"Hơn Cả Tin Tức - Tương Lai Của Báo Chí PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hơn Cả Tin Tức - Tương Lai Của Báo Chí PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo BEYOND NEWS: THE FUTURE OF JOURNALISM Copyright © 2014 Columbia University Press. This Vietnamese edition is a complete translation of the U.S. edition, specially authorized by the original publisher, Columbia University Press. Bản tiếng Việt © Nhà xuất bản Trẻ, 2015 BIỂU GHI BIÊN MỤC TRƯỚC XUẤT BẢN DO THƯ VIỆN KHTH TP.HCM THỰC HIỆN General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Stephens, Mitchell, 1949- Hơn cả tin tức : tương lai của báo chí / Mitchell Stephens ; Dương Hiếu ... [và nh.ng. khác] dịch. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2015. 382 tr. ; 20 cm. Nguyên bản : Beyond news : the future of journalism. 1. Nghề làm báo -- Lịch sử -- Thế kỷ 21. 2. Nghề làm báo -- Đổi mới công nghệ. 3. Nghề làm báo trực tuyến. 4. Phóng viên và tường thuật. I Dương Hiếu. II. Ts. III. Ts: Beyond news : the future of journalism. 070.4 -- ddc 23 S834 DƯƠNG HIẾU – KIM PHƯỢNG – HIẾU TRUNG DỊCH Tặng cha tôi, Bernard Stephens – vì công bằng xã hội, vì ngành báo chí Mục lục LỜI GIỚI THIỆU 9 1 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 37 2 “NHỮNG BIẾN CỐ XẢY RA HÔM QUA TRÊN MỌI LỤC ĐỊA” 82 3 “CỖ MÁY TRUYỀN TIN ĐƠN THUẦN” 119 4 TẠM BIỆT CÔNG THỨC KINH ĐIỂN “AI-CÁI GÌ-KHI NÀO-Ở ĐÂU” 161 5 “DÙ BẠN CÓ NỖ LỰC THOÁT RA KHỎI TÁC PHẨM BAO NHIÊU ĐI NỮA” 211 6 “VÔ SỐ NHỮNG CÂU CHUYỆN ỒN ÀO TRÊN ĐỜI” 248 7 “NHỮNG KHỐI TRÍ TUỆ LẤP LÁNH” 287 CHÚ THÍCH 319 LỜI CẢM ƠN 378 LỜI GIỚI THIỆU Đánh giá lại về báo chí chất lượng Ngày nay hầu hết người Mỹ đều nghĩ về nhà báo theo đúng cách mà hầu hết nhà báo nghĩ về chính họ: người tường thuật lại thông tin. Thực vậy, nhiều người làm nghề và bảo trợ cho trường phái báo chí truyền thống tại Hoa Kỳ đều chấp nhận tiêu chuẩn chuyên môn mà Bill Keller đã đề ra vào năm 2009: “Theo tôi, báo chí chất lượng liên quan đến công việc của những phóng viên dạn dày kinh nghiệm đi đến nơi này nơi nọ, chứng kiến, đào xới các hồ sơ, phát triển nguồn tin, kiểm tra, rồi tái kiểm tra.”1 Khi đó, Keller đang là tổng biên tập của tờ New York Times. Trong quyển sách này, chúng tôi cho rằng quan điểm báo chí đó — vốn có từ thế kỷ 19 — đã bị lỗi thời trong thế kỷ 21. Thế kỷ 21 đòi hỏi phải có một cách hiểu khác về chất lượng trong nghề báo. Và, khi làm như thế, nó cũng đưa ra được một giải pháp khác cho cuộc khủng hoảng của báo chí hiện nay. Đúng vậy, báo chí đang khủng hoảng: mọi thứ đang xấu đi cho ngành báo chí trong vài thập niên gần đây. Mặc dù dân số vẫn tiếp tục tăng, tổng số lượng báo giấy lưu hành tại Hoa 10 LỜI GIỚI THIỆU Kỳ đã giảm hơn 25% từ năm 1990 — theo thống kê từ Trung tâm nghiên cứu Pew. Các bản tin buổi tối phát sóng trên ba đài truyền hình truyền thống của Hoa Kỳ — từng một thời thống trị nguồn tin tức ở quốc gia này — đã mất hơn nửa số khán giả kể từ năm 1980. Đồng thời, hai tạp chí hàng đầu của Mỹ không còn phát hành thường xuyên nữa. Tạp chí lớn thứ ba, Time, thì bị sụt giảm báo bán quầy đến 27% chỉ riêng trong năm 2012.2 Hệ quả là rất nhiều con người tài năng và chăm chỉ đã bị mất công ăn việc làm. Vào năm 2012, các tòa soạn báo ở Hoa Kỳ thuê lượng phóng viên ít hơn khoảng 30% so với hồi đầu thế kỷ 21 — cũng theo báo cáo từ Trung tâm Pew nói trên.3 Các trang tin tức trên mạng và truyền hình cáp tuy thu hút được sự chú ý của khán giả, nhưng vẫn không tạo ra đủ số việc làm bù đắp lại — ít nhất cũng không đủ công việc với mức lương như bên báo chí. Một hệ quả đặc biệt đáng sợ của sự cắt giảm này là sụt giảm số lượng phóng viên chuyên nghiệp túc trực tại các sự kiện thuộc cơ quan công quyền, cùng những nơi đang có chiến sự.4 Giữa bối cảnh u ám đó, giới nhà báo cùng những người còn coi trọng nhà báo chỉ biết tìm đến các hội thảo để than vãn và nguyền rủa vận mệnh đáng buồn của họ. Một số người quá thất vọng thì viết ra những dự đoán bi quan và thốt lên những lời tiên đoán đáng sợ về tương lai của báo chí. Những người bảo vệ ngành nghề này — giữa cơn sợ hãi, thất vọng — đều tuyên bố theo thói quen rằng bản thân tin tức đang bị khủng hoảng.5 Tuy nhiên, về khía cạnh này thì họ đã sai: đa phần tin tức vẫn đang rất ổn. Tin tức có thể được định nghĩa là thông tin mới về một sự việc, một chủ đề mà công chúng quan tâm và được chia sẻ với LỜI GIỚI THIỆU 11 một phần công chúng.6 Không khó nhận ra rằng lượng thông tin mới mà công chúng quan tâm được chia sẻ cứ tăng dần — ngay cả khi số lượng công việc cho những con người thực hiện điều đó cứ biến mất đi. Thực vậy, sự xuất hiện gần đây của một trong những dạng công nghệ thông tin mang sức mạnh lớn nhất của loài người — như người ta đã kỳ vọng — là một mối lợi lớn đối với thông tin. Tuổi đời của World Wide Web vẫn còn rất trẻ, nhưng nó đã thu vén được một lượng dữ kiện cực kỳ đa dạng từ số nguồn tin cực kỳ đa dạng, truyền tải chúng dưới số định dạng cực kỳ phong phú, lại còn hết sức nhanh chóng và truyền được rất xa. Cực kỳ nhanh: những sự kiện đáng đưa tin ngày nay — thông cáo, sự cố, thảm họa — tất cả đều xuất hiện đầy trên web trước cả khi chúng kết thúc.7 Và cũng cực kỳ xa: các thiết bị di-động-kết-nối-mạng của chúng ta, bất chấp những nỗ lực kiểm soát của một số chính phủ, vẫn nén được các tập văn bản cùng hình ảnh gửi đến gửi đi gần như mọi quốc gia trên thế giới. Chưa bao giờ chúng ta được thấy một công cụ trung gian tin tức kiểu thế này cả. Điều này không có nghĩa là tin tức đến với chúng ta thông qua laptop, điện thoại thông minh, máy tính bảng — hay sắp tới sẽ là thiết bị đeo trên người — luôn luôn mẫu mực, mang tính xây dựng hoặc đủ độ tin cậy. Xét cho cùng, tin tức trên báo in hoặc truyền hình cũng rất thường xuyên không đạt được những chuẩn mực đó. Sức mạnh gấp bội của web dưới vai trò trung gian truyền thông tin không đồng nghĩa với việc tất cả tin tức đều sẽ được nó phục vụ tốt như nhau. Khi những tay nghiệp dư và thuật toán thu thập / phân phối thông tin ngày càng nhiều, các vấn đề về độ chính xác, độ tin cậy, thiên kiến, chiều sâu, độ chuyên nghiệp ngày càng lộ rõ. Chúng ta cần phải cẩn thận như 12 LỜI GIỚI THIỆU với bất kỳ dạng trung gian nào khác, cẩn trọng với các điểm mù. Nên nhớ rằng từng có thời những người xét duyệt báo chí dành rất nhiều thời gian để lọc ra vô vàn sơ suất nghiêm trọng của báo chí và bản tin – với quan điểm đôi khi rất hẹp hòi và không kém gì những “kẻ gác cửa” bảo thủ. Thoạt nhìn, điểm yếu của web dường như rơi vào hai dạng. Một là không tường thuật được thường xuyên những tin tức cùng phát triển, và hẳn là cùng lỗi thời, với hệ thống săn tin theo khu vực của báo chí: đặc biệt là các tin tức địa phương đầy đa dạng. Thứ hai là sự e ngại khi triển khai các nhóm phóng viên nhiều kinh nghiệm — cái mà đến nay vẫn rất hiếm có trên web — và việc dành không gian (vốn có rất nhiều trên web) cho các bài phóng sự điều tra độc đáo. Tuy nhiên, vô số người tiếp cận được Internet hiện giờ đã kết nối với rất nhiều nguồn cung cấp thông tin. Những cánh cổng đã mở toang. Luồng tin tức từ web cùng những người anh em họ hàng của nó dường như ngày càng mở rộng thêm, phát triển sâu thêm, càng lúc càng tăng tốc. Các doanh nhân, tổ chức phi lợi nhuận đã bắt đầu thử chạm tới một số điểm mù. Nói cách khác, tương lai của tin tức trước mắt có vẻ khá an toàn. Chỉ tương lai của ngành báo chí là u ám. Rất khó để đưa ra định nghĩa chính xác về báo chí.8 Thực vậy, ở khía cạnh nào đó, nó là một ngành chuyên môn — thường được thực hiện vì tiền công – nhưng một định nghĩa quá hẹp như vậy có thể sẽ bỏ qua cả vinh quang và trách nhiệm của những người LỜI GIỚI THIỆU 13 không phải chuyên gia, những tay nghiệp dư có mặt trong làng báo.9 Rõ ràng đây là ngành liên quan đến tin tức, nhưng nếu chỉ tập trung vào việc tường thuật và phân phối thông tin — như Bill Keller vào 2009, ta lại giới hạn đi những tiềm năng của chuyên ngành này. Đây là định nghĩa của tôi: báo chí là hoạt động thu thập, trình bày, diễn giải hoặc bình luận về tin tức cho một bộ phận công chúng. Trong khoảng một thế kỷ rưỡi gần đây, các nhà báo đã nhấn mạnh vào việc thu thập, trình bày tin tức. Kể từ giữa thế kỷ 19, họ vẫn kiếm sống được — thực tế còn xây dựng được cả những doanh nghiệp đồ sộ — thông qua việc bán tin tức hoặc bán các quảng cáo cạnh bên tin tức. (Chương 2 của quyển sách sẽ bàn tới việc làm sao họ có được sự kết hợp này, còn chương 3 sẽ nói về lý do tại sao kỷ nguyên đó lại chấm dứt.) Trong tương lai, có vẻ như số lượng nhà báo kiếm được đủ sống bằng phương pháp này sẽ chẳng còn như trước nữa. Nỗ lực kiếm tiền từ lượng độc giả chỉ-đọc-online ngày càng tăng của mình, nhiều tổ chức thông tin đã bắt đầu xây dựng các paywall (bức tường phí: một hệ thống thu phí của báo điện tử, theo đó người đọc chỉ có thể đọc nội dung trang web nếu đăng ký và trả phí – ND).10 Dù sao đi nữa, cơn lũ thông tin về các sự kiện hiện tại cũng đang ngập tràn khắp Internet và mọi người có thể nhấm nháp hay thậm chí ngụp lặn giữa vô vàn trang tin tức, blog, feeds, ứng dụng – hầu hết đều miễn phí. Dễ hiểu là điều này gây áp lực lên biên độ lợi nhuận, làm lúng túng các mô hình kinh doanh — bao gồm cả bức tường phí nói trên — tại nhiều trang web tin tức, blog, feeds hay ứng dụng nói trên. Chẳng thể kiếm sống được gì từ việc săn lùng những thứ được cho đi miễn phí. Nói một cách hình ảnh, điều này giống như làm nghề lái 14 LỜI GIỚI THIỆU phà sau khi người ta đã xây được cây cầu, đi bán kem khi nhà ai cũng có tủ lạnh. Cứ hỏi người bán sách bách khoa toàn thư hiện nay thì rõ, nếu bạn kiếm ra một anh chàng như vậy! Các bản tin trên radio và tivi đã vượt qua được vấn đề này bằng quảng cáo. Tuy nhiên, không như số lượng chương trình trên radio hay truyền hình thời hoàng kim ở vai trò truyền thông quảng cáo, số lượng các trang web đầy ắp thông tin trên Internet giờ đây lớn tới mức khó lòng mà đòi giá cao cho các quảng cáo đăng trên các trang đó.11 Ngay cả các bản tin audio và video online — vốn có thể phát các quảng cáo ngắn ở đầu — dường như cũng đều đang tiến theo hướng “miễn phí” khi mà việc ghi âm, ghi hình, rồi biên tập, tải lên mạng và tiếp cận đều đã trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Vì thế, thành công của mảng tin tức số (digital news) tự nó đã bào mòn nền kinh tế của báo chí số (digital journalism): do nguồn cung quá nhiều, giá trị của chúng trở nên ít đi đối với khán thính giả và nhà quảng cáo. Khi thông tin nhiều như nước, việc cẩn thận thu thập dữ kiện về các sự việc đang diễn ra — chuyện gì đã xảy ra, ai đã nói cái gì, vào lúc nào — đã mất đi rất nhiều giá trị. (Giờ đây vấn đề mà các tổ chức thông tin truyền thống gặp phải là cố gắng bán đi các mục sự kiện công chúng, ngay cả khi họ đã tường thuật chúng ít nhiều chuyên nghiệp hơn, vấn đề này sẽ được thảo luận trong chương 3.) Hẳn là AP, Reuters, Bloomberg, cùng vài tổ chức thông tin nữa sẽ trang trải được từ việc cung cấp các bài viết hoặc video về các sự kiện như vậy lên website nhanh chóng với số lượng lớn. Tuy nhiên, ta khó lòng thấy được nhiều tổ chức đặt nền tảng kinh doanh dựa trên việc tường thuật thông tin liên-tục xoay-vòng như vậy — thuần túy nhờ vào thu thập và phân phối LỜI GIỚI THIỆU 15 thông tin lặp đi lặp lại. Sau hơn một thế kỷ rưỡi bán tin tức mới, giờ đây giới phóng viên cần phải bán những thứ khác. Bằng sự tuyệt vọng của những con người mà sự mưu sinh bị đe dọa, những năm gần đây giới phóng viên buộc lòng phải nghĩ lại cách phân phối “báo chí chất lượng”: báo giấy, tạp chí cân nhắc việc loại bỏ phiên bản in; các chương trình tin tức trên radio thì sản xuất podcast (phát thanh qua internet – ND); các kênh tin tức trên tivi bắt đầu xem mình là nhà cung cấp tường thuật dạng hình ảnh. Ngày nay ta khó lòng tìm được tổ chức làm tin tức nào mà không trang bị cho phóng viên một loạt thiết bị ghi âm, ghi hình không có khả năng tung tin tức lên Facebook, Twitter cùng các thứ ứng dụng mới xinh xắn để đăng tải lên thứ mới nhất và khiến mọi người ham mê đến phát cuồng lên của Apple: iDoohickey. Ngày nay giới phóng viên thậm chí còn phải nghĩ lại cách mà “báo chí chất lượng” đi gây quỹ: có thể thông qua các tổ chức phi lợi nhuận, nếu không phải là các bức tường phí (paywall). Tuy nhiên, ngày nay chẳng mấy ai chịu nghĩ rằng trong thời buổi đổi thay này, “báo chí chất lượng” nghĩa là gì. Các định nghĩa về chất lượng, cũng giống như công nghệ, rất dễ bị lỗi thời. Hãy thử xem xét — trong một lĩnh vực khác, nhiều thế kỷ trước — tình huống của Ernest Meissonier. Meissonier mất năm 1891, một thời từng là họa sĩ được kính nể nhất Paris, và do đó, nổi tiếng thế giới.12 “Ông là bậc thầy bất khả chiến bại của kỷ nguyên chúng ta,” một họa sĩ bậc thầy 16 LỜI GIỚI THIỆU khác, Eugène Declacroix,* đã thốt lên như vậy, và tuyên bố với Charles Baudelaire† rằng, “trong số tất cả chúng ta, chắc chắn tên tuổi ông ấy có khả năng trường tồn nhất.”13 Meissonier rất xuất sắc về độ chính xác và tỉ mỉ: “Tôi vẽ hệt như mọi người khác,” ông từng giải thích. “Chỉ là tôi luôn luôn nhìn kỹ.”14 Nói cách khác, các tác phẩm của Meissonier dựa trên sự quan sát cực kỳ kỹ lưỡng — vị trí chính xác của sự vật, chẳng hạn như một con ngựa đang chạy: “Bao nhiêu nỗ lực, bao nhiêu phác thảo, những khoảng thời gian quý báu và cả những mệt mỏi mà ông ấy đã trải qua” một họa sĩ cùng thời từng nói, “để lột tả lại một cách chân thật con vật sống động đó!”15 Các nhà phê bình ca ngợi tác phẩm của Meissonier là “tỉ mỉ đến vô cùng.”16 Các tác phẩm vô cùng chính xác của ông về những sự kiện vĩ đại đã hoàn toàn thống trị những triển lãm quan trọng nhất thời đó, và luôn được niêm yết với giá cao nhất. Tác phẩm trứ danh của Meissonier — khiến ông mất tới 12 năm mới hoàn thành — là một bức vẽ miêu tả Napoleon cùng đoàn quân của mình tại Friedland năm 1807. Nó được bán cho một người Mỹ với giá 380.000 franc vào năm 1876.17 Friedland hiện giờ đang được trưng bày ở Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan New York, một bức tranh với những con ngựa được thể hiện rất thực và sinh động. * Ferdinand Victor Eugène Delacroix (1798-1863) là họa sĩ người Pháp theo trường phái lãng mạn, một trong những gương mặt quan trọng của trường phái lãng mạn Pháp, là tác giả của những bức tranh nổi tiếng Liberty Leading the People (1830), Death of Sardanapalus, (1827- 1828), The Women of Algiers (1834). † Charles Pierre Baudelaire (1821-1867) là một trong những nhà thơ có ảnh hưởng lớn nhất ở Pháp thế kỷ 19, thuộc trường phái tượng trưng chủ nghĩa. LỜI GIỚI THIỆU 17 Ernest Meissonier tự xem mình là một phần của “truyền thống... trung thực, tận tâm và chân thật.”18 Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 19, những nỗ lực hết mình để khắc họa lại mọi chi tiết cho thật đúng bắt đầu có vẻ là một sự lãng phí thời gian. Truyền thống mà Meissonier đại diện bắt đầu trở thành thứ gì đó đáng chán. Một công nghệ mới đã khiến người ta thay đổi mọi nhận định từng có về hội họa. Đó chính là nhiếp ảnh. Trước hết, nhiếp ảnh cho thấy sự “chân thực” trong các bức vẽ của các họa sĩ như Meissonier là có giới hạn — ngay cả đối với những chi tiết nhỏ như dáng đi của ngựa. Nhiếp ảnh gia người Mỹ Eadweard Muybridge (1830- 1904) đã sử dụng nhiều máy ảnh và một hệ thống dây để xoay xở chụp được ảnh những con ngựa đang chuyển động. Muybridge hiểu khá nhiều về các tác phẩm của Meissonier và thừa nhận sự mô tả của họa sĩ về bước đi của ngựa, nhưng các bức ảnh của Muybridge đã cho thấy được những vị trí khác nhau trong quá trình ngựa chạy nước kiệu, đặc biệt là khi phi nước đại, so với tranh Meissonier vẽ được chỉ bằng mắt nhìn — dù quan sát rất kỹ.19 Đơn giản là vì chân ngựa di chuyển quá nhanh so với tốc độ theo dõi của mắt thường — thậm chí cả với cặp mắt “nhà nghề” như mắt của Meissonier! “Giá mà tôi có thể vẽ lại bức Friedland,” Muybridge từng nói thế — ông hiểu rất rõ tác phẩm của Meissonier.20 Các tác phẩm về sau của Meissonier chỉ giới hạn trong việc vẽ những chú ngựa đang đi hoặc đang đứng yên.21 Và công nghệ mới này không chỉ đánh bại những họa sĩ tả thực trong chính cuộc chơi của họ, mà còn làm điều đó không cần bất kỳ “nỗ lực”, “phác thảo” hay “mệt mỏi” gì, vì tốc độ chụp ảnh ngày càng không ngừng tăng lên. Thoạt tiên, những 18 LỜI GIỚI THIỆU khả năng mới của nhiếp ảnh đã góp phần vào “cuộc đua tìm kiếm hình ảnh chân thực”, đem lại lợi ích cho những họa sĩ tả thực như Meissonier. Nhưng chẳng mấy chốc nghệ thuật nhiếp ảnh làm cho những gì mà Meissonier tập trung và làm giỏi nhất trở nên kém giá trị: nó khiến cho việc tạo ra những tác phẩm chính xác đến cực độ về gần như mọi thứ trở nên quá dễ dàng, với chi phí thấp. Do đó mà thái độ của mọi người cũng thay đổi theo thời gian. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, quan niệm rằng chất lượng của nghệ thuật phụ thuộc vào độ chính xác và tính chân thực bắt đầu phai nhạt. Sau khi qua đời, danh tiếng của Meissonier sụt giảm tới mức một bộ sách hai tập về lịch sử nghệ thuật Pháp thế kỷ 19 thậm chí còn chẳng đề cập tới tên ông. Về sau Bảo tàng Louvre đã phải bỏ ra khỏi sảnh một bức tượng Meissonier tạc bằng cẩm thạch.22 Liệu công nghệ ngày nay, đặc biệt là các công nghệ trong vòng vài thập niên qua, có gây nên những ảnh hưởng tương tự đến việc thu thập thông tin về các sự kiện đang xảy ra? Thông qua blog, email, tweet, độc giả có thể nhận được thông báo trước nhất về những diễn biến đáng chú ý ngay trong lúc chúng còn đang xảy ra. Thông qua video và camera trực tiếp, họ thường có thể tự mình “quan sát” các sự kiện. Do đó, với công nghệ ngày nay, việc đưa tin truyền thống đã bị đánh bại trong chính cuộc chơi của mình. Khi tạo điều kiện hết sức dễ dàng cho khán thính giả tìm hiểu điều đang diễn ra, liệu chúng có làm giảm giá trị của việc kể lại điều vừa xảy ra? Nói cách khác, liệu chúng có làm cho quan niệm về chất lượng trong báo chí mà nhiều phóng viên truyền thống vẫn còn giữ trở nên lỗi thời: sự đề cao đối với việc chứng kiến, đào xới dữ liệu, tìm các nguồn tin, và xác minh? LỜI GIỚI THIỆU 19 Bill Keller, tuyệt vọng một cách đơn độc, than thở về “nguồn cung sụt giảm” của phiên bản “báo chí chất lượng”23 mà ông định nghĩa. Nhưng “nguồn cung sụt giảm” đôi khi có thể là một dấu hiệu của nhu cầu sụt giảm. Internet cho tất cả chúng ta khả năng đào xới dữ liệu, tìm nguồn tin, xác minh — tóm gọn lại trong một từ là tìm kiếm (search). Đồng thời, nó cũng thường cho chúng ta khả năng chứng kiến. Liệu nguồn cung về dạng báo chí như thế này, giống như nguồn cung về hội họa tả thực sau khi máy ảnh xuất hiện, nên sụt giảm? Biết đâu chúng ta chẳng cần phải có nhiều “phóng viên kinh nghiệm” của Keller như ngày xưa, trước khi thế giới xuất hiện trước mắt chúng ta qua internet. Không nói đến cuộc khủng hoảng lớn mà báo chí đang đối diện, ở đây chúng ta có thể nhận thức rõ một cơ hội cho ngành báo chí. Web cho phép những phóng viên giỏi nhất thoát khỏi thứ công việc tầm thường là kể lại với mọi người điều vừa mới xảy ra. Nó cho phép họ để lại những bài phát biểu và thông cáo báo chí cho hệ thống cáp và YouTube, để lại những cuộc phỏng vấn với cảnh sát và những người sống sót sau thảm họa cho giới phóng viên dịch vụ phát tin đầy chăm chỉ, đẩy việc giám sát những ban bệ, hội đồng cho những cá nhân đầy tinh thần công dân luôn háo hức tweet và post bài lên mạng! Có thể đây sẽ là cú đánh mạnh vào cái từng được coi là một quan niệm thực dân về tường thuật, nhưng những phóng viên giỏi nhất của chúng ta thậm chí có thể nhường trách nhiệm đưa tin cho người Mỹ về những điều đang xảy ra tại Ấn Độ, Ai Cập hay Iraq cho các công dân toàn cầu tại những quốc gia này. Việc một phóng viên Mỹ đầy mệt mỏi phải có mặt tại hiện trường với sổ ghi chép trong tay đã không còn cần thiết nữa. Internet cho phép những phóng 20 LỜI GIỚI THIỆU viên giỏi nhất của chúng ta — không, tôi phải dùng từ ‘đòi hỏi’ mới đúng — quay lại một quan niệm cũ hơn, cao hơn về trách nhiệm của họ: không phải chỉ là người tường thuật điều đang xảy ra nữa, mà là những cá nhân có khả năng cung cấp một góc nhìn khôn ngoan về điều đang xảy ra. Chắc chắn là vào những lúc khó khăn, ở những nơi khó tiếp cận thì việc “tận mắt chứng kiến” của nhà báo có thể làm hé mở và tiết lộ nhiều điều. Chắc chắn là thông tin, sự việc phải được xác minh và suy ngẫm. Chắc chắn là nhiều thứ vẫn có thể được khám phá bằng cách “đào xới dữ liệu, hồ sơ” hay “phát triển các nguồn tin”. Những điều tôi nói ở đây không hề có ý rằng phóng viên nên từ bỏ việc đưa tin, tường thuật về nhân quyền, làm phóng sự điều tra, đưa tin nóng hay đưa tin độc quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần ghi chép ai đã nói gì tại một sự kiện công chúng – chỉ đơn thuần tường thuật theo kiểu “tốc ký”, nói theo cách coi thường nhất từng được dành cho loại báo chí này — nghề báo ngày nay đã có cùng những khuyết điểm như hội họa kiểu Meissonier: đôi khi nó còn kém chân thực hơn là việc chúng ta chỉ nhìn hoặc nghe các bản thu âm thu hình về sự kiện đó, và như thế báo in sẽ thua xa về tính thông tin, gợi mở so với các cuộc trao đổi tự do, phóng khoáng hơn về sự kiện đó trên mạng, do những cá nhân có nhiều thông tin và quan điểm để chia sẻ hơn thực hiện. Tất nhiên, các tác phẩm của Ernest Meissonier được kết nối với một phong trào không chỉ giới hạn trong hội họa, một phong LỜI GIỚI THIỆU 21 trào mà văn hào Honoré de Balzac* tuyên bố trong phần lời nói đầu của một quyển sách của ông vào thập niên 1830: “Tác giả tin tưởng vững chắc rằng từ nay trở đi chính những chi tiết sẽ quyết định giá trị của tác phẩm.”24 Các chi tiết thống trị rất nhiều những ngành sáng tác nghệ thuật vào thế kỷ 19 — các chi tiết thực tế, tự nhiên, thậm chí thô ráp, và thường gây rắc rối về khía cạnh đạo đức hoặc chính trị. Dù tác phẩm của Meissonier không thô ráp hay rắc rối như Balzac, nhưng họ đều là những con người coi trọng chi tiết. Một ví dụ tương tự nữa là vị bác sĩ người Anh John Snow, người vào giữa thế kỷ 19 đã xác định vị trí những cái chết vì bệnh tả và những giếng nước trên một bản đồ để chứng minh rằng bệnh này lan truyền thông qua việc uống nước bị nhiễm bẩn.25 Sự theo đuổi những chi tiết (detail), những sự việc thực tế (fact) có vai trò quan trọng đối với tiến bộ của khoa học và y học thế kỷ 19. Trong thời kỳ đó, số lượng phóng viên tôn sùng chi tiết càng lúc càng tăng. (Chương 2 sẽ bàn đến việc tại sao và thế nào mà các phóng viên Mỹ trở nên tin rằng mục tiêu tối thượng của họ là thu thập sự thật, sự kiện – collecting facts.) Bất chấp những thành tựu to lớn mà Balzac đã gọi là xung lực để “tôn sùng sự thật”,26 văn học, hội họa, và ít nhiều cả khoa học vẫn tiếp tục tiến tới trong thế kỷ kế tiếp. Họ sẽ không còn xem thế giới là tập hợp những chi tiết độc lập, kín đáo cần xác minh và có thể được nắm bắt nhờ quan sát cẩn thận, “tận tâm, và chân thực”. Các tiểu thuyết gia, họa sĩ, ít nhiều cả các nhà khoa học đã bỏ chủ nghĩa hiện thực lại đằng sau trong thế kỷ 20. * Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực. Ông là tác giả của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). 22 LỜI GIỚI THIỆU Nhưng hầu hết phóng viên tại Mỹ thì không như thế. Ngược lại, họ càng xem trọng chủ nghĩa hiện thực hơn vào thế kỷ 20: những sự thực, chi tiết được biện giải một cách tận tâm, chân thực càng trở nên được người ta mê mải theo đuổi hơn bao giờ hết.27 Từ năm 1859, nhà thơ người Pháp Charles Baudelaire (1821- 1867) đã chế giễu quan điểm rằng “nghệ thuật là, và phải là, sự phản ánh chính xác Tự nhiên.”28 Sau này, các nghệ sĩ theo trường phái ấn tượng của thế kỷ đó vẫn hướng nhiều về tự nhiên, nhưng không tìm kiếm nó ở những chỗ mà những người như Meissonier đã làm. “Tự nhiên không nằm ở bề mặt,” Paul Cezanne tuyên bố.* “Nó nằm sâu ở bên dưới.”29 Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, hội họa phản ánh các khía cạnh của tự nhiên, đặc biệt là những gương mặt của con người, dưới nhiều góc độ cùng lúc, hoặc phản ánh những nét không dễ dàng nhận ra là tự nhiên. Năm 1919, Virginia Woolf,† khi nhắc đến tiểu thuyết, đã tấn công những người theo chủ nghĩa vật chất (materialist), nói rằng cuộc sống thực đã “trốn chạy” khỏi * Paul Cézanne (1839- 1906) là một họa sĩ người Pháp thuộc trường phái Hậu ấn tượng; ông được cho là cây cầu nối giữa trường phái ấn tượng thế kỷ 19 tới trường phái lập thể thế kỷ 20. Các tác phẩm của Cézanne thể hiện sự sắc sảo trong thiết kế, màu sắc, pha trộn. Những nét vẽ tìm tòi, nhạy cảm của ông mang tính đặc trưng và rất dễ nhận biết. † Virginia Woolf (1882-1941) là tiểu thuyết gia và nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỷ 20. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm Đêm và ngày (Night and Day, 1919), Căn phòng của Jacob (Jacob’s Room, 1922), Bà Dalloway (Mrs. Dalloway, 1925), Đến ngọn hải đăng (To the Lighthouse, 1927), Orlando (1928), Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929), Những đợt sóng (The Waves, 1931), Ba đồng tiền vàng (Three Guineas, 1938). LỜI GIỚI THIỆU 23 “cỗ máy tráng lệ cố gắng nắm bắt cuộc sống”30 của họ. Hội họa và văn học chuyển từ những nỗ lực chuyên cần nhằm nắm bắt các chi tiết vật chất sang đưa ra những ấn tượng, những góc nhìn, chuyển từ khách quan sang chủ quan. Ngành vật lý, theo những cách thức quan trọng, cũng chuyển từ một vũ trụ gồm những thứ cố định và khả tri sang góc nhìn tương đối và bất định về thế giới vật chất, với một tốc độ đủ nhanh và kích thước đủ nhỏ…. Ngành báo chí đã bỏ lỡ sự chuyển biến đó. Tại Mỹ vào thế kỷ 20, chỉ một số lượng giới hạn các nhà phê bình báo chí31 cùng một lượng nhỏ phóng viên đặt câu hỏi về giá trị và quy mô của “sự chính xác đến tỉ mỉ” mà các phóng viên đang ngày càng hăng say theo đuổi.32 Năm 1922, ngay cả Walter Lippmann (1889-1974), một trong những phóng viên và nhà phê bình báo chí thông tuệ nhất, cũng cho rằng “hiện thực” có thể được dễ dàng định vị, mặc dù, chẳng mấy ngạc nhiên là ông gặp một số khó khăn khi nói chính xác là có thể tìm nó ở đâu – ở “bên ngoài” chúng ta, không phải kiểu chủ quan như “các bức tranh trong đầu chúng ta”, hay (như ông viết sau này) ở “bối cảnh bên trong” thay vì “diện mạo” mà chúng ta đưa ra trước thế giới.33 Bước vào thế kỷ 21, thời gian đầu các phóng viên đã trở nên khiêm tốn hơn một chút. “Ngành báo chí không theo đuổi sự thật theo nghĩa hoàn toàn tuyệt đối hay triết học,” một hội nhóm tiếng tăm là Ủy ban nhà báo dấn thân (Committee of Concerned Journalists), do Dự án vì sự xuất sắc trong nghề báo (Project for Excellence in Journalism) quản lý, tuyên bố. Nhưng trong bản “Các Nguyên tắc báo chí”, nhóm này vẫn dứt khoát cho rằng báo chí “có thể — và buộc phải — theo đuổi” sự thật “dưới khía cạnh 24 LỜI GIỚI THIỆU thực tế”. Nó xác nhận, với cách viết đôi chút rắc rối, rằng “sự thật báo chí – journalistic truth này là một quá trình bắt đầu bằng một kỷ luật nghề nghiệp: thu thập và xác minh thông tin.” Ủy ban này cũng không hề khiêm tốn trong góc nhìn đối với tầm quan trọng của những thông tin được xác minh và thu thập như vậy: “Nền dân chủ phụ thuộc vào việc công dân của họ có được những thông tin chính xác, đáng tin cậy, đặt trong bối cảnh có ý nghĩa.”34 Một số từ ngữ được dùng ở đây — thực tế, quy trình, bối cảnh — minh chứng cho nhận thức rằng việc chỉ đơn thuần xếp chi tiết này lên chi tiết khác không phải cách phản ánh thế giới. Nhận thức như vậy là đáng hoan nghênh. Nhưng trong quá trình theo đuổi sự “xuất sắc,” các ủy ban nhà báo như thế vẫn có một số khó khăn khi phải bỏ đi quan niệm của thế kỷ 19 và thế kỷ 20 rằng các phóng viên chủ yếu là những người đi thu thập dữ kiện và sự thật. Việc tiếp tục bám lấy quan niệm này thật kỳ quặc, bởi báo giấy, phim thời sự, và bản tin, dù dị ứng với những thứ hiện đại và hậu hiện đại, lại xếp hạng khá cao trong số các lực lượng thúc đẩy tính hiện đại và hậu hiện đại trong thế kỷ 20. Chúng tạo điều kiện làm lỗi thời những khái niệm đơn giản hơn về hiện thực, thông qua những chất vấn không ngừng, chủ nghĩa yếm thế, sự pha trộn của thượng vàng và hạ cám, sự không đồng nhất không thể tránh khỏi (khi đưa tin, viết báo… – ND), cùng những nhắc nhở không ngừng của chúng về tầm quan trọng của cách truyền đạt. LỜI GIỚI THIỆU 25 “Báo chí chỉ là kẻ đưa tin sao?” nhà phê bình người Áo Karl Kraus (1874-1936) từng hỏi vào năm 1914. “Không, bản thân nó chính là sự kiện.” Sự cay đắng đầy cá tính của Kraus sau khi Thế chiến thứ 1 nổ ra đã vượt qua cả tính hài hước đặc trưng trong phong cách của ông. Ông than phiền rằng báo chí là “vũ khí sát nhân hàng đầu” mà sự tiến bộ sử dụng, vì nó hủy diệt tiền đề cho rằng một biến cố có thể tồn tại độc lập với cách mà chúng ta bàn luận về nó — thậm chí tiền đề này phải là biến cố diễn ra theo cách chúng ta nói về nó: “Hành động mạnh mẽ hơn lời nói,” Kraus viết, “nhưng tiếng vọng thì còn mạnh hơn hành động. Chúng ta sống giữa tiếng vọng, và trong thế giới hỗn loạn này, tiếng vọng làm trỗi dậy thôi thúc.”35 Báo chí dành rất nhiều thời gian trong thế kỷ 20 để mô phỏng sức mạnh của “tiếng vọng” (echo), thế nhưng nhiều phóng viên vẫn từ chối tiếp nhận bài học đó. Cứng đầu, không chút nao núng, chỉ tập trung vào các sự kiện, say sưa chạy theo những hành động, say sưa bởi những kẻ thực hiện những hành động đó, họ không nhận ra món nợ mà những sự kiện và hành động đó mắc phải đối với văn hóa, ngôn ngữ, và sự lan truyền. Họ tiếp tục tin rằng các sự thật / dữ kiện mà mình đang “thu thập và xác minh” có sự tồn tại hoàn toàn độc lập với cả quy trình họ thu thập, xác minh, điều tra, sắp xếp, và trình bày chúng trong một “bối cảnh có ý nghĩa.” Walter Cronkite* luôn khép lại chương trình CBS Evening News, nguồn tin tức hàng đầu tại Mỹ vào cuối thập niên 1960 và * Walter Leland Cronkite, Jr. (1916-2009) là nhà báo truyền hình người Mỹ, nổi tiếng với vai trò bình luận viên tin tức của chương trình CBS Evening News suốt 19 năm (1962-1981). 26 LỜI GIỚI THIỆU 1970, bằng câu nói, “Và sự việc chính là như thế.” Ông không hề nói — và tôi cũng chưa hề được thấy bằng chứng nào là ông có nghĩ – rằng “Và đó chính là một góc nhìn về sự việc”. Cronkite chắc chắn không nói — tôi sẽ ngạc nhiên nếu ông, hoặc hầu hết đồng sự báo chí của ông lúc bấy giờ, nghĩ — rằng “và đó chính là cách mà chương trình của chúng tôi phản ánh sự việc.”36 Vào thế kỷ 19, những phóng viên giỏi nhất xem mình như — và thường được chào đón như — người trong giới văn học và triết học.37 Trong thế kỷ 20, nhiều người trong số họ dường như lại chiến đấu với văn học và triết học. Thực vậy, các nhà báo đôi khi bị xem như những kẻ tầm thường, vì họ ủng hộ cho cái kỷ nguyên và cái tư tưởng mà các nghệ sĩ và triết gia đương đại hết mình chống lại: ngành báo chí Hoa Kỳ, ít nhất trừ những tờ báo nghệ thuật, trở thành tiền đồn cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực — của sự khăng khăng rằng có sự tồn tại của, nếu bạn tìm được đúng dữ kiện, một “sự thật hiển nhiên”. “Tính khách quan” là tôn giáo của báo chí Mỹ. Những người làm nghề báo đã thay đổi chính họ thành những kẻ điên cuồng bảo vệ chủ nghĩa hiện thực đến mức đôi khi họ chế nhạo, giễu cợt cả các ý tưởng nghệ thuật mới, các tác phẩm thử nghiệm và xem các lý thuyết văn học như “thứ vớ vẩn”.38 Thực vậy, Tom Wolfe* – một trong những phóng viên sáng tạo và dấn thân nhất trước khi chuyển sang lĩnh vực tiểu thuyết — từng là một trong những nhà phê bình gay gắt nhất xu hướng xa rời chủ nghĩa hiện thực trong văn học và nghệ thuật.39 * Thomas Kennerly “Tom” Wolfe, Jr. (sinh năm 1931) là tác giả và nhà báo người Mỹ nổi tiếng với sức ảnh hưởng đối với phong trào báo chí mới (New Journalism) trong đó kỹ thuật viết văn được sử dụng khách quan và vô tư. LỜI GIỚI THIỆU 27 Tất nhiên là nhiều lề lối, phương pháp của chủ nghĩa hiện thực vẫn hữu ích đối với báo chí: đi tới các nơi là tốt, đào xới và kiểm tra dữ kiện / hồ sơ là tốt, cả sự tỉ mỉ, chuyên cần và tính công bằng cũng rất có giá trị. Chúng ta đừng đánh giá thấp những thành tựu của chủ nghĩa hiện thực tồn tại trong ngành báo chí giữa một thế kỷ được đánh dấu bởi những sự kiện và hành động phi thường. Danh sách những vụ phát hiện và vạch trần do các phóng viên Mỹ vào thế kỷ 20 thực hiện — với việc kiên trì theo đuổi sự thật và dữ kiện theo phong cách xưa cũ từ thế kỷ 19 — rất dài và đầy ấn tượng: Lincoln Steffens viết về tham nhũng tại các đô thị, John Hersey viết về hậu quả khủng khiếp của quả bom hạt nhân thả xuống Hiroshima, Rachel Carson viết về sự nguy hại của thuốc trừ sâu, Seymour Hersh về sự tàn bạo của lính Mỹ tại Việt Nam, Bob Woodward cùng Carl Bernstein vạch ra những sai phạm tại Nhà Trắng thời Nixon. Tom Wolfe cũng có lý riêng khi lập luận rằng, với việc nhiều tiểu thuyết gia chuyển sang những mảng đề tài mang tính chủ quan hơn, các nhà báo có được cái gọi là độc quyền khi đưa tin về các sự kiện gây tranh cãi và đầy màu sắc trong nửa cuối của thế kỷ 20.40 “Bộ máy hoành tráng” nhằm thu thập sự thật và dữ kiện, được ngành báo chí truyền thống Mỹ xây dựng, thường vẫn vận hành một cách rất ấn tượng. Và “bộ máy” này thường lại có vẻ đủ hiệu quả. Rất khó tranh cãi rằng các nhà báo cần tới một nhân vật như Pablo Picasso hay Virginia Woolf, chứ đừng nói tới Werner Heisenberg, để kể với chúng ta về chiến dịch tranh cử tổng thống gần đây nhất. Nhưng phải chăng cách làm đó sẽ hưởng lợi, khi nỗ lực gỡ rối cuộn chỉ thông tin và sự kiện, từ việc có được một góc nhìn gần gũi hơn với tâm trí lãng đãng của con người, cùng việc hiểu 28 LỜI GIỚI THIỆU rõ hơn những giới hạn của cái gọi là sự chắc chắn? Như người sáng lập, biên tập của website báo chí Talking Points Memo, ông Josh Marshall, đã ghi nhận trong thời kỳ đầu cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm 2012: “Các chiến dịch tranh cử vẫn thường không đi theo các nguyên tắc logic hay, nói một cách hình ảnh, không tuân theo các quy tắc vật lý kiểu Newton.”41 Ngược dòng thời gian, chẳng phải các nghệ sĩ như Woolf đã viết rất hay về Thế chiến thứ 1, và Picasso đã thể hiện tuyệt vời với bức tranh Guernica hay sao? Bởi nếu chỉ đơn thuần là các chi tiết — ngay cả khi “đáng tin”, “chính xác”, và đặt trong “ngữ cảnh có ý nghĩa” — thì sẽ có những hạn chế nghiêm trọng ngay cả ở vai trò hướng dẫn thế giới về những sự kiện hiện tại. Có thể khẳng định rằng báo chí theo phong cách này đôi khi đã để sổng mất chính trị, cũng như phần lớn “cuộc sống”. Trong nhật ký của mình, họa sĩ Delacroix, dù là một trong những người ngưỡng mộ Ernest Meissonier nhất, cũng thổ lộ sự nghi ngờ rằng “còn có điều gì đó trong hội họa bên cạnh tính chính xác”.42 Với báo chí cũng vậy, hẳn phải còn có thêm điều gì nữa (ngoài việc tường thuật – ND). Jill Abramson kế thừa Bill Keller ở vai trò tổng biên tập New York Times vào năm 2011. Năm 2010, bà đưa ra lời diễn giải về điều mà “báo chí chất lượng” cung cấp, đó là “thông tin đáng tin cậy về thế giới mà chúng ta sống — thông tin được kiểm chứng, điều tra, sắp xếp, kiểm tra lần nữa, phân tích và trình bày một cách thuyết phục.”43 Lời diễn giải thích này hầu như LỜI GIỚI THIỆU 29 tương đương với cách hiểu của Keller về “báo chí chất lượng”, trừ một điểm, và đó là một điểm cực kỳ quan trọng: Abramson đưa vào một từ không được người tiền nhiệm dùng đến: phân tích (analyzed). Đó là từ đánh dấu sự bắt đầu cho một khái niệm hiện đại hơn về báo chí.44 Định nghĩa về báo chí được giới thiệu trong quyển sách này thận trọng thừa nhận rằng báo chí có thể vượt hơn việc chỉ “tường thuật nghiêm ngặt và chính xác”. Định nghĩa đó bao gồm việc diễn giải hoặc bình luận về tin tức — những gì mà các blogger ngày nay và những tờ báo vào thời Cách mạng Mỹ muốn thực hiện, và cũng là những gì mà những người viết xã luận, những phóng viên chuyên mục và phóng viên tạp chí chuyên ngành nghiêm túc mong muốn được gánh vác. Bởi ngay cả vào thời kỳ đỉnh cao của sự tôn sùng mà báo chí Mỹ dành cho chủ nghĩa hiện thực, ngay cả vào giữa thế kỷ 20, người ta vẫn tìm thấy một số diễn giải và bình luận hạng nhất trên báo chí — ở một số trang nhất định, một số ấn phẩm nhất định. (Chương 4 và 6 sẽ dẫn chiếu những ví dụ này.) Rõ ràng là Ủy ban Nhà báo dấn thân quan tâm, Bill Keller, và hầu hết những nhà báo truyền thống, đều ý thức rằng có những triết lý làm báo khác ngoài việc “thu thập và xác minh dữ kiện”. Tôi không tin họ có ý định loại trừ hoàn toàn việc lý giải và bình luận ra khỏi địa hạt của báo chí chất lượng. Tờ New York Times của Keller xét cho cùng cũng đã dành hẳn hai trang mỗi ngày chỉ để đăng các quan điểm, ý kiến. (Cả trước và sau khi Keller trở thành tổng biên tập của tờ báo, ông đều có bài trong những trang đó.) Và sự nổi trội của phần “phân tích tin tức” trên các trang khác của báo càng tăng thêm dưới sự trông nom của Keller. Sau khi Abramson thế chỗ Keller, dường như 30 LỜI GIỚI THIỆU bà còn tiến xa hơn theo hướng này: New York Times nay không tập trung quá nhiều nỗ lực trong việc cập nhật cho độc giả tất cả mọi chi tiết quan trọng về những sự kiện quan trọng nhất của ngày hôm qua nữa...* Thực ra, việc diễn giải và bình luận đang phát triển khắp trong giới báo chí ngày nay. (Chương 4 sẽ trình bày về sự hồi sinh gần đây của những nội dung này.) Đúng là các bình luận thường có thể chát chúa và dễ đoán — trong các buổi nói chuyện trên radio, trên truyền hình cáp hay nhiều website. (Chương 6 bao gồm một bài bình luận, dựa trên các tiêu chuẩn được nói đến trong chương 1, về sự đa dạng của báo chí nghị luận thường xuất hiện trên các kênh như Fox News Channel và MSNBC.) Nhưng một phần trong số các diễn giải và bình luận này rất độc đáo và mang tính gợi mở — đặc biệt là tại các tạp chí chất lượng, trên các blog và website đầy trí tuệ, đôi khi trên tờ New York Times nữa. Những ồn ào, náo nhiệt chát chúa thu hút sự chú ý từ những nhà bình luận báo chí, nhưng chính các thể thức báo chí phân tích độc đáo, mới mẻ đang dẫn lối đến tương lai. Quyển sách này không kêu gọi sáng tạo ra thứ gì mới cả. Nó chỉ kêu gọi chúng ta khao khát, với nhiều ý thức và thấu hiểu hơn, về một nền báo chí thường xuyên làm nhiều hơn là việc chỉ đơn thuần kể lại xem ai nói hay làm gì vào ngày hôm qua. Nó * Do New York Times là cơ quan thông tấn truyền thống và có ảnh hưởng lớn nhất của Mỹ, mọi bình luận liên quan đến tư duy báo chí hiện nay đều cần phải tham chiếu đến cơ quan này. Tôi sẽ bình luận nhiều về những nỗ lực của New York Times, cả trên ấn bản giấy lẫn ấn bản điện tử. Rõ ràng tờ báo đã thay đổi theo thời gian. Quan điểm của tôi là, bất kẻ nhiều điểm mạnh mà nó đang sở hữu, New York Times vẫn cần đổi mới nhiều hơn nữa. LỜI GIỚI THIỆU 31 kêu gọi xây dựng một nền báo chí rộng lớn hơn, tham vọng hơn. Và nó cũng tranh luận rằng một nền báo chí như thế sẽ không hình thành trọn vẹn mà không có sự thay đổi trong tư duy.45 Báo chí đã trải qua những thay đổi lớn lao vào những thời điểm khác nhau. (Chương 2 tập trung vào sự thay đổi của báo chí vào thế kỷ 19.) Khó mà bỏ qua tầm quan trọng của những phát minh khuấy động những thời kỳ thay đổi đó, cũng như những cải tiến mang tính phương pháp luận, đặc biệt là tốc độ in ấn cao hơn do những máy móc mới mang lại. Những biến động mà tiến bộ công nghệ tạo ra với ngành kinh doanh báo chí cũng đã được nhận diện và nắm bắt không chút chần chừ: các doanh nghiệp cũ bắt đầu chao đảo và sụp đổ; các doanh nghiệp mới được dẫn dắt bởi những người cải cách triệt để nhanh chóng nổi lên và thu hút sự chú ý về phía mình. Tuy nhiên, việc nhận ra rằng những thấu hiểu, tư duy về ngành báo chí cũng cần phải thay đổi lại lan truyền chậm hơn — đặc biệt đối với những người đạt được thành công bằng những hiểu biết cũ, những người chính thống. Cần có những lối tư duy mới để vận dụng tốt nhất các công nghệ mới và cứu sống một số doanh nghiệp báo chí lâu đời. Nhưng rõ ràng tư duy đi chậm hơn nhiều! Hãy xem một ví dụ khác về tư duy của một nhà báo chính thống của thế kỷ 21: Martin Baron, người đã chiếm vị trí tổng biên tập của tờ Washington Post vào tháng 1 năm 2013. Vài tháng trước đó, ông Baron đã trình bày một bài diễn văn đầy cảm hứng với các biên tập viên, trong đó ủng hộ sự cởi mở với 32 LỜI GIỚI THIỆU “cải cách” và mọi dạng thay đổi khác — mọi cải cách và thay đổi, ngoại trừ những thứ liên quan đến “mục đích truyền thống và… những giá trị cốt lõi” của tờ báo.46 Nhưng “mục đích truyền thống” kia là gì? Câu trả lời của Baron, một tóm tắt điển hình về dạng chính thống trong báo chí (journalistic orthodox), bắt đầu như sau: “Những câu chuyện được tường thuật một cách hấp dẫn. Những câu chuyện được kể lại một cách hấp dẫn. Những câu chuyện đem lại một góc nhìn về cộng đồng chúng ta phục vụ.” Ông nhắc tới từ “thấu hiếu”, nhưng chỉ là dạng có được, theo ngụ ý báo chí quen thuộc, “từ việc nhìn bên dưới bề mặt” — từ việc đào xới thông tin, hay nói cách khác là tường thuật (reporting). “Diễn giải” (interpretation) hay “phân tích” (analysis) không hề xuất hiện trong số 127 từ mà Baron đã dùng để miêu tả điều mà ông tin là nên được duy trì cho nền báo chí. Baron nhấn mạnh trong bài nói này về tầm quan trọng của “làm tất cả những công việc này — tất cả những công việc báo chí này – một cách thành thật, cao thượng, chính xác, và công tâm.” Trong số những “giá trị cốt lõi” này, ông không hề nhắc đến tầm quan trọng của việc làm báo một cách có hiểu biết, thông minh, hay thấu hiểu sâu sắc. Thực vậy, bài diễn văn hơn 3.000 từ của Baron không hề có ý nào nói rằng các nhà báo ngày nay cần phải đưa ra những cách hiểu sự việc (understandings), chứ không chỉ dữ kiện hay sự việc thực tế (facts). Marty Baron, giống như những nhà báo khác tôi đã trích lời cho tới giờ, là một con người thông minh, thành công, luôn quan tâm đến công chúng. Bản thân Baron và những nhà báo kia đều ý thức được giá trị của báo chí phân tích. Năm 2005, khi Baron LỜI GIỚI THIỆU 33 còn là biên tập viên của tờ Boston Globe, một loạt bài của tờ báo này về tính khoa học và tính đạo đức của việc nghiên cứu tế bào gốc đã đoạt giải Pulitzer về “báo chí diễn giải” (explanatory journalism). Nhưng khi Baron, vào lúc rời khỏi Globe, được hỏi về những gì khiến ông tự hào tại đây, thì theo lời của một phóng viên tờ Globe, ông chỉ nhắc đến “những tường thuật mang tính điều tra, các bài viết về nghệ thuật, những bài tường thuật chiến tranh tại Iraq và Afghanistan, cũng như việc Boston Globe mạnh dạn mở rộng sang các phiên bản điện tử và truyền thông đa phương tiện.”47 Rõ ràng là thêm một lần nữa, Baron đã phớt lờ, không nhắc tới việc diễn giải hay phân tích. Các nhà báo chính thống đều phớt lờ các yếu tố đó. Thực vậy, số lượng nhà báo ngày nay tiếp tục phớt lờ tầm quan trọng của việc diễn giải chính là bằng chứng cho việc tái tư duy về báo chí — sự chuyển đổi của tư tưởng báo chí truyền thống – vẫn chỉ mới bắt đầu. Do đó cũng không có gì ngạc nhiên rằng việc tái tạo nền báo chí cũng còn một chặng đường rất dài. Cuốn sách này đưa ra quan điểm rằng chất lượng báo chí của thế kỷ 21 không chủ yếu nằm ở việc “các nhà báo kinh nghiệm đi đến các nơi,... phát triển các nguồn tin, xác minh và tái xác minh dữ kiện,” như Keller đã miêu tả — mặc dù các hoạt động ấy tất nhiên là cũng hữu ích. Thay vào đó, chất lượng của hoạt động báo chí thực sự nằm trong điều mà tôi gọi là “báo chí trí tuệ” (wisdom journalism) — hoạt động báo chí làm tăng cường hiểu biết của chúng ta về thế giới. Báo chí trí tuệ là một thứ hỗn hợp. Bước đầu nó bao gồm các thể loại hiếm gặp hơn của tường thuật — tin độc quyền, tin nóng, phóng sự điều tra. Dù các thể loại tường thuật độc 34 LỜI GIỚI THIỆU đáo này hiện nay vẫn chưa có nhiều, nhưng giá trị của chúng là không có gì phải bàn cãi. Đa số những điều mà Marty Baron tự hào về tờ Boston Globe là minh chứng cho thể loại này. Nhưng báo chí trí tuệ cũng bao gồm và thậm chí nhấn mạnh vào việc đưa tin, diễn giải, giải thích, thậm chí đưa ra quan điểm về các sự kiện đang xảy ra.48 Các nội dung báo chí dạng bài viết, audio, video hay web như thế là cần thiết và nên có nhiều hơn nữa. Những thể loại này cần được tiếp tục mở rộng vượt khỏi giới hạn của một số tạp chí nghiêm túc, vài blog sâu sắc, hai trang chuyên mục quan điểm hay mục “phân tích tin tức” trên những tờ báo như New York Times đã nói ở trên. Nó phải trở thành xu thế chủ đạo của báo chí. (Chương 4 trình bày chi tiết về việc các phân tích như vậy đã hoặc không xuất hiện trên mặt báo khi đưa tin về một số sự kiện chính trong những năm qua.) Chúng ta cần phải phát triển những tiêu chuẩn để giúp phân biệt cách làm báo chí trí tuệ như vậy khỏi những bài viết mang tính đốp chát, cãi cọ và dễ đoán. (Chương 1 sẽ bàn về công việc này.) Và chúng ta cần phải làm việc đó giỏi hơn nữa. Điều đó sẽ không chỉ đòi hỏi thay đổi trong cách tư duy, mà cả những thay đổi xa hơn, đáng kể hơn trong cách làm báo hiện nay: nếu việc cung cấp sự thấu hiểu sâu sắc (insight) thay vì chỉ thu thập sự thật / dữ kiện (fact) trở thành nhiệm vụ chính của ngành báo chí — chứ không chỉ một nhiệm vụ phụ trợ — thì các phương thức truyền thống như thuê mướn và quảng bá sẽ không còn hiệu quả nữa. Cơ cấu giao việc cho phóng viên sẽ phải thay đổi (Chương 7 phác họa những thay đổi này.) Tính không thiên vị và không bị cảm xúc lấn át có thể không còn là những giá trị LỜI GIỚI THIỆU 35 chủ chốt của phóng viên nữa. (Chương 5 bàn về một số hạn chế của tính khách quan trong làm báo.) Trang nhất của các tờ báo sẽ có thêm nhiều chỗ cho những quan điểm và góc nhìn riêng biệt, độc đáo, dù thuộc bất kỳ nguồn nào. Và chúng ta sẽ cần phải dành nhiều suy nghĩ cho các tiêu chuẩn tranh luận trong báo chí, như chúng ta đã đầu tư cho cách tường thuật về một sự kiện trước đây. Điều này nghe có vẻ giống như một cách tiếp cận mới cho ngành báo chí. Thực ra, ở khía cạnh nào đó nó là một phong cách cũ, từng xuất hiện từ thời trước khi nền báo chí Mỹ tôn sùng chủ nghĩa hiện thực. Chương đầu tiên của cuốn sách này sẽ đưa các bạn trở về với báo chí xa xưa, thời của Ben Franklin và Thomas Jefferson, rồi sử dụng một số câu chữ từ thời đó để giới thiệu một số tiêu chuẩn nhằm phân biệt báo chí trí tuệ thành công và không thành công. 1 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Loại báo chí đã tạo ra nước Mỹ Có lẽ do quá tập trung vào những thứ như “ở đây” và “ngay lúc này”, các nhà báo thường ít tận dụng được những bài học từ tiền bối của mình, như các tổng thống hay họa sĩ vẫn thường làm. Thế nhưng, nếu cơn khủng hoảng hiện giờ làm họ nghĩ đến việc tra cứu lịch sử, có lẽ các nhà báo của chúng ta sẽ phát hiện ra rằng “phóng viên có kinh nghiệm đi đến các địa điểm” không phải lúc nào cũng được coi là trọng tâm của báo chí Mỹ. Bill Keller khẳng định rằng loại “báo chí chất lượng” này sẽ cung cấp “thông tin bạn cần để là một công dân có trách nhiệm.”1 Những người lập nên nước Mỹ dĩ nhiên đồng ý là mọi công dân đều yêu cầu tự do báo chí. Thomas Jefferson viết trong một bức thư vào năm 1787, và dù thường được trích dẫn nhiều lần nhưng đến nay câu này vẫn còn hết sức nổi tiếng, “Nếu buộc phải chọn giữa việc có chính phủ mà không có báo chí với việc có báo chí mà không có chính phủ, thì tôi sẽ không chút ngần ngừ chọn cách sau.”2 38 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Trong bức thư đó Jefferson đã nói về tầm quan trọng của việc trao cho người dân “thông tin đầy đủ về các vấn đề của chính họ thông qua kênh báo chí công (public papers).” Nhưng thật khó để Jefferson cũng như Keller hình dung được làm thế nào mà việc cung cấp những thông tin như vậy lại liên quan đến các phóng viên “chứng kiến, đào xới các hồ sơ, phát triển nguồn tin, kiểm tra, rồi tái kiểm tra”.3 Vì ở nước Mỹ của Jefferson, James Madison cũng như của Benjamin Franklin, hết thảy đều chưa có bất kỳ phóng viên nào.4 Nếu lật lại quá khứ đủ lâu, có thể truy nguyên nguồn gốc của mọi tờ báo ngày nay đều từ châu Âu. Và tờ báo in đầu tiên ở châu Âu, đâu như vào những thập niên đầu của thế kỷ 17, hầu như chỉ là tập hợp các mục tin tức ngắn, mỗi tin chỉ dài vẻn vẹn một đoạn văn.5 Tờ báo lâu đời nhất còn sót lại viết bằng tiếng Anh và được phát hành ở London được in (ở một nơi tự do hơn và phát triển sớm hơn là Amsterdam) vào ngày 2 tháng 12 năm 1620. Bài báo đầu tiên viết về Bethlen Gábor, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống sự cai trị của vương triều Habsburg ở Hungary — trận khởi đầu của cuộc Chiến tranh 30 năm (cuộc chiến tranh vào giai đoạn 1618-1648 giữa những người Tin lành và Công giáo châu Âu, cũng là sự tranh giành giữa vương triều Habsburg với các cường quốc khác ở châu Âu – ND). Văn phong của bài báo này tiêu biểu cho thể loại báo chí thời đó: “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 39 Tin từ Weenen, ngày 6 tháng 11 Đại sứ Pháp đã cho chôn cất tử tế Bá tước Dampier tại Pressburg. Cùng thời gian này, Bethlen Gabor tập hợp toàn bộ đại diện các công quốc trên toàn cõi Hungary về Presburg vào ngày 5, để bàn về việc lên ngôi và những sự nghiệp khác của Vương quốc.6 Theo phân tích ngôn ngữ của Carlota Smith* về “hình thức diễn ngôn”, bài báo này, cũng như hầu hết các bài báo thuở ban đầu, đạt yêu cầu là một “bài tường thuật”. Nó không (chúng tôi xin phép được giản lược những phân tích đa chiều của bà) tiến triển theo trình tự thời gian như kiểu “văn tự sự”. Thời gian cũng không “tĩnh” như trong thể loại văn “miêu tả”. Bài báo cũng không nói về những vấn đề chung chung hiện tại, kiểu như trong mục “tin tức.” Thay vào đó, nó nêu cụ thể “những tình huống gắn kết với thời gian tường thuật”, cụ thể là “hiện nay”, “ngày 6 tháng 11”. Và quan trọng hơn cả với mục tiêu của chúng tôi, bài báo này không đưa ra một “tuyên bố”(claim) hay “bình luận” (comment) như một lập luận (argument) thường đưa ra. Nó cũng không đưa ra một “đề xuất” (proposition) nào, như một lập luận sẽ cần phải đưa ra.7 Tôi không muốn dựa dẫm quá nhiều vào các cách phân loại này nọ dù chúng tỏ ra khá thú vị trên các trang sách tiếp theo. Mặc cho các nhà ngôn ngữ học nỗ lực hết mình để phân loại chính xác, thì những thứ như tường thuật, tự sự, miêu tả, thông tin và thậm chí là lập luận hết thảy đều có thể pha trộn lẫn vào nhau. Ngôn ngữ của con người chống lại việc phân loại. Khi Bill Keller hoặc Jill Abramson nói về nghề báo, hiển nhiên họ không * Giáo sư ngôn ngữ học Đại học Texas ở Austin, Hoa Kỳ. 40 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” muốn loại trừ thể loại tự sự, miêu tả hay thông tin. Trái lại, họ nói về các dạng diễn ngôn mà hầu hết đều dễ dàng được xếp vào hình thức “tường thuật” (report). Vì vậy, thật ý nghĩa khi thấy một bài tường thuật ở trang đầu tờ báo đầu tiên viết bằng tiếng Anh. Nhưng cũng phải lưu ý là bài báo tường thuật đầu tiên này không phải là sản phẩm của những hành vi mà Keller hay Abramson xem là tường thuật – reporting. Do những tờ báo dạng này quá chậm chạp không đăng kịp tin tức xảy ra ở địa phương và cũng quá cẩn trọng sợ đưa tin trong nước sẽ có nguy cơ làm phiền giới có chức quyền nên chúng hầu như chỉ bình luận về các sự kiện xảy ra ở các nước khác. (Các sự kiện chính ở London có lẽ đã được bàn luận trong các bức thư từ London gửi đi và vì vậy có lẽ đã xuất hiện trên các tờ báo khác trên khắp châu Âu, tờ này sao chép lại của tờ kia, nhưng thường thì chúng không xuất hiện trên các tờ báo ở London!) Các bản tin ngắn về những sự kiện ở xa lấp đầy các chuyên mục của các tờ báo in đầu tiên này hầu như chỉ có đươc từ những là thư từ bên ngoài gửi về, hoặc thông qua các tờ báo khác. Thật vậy, ngay chính trên đầu trang nhất của tờ báo viết bằng tiếng Anh đầu tiên đó — lúc đó tạm thời còn chưa có lấy cái tên — là một lời xin lỗi: “Vẫn chưa có tin tức mới từ nước Ý”. Không có bằng chứng nào cho thấy những người làm ra những tờ báo đó đã nỗ lực đáng kể để tìm ra “tin tức” của riêng mình. Họ chỉ chờ đợi “tin đến”. Cái tin về lễ mai táng và cuộc hội đàm ở Pressburg đó (nay là Bratislava), xuất hiện ngay sau lời xin lỗi, chắc chắn là lấy từ một lá thư hoặc một bài báo xuất xứ từ Vienna, và có lẽ đã phải gửi chuyền qua nhiều lá thư hoặc nhiều bài báo trên đường đến được đây. “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 41 Nước Mỹ có tờ báo xuất bản định kỳ lần đầu tiên, tờ Boston News-Letter, là vào năm 1704. Quay trở lại nước Anh vào khoảng thời gian đó, những mẩu tin ngắn nước ngoài chỉ để bổ sung cho các bài nghiên cứu về các vấn đề đương thời, về xã hội, về văn chương, triết học, tôn giáo, và chính trị, ngay cả chính trị của nước Anh; và thậm chí là những bài nghiên cứu đó còn gạt những mẩu tin nước ngoài kia ra khỏi tờ báo. Ví dụ như số phát hành đầu tiên của News-Letter đã dẫn lại bài của một tờ báo ở London tóm tắt một “lá thư” cảnh báo về “mối nguy” cho “đạo Tin lành” vì người theo đạo Công giáo đã bắt đầu “ngập tràn” khắp Scotland.8 Hầu hết những bài viết dài, chỉ trích thẳng thắn như thế đều được Carlota Smith dán cho nhãn “lập luận, tranh luận”. Theo nhà triết học chính trị người Đức Jürgen Habermas, sự thay đổi này là một định mệnh. Ông nhận xét là vào thế kỷ 18, trong các xã hội tư sản, với nền chính trị tự do, báo chí đã “không còn là các cơ quan loan tin đơn thuần nữa”. Habermas dẫn lời nhà kinh tế học người Đức và cũng là học giả về báo chí thời kỳ đầu, Karl Bücher (1847-1930): “Báo chí đã thay đổi từ cơ quan đơn thuần phát hành tin tức sang làm người nắm giữ và lãnh đạo công luận.” Theo Habermas, kết quả của việc lưu thông mạnh mẽ các ý kiến này, dù đôi khi chỉ đơn thuần là việc cảnh báo về ngập tràn người Công giáo — chính là sự hình thành một “không gian công cộng” (public sphere) mà ông rất trân trọng.9 Chúng ta có thể thấy không gian này mở rộng vào năm 1721 tại Boston, nơi nổ ra cuộc tranh luận về ưu điểm của việc tiêm chủng ngừa bệnh đậu mùa. Cuộc tranh luận — và theo đó là một không gian công vừa hình thành — được giúp đỡ và xúi giục mạnh mẽ bởi sự xuất hiện của tờ báo xuất bản định kỳ thứ 42 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” ba của Boston và cũng là thứ tư của nước Mỹ. Vì lẽ ngay trong số phát hành đầu tiên, tờ New-England Courant của James Franklin đã thể hiện đầy đủ phẩm chất của một cuộc thập tự chinh báo chí (newspaper crusade) chống độc tài đầu tiên ở Mỹ, khi vận động cho chiến lược mới chống lại bệnh đậu mùa.10 Vụ truy tố bất thành John Peter Zenger về tội công khai chỉ trích Thống đốc bang New York mười bốn năm sau đó đã mở toang cánh cửa cho các cuộc vận động báo chí như thế ngày càng nhiều hơn ở nước Mỹ thuộc địa. Thật vậy, nước Mỹ trong những thập kỷ trước cuộc cách mạng có lẽ chính là hình mẫu được đưa vào sách giáo khoa về sức mạnh của báo chí nắm giữ dư luận không những ở việc lật đổ hệ thống quyền lực, mà còn ở việc tạo ra không gian cho công luận và do đó là không gian cho dân chủ. Tuy nhiên, hãy ghi nhận là tờ New-England Courant của James Franklin — một trong những loa phóng thanh đầu tiên trong nỗ lực thay đổi thế giới, hướng tới việc công luận được lắng nghe — đang vận động chống lại cái mà họ gọi là một “tập quán tiêm chủng nguy hiểm, đáng ngờ.”11 Khi đó Benjamin Franklin còn là thợ học việc tại tòa soạn báo của người anh trai lớn tuổi hơn nhiều. Chẳng bao lâu sau, chính ông đã bắt đầu góp phần vào hiện tượng vẫn còn tương đối mới này: các cuộc thảo luận công khai về các vấn đề trên báo. Chàng trai Ben Franklin mười sáu tuổi, lấy bút danh “Silence Dogood” — một góa phụ nông thôn — bắt đầu lén viết bài cho New England-Courant. Dưới đây là bài của “Bà Dogood” tấn công vào điều mà chàng trai Ben tạm thời chưa có: giáo dục đại học (tức là Harvard): “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 43 Tôi suy nghĩ rất nhiều về sự cực kỳ Dại Dột của những Bậc Phụ Huynh đó, họ đui mù không thấy Con cái mình Ngu dốt và vô cảm trước Đầu óc Ù lì của chúng, vì họ nghĩ rằng Ví tiền của họ có thể bù lại được hết, họ sẽ gửi chúng đến Ngôi đền Học thức, mà nơi đó, do không có Thần đèn giúp đỡ, chúng không học được gì hơn là thói tự chăm chút bản thân thái quá, và nhập bọn với tụi thượng lưu cùng phòng (mà cũng có thể là ở trường dạy khiêu vũ), và khi chúng trở về, sau hàng đống rắc rối và tiền của, chúng ngu độn hơn bao giờ hết, chỉ càng kiêu căng và tự mãn nhiều hơn.12 Dù cuộc tranh luận về giáo dục đại học không phải là vấn đề sống còn như tiêm chủng ngừa bệnh đậu mùa, rõ ràng đây vẫn là một vấn đề dư luận quan tâm. Và chàng thợ in học việc này đã giúp mở ra không gian để thảo luận những vấn đề như thế. Cậu hoàn thành điều này, theo cách mà những người khát khao “nắm giữ và lãnh đạo công luận” thường làm, đó là thể hiện và bảo vệ quan điểm — và trong trường hợp của cậu, nó được thể hiện theo cách hài hước. Theo cách phân loại của Carlota Smith, Ben Franklin đã soạn ra một “lập luận” với đầy đủ đề, luận và kết. Smith cũng có công thức để xác định liệu một cách diễn ngôn nào đó có đủ tiêu chuẩn là “chủ quan” (subjective), một phân biệt mà theo bà khác với sự phân biệt giữa lập luận và tường thuật. Smith tìm kiếm bằng chứng của tính chủ quan khi ai đó trình bày một “quan điểm,” thực hiện một “đánh giá” hoặc khi chia sẻ “suy nghĩ”. Smith cũng lưu ý trên thực tế kiểu chủ quan như trên có thể tìm thấy trong tất cả các “hình thức diễn ngôn” mà bà liệt kê13 — và có lẽ cũng có thể tìm ra tính chủ quan ngay cả trong các bài tường thuật ngắn, lập luận lan man đang bắt đầu bao trùm báo chí của nước Mỹ thuộc địa. Ví dụ, có thể nhận 44 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” thấy ngay một quan điểm tích cực hoặc một đánh giá về nhà lãnh đạo bài Công giáo người Hungary Bethlen Gábor, ngay cả khi đó chỉ là một bài tường thuật năm mươi lăm từ trong tờ báo đầu tiên bằng tiếng Anh nói trên – tờ báo được lưu hành tại nước Anh theo đạo Tin lành và in ấn tại Amsterdam cũng theo đạo Tin lành. Tuy thế, những chỉ dấu của Smith về tính chủ quan xuất hiện dày đặc trong lập luận của Franklin về giáo dục đại học — “Tôi suy nghĩ rất nhiều về sự cực kỳ dại dột...” — cũng như trong các bài báo của người anh trai James nói riêng và trong các lập luận nói chung. Rõ ràng không gian công cộng vào thế kỷ 18 được hình thành do những lập luận mang tính chủ quan không nao núng mà ra. Những bức thư của Bà Silence Dogood do Benjamin Franklin viết có vay mượn văn phong của Joseph Addison và Richard Steele hồi đầu thế kỷ đó, họ bình luận về hành vi của người đương thời bằng ngòi bút dí dỏm nhẹ nhàng và sâu sắc trên tờ nhật báo của họ ở London, tờ Spectator.14 Hồi đó ở nước Mỹ thuộc địa, nhiều người mua và gìn giữ các tập báo Spectator, trong đó có chàng trai trẻ Franklin. Và cậu bắt đầu “tháo rời” các bài văn xuôi của Addison và Steele: ghi lại những điểm chính trong từng câu, gạt những câu đó ra một bên trong vài ngày, sau đó cố gắng để tái tạo các câu đó. “Bằng cách so sánh bản tôi tái tạo với bản gốc,” Franklin viết trong tự truyện của mình, “tôi phát hiện ra nhiều lỗi và sửa chữa chúng; nhưng đôi lúc cũng có những niềm vui khi vô cùng ngạc nhiên “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 45 là từ một vài bài vay mượn nhỏ nhoi đó tôi may mắn cải thiện được phương pháp viết và ngôn ngữ của mình.”15 Nói cách khác, Franklin đã không tự mình học làm báo theo kiểu xuất hiện tại đám cháy ở địa phương hoặc trong các cuộc họp, với quyển sổ trên tay, ghi chép và lọc ra những thông tin kiểu như ai, cái gì, khi nào và ở đâu. Ở nước Mỹ thế kỷ 18, những việc như thế không được coi là công việc làm báo. Đã học được nghề in, Ben Franklin cũng đồng thời tự rèn luyện bằng cách học viết rành mạch, khôn khéo, hấp dẫn và sâu sắc qua việc nghiên cứu tác phẩm của các cây bút Addison và Steele. Lúc bấy giờ, báo chí phần lớn là sản phẩm của các chủ nhà in tư nhân như James Franklin. Những chuyển biến mà Habermas tôn vinh thật khó trọn vẹn: các chủ nhà in trong thế kỷ 18 này vẫn tìm kiếm những mẩu tin thú vị và quan trọng để tô điểm cho các trang báo của họ. Hầu hết các tin bài, như cách làm trong thế kỷ trước, được lọc ra từ báo chí hoặc thư từ từ bên ngoài gửi về. “Theo thời gian, chúng ta sẽ có tất cả các tờ báo danh tiếng từ Vương quốc Anh, New-England, New York, Maryland và Jamaica, bên cạnh những tin tức thu thập từ thư tín và thông tin cá nhân,” Ben Franklin công bố như thế vào năm 1729, ngay sau khi giành quyền kiểm soát một tờ báo của riêng mình, Pennsylvania Gazette.16 Nói cách khác, ông cũng sẽ đăng lại các tin bài từ báo khác, giống như các tổng biên tập khác đã làm. Franklin — có đầu óc cấp tiến hơn hầu hết các biên tập viên đồng nghiệp, cũng như hầu hết những người cùng thời — đôi khi cũng thu thập thông tin về một sự kiện tại chính địa phương mình: 46 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Chủ nhật, khoảng thời gian từ 7 đến 8 giờ tối, chúng ta đã gặp một cơn lốc xoáy và mưa khủng khiếp, đi kèm với nó là sấm chớp, và những thông tin sau đây là đáng nhớ: Bão thổi bay một vài ống khói, tốc mái vài ngôi nhà, một số tốc mái toàn bộ, một số chỉ bị một phần; và phá hủy hoàn toàn những tòa nhà ọp ẹp. Sức mạnh của cơn bão không kéo dài, tuy nhiên nó xảy ra trên diện rộng, vì chúng ta đã nghe tin về cơn bão từ Conestogoe, từ cửa vịnh và từ New-York: Tại Conestogoe cơn bão phải mất khoảng nửa giờ để đến được đây, nhưng nó đã đến Vịnh lúc khoảng gần nửa đêm.17 Tất nhiên, Franklin quan tâm đến mọi đề tài, bao gồm cả thời tiết. Thực tế, một trong số rất nhiều đóng góp của ông cho khoa học chính là sự hiểu biết về đường đi và nguyên nhân của các cơn bão.18 Tuy nhiên, tờ Pennsylvania Gazette của ông lại không thường xuyên đưa tin về “những khu vực xung quanh đây”. Nó có xu hướng tập trung nhiều hơn vào những sự kiện lạ xảy ra ở “những khu vực” ở xa — “Vương quốc Anh, New-England, New York, Maryland và Jamaica” — và tập trung vào bình luận. Con người, như tôi đã lập luận,19 có bản năng “khao khát” tin tức. Thế nhưng vào thời Franklin, loại tin tức mà hầu hết mọi người thường quan tâm nhất — tin tức về chính thị trấn chúng ta đang sống — vẫn còn là độc quyền của phương tiện truyền thông lâu đời nhất: truyền khẩu. Tin tức được trao đổi trong quán rượu, trong quán cà phê, trước cổng nhà thờ và trên đường phố. Cư dân Philadelphia không chỉ có trải nghiệm về tất cả những “gió lốc và mưa” đi kèm với “sấm chớp” “hôm chủ nhật” mà họ còn có rất nhiều cơ hội để trò chuyện bàn tán về cơn bão này trước khi tờ Gazette của Franklin được in ra. Không nhà in nào, không tuần báo nào có thể đưa tin về “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 47 những diễn tiến chính trị hấp dẫn, về tội phạm, hay về một cơn bão xảy ra ở địa phương nhanh hơn những người láng giềng ngồi lê đôi mách. Các thị trấn này quá nhỏ và báo chí vẫn còn quá chậm. Franklin cảm thấy cần phải giải thích trên tờ Pennsylvania Gazette của mình vào năm 1731, “Việc kinh doanh của nhà in, chủ yếu liên quan đến ý kiến của mọi người, hầu hết những thứ được in ra đều nhằm ủng hộ những người này hoặc phản đối những người khác.”20 Mặc dù báo là sản phẩm chính của “việc kinh doanh của nhà in”, nhưng vào thế kỷ 18 báo chí chủ yếu vẫn chưa phổ biến, nói chi đến tường thuật, về tin tức. Franklin, với tư cách chủ bút tờ Pennsylvania Gazette, may mắn thay là một trong những cây bút tài năng nhất trong lịch sử và là một trong những người quan tâm nhiều nhất đến công dân, luôn sẵn lòng thuyết giảng vì điều đó trên các trang báo của mình — thường là lấy bút danh khác và giữ giọng văn dí dỏm và khôn ngoan. Ví dụ như vào năm 1751, dưới bút danh “Americanus”, Franklin đã đáp lại những lý do và bào chữa của nước Anh trong xu hướng gửi tù nhân từ Anh sang bờ bên kia Đại Tây Dương của mẫu quốc: “Nước Mẹ của chúng ta biết rõ điều gì tốt nhất cho con của mình. Nào là trộm vặt nhập nha, là kẻ cắp nơi cửa hàng, là kẻ cướp trên xa lộ; nào là đứa con trai thi thoảng tham nhũng và bị treo cổ, là đứa con gái trác táng và đổ bệnh, là cô vợ dâm loàn, là anh chồng bị cứa cổ, là đứa con bị rìu bổ vỡ đầu, có là gì đâu so với “Thuộc địa tiến bộ và đầy công dân tốt” này!” Sau đó ông đề nghị gửi ngược lại rắn chuông cho mẫu quốc.21 Dĩ nhiên là Franklin, dùng cái mà ông hiểu là lối mỉa mai kiểu Swift (Jonathan Swift, 1667-1745, nhà văn trào phúng người Anh gốc Ireland, tác giả của danh tác Gulliver du ký – 48 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” ND), để đưa ra một lập luận ở đây, cũng như cách mà Addison, Steele, Daniel Defoe,* và Jonathan Swift từng lập luận trên báo chí Anh. Và cũng giống như họ, ông đã tạo ra điều mà cuốn sách này gọi là báo chí trí tuệ (wisdom journalism). Franklin luôn thích phân loại và liệt kê các đức hạnh, từng đưa ra một định nghĩa về trí tuệ, đó là “Kiến thức về những gì sẽ là tốt nhất cho chúng ta trong mọi trường hợp, và về những cách tốt nhất để đạt được nó.”22 Định nghĩa này phù hợp với các nỗ lực của Franklin để làm điều mà Bill Keller sẽ làm — giải thích điều gì làm nên chất lượng khi viết báo: “Không có bài viết nào có thể được gọi là tốt, là viết giỏi thật sự,” Franklin khẳng định, “nếu không thể hiện bất kỳ xu hướng nào có lợi cho độc giả, hoặc không cải thiện đạo đức hay kiến thức của độc giả.”23 Cuốn sách này đề xuất một tiêu chuẩn về chất lượng trong ngành báo chí gần gũi hơn với tiêu chuẩn của Franklin — dù kém tự tin hơn so với quan niệm của ông về “đức hạnh” — so với các tiêu chuẩn của Keller, Jill Abramson, của Ủy ban Nhà báo quan tâm và của nhiều phóng viên ngày nay. Báo chí trí tuệ là một thuật ngữ được gợi ý từ “văn chương trí tuệ” và “triết học trí tuệ”, trong đó đề cập đến truyền thống tư vấn thấu đáo, đánh giá và phán xét đúng, sáng suốt và thông tuệ. Hồi thời của Ben Franklin, báo chí Mỹ cũng có truyền thống * Daniel Defoe (1660-1731) là nhà văn, nhà báo, học giả kinh tế người Anh, tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Robinson Crusoe. “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 49 thể hiện những phẩm chất này. Khi nêu ra thuật ngữ Báo chí trí tuệ, tôi hy vọng sẽ khuyến khích hồi sinh chúng. Báo chí trí tuệ thường, mượn lời của Franklin, đầy ắp “Kiến thức về những gì sẽ là tốt nhất cho chúng ta” như một xã hội, nhưng nó không chỉ gói gọn trong phân loại đó về “kiến thức”. Nó cũng có thể làm sáng tỏ những gì đã xảy ra, đang xảy ra, hoặc có thể xảy ra với một số người trong chúng ta. Và báo chí đó cũng giúp chúng ta suy nghĩ kỹ càng, nhưng không hề lên lớp, những gì có lẽ cho thấy là “tốt nhất cho chúng ta.” Và báo chí trí tuệ không chỉ tạo ra “kiến thức” mà nó còn đòi hỏi phải có kiến thức. Khi Franklin nắm được quyền kiểm soát Pennsylvania Gazette vào năm 1729, ông đã bỏ chút thời gian để cân nhắc xem những phẩm chất nào, cùng với khả năng viết “rõ ràng và dễ hiểu”, mà người ở địa vị như ông cần phải có: “Tác giả của một tờ Gazette (theo ý kiến của người có học) phải thỏa mãn điều kiện thông thạo thêm nhiều ngôn ngữ… ; anh có thể nói về chiến tranh cả trên bộ lẫn dưới biển; làu thông Địa lý, Lịch sử, những quan tâm của các vương quốc, các bí mật triều đình, và Phong tục Tập quán của mọi quốc gia.”24 Mặc dù cha của ông quyết định không gửi ông đến học ở Harvard, nhưng Franklin cũng đã gắng làu thông các vấn đề “lịch sử”, chính trị, “phong tục tập quán” và khoa học bằng cách tự áp dụng cho mình một phong cách học hỏi cần mẫn đến mức huyền thoại cả trong sách vở, chuyện trò và quan sát. Theo đó, ông đã đủ khả năng nắm quyền biên tập tờ “Gazette” và — theo lời người anh trai James viết từ những ngày ở Boston — khả năng “thi thoảng bay vút lên cùng với các trí thức lớn của 50 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” thời đại.”25 Trong rất, rất nhiều chủ đề, ông đều tỏ ra thông thái (wise), như cách mà cuốn sách này sử dụng thuật ngữ đó. “Kiến thức” mà các nhà báo thông thái cung cấp, như vào thời của Franklin, có thể đến từ học vấn, từ thông tin, từ thâm nhập thực tế, thậm chí là từ việc diễn giải và tranh luận báo chí đầy mâu thuẫn. Bài châm biếm của Ben Franklin đánh vào chính sách gửi tù nhân đến thuộc địa của nước Anh không dựa trên cơ sở các tường thuật; nó có lẽ cũng chẳng liên quan đến nơi nào khác ngoài chiếc bàn viết của ông. Tuy nhiên, nó hướng dẫn mọi người; nó nêu ra quan điểm độc đáo về một vấn đề quan trọng; nó thật sâu sắc, khai sáng và thông tuệ. Tôi có một cái nhìn khái quát về làm thế nào báo chí lại có thể “có lợi cho độc giả”, làm thế nào nó có thể cải thiện “kiến thức”. Tôi thấy điều đó xảy ra, và chắc chắn Franklin cũng thấy thế, với những thấu hiểu cũng nhiều như thông tin, với những diễn giải cũng nhiều như điều tra, tìm hiểu. Báo chí trí tuệ thường cung cấp, thậm chí nhấn mạnh những lập luận hiểu biết (informed argument) — những lập luận dựa trên sự làu thông (acquaintance) về một lĩnh vực kiến thức nào đó của người viết báo, loại lập luận mà Habermas rất thích. Không phải lúc nào báo chí trí tuệ cũng luôn chủ quan, nhưng nhiều nhà báo trí tuệ — dĩ nhiên trong đó có Ben Franklin — sẽ không từ chối trình bày quan điểm, thực hiện một đánh giá và cho chúng ta biết suy nghĩ của họ. Tuy nhiên, tôi cũng chia sẻ quan điểm của Keller và của hầu hết các nhà báo hiện đại, tôi cũng thừa nhận tầm quan trọng của các bài báo độc quyền, tiên phong, hay điều tra — của việc đi đến những nơi mà các phóng viên khác không đến, chứng kiến “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 51 tận mắt sự tàn ác hay bất công mà người khác không thấy được, nghiên cứu các hồ sơ để vạch mặt tham nhũng... Những phong cách báo chí mang tính phơi bày sự thật như thế — thường xuất hiện dưới dạng bài tường thuật — cũng có tiềm năng cải thiện “kiến thức” và có lẽ là “đức hạnh” của “người đọc”. Đúng, sẽ vẫn có trí tuệ trong những hình thức báo chí vừa nêu. Vì vậy, tôi cần một thuật ngữ chung cho những gì mình muốn khuyến khích, một thuật ngữ đủ khái quát để bao trùm hai loại báo chí: một là hình thức cao nhất của bài tường thuật, loại hình mà ngày nay đang được ngợi khen rất nhiều (nhưng hình như vẫn chưa đầy đủ), và hai là loại báo chí mang tính bình luận sắc sảo, gợi mở, loại này đã bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn trong những năm gần đây, đặc biệt là trên mạng internet, nhưng vẫn cần được đánh giá cao hơn nữa. Không có từ nào hiện đang dùng bổ nghĩa cho từ báo chí thỏa yêu cầu trên. Do đó từ trí tuệ, thông thái (wisdom) — mà các từ điển hiện nay định nghĩa là “thông minh”, “sáng suốt”, “quyết định khôn ngoan” và “học hỏi tích lũy” — có thể là phù hợp. Cả tường thuật độc quyền (exclusive reporting) lẫn bình luận sắc sảo (incisive commentary) đều hưởng lợi từ những phẩm chất nói trên và truyền chúng sang độc giả.26 Thông thái, trí tuệ không phải là từ thường được dùng cho báo chí trong những thế kỷ gần đây. Thật ra, nó có thể khá lạ tai với một số người ở thế kỷ 21. Tôi không mảy may bận tâm về điều này. Tôi hy vọng rằng với vẻ ngoài không quen thuộc, thuật ngữ này sẽ khiến chúng ta có một cái nhìn mới về báo chí và mục đích của nó. Thông thái nghe ra hơi chút phô trương, thậm chí là khoe khoang vì các chủ đề thảo luận của các nhà báo đôi khi bị lãng quên. Điều này cũng chẳng sao, vì tôi tin rằng ngành báo 52 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” chí xuất sắc của chúng ta cần phải có mục tiêu cao hơn, tham vọng hơn với chính bản thân nó, cũng như với độc giả. Chỉ đơn giản hàng ngày đến một nơi nào đó, kè kè máy ảnh và nhập bọn với các phóng viên khác, đơn giản sao chép lại những điểm nổi bật của bản tin, đơn giản dễ dãi ghi lại sự kiện có sẵn — mà không màng đến tính trung thực ra sao — tất cả những thứ đó đều không phải là báo chí trí tuệ. Hầu như không có bài báo nào ở châu Âu vào thế kỷ 17 có thể đạt được điều này. Có rất nhiều tờ báo Mỹ trong thế kỷ 18 là báo chí trí tuệ. Bài tường thuật của Ben Franklin về những thiệt hại do một cơn bão “khủng khiếp” đánh vào Philadelphia sẽ không đủ điều kiện là báo chí trí tuệ nếu thiếu nỗ lực của ông — nỗ lực tuy ngắn ngủi nhưng lại là nỗ lực đầu tiên — để lưu ý theo dõi về đường đi và quy mô của cơn bão đó. Báo chí trí tuệ (wisdom journalism) là một thuật ngữ nói về báo chí mang phong cách cao hơn chuyên môn, chuyên nghiệp, về báo chí khao khát mang lại nhiều điều hơn là chỉ đơn thuần kể lại tin tức, tường thuật lại những gì đã xảy ra. Tôi đề nghị dùng nó làm tiêu chuẩn mới, một tiêu chuẩn khác hơn và cao hơn, cho chất lượng của báo chí. Tiêu chuẩn mới này có thể hướng dẫn các nhà báo đang phải vật lộn với cuộc khủng hoảng hiện tại và bắt đầu nắm bắt tương lai. Báo chí theo phong cách này trước kia đã từng chứng tỏ rất hữu ích ở Mỹ, khi mà những tranh luận của báo chí Mỹ chống lại các chính sách của mẫu quốc Anh trở nên cấp bách hơn, quyết liệt hơn. “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 53 Một trong những người cùng thời với Franklin ở Philadelphia đã đưa ra một ví dụ lớn về báo chí trí tuệ — một trong những phân tích thuyết phục nhất và có ảnh hưởng lớn nhất từng xuất hiện trên một tờ báo ở Mỹ. Đây là loạt những bài báo cực kỳ kiên định, thể hiện chủ kiến rõ ràng, mang tên “Những bức thư từ một điền chủ ở Pennsylvania gửi cho những cư dân của các thuộc địa Anh tại Mỹ”. Những “bức thư” này thực ra không phải do một điền chủ hay một chủ nhà in viết, mà là tác phẩm của một luật sư ở Philadelphia, John Dickinson.* Bài đầu trong loạt này xuất hiện trên Pennsylvania Chronicle vào ngày 2 tháng 12 năm 1767. Tờ Pennsylvania Gazette đăng lại lá thư đầu tiên này vào ngày hôm sau. Ở Mỹ lúc ấy có khoảng ba mươi tờ báo; và chỉ có bốn tờ (hai trong số đó viết bằng tiếng Đức) là không cho đăng lại “Những bức thư” vào những ngày hay những tuần sau đó!27 Dickinson tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ khó khăn: lúc đó Quốc hội Anh sau cùng đã bãi bỏ Đạo luật Tem (Stamp Act) đáng ghét, một đạo luật bị các thuộc địa giận dữ phản đối. Trong những “bức thư” này, vị “điền chủ” tấn công một loại thuế mới theo đạo luật Townshend. Đạo luật Tem áp thuế lên mọi loại giấy và hàng hóa khác, nhưng Quốc hội Anh rất rõ ràng và cố tình chỉ áp dụng đạo luật Townshend lên hàng hóa nhập khẩu từ Vương quốc Anh mà thôi. Phải chăng như vậy đúng là thuộc quyền hợp pháp kiểm soát thương mại của Quốc hội Anh? Dickinson phải giải thích vì sao cũng nên phản đối những loại thuế này. * John Dickinson (1732-1808), một trong những Nhà lập quốc của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, là luật sư và chính trị gia từ Philadelphia, Pennsylvania và Wilmington, Delaware nổi tiếng với 12 bức thư từ một điền chủ ở Pennsylvania, xuất bản từng bức thư một từ 1767-1768. 54 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Trong “những bức thư” của mình, ông thừa nhận rằng mẫu quốc có quyền kiểm soát thương mại của các thuộc địa. Nhưng ông nhấn mạnh, thông qua việc rà soát lịch sử Quốc hội Anh, rằng không có tiền lệ về việc Quốc hội áp đặt thuế chỉ lên thuộc địa hoặc chỉ để tăng thu ngân sách. Dickinson đã chứng minh, thông qua rà soát lại các cuộc tranh luận tại Quốc hội, rằng tăng thu từ các thuộc địa thực chất là mục đích của các Đạo luật Townshend. Và ông lưu ý rằng chính sách của Anh Quốc đã gây khó khăn cho người dân các nước thuộc địa để có được những hàng hóa đó, trừ khi họ mua chúng từ nước Anh: Tóm lại, câu hỏi duy nhất là, liệu Quốc hội về mặt pháp lý có thể áp đặt thuế nhập khẩu chỉ lên người dân các thuộc địa, Vì Mục Đích Duy Nhất Nhằm Tăng Thu, chỉ với các loại hàng hóa mà mẫu quốc buộc chúng ta phải mua chỉ từ mẫu quốc hay không? Hoặc nói cách khác, liệu Quốc hội có quyền hợp pháp rút tiền ra khỏi túi của chúng ta, mà không cần có sự đồng ý hay không? Nếu họ có thể, thì cái tự do mà chúng ta đang khoác lác cũng chỉ là hư danh mà thôi (nguyên văn viết bằng tiếng Latinh: Vox et praeterea nihil).28 Không giống như nhiều đồng nghiệp ở thế kỷ 20, các nhà báo thế kỷ 18 thường không ngại tỏ ra “tầm chương trích cú”, thậm chí họ còn có chút chìm đắm trong tiếng Latinh. Thời nay người ta thường ít học tiếng Latinh, nhưng một nhà báo thông thái của thế kỷ 21 nên lấy làm hãnh diện nếu có vẻ lý thuyết sách vở. Thật vậy, rành rẽ về lịch sử và có thiên hướng nghiên cứu — John Dickinson chứng tỏ có cả hai — hầu như là điều bắt buộc của một nhà báo thông thái và trí tuệ. Kỹ năng chính khi đưa ra lập luận — giải thích những gì thường liên quan và cho ý kiến về nó “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 55 — cũng rất quan trọng. Và nó góp phần đáng kể nếu những lập luận, như các lập luận của John Dickinson, tỏ ra thuyết phục. “Những bức thư từ một điền chủ ở Pennsylvania” đóng vai trò chính trong chuyển biến của người dân thuộc địa từ chỗ chai sạn cảm xúc với các Đạo luật Townshend sang công khai phản đối chúng.29 Đó là phát súng đầu tiên cho cuộc cách mạng xảy ra chưa đầy tám năm sau. Những người phê phán báo chí diễn giải và chủ kiến (interpretive, opinionated journalism) ngày nay thường dùng các kênh Fox News Channel, MSNBC hoặc đài phát thanh để chứng minh đôi khi báo chí trở nên một chiều, có tư tưởng hẹp hòi, xấu xa rành rành ra đó. Rõ ràng, cần vẽ ra những lằn ranh xung quanh báo chí trí tuệ — những lằn ranh loại trừ những tranh cãi ỏm tỏi, kém hiểu biết, sáo rỗng vô lý. Chúng ta đã phát triển và xây dựng được các tiêu chuẩn hợp lý rõ ràng cho những gì làm nên chất lượng của tường thuật báo chí (journalistic report). Vậy tiêu chuẩn nào chúng ta có thể dùng để phân biệt các lập luận báo chí (journalistic argument) là tốt hay xấu, bên cạnh việc chúng ta đồng ý hay không đồng ý với những lập luận ấy? Hầu hết phần còn lại của chương này dành cho việc xem xét một vài tiêu chuẩn như thế trong báo chí tranh luận (argumentative journalism). Tất cả các ví dụ là từ những thập kỷ ngay trước khi nổ ra Cách mạng Mỹ. Chương 6 sẽ áp dụng những tiêu chuẩn này với Chris Matthews, Bill O’Reilly, Rush Limbaugh và các nhà báo đương đại khác. 56 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Một lối tiếp cận khả dĩ là khẳng định rằng: khi thuộc về chất lượng cao, bất kỳ hình thức nào của báo chí — dù mang tình tranh luận ra sao đi nữa — cũng nên dựa trên tường thuật. Đồng nghiệp của tôi tại Đại học New York, ông Jay Rosen, đã nghiêng về tiêu chuẩn này khi vào năm 2012 ông được phép trích dẫn lại một vài câu trong cẩm nang hướng dẫn dành cho các phóng viên mới ra nghề của một tổ chức đưa tin trực tuyến có uy tín, The Voice of San Diego: “Hãy viết với thẩm quyền. Bạn có được thẩm quyền đó bằng cách tường thuật lại và làm việc chăm chỉ.” Rosen sau đó khẳng định: “Nguồn gốc… cho tất cả các dạng thẩm quyền (authority) trong báo chí đều nằm trong câu sau: “Tôi ở đó, còn bạn thì không, hãy để tôi kể lại điều đó với bạn.’”30 Bí mật của báo chí tốt, báo chí chất lượng đơn giản đến thế sao — chỉ là chuyện đi đâu đó và rồi tường thuật lại — thế thì khi đó các tiêu chuẩn về lập luận báo chí đơn giản là tương đương với tiêu chuẩn cho tường thuật báo chí, và các nhà báo thông thái có lẽ sẽ được đánh giá như cách ta đánh giá các phóng viên ngày nay: qua tính chính xác, tiên phong, chu đáo, vô tư, rõ ràng dễ hiểu của các bài tường thuật. Nhưng mọi việc lại không đơn giản như thế. Báo chí của thế kỷ 18 đạt nhiều thành tựu mà không cần nhiều lắm đến cách tường thuật. Bởi có nhiều cách khác để đạt được thẩm quyền trong việc viết lách ngoài cách dấn thân — không xách theo cuốn sổ ghi chép thì cũng đội mũ phớt — vào cuộc viễn chinh thu thập sự thật. Thay vào đó, người ta có thể làm như Ben Franklin đã làm: đọc, nói chuyện, và quan sát. Hoặc người ta có thể làm như Ben Franklin đã không làm: đạt được một cấp độ học thuật nào đó. Và tất nhiên, bài tường thuật táo bạo không phải lúc nào cũng đưa đến bài diễn giải xuất chúng. “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 57 Nếu Isaiah Thomas, chủ bút tờ Massachusetts Spy, không có mặt “ở đó” vào ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ, thì ông cũng ở gần đó. Bài báo Thomas đưa ra ngày 3 tháng 5 năm 1775, đã đầy ắp các sự kiện, các chi tiết — và điều này không thường xảy ra vào thời ấy. Các sự kiện được trình bày theo trình tự thời gian xảy ra. Thomas thậm chí đã tiến hành phỏng vấn, thu thập các lý giải chi tiết “từ những người” mà ông khẳng định, “tính chính xác trong lời nói của họ là không có gì phải nghi ngờ”. Thế nhưng, những diễn giải mà bài báo của ông đưa ra lại cực kỳ hiếu chiến và không đáng tin cậy: Hỡi nhân dân Mỹ! Hãy mãi ghi nhớ TRẬN LEXINGTON! nơi mà quân đội Anh, không bị quấy rối và khiêu khích vô cớ, theo cách vô nhân đạo nhất đã nã đạn và giết chết rất nhiều đồng bào ta, sau đó chúng cướp đi lương thực dự trữ, lục soát, cướp bóc và đốt nhà của họ! Không có giọt nước mắt nào của những người phụ nữ không có khả năng tự vệ, trong số họ có những người đau thét lên trong cơn sinh nở, cũng không có tiếng khóc nào của những đứa trẻ bất lực, cũng không có lời cầu nguyện nào của những người già đang dính chặt nơi giường bệnh, không gì có thể xoa dịu cơn khát máu của bọn chúng! — hoặc có thể thay đổi việc GIẾT CHÓC và CƯỚP BÓC có CHỦ ĐỊNH của bọn chúng!31 Chỉ ở đó (hoặc ở gần đó), chỉ nói chuyện với người mà “lời nói của họ chính xác” có vẻ như “không có gì phải nghi ngờ”, chỉ thu thập các sự kiện và chi tiết — nói cách khác là chỉ “tường thuật và làm việc chăm chỉ” — thì sẽ không đảm bảo rằng một bài báo sẽ thể hiện là một diễn giải hay tranh luận đáng tin cậy về một sự kiện. May mắn thay, chúng ta được hưởng lợi từ cả một chuyên ngành dành riêng cho việc phân tích các tranh cãi, 58 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” dẫu rằng chủ yếu là tranh cãi bằng miệng. Ben Franklin hẳn rất quen thuộc với các nghiên cứu về thuật hùng biện, môn học đã xuất hiện từ rất sớm, ít nhất cũng vào thời của Aristotle.32 Những phần tiếp theo là cố gắng áp dụng các tiêu chuẩn hùng biện và các lĩnh vực liên quan vào báo chí tranh luận. Những nỗ lực như thế còn tương đối hiếm gặp và nhiệm vụ này vẫn quá khó để có thể thể hiện điều gì đó rõ ràng và chi tiết giống như một kết luận chung cuộc vậy.33 Nhưng mục tiêu của tôi ở đây — dựa vào Aristotle và một số nhà triết học, ngôn ngữ học, học giả về hùng biện sau ông rất lâu — là khám phá một số điều cần lưu ý để có thể giúp chúng ta đánh giá chất lượng của báo chí diễn giải, báo chí tranh luận; qua đó giúp giải thích những gì không đủ tiêu chuẩn là báo chí trí tuệ. Tính cách. Trong tác phẩm Thuật hùng biện (Rhetoric), Aristotle nói rằng tính cách của người nói — ông gọi nó là “ethos” — có thể ảnh hưởng đến sức thuyết phục trong lập luận.34 Điều này cũng đúng với tính cách của nhà báo. Chức danh tổng biên tập tờ New-England Courant của James Franklin lung lay dữ dội; ông đang bị công kích. Vì vậy, trong một số báo sau đó, thậm chí ông thấy mình cần phải thuyết phục độc giả rằng tờ báo đang giữ ý kiến vô tư trước vấn đề nóng của thời kỳ đó là tiêm chủng. Tờ báo cho biết: “Cả người ủng hộ lẫn người chống lại việc tiêm chủng đều được hoan nghênh khi nói ra suy nghĩ của mình”, dù chính những người chống việc tiêm chủng đã mang lại tiếng tăm cho Franklin.35 (Nếu có “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 59 ai đó ủng hộ việc tiêm chủng đang làm việc cho tờ Courant, họ sẽ hoàn toàn đơn độc.)36 Vô tư (epieikeia) được xếp ở vị trí cao trong danh sách những phẩm chất mà Aristotle công nhận là biểu hiện của một tính cách tốt, bởi vì, ông viết, “Chúng ta tin tưởng người vô tư nhiều hơn và nhanh hơn.”37 Chúng ta muốn nhìn thấy “đức hạnh” và “thiện chí” ở người nói, Aristotle viết.38 Vô tư chính là đức hạnh, là biểu hiện của thiện chí. John Dickinson đã thể hiện một kỹ năng đặc biệt cho thấy ông luôn tôn trọng những lập luận và quyền lợi của đối phương khi tranh luận. Ví dụ như trong “Những bức thư” ông đảm bảo thừa nhận những lĩnh vực mà nước Anh có thể hợp pháp áp thuế lên các thuộc địa, và cũng đảm bảo các lập luận công khai trái với ý kiến của chính ông được nêu lên: “điều đó có lẽ sẽ bị phản đối.”39 Do đó, tính vô tư gia nhập vào báo chí trí tuệ ngay từ đầu chỉ với tư cách là một “đức hạnh”, và cũng vì vậy nó chỉ là một trong nhiều thứ bổ sung cho khả năng thuyết phục mà thôi.40 Những nhân nhượng của Dickinson với đối thủ (khi tranh luận – ND) làm cho ông có vẻ như (chắc chắn ông nhận ra điều này!) có đức hạnh hơn và do đó đáng tin cậy hơn. Dickinson cũng cho độc giả thấy ông là người rất ôn hòa, một nghĩa khác nữa của từ Hy Lạp epieikeia.41 “Tôi không thích tí nào các biện pháp kích động,” Dickinson nói trong lá thư đầu tiên của mình, “Tôi ghét cay ghét đắng chúng.” Nhưng không phải ai cũng đều được trang bị đức hạnh hiền hòa. Trong bài báo về những phát súng đầu tiên của cuộc cách mạng, Isaiah Thomas có tất cả mọi thứ, ngoại trừ tính ôn hòa và tính vô tư. Thậm chí chỉ vờ thông cảm cho những khó khăn của quân đội 60 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Anh ông ta cũng không bao giờ làm. Chúng tôi không bao giờ chấp nhận quan điểm của họ. Nhưng bài kiểm tra tính cách mà Thomas muốn vượt qua trong câu chuyện này chắc chắn là một chuyện khác hẳn: ông muốn độc giả chống người Anh của mình tự tin rằng ông đã cam kết đầy đủ với sự nghiệp của họ, rằng ông phải được tin cậy vì ông đứng về phía họ. Đây là một cách khác để nhìn vào vấn đề tính cách trong nghề báo. Trong thời buổi phe phái — hay ít ra là trong một giới, một cộng đồng phe phái cụ thể — cam kết đã trở thành một đức hạnh; cần ác ý với một số người này để thể hiện thiện chí với những người khác. Các nhà báo ngày nay tiếp tục bị phân chia theo hai tính cách mà họ muốn mọi người thấy mình đang sở hữu: vô tư làm an lòng và cam kết truyền hứng khởi. Tại Mỹ đầu thế kỷ 21, CNN và New York Times vẫn cố gắng để thể hiện — có chủ ý hơn hẳn những gì John Dickinson từng làm — rằng độc giả có thể tin tưởng là họ vô tư, không theo phe phái chính trị nào. Trong khi đó, như chúng tôi sẽ thảo luận ở chương 5, nhiều cơ quan thông tấn như Fox News Channel, MSNBC, Rush Limbaugh, Huffington Post, và Drudge Report lại chọn hướng kia của con đường mòn: họ áp dụng một “tính cách” đã chứng tỏ là có hiệu quả nhất trong việc lôi kéo những người gần như đã bị thuyết phục. Cách tiếp cận sau đã lạc hậu từ lâu trong báo chí Mỹ cũng như trong các trường đào tạo báo chí. Sự trở lại của cách tiếp cận chủ quan, phe phái (partisan approach) cùng với sự gia tăng các đài phát thanh, tin tức qua truyền hình cáp và internet khiến nhiều người than phiền rằng sự chia rẽ đang ngày càng sâu hơn, rao giảng ngày một nhiều hơn, và những người đồng quan điểm càng lúc càng kết bè với nhau hơn trong những lô cốt vô cùng tù túng, chật hẹp. Chắc chắn là tính vô tư và ôn hòa vẫn “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 61 tiếp tục là những đức hạnh của báo chí. Nhưng với các nhà báo coi việc thể hiện quan điểm thành một phần quan trọng trong “tính cách” của họ, tuyên bố mình có thể giúp phân loại và làm rõ các sự kiện gần đây với những người cùng chia sẻ quan điểm đó, thì... chắc là vẫn còn đôi điều cần xem lại.42 Diễn ngôn. Với hầu hết các nhà báo Mỹ đang viết bài cho các báo đài ngày nay, tính vô tư là trên hết. (Họ cũng cố gắng tỏ ra ôn hòa, tuy nhiên buộc phải ghi nhận rằng các đối thủ cạnh tranh chẳng-mấy-ôn-hòa của họ, trên truyền hình cáp hoặc Internet, thường xuyên được điểm tỷ suất người xem (rating) cao hơn hoặc có nhiều người theo dõi hơn trên Twitter). Những điểm mạnh và điểm hạn chế của tính vô tư trong báo chí hiện đại sẽ được thảo luận nhiều hơn và đầy đủ hơn trong chương 5, cùng với người anh em thân nhất của nó là tính khách quan. Tuy nhiên, trong nỗ lực để đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá về báo chí tranh luận này, cần nói thêm một chút ở đây về tính vô tư (fairness), điều này vượt quá nhận thức về tính cách của nhà báo, đó chính là: tính vô tư đã nâng cấp việc thảo luận trước công chúng. Lẽ dĩ nhiên, nâng cao chất lượng diễn ngôn là việc quan trọng với Aristotle. Và đối với một loạt các nhà tư tưởng đương đại, kể cả Habermas, cấp độ tiêu chuẩn đánh giá về một diễn ngôn hay tranh luận đã trở thành một căn cứ để đánh giá chất lượng lập luận.43 Những nhà tư tưởng này cho rằng: lập luận thường mạnh mẽ hơn khi thừa nhận lập luận đối phương, ngay cả khi 62 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” nhân nhượng một số điểm trong lập luận đối phương; sự kiện thường rõ ràng hơn khi nhìn từ nhiều hướng; hiểu biết sẽ sâu sắc hơn sau khi bộc lộ qua nhiều quan điểm. Các nhà tư tưởng này lưu ý, việc thừa nhận và tôn trọng đối thủ còn giúp kiểm tra các lập luận của mình: loại bỏ dần các điểm yếu; mài giũa và củng cố các lập luận; chứng tỏ rằng lập luận của mình có thể chịu đựng được thử thách. Thành quy luật, các lập luận nào vượt qua được các bài kiểm tra như thế có giá trị hơn nhiều. Vì vậy, khi John Dickinson thể hiển thái độ cởi mở, khi ông thừa nhận hay thậm chí nhượng bộ lập luận của các đối thủ, ông đã làm nhiều hơn là chỉ tỏ ra vô tư và ôn hòa bên ngoài: ông đang có lập luận tốt hơn và mang lại những cuộc tranh luận hiệu quả hơn. Và dù Isaiah Thomas có thể hiện hay không thể hiện được tính cách thuyết phục khi không bộc lộ hay thừa nhận bất kỳ quan điểm nào của người Anh trong những bài tường thuật về khởi đầu của cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ, dù ông đang phục vụ cho một sự nghiệp đại nghĩa vinh quang; thì ông vẫn đang có một lập luận tồi và một diễn ngôn gây tranh cãi mà thôi. Phương pháp. Triết gia người Anh thế kỷ 20 Stephen Edelston Toulmin đã đưa ra ba “điều kiện cần” để cái “tuyên bố biết rõ” (claim to know) điều gì đó của một người là “đúng” hay “đáng tin cậy”. Điều kiện đầu tiên phải thỏa là có “đủ kinh nghiệm”, hoặc chuyên môn, về đề tài này. Điều kiện thứ hai là có thực hiện “tất cả các quan sát và tất cả các cuộc kiểm tra khi nhận “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 63 được các đề nghị hợp lý” về đề tài này. Điều kiện thứ ba là đưa ra những đánh giá “đã được xem xét kỹ” về đề tài.44 Những nỗ lực của Toulmin nhằm lập ra các tiêu chuẩn để đánh giá một tuyên bố biết rõ thực ra cũng không hoàn hảo hơn so với các khuôn khổ khác đã được giới thiệu trong chương này, và cũng giống với chúng, nó buộc tôi phải cố gắng đưa ra một số tiêu chuẩn lỏng lẻo để đánh giá nỗ lực xây dựng báo chí trí tuệ. Trên thực tế, ba điều kiện này có thể dễ dàng được chuyển đổi thành ba hành vi đưa đến hiệu quả trong việc hình thành báo chí lập luận — những hành động mà một phóng viên có thể triển khai vào một bài báo nào để nó “đáng tin cậy” hay, quay lại theo thuật ngữ của Jay Rosen, để có được “thẩm quyền”. Theo những điều kiện này, chúng ta có thể thấy những nét chính về phương pháp viết báo (journalistic method).45 Các nhà báo lẽ dĩ nhiên phải bắt đầu bằng việc chắc chắn rằng mình có đủ “kinh nghiệm” về một chủ đề — rằng họ hiểu biết rất nhiều. John Dickinson vào thế kỷ 18 có lẽ hiểu biết sâu sắc về lịch sử của luật thuế Anh Quốc một phần bởi có nghiên cứu pháp luật (trong một văn phòng luật sư ở Philadelphia và sau đó tại Hiệp hội Luật sư chuyên nghiệp Anh và xứ Wales tại London)46 và cả hành nghề luật nữa. Trong thế kỷ này, chúng ta bắt đầu yêu cầu một cấp độ cao hơn về “kinh nghiệm” hoặc chuyên môn ở người phóng viên so với trong thế kỷ 20. Nhu cầu đó chưa thể so sánh với những gì Ben Franklin đòi hỏi hồi thế kỷ 18: “thông thạo thêm nhiều ngôn ngữ “, làu thông “Địa lý”, “Lịch sử thời đại”, “Phong tục và Tập quán của tất cả các quốc gia” v.v.., nhưng “thông thạo bao quát” một chủ đề trong tầm tay — điều có thể đạt được trong 64 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” trường đại học — ngày càng được yêu cầu nhiều hơn. Thật vậy, nhu cầu như vậy là tâm điểm của báo chí trí tuệ, và được nói rõ hơn trong chương 7. Khi đã trang bị kiến thức chuyên môn như vậy, các nhà báo — tiếp tục áp dụng các điều kiện của Toulmin — phải thực hiện các “quan sát” cần thiết. Tất nhiên đây chính là cái tiêu đề rất phù hợp với công việc tường thuật mà Jay Rosen và hầu hết các nhà báo ngày nay ngợi ca. Mặc dù gần về khoảng cách vật lý rõ ràng là một ưu thế, nhưng việc quan sát không phải lúc nào cũng cần “đi đến các địa điểm” như cách nói của Bill Keller hay “ở đó” như cách nói của Jay Rosen. Chúng ta cũng có thể tham gia “quan sát” bằng cách đọc hay trao đổi về đề tài. Và ngày nay, chúng ta có thể quan sát được thế giới này càng lúc càng nhiều, thông qua các thiết bị kỹ thuật số trực tuyến. Toulmin cộng thêm một yêu cầu bổ sung vào các “điều kiện” của ông là chúng ta phải tiến hành quan sát. Ông cũng muốn chúng ta thực hiện các “kiểm tra”, như cách làm của các nhà khoa học. Một số nhà báo đầu thế kỷ 21 có thể bị buộc tội không nhấn mạnh đúng mức vào điều này. Khi có dịp, họ tường thuật lại những gì mà họ được cung cấp, được kể lại, mà không kiểm tra các căn cứ của chúng. (Thất bại này sẽ được “than khóc” dài hơn trong chương 5). Nhiều người trong số họ cũng không phát triển được các công cụ khoa học xã hội với phân tích thống kê. Một số thỉnh thoảng còn chây lười ngay cả trong việc áp dụng các kiểm tra ít phức tạp, chẳng hạn như kiểm tra các thông tin trái chiều với hồ sơ dữ kiện. Báo chí trí tuệ phải làm tốt hơn thế nhiều. Yếu tố cuối cùng trong phác thảo này về phương pháp viết báo — xuất xứ từ các điều kiện của Toulmin — là áp dụng các “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 65 đánh giá đã “được xem xét kỹ lưỡng”: suy nghĩ điều gì đó thấu đáo, đánh giá các bằng chứng, đưa ra kết luận. Kỹ năng phân tích hoặc diễn giải này cũng không được nhấn mạnh đúng mức trong nhiều bài tường thuật của các tờ báo và bản tin. Nhưng chúng chính là trọng tâm của điều mà tôi muốn nói là báo chí trí tuệ. John Dickinson đã suy nghĩ thấu đáo các Đạo luật Townshend. Với những ai chuẩn bị viết một bài báo tường thuật, thỏa mãn những điều kiện của Toulmin là rất quan trọng. Các nhà báo ra ngoài viết bài phải có đủ kinh nghiệm và chuyên môn để hiểu mình đang nói gì. Tất nhiên là những phóng viên này phải thực hiện những quan sát cần thiết và bài tường thuật thực tế của họ có lẽ sẽ tốt hơn nhiều nếu họ kiểm tra đánh giá thường xuyên hơn về mức độ hiểu biết của mình đối với những gì đã xảy ra. Và các phóng viên này cũng phải đánh giá có suy xét vào những giai đoạn khác nhau hình thành nên việc giải thích các sự kiện. Tuy nhiên, thỏa mãn các điều kiện của Toulmin — áp dụng phương pháp viết báo này — chỉ đặc biệt quan trọng khi các nhà báo đưa ra một “tuyên bố đã biết”. Khi xây dựng một lập luận, thẩm quyền và khả năng thuyết phục mới là quan trọng. Liệu “tuyên bố đã biết” điều gì đó của họ có “đúng đắn, phù hợp” hay “đáng tin cậy” không mới là yếu tố quyết định. Phong cách. Aristotle không hài lòng với việc quá dựa vào cảm xúc — điều khá phổ biến trong các bài diễn văn chính trị và tư pháp mà ông phân tích: “Thật là sai trái khi làm méo mó 66 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” nhận định của hội đồng xét xử,” có lần ông đã nói, “bằng cách hướng họ vào giận dữ, ganh ghét hay thương hại”. Nhưng ngay cả nhà logic học vĩ đại này cũng phải thừa nhận tính hiệu quả của cảm xúc (pathos): không còn nghi ngờ gì nữa, ông viết, thật dễ thuyết phục hơn khi “người nghe… bị bài phát biểu làm cho cảm động.”47 Rất nhiều người trong số các nhà báo ưu tú nhất của chúng ta và các nhà phê bình nghiêm khắc nhất cũng nghi ngờ việc quá dựa vào cảm xúc.48 Tuy nhiên, thật khó để tìm thấy các nhà báo không thừa dịp củng cố bài viết của mình bằng cách “dẫn dắt” độc giả “vào cơn giận dữ, ganh ghét hay thương hại” — ít nhất là khi tranh luận. Vâng, John Dickinson ghét cay ghét đắng “sự kích động”; quả thực, ông khuyến cáo bạn đọc phải “coi chừng những người có thể bất kỳ lúc nào cũng tìm cách kích động bạn.” Tuy nhiên, trong việc sử dụng các cụm từ như “nguy hại đến tự do”, trong cảnh báo rằng “bi kịch của nước Mỹ tự do” có thể bị “kết thúc”, hay khi hướng dẫn đồng bào “hãy thức tỉnh, hãy nhìn vào những đống đổ nát đang lơ lửng trên đầu bạn”,49 thì chính Dickinson cũng đã mắc lỗi đã kích động, tăng xúc cảm nơi độc giả của ông. Bài kiểm tra về cảm xúc chủ đạo (pathos) mà Aristotle áp dụng là xác định xem liệu liều lượng cảm xúc có “tương ứng với chủ đề” hay không.50 Bài kiểm tra này dường như rất thông minh — và tôi đồ rằng người ta từng ngợi khen Aristotle vì điều đó. Viện dẫn đến cảm xúc — nói điều gì đó quá hiển nhiên — có thể là việc làm hơi quá. Ben Franklin không bị trách là đã đi quá trớn trong bài báo về vận chuyển tù nhân đến Mỹ — với những cụm từ như “là đứa “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 67 con gái trác táng và đổ bệnh, là cô vợ dâm loàn, là anh chồng bị cứa cổ, là đứa con bị rìu bổ vỡ đầu” — do cường điệu là phẩm chất cố hữu của thể loại châm biếm. Thế nhưng, tuy đề tài của Isaiah Thomas không gì khác hơn là những phát súng đầu tiên trong cuộc chiến tranh cách mạng Mỹ, ông có thể đã đi quá xa: “Tiếng khóc của những đứa trẻ bất lực”? “Những lời cầu nguyện của người già”? Kẻ thù đang trong “cơn khát máu”? Giận dữ và thương hại đã được “bơm” quá liều — cho dù đây là chiến tranh. Đưa tin giật gân — một cách thường được sử dụng nhưng lại gây tai tiếng rắc rối trong nghề báo — thỉnh thoảng vẫn được áp dụng cho những đề tài cậy vào cảm xúc chủ đạo như thế.51 Sức nặng — một từ Toulmin sử dụng trong đòi hỏi về lập luận — đưa ra một cách nhìn khác cho câu hỏi về phong cách trong lập luận báo chí.52 Isaiah Thomas đã viết đầy sức nặng khi tuyên bố rằng “quân đội Anh, không bị quấy rối và khiêu khích vô cớ, theo cách vô nhân đạo nhất đã nã đạn và giết chết rất nhiều đồng bào ta.” “Đánh giá” của ông quá khắc nghiệt, ông lại cực kỳ “chủ quan”. Theo góc nhìn hiện đại, Thomas đã viết quá nặng tay (with too much force). Đây là sức nặng không bị giới hạn bởi phẩm chất, sự không chắc chắn hoặc quy kết. Trong bài báo dài hơn 1.500 từ của Thomas, không có chỗ nào ông sử dụng các từ như có thể, có lẽ, theo tin đã đưa hoặc cụm từ “theo các nhân chứng người Mỹ.” Chỉ duy nhất một lần ông sử dụng cụm từ “dường như là” — liền sau đó là câu hỏi liệu các phát súng của các binh sĩ Anh là bắn ra từ “toàn quân” hay chỉ từ “một nhóm sĩ quan và lính”. Hay nói cách khác, Thomas không dành chỗ nào cho sai sót hoặc nghi ngờ, cho đến tận câu cuối cùng của bài báo, một câu nhún nhường khá… bất thường: “Chúng tôi vui mừng nói rằng, mặc 68 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” dù kẻ thù có những hành động khiêu khích cao nhất, chúng tôi nghe nói rằng, không có bất kỳ chuyện tàn ác nào được đáp trả lại từ phía dân quân của chúng ta”(tác giả cho in nghiêng chúng tôi nghe nói rằng).53 Ngược lại, John Dickinson, mặc dù trung thành với sự nghiệp mình theo đuổi, đã dùng đến bảy lần từ “có lẽ” (probably) trong mười hai bức thư của ông. Ông đặt một cụm từ “người ta có thể nói rằng” trước cụm từ “là không thể” (impossible).54 Tương tự thế, tuyên bố chống tiêm chủng trong số đầu tiên của New England Courant cố tránh sử dụng quá nhiều sức nặng ngay cả trong cụm từ châm biếm nhất của bài báo: “Tập quán tiêm chủng nguy hiểm, đáng ngờ”. Ngày ấy tiêm chủng ngừa đậu mùa là cố tình làm nhiễm bệnh bằng chính vi trùng bệnh, chứ không phải bằng vi trùng bệnh đậu mùa ở thú vật đã được làm yếu đi như ngày nay.55 Rõ ràng là việc này “nguy hiểm”, dù người ta (có thể) thận trọng khi thực hiện. Và “đáng ngờ” (dubious) là một từ rất thích hợp ở đây, nó thể hiện phong cách mở, không kết luận vội vàng (inconclusive). Điều này không có nghĩa là sức nặng (force) luôn là điều có hại cho phong cách tốt (good style) trong báo chí. Với phong cách của một lập luận phù hợp, sức nặng phải, xin mượn từ của Aristotle khi nói về những viện dẫn đến cảm xúc, “cân xứng”. Ví dụ, trong trường hợp của Isaiah Thomas, sức mạnh khi lập luận phải cân xứng, tương đương với mức độ chắc chắn của thông tin đề tài liên quan. Màn sương mù của trong trận đánh đầu tiên của cuộc chiến không phải là một thời điểm tốt để nhà báo từ bỏ những từ như “có lẽ là” trong bài viết… “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 69 Bằng chứng. Dưới đây là một cách thức phân tích ngôn ngữ khác, do nhà triết học John Searle đưa ra.* Ông phác thảo năm loại “hành vi ngôn trung” (illoculationary points) có thể có ở một ngôn ngữ. Điều thú vị là tất cả các hình thức báo chí, thậm chí tất cả năm “hình thức diễn ngôn” của Carlota Smith, đều có xu hướng chỉ thích hợp cho một loại của Searle. Thông thường, chúng không phải là các loại “khuyến lệnh” (directive) — yêu cầu hoặc ra lệnh; “cam kết” (commissive) — cam đoan hay thề thốt; “tuyên bố” (declarations) — tuyên bố, thường là có giá trị pháp lý; hoặc là, dù trường hợp này hơi hiếm, “biểu cảm” (expressive) — xin lỗi, chúc mừng, cảm ơn, hoặc chào đón. Thay vào đó, hầu như tất cả các thể loại báo chí đều đủ tiêu chuẩn mà Searle dán cho nhãn “khẳng định” (assertive). Báo chí — dù là tường thuật hay lập luận, là tự sự, thông tin hay miêu tả — đều khẳng định điều gì đó về “trạng thái của các sự vụ nào đó trên thế giới”, đúng với thuật ngữ của Searle. Nó yêu cầu độc giả phải đặt lòng tin vào đó. Nó “có thể đúng, mà cũng có thể sai.”56 Điều này hiển nhiên, nhưng cũng rất quan trọng, là báo chí phải dựa trên loại sự thật đó — loại hàm nghĩa “không sai trái.”† Chúng ta muốn thấy bằng chứng là điều đang được khẳng định, theo nghĩa này, là sự thật. Theo Searle, khẳng định có * John Rogers Searle (sinh năm 1932, ở Denver, Colorado), triết gia người Mỹ và hiện là Giáo sư Slusser Triết học ở Đại học California, Berkeley. Được chú ý rộng rãi vì những đóng góp đối với triết học ngôn ngữ, triết học tinh thần và triết học xã hội. † Loại sự thật quan trọng thứ hai mà báo chí phải hiểu rõ — sự thật về điều gì đó ẩn giấu, về điều gì đó có thể bị tiết lộ — sẽ được thảo luận trong chương 6 và chương 7. 70 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” “các điều kiện phải thỏa mãn”: Khi nổ súng ở Lexington vào ngày 19 tháng 4 năm 1775, quân đội Anh có thực sự “không bị quấy rối và khiêu khích vô cớ”? Việc tập họp “đại đội dân quân” của người dân thuộc địa có đủ điều kiện là một sự khiêu khích đối với thực dân nắm quyền không?57 Khẳng định, sử dụng một thuật ngữ của Searle và các triết gia phân tích ngôn ngữ khác, có “các điều kiện về sự thực” (truth conditions).58 Không phải lúc nào cũng có những bằng chứng rõ ràng để thỏa mãn đầy đủ những “điều kiện” này. Thế nhưng bằng chứng rõ ràng rất quan trọng ở đây. Aristotle cũng có thêm một lời khuyên mà lúc nào có trong sách giáo khoa về báo chí, ngay cả trong các sách ở thế kỷ 20: “Rất cần thiết phải có các sự thật về chủ đề đó.”59 Cũng rất cần thiết phải thể hiện các sự thật đó — trình bày cho độc giả của một bài lập luận thấy, theo thuật ngữ của Toulmin, các “cơ sở” hoặc “căn cứ để tuyên bố”. Khi nỗ lực đưa ra các tiêu chuẩn để đánh giá các “cơ sở” hoặc “căn cứ” thì hãy nhìn sang bên khoa học pháp lý: muốn đánh giá những vấn đề trên, chúng ta cần bằng chứng. Và ở đó, yêu cầu đầu tiên cũng chỉ đơn giản là bạn phải cung cấp một vài “bằng chứng – evidence” mà thôi. “Chúng không thèm đếm xỉa đến tiếng gào khóc của những người bị thương”, Isaiah Thomas khẳng định về những người lính Anh khi kể về trận Lexington, “chúng giết họ không thương tiếc, chà đạp thi thể họ theo cách gây sốc nhất.”60 Và ông đã đưa ra bằng chứng gì cho khẳng định này, ngoài quy kết chung chung ban đầu (“Chúng tôi thu thập tin tức từ những người mà tính chính xác trong lời nói của họ là không có gì phải nghi ngờ về câu chuyện sau”). Thomas đã không đưa ra bằng chứng nào cho việc quân Anh không thèm đếm xỉa đến và đối xử tàn bạo “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 71 với người bị thương. Lẽ ra chúng ta nên cung cấp, nếu không phải những cái tên thì chí ít cũng là một địa điểm, vài sự việc cụ thể — đủ để, hy vọng là thế, củng cố cho việc dùng đại từ số nhiều trong bài viết của Thomas? Về mặt luật pháp, đương nhiên là người ta còn yêu cầu những bằng chứng cụ thể, chi tiết nữa kìa. Như lời một phán quyết đã đưa ra: “chỉ cáo buộc chung chung, đơn thuần kết tội và không có bằng chứng thuyết phục, thì không đủ”.61 Đôi khi, nói cách khác, chúng ta có thể đánh giá một bằng chứng dựa trên chính các định nghĩa về thuật ngữ này: bằng chứng đó có quá chung chung hay mơ hồ không? Nhiều lúc, lời kể của Thomas hoàn toàn cụ thể: “họ bị khoảng mười bốn sĩ quan cưỡi ngựa chặn lại, những sĩ quan này rời Boston vào buổi chiều ngày hôm đó.” Nhưng khi nói đến “giết người... không thương xót” và các cáo buộc đầy kích động khác, thì các chi tiết cụ thể lại biến mất. Và các nguồn tin của Thomas — “những người mà tính chính xác trong lời nói của họ là không có gì phải nghi ngờ” — có một điểm chung: họ là những cư dân Mỹ chống lại người Anh — những người đòi ly khai đang trong cơn giận dữ, hoàn toàn có thể cho là như vậy. Điều này có thể hiểu được, nhưng nó cũng làm cho lời khai của họ — và “tính chính xác trong lời nói” của họ — trở nên đáng ngờ. Thomas cũng ép mọi người tin bằng chứng “nghe nói” (hearsay evidence). Về mặt pháp luật, “nghe nói” có nghĩa là một phát biểu mà… người khai không đưa ra khi làm chứng tại phiên xử hiện tại hoặc tại tòa. “Các Nguyên tắc liên bang về bằng chứng” khẳng định rằng “nghe nói”, trừ vài ngoại lệ, là “không thể chấp nhận được”.62 Hiển nhiên, những lời buộc tội sẽ đáng tin hơn khi chúng ta nghe trực tiếp chứ không phải 72 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” qua lời khai của một ai đó về những gì (người đó) nghe người khác nói. Các nhà báo, mặc dù không có quyền trưng cầu bằng chứng / nhân chứng như tòa án, nên cảm thấy sự cần thiết của việc tiếp cận nguồn tin gốc, càng gần càng tốt, càng gần thì càng đáng tin cậy hơn. Mỗi khi có thể, họ cũng nên kể tên những người mà họ đã gọi ra “làm chứng”. Bằng cách đó độc giả ít nhất cũng đánh giá được nguồn gốc của các chứng cứ và có thể quy trách nhiệm về tính chính xác của bằng chứng cho những người cung cấp nó. Trong một thuộc địa vẫn còn dưới sự cai trị của người Anh, rõ ràng có lý do chính đáng để Thomas không nêu tên các nguồn tin của mình. Nhưng cũng vì vậy mà chất lượng của bằng chứng, và theo đó là chất lượng của các lập luận chống lại nước Anh của ông, chịu ảnh hưởng đáng kể. Cần phải đánh giá bằng chứng theo bối cảnh.63 Liệu nó thực sự hỗ trợ cho các điểm (trong lập luận, trong bài báo – ND) cần phải có bằng chứng hỗ trợ? Khi tường thuật về trận Lexington, Isaiah Thomas mô tả quân đội Anh là “GIẾT CHÓC và CƯỚP BÓC có CHỦ ĐỊNH!” Có những tình tiết, nếu mọi người tin, đủ tiêu chuẩn để gọi là vụ cướp theo tường thuật của ông về hành vi của quân đội Anh: “Chúng cướp phá gần như mọi nhà chúng đi qua, đập vỡ và phá hủy cửa lớn, cửa sổ, cửa kính,… và lấy đi quần áo và các đồ vật có giá trị khác.”64 Nhưng còn “ GIẾT CHÓC” thì sao, bằng chứng ở đâu? Thomas nói rằng có tám người Mỹ thiệt mạng trong cuộc giao tranh. Tuy nhiên, ông không cung cấp bằng chứng trực tiếp rằng việc giết người được thực hiện có“CHỦ ĐỊNH”. Bằng chứng của ông, về việc kết tội lính Anh chủ định để mọi việc xảy “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 73 ra như thế, rất gián tiếp và rất lỏng lẻo: Quân đội Anh tập hợp, hành quân và đụng độ với một “đại đội dân quân”. Họ ra lệnh cho đại đội kia “giải tán”. Ai đó — Thomas nói “một hoặc hai” “sĩ quan”Anh (điều này không được các sử gia khẳng định!) — sau đó đã nổ phát súng định mệnh.65 Thật khó để hiểu làm thế nào mà bằng chứng gián tiếp này lại có ý nghĩa rằng người Anh đã “có thể” (probable) giết người có “CHỦ ĐỊNH”, nói theo một thuật ngữ trong Các Nguyên tắc liên bang về bằng chứng.66 John Dickinson, trong lập luận chống lại các Đạo luật Townshend, đã tập hợp và trưng ra các bằng chứng rất hiệu quả. Một bước quan trọng trong lập luận của ông là lời khẳng định: mức thuế mà các đạo luật này áp đặt không nhằm để quản lý thương mại, mà là để tăng nguồn thu từ các thuộc địa. Bằng chứng của Dickinson cho điều này rất rõ ràng, trực tiếp và dựa trên văn bản viết giải trình về thuế của Thủ tướng Anh George Grenville (1712-1770), trong đó ngài thủ tướng cho biết “cần phải Tăng Thu Từ Nước Mỹ – Thuộc Địa Của Hoàng Đế”.67 Dickinson không bó hẹp trong các “cơ sở” và “căn cứ để tuyên bố” của mình, ông đưa ra các bằng chứng! Logic. Đóng góp quan trọng nhất của Aristotle vào những hiểu biết về tranh luận — và về nhiều, nhiều đề tài hơn nữa — chính là phân tích của ông về logic. Triết gia Hy Lạp này trình bày 28 topoi hay tam đoạn luận — những dạng thức khả dĩ của lập luận logic trong hùng biện.68 Chúng cũng là những hình thức lập luận khả dĩ trong báo chí. 74 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” Chẳng hạn như dạng số 11 trong danh sách của Aristotle là lập luận từ một “phán đoán trước” (previous judgment).69 Trong một “Bức thư” của mình, Dickinson đã thực hiện dạng này bằng cách dựa vào “phán đoán” rằng Đạo luật Tem đáng ghét là một nỗ lực chưa có tiền lệ và không đúng để tăng doanh thu chứ không phải để quản lý thương mại. Sau đó ông hỏi, một cách hoa mỹ, về các Đạo luật Townshend còn mới mẻ và chưa bị-ghét: “Sự khác biệt về thực chất và về quyền là gì, liệu chúng ta có bị thu thuế bằng đúng số tiền tính theo thuế suất đề ra trong Đạo luật tem cho việc sử dụng giấy, hoặc theo những loại thuế này khi phải nhập khẩu giấy?”70 Nói cách khác, nếu Đạo luật Tem một nỗ lực để tăng thu từ các nước thuộc địa là sai trái và nếu các Đạo luật Townshend cũng diễn lại cái nỗ lực tăng thu từ các thuộc địa này, thì… Nếu, nếu, thì — giả định, giả định, kết luận. Lập luận của Dickinson ở đây, cũng giống như tất cả các tam đoạn luận hiệu quả khác, là một nỗ lực nhằm diễn dịch (deduction), một phiên bản không chính thức của tam đoạn luận mà Aristotle rất yêu thích — với ông thì đó là dạng lập luận logic cao quý nhất.71 Phép quy kết (induction) — rút ra kết luận phổ quát từ những ví dụ cụ thể — là một dạng thức lập luận đôi chút kém ấn tượng hơn diễn dịch, theo lời triết gia Hy Lạp này. Trong môn hùng biện, khi mà tiêu chuẩn lỏng lẻo hơn logic đơn thuần, kết luận có thể chỉ là một điều cụ thể khác và có thể có được chỉ từ một hoặc hai ví dụ. Aristotle gọi dạng thức lý luận này là hệ hình (paradigm). Ông không thích nó bằng tam đoạn luận rút gọn, và ông hoàn toàn có lý.72 Lý do là khi đưa lập luận vào một hệ hình ví dụ, chúng ta rất dễ có xu hướng làm những gì mà tác giả của cuộc tấn công vào vụ tiêm chủng đậu mùa của tờ New-England “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 75 Courant đã làm: cung cấp một ví dụ về việc tiêm chủng làm ai đó nhiễm bệnh rất nặng — “Ông già W-b sau một vài giờ trải qua cấp cứu do chảy máu, nôn, phồng rộp, thuốc đắp và suýt phải lìa đời” — rồi sau đó dựa vào ví dụ thiếu điển hình này mà quy kết cho nó là một “hậu quả thảm hại” của tiêm chủng.73 Trong một ví dụ thậm chí còn nghiêm trọng hơn, thật quá dễ dàng để quy kết rằng bác sĩ chính phụ trách về tiêm chủng bệnh đậu mùa của Boston bị nghi ngờ về năng lực bởi vì thực tế công việc này trước đây do những “Bà già Hy Lạp” thực hiện. Chuyện này dường như giống với một ví dụ về cái mà Aristotle gọi là tạo “gây sự chú ý đến các vấn đề không liên quan, nằm ngoài chủ đề chính của câu chuyện”:74 làm thế nào mà việc những “Bà già Hy Lạp” thực hiện kỹ thuật tiêm chủng lại phủ nhận được toàn bộ hiệu quả của việc tiêm chủng do bác sĩ thực hiện? Theo truyền thống trong hùng biện, chúng tôi có thể xem phong cách tranh luận này là công kích cá nhân (ad hominem): trong trường hợp này là việc cố gắng chuyển ‘sự thiếu tôn trọng nhắm vào những người thực hiện một kỹ thuật nào đó trước kia’ thành ‘sự thiếu tôn trọng đối với chính kỹ thuật đó’. Aristotle nhóm các dạng thức lập luận “ngụy biện” thành chín loại. Hầu hết trong số đó là những sai lầm về logic mà các nhà báo dễ mắc phải. Chẳng hạn, hình thức “ngụy biện” thứ ba là “cường điệu” (exaggeration, một họ hàng gần với việc sử dụng “sức nặng” thái quá, đã được thảo luận trong phần về phong cách ở đoạn trên).75 Cách mà Isaiah Thomas phẫn nộ kết tội quân đội Anh tại Lexington và Concord chính là một ví dụ về cường điệu, với những từ ngữ như “bừa bãi”, “vô nhân đạo”. Khi nói về cường điệu trong ngụy biện, Aristotle có ý nói về những “người buộc tội “ đang “nổi cơn thịnh nộ”.76 Dường 76 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” như đó chính là những gì đã xảy ra với Thomas. Nhưng Aristotle cũng ghi nhận một dạng ngụy biện tinh tế hơn, khi người ta cường điệu tuyên bố của đối thủ để dễ dàng bác bỏ chúng hơn, nói cách khác là tạo ra một “bù nhìn rơm” để tấn công khi tranh luận. Cuộc phê phán bền bỉ việc tiêm chủng ngừa bệnh đậu mùa trên báo của James Franklin là nạn nhân của loại ngụy biện này: một bài trong một số báo sau này rất mãn nguyện khi ghi nhận rằng “hoạt động này” không phải là “không thể sai lầm”.77 Nhưng có ai dám nói như thế về nó, hay về bất kỳ một liệu pháp y tế nào khác đâu? Aristotle đi đến một luận điểm khó khăn với dạng ngụy biện thứ chín, theo đó ông chỉ trích xu hướng nhầm lẫn “cái phổ quát và cái không phổ quát”. Cũng số báo New England Courant nói trên đã viết: “Rõ ràng là, đối với bất kỳ người nào, không nhất thiết phải đẩy mình đến mức tận cùng khi tự làm mình nhiễm bệnh để phòng ngừa một căn bệnh, mà với những gì người đó biết, anh ta sẽ không gặp nguy hiểm.”78 Vấn đề của lập luận này là, như Aristotle chỉ ra, mặc dù nguyên tắc ‘không chủ động làm cho người ta nhiễm bệnh’ nghe có vẻ hợp lý, nhưng nó không phải là một nguyên tắc phổ quát, một quy luật “chung”: nó không “tuyệt đối đúng”. Có thể có những hoàn cảnh mà làm cho ai đó nhiễm bệnh nhẹ, để tạo kháng thể và bảo vệ họ chống lại một căn bệnh có thể gây tử vong lại là một ý kiến hay.79 Một phân tích về logic luôn bắt buộc hoặc cần thiết phải công khai rõ ràng. Chúng tôi hy vọng có thể nói “điều này tốt” hoặc “điều này là xấu” một cách dễ dàng hơn về logic của một lập luận, so với khi nói về những khía cạnh khác của lập luận như phong cách (style) hay tính cách (character) của tác giả. Nhưng với logic thì mọi nhận xét sẽ không dễ dàng như thế, “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” 77 ngay cả khi có Aristotle làm trọng tài, ngay cả khi người ta đã nỗ lực tiếp tục phát huy những công trình của triết gia này suốt hai ngàn năm qua.80 Lập luận chống lại tiêm chủng ngừa bệnh đậu mùa ở Boston vào năm 1721 về nhiều điểm rất thuyết phục. Lập luận của John Dickinson chống lại các Đạo luật Townshends về nhiều điểm lý lẽ rất đáng khâm phục. Các hình thức lập luận có giá trị đôi khi lại được áp dụng vào các lập luận tồi, và các hình thức ngụy biện đôi khi lại hỗ trợ lập luận tốt. Việc tìm kiếm một logic có giá trị hay logic ngụy biện không thể cung cấp được một phương pháp rõ ràng để phân biệt lập luận báo chí (journalistic argument) tốt và xấu. Nhưng điều này vẫn có thể hữu ích. Và cùng với những phân tích trong những đoạn trên về tính cách, diễn ngôn, phương pháp, phong cách và bằng chứng, những phân tích về logic có thể đưa ra một số hướng dẫn để bắt đầu đánh giá những gì báo chí nên đạt được và đã đạt được khi nó không chỉ tường thuật mà còn đưa ra những lập luận — như những gì đã có trong nền báo chí mà cùng với nó nước Mỹ ra đời, như những gì sẽ có trong nềnt báo chí trí tuệ mà cuốn sách này cổ vũ. Báo chí tranh luận và chủ kiến cao độ đã góp phần tạo ra Hợp chủng quốc Hoa Kỳ — không đâu hùng hồn hơn ngòi bút của Thomas Paine* khi ông ngợi ca độc lập trong Common Sense: “Hỡi * Thomas Paine sinh năm 1737 tại Thetford, Anh Quốc, sống ở Mỹ, nhập cư vào Mỹ trong thời gian nổ ra Cách mạng Mỹ. Ông là một nhà triết 78 “NGUYÊN TẮC, Ý KIẾN, CẢM XÚC VÀ lòng YÊU MẾN” những người yêu mến nhân loại! Những người dám chống đối, không những chỉ sự độc tài, mà còn chống luôn những kẻ độc tài, hãy đứng dậy! Mọi nơi trên cái quả đất cũ kỹ này đã bị sự đàn áp giày xéo. Tự do đã bị săn đuổi trên toàn quả địa cầu. Á châu và Phi châu đã trục xuất nàng tự do từ lâu lắm rồi, còn Âu châu đã coi nàng như kẻ lạ, và Anh Quốc đã cảnh cáo nàng nên cút xéo khỏi nước Anh. Ôi, chúng ta hãy đón nhận con người đang lánh nạn đó, và kịp thời chuẩn bị một chốn nương thân cho nhân loại.”81 Tuy nhiên, báo chí tranh luận và đầy chủ kiến, cũng như chính bản thân Thomas Paine, hầu như chẳng luôn được yêu quý ở Mỹ — cả trong và sau cuộc cách mạng. Những ý kiến quyết liệt thường dễ làm phiền lòng hay xúc phạm ai đó với đủ lý do chính đáng, nếu xét đến xu hướng đơn giản hóa quá mức (nếu không phải là bóp méo sự thật !) của chúng. Trong những thập kỷ đó, các lập luận trở nên vô cùng quyết liệt. Các nhà sử học đề cập đến báo chí Mỹ sau cuộc cách mạng với cái tên “báo chí phe đảng” (partisan press). “Cảm xúc chủ đạo” dâng cao, “sức nặng” được sử dụng tràn lan trong báo chí, như một tổng biên tập thuộc phe chống liên bang (anti-Federalist) — Benjamin Franklin Bache, cháu nội của Ben Franklin — bày tỏ vài tuần sau bài diễn văn chia tay của vị Tổng thống Mỹ đầu tiên: “Nếu một quốc gia từng bị trụy lạc bởi một con người, thì nước Mỹ đã bị trụy lạc bởi ông Washington.”82 học, nhà cách mạng, người theo trường phái chủ nghĩa tự do cổ điển, một nhân vật nổi bật trong phong trào khai sáng, tác giả của Common Sense (Lẽ Thông thường, 1776). Ông ủng hộ sự độc lập của các thuộc địa Mỹ tách khỏi Đế quốc Anh, hỗ trợ cho cách mạng. Ông mất năm 1809 tại New York, Mỹ. """