt ngắm nhìn các hiên lầu. Có vài thiếu nữ ăn bận lộng lẫy đang đứng ngoài hiên, chuyện trò hoặc phe phẩy những chiếc quạt lụa đủ màu. Tiết trời hôm ấy nóng ẩm và ngột ngạt. Con phố kế tiếp ít ồn ào hơn, chỉ có những căn nhà tối tăm treo độc một chiếc đèn lồng trước cổng. Trên mỗi cánh cổng đều kín đáo khắc một hàng chữ nhỏ như là ‘Lạc Phúc lâu’ hay ‘Thanh Hương các’ và những cái tên khác ám chỉ chốn thanh lâu. Địch huyện lệnh vội vã rẽ vào góc đường. Trước một khách điếm nguy nga, chừng một tá phu kiệu vạm vỡ đang khiêng một cỗ kiệu lớn trên vai, đứng cạnh là một toán Bộ khoái. Mã Vinh vội nói với viên Bộ đầu, “Đây là Địch Huyện lệnh của Phổ Dương. Hãy tâu lại với đại nhân của huynh.” Viên Bộ đầu ra lệnh hạ kiệu xuống lần nữa. Y kéo màn kiệu sang một bên và thì thầm gì đấy với người ngồi trong. Thân hình mập mạp của Lỗ Tri huyện hiện ra trước cửa kiệu. Ông ta mặc trường bào lụa xanh tao nhã và đội mũ nhung đen. Họ Lỗ vội vã xuống kiệu, cúi chào Địch huyện lệnh và kêu lên, “Hiền huynh có việc gì mà lại đến đảo Bồng Lai này? Huynh quả đúng là người mà đệ đang cần gặp. Gặp được huynh, đệ vui mừng khôn xiết.” “Ta mới là người phải thấy mừng chứ. Ta đang trên đường từ kinh đô về Phổ Dương. Vốn dĩ ta định ngày mai sẽ đến Quyên Thành để thăm Lỗ đệ và cảm tạ tấm thịnh tình hiền đệ dành cho ta hồi năm ngoái.” “Địch huynh không cần quá câu nệ,” Lỗ Tri huyện cười lớn. Điệu cười toe toét khiến khuôn mặt tròn có hàng ria mép nhọn và bộ râu ngắn nhăn lại. “Thật nở mặt nở mày cho bản huyện khi hai thiếu nữ mà đệ tìm cho huynh đã giúp vạch mặt mấy gã hòa thượng vô lại kia. Thiên địa ơi, khắp cả châu ai cũng bàn tán về vụ án ở ngôi chùa đấy.”�� Địch Công gặp Lỗ Tri huyện “Họ bàn tán quá nhiều là đằng khác,” ông cười mỉa mai. “Lũ Phật tử giả danh đó đã xúi giục Bộ Hình triệu ta về kinh đô để thẩm án. Họ tra hỏi ta rất nhiều điều trước khi nhất trí với lời tuyên án của ta. Vào trong uống trà đi nào, ta sẽ kể hết cho đệ nghe.” Họ Lỗ vội bước đến gần Địch huyện lệnh, đặt bàn tay béo tròn lên cánh tay ông và hạ giọng giãi bày, “E là không được rồi, đệ có việc cấp bách cần quay về Quyên Thành ngay lập tức. Tuy nhiên, có việc này đệ rất cần sự giúp đỡ của Địch huynh. Đệ đã ở đây hai ngày để điều tra một vụ tự sát. Một vụ án rất đơn giản, nhưng khổ nỗi người chết lại là Trạng nguyên trong kỳ thi vừa qua và vừa được bổ vào Bộ Lễ. Trên đường về nhà, y dừng chân tại nơi này và gặp một nữ nhi… chuyện thường tình ấy mà. Kẻ xấu số họ Lý, là lệnh lang của vị Đô ngự sử nổi tiếng trong triều. Đệ vẫn chưa kịp viết xong án trạng. Huynh có thể ở lại đây thêm một ngày để làm nốt giúp đệ không? Chỉ là vấn đề thủ tục thôi. Đệ thật sự phải đi ngay bây giờ.” Địch huyện lệnh không mấy hào hứng khi phải làm thay việc của một Huyện lệnh khác ở một nơi hoàn toàn xa lạ, nhưng ông có muốn từ chối cũng không tiện, ông đành đáp lại, “Hiển nhiên là ta sẽ giúp đệ rồi.” “Tốt quá rồi. Thế thì bây giờ đệ xin cáo từ!” “Gượm đã nào!” Địch huyện lệnh vội nói. “Ở đây ta vốn không có chút quyền hạn nào, đệ phải trao cho ta quyền thay mặt nha phủ Quyên Thành đã.” “Đệ sẽ trao quyền cho hiền huynh ngay bây giờ,” Lỗ Tri huyện trịnh trọng tuyên bố rồi bước về phía kiệu của mình. “Đệ phải viết hẳn ra giấy chứ,” Địch huyện lệnh mỉm cười châm chước. “Luật là thế mà.” “Trời đất, lại mất thêm thời gian!” Họ Lỗ gắt gỏng. Ông ta lia mắt nhìn khắp phố rồi kéo Địch huyện lệnh vào trong khách điếm. Đến quầy, ông ta lấy giấy bút ra, rồi bỗng nhiên khựng lại và càu nhàu, “Lạy trời, thư phó thác viết như thế nào nhỉ?” Địch huyện lệnh cầm lấy bút lông từ tay ông ta và viết một lá thư phó thác. Viết xong, ông lấy thêm tờ giấy khác và chép lại một bản y hệt. “Giờ thì chỉ cần đóng triện và điểm chỉ nữa là xong. Đệ hãy cầm theo bản gốc để đưa cho Tri phủ đại nhân sớm nhất có thể. Còn ta sẽ giữ bản sao.” Lỗ Tri huyện cảm kích nói, “Những việc thế này huynh quả là tinh thông. Hẳn lúc nào đi ngủ huynh cũng để thánh chỉ dưới gối.” Trong lúc đồng liêu ấn triện lên thư phó thác, Địch huyện lệnh hỏi, “Ai là quản sự của hòn đảo này?” Họ Lỗ hờ hững đáp lời, “À, đó là một nam nhân tên Phong Đại hay Phong Tài gì đấy. Họ Phong là người rất tài giỏi và biết về tất cả mọi thứ ở đây. Lão sở hữu mọi sòng bạc và kỹ viện trên đảo này. Huynh cần biết gì thì cứ hỏi lão. Khi huynh xong việc thì nhớ gửi án trạng cho đệ bất cứ lúc nào thuận tiện.” Kéo Huyện lệnh ra ngoài, ông ta nói thêm, “Chân thành cảm tạ Địch huynh!” Vừa định bước lên kiệu, họ Lỗ thấy một Bộ khoái định thắp ngọn đèn lồng lớn có dán mấy chữ đỏ ‘Nha phủ Quyên Thành’. “Dập tắt đèn ngay đi, tên đần kia!” ông ta quát, rồi quay sang Địch huyện lệnh phân trần, “Đệ không thích diễu võ giương oai. Phải cai trị bằng nhân nghĩa như đức Khổng Tử đã chỉ dạy. Xin cáo biệt huynh ở đây.” Lỗ Tri huyện bước lên kiệu và các kiệu phu đặt đòn cáng dày lên đôi vai chai sần của họ. Bỗng nhiên màn kiệu được vén sang một bên và họ Lỗ thò đầu ra ngoài. “Đệ vừa nhớ ra. Tên của người cai quản nơi này là Phong Đại. Huynh sẽ gặp ông ta tại buổi dạ yến.” “Dạ yến gì cơ?” ông bối rối hỏi. “Đệ quên chưa nói cho huynh biết à? Đêm nay, các danh sĩ của đảo Bồng Lai sẽ mở tiệc thết đãi đệ tại Gia Hạc lâu. Dĩ nhiên là hiền huynh phải đi thay đệ rồi. Không thể thất lễ với họ được. Huynh sẽ rất thích đặc sản ở đây, nhất là món vịt quay. Hãy nói với họ là đệ rất tiếc khi không thể tham dự. Đệ có công vụ cấp bách cần làm, chuyện quốc gia đại sự, đại loại thế. Huynh rất giỏi giải thích những việc này mà. Đừng quên dùng sốt ngọt với món vịt quay đấy.” Màn kiệu lại hạ xuống và đoàn kiệu mất hút trong màn đêm. Các Bộ khoái chạy phía trước không đánh cồng chiêng hoặc la hét mở đường như họ vẫn thường làm. “Sao ngài ấy lại vội vội vàng vàng thế nhỉ?” Mã Vinh thắc mắc. “Chắc là đã có biến cố gì đấy xảy ở Quyên Thành lúc ông ấy vắng mặt,” Địch huyện lệnh đáp. Ông khoan thai cuộn thư phó thác lại rồi bỏ nó vào trong tay áo. Đột nhiên, Mã Vinh cười toe toét và nói với vẻ mãn nguyện, “Vậy là chúng ta sẽ được ở thêm vài ngày tại chốn lạc thú này.” “Chỉ ở lại một ngày thôi,” ông quả quyết nói. “Chúng ta đã có dư một ngày vì gặp được Lỗ Tri huyện ở đây. Ta sẽ dùng một ngày đó tập trung giải quyết vụ án của ông ấy, không hơn. Hãy quay về khách điếm, ta phải thay y phục để dự bữa dạ yến đáng nguyền rủa kia.” Trở lại khách điếm Vĩnh Lạc, Địch huyện lệnh bảo với gã chưởng quỹ rằng mình sẽ dự dạ yến ở Gia Hạc lâu và nhờ gã thuê một cỗ kiệu. Khi về đến Hồng lâu, Mã Vinh giúp chủ mặc quan phục bằng gấm xanh và đội mũ ô sa nhung đen. Địch huyện lệnh thấy tỳ nữ đã vén màn nhung của chiếc giường lên và đặt một ấm trà trong giỏ đệm để trên bàn. Ông thổi tắt nến và đi ra ngoài, Mã Vinh theo sau. Địch huyện lệnh khóa cửa lại, đang định cất chìa vào tay áo thì ông bỗng khựng lại và bảo, “Chìa nặng thế này thì tốt nhất là cứ cắm lại ổ khóa. Dù sao ta cũng không có món gì quý giá.” Ông đút lại chìa vào ổ khóa, rồi hai người đi về phía sân trước. Tám phu kiệu đang đợi họ cạnh một cỗ kiệu lớn. Địch huyện lệnh lên kiệu và ra hiệu cho Mã Vinh ngồi vào kiệu cùng mình. Trong lúc kiệu đi qua các con phố ồn ã, ông nói, “Sau khi chúng ta đến nơi và ngươi thông báo tên ta, ngươi hãy đi ra ngoài và dạo một vòng các sòng bạc lẫn tửu điếm. Kín đáo thăm dò về vụ tự sát của vị Trạng nguyên kia, xem y đã ở đây được bao lâu, giao du với những ai, nói chung là mọi điều ngươi có thể dò hỏi. Theo lời của Lỗ Tri huyện thì đây là một vụ án đơn giản, nhưng những vụ tự tử thường rất khó ngờ. Ta sẽ cố gắng rời khỏi buổi dạ yến sớm nhất có thể. Nếu khi quay lại ngươi không thấy ta thì hãy về phòng trọ trước.” Cỗ kiệu được hạ xuống đất. Khi bước ra ngoài, Địch huyện lệnh nhìn lên và không khỏi choáng ngợp trước tòa dinh thự cao trước mặt. Mười hai bậc thang bằng cẩm thạch trắng, hai bên là tượng sư tử bằng đồng lớn với kích thước thật, dẫn lên một cánh cửa đôi sơn son rực rỡ với hoa văn trang trí bằng đồng hào nhoáng. Phía trên cửa là một tấm biển lớn thếp vàng có ghi ba chữ lớn màu đen, ‘Gia Hạc lâu’. Trên nữa là hai tầng lầu, mỗi lầu đều có bao lơn gỗ được chạm khắc công phu. Những chiếc đèn lồng lụa lớn với màu sắc tao nhã được treo dọc các mái hiên. Tuy đã nghe kể nhiều về sự phô trương trên đảo Bồng Lai, ông vẫn không ngờ ở đây lại có một chốn xa hoa đến nhường này. Mã Vinh tiến lên và gõ mạnh khoen cửa bằng đồng. Sau khi thông báo với tiểu nhị rằng Địch Huyện lệnh đã đến, y chờ cho đến khi Địch huyện lệnh được dẫn vào bên trong rồi mới vội vàng lao xuống các bậc thang cẩm thạch và hòa mình vào đám đông hỗn tạp trên phố. HỒI 3 Dự dạ yến, Địch Công nghe kể chuyện Bị chối từ, Hoa khôi chuyển đối tượng Địch Huyện lệnh có lời với tiểu nhị đón tiếp ông tại tiền sảnh rằng mình tới dự dạ yến thay cho Lỗ Tri huyện. Sau khi cúi mình thi lễ, tiểu nhị liền dẫn ông lên một cầu thang rộng phủ thảm xanh tới phòng tiệc lớn trên lầu hai. Địch huyện lệnh lấy làm hài lòng với không khí mát mẻ tỏa ra từ hai lư đồng lớn chứa đầy nước đá. Ở giữa phòng là một bàn ăn bằng gỗ mun, bên trên đã bày sẵn món thịt đông và những chén ruợu bạc. Sáu cái ghế cũng bằng gỗ mun lát phiến đá cẩm thạch đặt xung quanh bàn. Cạnh cửa sổ là bốn nam nhân đang ngồi dùng trà và cắn hạt dưa quanh bàn đá hồng ngọc. Họ thoáng ngạc nhiên khi nhìn thấy ông bước vào. Một lão nhân cao gầy với chòm râu bạc đứng lên, tiến về phía ông và cúi đầu kính cẩn hỏi, “Thưa đại nhân, ngài định tìm ai ạ?” “Ngươi có phải là Phong Đại không?” Địch huyện lệnh cất giọng hỏi. Khi thấy người đó gật đầu, ông lấy lá thư phó thác của Lỗ Tri huyện từ trong tay áo và đưa cho lão xem. Ông đồng thời giải thích rằng Lỗ đại nhân đã nhờ ông thay mặt đến tham dự dạ yến. Phong Đại cúi mình thi lễ và nói, “Bẩm, thảo dân là quản sự ở đây, xin hoàn toàn nghe theo sự sắp đặt của đại nhân. Cho phép thảo dân được thưa với đại nhân về các vị khách ở đây!” Lão nhân gầy gò đang đội chiếc mũ nhỏ là Ôn Nguyên, một thương gia giàu có, chủ các hiệu đồ cổ và kim hoàn tại đảo Bồng Lai. Họ Ôn có khuôn mặt dài và đôi má hóp, đôi mắt nhỏ rất tinh nhanh ẩn dưới hàng lông mày rậm đã ngả bạc. Lão ta có một hàm ria ngắn và bộ râu nhọn được cắt tỉa gọn gàng. Nam nhân tướng tá bảnh bao, đội chiếc mũ ô sa vuông ngồi cạnh Ôn chưởng quỹ là chủ phường của hội buôn rượu, tên là Đào Đức. Còn chàng thanh niên tuấn tú ngồi quay lưng về phía cửa sổ là Khởi Ngọc Ba, vốn là một thư sinh đang trên đường đến kinh đô ứng thí. Phong Đại tự hào giới thiệu người thanh niên là một thi nhân danh phù kỳ thực. Địch huyện lệnh quan sát một lượt và lấy làm hài lòng. Ông thay mặt Lỗ Tri huyện chuyển tới họ lời cáo lỗi. Cuối cùng ông nói, “Tình cờ đi ngang qua đây, bản quan được Lỗ đại nhân cậy nhờ việc điều tra vụ tự sát của một vị Trạng nguyên xảy ra cách đây ba ngày. Tất nhiên ta chỉ là người mới đến. Vì vậy, ta vô cùng cảm tạ nếu các vị bày tỏ cho ta biết cách nhìn của mình về vụ án này.” Sự im lặng không mấy dễ chịu bao trùm. Sau đó, Phong Đại nghiêm túc lên tiếng, “Vụ tự sát của Trạng nguyên Lý Liên là một trường hợp đáng tiếc, thưa đại nhân. Thật không may là những trường hợp như thế thường xuyên xảy ra ở vùng này. Một số quan khách đến đây đã tiêu đến đồng cắc cuối cùng vào bài bạc rồi chọn cách tự kết liễu cuộc đời họ.” “Ta được biết động cơ tự sát là do thất tình.” Địch huyện lệnh lên tiếng thăm dò. Lão Phong liếc nhanh qua ba người kia. Đào Đức và thư sinh họ Khởi cúi nhìn chén trà trước mặt. Họ Ôn mím đôi môi mỏng lại, vuốt chòm râu của mình và hỏi một cách thận trọng, “Thưa, Lỗ đại nhân đã nói như thế hay sao ạ?” “Ông ấy không nói với ta nhiều lắm,” Huyện lệnh thừa nhận, “do tình thế lúc đó cấp bách nên ta chỉ được cho biết vài tình tiết chính mà thôi.” Ôn Nguyên nhìn Phong Đại đầy ngụ ý. Đào Đức nhìn ông với đôi mắt u sầu đầy vẻ mệt mỏi và bắt đầu từ tốn, “Thật không may, đảo Bồng Lai này vốn không phải là nơi đắc địa cho các mối quan hệ tình cảm. Bọn thảo dân lớn lên tại đây nên đã quen với những mối tình phù phiếm sớm nở tối tàn. Bọn thảo dân chỉ xem đó là một thú tiêu khiển tao nhã để mua vui một vài trống canh mà thôi. Người thắng thì kiếm được mấy khắc hoan lạc vui vẻ, kẻ thua thì quay đi tìm bạn chơi khác. Nhưng người từ nơi khác tới thường không nghĩ như thế, còn các kỹ nữ thì rất lão luyện trong tình trường. Thế là các vị khách cứ thế chìm đắm vào các mối tình đó để rồi dẫn đến kết cục bi thảm.” Địch huyện lệnh không ngờ một người buôn rượu lại có thể buông những lời nhận xét xác đáng như vậy. Ông hỏi một cách tò mò, “Gia môn ngươi ở vùng này phải không?” “Dạ không, thưa đại nhân, gia tiên thảo dân vốn ở Giang Nam. Khoảng bốn mươi năm trước, gia phụ thảo dân tới đây và mua tất cả những cửa hàng rượu trên đảo này. Tiếc là người đã sớm quy tiên khi thảo dân vẫn còn là một đứa trẻ.” Viên quản sự vội vã đứng dậy và lên tiếng với chất giọng vui vẻ đầy giả tạo, “Thưa chư vị, đã đến lúc thưởng thức một thứ tuyệt vời hơn cả vị trà. Mời các ngài an tọa và dùng bữa!” Phong Đại mời Địch huyện lệnh ngồi ở vị trí danh dự trong bàn tiệc, đối ngưỡng với cửa chính, còn bản thân thì ngồi đối diện với ông, Đào Đức ngồi bên trái và Ôn Nguyên bên phải. Họ Phong ra hiệu cho Khởi thư sinh ngồi bên phải khách quý, sau đó đề nghị mọi người cùng nâng chén nghênh đón Huyện lệnh đến đảo này. Địch huyện lệnh nhấp vài ngụm rượu nồng. Sau đó, ông chỉ vào chiếc ghế còn trống bên trái mình và hỏi, “Phải chăng có một vị khách còn chưa đến?” “Đúng vậy, thưa đại nhân, một vị khách vô cùng đặc biệt!” Lão Phong trả lời. Một lần nữa Huyện lệnh lại bị bất ngờ vì thái độ hồ hởi gượng ép. “Lát nữa thôi, Thu Nguyệt, một kỹ nữ xinh đẹp và danh tiếng bậc nhất, sẽ đến dự tiệc cùng chúng ta.” Ông nhướn mày. Kỹ nữ thường phải đứng hoặc ngồi trên chiếc ghế con tách biệt ở phía sau. Họ không được ngồi vào bàn tiệc như những khách nhân thông thường. Nhận thấy ánh nhìn nghi hoặc của ông, Đào Đức vội vã giải thích, “Những kỹ nữ tài sắc nức danh chính là vật báu đối với bọn thảo dân, thưa đại nhân. Cho nên các nàng ấy nhận được sự sủng hạnh có chút khác biệt. Ngoài sòng bạc ra, các kỹ nữ chính là sức hút đưa các du khách đến đảo này. Họ mang lại phân nửa lời lãi thu được của đảo Bồng Lai đó ạ.” “Bốn phần mười số ngân lượng đó phải nộp cho triều đình,” chủ hiệu đồ cổ buông lời nhận xét. Địch huyện lệnh lặng lẽ dùng đũa gắp một miếng cá khô. Ông biết rằng các khoản thuế của hòn đảo này là một phần không nhỏ trong nguồn ngân lượng thu được của toàn phủ. Ông nói với lão Phong, “Ta cho rằng với số ngân lượng khổng lồ được trao đổi ở đây, việc đảm bảo trật tự thật sự không dễ.” “Bẩm đại nhân, trên đảo này thì việc đó không quá khó khăn. Thảo dân có khoảng sáu mươi hảo thủ được tuyển chọn từ dân địa phương, đều được Tri huyện đại nhân đồng ý bổ nhiệm làm các bảo tiêu. Họ không mặc quân phục nên có thể trà trộn vào làm khách trong sòng bạc, tửu lâu hoặc kỹ viện, âm thầm quan sát mọi việc diễn ra nơi đây. Tuy nhiên, khu vực xung quanh đảo lại hết sức phức tạp vì có nhiều toán đạo tặc rình rập để cướp bóc khách bộ hành. Nửa tháng trước, bọn thảo dân đã gặp một trường hợp đáng lo ngại. Năm tên cướp nhào ra đón đường một vị khách mang theo số vàng lớn đang rời khỏi đảo. May mắn thay, hai người lính hộ tống vị khách đó đã đánh bại bọn cướp và giết được ba tên, hai tên còn lại đã tẩu thoát.” Họ Phong uống cạn chén của mình rồi hỏi, “Thảo dân tin rằng ngài đã tìm được một nơi nghỉ trọ thoải mái, thưa đại nhân?” “Phải, ta ngụ tại một gian phòng rất đẹp tên là Hồng lâu tại khách điếm Vĩnh Lạc.” Cả bốn nam nhân có mặt trên bàn tiệc đột nhiên nhìn chằm chằm vào Huyện lệnh. Phong Đại đặt vội đôi đũa xuống bàn và nói với vẻ hối lỗi, “Thưa, gã chủ khách điếm ấy thật to gan, dám để đại nhân trú tại gian phòng đó. Ba ngày trước, vị Trạng nguyên xấu số đã tự sát tại chính gian phòng đó. Thảo dân sẽ ngay lập tức tìm một gian phòng phù hợp cho ngài…” Địch huyện lệnh vội ngắt lời lão, “Chẳng sao cả! Tại gian phòng đó, ta có thể tìm hiểu thêm về hiện trường vụ án. Ngươi cũng đừng trách gã chưởng quỹ, ta vừa nhớ ra là gã đã cảnh báo ta nhưng ta vẫn cứ quyết ý. Hãy nói ta nghe, vụ tự sát xảy ra ở phòng nào tại Hồng lâu?” Họ Phong hãy còn tỏ ra khó chịu. Đào Đức vội trả lời thay, “Trong buồng ngủ, thưa đại nhân. Cánh cửa bị khóa từ bên trong, Lỗ đại nhân phải phá cửa mới vào được.” “Ta nhận thấy ổ khóa đã được thay mới. Phải rồi, nếu ổ khóa được khóa từ bên trong và cửa sổ duy nhất trong buồng lại có các chấn song bằng sắt, chắc chắn là người ngoài không thể đột nhập vào được. Vậy Trạng nguyên đó đã tự sát như thế nào?” “Nam nhân đó đã dùng dao đâm vào tĩnh mạch của mình,” Phong Đại lên tiếng. “Đây là diễn biến vụ án. Trạng nguyên ăn tối một mình ở ngoài mái hiên, sau đó vào buồng để sắp xếp văn thư, theo những gì y đã nói với tiểu nhị. Y muốn được yên tĩnh một mình, không muốn ai làm phiền. Vài canh giờ sau, tiểu nhị nhớ ra mình chưa mang trà lên cho khách. Hắn gõ cửa Hồng lâu thì không thấy ai trả lời, bèn bước ra ngoài hiên, nhìn qua cửa sổ xem vị khách đã đi nằm chưa. Và rồi, hắn thấy có người nằm ngửa trước giường với bộ ngực loang lổ máu.” Lão kể tiếp, “Tiểu nhị ngay lập tức báo với gã chưởng quỹ và người này bẩm báo lại cho thảo dân. Bọn thảo dân chạy đến khách điếm Lỗ Tri huyện đang ở, cùng ngài ấy và các tùy tùng đi đến khách điếm Vĩnh Lạc. Lỗ đại nhân ra lệnh phá vỡ cánh cửa của Hồng lâu. Thi thể của Trạng nguyên được mang đến đạo quán ở phía bên kia đảo và cuộc nghiệm thi được tiến hành ngay trong đêm.” “Có tìm thấy bất kỳ dấu vết đặc biệt nào trên thi thể không?” Địch huyện lệnh hỏi. “Không, thưa đại nhân. Nhưng để thảo dân nhớ lại xem nào, hình như có vài vết trầy xước mỏng và dài trên mặt và cánh tay của Trạng nguyên mà không biết nguồn cơn là do đâu. Lỗ đại nhân đã phái người đến gặp phụ thân của Lý Liên. Ông ta tên là Lý Vệ Đình, từng là Đô ngự sử nổi tiếng trong triều, giờ đang sống trong một biệt phủ cách đây sáu dặm về phía bắc. Người chuyển tin đã quay trở về cùng với thúc phụ của nạn nhân, bởi vì Lý tiên sinh đang lâm trọng bệnh nên không đi được. Thi hài của Trạng nguyên được đem về chôn cất trong nghĩa địa của họ Lý.” “Kỹ nữ mà Trạng nguyên đem lòng si mê là ai vậy?” Một lần nữa, mọi người lại im lặng đầy bối rối. Phong Đại hắng giọng và trả lời với vẻ miễn cưỡng, “Bẩm, đó là Thu Nguyệt, Hoa khôi năm nay.” Địch huyện lệnh thở dài. Điều ông lo sợ đã trở thành hiện thực. “Trạng nguyên đã không để lại thư tuyệt mệnh cho nàng, cũng giống hầu hết những người lâm vào cảnh tuyệt vọng trong tình yêu,” lão Phong nhanh chóng tiếp lời. “Nhưng bọn thảo dân để ý thấy y đã vẽ hai vòng tròn trên tờ giấy đặt trên bàn. Bên dưới, y viết tên Thu Nguyệt ba lần. Do đó, khi Tri huyện gọi Hoa khôi đến lấy khẩu cung thì nàng thừa nhận rằng Trạng nguyên say mê mình. Y đã đề nghị chuộc Thu Nguyệt ra khỏi đây nhưng bị nàng từ chối.” “Vừa nãy, ta đã tình cờ gặp vị cô nương đó trước khi đến đây,” ông lạnh lùng nói. “Dường như nàng ta có phần tự hào khi có những nam nhân dám tự sát vì mình. Ta nghĩ Thu Nguyệt là một nữ nhân xấu nết và nhẫn tâm. Do đó, sự hiện diện của nàng ta tại đây vào đêm nay…” “Thảo dân hi vọng đại nhân chiếu cố, đặt mình vào vị trí của nàng ta,” Đào Đức nhanh chóng thêm lời. “Danh tiếng của một kỹ nữ sẽ nổi như cồn khi có nam nhân dám chết vì nàng, nhất là nếu kẻ si tình là một danh sĩ. Mối tình tuyệt vọng này sẽ lan truyền khắp chốn và thu hút những vị khách giàu có không kiềm nổi sự tò mò…” “Dù thế nào thì nàng ta cũng thật đáng trách!” Địch huyện lệnh phẫn nộ ngắt lời. Tiểu nhị mang lên một con vịt quay đặt trên chiếc khay lớn. Huyện lệnh nếm thử và phải thừa nhận là hương vị của nó thật tuyệt vời. Ít nhất thì vị bằng hữu họ Lỗ cũng thông báo được một việc chính xác. Tiếp đó, có ba thiếu nữ tiến vào, cúi mình thi lễ. Một nàng mang theo cây đàn, nàng thứ hai cầm cái trống nhỏ. Trong khi hai nàng này ngồi xuống hai cái đôn kê sát tường thì nàng thứ ba, một thiếu nữ có thân hình hấp dẫn và khuôn trăng khả ái muôn phần, bước đến bàn hầu rượu. Lão Phong giới thiệu nàng là Ngân Tiên, học trò của Thu Nguyệt. Thi sĩ họ Khởi, người nãy giờ thần sắc rầu rĩ, dường như phấn chấn hẳn lên. Y buông mấy lời đùa cợt với Ngân Tiên, sau đó bắt đầu cuộc chuyện phiếm với Địch huyện lệnh về những bản nhạc cổ. Thiếu nữ cầm đàn xướng lên một giai điệu vui tươi và thiếu nữ còn lại dùng tay đánh lên mặt trống phụ họa. Khi bản nhạc chấm dứt, ông nghe lão chủ hiệu đồ cổ buông lời, “Tại sao nàng lại ra vẻ đoan trang như vậy, mỹ nữ của ta?” Ngân Tiên thẹn thùng, khuôn mặt đỏ ửng, cố gắng thoát ra khỏi vòng tay ôm ấp, nhưng lão Ôn càng lần sâu vào ống tay áo rộng của nàng. “Hãy còn quá sớm đấy, Ôn chưởng quỹ à!” Thi sĩ gay gắt. Lão ta nhanh chóng rút tay ra. Phong Đại nói, “Nào, Ngân Tiên hãy rót đầy chén cho Khởi công tử đi chứ! Ngươi hãy tiếp đãi cho tốt vào, công tử sắp chấm dứt cuộc sống độc thân phong lưu của mình rồi!” Lão nói thêm với Địch huyện lệnh. “Thảo dân lấy làm vinh hạnh được bẩm báo với đại nhân rằng vài ngày tới, thảo dân sẽ thông báo việc hứa hôn của Khởi công tử và ái nữ duy nhất của thảo dân là Ngọc Hoàn.” “Nào, hãy cùng nâng chén chúc mừng!” Đào Đức hứng thú. Địch huyện lệnh đang có vài lời chúc mừng với tân lang tương lai thì bất ngờ ngưng lại. Ông thất thần nhìn vào nữ nhân cao ráo với vẻ mặt uy nghi vừa xuất hiện trước cánh cửa mở. Nàng mặc một chiếc áo gấm tuyệt đẹp thêu các loài hoa và chim bằng chỉ vàng với cổ cao và tay áo rộng. Một chiếc thắt lưng màu tím rộng bản thắt ngang hông làm lộ rõ vòng eo mảnh mai và bộ ngực đầy đặn. Mái tóc nàng được búi cao và cài lên một chiếc trâm vàng nạm ngọc, khuôn mặt trái xoan điểm trang tỉ mỉ và đôi tai xinh xắn đeo bông tai bằng cẩm thạch màu xanh lục chạm khắc tinh tế. Lão Phong cẩn trọng tiếp đón người vừa bước vào. Nàng miễn cưỡng cúi mình thi lễ một cách chiếu lệ, sau đó nhìn nhanh bàn tiệc và cau mày hỏi, “Lỗ Tri huyện chưa đến sao?” Phong Đại vội vã giải thích rằng Lỗ đại nhân phải rời khỏi đảo vì có việc đột xuất nhưng Địch đại nhân, Huyện lệnh của huyện kế cận, đã thay mặt đến tham dự dạ yến. Lão mời nàng ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Địch huyện lệnh. Khi Hoa khôi ngồi xuống, Huyện lệnh nghĩ mình nên gây thiện cảm với nàng để từ đó có thể thu thập thông tin về người đã chết. Vì vậy, ông vui vẻ nói, “Bây giờ chúng ta đã biết nhau! Ta thực sự rất may mắn trong ngày hôm nay!” Thu Nguyệt nhìn ông một cách lạnh nhạt. “Sao còn không mau rót đầy chén cho ta!” Nàng quát Ngân Tiên. Thiếu nữ vội vã vâng lời và Thu Nguyệt uống cạn chén chỉ trong một hơi, cái chén ngay lập tức được rót đầy trở lại. Sau đó, nàng làm như tình cờ hỏi Địch huyện lệnh, “Lỗ đại nhân không nhờ ngài nhắn nhủ gì cho thiếp sao ạ?” “Ông ấy nhờ ta chuyển lời cáo lỗi chân thành của mình đến mọi người,” Địch huyện lệnh trả lời với vẻ hơi ngạc nhiên, “chắc chắn là trong đó có cả cô nương.” Nàng không trả lời, chỉ lặng lẽ nhìn vào chén rượu của mình một lúc lâu, hàng lông mày rậm xinh đẹp khẽ nhíu lại. Huyện lệnh nhận thấy bốn người kia nhìn nàng đầy lo ngại. Đột nhiên nàng ngẩng đầu lên và lớn tiếng với hai thiếu nữ đang cầm nhạc cụ, “Đừng chỉ ngồi đó mà giương mắt nhìn một cách ngu ngốc như vậy! Sở dĩ hai ngươi có mặt ở đây là để tấu nhạc, hiểu không?” Khi hai thiếu nữ bắt đầu tấu nhạc với vẻ sợ hãi, nàng uống cạn chén rượu của mình chỉ trong một hơi. Tò mò quan sát nữ nhân xinh đẹp ngồi kế mình, Địch huyện lệnh nhận thấy những đường nét khắc nghiệt càng hiện rõ trên khóe miệng Hoa khôi. Nàng rõ ràng là kiểu người có tư chất nóng nảy. Thiếu nữ ngước lên nhìn Phong Đại với vẻ dò hỏi. Lão liền làm như không có gì và nhanh chóng bắt đầu cuộc trò chuyện với Đào Đức. Đột nhiên Địch huyện lệnh hiểu ra. Nàng đã nói với ông là sẽ trở thành phu nhân của một vị Tri huyện, người cũng là một thi nhân giàu có. Họ Lỗ là một vị Tri huyện, cũng có làm thơ và hầu bao thì đầy ngân lượng! Ông lấy làm thích thú khi nghĩ rằng người đồng liêu phong lưu của mình trong khi xử án đã tình cờ quen biết với Hoa khôi. Trong một thời điểm khinh suất, ông ta lỡ hứa hẹn sẽ chuộc nàng ra và cho nàng một danh phận. Điều đó giải thích cho việc ông ta hấp tấp rời khỏi đảo, chẳng qua là ‘bỏ của chạy lấy người’. Vị Tri huyện vui tính sớm phát giác ra mình đã dính dáng với một nữ nhân đầy tham vọng và tàn nhẫn, người sẽ không ngần ngại gây áp lực lên ông ta. Còn ông ta thì không cho phép bản thân có quan hệ thân mật với một nhân chứng quan trọng trong vụ án. Không có gì khó hiểu khi ông ta muốn đào tẩu khỏi đảo càng nhanh càng tốt! Nhưng họ Lỗ đã đánh lừa ông, một vị đồng liêu cùng cấp bậc, làm vật thế thân cho mình. Tất nhiên lão Phong và những người khác đều biết rõ về sự say mê của Lỗ Tri huyện, do đó đã mời Thu Nguyệt đến bữa tiệc. Có lẽ dạ yến tối nay còn là tiệc chúc mừng họ Lỗ chuộc nàng ra. Do đó Thu Nguyệt vô cùng kinh ngạc khi nhận ra rằng Lỗ đại nhân đã cho mình leo cây và đưa đến một vị Huyện lệnh khác để thế mạng. Phải rồi, ông nhất định phải tìm cách thoát ra khỏi tình huống trớ trêu này. Ông nở một nụ cười điềm nhiên và nói với Thu Nguyệt, “Ta vừa nghe tin Trạng nguyên nổi tiếng Lý Liên đã tự sát vì cô nương. Cổ nhân đã đúc kết ra rằng anh hùng khó qua được ải mỹ nhân, những nam nhân phong lưu tuấn tú luôn bị vướng vào lưới tình với những nữ nhân tài sắc vẹn toàn!” Thu Nguyệt liếc xéo sang Địch huyện lệnh, sau đó trả lời với giọng điệu đã có vài phần thân thiện hơn, “Đa tạ đại nhân đã đánh giá cao. Quả đúng Lý Trạng nguyên là một nam nhân quyến rũ theo một cách nào đó. Y đã gửi cho thiếp một lọ dầu thơm làm quà chia tay, cùng một bài thơ rất đượm tình. Y đến tận phòng thiếp ở để gửi món quà đó. Nam nhân đó biết thiếp thích những loại dầu thơm đắt tiền.” Nàng thở dài sau đó trầm ngâm nói tiếp, “Sau tất cả mọi việc, đáng lý thiếp nên dành chút tình cảm cho Trạng nguyên. Y rất chu đáo và hào phóng. Thiếp bận đến nỗi còn chưa mở phong thư ra và tự vấn không biết trong đó là loại dầu thơm gì. Y biết thiếp thích mùi xạ hương cũng như mùi gỗ đàn hương của Thiên Trúc. Thiếp có hỏi khi họ Lý cáo lui nhưng y không trả lời mà chỉ nói ‘Ta mong nó sẽ đi đến đích’, có nghĩa là thiếp. Y chỉ cười nhẹ. Ngài nghĩ rằng hương thơm nào thích hợp với thiếp hơn, mùi xạ hương hay đàn hương?” Địch huyện lệnh bắt đầu cất lời khen ngợi theo phép lịch sự nhưng bị những âm thanh của một vụ xô xát ở phía bàn bên chen ngang. Ngân Tiên, người vừa đến rót rượu cho chủ hiệu đồ cổ, đang cố gắng vùng vẫy đẩy tay của lão ta ra khỏi ngực nàng. Cuộc giằng co đã khiến chén rượu bắn ướt áo của lão ta. “Tiện nữ vụng về kia!” Thu Nguyệt quát lên. “Ngươi không thể cẩn thận hơn được sao? Và tóc tai ngươi đang rối tung lên kìa! Còn không mau về phòng thay xiêm y và sửa soạn lại đi!” Thu Nguyệt khó chịu nhìn theo bóng nữ nhân đang sợ hãi bước ra cửa. Nàng quay sang phía Huyện lệnh, rụt rè hỏi, “Thỉnh cầu đại nhân rót cho thiếp một chén rượu, coi như ban cho thiếp một đặc ân được không?” Sau khi rót đầy chén, Địch huyện lệnh nhận thấy nàng đang đỏ mặt. Cuối cùng thì rượu mạnh cũng có một tác dụng nào đó. Thu Nguyệt liếm môi và mỉm cười nhưng dường như nàng đang theo đuổi suy nghĩ về một điều gì đó. Sau khi nhấp vài lần rượu, nàng đột nhiên đứng lên và nói, “Thiếp xin phép ra ngoài một chút, rồi sẽ quay lại ngay!” Sau khi nàng đi ra, Huyện lệnh cố gắng bắt chuyện với Khởi Ngọc Ba nhưng thi sĩ dường như đã trở lại với vẻ buồn rầu như lúc trước. Món ăn mới được mang vào và mọi người thích thú cùng nhau thưởng thức. Hai nữ nhân còn lại tấu lên những điệu nhạc đang thịnh hành. Địch huyện lệnh không lấy làm hứng thú với các giai điệu mới này nhưng ông phải thừa nhận là thức ăn rất ngon. Khi món cá cuối cùng được bày ra, Thu Nguyệt quay trở lại trong tâm trạng rất hưng phấn. Khi đi ngang qua chủ hiệu đồ cổ, nàng dừng lại và thì thầm điều gì đó vào tai họ Ôn, sau đó phóng đãng dùng cây quạt của mình đập nhẹ lên vai lão ta. Lúc ngồi xuống, nàng thưa với Địch huyện lệnh, “Đêm nay quả thực vô cùng thú vị!” Nàng lả lướt đặt bàn tay mình lên cánh tay ông, cúi đầu xuống để ông có thể ngửi thấy mùi dầu thơm xạ hương trên tóc mình, rồi nhẹ nhàng cất giọng, “Thiếp sẽ nói cho đại nhân biết vì sao hôm đó khi gặp ngài trên hành lang khách điếm, thiếp lại thất kính như vậy. Đó là bởi vì thiếp không muốn phải tự thừa nhận rằng mình đã phải lòng ngài ngay từ cái nhìn đầu tiên!” Nàng nhìn sâu vào mắt Địch huyện lệnh và nói tiếp, “Đại nhân thực sự không thích thiếp hay ngài chỉ ra vẻ như vậy?” Trong khi Huyện lệnh còn đang lúng túng tìm câu trả lời thỏa đáng, thiếu nữ siết chặt tay ông và nhanh chóng nói tiếp, “Thiếp thật vô cùng vinh hạnh khi được gặp gỡ một vị đại nhân tinh tường và từng trải như ngài! Ngài hoàn toàn không để tâm tới sự phóng khoáng của những cô nương mơn mởn như thiếp đây! Đó chính là sự khác biệt của một nam nhân từng trải như ngài…” Thu Nguyệt nhìn Địch huyện lệnh một cách e thẹn. Nàng chớp chớp đôi mắt và nhẹ nhàng nói thêm, “Chỉ có thần tiên mới biết được…” Huyện lệnh cảm thấy nhẹ nhõm khi Ôn Nguyên đã đứng dậy và đang chuẩn bị cáo từ. Họ Ôn nói rằng có một khách hàng quan trọng muốn gặp lão ta sau dạ yến nên lão ta phải cáo lỗi với mọi người để lui về sớm. Thu Nguyệt bắt đầu lả lơi đùa cợt với lão Phong và họ Đào. Nàng uống liên tiếp và giọng điệu đã trở nên nhập nhèm không rõ nhưng vẫn cố bắt bẻ này nọ. Cuối cùng, khi Phong Đại kể xong một câu chuyện hài hước, nàng đột nhiên đặt tay trên trán và nói với vẻ ai oán, “Xin thứ lỗi, thiếp đã uống quá nhiều rồi! Các ngài chắc sẽ cảm thấy không hài lòng nếu thiếp xin phép cáo từ ngay bây giờ? Thiếp xin uống cạn chén này và mong các ngài lượng thứ!” Nàng nâng chén rượu của Địch huyện lệnh lên và từ từ uống. Sau đó thi lễ và cáo từ. Thấy Huyện lệnh khó chịu nhìn vết son môi lưu lại trên miệng chén, họ Đào mỉm cười thưa lời, “Bẩm đại nhân, ngài đã gây ấn tượng mạnh với Hoa khôi của bọn thảo dân rồi đấy ạ!” “Nàng ta chỉ muốn thể hiện sự hiếu khách với một người lạ mà thôi.” Địch huyện lệnh từ chối. Khởi Ngọc Ba đứng lên và xin phép cáo từ với lý do sức khỏe không cho phép. Địch huyện lệnh nghĩ rằng mình không nên vội vã cáo từ mà phải nán lại thêm một vài canh giờ nữa. Nếu ông lui về sớm, mọi người sẽ nghĩ ông chạy theo nàng kỹ nữ kia. Nàng đã uống cạn rượu trong chén của ông và đó hẳn là một lời mời gọi rõ ràng. Họ Lỗ thật sự đã đặt ông vào một một tình thế khó xử! Ông hắt ra một tiếng thở dài rồi bắt đầu dùng món chè tráng miệng của dạ yến tối nay. HỒI 4 Mã Vinh hỏi chuyện nhị bằng hữu Ôn Nguyên để lộ hành tung gian Sau khi Mã Vinh cáo biệt Địch huyện lệnh tại cổng Gia Hạc lâu, y vừa đi xuống phố vừa huýt một khúc nhạc vui tươi. Chẳng mấy chốc, y đã tìm ra con đường chính của đảo. Mọi người đang náo nức xoay quanh những vòm cầu được trát vữa màu cách nhau từng khoảng cố định trên đường và đang đổ dồn về phía những cánh cổng cao của các sòng bạc. Những chủ hiệu bánh và tiệm mì đã phải cố nâng cao giọng mình lên để đám đông ồn ào kia nghe thấy tiếng rao của họ. Mỗi khi tiếng ồn lắng xuống, đâu đó người ta lại nghe thấy tiếng những đồng xu làm bằng đồng kêu leng keng trong một cái máng gỗ lớn do hai nam nhân lực lưỡng đứng trước cửa mỗi sòng bạc lắc tới lắc lui. Họ lắc suốt đêm như vậy vì âm thanh những đồng bạc va vào nhau được coi là điềm may của những sòng bạc này, sẽ giúp thu hút mọi người đến đó. Mã Vinh dừng lại trước một chiếc bàn thờ cao đặt cạnh cửa của Hằng Phong Trang, sòng bạc lớn nhất nơi đây. Trên đó chất đầy những đĩa và bát đựng mứt kẹo, mứt hoa quả. Cạnh đó là một chiếc giàn treo đầy những thứ hàng mã, nào là nhà cửa, xe ngựa, tàu thuyền, gia cụ, y phục, vân vân. Tất cả đều được làm bằng giấy. Chiếc bàn thờ này chỉ là một trong rất nhiều chiếc bàn thờ được lập từ đầu tháng Bảy để cầu siêu cho những người đã khuất đang được tự do tới cõi trần trong suốt thời gian diễn ra lễ Xá tội vong nhân. Các hồn ma sẽ hưởng những đồ ăn được bày ra và chọn lấy một hình nộm bằng giấy mà họ cần cho cuộc sống ở dưới Âm phủ. Vào ngày cuối cùng của tháng, lễ này sẽ kết thúc. Người ta sẽ phân phát chỗ thức ăn kia cho những người nghèo khổ, sẽ đốt những bàn thờ dựng tạm và những hình nộm kia đi. Làn khói mờ ảo sẽ mang theo những vật dụng được người âm chọn tới thế giới dưới âm ti. Lễ hội này gợi nhắc con người rằng cái chết không phải là sự chia ly cuối cùng. Mỗi năm, những người đã khuất đều sẽ quay lại trần gian, nơi có những người thân yêu của họ và sinh hoạt tại đây vài tuần. Sau khi nhìn ngắm mọi sự, Mã Vinh tự cười và nói với bản thân mình, “Linh hồn thúc thúc chắc chắn sẽ không ở đây! Thúc ấy cũng không còn răng mà ăn đống kẹo này nữa nhưng thúc ấy từng là một tay bài bạc sành sỏi lúc sinh thời. Thật may là thúc thúc đã để lại cho ta hai nén vàng. Có lẽ ta nên vào đó để thử vận may, biết đâu thúc ấy sẽ quanh quẩn đâu đó quanh mấy bàn bài bạc và chỉ đường dẫn lối cho ta thắng được vài ván!” Sau khi trả mười đồng phí vào cửa, Mã Vinh bước vào và nhìn ngắm từng đám người đang quây quanh chiếu bạc lớn ở giữa sòng bạc. Trò chơi đơn giản và phổ biến nhất đang được tiến hành ở đây. Người ta phải đặt cược theo số lượng đồng xu sấp hay ngửa mà người chủ xị lắc được ở dưới một cái bát ăn cơm úp ngược. Tiếp đó, Mã Vinh rẽ về phía cầu thang ở phía sau. Trong căn phòng lớn trên lầu, những con bạc ngồi thành từng nhóm sáu người quanh tầm chục cái bàn nhỏ và đang chơi những trò khác nhau với những tấm thẻ bài hoặc những con xúc xắc. Tất cả những khách quan trong này đều ăn mặc rất phú quý. Ở một chiếc bàn nọ, Mã Vinh nhận ra có hai người mặc y phục của sòng bạc. Trên vách tường phía trong treo một tấm bảng đỏ viết một dòng chữ lớn, “Trả ngân lượng ngay khi chơi bài!” Trong lúc Mã Vinh đang phân vân chưa biết nên tham gia vào chiếu bài nào thì một gã gù vóc dáng nhỏ bé bước tới cạnh y. Gã mặc y phục màu xanh gọn gàng nhưng chiếc đầu lớn với mái tóc xám bạc rối xù của gã thì lại không ăn khớp chút nào với bộ y phục. Gã vừa ngẩng cao đầu lên, nhìn Mã Vinh với ánh mắt mờ đục vừa hét lên, “Nếu muốn chơi thì cho ta xem ngài có bao nhiêu tiền.” “Chuyện đó thì liên quan gì tới ngươi?” Mã Vinh tức giận. “Đó là quy định!” Một giọng nói trầm thấp vang lên sau lưng y. Mã Vinh quay đầu lại. Đập vào mắt y là một nam nhân to lớn, cao bằng y nhưng khuôn ngực vạm vỡ như một chiếc thùng phi vậy. Cái đầu lớn của hắn như mọc lên trực tiếp từ bờ vai rộng và ngực hắn phồng lên như mai của con cua. Hắn nhìn Mã Vinh bằng ánh mắt soi mói từ đôi mắt nhỏ lồi lên của mình. “Ngươi là ai?” Mã Vinh hỏi một cách đầy ngạc nhiên. “Ta là Giải Tử*Giải tử nghĩa là 'con cua'.” Nam nhân to lớn mệt nhọc trả lời. “Còn người cùng làm với ta ở đây là Hà Tử*Hà tử nghĩa là ‘con tôm’.. Bọn ta đến để phục vụ ngài.” “Ở đây còn có tên nào gọi là Muối không vậy?” Mã Vinh hỏi. “Không có. Sao ngài lại hỏi thế?” “Nếu có thì ta có thể cho cả ba ngươi vào nước sôi, luộc lên rồi có một bữa ngon lành.” Mã Vinh khinh bỉ đáp lại. “Này, huynh giúp ta đi, ta bị khách nhân đùa giỡn.” Giải Tử buồn rầu nhờ vả gã gù. Nhưng Hà Tử phớt lờ hắn. Ánh mắt của gã đi dọc theo chiếc mũi nhọn nhìn về phía Mã Vinh. Gã hỏi lớn, “Ngài có biết đọc hay không? Bảng thông báo đằng kia đã nói rõ rằng khách nhân đến đây phải đặt ngân lượng. Để ngăn chuyện người chơi quỵt tiền, những người mới đến bắt buộc phải cho bọn ta thấy họ có khả năng chi trả hay không.” “Cũng không phải là không hợp lý.” Mã Vinh miễn cưỡng chấp nhận. “Vậy hai người các ngươi làm việc cho sòng bạc này sao?” “Ta và Hà Tử đều là những người giám sát tại đây.” Giải Tử trả lời ngắn gọn. “Bọn ta là thuộc hạ của ông chủ Phong Đại, chủ nhân nơi này.” Mã Vinh nhìn cặp bài trùng này một lát và suy nghĩ. Sau đó, y cúi xuống và lấy ra thư phó thác từ ủng của mình. Sau khi cho Giải Tử xem qua, y nói, “Ta làm việc cho Địch huyện lệnh bên Phổ Dương. Bây giờ ngài ấy đang phụ trách điều tra ở đây. Ta muốn nói chuyện riêng với hai người các ngươi.” Sau khi cặp đôi kỳ lạ kia nhìn qua bức thư phó thác, Giải Tử trả nó về cho Mã Vinh rồi thở dài, “Nói chuyện sẽ không tránh khỏi khô họng. Mã đại nhân, chúng ta hãy ra ngoài hiên ăn uống một chút rồi bàn việc.” Ba người ngồi xuống một góc thuận lợi để Giải Tử vẫn có thể quan sát tình hình những con bạc bên trong. Sau đó, một tên hầu đưa lên một đĩa cơm rang lớn và ba chén rượu trên bàn của họ. Sau quá trình chào hỏi xã giao như thường lệ, Mã Vinh mới biết được rằng Giải Tử và Hà Tử vốn sinh ra và lớn lên trên đảo Bồng Lai. Giải Tử vốn là một võ sĩ cấp tám. Chỉ một lúc sau, hắn và Mã Vinh đã đi sâu vào thảo luận những đòn thế trong võ thuật. Gã gù không hề tham gia thảo luận vấn đề mang tính chuyên môn này. Gã chỉ tập trung vào đĩa cơm, làm cho nó vơi đi một cách nhanh chóng. Khi đĩa cơm đã trống trơn, Mã Vinh nốc cạn chén rượu của mình, dựa lưng vào ghế và vỗ bụng một cách đầy mãn nguyện. “Bây giờ mọi thủ tục có vẻ đã xong, ta đã thấy mình có đủ sức để vào chính sự rồi. Các ngươi có biết gì về Trạng nguyên họ Lý không?” Giải Tử cho Hà Tử một cái lướt nhìn rồi nói, “Vậy là đại nhân nhà ngài muốn biết mọi chuyện xảy ra như thế nào đúng không? Ta sẽ nói ý chính cho ngài biết, vị Trạng nguyên đó đã đến đây thưởng ngoạn và có một cái kết bi thảm. Nhưng trong thời gian ở đây, ngài ấy đã được hưởng nhiều lạc thú, theo ta biết là thế.” Trong sòng bạc bỗng vang lên tiếng ẩu đả. Giải Tử nhanh chóng bật dậy và di chuyển tới đó với thân hình nặng nề của mình. Còn Hà Tử lúc này uống cạn chén rượu rồi tiếp tục câu chuyện, “Chuyện xảy ra như thế này. Mười ngày trước, tức ngày 18, Lý Trạng nguyên và năm vị bằng hữu của ngài ấy đã đi thuyền từ kinh đô tới. Họ đã du ngoạn trên sông hai ngày, cả hai ngày này họ đều ăn chơi nhậu nhẹt từ sáng tới đêm. Thuyền nhân lo liệu mọi chuyện trên thuyền vì đám người kia đều đã say xỉn. Hôm đó sương mù rất dày, thuyền của họ va vào thuyền của Phong lão gia. Trên thuyền còn có Phong tiểu thư. Lúc đó, tiểu thư đang trở về nhà sau khi thăm viếng thân nhân ở phía thượng nguồn con sông. Cả hai chiếc thuyền đều bị hư hỏng nặng, do đó không thể cập bờ trước lúc trời sáng. Trạng nguyên đã hứa sẽ bồi hoàn thiệt hại. Và đó là khởi đầu cho kỳ nghỉ tồi tệ của ngài ấy tại đảo này. Sau đó, Trạng nguyên và những bằng hữu của mình tới khách điếm Vĩnh Lạc, ngài ấy đã thuê Hồng lâu kia.” “Đó chính là gian phòng mà đại nhân nhà ta đang ở!” Mã Vinh cảm thán. “Nhưng ngài ấy không sợ ma, còn ta thì nghĩ rằng vị Trạng nguyên kia đã tự tử ở ngay đó.” “Ta không hề nhắc tới việc tự tử, cũng chẳng nhắc tới ma quỷ gì.” Gã gù nhấn mạnh. Giải Tử đã quay trở lại bàn và đã kịp nghe được lời nhận định sau cùng. “Chúng ta đừng nói chuyện về những con ma.” Hắn nói và ngồi xuống. “Ta không nghĩ rằng vị Trạng nguyên đó tự tử đâu.” “Tại sao?” Mã Vinh tò mò hỏi. Hà Tử tiếp tục, “Bởi vì, ta đã theo dõi ngài ấy. Khi đến sòng bạc này, ngài ấy luôn giữ thái độ lạnh nhạt dù cho có thắng hay thua. Ngài ấy không phải loại người sẽ tự tử. Ta nghĩ vậy.” “Bọn ta vẫn luôn theo dõi những người đến đây trong suốt mười năm nay, ngài biết chứ!” Giải Tử bổ sung thêm. “Bọn ta hiểu về tất cả mọi loại người, từng người trong số họ. Nhìn tên thi sĩ trẻ kia đi. Tên y là Khởi Ngọc Ba. Y đã thua hết sạch ngân lượng, thua không còn lấy một đồng trong một lần cược. Loại người dễ kích động như y, chỉ cần ngài quay đầu đi một cái, y cũng đã có thể tự tử rồi. Còn về vị Trạng nguyên kia, ngài ấy sẽ không tự tử, không đời nào như vậy.” “Nhưng Trạng nguyên có quan hệ mập mờ với một nữ nhân, mà nữ nhân thường làm cho một nam nhân hành xử như một tên đần vậy. Khi ta nghĩ về những việc mà họ đã từng yêu cầu ta làm, thỉnh thoảng…” “Ngài ấy không tự tử.” Giải Tử nhẫn nại lặp lại lần nữa. “Ngài ấy là người lạnh lùng và suy tính kỹ. Nếu như có một nữ nhân nào định rời khỏi ngài ấy, ngài ấy sẽ bằng mọi thủ đoạn giữ nàng chứ nhất định sẽ không tự sát.” “Vậy đây là một vụ mưu sát!” Mã Vinh thốt lên. Giải Tử dường như có vẻ giật mình. Hắn hỏi Hà Tử, “Ta không nhắc đến từ mưu sát đúng không?” “Không.” Gã gù xác nhận lại. Mã Vinh nhún vai và hỏi, “Trạng nguyên đã từng chung đụng với những nữ nhân nào?” “Ngài ấy gặp Hoa khôi đảo Bồng Lai bọn ta nhiều nhất nhưng cũng gặp Cẩm Chướng ở phố bên, rồi Ngọc Hoa, Mẫu Đơn nữa. Trong những ngày lưu lại đây, ngài ấy đã có quan hệ với những cô nương đó. Có lẽ ngài ấy chỉ chơi đùa thôi. Đi mà hỏi những cô nương đó, đừng hỏi ta. Ta không quan tâm đến chuyện đó lắm.” “Có lẽ đây sẽ là một lần tra án thú vị!” Mã Vinh vừa nói vừa cười. “Dù sao đi nữa, bọn họ cũng đã có những phút giây thực sự vui vẻ. Rồi sau đó thì sao?” “Ba ngày trước, tức buổi sáng ngày 25,” Hà Tử tiếp tục, “Lý Trạng nguyên mướn một chiếc thuyền cho năm vị bằng hữu của mình rồi tiễn họ trở về kinh. Ngài ấy trở lại Hồng lâu, ăn trưa ở đó một mình. Ngài ấy đã ở trong phòng cả buổi chiều, lần đầu tiên không tới sòng bạc. Ngài ấy lại ăn tối một mình lần đầu tiên rồi tự khóa mình trong phòng. Vài canh giờ sau thì người ta đã nhìn thấy ngài ấy bị cứa cổ.” “Lạy Phật!” Giải Tử nói. Hà Tử trầm ngâm gãi chiếc mũi dài của mình rồi nói tiếp, “Tất cả đều là nghe nói thôi. Tin hay không là tùy ở ngài. Còn bọn ta thì tận mắt nhìn thấy Ôn chưởng quỹ đã tới khách điếm đó vào buổi tối xảy ra án mạng, tầm sau bữa tối.” “Vậy là lão ta tới thăm Trạng nguyên!” Mã Vinh phấn khích. “Những người làm việc trong nha môn thường thích đặt nghi vấn vào câu nói của người khác đúng không?” Gã gù buồn rầu hỏi Giải Tử. “Đó là thói quen của họ rồi!” Giải Tử nhún vai trả lời. “Ta nói rồi, Mã đại nhân, bọn ta đã nhìn thấy ông chủ Ôn đi tới khách điếm vào ngày hôm đó. Tất cả chỉ có vậy.” Hà Tử kiên nhẫn giải thích. “Trời ơi!” Mã Vinh thốt lên. “Vậy là ngoài khách khứa ở đây, hai ngươi còn theo dõi những người quyền quý nữa sao? Chắc hẳn hai ngươi rất bận rộn!” “Bọn ta không hề để mắt tới tất cả những người quyền quý ở đây.” Giải Tử nói. “Bọn ta chỉ theo dõi ông chủ Ôn thôi.” Hà Tử gật đầu đồng ý với câu nói đó. “Có ba công việc kiếm bộn tiền trên đảo này.” Giải Tử nhìn chăm chú về phía Mã Vinh và tiếp tục câu chuyện. “Một là mở sòng bạc và lầu xanh, lĩnh vực mà Phong lão gia của bọn ta đang theo đuổi. Hai là mở tửu lâu, chuyện làm ăn của Đào tiên sinh. Còn lĩnh vực thứ ba là mua bán đồ cổ và kim hoàn mà ông chủ Ôn đang đảm nhiệm. Ba công việc này có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu khách của bọn ta thắng bạc, bọn ta sẽ nói tốt về cửa hiệu của Đào tiên sinh và ông chủ Ôn nếu khách nhân muốn mở một buổi tiệc lớn, hoặc muốn mua những món đồ cổ xinh đẹp tinh vi, đặc biệt là những món hàng giả. Còn nếu vị khách đó thua hết ở sòng bạc thì bọn ta sẽ xem xét xem hắn ta có tiểu thiếp hay thị nữ nào xinh đẹp để gán nợ không, hoặc sẽ khuyên hắn nên bán bất cứ thứ đồ cổ nào đáng tiền mà mình có. Đại loại là như thế. Do đó, tất cả đều có mối liên kết với nhau.” “Nghe giống như một mối cộng tác chặt chẽ!” Mã Vinh nhận xét. “Đúng thế.” Hà Tử đồng ý. “Như vậy, bọn ta có Phong lão gia, Đào tiên sinh và ông chủ Ôn. Do Phong lão gia là một người thẳng thắn và trung thực nên triều đình đã cử ngài ấy làm chủ quản của đảo này. Nhờ đó, ngài ấy có thể với tay tới mọi chỗ có lợi và trở thành người giàu có nhất trong ba người. Nhưng ngài ấy cũng phải hao tâm tổn trí! Nếu như một vị quản sự mà trung thực, mọi người ở đây sẽ cùng được hưởng lợi. Du khách tới đây đều rất yên tâm. Chỉ có những tên ngốc mới dám gian lận. Còn nếu quản sự lươn lẹo, mặc dù lợi nhuận chảy vào túi ngài ấy có thể tăng hai mươi lần, nhưng sau đó làm gì có ai đến đây nữa. Do đó, thật may Phong lão gia là người thẳng thắn. Tuy vậy, lão gia lại không có trưởng nam nối dõi mà chỉ có một ái nữ. Nếu như ngài ấy khuất núi hoặc họa chăng gặp phải chuyện gì, sản nghiệp của ngài ấy sẽ bị kẻ khác đoạt mất. Đào Đức là một người có tri thức, không thích mấy chuyện quản lý nọ kia. Ta chưa nhắc tới Ôn Nguyên đúng không, Giải Tử?” “Chưa.” Giải Tử đáp lại một cách trang trọng. “Các ngươi nói với ta tất cả những chuyện này là có ý gì?” Mã Vinh ngắt ngang. “Huynh ấy chỉ thuật lại một vụ việc cho ngài thôi.” Giải Tử trả lời. “Đúng vậy!” Hà Tử nói với vẻ hài lòng. “Ta chỉ thuật lại những gì mình nhìn thấy. Nhưng có vẻ ngài là một người tốt, Mã đại nhân, ta sẽ nói cho ngài nghe thêm về một tin đồn. Ba mươi năm trước, thân phụ của Đào tiên sinh là Đào Quang đã tự tử trong Hồng lâu. Khi đó cửa sổ đóng và cửa cũng được khóa từ bên trong. Vào cái đêm ba mươi năm trước này, ông chủ Ôn cũng xuất hiện gần khách điếm đó. Đó có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.” “Phải rồi, ta sẽ nói với đại nhân nhà ta rằng trong buồng ngủ của ông ấy có đến hai hồn ma chứ không phải một. Còn bây giờ, trở về chính sự, ta cần lời khuyên của các ngươi về việc riêng.” Mã Vinh vui vẻ nói. Giải Tử thở dài và mệt mỏi nói với Hà Tử, “Ngài ấy muốn một cô nương.” Rồi hắn quay sang nói với Mã Vinh, “Trời ơi, đại nhân, ngài hãy đến bất kỳ kỹ viện nào ở con phố bên cạnh. Ngài sẽ tìm thấy tất cả các cô nương với những kỹ nghệ đặc biệt, đủ mọi vóc dáng. Ngài tự mình đi chọn lựa đi!” “Chính vì ngươi đã quá quen thuộc ở đây, nên ta mới nhờ ngươi kiếm một người đặc biệt hơn cả. Ta là người gốc Giang Tô, thế nên đêm nay ta muốn một cô nương cũng xuất thân từ đó.” Mã Vinh giải thích. Đôi mắt lồi của Giải Tử trợn tròn. “Cầm lấy tay ta đi.” Hắn nói với Hà Tử với giọng điệu đầy ghê tởm. “Ta khóc đây. Một cô nương tới từ quê của ngài ấy!” “Chuyện là đã vài năm rồi, ta chưa được âu yếm cô nương nào có khẩu ngữ quê ta.” Mã Vinh nói với vẻ lúng túng. “Ngài ấy nói chuyện trong lúc âu yếm nữ nhân. Đúng là một thói quen xấu.” Giải Tử nói với Hà Tử. Hắn quay sang Mã Vinh, “Được rồi. Ngài hãy đến Thanh Các ở phía nam đi. Nói với ma ma ở đó rằng ngài muốn Ngân Tiên. Nàng đến từ Giang Tô và là một kỹ nữ nhị đẳng nhưng rất dễ gần. Nàng hát cũng hay và được Lăng thị dạy bảo. Lăng thị cũng từng là một kỹ nữ nổi tiếng ở đây. Nhưng ta nghĩ ngài cũng không có hứng thú gì với âm nhạc đâu nhỉ. Còn chuyện đến Thanh Các, ngài hãy để nửa đêm đi, giờ còn quá sớm. Có lẽ nàng còn đang dự dạ tiệc ở đâu đó. Chuyện sau đó là của ngài. Ngài còn cần bọn ta khuyên gì không?” “Tạm thời chưa! Dù sao thì cũng cảm tạ những chỉ dạy của các ngươi. Nhưng có vẻ như các ngươi không quan tâm tới các cô nương cho lắm.” “Không,” Hà Tử đáp lại. “Một người làm bánh có ăn chính chiếc bánh mà mình tạo ra không?” “Được rồi, chắc không phải ngày nào cũng ăn.” Mã Vinh thừa nhận. “Nhưng không phải lúc này thì lúc khác hắn ta cũng sẽ cắn một miếng để xem xem bánh của mình còn hợp vị hay không. Nếu không có nữ nhân, cuộc đời chẳng phải quá buồn tẻ sao? Ta nghĩ vậy.” “Còn có bí ngô nữa.” Giải Tử trả lời trang trọng. “Bí ngô sao?” Mã Vinh ngạc nhiên. Giải Tử gật đầu khẳng định. Hắn ta lấy trong túi ra một chiếc tăm và bắt đầu xỉa răng. “Bọn ta trồng chúng.” Hà Tử giải thích. “Ta và Giải Tử có một căn nhà nhỏ cạnh bờ sông ở phía tây đảo. Ở đó, bọn ta có một khoảng đất để trồng bí ngô. Bọn ta đi làm về lúc bình minh và chăm tưới cho những cây bí ngô đó rồi đi ngủ. Chiều muộn, bọn ta thức dậy và lại chăm tưới cho chúng rồi mới trở lại đây.” “Mỗi người có một thú vui nhưng đối với ta, sở thích của hai người quá nhàm chán và đơn điệu.” “Ngài sai rồi.” Giải Tử nghiêm túc. “Ngài nên nhìn chúng lớn lên! Không có hai quả bí ngô nào giống nhau cả. Không bao giờ.” “Hãy nói cho ngài ấy về việc mười ngày trước chúng ta tưới bí ngô. Buổi sáng hôm đó chúng ta đã nhìn thấy những con sâu bướm trên lá.” Hà Tử nói. Giải Tử gật đầu. Hắn ngậm chiếc tăm và nói thêm, “Đó cũng là buổi sáng bọn ta thấy con thuyền của Trạng nguyên đậu trên bến. Bến thuyền đối diện trực tiếp với vườn bí ngô của bọn ta, ngài biết không? Ông chủ Ôn của tiệm cầm đồ đã nói chuyện với ngài ấy khá lâu ở đó. Lão ta nấp mình sau một cái cây. Do thân phụ của Trạng nguyên đã từng mua rất nhiều đồ cổ từ ông chủ Ôn nên ngài ấy cũng biết đến lão ta. Nhưng mà ta không nghĩ hai người họ chỉ nói về chuyện đồ cổ, ít nhất là vậy. Bọn ta chưa bao giờ rời mắt khỏi thứ gì. Ngài thấy chứ. Cho dù là trong công việc hay ngay cả những con sâu bướm đang đe dọa lứa bí ngô của mình.” “Bọn ta là những người đầy tớ trung thành của Phong lão gia. Bọn ta đã ăn cơm của ngài ấy cả chục năm nay rồi.” Hà Tử nói thêm. Giải Tử vứt chiếc tăm đi và đứng dậy. “Bây giờ Mã đại nhân muốn chơi bạc. Chúng ta quay lại vị trí làm việc nào. Mã đại nhân, ngài có thể chơi bao nhiêu?” HỒI 5 Một gian phòng, ba cái chết Giai nhân bỏ mạng bất thường Mã Vinh chơi vài ván bài cùng ba thương lái buôn gạo có vẻ ngoài vô cùng nghiêm nghị. Mặc dù bài khá đẹp nhưng y vẫn không mấy hứng thú. Y thích chơi bài trong không khí náo nhiệt, có tiếng la hét ỏm tỏi kèm theo tiếng chửi rủa om sòm. Ban đầu y thắng được ít tiền nhưng sau đó lại thua. Thấy rằng đã đến lúc nên ra về, y đứng lên khỏi bàn, chào từ biệt Giải Tử và Hà Tử rồi thong thả đi về Gia Hạc lâu. Đến nơi, Mã Vinh được gã chưởng quỹ cho hay dạ yến của Phong quản sự sắp tàn, hai vị khách và các kỹ nữ cũng đã ra về. Gã mời y ngồi xuống bàn dùng một chén trà trong lúc chờ đợi. Chẳng mấy chốc, y thấy Địch huyện lệnh bước xuống các bậc thang rộng rãi, theo sau là Phong Đại và Đào Đức. Trong lúc họ đưa Địch huyện lệnh ra kiệu, ông nói với lão Phong, “Sáng ngày mai, ta sẽ đến thư phòng của ngươi ngay sau khi dùng điểm tâm để chính thức thăng đường xử án. Ngươi hãy chuẩn bị sẵn cho ta tất cả các văn thư có liên quan đến vụ tự sát của Lý Trạng nguyên. Ta muốn Ngỗ tác ở đây cũng phải đến gặp ta.” Sau đó Mã Vinh đỡ Địch huyện lệnh lên kiệu ra về. Trên đường về, Địch huyện lệnh kể lại với trợ thủ của mình những gì ông đã tìm hiểu được về vụ tự sát. Ông cố tình không nhắc đến mối tình vụng trộm của Lỗ Tri huyện mà chỉ nhận xét rằng vị quan đồng liêu đã nhận định đúng khi xem vụ tự sát là một vụ việc bình thường. “Người của Phong quản sự lại nghĩ khác, thưa đại nhân,” Mã Vinh nghiêm nghị nói. “Bằng hữu của ngươi sai rồi. Chẳng phải ta đã nói cửa phòng khóa từ bên trong hay sao? Và ngươi cũng đã thấy các chấn song trên cửa sổ rồi. Không ai có thể chui lọt qua đó cả.” “Nhưng thưa đại nhân, ngài không thấy có một sự trùng hợp rất đáng khả nghi sao? Ba mươi năm trước, khi phụ thân của họ Đào tự sát trong gian phòng ấy, có người đã nhìn thấy lão buôn đồ cổ ở khách điếm.” “Hai bằng hữu Hà Tử, Giải Tử của ngươi vì có ác cảm với đối thủ của chủ nhân nên mới suy diễn sâu xa như thế. Chúng chỉ muốn gieo họa cho lão buôn đồ cổ thôi. Đêm nay ta đã gặp họ Ôn và thấy lão ta đúng là một nam nhân tục tĩu. Ta đoan chắc là lão ta sẵn sàng hãm hại Phong Đại để chiếm chức quản sự đảo Bồng Lai. Nhưng giết người lại là chuyện khác. Mà tại sao lão Ôn lại muốn giết Lý Trạng nguyên khi mà y đang giúp lão loại trừ Phong quản sự chứ? Không đâu, điều mà hai tên kia nói thật không hợp lý. Chúng ta đừng nên dây dưa vào mâu thuẫn của những người nơi này.” Địch huyện lệnh vừa trầm ngâm suy nghĩ vừa vân vê bộ ria mép một hồi lâu. Sau đó ông nói tiếp, “Những gì hai thuộc hạ của lão Phong kể với ngươi về hành động của Lý Trạng nguyên trước khi chết trong thời gian y ở đây đã giúp ta nắm rõ tình huống. Ta đã gặp nữ nhân khiến y phải kết liễu đời mình. Đen đủi hơn là ta chạm trán nàng ta đến tận hai lần.” Sau khi kể lại cuộc nói chuyện ở ngoài hiên Hồng lâu, Địch huyện lệnh nói thêm, “Lý Trạng nguyên có thể là một người học vấn uyên thâm, nhưng y lại không biết cách đánh giá nữ nhân. Nàng Hoa khôi ấy quả thực có sắc đẹp hơn người, nhưng tâm can thì lại tàn nhẫn và mau thay lòng đổi dạ. May mắn là nàng ta chỉ tham dự nửa buổi dạ yến. Phải công nhận là thức ăn ở đây quá ngon. Ta cũng đã có một cuộc chuyện trò thú vị với Đào Đức và thi sĩ trẻ tên Khởi Ngọc Ba.” “Đó là nam nhân đen đủi đã thua hết tiền tại sòng bạc!” Mã Vinh thốt lên. “Y cháy túi chỉ sau một canh bài.” Địch huyện lệnh nhướn mày. “Lạ thật đấy. Lão Phong nói với ta rằng họ Khởi sắp thành thân với nhi nữ độc nhất của ông ta.” “Đó cũng là một cách để y lấy lại số tiền đã mất.” Mã Vinh cười toe toét. Kiệu dừng trước cửa khách điếm Vĩnh Lạc. Mã Vinh lấy một cây nến tại quầy rồi hai người băng qua sân, đi qua lâm viên đến hành lang tối tăm dẫn vào Hồng lâu. Địch huyện lệnh mở cánh cửa chạm trổ dẫn vào gian bên trong. Bỗng nhiên ông khựng lại. Ông chỉ vào tia sáng phát ra từ dưới cánh cửa của buồng ngủ màu đỏ rồi nói nhỏ với Mã Vinh, “Quái lạ làm sao! Ta nhớ rõ ràng ta đã tắt hết nến trước khi ra khỏi phòng cơ mà.” Ông cúi người xuống và nói tiếp, “Chiếc chìa khóa ta để lại trong ổ cũng mất rồi.” Mã Vinh ép tai vào cửa. “Thuộc hạ không nghe thấy gì cả. Có nên gõ cửa không ạ?” “Chúng ta nhìn qua cửa sổ xem thế nào đã.” Họ vội vàng băng qua khách đường để ra hiên trước và rón rén đi về phía khung cửa sổ có chấn song. Mã Vinh bỗng thốt lên một tiếng rủa. Trên tấm thảm đỏ ngay trước giường, có một nữ nhân đang nằm lõa thể. Người này nằm ngửa, chân và tay duỗi thẳng, khuôn mặt quay vào trong. “Nàng ta chết rồi ư?” Mã Vinh thì thầm. “Không thấy ngực phập phồng.” Địch huyện lệnh ép sát mặt vào song sắt. “Nhìn kìa, chìa khóa đang nằm trong ổ.” “Đây là vụ tự tử thứ ba trong gian phòng bị nguyền rủa này rồi.” Mã Vinh lo lắng nói. “Ta không nghĩ nàng ta tự tử đâu,” Địch huyện lệnh lẩm bẩm. “Ta thoáng nhìn thấy một vết thâm tím ở một bên cổ. Ngươi hãy đi tìm chưởng quỹ và bảo gã đưa Phong quản sự đến đây ngay. Nhưng không được nói lời nào về những gì chúng ta vừa thấy.” Mã Vinh vội vàng chạy đi ngay và Địch huyện lệnh lại hé mắt nhìn vào bên trong. Tấm rèm giường màu đỏ vẫn đang mở y như lúc ông rời khỏi phòng nhưng cạnh chiếc gối có một mảnh vải trắng được gấp lại ngay ngắn. Một số mảnh xiêm y nữ giới khác cũng được xếp chồng ngay ngắn trên chiếc ghế gần nhất. Và ngay trước giường là một đôi hài lụa nhỏ bé. “Cô nương kiêu ngạo đáng thương!” ông nói nhỏ nhẹ. “Nàng ta quá tự tin vào bản thân mình. Và giờ thì nàng ta chết rồi.” Ông quay lưng về phía cửa sổ và ngồi xuống thanh vịn lan can trước phòng. Tiếng hát và tiếng cười nói vọng đến từ ngôi nhà trong lâm viên, nơi dạ yến vẫn còn đang rất náo nhiệt. Mới chỉ vài tiếng trước, nàng vẫn còn đứng ngay trước hiên phô trương dáng vóc gợi cảm của mình. Quả thật nàng là một cô nương sáo rỗng và tự phụ, nhưng thiết nghĩ cũng không nên quá cay nghiệt khi đánh giá con người nàng như thế. Mọi lỗi lầm không chỉ nằm ở mỗi mình nàng. Sự tôn sùng vẻ đẹp thể xác, sự tôn thờ tình yêu xác thịt và sự thèm muốn tiền bạc hiện diện khắp nơi ở chốn trụy lạc này chắc chắn sẽ khiến một nữ nhân có suy nghĩ lệch lạc về giá trị của cuộc sống. Suy cho cùng thì Hoa khôi của đảo đầy hoa thơm cỏ lạ này quả thật rất đáng thương. Dòng suy tư của ông bỗng bị cắt ngang bởi sự xuất hiện của Phong Đại. Lão đi cùng Mã Vinh, gã chưởng quỹ và hai nam nhân vạm vỡ. “Chuyện gì đã xảy ra thưa đại nhân?” Họ Phong bấn loạn hỏi. Địch huyện lệnh chỉ về phía cửa sổ có chấn song. Phong quản sự cùng gã chưởng quỹ bước đến nhìn, rồi cả hai đều thảng thốt lùi lại ra sau. Khi ấy, Địch huyện lệnh bèn đứng dậy. “Hãy bảo người của ngươi phá cửa vào đi!” Ông ra lệnh cho quản sự. Hai thuộc hạ của Phong Đại húc mình vào cửa trước. Thấy cánh cửa không hề suy suyển, Mã Vinh lao vào giúp họ. Phần gỗ quanh ổ khóa vỡ ra và cửa phòng bật mở. “Tất cả đứng yên đấy!” Địch huyện lệnh ra lệnh. Ông bước qua ngưỡng cửa và đứng quan sát thi thể nằm trên sàn. Trên cơ thể trắng mịn của Thu Nguyệt không có bất kỳ vết thương hay vết máu nào. Nhưng chắc hẳn nàng đã chết rất đau đớn, vì ông thấy khuôn mặt nàng bị biến dạng và đôi mắt lồi ra từ hốc mắt. Địch huyện lệnh tiến vào phòng rồi ngồi xổm xuống bên cạnh cô nương đã chết, ông đặt tay ngay dưới ngực trái của nàng. Xác vẫn còn ấm, chứng tỏ tim ngừng đập cách đây chưa lâu. Ông vuốt mắt cho nàng rồi kiểm tra phần cổ họng, ở hai bên cổ có những vết bầm màu xanh. Chắc chắn hung thủ đã bóp cổ nàng, nhưng hắn không để lại dấu móng tay. Ông nhìn qua một lượt thân thể hoàn mỹ của Thu Nguyệt. Không có dấu hiệu bị hành hung mà chỉ có vài vết xước dài và mỏng trên cẳng tay. Vết xước trông còn mới và ông nhớ rất rõ rằng chúng chưa hề hiện hữu khi nàng xuất hiện trước mái hiên phòng ông trong tình trạng gần như lõa thể. Ông lật cái xác, trên bờ lưng thon của Hoa khôi không hề có dấu vết gì. Cuối cùng, ông xem xét thật kỹ hai bàn tay nàng. Bộ móng tay dài được chăm chút cẩn thận vẫn còn nguyên vẹn. Bên trong móng chỉ có một ít sợi bông màu đỏ từ tấm thảm trên sàn. Ông đứng lên quan sát căn phòng. Không có dấu hiệu ẩu đả. Ông ra hiệu cho những người còn lại vào trong và nói với Phong Đại, “Sau buổi dạ yến vừa rồi thì lý do Thu Nguyệt đến đây đã quá rõ ràng. Cô nương ấy muốn qua đêm cùng ta để xây dựng một mối quan hệ mới. Nàng ta đã sai khi nghĩ rằng Lỗ Tri huyện sẽ chuộc mình khỏi chốn lầu xanh và khi phát hiện ra sai lầm ấy, nàng ta quyết định tìm đến ta. Trong lúc Thu Nguyệt đợi ta về, đã có sự cố xảy ra. Tạm thời hãy cứ gọi đây là một tai nạn, vì như tất cả đã thấy thì không ai có thể vào trong căn phòng này cả. Phong quản sự, hãy bảo thuộc hạ đưa cái xác này về phủ của ngươi để nghiệm thi. Sáng mai ta sẽ tiến hành điều tra vụ án này. Ngươi nhớ triệu cả Ôn Nguyên, Đào Đức và Khởi Ngọc Ba đến gặp ta.” Sau khi họ Phong ra về, Địch huyện lệnh hỏi gã chưởng quỹ, “Ngươi hay bất kỳ ai khác có thấy Thu Nguyệt đi vào khách điếm không?” “Không, thưa đại nhân. Nhưng từ nơi ở của nàng ta ở khu đất kế bên, có một lối tắt dẫn ngay đến hàng hiên này.” Địch huyện lệnh bước lại gần chiếc giường, nhìn lên tấm rèm phủ và thấy nó cao hơn bình thường. Ông gõ vào các tấm gỗ của bức tường bên trong, nhưng không nghe thấy âm thanh nào cho thấy tường rỗng. Quay sang gã chưởng quỹ và thấy gã không thể rời mắt khỏi cái xác đã trở nên nhợt nhạt, ông bèn quát, “Đừng có đứng giương mắt ra nhìn nữa! Nói ta nghe xem trên chiếc giường này có lỗ nhòm bí mật hay một thứ gì kỳ quái hay không?” “Dĩ nhiên là không có rồi, thưa đại nhân!” Gã lại nhìn về phía xác chết, rồi lắp bắp nói, “Đầu tiên là Trạng nguyên, giờ thì đến nàng Hoa khôi, thảo dân… không… không hiểu chuyện gì…” “Ta cũng thế!” Địch huyện lệnh ngắt lời lão. “Bên kia gian phòng này là gì vậy?” “Không có gì cả, thưa đại nhân! Ý của thảo dân là không còn gian phòng nào khác. Chỉ có bức tường bao quanh bên ngoài và lâm viên ở cạnh bên thôi.” “Trước đây đã từng có chuyện quái lạ gì xảy ra trong gian phòng này chưa? Nói thật đi!” “Chưa bao giờ, thưa ngài!” Gã chưởng quỹ mếu máo. “Thảo dân đã quản lý nơi này hơn mười lăm năm qua. Có đến hàng trăm vị khách từng đến đây và thảo dân chưa bao giờ nghe ai phàn nàn gì. Thảo dân không biết làm thế nào…” “Mang sổ lưu trú của ngươi vào đây cho ta!” Gã chưởng quỹ vội vã chạy đi. Thuộc hạ của Phong Đại khiêng vào một chiếc cáng. Họ bọc thi thể vào chăn và mang nó đi. Trong lúc ấy, Địch huyện lệnh lục tìm trong tay áo của tấm áo choàng màu tím của Thu Nguyệt, ông chỉ tìm thấy một chiếc túi bằng gấm chứa lược và tăm xỉa răng, một gói danh thiếp đề tên nàng và hai chiếc khăn tay. Ngay sau đó thì gã chưởng quỹ quay lại, mang theo một cuốn sổ. “Đặt lên bàn đi!” Địch huyện lệnh quát. Khi chỉ còn lại ông cùng Mã Vinh, Địch huyện lệnh tiến về phía chiếc bàn, ngồi xuống và thở dài mệt mỏi. Viên trợ thủ cao lớn lấy ấm trà ra và rót một chén cho Địch huyện lệnh. Y chỉ vào vết son môi đỏ trên thành cốc rồi hững hờ nhận xét, “Nàng ta đã uống một chén trà trước khi chết. Và chắc là chỉ uống một mình vì chiếc chén thứ hai còn khá khô trước khi thuộc hạ rót trà vào.” Địch huyện lệnh đột ngột đặt chén trà xuống bàn. “Đổ trà vào ấm trở lại đi,” ông nói cộc lốc. “Bảo gã chưởng quỹ đi tìm cho ta một con mèo hay một con chó ốm để nó uống chỗ trà này.” Sau khi Mã Vinh đi, Địch huyện lệnh kéo cuốn sổ về phía mình và bắt đầu đọc. Chưa được bao lâu thì Mã Vinh đã quay lại, sớm hơn dự tính của ông. Y lắc đầu và nói, “Trà không có độc, thưa đại nhân.” “Thật đáng tiếc. Ta cứ nghĩ có kẻ nào đó đã đi cùng Thu Nguyệt đến đây và bỏ độc vào trà trước khi từ biệt nàng, cô nương ấy đã uống trà trước khi tự khóa cửa nhốt mình trong phòng. Đó là cách lý giải hợp lý duy nhất cho cái chết của nàng ta.” Vì thất vọng, ông ngả người ra sau ghế và giật giật bộ râu của mình. “Vậy còn những vết bầm trên cổ họng nàng ta là thế nào, thưa đại nhân?” “Đó chỉ là dấu vết ngoài da, không có dấu móng tay mà chỉ có những vết bầm màu xanh. Đó có thể là kết quả của một chất độc mà ta chưa biết đến, nhưng chắc chắn không phải là vì có kẻ bóp cổ nàng ta đâu.” Mã Vinh lắc đầu lo lắng. Y rụt rè hỏi Địch huyện lệnh, “Thế thì chuyện gì đã xảy ra với nàng ta, đại nhân?” “Trên tay Thu Nguyệt có những vết xước dài và mỏng. Do thứ gì gây ra thì chưa rõ, cũng như với trường hợp của Trạng nguyên vậy. Cái chết của y và nhân tình, cùng xảy ra trong Hồng lâu, nhất định là có sự liên quan nào đấy. Chuyện này thật lạ lùng. Mã Vinh, ta không thích việc này chút nào.” Ông vừa vân vê bộ râu vừa trầm tư suy nghĩ một hồi. Sau đó, ông ngồi thẳng người dậy và nói tiếp, “Trong lúc ngươi ra ngoài, ta đã đọc rất kỹ cuốn sổ lưu trú này. Trong vòng hai tháng qua, có khoảng ba mươi người từng ở trong Hồng lâu, thời gian dài ngắn khác nhau, ở bên cạnh hầu hết các mục đều có ghi tên của một nữ nhân và một khoản tiền cộng thêm viết bằng mực đỏ. Ngươi có biết thế nghĩa là gì không?” “Việc này dễ hiểu thôi mà. Nó có nghĩa là những người khách trọ ấy ngủ lại đây cùng một kỹ nữ. Con số bên cạnh là khoản tiền mà các cô nương ấy phải trả cho chủ khách điếm.” “Ta hiểu rồi. Trạng nguyên ngủ ở đây đêm đầu tiên, đêm ngày 19, với một nữ nhân tên là Mẫu Đơn. Hai đêm tiếp theo là với Ngọc Hoa và hai đêm ngày 22 và 23 là với một cô nương tên Cẩm Chướng. Y qua đời vào đêm ngày 25.” “Một đêm lãng phí kia đã khiến y phải bỏ mạng!” Mã Vinh nói với vẻ tiếc rẻ. Không nghe thấy lời của thủ hạ, Địch huyện lệnh trầm ngâm nói tiếp, “Thật ngạc nhiên khi không thấy tên của Thu Nguyệt xuất hiện ở đây.” “Có thể họ gặp nhau vào buổi chiều. Một số nam nhân thường có thú thưởng trà chiều thưa đại nhân!” Địch huyện lệnh đóng cuốn sổ lưu trú lại. Ông đưa mắt rảo khắp phòng. Sau đó, ông đứng dậy và đi về phía cửa sổ. Sau khi sờ vào các chấn song dày bằng sắt và kiểm tra khung cửa gỗ chắc chắn, ông nhận xét, “Cửa sổ này không có gì đáng khả nghi cả, không người nào có thể vào phòng qua lối này. Chúng ta có thể loại trừ khả năng Thu Nguyệt bị tấn công bởi người đứng bên ngoài cửa sổ vì thi thể nằm cách cửa sổ hơn ba thước, xác lại nằm ngửa. Nàng ta ngã xuống đất khi đang xoay mặt về phía cửa trước, chứ không phải cửa sổ. Đầu nàng ta hơi ngả về bên trái, hướng về chiếc giường.” Địch huyện lệnh lắc đầu chán nản và nói tiếp. “Ngươi nên đi ngủ để lấy lại sức đi, Mã Vinh. Sáng mai, vào lúc bình minh, ta muốn ngươi ra bến thuyền. Đi tìm trưởng thuyền của Phong Đại và bảo ông ta kể hết cho ngươi nghe về vụ va chạm giữa hai chiếc thuyền. Hãy khéo léo dò hỏi về cuộc gặp gỡ giữa Trạng nguyên và lão buôn đồ cổ đã diễn ra ở đấy theo như lời của hai người bằng hữu thích trồng bí ngô của ngươi. Ta sẽ kiểm tra lại chiếc giường một lần nữa rồi sau đó cũng đi nằm. Ngày mai chúng ta sẽ rất bận rộn đấy.” “Đại nhân định ngủ trong gian phòng này thật sao ạ?” Mã Vinh kinh hãi la lên. “Dĩ nhiên là thật rồi!” Địch huyện lệnh cáu kỉnh trả lời. “Có vậy thì ta mới có cơ hội xác định xem chiếc giường này có gì mờ ám không. Ngươi hãy lui ra và đi tìm chỗ ngủ cho mình đi. Cố gắng ngủ cho ngon giấc đấy.” Mã Vinh định phản đối nhưng thấy vẻ mặt kiên quyết của Địch huyện lệnh thì y biết có nói gì cũng vô ích. Y cúi đầu chào ông và rời khỏi phòng. Địch huyện lệnh đứng trước chiếc giường, hai tay chắp sau lưng, ông nhận thấy tấm lụa mỏng trải giường có vài nếp nhăn. Lấy ngón trỏ sờ vào, ông thấy nó hơi ẩm. Ông cúi đầu xuống ngửi chiếc gối. Trên gối có mùi xạ hương giống như mùi hương trên tóc của Thu Nguyệt mà ông đã ngửi thấy khi nàng ngồi cạnh ông trong bữa dạ yến. Địch huyện lệnh có thể dễ dàng hình dung hoàn cảnh lúc ban đầu. Thu Nguyệt bước vào Hồng lâu từ ngoài hiên, có lẽ là sau khi ghé qua nơi ở của chính nàng trong chốc lát. Lúc đầu chắc nàng chỉ định ngồi trong khách đường chờ ông về, nhưng khi thấy chìa khóa của Hồng lâu vẫn còn nằm trong ổ, nàng cho rằng nằm chờ sẵn trong buồng ngủ sẽ hiệu quả hơn. Nàng uống một chén trà, cởi áo choàng ra, xếp nó lại và đặt nó lên ghế. Sau khi đã cởi hết xiêm y, nàng đặt áo yếm lên giường, cạnh chiếc gối. Ngồi xuống bên mép giường, Thu Nguyệt cởi giày và xếp chúng ngay ngắn trên sàn. Cuối cùng, nàng nằm xuống giường, chờ đến lúc ông về gõ cửa. Chắc hẳn nữ nhân này đã nằm đó được một lúc lâu, đủ để mồ hôi lưng làm nhăn tấm lụa trải giường, ông không tài nào đoán ra được tiếp sau đó đã xảy ra chuyện gì. Nhất định đã có việc gì đó khiến Thu Nguyệt rời khỏi giường một cách rất bình tĩnh. Vì nếu nàng vội vã ngồi bật dậy thì gối và khăn trải giường sẽ bị xáo trộn. Ngay khi nàng đứng dậy và đứng trước chiếc giường, một điều khủng khiếp đã xảy ra. Địch huyện lệnh bỗng rùng mình khi nhớ lại nỗi sợ hãi tột độ hiện rõ trên khuôn mặt biến dạng của người chết. Ông đẩy chiếc gối sang một bên và kéo tấm lụa trải giường ra. Bên dưới chỉ có một chiếc chiếu đan bằng cọng lát và dưới chiếu là tấm ván gỗ rắn chắc, ông lại bàn và lấy một cây nến. Ông phát hiện ra rằng nếu đứng trên giường thì có thể với tới tấm rèm phía trên giường, ông dùng đốt ngón tay gõ thử nhưng không nghe thấy âm thanh khác lạ. Ông gõ một lần nữa vào bức tường phía sau chiếc giường và quắc mắc nhìn một bộ xuân cung đồ nhỏ được đóng khung và treo phía trên. Sau đó, ông nhấc mũ lên và lấy cây trâm cài tóc từ búi tóc. Ông dùng nó để kiểm tra các rãnh trong chiếc giường nhưng không tìm thấy chiếc nút nào để mở ra lối đi bí mật. Địch huyện lệnh thở dài và bước xuống sàn nhà. Thật đúng là không thể hiểu được. Vừa vuốt ve bộ râu dài, ông vừa quan sát chiếc giường. Một cảm giác bất an bỗng xâm chiếm lấy ông. Cả gã Trạng nguyên và nàng Hoa khôi đều có vết xước mỏng và dài. Căn nhà này rất cũ kỹ, có thể nào ở đây có một con vật nào đó không, ông nhớ đến những câu chuyện lạ kỳ mình đã đọc về… Ông nhanh chóng đặt nến lên bàn trở lại và cẩn thận kéo tấm rèm giường xuống. Sau đó, ông quỳ gối trên sàn nhà và nhìn xuống gầm giường. Không có gì cả, cả bụi hay mạng nhện cũng không. Cuối cùng, ông nâng một góc tấm thảm dày màu đỏ lên. Sàn nhà lát gạch bên dưới thảm không có một hạt bụi nào. Rõ ràng là gian phòng đã được quét dọn kỹ lưỡng sau cái chết của Trạng nguyên. “Có thể con thú nào đó từ bên ngoài đã vào phòng qua song cửa sổ,” Địch huyện lệnh lẩm bẩm. Ông ra ngoài khách đường, rút thanh trường kiếm ra khỏi bao kiếm và bước ra hàng hiên, ông dùng kiếm đâm vào các nhành hoa tử đằng đang rũ xuống và lắc thật mạnh. Chỉ có những cánh hoa xanh lả tả rơi xuống, ông quay về Hồng lâu, đóng cửa lại và đẩy chiếc bàn ở giữa phòng ra chặn cửa. Sau đó, ông cởi thắt lưng và áo ngoài ra, xếp chúng lại rồi đặt lên sàn nhà trước bàn gương. Ông đặt mũ lên bàn sau khi đã chắc chắn rằng hai ngọn nến còn lại sẽ cháy sáng suốt đêm. Địch huyện lệnh nằm dài trên sàn, đầu tựa vào tấm áo đã xếp lại, tay phải đặt lên chuôi kiếm ngay bên cạnh. Vốn không phải là người ngủ say, ông biết rằng chỉ một tiếng động nhỏ cũng có thể khiến mình tỉnh giấc. HỒI 6 Mã Vinh thám thính quanh Hồng lâu Anh hùng tình cờ cứu mỹ nhân Sau khi từ biệt chủ nhân, Mã Vinh đi đến đại sảnh của khách điếm nơi có mấy tiểu nhị đang túm tụm lại thì thầm bàn tán về thảm kịch vừa xảy ra. Y chụp lấy tay một tên tiểu nhị trông có vẻ ít tuổi và nhanh nhẹn rồi lệnh cho hắn dẫn đường để y vào nhà bếp. Tiểu nhị dẫn Mã Vinh ra ngoài khách điếm và đi vào một cánh cửa tre bên trái của lối vào. Vào bên trong, Mã Vinh nhận thấy bên phải là bức tường cao của khách điếm, còn phía bên trái là một khu vườn không ai chăm sóc. Từ cánh cửa xa xa phía bức tường dội lại tiếng va chạm của bát đĩa và tiếng nước chảy. “Đó là lối vào nhà bếp ạ,” tiểu nhị nói, “bọn tiểu nhân thường dùng bữa tối vào đêm muộn ở phía bên phải của nhà bếp.” “Hãy đi tiếp xem sao!” Mã Vinh ra lệnh. Ở ngay ngã rẽ đầu tiên họ đã nhận thấy con đường bị che lấp bởi hàng rào, những bụi cây um tùm, cây dâu và các khóm hoa tử đằng. Mã Vinh rẽ những tán cây và thấy một lối nhỏ lát gỗ dẫn đến hành lang bên trái của Hồng lâu. Phía dưới là một lối đi bị cỏ dại che lấp. “Lối đó dẫn đến gian phòng của Hoa khôi.” Tiểu nhị nhìn qua vai Mã Vinh và nói. “Đó là nơi mà nàng tiếp đón những nam nhân mê mẩn mình. Nơi đó được trang hoàng rất đầy đủ và ấm cúng.” Mã Vinh lầm bầm mấy câu. Y khó nhọc lách mình qua các bụi cây rậm rạp để đến trước hiên. Thậm chí y còn có thể nghe thấy những âm thanh di chuyển của Địch huyện lệnh trong Hồng lâu. Quay về phía tiểu nhị đang bám sát phía sau, y đặt một ngón tay lên môi ra dấu im lặng sau đó nhanh chóng tiến hành lục soát tìm kiếm trong các bụi cây. Như một gã tiều phu lão luyện, y hành động hầu như không phát ra tiếng động nào trong khi tìm kiếm. Khi đã chắc chắn không có ai ẩn nấp tại đó, Mã Vinh tiếp tục di chuyển cho đến khi bước ra một con đường rộng. “Đây là con đường chính của lâm viên,” tiểu nhị giải thích, “nếu chúng ta tiếp tục đi sang bên phải chúng ta sẽ ra ngoài phố, còn về bên trái thì là khách điếm thưa ngài.” Mã Vinh gật đầu. Y lo lắng nghĩ thầm là bất cứ ai cũng có thể tiếp cận và đột nhập Hồng lâu mà không hề bị phát giác. Nhất thời y nảy lên ý nghĩ sẽ qua đêm tại đây, dưới một gốc cây nào đó. Nhưng Địch đại nhân ắt đã có kế hoạch hành động riêng cho đêm nay và ngài cũng đã ra lệnh cho y qua đêm tại một chỗ khác. Được rồi, ít nhất thì bây giờ y có thể chắc rằng sẽ không có một tên tội nhân nào đó đang ẩn nấp quanh đây có thể gây phiền hà đến chủ tử của mình. Quay trở lại lối vào khách điếm, Mã Vinh nhờ tiểu nhị thị phạm cho cách đến được Thanh Các. Nó nằm ở phía nam, phía sau Gia Hạc lâu. Mã Vinh chỉnh lại mũ trên đầu và bước xuống phố. Mặc dù đã quá nửa đêm nhưng tất cả các sòng bạc và tửu lâu vẫn còn sáng đèn và đám đông ồn ào trên phố hầu như không hề thuyên giảm. Sau khi qua Gia Hạc lâu, y rẽ trái. Đột nhiên y thấy mình đã vào một đường phố rất yên tĩnh. Những ngôi nhà hai lầu dọc bên đường chìm trong bóng tối và không một bóng người. Nhìn qua các biển hiệu, mỗi biển hiệu ghi chú một thứ hạng và một con số, Mã Vinh hiểu rằng đây là những nhà chứa của kỹ nữ và gái lầu xanh phân chia theo cấp bậc của họ. Có những ngôi nhà treo bảng cấm không cho người ngoài xâm nhập. Đây là nơi các kỹ nữ tá túc và được truyền dạy kỹ năng đàn hát và ca kỹ. “Lầu xanh ắt hẳn gần đây,” y lẩm bẩm, “thật tiện cho đám kỹ nữ hành nghề!” Đột nhiên, bước chân y bỗng khựng lại. Từ phía sau một cửa sổ đã khóa trái, y nghe thấy những âm thanh rên rỉ. Y áp tai vào cánh cửa gỗ. Tất cả đều im lặng và một lúc sau, tiếng rên rỉ đó lại vang lên lần nữa. Ắt hẳn có ai đó đang rất đau khổ và chỉ có một mình. Y nhanh chóng kiểm tra tấm ẳ bảng phía trước nhà, trên đó ghi ‘Nhị đẳng, số bốn’. Cánh cửa đã bị khóa được làm bằng gỗ ván rắn chắc. Mã Vinh nhìn lên hiên lầu nhỏ hẹp chạy dọc phía trước mái nhà. Y nhét vạt áo vào chỗ hầu bao, nhảy lên, bám vào mép ban công rồi dễ dàng kéo mình trèo qua lan can. Sau khi đá tung cánh cửa mắt cáo, điều đầu tiên y nhìn thấy là một căn buồng nhỏ tràn ngập mùi son phấn. Y thấy một ngọn nến và mồi lửa trên bàn trang điểm. Bước đến cầu thang với cây nến đã được thắp sáng trên tay, Mã Vinh nhanh chóng đi xuống cầu thang hẹp vào căn phòng tối đen bên dưới. Một tia sáng lóe lên từ bên dưới cánh cửa phía bên trái. Những tiếng rên rỉ phát ra từ đó. Y đặt cây nến xuống sàn nhà và đi vào bên trong. Đó là một căn phòng lớn được một ngọn đèn dầu chiếu sáng. Có sáu cây cột trụ chống đỡ căn phòng, trên mái là những cây xà nhà và sàn nhà được lót thảm. Trên bức tường đối diện treo những cây đàn, sáo trúc và các loại nhạc cụ khác. Đây rõ ràng là nơi đào tạo các kỹ nữ, tiếng rên rỉ phát ra từ cây cột xa nhất gần cửa sổ. Y nhanh chóng bước đến đó. Một nữ nhân lõa thể đang bị trói vào cây cột, khuôn mặt nàng khuất sau cây cột và cánh tay giơ cao quá đầu, bị trói vào cột bằng chiếc thắt lưng lụa của nữ nhân. Trên tấm lưng và bờ hông quyến rũ của nàng hằn lên những vệt đỏ. Một chiếc quần rộng nằm dưới chân nàng.�� Mã Vinh phát hiện ra kỹ nữ bị trói Khi nghe thấy tiếng động, nữ nhân kêu lên nhưng không quay đầu lại, “Không! Xin đừng…” “Đừng kêu!” Mã Vinh quát lên một cách thô lỗ. “Ta đến đây để giúp nàng mà.” Lấy con dao từ thắt lưng ra, Mã Vinh nhanh chóng cắt đứt sợi dây lưng trói tay cô nương ấy. Nàng cố gắng dựa vào cây cột nhưng sau đó ngã gục xuống sàn nhà. Mã Vinh ngồi sụp xuống bên cạnh. Nữ nhân khép mắt lại rồi ngất đi. Y quan sát nữ nhân trước mặt và lẩm bẩm, “Thật là một cô nương đáng yêu! Không biết ai đã ngược đãi nàng như vậy, y phục của nàng đâu rồi?” Y nhìn quanh và thấy một đống xiêm y bị vứt dưới cửa sổ nên đã lấy một chiếc áo trắng phủ lên người nàng, sau đó ngồi xuống sàn nhà ngay bên cạnh. Khi y đang xoa bóp cổ tay bầm tím của nàng thì thấy mi mắt nàng chớp chớp. Cô nương đó mở miệng định hét lên nhưng y nhanh chóng cướp lời, “Không có vấn đề gì cả. Ta là người của nha huyện. Cô nương là ai?” Nàng gắng gượng ngồi thẳng dậy nhưng rồi lại ngã sụp xuống đất và rên rỉ vì đau đớn, giọng nói có vẻ run rẩy, “Tiểu nữ là một kỹ nữ nhị đẳng, sống ở lầu trên.” “Là kẻ nào đã ra tay với cô nương?” “Dạ không có gì đâu thưa đại nhân,” nàng vội trả lời, “tiểu nữ thực sự đáng bị trừng phạt vì đã mắc lỗi. Đó chỉ là chuyện riêng thôi ạ.” “Điều đó ta có thể thấy được. Hãy mau trả lời ta!” Nàng nhìn Mã Vinh với vẻ sợ hãi. “Bẩm đại nhân, quả thực không có gì đâu ạ.” Nàng nói một cách nhẹ nhàng. “Đêm nay, khi tiểu nữ tham dự dạ yến cùng với Hoa khôi Thu Nguyệt, tiểu nữ đã vụng về làm đổ rượu lên y phục của khách nhân. Tỷ ấy đã trách phạt tiểu nữ và bảo tiểu nữ về thay xiêm y. Sau đó tỷ ấy đưa tiểu nữ đến đây. Thu Nguyệt bắt đầu vung tay tát tiểu nữ và trong khi né tránh, tiểu nữ đã vô tình làm trầy xước tay tỷ ấy. Ngài biết đấy, Hoa khôi rất nóng tính nên đã nổi điên lên và bắt tiểu nữ cởi hết y phục ra. Tỷ ấy trói tiểu nữ vào cây cột này và đánh tiểu nữ bằng dây thắt lưng. Thu Nguyệt nói sẽ quay trở lại để thả tiểu nữ ra và bảo tiểu nữ tự hối về những thiếu sót của mình.” Đôi môi nữ nhân run rẩy. Nàng cố nuốt nước bọt nhiều lần trước khi tiếp tục nói, “Nhưng… nhưng Thu Nguyệt đã không đến. Cuối cùng tiểu nữ không thể trụ vững trên đôi chân của mình được nữa và cánh tay thì đã tê cứng. Tiểu nữ nghĩ rằng có lẽ tỷ ấy đã quên mất rồi. Tiểu nữ rất sợ!” Nước mắt lăn dài trên đôi má giai nhân. Trong sự kích động, nàng đã nói chuyện bằng thứ giọng địa phương đặc sệt của mình. Mã Vinh lau nước mắt cho cô nương kia bằng sống áo mình và cũng dùng giọng địa phương để trả lời, “Nàng không cần lo lắng nữa! Bây giờ, ta sẽ giúp nàng với tư cách đồng hương!” Mặc cái nhìn sửng sốt của nữ nhân, Mã Vinh nói tiếp, “May mà ta đi ngang qua ngôi nhà này và nghe thấy tiếng kêu rên của nàng đấy, chứ Thu Nguyệt sẽ không bao giờ trở lại được nữa. Dù hiện tại hay sau này cũng vậy!” Ngân Tiên chống tay gắng gượng ngồi thẳng người dậy. Nàng không chú ý rằng xiêm y đã tuột khỏi người để lộ ra toàn bộ thân thể của mình. Nàng hấp tấp hỏi, “Có chuyện gì xảy ra với Hoa khôi thưa đại nhân?” “Nàng ta đã chết.” Mã Vinh trả lời một cách nghiêm nghị. Ngân Tiên vùi mặt vào hai bàn tay khóc nức nở. Mã Vinh lắc đầu bối rối. Y thấy khá phiền lòng vì mình chẳng thể hiểu nổi tâm tư của nữ nhân. Ngân Tiên ngẩng đầu lên và nói với vẻ tuyệt vọng, “Hoa khôi đã chết ư? Tỷ ấy đẹp và rất thông minh… Mặc dù đôi khi tỷ ấy có đánh đập bọn tiểu nữ nhưng vẫn thường tử tế và quan tâm đến mọi người. Tỷ ấy không phải là người rất kiên cường sao? Phải chăng đột nhiên lâm bệnh?” “Mọi chuyện còn chưa rõ ràng! Thôi nào, trước hết chúng ta hãy giới thiệu một chút về bản thân đi. Ta là trưởng tử của chủ thuyền Mã Lương, sống ở bắc thôn.” “Sao cơ? Như vậy ngài là nhi tử của ông chủ thuyền họ Mã sao! Tiểu nữ là thứ nữ của tiểu thương buôn thịt họ Vũ. Ông từng nhắc đến phụ thân ngài và khen ngợi ông ấy là người lái thuyền lão luyện nhất trên sông. Sao ngài có mặt trên đảo này?” “Ta đến đây đêm nay cùng với chủ nhân là Địch đại nhân. Ngài ấy là Huyện lệnh của Phổ Dương, huyện kế bên. Hiện tại, ngài ấy đang đảm nhiệm trọng trách quản hạt nơi đây.” “Tiểu nữ biết vị đại nhân ấy. Ngài ấy có tham dự dạ yến mà lúc nãy tiểu nữ nói với ngài. Địch đại nhân có vẻ là người rất tốt bụng và trầm tĩnh.” “Đúng vậy,” Mã Vinh đồng ý, “nhưng không phải là quá trầm tĩnh đâu, ngài ấy cũng có lúc rất phấn khích đấy. Phải, ta sẽ dìu cô nương lên phòng và chúng ta phải làm điều gì đó để chúc mừng.” “Không, thưa đại nhân, tiểu nữ không muốn ở lại căn nhà này trong đêm nay!” Nàng nói với cái nhìn sợ hãi. “Xin ngài hãy đưa tiểu nữ đến một nơi khác!” “Nếu cô nương cho ta biết địa điểm, ta sẽ đưa nàng đến đó. Ta cũng quá bận nên vẫn chưa tìm được cho mình một nơi dừng chân đêm nay.” Ngân Tiên đắn đo một chút. “Tại sao mọi việc lại luôn phức tạp như vậy?” Nàng buồn rầu hỏi. “Ôi, cô nương hãy chất vấn đại nhân nhà ta ấy. Ngài ấy luôn phải đảm nhiệm những chức trách khó khăn.” Nàng kỹ nữ mỉm cười yếu ớt. “Được rồi, cầu đại nhân hãy đưa tiểu nữ đến tiệm bán lụa cách đây hai con phố nữa. Có một góa phụ họ Vương là người cùng thôn với chúng ta sống ở đó. Bà ta sẽ cho ngài và tiểu nữ ở lại đó đêm nay. Trước tiên xin hãy giúp tiểu nữ vào buồng tắm đã ạ.” Mã Vinh đỡ và khoác chiếc áo trắng lên vai nàng. Y lấy thêm vài y phục khác và đặt lên tay Ngân Tiên rồi dìu nàng ra buồng tắm phía sau nhà. “Nếu có ai đến và muốn gặp tiểu nữ, xin hãy nói rằng tiểu nữ đã ra ngoài!” Ngân Tiên vội nói trước khi đóng cửa lại. Mã Vinh chờ Ngân Tiên ở hành lang cho đến khi nàng bước ra và đã mặc đầy đủ xiêm y. Nhìn thấy Ngân Tiên đi lại có vẻ khó khăn, y liền đưa tay bế nàng. Theo chỉ dẫn, y đưa nàng đi vào con hẻm phía sau ngôi nhà, sau đó đi qua một lối đi hẹp đến cửa sau của một căn tiệm nhỏ. Mã Vinh đặt Ngân Tiên xuống và gõ cửa. Ngân Tiên vội vã giải thích với nữ nhân ra mở cửa rằng nàng muốn ở lại đây với người bằng hữu của mình. Nữ nhân kia không hỏi gì thêm mà đưa họ lên thẳng căn gác xép nhỏ nhưng sạch sẽ. Mã Vinh nhờ bà ta mang đến cho bọn họ một bình trà nóng, một cái khăn và hộp dầu cao. Y lại giúp Ngân Tiên cởi y phục và nằm sấp xuống ghế. Khi góa phụ trở lại và nhìn thấy lưng cô nương trẻ tuổi, bà ta kêu lên, “Thật đáng thương! Chuyện gì đã xảy ra với cô nương ấy vậy chứ?” “Thưa đại nương, ta sẽ chăm sóc cho nàng ấy!” Mã Vinh nói và đẩy bà ta ra ngoài. Y bôi dầu cao lên vết lằn roi trên lưng Ngân Tiên một cách thành thạo. Nó cũng không quá nghiêm trọng và chắc sẽ lành lại trong vài ngày. Nhưng khi bôi đến các vết loét trên hông nàng thì y cau mày một cách giận dữ. Y dùng nước trà vệ sinh chúng và bôi dầu cao vào, sau đó ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng và hỏi cộc lốc, “Những vết thương trên hông nàng không thể do một sợi dây gây ra được! Ta là người của phủ nha và đây là chuyện ta đã quá quen thuộc rồi! Tốt hơn hết là nàng hãy nói toàn bộ sự thật đi.” Ngân Tiên vùi mặt vào hai bàn tay, lắc đầu và khóc nức nở. Mã Vinh khoác chiếc áo lên người nàng và nói tiếp, “Nếu chỉ là vấn đề giữa các cô nương ở đây với nhau thì ta không quản. Nhưng nếu là một kẻ khác hành hạ nàng thì quan phủ nhất định có quyền can thiệp. Thôi nào, hãy nói cho ta biết ai đã gây ra chuyện này!” Ngân Tiên quay bộ mặt ngấn nước về phía Mã Vinh. “Đó thật sự là một việc đáng kinh tởm. Như ngài đã biết thì kỹ nữ tam đẳng và tứ đẳng không được quyền chọn lựa khách nhân mà sẽ thuộc về vị khách nào trả giá cao nhất, nhưng kỹ nữ nhị đẳng và nhất đẳng có quyền lựa chọn khách nhân sẽ ân ái với mình. Tiểu nữ thuộc nhị đẳng và không ai có thể ép buộc tiểu nữ phải thuộc về người mà mình không thích. “Nhưng có một trường hợp đặc biệt, đó chính là lão chủ hiệu đồ cổ họ Ôn. Ngài biết đấy, lão ta là một người có máu mặt ở đây. Đã nhiều lần lão ta cố gắng có được tiểu nữ nhưng không thành. Tại dạ yến đêm nay, lão ta đã bảo Hoa khôi Thu Nguyệt trói tiểu nữ vào cây cột ở trong căn phòng đó. Và rồi ngay khi Thu Nguyệt rời đi không lâu, lão nhân đáng khinh đó đã đến đây. “Lão ta nói rằng sẽ cởi trói nếu tiểu nữ đồng ý làm những chuyện bẩn thỉu theo ý lão ta. Khi tiểu nữ từ chối, lão ta vớ lấy một cây sáo trúc dài trên tường và bắt đầu hành hạ tiểu nữ. Thu Nguyệt đánh tiểu nữ bằng sợi dây với sức lực không đáng kể, điều đó chỉ làm tiểu nữ tủi nhục chứ không mấy đau đớn. Nhưng lão nhân đáng nguyền rủa họ Ôn thực sự muốn làm tổn thương tiểu nữ. Lão ta chỉ bỏ đi khi thấy tiểu nữ la hét khẩn cầu xin lão ta thương xót mà tha mạng và hứa sẽ làm bất cứ chuyện gì lão ta muốn. Lão ta nói rằng lát nữa sẽ quay trở lại tìm tiểu nữ và đây là lý do tại sao tiểu nữ không muốn ở lại đó. Xin đừng tiết lộ điều này cho bất cứ ai, lão Ôn sẽ đánh chết tiểu nữ mất.” “Tên khốn kiếp!” Mã Vinh gầm lên. “Đừng quá lo sợ, ta sẽ tóm được lão ta mà không nhắc gì đến nàng. Gã tồi đó đã có những vụ kinh doanh mờ ám tại đây từ hơn ba mươi năm về trước rồi! Thế là quá đủ để cho hắn đeo gông sống trong tù ngục.” Vì góa phụ không mang theo cốc lên nên Mã Vinh giúp Ngân Tiên uống trà từ vòi của bình trà. Nàng cảm tạ Mã Vinh, sau đó trầm ngâm nói, “Ước gì tiểu nữ có thể giúp đại nhân, lão ta cũng ngược đãi các nữ nhân khác ở đây.” “Vậy ắt nàng không biết gì về những sự việc xảy ra ở nơi đây ba mươi năm về trước phải không.” “Đúng thế, tiểu nữ chỉ mới mười chín tuổi. Nhưng tiểu nữ biết một người có thể nói cho đại nhân biết về những chuyện ngày đó. Đó là một lão nhân nghèo khổ tên là Lăng thị. Bà ấy từng là Hoa khôi ở đây. Tiểu nữ đã học ca hát từ người này. Bà ấy bị mù và bị bệnh phổi nặng nhưng có trí nhớ rất tốt. Bà ấy sống trong một căn lều bẩn thỉu ở phía tây đảo, đối diện với bến thuyền…” “Có phải bà ấy sống gần trang trại trồng bí ngô của Giải Tử không?” “Đúng vậy! Sao ngài biết nơi đó?” “Ta là người của quan huyện, do đó ta biết nhiều hơn là nàng nghĩ.” Mã Vinh trả lời với vẻ tự mãn. “Giải Tử và Hà Tử là những gã tử tế, họ đã từng giúp tiểu nữ thoát khỏi tay của lão chủ hiệu đồ cổ. Hà Tử còn là một chiến binh đáng gườm nữa đấy.” “Ý nàng muốn nói đến Giải Tử ư?” “Không, Hà Tử ấy ạ. Người ta đồn rằng sáu nam nhân khỏe mạnh cũng không dám tấn công Hà Tử đâu.” Mã Vinh nhún vai, không muốn tranh luận với một cô nương về vấn đề chiến đấu. Ngân Tiên nói tiếp, “Thực sự thì chính Giải Tử là người đã giới thiệu tiểu nữ với Lăng thị. Thi thoảng huynh ấy cũng thường mang thuốc đến cho bà ấy trị ho. Khuôn mặt của nữ nhân đáng thương đó bị biến dạng khủng khiếp bởi những nốt mụn nổi lên nhưng bà ấy vẫn còn có một giọng hát vô cùng xuất chúng. Hình như ba mươi năm trước, bà ấy là kỹ nữ nổi tiếng hàng đầu và có rất nhiều người mến mộ. Tiểu nữ cũng lấy làm buồn khi một kỹ nữ đình đám một thời nay trở nên thật xấu xí và thê lương đến vậy. Điều đó khiến chính bản thân tiểu nữ cảm thấy lo sợ đến một ngày nào đó…” Giọng nói của Ngân Tiên lặng dần. Để làm cho nàng vui lên, Mã Vinh bắt đầu nói chuyện về thôn làng của họ. Hóa ra y đã từng gặp phụ thân của nàng ở tiệm thịt tại khu chợ trong làng. Ngân Tiên kể rằng sau đó phụ thân nàng lâm vào cảnh nợ nần, ông buộc phải bán hai nhi nữ của mình cho một tên ma cô. Vương đại nương trở lại mang theo một bình trà mới, một đĩa hạt dưa và kẹo. Họ đã ngồi hàn huyên về những người họ từng quen biết. Khi người góa phụ kể xong một câu chuyện dài về phu quân mình, Mã Vinh nhận thấy Ngân Tiên đã ngủ say. “Có lẽ chúng ta nên dừng câu chuyện tại đây!” Y nói với người góa phụ. “Ta sẽ phải rời khỏi nơi đây vào sáng mai, trước lúc bình minh. Đừng bận tâm về bữa điểm tâm, ta sẽ mua một vài cái bánh bao chiên trên phố. Hãy chuyển lời tới cô nương này là ta sẽ cố gắng ghé lại đây vào buổi trưa.” Sau khi người góa phụ rời đi, Mã Vinh nới lỏng thắt lưng, cởi giày và nằm duỗi mình trên sàn nhà phía trước giường, gối đầu trên cánh tay. Y đã quen với việc qua đêm ở bất cứ vị trí nào và chẳng mấy chốc căn buồng đã vang lên tiếng ngáy. HỒI 7 Đêm khuya xảy ra chuyện dị thường Mã Vinh trở về báo cáo chủ Trong Hồng lâu, Địch huyện lệnh nằm trằn trọc trên sàn, không ngủ được. Tấm thảm trải sàn màu đỏ này không thể nào thay thế được tấm nệm dày và mềm mại ông vẫn hay nằm. Phải mất một lúc ông mới đi vào giấc ngủ đầy mộng mị. Tuy nhiên, Huyện lệnh vẫn không thể nào an giấc. Ông chìm vào một giấc mơ kỳ lạ. Những gì xuất hiện trong giấc mơ như đang phản ánh những điều ông thấy không thoải mái về Hồng lâu này ngay trước lúc ông đặt lưng xuống. Địch huyện lệnh thấy mình lạc vào một khu rừng tối tăm và rậm rạp. Ông đang cố gắng một cách điên cuồng để tìm cách vượt qua những bụi gai. Đột nhiên, một thứ gì đó sắc bén và lành lạnh rơi ngay xuống cổ ông. Ông tóm lấy cái vật đang giãy giụa đó và ném nó đi cùng một tiếng chửi thề. Đó là một con rết lớn. Con vật hẳn đã cắn ông làm ông bất chợt trở nên chóng mặt và mọi thứ trở nên tối đen. Thế rồi Huyện lệnh thấy mình đang nằm thở hổn hển trên chiếc giường trong Hồng lâu. Một thứ hình hài đen đúa lờ nhờ như đang chồm lên người ông, ấn chặt ông xuống giường và bủa vây ông trong thứ mùi hôi thối tanh tưởi và kinh tởm. Những chiếc xúc tu màu đen từ loài sinh vật đó mò mẫm lên cổ ông một cách chậm rãi như một con quái thú mù lòa chậm rãi vần vò con mồi mà nó biết rằng con mồi không thể trốn thoát. Khi gần như nghẹt thở, ông giật mình tỉnh dậy với thân thể đầm đìa mồ hôi. Ông thở dài một cách nhẹ nhõm khi nhận ra đó chỉ là một cơn ác mộng. Sau đó, khi đang định ngồi dậy để lau mồ hôi trên khuôn mặt, ông bất chợt khựng lại và quan sát. Trong phòng thực sự có mùi khó chịu. Những cây nến đã không còn cháy nữa. Đồng thời, lúc này ông cũng nhìn thấy một bóng đen đang khẽ lướt qua song cửa sổ nhờ có ánh sáng mờ nhạt từ phía lâm viên. Trong khoảnh khắc đó, ông đã nghĩ mình lại đang chìm vào mộng mị. Nhưng rồi, ông biết mình thực sự thanh tỉnh. Nắm chặt chuôi kiếm, Địch huyện lệnh tiếp tục nằm bất động dưới sàn nhà, chăm chú nhìn về phía cửa sổ và bóng tối xung quanh, ông lắng tai nghe. Có một tiếng động khe khẽ phát ra từ chiếc giường, tiếp đó là tiếng vỗ cánh phát ra từ phía trần nhà, ngay trên đầu ông. Cùng lúc đó, ngoài hiên cũng có một tiếng cọt kẹt vang lên. Không một tiếng động, Địch huyện lệnh khom người đứng dậy và trên tay ông, thanh kiếm đã sẵn sàng. Xung quanh vẫn im lặng, Huyện lệnh bất chợt áp lưng vào bức tường và đứng đối diện với chiếc giường, ông nhanh chóng nhìn quanh và có thể khẳng định rằng căn phòng không có ai khác. Chiếc bàn vẫn nằm tựa vào cánh cửa như ông đã sắp xếp trước đó. Chỉ với ba bước chân, ông đã tiếp cận được tới cánh cửa sổ đang khép chặt. Hàng hiên vắng tanh không một bóng người và những khóm hoa tử đằng vẫn đang lắc lư trong làn gió hiu hiu. Trong không khí lúc này vẫn còn cái mùi khó chịu đó. Nhưng bây giờ, Địch huyện lệnh nghĩ có lẽ đó là mùi khói của hai cây nến đã tắt kia. Ông dùng mồi để thắp sáng những ngọn nến và cầm một cây đến phía chiếc giường. Tuy vậy, Huyện lệnh vẫn không hề thấy điều gì bất thường. Sau khi đưa chân đá vào một chiếc chân giường, ông lại nghe thấy tiếng lạo xạo. Đó có thể là một con chuột. Địch huyện lệnh nâng cao ngọn nến lên để kiểm tra kỹ tấm rèm trên giường. Tiếng xào xạc đó có lẽ là do một con dơi đã đậu ở đây gây ra, còn bây giờ nó hướng về phía cánh cửa sổ đang đóng và bay đi. Nhưng chỉ cần nhìn thấy cái bóng của nó cũng có thể đoán biết được con dơi này lớn hơn bất kỳ con dơi nào. Địch huyện lệnh khẽ lắc đầu buồn bã, ông đẩy chiếc bàn ra khỏi chỗ cánh cửa rồi băng qua tiền sảnh đi về phía khách sảnh. Cánh cửa dẫn ra hiên đã được mở rộng vì Địch huyện lệnh muốn để cho không khí mát mẻ của buổi tối tràn vào trong phòng. Ông bước ra hàng hiên, bước từng bước nhẹ trên tấm ván. Một trong những tấm ván sàn ở phía trước chiếc cửa sổ đóng chặt kia tạo ra tiếng két két như ông đã nghe thấy trước đó. Ông đứng trước hành lang và nhìn về phía lâm viên bỏ hoang. Cơn gió mát ban đêm làm lay động những chiếc lồng đèn làm từ giấy màu treo trên những hàng cây. Bây giờ chắc đã quá nửa đêm. Tiệm ăn trong khách điếm đã không còn có một tiếng động nào phát ra. Tuy vậy, những cánh cửa sổ từ phía lầu hai của khách điếm vẫn còn sáng đèn. Ông nghĩ những sự việc như ngọn nến bị tắt, mùi hôi, bóng đen, tiếng xào xạc, tiếng vỗ cánh, tất cả đều có thể giải thích được. Nhưng tiếng lách cách trên tấm ván sàn chứng tỏ rằng có thứ gì đó, hoặc ai đó đã đi qua chỗ khung cửa sổ đóng chặt này. Địch huyện lệnh kéo chiếc áo đang mặc sát vào người rồi đi vào phòng, ông ngả người vào chiếc tràng kỷ trong khách sảnh. Lúc này, ông đã quá mệt mỏi nên nhanh chóng đi vào giấc ngủ và không còn bị những cơn mơ quấy rầy nữa. Ông tỉnh dậy khi những tia sáng ảm đạm của bình minh đã tràn ngập căn phòng. Một tên hầu đang đứng cạnh bàn, chuẩn bị trà. Địch huyện lệnh bảo hắn mang cơm sáng lên để ông dùng ngoài hành lang. Cái lạnh của buổi đêm vẫn còn vương lại nhưng khi mặt trời lên, bầu không khí lại nhanh chóng trở nên ngột ngạt và nóng bức. Huyện lệnh lấy một chiếc áo trong sạch sẽ rồi đi về phía phòng tắm của khách điếm. Vào lúc sáng sớm thế này, trong phòng tắm chỉ có mình Địch huyện lệnh nên ông đã ngâm mình ở đó một lúc lâu. Khi trở lại Hồng lâu, ông thấy một tô cơm và một đĩa rau muối đã được để trên chiếc bàn nhỏ ngoài hành lang. Khi ông vừa nâng đũa lên thì khóm hoa tử đằng đột nhiên bị vén về bên phải. Mã Vinh xuất hiện và đến báo danh buổi sáng. “Ngươi từ đâu ra vậy?” Địch huyện lệnh kinh ngạc hỏi. “Tối qua thuộc hạ đã quan sát xung quanh đây, thưa đại nhân. Thuộc hạ đã tìm thấy một con đường từ phía đường lớn dẫn về hành lang bên này. Bên trái con đường này là một con đường khác dẫn thẳng tới chỗ ở của Hoa khôi. Vì thế, nàng đã nói sự thật, ít nhất là về việc hàng hiên này chính là lối tắt để nàng về phòng. Điều này cũng có thể giải thích tại sao Thu Nguyệt có thể đến đây và tới Hồng lâu mà không ai trong khách điếm biết việc này. Tối qua đại nhân ngủ ngon chứ ạ?” Vừa nhai một miếng cải bắp muối, Địch huyện lệnh vừa nghĩ và đưa ra quyết định rằng tốt hơn hết ông sẽ không nói cho Mã Vinh biết những gì ông nghi ngờ, hay những thứ ông đã nhìn và nghe thấy đêm qua. Ông biết rằng ma quỷ là thứ duy nhất viên trợ thủ của ông thực sự sợ hãi. Vì thế, ông đã trả lời, “Cũng khá ổn, cảm ơn ngươi. Ngươi có tìm hiểu được gì ở chỗ bến thuyền không?” “Có và cũng không có thưa đại nhân. Thuộc hạ đã đến đó lúc bình minh. Khi đó, những nhà thuyền đã sẵn sàng căng lưới. Thuyền của Phong Đại được để trên bờ. Những thuyền nhân đang chuẩn bị sơn phần thân thuyền đã được sửa chữa. Trưởng thuyền là một người thân thiện, ông ta đã mời thuộc hạ lên xem thuyền. Con thuyền này có nhiều cánh buồm, những khoang thuyền phía đuôi rất thoải mái như những gian phòng trong khách điếm. Con thuyền của họ còn có bao lơn khá rộng nữa. Khi thuộc hạ hỏi về vụ va chạm thì người trưởng thuyền bắt đầu đỏ mặt tía tai và nặng giọng. Con thuyền của họ đã bị một con thuyền khác đâm phải lúc nửa đêm và lỗi hoàn toàn từ phía con thuyền chở vị Trạng nguyên. Người trưởng thuyền lúc đó đã say mèm, nhưng Trạng nguyên lại vô cùng tỉnh táo. Phong tiểu thư đã chạy về phía bao lơn trong bộ đồ ngủ vì tiểu thư nghĩ rằng thuyền sắp bị chìm. Trạng nguyên tới gần và xin lỗi tiểu thư. Trưởng thuyền đã nhìn thấy họ đứng cùng nhau ở trước khoang thuyền của vị tiểu thư đó. “Những thuyền viên đã bận rộn cả đêm để tách hai chiếc thuyền ra khỏi nhau. Họ chỉ có thể đợi đến sáng hôm sau để một chiếc thuyền khác đến và kéo chiếc thuyền của Trạng nguyên lên bờ. Ở chỗ đó chỉ có một cỗ kiệu. Phong tiểu thư và thị nữ đã thuê nó. Một lúc sau mới có một cỗ kiệu khác xuất hiện để đưa Lý Trạng nguyên và những bằng hữu của ngài ấy trở về khách điếm. Trong lúc chờ đợi năm người bằng hữu đang say xỉn của mình an vị và được chăm sóc trong khoang chính, Trạng nguyên tỏ ra khá hoạt bát. Ngài ấy đi bộ lên bờ và cũng không ai nhìn thấy lão chủ hiệu cầm đồ đâu cả.” “Rất có thể những bằng hữu của ngươi, Giải Tử và Hà Tử gì đó đã bịa ra chuyện này để nói xấu ông chủ Ôn.” Địch huyện lệnh nói một cách thờ ơ. “Có thể vậy. Nhưng họ không nói dối về mảnh vườn trồng bí ngô. Mặc dù trên sông có chút ít sương mù nhưng thuộc hạ có thể thấy được Giải Tử và Hà Tử đang tưới nước cho những cây bí ngô ở đó. Không biết đã có chuyện gì xảy ra với Hà Tử, gã gù đó nhảy dựng lên như một kẻ điên. Nhưng dù sao đi nữa, thuộc hạ cũng đã nhìn thấy một người bị bệnh phong, ông ta đứng ở đó, nguyền rủa nhà thuyền vì từ chối đưa ông ta qua sông. Phải nói rằng cách tên ăn mày đó mắng chửi chẳng khác gì một quý ông vậy. Thật kỳ lạ khi những lời đó lại xuất hiện từ miệng hắn ta! Cuối cùng hắn ta đưa cho nhà thuyền một miếng bạc nhưng người lái thuyền từ chối và nói rằng ông ta thà chở người nghèo nhưng khỏe mạnh chứ không chở người bệnh phong. Thế nên, người đó đã bỏ đi trong giận dữ.” “Ít nhất là kẻ bất hạnh đó đã không dùng tiền đè người,” Địch huyện lệnh nhận xét. “Tối qua ngươi đã không đến gặp những người bằng hữu kia như ta nói chứ?” Mã Vinh xoa chiếc cằm nặng trịch của mình rồi nói tiếp, “Thưa đại nhân, đêm hôm qua, thuộc hạ đã gặp một kỹ nữ tên là Ngân Tiên. Nàng nói rằng đã gặp ngài ở buổi dạ yến tại Gia Hạc lâu.” Khi Địch huyện lệnh gật đầu xác nhận, Mã Vinh kể cho ông nghe về tình cảnh y đã nhìn thấy, về việc nàng ở phòng giáo dưỡng dành cho kỹ nữ và lúc đầu bị Thu Nguyệt, sau đó là Ôn Nguyên hành hạ ra sao. “Thu Nguyệt đã rỉ tai bảo với lão buôn đồ cổ đó rằng có một cô nương đang chờ lão ta âu yếm!” Địch huyện lệnh giận dữ nói. “Ta đã nhìn thấy kỹ nữ thì thầm gì đó vào tai lão khi nàng ta quay lại dạ yến. Trên nét mặt nữ nhân đó đã xuất hiện tia ác độc.” Ông giật giật hàm ria và nói thêm. “Dù sao vết tích trên cánh tay của Hoa khôi cũng đã tìm được nguyên nhân. Tối qua, ngươi đã đưa cô nương đó đến nơi an toàn chưa?” “Thưa đại nhân, thuộc hạ đã làm thế rồi ạ. Thuộc hạ đã đưa cô nương đó tới chỗ một góa phụ, một người quen cũ của nàng.” Sợ rằng Địch huyện lệnh sẽ tra hỏi về việc y đã qua đêm ở đâu, Mã Vinh nhanh chóng nói tiếp, “Ngân Tiên đã từng học hát ở chỗ Lăng thị, một kỹ nữ hết thời mà Giải Tử đã giới thiệu. Lăng thị là một lão bà bệnh tật nhưng ba mươi năm trước, bà ta cũng đã từng là một kỹ nữ nổi danh ở đây. Nếu đại nhân muốn tìm hiểu thêm về vụ tự tử của phụ thân Đào Đức, có lẽ Lăng thị có thể cung cấp một vài manh mối.” “Mã Vinh, ngươi làm rất tốt. Về vụ tự tử đó, mặc dù nó đã xảy ra một thời gian dài nhưng lại diễn ra tại chính nơi đây, trong Hồng lâu. Mỗi manh mối liên quan dù là nhỏ nhất đều vô cùng cần thiết. Ngươi có biết đi đâu để tìm Lăng thị không?” “Bà ta sống đâu đó gần chỗ Giải Tử. Thuộc hạ sẽ hỏi hắn ta.” Địch huyện lệnh gật đầu. Ông sai Mã Vinh chuẩn bị quan phục bằng gấm xanh và ra lệnh cho gã chủ khách điếm thuê một cỗ kiệu để đưa họ tới Phong phủ. Mã Vinh đi tới tiền sảnh, vừa đi vừa hát. Lúc y rời khỏi, Ngân Tiên vẫn chưa dậy. Nhưng cho dù là khi đang ngủ, nàng cũng vô cùng xinh đẹp, y nghĩ thế. Hi vọng rằng y có thể gặp lại nàng vào buổi trưa. “Thật là buồn cười khi mình lại thích nàng.” Mã Vinh lẩm bẩm. “Mình chỉ nói chuyện với nàng thôi mà! Chắc hẳn là do nàng và mình là đồng hương!” HỒI 8 Phong Đại thuật chuyện Lý Trạng nguyên Huyện lệnh chủ trì phiên thăng đường Địch huyện lệnh và Mã Vinh bước xuống kiệu ngay trước một ngôi đền nguy nga nằm ở phía bắc con phố chính, ông nhận ra ngay những cột trụ cao màu đỏ phía trước cánh cổng cẩm thạch lộng lẫy mà ông đã đi ngang qua lúc mới đến đảo Bồng Lai. “Miếu này thờ thần nào?” ông hỏi trưởng phu kiệu. “Thờ Triệu Công Minh*Triệu Công Minh là một nhân vật đời nhà Thương, nhờ lánh đời đi tu tại núi Chung Nam mà về sau đắc đạo trở thành Thần Tài. thưa đại nhân! Khách nào đến đảo này cũng đều vào đây thắp hương và cầu khấn trước khi thử vận may tại các sòng bạc.” Nơi ở của Phong Đại đối diện với ngôi đền. Đó là khu dinh thự rộng lớn, được bao quanh bởi một bức tường cao mới trát vữa. Phong Đại ra gặp Địch huyện lệnh tại khoảng sân được lát đá cẩm thạch trắng. Đi hết sân là đến một tòa nhà lớn hai lầu, có một cánh cổng gỗ cao và mái nhà lợp ngói đồng lấp lánh dưới ánh nắng ban mai. Phong quản sự dẫn Địch huyện lệnh vào thư phòng ngồi nghỉ trong lúc người quản gia đưa Mã Vinh đến khách đường ở gian nhà phía đông để y kiểm tra xem mọi thứ đã sẵn sàng cho phiên xử án chưa. Địch huyện lệnh được lão Phong đưa vào một căn phòng lớn với đồ đạc sang trọng. Lão mời ông ngồi xuống chiếc bàn trà cổ bằng gỗ mun chạm khắc. Vừa nhâm nhi chén trà thơm ông vừa tò mò nhìn các kệ sách ở bức tường phía đối diện. Trên kệ chất đầy sách, một vài cuốn kẹp đầy giấy ghi chú. Nhìn theo ánh mắt của ông, lão Phong cười gượng nói, “Thảo dân cũng chẳng phải là học giả gì đâu, thưa đại nhân! Thảo dân mua những cuốn sách này từ lâu lắm rồi, chủ yếu là vì nghĩ thư phòng thì phải có sách. Thật ra nơi này vẫn thường được dùng làm phòng để tiếp khách. Nhưng bằng hữu của thảo dân là Đào Đức thường đến tham khảo sách ở đây. Họ Đào thích lịch sử và triết học. Tiểu nữ Ngọc Hoàn cũng dùng thư phòng này. Nó cũng biết làm thơ và rất ham đọc sách.” “Vậy thì việc lệnh ái thành thân với thi sĩ Khởi Ngọc Ba đúng là ‘văn duyên trời định’ như người ta hay nói rồi,” Địch huyện lệnh vừa cười vừa nói. “Ta nghe nói vị thiếu niên ấy không được vận may chiếu cố trên sòng bạc, nhưng ta đoán là y xuất thân từ một gia đình giàu có.” “Không hề, thưa đại nhân. Thực tế, y đã mất hết tất cả tiền của. Nhưng riêng trường hợp này thì cái rủi lại dẫn đến cái may. Khi Ngọc Ba tìm đến chỗ thảo dân để vay tiền làm lộ phí tiếp tục hành trình lên kinh, tiểu nữ tình cờ nhìn thấy y và phải lòng ngay tức khắc. Thảo dân lấy làm mừng, vì nhi nữ sắp sang tuổi mười chín rồi mà lần nào có người đến cầu thân cũng từ chối. Thảo dân bèn mời Ngọc Ba đến nhà vài lần và sắp xếp cho y gặp Ngọc Hoàn. Sau đó Đào Đức nói với thảo dân rằng y có vẻ rất mến mộ tiểu nữ, nên họ Đào đã đứng ra mai mối cho chúng, về vấn đề tiền bạc, thảo dân cũng được xem là một người giàu có, nhưng điều quan trọng nhất đối với thảo dân là hạnh phúc của Ngọc Hoàn, về làm hiền tế của thảo dân thì Ngọc Ba sẽ được sống hết sức sung túc.” Nói đến đây, Phong Đại dừng lại. Lão đằng hắng và sau một hồi do dự bèn hỏi, “Phải chăng đại nhân đã có kết luận gì về cái chết bất ngờ của Hoa khôi chăng?” “Ta không bao giờ đưa ra kết luận khi chưa có đủ chứng cớ,” Địch huyện lệnh trả lời ngắn gọn. “Trước tiên chúng ta phải xem kết quả nghiệm thi đã. Ta cũng muốn biết thêm về Trạng nguyên Lý Liên, người đã tự sát vì Hoa khôi. Ngươi hãy nói ta nghe xem y là người như thế nào!” Lão Phong trầm ngâm vuốt hàng ria mép dài. “Thảo dân chỉ mới gặp y một lần,” ông ta trả lời chậm rãi. “Đó là vào ngày 19, khi y đến gặp thảo dân để bàn về việc đền bù thiệt hại từ vụ va chạm trên sông giữa thuyền của thảo dân và của y. Gã Trạng nguyên ấy khôi ngô tuấn tú nhưng lại ngạo mạn và luôn ra vẻ ta đây hơn người. Thảo dân đã bỏ qua cho y vì thảo dân từng quen biết phụ thân của y là quan Đô ngự sử Lý Vệ Đình. Thời còn trẻ, ông ta là một nam tử chính trực, khôi ngô, khỏe mạnh, ăn nói dí dỏm và có học thức uyên thâm. Hồi ấy, mỗi lần ông ta ghé qua đảo này trên đường lên kinh và từ kinh về, tất cả các nàng kỹ nữ đều bám lấy ông ta. Nhưng họ Lý nào phải hạng ngu xuẩn, ông ta biết nếu muốn vào Ngự sử đài thì phải có thanh danh trong sạch. Nhiều trái tim thiếu nữ đã tan vỡ vì ông ta đấy. Chắc đại nhân cũng đã biết rồi, ông ta cưới tiểu thư của một đại thần trong triều cách đây hai mươi sáu năm và sau đó được bổ làm Đô ngự sử trong Hoàng cung. Cách đây sáu năm, ông ta cáo lão hồi hương và về sống tại gia trang ở vùng núi phía bắc nơi này. Nghe nói là gia đình ông ta không may thất thoát tiền bạc vì vài thương vụ đen đủi. Nhưng thảo dân đoán là với số nhà cửa đất đai còn lại thì họ vẫn đủ sống sung túc.” “Ta chưa gặp Lý Đô ngự sử bao giờ,” Địch huyện lệnh đáp, “nhưng ta biết ông ta là một vị quan có tài. Thật đáng tiếc khi ông ta vì bệnh tật mà phải cáo lão hồi hương. Mà ông ta bị bệnh gì thế?” “Thảo dân không biết, thưa đại nhân. Nhưng chắc là trọng bệnh, thảo dân nghe nói ông ta không ra khỏi nhà được gần một năm rồi. Vậy nên, như thảo dân đã trình với đại nhân đêm hôm qua, thi hài của Trạng nguyên là do thúc phụ đến nhận.” “Có người nói Trạng nguyên không phải loại người dễ dàng tự kết liễu mạng sống chỉ vì một nữ nhân.” Địch huyện lệnh nói tiếp. “Không phải vì một nữ nhân,” Phong Đại cười ý nhị, “mà là vì chính bản thân y. Như thảo dân đã nói với đại nhân, y là một kẻ vô cùng tự cao. Việc Hoa khôi từ chối y sẽ lan truyền ra khắp phủ, thảo dân nghĩ y tự sát là vì lòng tự trọng bị tổn thương.” “Có lẽ ngươi nói đúng,” Địch huyện lệnh đồng ý. “Mà này, thúc phụ của Trạng nguyên đã mang mọi tư trang của y về rồi à?” Lão Phong bỗng vỗ tay vào trán. “Đại nhân nói thảo dân mới nhớ ra!” ông ta kêu lên. “Thảo dân quên chưa đưa cho ông ta một số văn thư trên bàn của người chết.” Nói rồi lão đứng dậy và lấy từ ngăn bàn ra một xấp văn thư bọc trong giấy nâu. Địch huyện lệnh mở ra và nghía mắt nhìn qua. Sau một hồi, ông ngẩng lên và nói, “Trạng nguyên là người khá chu đáo. Y cẩn thận ghi lại mọi chi tiêu trong thời gian ở đây, kể cả số tiền trả cho những kỹ nữ đã ăn nằm cùng y. Ta thấy tên của Ngọc Hoa, Cẩm Chướng và Mẫu Đơn.” “Tất cả đều là kỹ nữ nhị phẩm,” lão Phong giải thích. “Y đã trả tiền cho ba cô nương này vào ngày 25. Nhưng không có ghi chép nào về khoản tiền trả cho Thu Nguyệt.” “Nàng tham gia đa số các buổi dạ yến của Lý Trạng nguyên,” Lão Phong nói, “nhưng khoản phí luôn được tính chung với hóa đơn của tửu lâu. Còn về phần… các quan hệ thân mật hơn, với những kỹ nữ nhất phẩm như Thu Nguyệt thì người khách sẽ trao cho nàng một món quà lúc từ biệt. Nó làm giảm đi phần nào… tính chất đổi chác của mối quan hệ.” Phong Đại trông có vẻ khó chịu, rõ ràng lão nghĩ rằng nhân phẩm của mình quá cao quý để bàn về những khía cạnh trần tục trong việc làm ăn của chính mình. Lão vội vàng cầm lên một tờ giấy trong mớ giấy trước mặt Địch huyện lệnh và nói tiếp, “Đây là chữ viết của Lý Trạng nguyên, chứng minh rằng những suy nghĩ cuối đời của y là nghĩ về nàng Hoa khôi. Cũng vì thế nên thảo dân đã gọi nàng đến tra hỏi. Nàng khai rằng y ngỏ lời chuộc thân và nàng đã từ chối.” Địch huyện lệnh đọc kỹ tờ giấy. Có vẻ như Trạng nguyên ban đầu định vẽ một vòng tròn hoàn chỉnh trong một nét bút. Nhưng y lại vẽ lần nữa, rồi viết bên dưới vòng tròn hai từ ‘Thu Nguyệt’ đến ba lần. Ông cất tờ giấy này vào tay áo, đứng dậy và nói, “Chúng ta đến công đường thôi.” Khu công đường của Phong quản sự chiếm toàn bộ khu vực phía đông của dinh thự. Lão Phong dẫn Địch huyện lệnh đi qua một hành lang lớn, nơi có bốn nha lại đang bận rộn sửa soạn giấy bút để tới một đại sảnh có trần cao. Phía trước sảnh là bốn cây cột bằng sơn mài màu đỏ và đối diện là một lâm viên được chăm sóc chu đáo. Sáu nam nhân đang đứng chờ tại đó. Địch huyện lệnh nhận ra trong số họ có Đào Đức, lão chủ hiệu đồ cổ Ôn Nguyên và chàng thi sĩ Khởi Ngọc Ba. Ba người còn lại thì ông không biết. Sau khi cúi chào đáp lễ, Địch huyện lệnh ngồi xuống chiếc ghế cao sau bàn xử án. Ông chiêm ngưỡng sự xa hoa của công đường này với vẻ mặt khó chịu. Bàn xử án phủ gấm đỏ thêu chỉ vàng và các vật dụng để viết lách trên bàn đều là những món đồ cổ đắt giá. Nghiên mực bằng đá được chạm khắc tinh xảo, ngọc trụy bằng ngọc bích, hộp đựng quan ấn bằng gỗ đàn hương và bút lông có cán bằng ngà voi. Tất cả trông giống một bộ sưu tập đồ cổ hơn là vật dụng của nha huyện. Sàn nhà lát gạch màu, bức tường phía sau treo một tấm bình phong vẽ cảnh mây trời và sóng biển bằng sơn vàng và xanh. Theo quan niệm của Địch huyện lệnh thì công đường phải càng đơn giản càng tốt để bá tánh thấy rằng quan lại không phung phí thuế má vào những thứ xa xỉ không cần thiết. Nhưng trên đảo Bồng Lai này, ngay cả chốn quan phủ cũng phải phơi bày sự giàu có xa hoa. Phong Đại và Mã Vinh đứng ở hai bên bàn xử án. Một viên Lục sự chuyên ghi chép các phiên xử đã ngồi vào cái bàn thấp cạnh bức tường và hai trong số ba nam nhân mà Địch huyện lệnh không biết giờ đã ngồi vào hai bên tả hữu bàn xử án. Cây gậy dài bằng tre họ cầm trên tay cho thấy họ là Bộ khoái của Phong quản sự. Địch huyện lệnh đọc qua các văn thư đã được chuẩn bị sẵn cho ông, sau đó đập kinh đường mộc xuống bàn và nói, “Ta, Huyện lệnh Phổ Dương, tuyên bố bắt đầu phiên thăng đường. Ta sẽ bắt đầu với vụ án của Trạng nguyên Lý Liên. Trước mặt ta là bản sơ thảo giấy chứng tử do Lỗ Tri huyện soạn thảo. Ngài ấy có ghi chép lại rằng Lý Trạng nguyên đã tự sát vào ngày 25 do quá đau khổ trước mối tình đơn phương với nàng kỹ nữ Thu Nguyệt, Hoa khôi năm nay của đảo Bồng Lai. Theo báo cáo nghiệm thi thì Lý Trạng nguyên đã tự sát bằng cách dùng dao cứa đứt tĩnh mạch chủ của chính mình. Trên mặt và cánh tay người chết có những vết xước nhẹ. Cơ thể người chết không có thương tật gì ngoại trừ việc hai bên cổ sưng lên mà chưa rõ lý do.” Địch huyện lệnh ngẩng mặt lên và nói, “Ngỗ tác hãy bước lên trước. Ta muốn nghe báo cáo chi tiết về hai vết sưng này.” Một lão nhân với chòm râu nhọn bước đến trước bàn xử án. Lão quỳ xuống và nói, “Tiểu nhân là chủ một dược phòng trên đảo này và đồng thời là Ngỗ tác của quan phủ. Về những vết sưng được tìm thấy trên xác của Trạng nguyên, tiểu nhân xin nói rõ rằng nó ở hai bên cổ, phía dưới tai. Nó có kích thước bằng một viên bi lớn. Da nơi đó không bị đổi màu và vì không tìm thấy vết đâm hay lỗ kim nào, tiểu nhân xác định nguyên nhân là từ bên trong.” “Ta hiểu rồi,” Địch huyện lệnh nói. “Sau khi xác minh một vài chi tiết, ta sẽ ghi nhận đây là một vụ tự tử.” Ông lại đập kinh đường mộc. “Mục đích thứ hai của phiên xử này là để tìm ra nguyên nhân cái chết của nàng kỹ nữ Thu Nguyệt xảy ra tối qua trong Hồng lâu. Giờ ta muốn nghe báo cáo nghiệm thi.” “Tiểu nhân đã khám nghiệm thi thể của cô nương Nguyên Phong hay còn gọi là Thu Nguyệt,” Ngỗ tác lại lên tiếng. “Tiểu nhân phát hiện cái chết của Hoa khôi là do suy tim. Có lẽ là do nàng đã uống quá nhiều rượu.” Địch huyện lệnh nhướn mày và ra lệnh, “Ngươi nói rõ hơn xem nào.” “Trong hai tháng vừa qua, thưa đại nhân, người chết đã hai lần đến chỗ tiểu nhân để chữa chứng đau đầu và tim đập nhanh. Tiểu nhân thấy rằng sức khỏe của nàng đang suy nhược nên đã kê thuốc an thần và khuyên nàng nên nghỉ ngơi và không uống rượu nữa. Tiểu nhân cũng đã báo cáo việc này cho người quản lý các kỹ viện nhưng được báo lại là rằng nàng chỉ uống thuốc tiểu nhân kê song không hề thay đổi lối sống.” “Tiểu nhân cũng đã khuyên răn nàng nghe theo lời của đại phu, thưa đại nhân,” lão Phong vội vàng nói. “Bọn tiểu nhân luôn xem trọng vấn đề sức khỏe của kỹ nữ, bởi lợi ích của họ cũng là lợi ích của bọn thảo dân. Nhưng nàng nhất quyết không nghe lời và vì nàng là Hoa khôi nên…” Địch huyện lệnh gật đầu và ra lệnh, “Nói tiếp đi!” """