" Holmes ở Kyoto 4: Buổi Tiệc Trà Kì Bí PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Holmes ở Kyoto 4: Buổi Tiệc Trà Kì Bí PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HOLMES Ở KYOTO - TẬP 4 ~ Buổi tiệc trà kì bí ~ Tác giả: Mai Mochizuki Người dịch: Dương Dương Phát hành: WingsBooks Nhà xuất bản Kim Đồng 2021 —✥— ebook©hotaru-team Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes.” Cháu trai ông chủ tiệm đồ cổ “Kura” ở khu phố Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng có thể trở nên sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura” và được Kiyotaka chỉ dạy về mĩ thuật cổ. CHƯƠNG MỞ ĐẦU ĐẦU NĂM Một nhành dương liễu được tô điểm bằng những chiếc bánh mochi hồng và trắng. Mỗi khi năm mới đến, người ta sẽ lại bắt gặp món đồ trang trí dễ thương này. Nếu tôi không nhầm thì mochibana-shidare[1] là tên gọi của nó. Đồ trang trí trong dịp Tết có rất nhiều loại, nhưng tôi thích nhất là mochibana-shidare. Tôi, Mashiro Aoi, đang ngồi trên một chuyến xe buýt chật ních người. Vừa lắc lư theo chiếc xe, tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ và nhoẻn miệng cười. Mùng ba tháng Giêng. Cả Kyoto đang tràn ngập niềm vui đón năm mới. Khắp nơi được trang hoàng lộng lẫy với shime-kazari[2], nebiki matsu[3], mochibana-shidare, và những chiếc quạt giấy mạ vàng. Già trẻ gái trai trong trang phục truyền thống đi lại trên đường đông như mắc cửi. Ngỡ là toàn bộ thành phố đang trong mùa lễ hội rộn ràng. Tôi dám chắc những người đang đi lại trên phố này đa phần là khách du lịch. Có lẽ họ đến từ các tỉnh thành khác, muốn được tận hưởng dịp Tết ở một nơi “đậm chất Nhật Bản” như Kyoto, nên mới tới đây thăm thú đền chùa và xin lộc đầu năm. Và biết đâu, người ngoài trông thấy tôi lúc này cũng sẽ tưởng tôi là khách du lịch. Nhìn bộ dạng của bản thân hiện tại, tôi bẽn lẽn thu mình. Chiếc xe vừa dừng lại trước toà thị chính, tôi đã hấp tập nhảy xuống. Từ đường Oike, tôi đi xuyên qua biển người để tìm đến phố mua sắm Teramachi, Khu phố thương mại lợp mái vòm hôm nay còn náo nhiệt hơn thường ngày. Phần lớn những cửa hàng được xây kề nhau trong khu phố đã bắt đầu mở cửa từ mùng hai; chỗ thì chuẩn bị sẵn túi may mắn[4] chỗ lại phát rượu khai vị đầu năm[5]. Tất cả đều chìm trong bầu không khí hân hoan vui vẻ. Phố mua sắm Teramachi lúc này tấp nập ngang ngửa dịp cuối năm, nhưng cảm giác bề bộn, hối hả khi ấy đã không còn. Dù tính ra cũng mới có vài ngày kể từ khi năm cũ khép lại. Tới tận ngày ba mươi mốt tháng Mười Hai, tôi vẫn còn làm thêm ở đây. Vậy mà kì lạ thay, chỉ cần “sang năm mới” là tôi đã có cảm tưởng như lâu lắm mới được đặt chân đến nơi này. Nhịp bước nhún nhảy của tôi liệu có phải do tâm trạng phấn chấn trong không khí Tết? Cuối cùng thì ngày làm việc đầu tiên trong năm cũng đã đến. Phải, tiệm đồ cổ “Kura” nơi tôi làm thêm sẽ chính thức hoạt động trở lại vào hôm nay, mùng ba tháng Một. Ông chủ tiệm là ông Yagashira Seiji đã đề xuất rằng, “Vào ngày làm việc đầu tiên, tất cả đều phải có mặt nghen,” cho nên kể cả đứa làm thêm như tôi cũng được gọi đến. Ngoài việc trong cửa hàng ra, tôi tự thấy mình chẳng giúp được gì nhiều. Ấy vậy mà ông chủ vẫn mời tôi đến dự buổi gặp mặt đầu năm, khiến tôi vô cùng hạnh phúc. Cảm giác như mọi người đã thật sự công nhận tôi là một phần của tiệm “Kura”. Tôi tự nhủ mình phải vững vàng lên, mắt nhìn thẳng về phía trước và bước đi mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc, tấm biển của cửa hàng đồ cổ “Kura” đã hiện ra trong tầm mắt. Bề ngoài của nó vẫn như mọi khi, giống một quán cà phê hơn là tiệm đồ cổ. Tiệm “Kura” hôm nay cũng đã chuyển sang “chế độ mừng năm mới”, với mặt tiền được trang hoàng bởi kadomatsu[6], shime-kazari, và cả mochibana-shidare. “Cháu chào mọi người ạ.” Khi tôi đẩy cửa bước vào, tiếng chuông cửa quen thuộc lại reo lên leng keng. “Ồ, Aoi đó hả?” Người vừa cất giọng sang sảng và ngoảnh lại nhìn tôi là ông chủ cửa hàng này, ông Yagashira Seiji, năm nay bảy mươi bảy tuổi. Ông là một người chuyên giám định đồ cổ nổi tiếng mang danh hiệu “Chuyên gia giám định cấp quốc gia” được đông đảo cư dân ở vùng Kansai này biết đến. Thường ngày, ông chủ hay ăn vận theo phong cách kinagashi phóng khoáng, nhưng hôm nay đã đổi sang lễ phục đầy đủ quần hakama[7] và áo khoác haori[8] cho đúng tinh thần lễ tết, cảm giác trịnh trọng và uy nghiêm hơn bội phần. Đứng cạnh ông chủ là con trai ông, bác quản lí Takeshi. Gọi là quản lí nhưng nghề nghiệp chính của bác ấy là nhà văn, chuyên sáng tác tiểu thuyết lịch sử với bối cảnh thời phong kiến. Bác gắn liền với hình ảnh vừa trông cửa hàng vừa cặm cụi cày bản thảo ở “Kura”. Hôm nay bác mặc một bộ kimono màu chàm. Đứng bên còn lại của ông chủ là một chàng thanh niên cao ráo với gương mặt khôi ngô đang nhoẻn miệng cười dịu dàng. Đó là cháu nội kiêm đệ tử của ông, anh Kiyotaka, hay còn gọi là anh Holmes, một sinh viên cao học đang làm giám định viên tập sự. Anh là người có đầu óc nhạy bén, được đặt biệt danh là Holmes nhờ vào khả năng quan sát và mắt thẩm định tinh tường hiếm thấy, cùng cái họ “Yagashira”. Anh Holmes lúc này cũng đang khoác trên mình một bộ kimono giống ông chủ và bác quản lí, nhưng màu mực tàu. Ở phía sau lưng họ có một người phụ nữ xinh đẹp. Cô là Takiyama Yoshie, đang điều hành một công ty chuyên tư vấn tổ chức những sự kiện liên quan đến mĩ thuật, đồng thời cũng là bạn gái của ông chủ. Cô có ngoại hình hết sức trẻ trung, tưởng như mới ngoài ba mươi, nhưng thực ra là một mĩ nhân đứng tuổi đã ngoại tứ tuần. Bộ hōmongi[9] xanh lục sáng như màu cỏ non hôm nay hoà hợp với cô một cách hoàn hảo. Đúng vậy, hôm nay, ngày làm việc đầu tiên của năm đã được quy ước là ngày “mặc kimono đi làm” nên tất cả chúng tôi đều diện trang phục truyền thống. “Chúc mừng năm mới Aoi nhé.” Được mọi người đồng thanh gửi lời chúc, tôi rụt rè cúi đầu. “Ch-Chúc mừng năm mới cả nhà mình ạ. Dù đã biết hôm nay sẽ như thế, nhưng nhìn mọi người đồng loạt mặc kimono thế này vẫn làm cháu hơi choáng ngợp.” “Tết là mặc kimono”, rất đúng kiểu của “Kura”. “Vậy nhưng, ở đây chỉ có một mình anh là mặc kiểu kinagashi thôi này.” Kinagashi là cách mặc trang phục truyền thống giản lược, không cần áo khoác haori hay quần hakama mà chỉ có kimono thắt obi. “Em thấy anh mặc đẹp lắm ạ.” Tôi có cảm giác là kiểu mặc kinagashi thanh thoát, không cầu kì sẽ hợp với anh Holmes hơn lễ phục cứng nhắc với đầy đủ haori và hakama. Mái tóc đen nhánh kết hợp với bộ kimono màu mực tàu làm nổi bật lên làn da trắng trẻo của anh ấy, trông thật là quyến rũ. “Cảm ơn Aoi. Bộ komon ấy cũng rất hợp với em,” anh Holmes mỉm cười đáp. “Công nhận, cháu đáng yêu lắm.” “Phải đấy, trông rất xinh.” Cô Yoshie và bác quản lí cũng chêm vào. “... Ch-Cháu cảm ơn ạ,” tôi xấu hổ lí nhí. Đúng vậy, hôm nay tôi cũng mặc kimono. Gọi vậy thôi chứ nó không phải furisode mà là komon, loại kimono với hoa văn nhỏ phủ khắp thân áo. Những đoá hoa phớt hồng rải rác trên nền vải màu kem. Obi cũng có màu hồng nhạt tương tự, mặt trước trông như một bông hoa to sắp nở, tổng thể nhìn chung là hết sức dễ thương. Tôi ưng bộ kimono này vì nó trông không đến nỗi quá thường, nhưng vẫn nhẹ nhàng đủ để có thể thoải mái ra phố dạo chơi. “Bộ komon này có phải em mua ở ‘Kobo-san’ hồi trước không?” Anh Holmes hỏi, vẻ như muốn xác nhận lại. Tôi ngẩng lên nhìn anh và gật đầu đáp, “Vâng.” “Kobo-san” là tên thường gọi của hội chợ được tổ chức tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt hằng tháng. Nó giống như một buổi chợ trời lớn song song với lễ hội. Vào ngày này, người ta sẽ mở sạp hàng kinh doanh đủ thứ trong khuôn viên chùa To-ji, từ quầy ăn uống, trò chơi, đồ cổ cho đến tạp hoá, quần áo cũ, kimono, thực phẩm. Trước đây, tôi đã có lần cùng anh Holmes đến đó, quy mô còn lớn hơn cả chợ hàng thủ công ở Hyakumanben Chion-ji. Nhân tiện thì ở Kyoto có ba hội chợ lớn được mở hằng tháng: chợ hàng thủ công tại chùa Hyakumanben Chion-ji vào ngày mười lăm, chợ Kobo-san tại chùa To-ji vào ngày hai mươi mốt, còn ngày hai mươi lăm là chợ Tenjin-san ở đền Kitano Tenmangu. Tôi tìm thấy bộ kimono này vào dịp cuối năm, trong lần đầu tiên đến chợ Kobo-san cùng cô bạn Miyashita Kaori. Khi cầm bộ kimono nằm trong xe chở hàng lên, Kaori đã bảo tôi rằng, “Chỗ này toàn món hời đó nha.” Nhà Kaori là một cửa hàng trang phục truyền thống danh tiếng với lịch sử lâu đời. Nghe được nhận xét của cậu ấy nên tôi cũng có thể yên tâm mua món hàng này. Kimono thường gắn liền với hình ảnh của một loại trang phục đắt đỏ, không dễ gì mua được, nhưng những bộ được bày bán ở hội chợ lại rẻ hơn tôi nghĩ, chỉ với khoản lương làm thêm của tôi cũng dư sức trả rồi. Nghĩ lại thì trước khi chuyển đến sống ở Kyoto, việc bỏ tiền túi ra mua một bộ kimono với tôi là chuyện không tưởng. Thực ra obi là đồ có sẵn ở nhà, còn cách mặc thì tôi phải nhờ bà giúp. Tôi chạm tay vào obi, trong lòng mong mỏi một ngày nào đó mình có thể tự mặc kimono. “Mọi người tập hợp đồng đủ rồi, giờ ta cụng ly khích lệ tinh thần làm việc đầu năm nhé.” “Của Aoi là amazake[10] nhỉ.” Anh Holmes rót sake và amazake vào chén, sau đó đưa rượu cho từng người theo thứ tự tuổi từ thấp đến cao, bắt đầu từ tôi, cô Yoshie, quản lí, và cuối cùng là ông chủ kèm câu: “Mời ông ạ.” Chẳng biết có phải do trang phục truyền thống hay không, mà mỗi động tác của anh Holmes đều quyến rũ hơn bình thường, khiến tôi không ẳ tài nào nhìn thẳng được. “E-Em cảm ơn ạ,” tôi nhận lấy chén rượu và e lệ cụp mắt xuống. Đúng lúc mọi người đang chuẩn bị nâng ly, tiếng chuông leng keng vang lên ngoài cửa, và anh Akihito hớt hải xông vào, “Xin lỗi cả nhà, cháu đến muộn! Năm mới vui vẻ ạ!” Anh ấy cũng đóng bộ chỉnh tề với hakama và haori có màu xanh chủ đạo. Mái tóc sáng màu nhìn qua tưởng chừng không ăn nhập với phục trang, thế mà lại hoà hợp đến bất ngờ. Hiện nay, anh Akihito đang được công chúng khen ngợi là một “diễn viên điển trai”. Chắc nhờ thường xuyên mặc trang phục truyền thống trên chương trình giới thiệu Kyoto “Tiết trời Cố đô” nên anh ấy đã quen với kimono rồi. “‘Xin lỗi cả nhà’ gì chứ, có ai mời anh đâu nhỉ?” “Bậy nào.” Bị anh Holmes ném cho một cái nhìn lạnh tanh, anh Akihito lắc đầu nguầy nguậy. “Hôm mở tiệc giao thừa, ông chủ đã dặn tôi rằng: ‘Mồng ba tiệm bắt đầu mở cửa trở lại, cậu hổng mắc việc gì thì nhớ ghé qua nghen. Có cậu Akihito tới bao giờ cũng vui.’ Tôi được ông chủ chiếu cố bấy lâu nay, nghe thế sao có thể không đến được.” Anh Akihito vừa cười vừa tét một phát vào cánh tay anh Holmes. Đối nghịch lại, anh Holmes xoa xoa chỗ tay bị tét với ánh mắt lạnh lùng. Hai con người này mới đầu năm đã thế, chẳng thay đổi gì. “Vậy là cậu Akihito cũng tới rồi.” Ông chủ đích thân rót sake vào chén và trao cho anh Akihito. Anh Akihito nhận lấy với vẻ trân trọng. “Nào, Takeshi, Kiyotaka, Yoshie, bé Aoi, cậu Akihito. Năm nay vẫn lại tiếp tục chiếu cố nhau nghen” Ông chủ cao giọng hô: “Cụng ly!”, chúng tôi cũng đồng loạt nâng chén và nói: “Cụng ly!” rồi uống một hơi cạn chén. Có lẽ do tôi đã thấm mệt vì không quen mặc kimono, lại phải đi từ nhà đến tận đây, nên ngụm amazake thanh mát ấy cảm giác ngon vô cùng. “Ơ, Aoi cũng uống sake à?” “Dạ không, mình em uống amazake ạ.” “À ừ, em vẫn còn vị thành niên nhỉ. Lớp Mười Một đúng không?” “Vâng, em sẽ lên lớp Mười Hai vào mùa xuân ạ.” “Phải rồi Aoi, nói đến mùa xuân thì xuân năm nay đứa con trai đang đi du học của cô sẽ về nước đấy. Mong cháu giúp đỡ thằng bé nhé,” cô Yoshie chêm vào một câu như thể vừa sực nhớ ra. Tôi bị bất ngờ, nhưng vẫn gật đầu đáp: “V-Vâng ạ.” Nhắc mới nhớ, Cô Yoshie có một đứa con trai. Nếu tôi không nhầm thì cậu ấy đang học lớp Mười, nghĩa là nhỏ hơn tới một tuổi. Con của cô Yoshie thì hẳn phải đẹp trai lắm. Trong lúc mọi người đang sôi nổi trò chuyện, ông chủ nhìn đồng hồ rồi chậm rãi đứng dậy. “Thôi, bọn ta đi trước nghen.” “Vậy bố cũng...” “Khoan.” Thấy ông chủ và quản lí lại chuẩn bị đi đâu đó, anh Holmes vội lên tiếng. “Ông và bố có thể nán lại một chút rồi mới đi có được không ạ? Hôm nay dù sao cũng là ngày mở hàng, con muốn dẫn Aoi đến thăm Yata Jizo-son.” Nghe anh Holmes nói, tôi nghiêng đầu thắc mắc: “Yata Jizo-son ấy ạ?” “Là ngôi chùa Địa Tạng ở ngay gần đây. Ngày làm việc đầu tiên nên anh nghĩ cũng nên đến chào hỏi chút.” “À, chỗ bên cạnh đồn cảnh sát phải không ạ?” Tôi vỗ hai tay vào nhau. Hôm nào đi làm tôi cũng trông thấy nơi đó, nhưng không mấy để tâm nên đến tên cũng chẳng biết. Tôi tự dưng thấy có lỗi vì sự thiếu lễ độ của mình. “Cũng được, mà đi lẹ lẹ nha. Ta hổng có đợi được lâu đâu,” ông chủ ngúng nguẩy quay đi. “Nói gì thì đây vẫn là cửa hàng của ông đấy ạ. Ông định trốn việc đi chơi mà sao còn giở giọng hách dịch với con cháu thế?” “Ta còn nhiệm vụ đi chúc Tết rất quan trọng đó. Đã thế thì bây làm thay ta đi nhá?” “... Dạ không, con sẽ quay lại ngay. Mình đi thôi Aoi.” Anh Holmes quàng khăn quanh cổ rồi mở cửa bước ra ngoài. “Dạ vâng,” tôi gật đầu. “Tôi cũng đi!” Anh Akihito hăng hái đứng dậy, nhưng bị ông chủ đặt tay lên vai. “Cậu Akihito giữ ý, để tụi nó đi riêng với nhau đi. Thằng nhóc đó chỉ muốn được cùng bé Aoi bận kimono dạo phố chút chút ấy mà.” “Hả…?” Khi bước chân ra khỏi cửa hàng, nghe tiếng nói chuyện của ông chủ và anh Akihito vọng đến từ phía sau, tôi chớp mắt lia lịa. Anh Holmes muốn cùng tôi đi dạo phố trong lúc mặc kimono? ... Đời nào có chuyện đó, ông chủ đang nói linh tinh gì thế không biết. Tôi bất giác quay sang nhìn anh Holmes. Góc nghiêng khuôn mặt của anh ấy thoáng lộ nét yếu ớt, nhưng nhất quyết không chịu quay sang phía tôi. Nhất định là anh ấy đang khó xử vì bị nhét vào câu chuyện xàm xí của ông chủ rồi đây. Chùa “Yata Jizo-son” lập tức hiện ra ngay trước mắt, khoảng cách chẳng đủ để gọi là đi dạo phố. Lối vào chùa được trang trí bằng những chiếc đèn lồng đỏ, mỗi cái chứa một chữ trong tên “Yata Jizo-son”. Bên trong khuôn viên chùa không lấy gì làm rộng rãi được bao lại bởi các ông Địa Tạng bé xinh xinh. “Có nhiều ông Địa Tạng nhỏ ở đây thế này, trông đáng yêu quá.” “Ừ. Ông Địa Tạng ở đây còn gọi là ‘Địa Tạng Đại Thụ Khổ’[11], chuyên thay con người gánh chịu khổ đau đấy.” Một ông Địa Tạng thay loài người chịu khổ ư...? “... Nghe tội nghiệp quá anh nhỉ.” “Gì cơ?” “Em nghĩ nếu mọi người có thể cùng nhau san sẻ những khổ đau ấy, thay vì để ông Địa Tạng gánh hộ thì sẽ tốt hơn nhiều.” “Aoi tốt bụng thật đấy.” “A, không, không có đâu ạ... Mà cảm quan của ông Địa Tạng chắc cũng khác với con người, chắc là không sao đâu anh nhỉ?” Tôi đang huyên thuyên cái gì thế này. Tôi lắc đầu thật mạnh vì xấu hổ. “Cơ mà anh cũng đồng tình. Tự mình gánh chịu tất cả nghe thì giống một nghĩa cử cao đẹp, nhưng thực chất là hành động báng bổ đối với bản thân. Anh tin rằng chỉ khi bản thân hạnh phúc, con người ta mới có thể đối tốt với kẻ khác từ tận đáy lòng.” “Anh nói nghe sâu sắc ghê.” “Thật sao?” “Thật đấy ạ.” Tự hi sinh là sự báng bổ đối với bản thân. Sống trên đời phải biết trân trọng chính mình, cũng giống như yêu thương kẻ khác; điều đó hoàn toàn không giống với thói vị kỉ. Vừa gật gù tâm đắc, tôi vừa cùng anh Holmes đến bỏ tiền vào hòm công đức. “Xin ngài Địa Tạng hãy phù hộ cho chúng con năm nay.” Tâm niệm điều đó trong lòng, tôi nhắm mắt và chắp tay cầu nguyện. Khi tôi khẽ khàng mở mắt ra, tôi trông thấy anh Holmes đang nhìn mình rất đỗi dịu dàng. Ánh mắt chúng tôi đan vào nhau, khiến tôi ngại ngùng phải nhìn tránh đi nơi khác. “Đúng là Aoi mặc kimono đẹp thật.” “E-Em cảm ơn anh.” Má tôi nóng bừng vì lại được khen lần nữa. “Một lần nữa, mong em tiếp tục chiếu cố anh trong năm nay nhé.” “Em cũng mong được anh giúp đỡ ạ. Nhờ anh tiếp tục dạy cho em thật nhiều điều trong năm nay.” “Thật nhiều điều... à? Em muốn biết điều gì nhất?” Thái độ của anh Holmes làm tôi tự nhiên có cảm giác chứa đầy ẩn ý và khiến tim tôi nhảy thót lên một nhịp. “Đ-Điều gì ấy ạ...” Không hổ là trai Kyoto, mặc trang phục truyền thống thì lại càng phá luật hơn lúc bình thường. Tự dưng hỏi tôi muốn biết điều gì, sao tôi có thể... “Ừ, ừm, em muốn tìm hiểu kĩ hơn về ‘bát uống trà Raku’ ạ.” “Bát uống trà Raku?” Anh Holmes mở to mắt, vẻ như bị bất ngờ bởi câu trả lời của tôi. “Trong bữa tiệc cuối năm vừa rồi, em đã không phân biệt được bát uống trà Raku mà Ensho mang đến là thật hay giả, đến giờ vẫn còn ấm ức...” Nói rồi, tôi trút một tiếng thở dài. Ensho đã xuất hiện trong buổi tiệc Tất niên được tổ chức ở nhà Yagashira và đột ngột thách đấu với anh Holmes. Món đầu tiên hắn đưa ra là đồ nhái bát trà Raku. Anh Holmes phát hiện ra nó là giả trong nháy mắt, trong khi tôi thì chẳng phân biệt được… “Rõ ràng em đã từng được ngắm bát trà Raku thật, vậy mà...” Nghe tôi giãi bày, anh Holmes gật đầu thông cảm. “Nhưng Aoi chưa từng trông thấy bát trà ‘Keinyu’ mà Ensho làm giả mà. Đối với một người thiếu kinh nghiệm như Aoi, việc đánh hơi ra mùi đồ giả từ một món đồ cổ em chưa được nhìn thấy từ trước đương nhiên sẽ khó khăn. Tuy vậy, anh hiểu được tâm trạng bất mãn của em, nên trong kì nghỉ đông tới, anh định sẽ giảng cho em thật kĩ về bát trà Raku đấy.” “V-Vâng, rất mong anh giúp đỡ ạ!” “Anh cũng vậy. À phải rồi, trước khi quay về cửa hàng, em có muốn tranh thủ qua đằng kia uống cà phê không?” Anh Holmes chỉ vào một quán cà phê, hay nói đúng hơn là một phòng trà mang phong cách thời đầu Chiêu Hoà. Ra khỏi khuôn viên của ngôi chùa nhỏ sẽ thấy nó nằm ở hướng chếch chéo. Đó là nơi quản lí thường đến mỗi khi bí ý tưởng hoặc cần họp mặt với biên tập viên. “Ơ, mình không cần về ngay ạ?” “Chỉ một lát thôi, không sao đâu,” anh Holmes tươi cười đáp rồi tiến về phía phòng trà. “Phòng trà” quả thật là tên gọi phù hợp nhất dành cho nơi ấy. Đôi khi khách cũng phải xếp hàng để được vào phòng trà nằm trên đường Teramachi này, nhưng hôm nay chúng tôi vượt qua cửa ải đó khá dễ dàng, có lẽ do bây giờ đang là buổi sáng. Ánh đèn dịu nhẹ, bộ sô pha bọc da màu nâu sẫm và những chiếc ghế gỗ. Mọi khi tôi vẫn hay đi ngang qua đằng trước cửa tiệm này, nhưng bước vào thì đây là lần đầu tiên. Nghĩ lại, nếu không tính quán cà phê, số lần tôi ghé vào những phòng trà kiểu này chỉ đếm trên đầu ngón tay. “... Quý khách đã muốn gọi đồ chưa ạ?” Một chị phục vụ tiến đến nhận yêu cầu gọi món. “Cho tôi một tách cà phê,” anh Holmes trả lời ngay không do dự, sau đó nhìn sang tôi, “còn Aoi muốn uống gì?” “Dạ, em cũng cà phê ạ.” Thấy tôi rụt rè đáp, khóe miệng anh Holmes hơi nhếch lên. “Nhắc mới nhớ, em có nói từ giờ sẽ chuyển sang uống cà phê đen nhỉ.” “Dạ vâng,” tôi gật mạnh. Vào đêm giao thừa, sau khi viếng đền Yasaka nhân dịp đầu năm, chúng tôi đã xin “lửa Okera” rồi về căn hộ chung cư của anh Holmes ở Yasaka và được anh ấy pha cà phê cho uống. Không nằm ngoài dự đoán, tách cà phê đen đầu tiên trong đời tôi có vị đắng ngắt. Tuy chưa thể thẩm thấu nổi cái ngon của nó, tôi vẫn nhận ra được vị ngọt đâu đó bên trong. Tôi có dự cảm rằng nếu tiếp tục uống, biết đâu một lúc nào đó tôi cũng có thể thấy nó ngon miệng. Đúng như miêu tả của anh Holmes, bên trong căn hộ nơi bác quản lí và anh ấy sống hết sức bình thường, nhưng có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh phố cổ Gion với tháp Yasaka từ cửa sổ, và đó mới chính là điểm nhấn. Tôi còn nhớ mình đã cùng anh Holmes và anh Akihito trò chuyện tới sáng, rồi xúc động đến suýt rơi lệ khi nhìn thấy tháp Yasaka hiện lên dưới ánh bình minh... Trong khi tôi đang say sưa hồi tưởng, chị phục vụ đã quay lại và đặt cà phê lên bàn. Không hổ danh phòng trà có truyền thống lâu đời. Cà phê ở đây xem ra cũng rất ngon. Trong lúc tôi đang nheo mắt tận hưởng hương thơm nồng nàn của cà phê, chị phục vụ tươi cười hỏi. “Quý khách có dùng thêm fraiche không ạ?” ... Fresh[12]? Tôi còn đang ngơ ngác thì anh Holmes đã nhanh nhảu từ chối: “Không ạ, cảm ơn chị.” “Quý khách thì sao ạ?” Bị hỏi đến, tôi vội lắc đầu mặc dù chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. “Fresh” là gì vậy? Không lẽ ở đây phục vụ cả hoa quả tươi ăn kèm? Thế thì từ chối có hơi phí nhỉ. “Vậy chúc quý khách ngon miệng ạ.” Chị phục vụ cúi chào và đi khỏi. Tôi vu vơ nhìn theo bóng lưng chị ấy. Sau đó, anh Holmes chợt ngó mặt tôi. “Aoi không cần fraiche thật à?” “Dạ? A-Anh cho rằng em cần ‘fresh’ ạ?” “Ừ, vì em chắc chưa quen,” anh Holmes nói thế rồi cầm tách cà phê lên. Chưa quen? “Th-Thế chẳng lẽ anh Holmes không cần ‘fresh’ ạ?” “Ừ, nhìn chung là không cần,” anh ấy thản nhiên đáp. Nhìn chung là không cần. Người đã quen không cần “fresh”, nhưng ai chưa quen thì sẽ cần sao? ... Mà chính xác là quen với cái gì mới được. Thấy tôi cúi mặt ngẫm nghĩ đăm chiêu, anh Holmes nghiêng đầu với vẻ khó hiểu. “Sao vậy Aoi? Nếu là chuyện cửa hàng thì em không cần lo đâu. Có việc gì mọi người sẽ gọi điện.” “Dạ không, chỉ là, về ‘fresh’ ấy ạ.” “À, em đổi ý rồi à?” “Dạ không, em chỉ đang thắc mắc... ‘fresh’ là gì thế ạ?” Tôi hỏi thẳng luôn. Anh Holmes nghe xong liền tròn mắt, có vẻ thực sự bất ngờ. “Khoan, Aoi, em không biết fraiche là gì sao?” Anh ấy bối rối hỏi lại, làm mặt tôi cũng nóng bừng. Trước giờ, cho dù tôi có thắc mắc ngớ ngẩn cỡ nào, anh Holmes cũng sẽ tận tình giải thích cho tôi thay vì tỏ ra ngạc nhiên hay khinh thường, vậy mà câu hỏi vừa rồi của tôi lại khiến anh ấy có biểu cảm như thế. Nhất định là do tôi đã hỏi một cầu cơ bản đến mức trẻ con cũng thừa biết rồi. “E-Em xin lỗi vì đến chuyện đó cũng không biết. Tóm lại ‘fresh’ là thứ người chưa quen sẽ cần, nhưng ai đã quen rồi thì không cần nữa, đúng không ạ? Thế tức là nó không phải hoa quả hay cái gì đấy tương tự nhỉ?” Tôi vừa thẹn vừa ngượng, cất giọng hỏi tía lia. Anh Holmes đang ngây người ra, bỗng bật cười khúc khích vẻ như không nhịn nổi nữa. “Phải đấy. Có lẽ vì anh đã cọ xát quá nhiều, không còn sự tươi mới nữa, nên mới không cần đến fresh. Nhưng em thì vẫn còn non[13]...” “D-Dạ…” “Mà không, có khi chính những người như anh mới cần đến fresh. Anh cảm thấy mình sẽ nhớ lại được ‘điều gì đó’ đã bị lãng quên.” “Ư-Ừm, cái đó có tác dụng thần kì đến thế ạ?” “... Thôi thì... em cứ uống thử tách cà phê kia đi là em sẽ biết mình bây giờ có cần fraiche hay không.” Nghe anh Holmes gợi ý, tôi nhận ra rằng mình vẫn chưa hề động đến tách cà phê, bèn cầm lên nhấp thử một ngụm. Đúng như những gì tôi suy đoán được từ mùi hương nồng nàn ấy, cà phê ở đây đắng hơn hẳn tách cà phê anh Holmes đã pha, làm tôi bất giác nhằn mặt lại. “C-Cái này, hơi đắng với em ạ.” “Thế à?” Anh Holmes gật đầu, sau đó cất tiếng gọi phục vụ. “Xin lỗi, cho chúng tôi fraiche với ạ.” ... Hả? Tôi còn chưa kịp lúng túng thì một phần kem pha cà phê đã được đặt trên bàn. “C-Cái này là kem sữa dùng để pha với cà phê đúng không ạ?” “Ừ, ở Kanto gọi như thế nhỉ?” “V-Vâng ạ.” Có thể gọi là sữa hoặc kem béo. “Ở Kansai người ta gọi là ‘fraiche’. Aoi cứ dùng tự nhiên. Dù sao em cũng vẫn còn ‘fresh’.” Nhìn anh Holmes nhoẻn miệng cười, hai má tôi nóng rực. H-Hoá ra là từ địa phương à? Tôi xấu hổ đến độ muốn xì khói trên đầu, trong lúc đó loay hoay bỏ sữa, hay còn gọi là “fraiche”, vào tách của mình, rồi một lần nữa đưa cà phê lên miệng. “... Anh lại còn cố tình nói cái kiểu úp mở như thế. Đúng là trai Kyoto nham hiểm.” “Xin lỗi. Chỉ tại em đáng yêu quá.” Anh Holmes cười híp cả mắt, làm mà tôi đã nóng lại càng nóng hơn. Đó là sự cố nho nhỏ xảy ra trong không gian xưa cũ của một phòng trà cổ điển. Năm nay vẫn vậy, ngay từ ngày làm việc đầu tiên, tâm trạng của tôi đã bị chàng trai này xoay như chong chóng. CHƯƠNG 1 GIỌT LỆ CỦA BÚP BÊ SỨ C 1 ửa hàng đồ cổ “Kura” thuộc khu mua sắm Teramachi Sanjo có rất nhiều mặt hàng. Từ bát trà Shino được mệnh danh là kiệt tác giá trị nhất thời kì Momoyama, đĩa Kokutani, cho đến chiếc bình thời nhà Minh Trung Quốc. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi được đến đây làm thêm và chiêm ngưỡng đủ loại đồ cổ mỗi ngày. Tất cả đều đẹp xuất sắc, ngắm bao nhiêu cũng không thấy chán. Trước khi trở thành nhân viên bán thời gian ở đây, tôi chưa từng say mê mĩ nghệ cổ đến thế. Tuy nhiên, vẫn có một thứ tôi không sao thích nổi. Đó là búp bê sứ... loại búp bê cổ của phương Tây. Áo cánh trắng đầy diềm xếp nếp cùng dây ruy băng đỏ thắt trước ngực, và chiếc chân váy màu đỏ bên dưới. Suối tóc vàng mềm mại, cặp mắt xanh long lanh đượm vẻ u sầu. Con búp bê rõ ràng đẹp là vậy... không, có lẽ chính bởi vẻ đẹp ấy mà mỗi lần trông thấy nó, một cảm giác lạnh buốt lại chạy dọc sống lưng tôi. Ngay từ lần đầu đặt chân đến “Kura” và bắt gặp con búp bê, tôi đã cảm thấy nó thật đáng sợ. Chẳng hiểu có phải do ấn tượng ấy vẫn còn đọng lại trong tôi hay không, mà đến giờ con búp bê đó vẫn làm tôi nghi ngại. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi sẽ sao lãng việc lau chùi nó. Tôi vẫn chải tóc, phủi bụi, rồi cẩn thận đặt con búp bê sứ ngồi trên ghế. Có điều, tôi phải nhìn đi chỗ khác ngay sau đó, và tình cờ hướng ánh mắt về phía cuốn lịch để bàn. Mùng tám tháng Giêng, Tết và Lễ Thất Thảo[14] đều đã kết thúc. Phố phường Kyoto đến tận hôm qua vẫn còn nườm nượp khách du lịch mặc kimono, giờ bình lặng hẳn. Thứ không thay đổi chỉ còn cảm giác buốt lạnh thấm qua khe chỉ, mặc cho tôi đã mặc hàng tá lớp quần áo trên người. Đã là năm thứ hai đón mùa đông ở Kyoto, nhưng tôi vẫn không tài nào quen được với cái lạnh này. May mắn là không khí bên trong tiệm “Kura” bao giờ cũng ấm áp... Tôi bất chợt nhận ra ngoài cửa sổ. Vẫn đang trong kì nghỉ đông nên vẫn còn nhiều khách du lịch. Khách du lịch à... “... Anh Holmes, theo anh thì người từ Kanto đến Kyoto du lịch nên tham quan những nơi nào ạ?” Tôi ngoảnh lại, mắt hướng về phía anh Holmes đang ngồi trước quầy thu ngân. “Tham quan ấy hả?” Anh Holmes ngẩng mặt lên nhìn tôi. “Vâng.” “Có người bạn nào ở Saitama hỏi em à?” Anh Holmes ngay lập tức đoán ra như thường lệ. “Dạ vâng,” tôi gật đầu. “Sắp tới, bạn em ở Saitama sẽ đến Osaka dự lễ cưới của họ hàng. Cậu ấy bảo đợt đấy có thể tranh thủ ghé qua Kyoto một ngày, nên muốn gặp em. Tiện thể nhờ em dẫn đi thăm chỗ nào đó hay ho nữa.” Có thể gặp lại bạn mình là điều đáng mừng. Nhưng yêu cầu được “đi thăm chỗ nào đó hay ho” của cậu ấy quả thật gây cho tôi không ít áp lực. Đã một năm rưỡi trôi qua kể từ khi tôi chuyển đến sống ở Kyoto. Nhờ làm thêm tại cửa hàng đồ cổ “Kura” mà tôi được dẫn đi thăm thú nhiều nơi, từ đền Shimogamo gần nhà, chùa Ninna-ji, chùa Hyakumanben Chion ji, chùa Kurama-dera, đền Kibune, nhà hàng trên sông, cho đến Con đường Triết Học, chùa Ginkaku-ji, chùa Tofuku-ji, chùa Suzumushi-dera, Arashiyama, chùa Tenryu-ji, chùa Genko-an... Nhưng nếu được hỏi nơi nào thú vị nhất, tôi nhất định sẽ băn khoăn. Có quá nhiều địa điểm tuyệt vời, tôi không chọn được. Chẳng hạn như mùa hoa anh đào nở, tôi sẽ khuyên người ta ghé qua chùa Ninna-ji hoặc Con đường Triết Học. Tháng Năm thì thăm đền Shimogamo, mùa hè thì đến Kurama với Kibune chơi, còn mùa lá đỏ thì có thể giới thiệu chùa Tofuku-ji, Genko-an hoặc Nanzen-ji. ... Nhưng mùa đông nên đi đâu bây giờ nhỉ? Làm một chuyến viếng thăm tám ngôi đền dọc đường Shinkyogoku như tôi đã làm dịp cuối năm nghe chừng cũng được, cơ mà... “Bạn em chỉ đến Kyoto đúng một ngày thôi à?” “Vâng ạ.” “Kiểu đấy thì chắc chỉ ban ngày thôi nhỉ?” “Em cũng đoán thế.” Khả năng cao là bạn tôi sẽ rời Osaka từ sáng, gặp nhau trước giờ trưa, sau đó giải tán vào cuối buổi chiều. “Người bạn ấy của em có thường xuyên đến Kyoto chơi không?” “Dạ không, thấy bảo đây là lần đầu tiên cậu ấy đến Kansai.” “Kể cả khi đi dã ngoại học tập cũng chưa từng đến Kyoto sao?” “Vâng, hình như trường cấp hai của cậu ấy tổ chức dã ngoại ở Hokkaido.” “Nếu vậy thì phương án chuẩn mực là hợp lí nhất rồi.” Thấy anh Holmes gật gù với vẻ tâm đắc, tôi nghiêng đầu ngơ ngác, “Chuẩn mực?” “Đền Yasaka, chùa Kiyomizu-dera, sau đó đi dạo một vòng quanh phố cổ Gion là ổn nhất. Những địa điểm này tuy hơi bị bám sát chính thống, nhưng bạn em sẽ được tận hưởng một Kyoto đúng chất Kyoto nhất có thể.” “Ra vậy, có lẽ anh nói đúng. Makoto chắc cũng sẽ hài lòng với phương án này.” Nghĩ lại thì bản thân tôi cũng mới đến chùa Kiyomizu-dera đúng một lần trong chuyến dã ngoại hồi cấp hai. Từ lúc chuyển nhà tới giờ, tôi vẫn chưa có dịp ghé qua, nên bản thân cũng muốn quay lại thêm lần nữa. Giờ đây, tôi đã trở thành “cư dân Kyoto”, chắc bạn tôi đang kì vọng về một người hướng dẫn tham quan cực kì chu đáo, nhưng với cái tình trạng này thì chẳng biết tôi có thể hộ tống cậu ấy một cách trôi chảy không đây? Cậu ấy đã đến tận Kyoto để gặp tôi, nên tôi muốn cậu ấy có một khoảng thời gian vui vẻ... “Makoto? Người bạn của em... không lẽ là nam giới?” Anh Holmes khẽ hỏi, mắt vẫn nhìn xuống cuốn sổ cái. Tôi lắc đầu. “Dạ không, là con gái ạ.” “Vậy à?” Anh Holmes ngẩng mặt lên và cười toả nắng. “Em vẫn còn duy trì quan hệ bạn bè với cô bạn ấy à?” Chắc hẳn anh ấy đang ám chỉ vụ xích mích giữa tôi, bạn trai cũ và bạn thân của tôi. Khi ấy, trong lòng tôi đã mất đi rất nhiều bạn bè. “À, vâng. Cậu ấy ở một nhóm khác, hay nói đúng hơn là bạn thân ở cùng câu lạc bộ thôi.” “Ra vậy. Em có hoạt động câu lạc bộ à?” “Vâng, mặc dù từ khi chuyển đến trường cấp ba ở đây, em đã nghỉ hẳn.” Tôi bây giờ dồn hết tâm trí cho việc làm thêm, thời gian đầu mà tham gia câu lạc bộ nữa. “Câu lạc bộ ngày xưa của Aoi là câu lạc bộ thể thao à?” Thấy anh ấy hỏi như thể đã chắc chắn, tôi gật đầu, trong lòng chợt hoang mang. “Dạ, vâng. Trông em giống thành viên câu lạc bộ thể thao lắm ạ?” “Ừ, mới đầu, thấy Aoi nói chuyện với người lớn rất lễ phép, thưa gửi vâng dạ đàng hoàng, anh đã đoán rằng em rèn được thói quen ấy trong môi trường đề cao thứ bậc của câu lạc bộ thể thao. Là câu lạc bộ tennis đúng không?” “V-Vâng, đúng rồi ạ. Chết, có phải do bắp tay phải của em to quá không ạ?” Tôi bất giác xoa cánh tay phải của mình. Suốt bốn năm từ đầu cấp hai cho đến hết lớp Mười, có lẽ do tôi tập tennis hăng hái quá, nên cánh tay phải của tôi giờ hơi mập, nói thật là có làm tôi thấy đôi chút tự ti. “Không, tay thuận của ai cũng dễ to, nên anh không xác định câu lạc bộ của em dựa vào cánh tay. Chỉ là anh có cảm giác Aoi sẽ thích những môn thể thao cá nhân như điền kinh hoặc tennis hơn mấy môn đồng đội kiểu bóng rổ với bóng chuyền. Nhưng trông em không giống vận động viên điền kinh, nên anh đoán là tennis.” Đúng là tôi thích chơi thể thao cá nhân hơn đồng đội, nên mới chọn tennis. Tôi kinh ngạc đến mức không thốt nên lời. Anh Holmes tài thật đấy. “Chơi tennis cũng vui, hay khi nào em chơi cùng anh đi.” “Dạ, anh Holmes cũng chơi tennis ạ?” “Ừm. Trong số các môn thể thao, anh nghĩ mình giỏi tennis nhất.” “Ồ, cảm giác anh sẽ hợp với môn đó thật.” Người toát ra vẻ lịch lãm thế này mà còn chơi tennis, khác gì hoàng tử được vẽ trong tranh. “Em có biết không? Chiến thắng trong môn tennis thực chất phụ thuộc vào mức độ thâm hiểm của người chơi.” “Dạ?” “Riêng khoản xảo quyệt đánh vào tâm lí đối phương là anh rất tự tin. Lòng dạ anh đen tối không phải để trưng đâu nhé.” Nhìn anh Holmes khúc khích cười, tôi gật đầu trong câm lặng. … Tôi xin rút lại câu ban nãy. Người con trai này tuyệt đối không phải “hoàng tử được vẽ trong tranh”. Đúng, anh Holmes là người tốt bụng, ga-lăng, ôn nhu, tao nhã, y như vẻ bề ngoài. Tuy nhiên, anh ấy còn là một kẻ lập dị, đôi lúc hơi nham hiểm. Ương ngạnh, hiếu thắng, đồng thời cũng có phần xấu bụng. Ban đầu, tính cách này của anh ấy không ít lần khiến tôi cảm thấy hoang mang, nhưng giờ tôi đã quen hẳn. Những nét kì quái hay bản chất hai mặt của anh ấy cũng không còn làm tôi ngạc nhiên nhiều như trước nữa. “Phải rồi, anh biết một tuyến đường tuyệt vời để đi từ đền Yasaka đến chùa Kiyomizu-dera, em có cần anh chỉ cho không?” Được anh Holmes đề xuất như vậy, tôi mừng rỡ nhào tới và reo lên: “Th-Thật ạ?” Tôi còn đang lo mình không thể làm tốt nhiệm vụ dẫn đường, được vậy thì còn gì bằng nữa. “Thật. Mà nhắc mới nhớ, anh sống ở khu lân cận, nhưng đã nhiều năm không ghé chùa Kiyomizu-dera. Thi thoảng anh cũng muốn đến đấy chơi.” “Đã mất công làm thì em muốn giúp bạn em có một chuyến tham quan vui vẻ. Cho nên anh nói vậy làm em mừng quá.” “Thế Thứ Bảy tuần này thì sao nhỉ? Anh sẽ nhờ bố trông cửa hàng, còn chúng ta cùng đi viếng đền Yasaka, sau đó lên đường đến chùa Kiyomizu dera nhé?” Anh Holmes dịu dàng mỉm cười, mắt híp lại như hình vòng cung. Tôi bèn hăng hái gật đầu và đáp: “D-Dạ được ạ!” Đền Yasaka, sau đó là chùa Kiyomizu-dera. Đúng là một lộ trình cực kì chuẩn mực, nhưng lật ngược lại vấn đề thì rõ ràng không gì có thể đánh bại chuẩn mực hết. Nghĩ đến việc dù sống trong thành phố mà vẫn được trải nghiệm cảm giác đi du lịch, tôi thấy vô cùng háo hức. Trống ngực tôi đập rộn ràng trong lúc đánh dấu vào cuốn lịch để bàn. 2 T hế rồi Thứ Bảy cũng đến. Tôi hăng hải chuẩn bị từ sáng sớm, sau đó leo lên xe buýt di chuyển đến điểm hẹn của chúng tôi là đền Yasaka. Đường lên chùa Kiyomizu-dera có một đoạn dốc, nên tôi quyết định đi giày đế thấp. Bổ sung thêm là không riêng gì chùa Kiyomizu-dera, địa điểm tham quan ở Kyoto chủ yếu là đền chùa miếu mạo. Ở đâu cũng có cầu thang với mặt đường rải sỏi, nên đi giày cao gót sẽ rất phiền. Tôi dự định sẽ báo trước chuyện này cho cả bạn tôi. Đúng rồi. Hồi trước tôi cũng có lần nổi hứng ghé qua ngôi đền gần nhà, lúc ấy tình cờ lại đi dép sandal, thế là bị sỏi lọt vào dưới bàn chân, khổ không để đâu cho hết. Bởi vậy, hôm nay tôi đã cân nhắc đi giày thể thao, cơ mà nghĩ lại thì lâu lắm mới có dịp ra ngoài chơi, nên cuối cùng quyết định chọn một đôi ủng ngắn thiết kế vừa xinh lại vừa dễ đi lại. Biết là suy nghĩ này có thể sẽ khiến anh Holmes thấy phiền hà, nhưng kể cả khi buổi hôm nay chỉ nhằm mục đích nghe anh ấy giảng về danh lam thắng cảnh, thì cái việc hai người cùng nhau viếng đền Yasaka và chùa Kiyomizu-dera... cảm giác cứ như một buổi hẹn hò. Không, không được, tôi đang mơ mộng gì thế, đã quyết tâm giữ khoảng cách nhất định với người ta rồi mà. Dẫu quở trách bản thân như vậy, tôi vẫn cảm nhận được con tim bỗng chốc đập rộn ràng. Tôi kiểm tra bộ dạng của mình phản chiếu trên kính cửa sổ rồi lấy ngón tay chỉnh lại tóc mái. Sau khi xuống xe ở bến Gion, tôi lập tức trông thấy lối vào đền Yasaka. Chiếc cổng đỏ khổng lồ nằm ở cuối đường Shijo được gọi là “cổng Tây[15]”. Tôi đã hẹn gặp anh Holmes dưới chân cầu thang đá trước cổng. Tôi tới nơi sớm hơn giờ hẹn một lúc, nhưng với tính cách của anh Holmes thì kiểu gì anh ấy chẳng đến trước tôi. Tôi rảo bước, cảm thấy áy náy nếu bắt anh ấy phải chờ lâu. Đúng lúc tôi thấy nhẹ cả người vì chưa thấy bóng dáng anh Holmes ở chỗ hẹn... “Cô bé dễ cưng ơi, có muốn đi chơi với anh hôn?” Một giọng nói vang đến từ đằng sau làm tôi phải giật mình ngoảnh lại. Thấy anh Holmes đứng ở đó với nụ cười tinh quái, tôi liền trố mắt ra. “A-Anh Holmes!?” “Thứ lỗi cho anh nhé.” “L-Lại còn thứ lỗi gì nữa ạ? Anh đứng sau em từ lúc nào thế?” Tại vì tôi chẳng hề thấy bóng dáng anh Holmes khi đi từ bến xe buýt đến chân cầu thang. “Hôm nay anh tới sớm, nên tranh thủ đi dạo trong công viên Maruyama một lát, lúc quay lại thì trông thấy em đang tất tả đi đến điểm hẹn từ bến xe buýt, thế là không kìm được lòng...” Anh Holmes cười hì hì, khiến tôi tự nhiên thả lỏng. “Tự dưng anh đứng đằng sau lưng thốt ra một câu bằng tiếng Kansai nghe như của mấy tên ghẹo gái ngoài đường, làm em cứ tưởng anh là người khác đấy ạ.” “Lúc quay lại em còn lườm anh bằng ánh mắt rất đáng sợ nữa nhỉ.” “D-Dạ, em xin lỗi.” Tôi lườm anh ấy ghê đến thế à? “Không sao. Trên đời đầy những gã đàn ông chẳng ra gì, nếu có kẻ nào bắt chuyện với em như thế thì đừng ngại, cứ đuổi sạch chúng đi.” “Làm gì có, vừa rồi là lần đầu tiên nam giới bắt chuyện với em ngoài phố như vậy đấy.” Thấy tôi nhún vai nói vậy, anh Holmes nheo mắt có vẻ thích thú. “Thế thôi mình đi nhé.” “Dạ vâng.” Chúng tôi leo lên cầu thang đá ở cổng Tây. Những bậc thang đá rộng mênh mang tiếp nối đến điện thờ chính. Những sạp hàng rong dựng san sát dọc hai bên đường, bầu không khí vui vẻ cũng khiến tôi trở nên phấn khích. “Ồ, ở đây vẫn chưa hết Tết anh nhỉ.” “Không phải thế, mà ngày nào người ta cũng dựng một loạt sạp hàng quanh đền này như trong lễ hội vậy.” “Ra vậy, không hổ danh đến Yasaka. Đêm hôm nọ cũng hoành tráng thế mà.” Phải rồi, tôi, anh Holmes và anh Akihito đã đến viếng ngôi đền này vào dịp đầu năm. Sau đó, tại căn hộ ở Yasaka, ba chúng tôi còn chơi tú lơ khơ với bài hoa thâu đêm, và cùng nhau đón ánh mặt trời đầu tiên của năm mới. ... Đêm ấy mới tuyệt vời làm sao. “... Em sao thế?” Tôi đang chìm đắm trong suy tư thì thấy anh Holmes khẽ ngó mặt tôi, làm tim tôi nảy thót lên một cái. “Em chỉ đang nhớ đến chuyện xảy ra trong đêm giao thừa thôi ạ. Mà nghĩ kĩ thì lần nào em với anh Holmes đi chơi, anh Akihito cũng có mặt nhỉ.” Tôi vừa dứt lời, anh Holmes đột nhiên nhíu mày quan sát xung quanh, rồi mới đặt tay lên ngực với vẻ nhẹ nhõm. “S-Sao thế ạ?” “À không, chỉ là dân gian có câu “Nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến liền, nên anh sợ anh Akihito sẽ lại thò mặt ra từ xó xỉnh nào đó. Hành tung của anh ta vốn khó lường mà.” “Hôm nay thì không đâu ạ. Hình như anh ấy đang tham gia buổi ghi hình trực tiếp ở trường quay tại Tokyo.” “Vậy à. Em biết rõ thế.” “Hồi trước, em bị ép đăng kí tạp chí trực tuyến của anh Akihito qua thư điện tử. Trong đấy có ghi: ‘Nhớ theo dõi tôi trên sóng truyền hình trực tiếp nhé!’ Anh Holmes hình như cũng được nhờ đăng kí phải không ạ?” Ừ “Ừ, đại loại thì anh cũng có đăng kí rồi, nhưng nội dung của nó bình thường không hấp dẫn anh cho lắm, nên anh cũng ít đọc.” Tội nghiệp anh Akihito. Sau khi leo hết các bậc thang, chúng tôi trông thấy chính điện của đền Yasaka ở phía bên kia sân đền rộng rãi. Trước cửa chính điện treo ba quả chuông lớn cách nhau đều chằn chặn. Đằng nào cũng cất công đến đây, tôi đứng trước quả chuông ở giữa, sau khi bỏ tiền lễ vào hòm thì cầm lấy sợi dây thừng to bản và cùng anh Holmes rung chuông. Sau hai vái, hai cái đập tay và cầu khấn quen thuộc: “Xin hãy trừ tà cho chúng con, tẩy trần cho chúng con...” chúng tôi lạy thêm một lần nữa rồi rời khỏi chính điện. Sân đến lúc này đang thật là huyên náo. “... Đền Yasaka đúng là lúc nào cũng nhộn nhịp anh nhỉ.” “Ừ. Dù sao nó cũng là ngôi đền trấn giữ khu phố cổ Gion, biểu tượng của Kyoto, mà vị thần chính được thờ đây còn là Susanoo no Mikoto nữa.” “Susanoo no Mikoto được nhiều người thờ phụng lắm ạ?” “Chính xác hơn thì Susanoo no Mikoto trong hình dung của anh là một vị thần yêu lễ hội, tràn đầy nhiệt huyết và sức sống. Có lẽ vì vậy mà ngài mới lôi kéo được mọi người đến với ngôi đền này.” Vừa trò chuyện, chúng tôi vừa ra khỏi đền qua cổng Nam[16] giống đợt đi lễ đầu năm. Khác với đường chính, lối này thưa thớt bóng người nên khá dễ đi. Xung quanh chỉ có lác đác vài quán cà phê với cửa hàng tạp hoá truyền thống, bên cạnh đó còn có thể bắt gặp những cỗ xe người kéo. Sau khi đi đến cuối đường và rẽ trái, tôi bị bất ngờ bởi một toà tháp năm tầng bỗng nhiên xuất hiện gần như ngay trước mắt. “O-Oa, cứ như tháp năm tầng đột nhiên hiện ra ấy ạ?” “Ừ, rời khỏi đền Yasaka bằng cổng Nam và men theo lối đi một lúc sẽ ra được đường Yasaka và nhìn thấy tháp Yasaka ngay trước mặt. Nó xuất hiện bất thình lình, cảm giác cứ như ảo thuật ấy nhỉ?” “V-Vâng. Làm em giật cả mình.” Tôi không hề trông thấy toà tháp suốt cả chặng đường; thế mà mới rẽ một cái, nó đã bất ngờ hiện lên. Cảnh tượng này mang đến cho tôi tâm trạng tựa như lồng ngực bị bóp nghẹt. “Anh rất khuyến khích đi theo lộ trình này. Khi nào dẫn bạn đi chơi, Aoi nhớ tham khảo nhé,” anh Holmes giơ ngón trỏ và mỉm cười. Tôi bèn gật đầu chắc nịch. “Vâng, em cũng mong có thể dẫn bạn em đi theo lối này ạ.” Nói rồi, tôi ngẩng lên nhìn toà tháp năm tầng lừng lững trước mặt và buột miệng. “Mà em không nghĩ ‘tháp Yasaka’ lại cách xa đền Yasaka như vậy.” “Đấy là bởi toà tháp này không thuộc đền Yasaka, mà là tháp năm tầng của chùa Hokan-ji. Nó thường được gọi với cái tên tháp Yasaka vì nằm trên đường Yasaka thôi.” “Vậy nghĩa là tháp Yasaka không liên quan gì đến đền Yasaka cả... A, cũng phải, những toà tháp như thế này thường có ở chùa chứ không phải đền. Xin lỗi anh vì em vẫn cứ là một con nhóc cấp ba tồ tẹt.” “Không sao, không sao.” Chúng tôi cứ thể leo lên sườn dốc như đang tản bộ. Hai bên con dốc hẹp có rất nhiều hàng quán. Chúng tôi cũng thấy cả biển hiệu của quán ăn nổi tiếng nhờ yudofu[17] hay cửa hàng chuyên kinh doanh bột ớt bảy vị[18], bát trà gốm, quạt tay. Trên đường đến dốc Sannenzaka, tôi trông thấy tấm biển để “Sanneizaka” bèn nghiêng đầu thắc mắc. “Sanneizaka?” “Tên của dốc Sannenzaka vốn được viết như vậy đấy. Chuyện kể rằng chính thất của Toyotomi Hideyoshi là phu nhân Nene muốn có con, nên đã đến chùa Kiyomizu-dera hành lễ. Từ đó, con dốc này được đặt cho cái tên ‘Sanneizaka’, có nghĩa là ‘cầu sinh được con’[19]”. “Còn dốc Ninenzaka thì sao ạ?” “Nó ở trước dốc Sanneizaka, còn gọi là Sannenzaka, nên nghiễm nhiên trở thành dốc Ninenzaka[20] thôi.” “Nghe cứ tuỳ tiện thế nào ấy nhỉ.” “Công nhận,” anh Holmes tỏ vẻ đồng tình rồi lập tức lên tiếng, “à, em đợi anh một chút nhé,” trước khi bước vào một cửa hàng ở lưng chừng con đường gồm các bậc cầu thang. ẳ Có chuyện gì thế nhỉ? Chẳng lẽ anh ấy quen ai ở cửa hàng này? Tôi còn đang ngẩn tò te thì anh Holmes đã quay lại, tay cầm hai gói ajari mochi[21]. “Em cầm một gói đi. Mua ajari-mochi ở đây rồi vừa ăn vừa leo dốc lên chùa cũng là một thú vui tao nha đấy.” “O-Oa, em cảm ơn anh nhiều ạ.” Cũng lâu rồi tôi mới lại được ăn ajari-mochi. Tôi bóc roẹt giấy gói rồi bỏ tột chiếc bánh tròn trịa vào miệng. Bánh hơi ấm ấm, lại còn dẻo dẻo, quả thật rất ngon. “A... Ajari-mochi ở đây còn ấm nên ngon ghê. Cứ như bánh mới làm vậy.” “Nhỉ?” Anh Holmes cũng đút ajari-mochi vào miệng, rồi chúng tôi tiếp tục leo hết bậc thang. Hôm nay là Thứ Bảy nên tương đối đông người. Khách tham quan bình thường, học sinh đi dã ngoại, khách du lịch ngoại quốc, ai nấy đều đang vui vẻ trèo lên con dốc. Những cửa hàng đồ lưu niệm nằm liền nhau cũng náo nhiệt chẳng kém đoàn khách du lịch là bao. Dù đến đây vào lúc nào thì bầu không khí khiến con tim người ta đập rộn ràng vẫn luôn hiện diện. Nhìn lên dốc là thấy được cổng hai tầng romon đỏ chót. Phía trước cầu thang đã có rất nhiều người đang thi nhau chụp ảnh kỉ niệm. Tính đến giờ, tôi đã được anh Holmes dắt đi nhiều nơi, nhưng có lẽ không ngôi chùa nào được bao bọc bởi bầu không khí sôi nổi, tươi vui như thế này cả. Có rất nhiều những ngôi đền, ngôi chùa hết sức trang nghiêm, mang theo sự căng thẳng khiến người ta tưởng như bị chèn ép. Nhưng hẳn là không có mấy nơi có thể khiến tâm trạng khách đến thăm trở nên rạo rực một cách vô điều kiện. “... Em lại một lần nữa cảm thấy chùa Kiyomizu-dera thật là một nơi quá đỗi tuyệt vời,” tôi buột miệng cảm thán. “Công nhận. Cho dù đến vào thời điểm nào, nơi này cũng ngập tràn năng lượng. Tính cả bầu không khí trên đường lên chùa, chỉ cần tới đây là ẳ sẽ có được trải nghiệm khác hẳn đời thường,” anh Holmes cũng gật gù và tỏ ra tâm đắc. Chúng tôi lên cầu thang đá, chui qua cổng romon rồi bước vào khuôn viên chùa. Tuy có rất nhiều người nhưng cũng chưa đến mức chen chúc hỗn loạn. Như thường lệ, anh Holmes nhanh nhẹn trả tiền vé rồi trao cho tôi tấm vé vào cửa trông như có thể được dùng để đánh dấu sách kèm câu nói: “Của em đây.” “... Em cảm ơn ạ.” Giá vé ở đây cảm giác rẻ hơn những ngôi chùa khác. (Chắc tại nhiều người lui tới nên họ tính giá cũng thoải mái hơn?) Bước vào trong chùa, tôi trông thấy ở bên trái có một cây thiết trượng lớn được cho là của Benkei[22] ngày xưa. Tôi vẫn còn nhớ vật này. Trong chuyến dã ngoại học tập, mọi người đã vây quanh nó và tấm tắc khen “oách quá”, “ngầu quá”. “Cây trượng kia làm em thấy hoài niệm ghê.” “Tích trượng của Benkei à? Hình như nó nặng đến mười bảy cân lận” “Mười bảy cân! Có thật là Benkei đã dùng nó không ạ?” “Anh cũng chẳng biết nữa.” Anh Holmes vừa cười và tiếp tục đi vào sâu bên trong. Ở đó là “vũ đài Kiyomizu-dera” nổi tiếng vươn ra từ chính điện của ngôi chùa. Nhìn sang phải là tháp Kyoto. Dẫu có thể nhìn bao quát toàn cảnh thành phố thì ngay trước mắt vẫn là biển cây xanh trải rộng. Tôi không quá quen với những chỗ cao nên khi nhìn xuống cũng thấy chân hơi bủn rủn. “Quả là cao thật đấy.” “Đúng rồi. Nghe bảo ban công này có độ cao ngang ngửa một toà nhà bốn tầng.” “Nhưng cảm giác vẫn cao hơn hẳn lúc nhìn xuống từ một toà nhà bốn tầng. Nhất là trên vách núi như thế này, ghê gớm thật.” Dàn cột trụ được xây nơi vách núi gần như dựng đứng. Có lẽ chính điều đó đã khiến vũ đài nhô ra từ ngôi chùa có cảm giác cao hơn. “Ừ, đây là một toà kiến trúc gỗ được xây nên bằng cách dựng một loạt những cây cột gỗ cử Nhật Bản khổng lồ với chiều cao lớn nhất vào khoảng mười hai mét trên vách núi dựng đứng Kin’unkei, sau đó bằng một kĩ thuật tên là ‘kakezukuri’[23], người ta đã cố định chúng với nhau mà không dùng đến một cây đinh nào cả. Cũng có thể xem như một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc.” Nhìn anh Holmes say sưa kể, hai má tôi chợt giãn ra. Đúng là rất đậm tính nghệ thuật. “Nhắc mới nhớ, anh từng nói rằng ngôi chùa anh thích nhất là chùa Kiyomizu-dera. Có phải nguyên nhân là vì anh cảm nhận được chất nghệ thuật từ thủ pháp xây dựng công trình kiến trúc gỗ tuyệt vời này không ạ?” “Có một phần, nhưng còn do anh cảm thấy nơi này như cô đọng lại mọi tinh hoa của mảnh đất Cố đô. Từ vẻ đẹp của ngôi chùa này, lịch sử đầy bất an mơ hồ còn sót lại nơi đây, cảnh vật thời hiện đại, cho đến những quang cảnh mãi chẳng đổi thay. Rất có thể tất cả những điều đó đã lôi kéo mọi người, trong đó có anh, đến với nơi này.” Anh Holmes nói với giọng trầm mặc, và để đáp lại, tôi lặng lẽ gật đầu. ... Phải rồi, tôi cảm thấy nơi này dường như cô đọng toàn bộ mọi thứ gắn liền với Kyoto, đúng như anh Holmes nói. Có lẽ vì nó sở hữu sức hút ấy, nên người ta dù đến bao nhiêu lần cũng muốn quay trở lại. Chắc hẳn khung cảnh núi non xanh ngắt đang hiện lên trước mắt cũng là điều không thay đổi từ xa xưa. C 3 húng tôi tiếp tục men theo lối đi được vạch sẵn, vừa đi từ trong chùa ra ngoài thì đụng ngay tấm biển ghi “Đền Jishu”. Tôi nhớ mình cũng từng ghé qua nơi này hồi đi dã ngoại. “Nghĩ lại thì tự nhiên em thấy việc có một ngôi đền nằm trong sân chùa thật là kì lạ.” “Đền Jishu nhỉ.” “Ơ, đọc là Jishu chứ không phải Jinushi ạ?” “Ừ, ‘đền Jishu’ là những ngôi đền được xây khi lập nên một ngôi đền hoặc chùa, để thờ thổ thần cai quản mảnh đất đó. Cho đến trước thời Minh Trị, đền chùa miếu mạo vẫn bị đánh đồng, nên dáng vẻ của ngôi đền nằm cạnh chùa Kiyomizu-dera như thế này cũng có thể gọi là dấu vết còn sót lại của thời đại Thần Phật hỗn hợp[24].” “Hơ, ngày xưa đền chùa miếu mạo từng được xem là giống nhau hết ạ?” “Phải, vào thời Minh Trị, nhằm phổ biến Thần đạo trên khắp cả nước, người ta cho rằng cần phải cấm việc đồng hoá Thần với Phật. Phong trào ấy được gọi là ‘Thần Phật phân li’[25]... Mà tạm bỏ qua vấn đề đó, anh nghĩ ngôi đền này có lẽ là đền Jishu nổi tiếng nhất nước Nhật. Vị thần chính được thờ ở đây là thần Okuninushi, còn được biết đến là ‘thần kết duyên’ đấy.” Nói xong, anh Holmes giục tôi, “Mình đi thôi.” Tôi gật đầu và bắt đầu cùng anh Holmes bước lên những bậc thang đá hơi dốc. Đền Jishu được biết đến như một ngôi đền cầu duyên và phù hộ “tình yêu đôi lứa” giờ đang tràn ngập những cô gái trẻ. Ở đây không chỉ có tượng đá của Okuninushi no Mikoto, mà còn đặt cả một con thỏ bông tượng trưng cho chủ thỏ vùng Inaba[26]. Nổi tiếng nhất là “Đá bói tình duyên”. Có hai tảng đá bói tình duyên được đặt cách xa nhau, một tảng ở lối vào, tảng còn lại ở tận cùng khuôn viên đền. Nghe nói nếu nhắm mắt lại mà đi được từ tảng này đến tảng kia thì tình yêu sẽ đơm hoa kết trái. “Cái này cũng gợi cho em nhiều kỉ niệm. Hồi đi dã ngoại học tập, mọi người ai cũng đều làm thử.” Bây giờ cũng có rất nhiều cô gái đang thử thách bản thân. “Aoi không làm à?” “D-Dạ, thôi ạ. Giờ em đang vô duyên với chuyện yêu đương.” “Vô duyên ư?” Bị anh ấy hỏi lại, tôi bỗng thấy mất bình tĩnh, phải cúi gằm mặt xuống. Trước kia, vì được anh Holmes giúp đỡ nhiều, tôi suýt nữa đã hiểu nhầm rằng, “biết đâu mình là người đặc biệt trong mắt anh ấy,” nhưng tôi lập tức nhận ra là mình chỉ đang đánh giá bản thân quá cao. Đối với tất cả nữ giới, anh Holmes đều dịu dàng, lịch thiệp và đôi lúc hơi nham hiểm. Hoàn toàn không có chuyện chỉ mình tôi là người đặc biệt hay gì cả. Tôi cảm thấy thật may mắn vì đã nhận thức được điều đó trước khi trở nên tự phụ quá đà. Từ giờ về sau, để sự hiểu nhầm không vượt ra ngoài tầm kiểm soát, tôi định bụng sẽ giữ khoảng cách nhất định với anh Holmes. Nếu như tôi lỡ phải lòng anh Holmes, tình cảm của tôi sẽ bị anh ấy nhìn ra trong nháy mắt. Lúc ấy, chắc tôi sẽ ngượng ngập đến mức không thể ở lại “Kura”. Tôi không nỡ rời xa tiệm “Kura” yêu quý, nên tôi muốn tránh tình huống ấy bằng bất cứ giá nào, vậy mà, mỗi cử chỉ của anh Holmes đều khiến con tim tôi đập rộn ràng không sao kiềm chế được. Tôi nhẩm đi nhẩm lại như niệm chú rằng, đây không phải tình yêu, không phải tình yêu. Anh Holmes là một chàng trai Kyoto phá luật, nên tôi không có khả năng chống đỡ. “V-Vậy mình đi thôi, anh Holmes. Dù sao em cũng không có duyên với chỗ này.” “Ừ.” Anh Holmes nhẹ nhàng gật đầu, rồi hai chúng tôi bỏ đền Jishu lại phía sau. Tiếp tục tiến lên theo lối đi, tôi có thể trông thấy vũ đài Kiyomizu-dera từ một khoảng cách không xa quá. Đó là bức tranh toàn cảnh chùa Kiyomizu-dera rất dễ bắt gặp trong sách hay clip hướng dẫn du lịch. Một vũ đài nhô ra, được bao bọc bởi màu xanh của cây cối. Dưới sàn là những cây cột trụ dài bằng gỗ cử đan ngang dọc thành cái khung chống đỡ cả công trình. “... Thế này mới có cảm giác đúng là chùa Kiyomizu dera mà em biết.” Một cảnh tượng quen thuộc, nhưng khi nhìn gần lại thấy tuyệt diệu biết bao. “Đẹp thật. Quả nhiên đây vẫn là ngôi chùa anh thích nhất.” Vừa ngắm chùa Kiyomizu-dera, anh Holmes vừa say mê nói. Tôi cũng gật đầu. “Câu thành ngữ ‘nhảy xuống từ vũ đài chùa Kiyomizu’ được dùng mỗi khi làm điều gì đó liều lĩnh quả là chuẩn xác anh nhỉ.” “Thực tế cũng đã có khá nhiều người lao đầu xuống để xin thần linh biến điều ước của mình thành hiện thực. Theo như những gì được lưu lại trong sử sách, vào thời Edo, đã có hơn hai trăm người nhảy xuống từ vũ đài.” Câu nói đó làm cái cổ họng khô khốc của tôi mém sặc. “Nh-Nhảy xuống để xin thần linh biến điều ước của mình thành hiện thực ấy ạ? Nghĩ kiểu gì thì họ cũng sẽ chết mà?” “Về việc đó, nghe đâu tỉ lệ sống sót khi nhảy từ vũ đài xuống cao ngoài dự đoán, từng lên đến hơn tám mươi phần trăm. Ngày ấy cây cối mọc nhiều và rậm rạp hơn bây giờ, nền đất bên dưới cũng mềm hơn nữa.” “Ồ, ồ... Nhưng kể cả thế sao người ta lại muốn nhảy cơ chứ?” “Có vẻ hành động ấy xuất phát từ một tín ngưỡng dân gian cho rằng nếu phó mặc sinh mệnh của mình cho Quan Thế Âm Bồ Tát và nhảy xuống thì sẽ thoát chết và đạt được tâm nguyện. Tuy nhiên, sang đến thời Minh Trị, việc làm này đã bị chính phủ ra lệnh cấm rồi.” “Thì ra là thế. Bị cấm là đúng quá rồi.” Và rồi, chúng tôi cứ thế rời khỏi chùa Kiyomizu. 4 S au đó, tôi và anh Holmes dùng bữa trưa ở một nhà hàng Ý nằm bên dốc Sanneizaka, rồi xuống dốc Ninenzaka và tản bộ quanh khu phố mua sắm Gion nhộn nhịp. Trong lúc tiến về phía Bắc đường Kawabata, anh Holmes dừng chân trước một quán cà phê nọ. “Mình vào đây uống nước nhé.” Đó là một quán cà phê mang diện mạo cứ như nhảy ra từ một cuốn sách tranh Anh Quốc. Chính giữa bức tường treo một chiếc đồng hồ lớn, phía dưới là tấm biển in dòng chữ “CACAO MARKET”. Từ cột đèn đường, băng ghế cho đến biển hiệu đứng, tất cả đều mang đậm dấu ấn văn hoá nước ngoài. Ngay bên hông quán là sông Shirakawa đang chảy. “Đ-Đáng yêu thật đấy! Không ngờ phố cổ Gion cũng có một quán cà phê sở hữu phong cách ngoại quốc thế này.” Tôi cất giọng trầm trồ. Sao lại có quán cà phê tuyệt vời thế này nhỉ. “Có yếu tố bất ngờ mà lại rất hoà hợp đúng không? Kyoto cũng là mảnh đất nơi văn hoá Nhật Bản và phương Tây dung hoà đấy.” Khi chúng tôi bước vào trong, đập vào mắt tôi là một cỗ máy pha chế khổng lồ cao đến tận trần nhà cùng với hương cacao ngọt lịm. Từ mùi hương ấy cũng phần nào đoán được rồi, rằng trong quán tràn ngập các sản phẩm sô-cô-la. Cả bàn lẫn kệ đều trưng bày đủ loại sô-cô-la, từ trong lọ cho đến trong lon, chen chúc nhau đến mức làm tôi hoa cả mắt. Nơi này nhìn giống một cửa hàng sô-cô-la thời thượng hơn là một quán cà phê. Tuy bên trong vẫn có khu vực để dùng bữa tại chỗ, nhưng cảm giác không phù hợp để ngồi lại nhẩn nha. “Anh Holmes ơi, mình uống trà ở khu vực ăn tại chỗ này ạ?” “Không, tầng một là cửa hàng sô-cô-la, còn quán cà phê ở dưới hầm.” “À, thì ra là thế,” tôi hiểu ra bèn gật gù. Anh Holmes lúc ấy đang nhận một mẩu giấy ghi chú từ nhân viên. “Aoi, hướng này.” Nói xong, anh ấy cứ thế bước ra khỏi tiệm. “Mình ra ngoài luôn ạ?” Tôi theo sau và hỏi. Anh Holmes gật đầu, tay chỉ vào cánh cửa bên cạnh cửa hàng. “Muốn vào quán cà phê dưới hầm thì phải đi lối đó.” Khi chúng tôi mở cửa và bước vào trong toà nhà, một cánh cửa gỗ khác lại hiện lên. Trên cửa ghi dòng chữ “ANGEL LIBRARY”. “Thư viện của Thiên thần?” “Phải, những thiên thần bảo hộ cho Cacao Market muốn khách hàng có thể thoải mái thư giãn, nên đã mở cửa thư viện quý báu của họ để làm không gian ăn uống. Đó là những gì được ghi trên blog chính thức của quán này.” Nói rồi, anh Holmes mỉm cười tinh nghịch. Thấy thế, tôi cũng nhoẻn miệng cười. Trên tay nắm cửa là một ổ khoá số kiểu cũ. “Khoá số này là?” “Đây là mã số bí mật mà cửa hàng sô-cô-la đã đưa cho chúng ta. Aoi, em nhập số vào đi.” Anh Holmes đưa tôi mẩu giấy mà nhân viên cửa hàng vừa giao cho chúng tôi ban nãy. “À, vâng. Cảm giác cứ hồi hộp thế nào ấy nhỉ.” Khi tôi nhập những con số ghi trên tờ giấy, cánh cửa liền mở ra. Cùng với lối cầu thang dẫn xuống tầng hầm là một chiếc đồng hồ lớn xuất hiện trên tường. Ánh sáng dịu dàng soi rọi bước chân tới trên bậc cầu thang mờ mịt tối. Kệ sách được lắp vào trong tường, trên kệ xếp dàn hàng những cuốn sách phương Tây. “Oa, tuyệt thật đấy.” Cứ như thể tôi đang lạc đến một xứ sở diệu kì. Khu vực ăn uống được xem như thư viện của các thiên thần ngày xưa quả thật có thiết kế khiến người ta liên tưởng đến một thư viện ở nước ngoài. Trên kệ sách có rất nhiều tài liệu được viết bằng ngôn ngữ phương Tây. Nơi này cũng có ánh đèn mờ ảo và dịu nhẹ cùng tiếng nhạc ngân lên réo rắt. Một không gian tách biệt hẳn với đời thường. Cách bài trí kĩ lưỡng tới mức chỉ cần đứng ở đây cũng đủ khiến tôi thấy náo nức trong lòng. Chúng tôi gọi món bánh sô-cô-la chảy và phải xuýt xoa vì độ ngon của nó. “Ngon quá đi mất. Nơi này thật sự quá tuyệt vời, làm tim em cứ đập thình thịch mãi thôi.” “Em thích là anh mừng rồi. Ngày xưa, lúc đặt mục tiêu chinh phục hết những quán cà phê trong thành phố Kyoto, anh đã một mình đến nơi này. Khi ấy, anh còn nghĩ bụng, ‘Nếu dắt con gái đến đây chắc sẽ được lòng họ lắm’.” Anh Holmes nhoẻn miệng cười và nói, tay cầm tách cà phê. Tôi gật đầu chắc nịch. “Vâng, là con gái thì ai cũng sẽ vui khi đến một nơi như thế này, chắc chắn sẽ gây được thiện cảm. Chắc em sẽ chỉ cho đám con trai ở lớp nữa”. Anh Holmes bỗng trợn tròn mắt. “Anh Holmes, anh sao thế ạ?” “À không, thế em chơi thân với các bạn nam ở lớp lắm à?” “Chắc nói là bình thường sẽ đúng hơn là thân ạ.” “Em thân với các bạn như thế nào vậy?” Anh ấy tiếp tục xoáy sâu vào, làm tôi nhíu mày khó hiểu. Với câu hỏi “thân thế nào với hội con trai trong lớp”, tôi chỉ biết trả lời là “bình thường” thôi. “Thi thoảng nói chuyện phiếm, hoặc cho cậu bạn hay quên tẩy ở bàn bên mượn tẩy ạ...” “... Có khi nào là cậu ấy cố tình không?” “Dạ?” “Ý anh là, liệu có phải cậu bạn ấy muốn làm thân với Aoi nên mới cố tình quên tẩy ở nhà?” Anh Holmes nói bằng giọng trầm hẳn xuống, làm tôi bị nghẹn. Tự dưng anh ấy nói cái gì thế không biết... “T-Tuyệt đối không có chuyện đó đâu ạ. Cậu bạn ngồi cạnh em cũng mượn tẩy của người khác nữa mà. Chưa kể, cậu ấy hình như đã có một cô bạn gái, cả hai cực kì tình cảm, nên không có chuyện cậu ấy muốn trở nên đặc biệt thân thiết với em đâu.” “Thế à?” Anh Holmes thở phào một hơi như vừa trút xong gánh nặng, rồi đưa tách cà phê lên miệng. “Không lẽ anh Holmes đã từng cố tình quên tẩy ở nhà vì muốn làm thân với ai đó ạ?” Tôi hơi rướn người về phía trước và hỏi. Lần này thì đến lượt anh Holmes dặng hắng. “... Không, tuy anh là một gã khôn lỏi, nhưng chưa từng cố gắng tiếp cận ai bằng cách dễ thương như thế đâu.” “Khôn lỏi ạ?” “Ừ, anh là trai Kyoto bụng dạ đen tối mà.” Anh Holmes nhoẻn miệng cười làm tim tôi nảy lên một cái. “Thế thì anh tiếp cận người ta bằng cách nào ạ?” Tôi cố tình hỏi sâu vào vấn đề đó, khiến anh Holmes nhíu mày ậm ừ. “Nói sao nhỉ? Cả trước đây lẫn bây giờ, anh chưa từng nghĩ đến chuyện muốn có ‘bạn gái’.” “Ủa, tại sao thế ạ?” “Anh thấy nó quá phiền toái.” “Phiền toái?” “Phải, hẹn hò với một ai đó sẽ cắt bớt thời gian của bản thân. Tất cả mọi thứ trong cuộc đời anh thành ra sẽ do một người con gái trói buộc. Tính ra thì anh là kiểu người muốn được tự do dành thời gian làm những việc mà mình thích.” Tôi gật gù, đúng là kiểu của anh Holmes. Có điều... “Cảm giác giống như cái khái niệm thanh niên hiện đại thờ ơ với tình yêu mà dạo này người ta hay nhắc đến.” “Cũng có thể là như vậy. Nhưng cá nhân anh không thấy đó là điều xấu. Tỉ lệ sinh nở nước ta đúng là đang giảm, nhưng xét trên toàn thế giới thì vẫn ở trong trạng thái bùng nổ dân số mà. Anh nghĩ trong bối cảnh ấy, việc số người không còn tìm kiếm tình yêu gia tăng có lẽ cũng là ý muốn của tự nhiên.” “Ý muốn của tự nhiên ạ... Nhưng anh đã từng hẹn hò với chị Izumi mà?” “Ừ, anh thấy vui khi được cô ấy tỏ tình, lại cũng tò mò về một mối quan hệ tình cảm với ai đó sẽ ra sao, nên đã nhận lời.” “Trước đó chưa từng có ai tỏ tình với anh ạ?” “Phải.” Anh Holmes thản nhiên gật đầu làm tôi hơi kinh ngạc. “Th-Thật ạ? Em cứ tưởng anh Holmes phải được nhiều người mến mộ lắm.” “Không, không hề có chuyện đó. Izumi cũng đã từng bảo anh rằng, ‘Cậu đối với mọi người đều tử tế, nhưng vẫn có cảm giác khó gần, bởi vậy, khi tỏ tình, mình đã run khủng khiếp’. Có vẻ vì anh không có ý định hẹn hò với ai nên đã vô tình tạo nên một vách ngăn giữa mình với những người xung quanh. Anh thấy vui vì cô ấy mặc dù cảm nhận được bức tường đó, nhưng vẫn thu hết can đảm để tỏ tình.” “Ồ, có lẽ em cũng hiểu được chuyện đó,” tôi đáp, trong lòng có đôi chút đồng cảm. “Tóm lại là mối quan hệ tình cảm đầu tiên của anh bắt đầu từ đấy, nhưng cái kết của nó quá thê thảm, đâm ra anh lại càng không hứng thú với chuyện yêu đương.” “R-Ra là thế.” Anh Holmes ngày xưa chỉ vì quá trân trọng người yêu mà bị gã khác “nẫng tay trên” quả là một pha thất tình đau điếng. Ngay từ đầu đã không mấy hứng thú với mối quan hệ nam nữ, lại còn bị thất tình theo kiểu đấy, cũng không vô lí khi anh ấy ngày càng trở nên thờ ơ với chuyện yêu đương. “Nhưng gần đây, anh bắt đầu thấy rằng ‘những ngày thường nhật có một cô bạn gái’ biết đâu cũng không đến nỗi nào.” “Dạ?” “... Bị ai đó trói buộc có khi cũng tốt,” anh ấy vừa cụp mắt vừa thì thầm. Những lời ấy khiến đầu tôi trở nên trắng tinh trong phút chốc. “A-À, em hiểu rồi. V-Vậy là cuối cùng anh cũng cảm thấy mình có thể yêu ai đó rồi nhỉ.” Sau một khoảng lặng ngắn, tôi mở miệng. Giọng tôi suýt nữa đã lệch tông bởi một cảm giác thấp thỏm không rõ hình hài. Anh Holmes không nói gì mà gật đầu một cách mập mờ. “Th-Thế thì may quá. Đến chuyện của mình em còn chưa gánh nổi, nhưng thú thật là em hơi lo lắng ạ. Nếu anh Holmes có ý định yêu đương thì em thật sự mừng cho anh. Đúng. Anh Holmes mà đã muốn thì chẳng mấy chốc sẽ kiếm được người yêu thôi. Đ-Đúng rồi, trước tiên anh phải dẫn người ta đến quán cà phê này. Đối phương sẽ phải lòng anh, nhất định là thế.” Dường như tôi có xu hướng nói rất nhanh mỗi khi bị cuống. Tôi nói liến thoắng trong trạng thái chính tôi cũng không hiểu mình đang nói cái gì. Trái tim tôi cất lên những tiếng thùm thụp không hề dễ chịu. “... Vậy sao? Anh lại không nghĩ là người ta sẽ thích anh, kể cả khi anh dẫn cô gái đó đến nơi này,” anh Holmes mỉm cười yếu ớt. “A-Anh nói gì lạ thế? Không có chuyện đó đâu. Anh Holmes mà dẫn một cô gái đến đây thì em nghĩ người ta sẽ đổ rạp ngay đấy ạ.” Tôi nặn ra một nụ cười, nhưng chẳng hiểu sao lồng ngực lại nhói đau. “Đổ rạp ngay à...” Anh Holmes dường như vừa nở nụ cười tự giễu, nhưng đã ngẩng lên ngay tắp lự. “Đúng rồi. Biết đâu người bạn sắp ghé thăm của em cũng sẽ thích quán này.” “V-Vâng, em nghĩ nếu được đến đây, cậu ấy chắc chắn sẽ vui ạ. Cảm ơn anh đã giới thiệu cho em quán cà phê tuyệt vời này.” Tôi lễ phép cúi đầu, lòng nhẹ nhõm vì câu chuyện đã được lái sang chủ đề khác. “Thế thì tốt rồi.” Anh Holmes dịu dàng híp mắt. 5 S au khi tận hưởng khoảng thời gian ở “ANGEL LIBRARY”, hai chúng tôi di chuyển đến cửa hàng sô-cô-la ở tầng một và chọn hết loại sô-cô-la này đến loại sô-cô-la khác. “... Ủa, Kiyotaka đó hả?” Lúc thanh toán xong, chúng tôi nghe thấy một giọng nói đầy vẻ ngạc nhiên vọng đến từ sau lưng. Ngoảnh lại thì thấy một phụ nữ đứng tuổi trong trang phục truyền thống đang tròn mắt nhìn về hướng chúng tôi đứng. Lại là bạn cũ của ông chủ giống như mọi khi ư? Tôi vừa nghĩ vậy thì… “... Bà nội ạ?” Nghe anh Holmes thốt lên, tôi mở to mắt. “Bà nội”. Thật sự là bà nội của anh Holmes, theo đúng nghĩa đen? Vậy thì cũng có nghĩa người phụ nữ này là vợ cũ của ông chủ, mẹ ruột của quản lí. “... Chao ôi, đúng là Kiyotaka rùi. Con nhớn quá nha.” Bà nội anh Holmes nở một nụ cười rạng rỡ rồi tiến về phía chúng tôi. Đó là một người vô cùng thanh lịch và đẹp lão. Thời còn trẻ bà ắt phải là một mĩ nhân. “Con mới gặp bà lúc vào đại học, có lớn được nữa đâu ạ.” “Ừa thì hổng sai, cơ mà hông hiểu sao dòm con ra dáng người nhớn hơn hẳn á. Coi bộ con vẫn khoẻ ha.” “Vâng, thấy bà vẫn khoẻ, con cũng thấy mừng,” anh Holmes đáp lại bằng một nụ cười hết sức thực lòng. “Con chắc là bạn gái Kiyotaka phỏng?” Bà quay sang nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng. “D-Dạ không ạ, cháu là Mashiro Aoi, hiện đang làm thêm ở ‘Kura’.” Tôi cuống quýt tự giới thiệu và cúi đầu thật thấp. “Chúng con đã được Aoi giúp đỡ rất nhiều ạ,” anh Holmes lập tức tiếp lời. “Vậy là ông Seiji và Takeshi cũng được nhờ cô bé này rồi. Cám ơn con đã luôn chiếu cố. Bà là Tsubaki, bà nội của Kiyotaka.” Bà Tsubaki, bà nội của anh Holmes, vui vẻ cúi đầu. “Ch-Cháu cũng rất biết ơn vì luôn được gia đình mình chiếu cố ạ,” tôi kính cẩn cúi người thêm lần nữa. “Nè, Kiyotaka, đằng nào cũng gặp nhau như vậy rồi, giờ ghé nhà bà chơi đi? Hai đứa chắc sắm đồ cũng xong rồi hử?” “Dạ thôi, giờ con không mang theo món quà nào để biếu bà, hay để khi khác...” Anh Holmes lựa lời định từ chối. “Khỏi đi con, quà cáp làm chi. Bà với con đâu phải người dưng. Cả bé Aoi nữa, nếu con hổng phiền. Kể cho bà nghe chuyện của Kiyotaka và Takeshi với? Nhà bà ở ngay khúc này thôi.” Bà Tsubaki sấn tới làm tôi bị áp đảo không nói được gì, đành gật đầu dù vẫn còn ngần ngại. “Tốt quá rồi, vậy chúng ta đi thôi.” Chúng tôi gần như bị bà Tsubaki lôi đi một cách ép buộc và rời khỏi cửa hàng. “Đó, các con mau vô đi.” Bà Tsubaki mở cửa chính và giục chúng tôi bước vào trong vườn. Để đi đến ngôi nhà của bà Tsubaki, bà nội anh Holmes, mà bà nói là “ở ngay khúc này”, ta sẽ phải vào một con hẻm nhỏ phía sau phố cổ Gion, sau đó tiếp tục băng qua đoạn đường ngõ thon dài đúng kiểu Kyoto. Tôi trông thấy một khu vườn được chăm chút tỉ mỉ, tô điểm bằng những bông hoa trà tuyệt đẹp, chắc là gắn liền với tên là Tsubaki[27]. Nhà riêng của bà là một biệt thự kiểu Nhật tương đối lớn và sang trọng, vườn tược cũng rộng rãi hơn so với những căn nhà khác thuộc khu vực này. “H-Hoành tráng ghê,” tôi buông một câu cảm thán. “Bà nội anh sau khi li dị ông nội đã tái hôn với một đại gia kinh doanh bất động sản,” anh Holmes nhỏ giọng nói với tôi để bà Tsubaki không nghe thấy. Ra thế, vậy nên nhà bà mới đường bệ cỡ này. Trong khi tôi còn đang gật gù ngưỡng mộ, bà Tsubaki bất chợt dừng bước và ngoảnh lại, vẻ như vừa nhớ ra chuyện gì. “Suýt quên, Kiyotaka nè. Cảm ơn con vì bó hoa sinh nhật tháng trước nghen. Con đã cất công rinh quà tới tận đây mà bà lại hổng có nhà, thiệt ngại quá.” “Dạ, không có gì đâu ạ.” “Năm nào con cũng nhớ sinh nhật bà, bà vui lắm. À mà sinh nhật năm nay, ông Seiji cũng gởi hoa cho bà đó. Lần đầu được ổng tặng hoa làm bà giật cả mình.” Thấy bà Tsubaki sáng mắt lên và sung sướng kể lại, anh Holmes mở to mắt, hình như có chút bất ngờ. “... Ông nội ấy ạ?” “Giật mình chưa. Bó lan hồ điệp đẹp lắm đó. Làm bà hết hồn à.” “... Có khi ông tặng hoa còn là để ‘mừng hỉ thọ’ bà đấy ạ. Con đoán trước giờ ông vẫn cảm thấy có lỗi với bà là nhiều, nên mới không dám quà cáp gì cả.” “Có lỗi gì chở. Bà với ông Seiji chia tay đã hơn năm mươi năm. Thời hiệu cũng hết rồi mà.” Bà Tsubaki nhún vai đáp. ... “Thời hiệu” ở đây là đang nói về cái gì nhỉ? Từ trước đến giờ, tôi vẫn có cảm giác lí do ông chủ li hôn là “do ông chủ là người quá tự do”. Nhưng nếu đã xuất hiện những từ như “có lỗi”, rồi “thời hiệu”, thì phải chăng ngoại tình mới là nguyên nhân thực sự? Trong lúc tôi mải nghĩ này nghĩ nọ, bà Tsubaki bỗng vẫy tay lia lịa về phía một người đàn ông đứng tuổi đang tưới nước trong vườn. “Ông Yoshio, tui mới gặp Kiyotaka ở tiệm sô-cô-la đó.” “Ông Yoshio” này có vẻ là chồng bà Tsubaki. Đối với anh Holmes có lẽ sẽ gọi là “ông nội kế”? Ấn tượng đầu tiên của tôi về ông là “một ông lão kiệm lời”. Gương mặt khó đăm đăm của ông cau lại khi ông nhìn về phía chúng tôi. “Đã lâu không gặp ông. Xin ông thứ lỗi vì đã đường đột đến thăm gia đình mình như thế này. Trông ông có vẻ vẫn khoẻ ạ.” “Ch-Cháu là Mashiro Aoi ạ. Mong ông chiếu cố,” tôi cũng cúi đầu theo anh Holmes. “...” Ông Yoshio chẳng nói chẳng rằng, chỉ khẽ cúi chào rồi ngoảnh mặt đi ngay lập tức. “Ổng đang xí hổ đó,” bà nội anh Holmes vui vẻ cười rúc rích. C-Có thật là ông ấy xấu hổ không? Thấy tôi tò mò nhìn theo lưng ông Yoshio, anh Holmes bèn nhẹ nhàng rỉ tai tôi. “Như bà anh giải thích đấy, tính ông vốn dễ xấu hổ, hay nói đúng hơn là vụng về, không làm thế nào cư xử khéo léo với đứa có danh phận phức tạp như anh được.” “Thì ra là thế,” tôi gật đầu tỏ ý đã hiểu, lòng cũng cảm thấy nhẹ nhõm phần nào. “Còn bà anh thì là người thẳng tính, tự do tự tại và lạc quan hơn cả ông nội nữa.” “Ồ, đúng là có cảm giác ấy thật.” “Hôm nay tự dưng lại thành ra thế này, anh thấy thật có lỗi với em.” “Dạ không, không sao đâu ạ.” Trong lúc chúng tôi thì thầm với nhau, bà Tsubaki đã mở cánh cửa trượt dẫn vào nhà rồi vẫy tay gọi, “Hai đứa mau vô đi,” vì thế, chúng tôi liền vội vàng chạy đến. “Đúng lúc có người mới biếu bà mấy món ngọt của tiệm Kanshudo. Tụi con coi, bánh thạch yokan[28] có đẹp hôn?” Chúng tôi được dẫn vào một căn phòng kiểu Nhật. Trên bàn là một chiếc đĩa nhỏ bày những cây kẹo amezaiku[29] hình quạt cùng món bánh thạch yokan màu hoa mận khiến người ta liên tưởng đến tận niên. “Đúng là quá đẹp ạ. Lần đầu tiên cháu được thấy thạch yokan đẹp đến nhường này.” “Phải ha? Kanshudo[30] làm mấy thứ đẹp ghê vậy đó.” Bà Tsubaki khoe món thạch yokan với vẻ hãnh diện, trong lúc đó, anh Holmes thích thú nâng bát đựng mạt trà lên. “... Gốm Hagi. Bà có chiếc bát uống trà đẹp quá” “Thì bởi, sao bà dám tiếp con bằng mấy món nửa mùa chớ. Chén này tuy hổng hịn bằng Kyusetsu, nhưng vẫn tương đối oách, phớ hôn?” “Vâng, nó được nung vào cuối thời Edo, là đồ cổ chất lượng đấy ạ.” Kyusetsu ở đây là “Miwa Kyusetsu”. Là tên một gia đình nghệ nhân gốm nổi tiếng thuộc dòng Hagi, hoạt động từ thời Edo cho đến ngày nay, trong đó đời thứ mười và đời thứ mười một được coi là quốc bảo. Đúng là bát trà Hagi này mặc dù chưa đạt đến tầm cỡ Kyusetsu, nhưng vẫn rất tuyệt vời. Quả nhiên là vợ cũ của ông chủ có khác. “Tiệm nhà được một nhân viên làm thêm dễ thương tới phụ, chắc Kiyotaka cũng mừng ha.” Thấy bà Tsubaki sáng mắt lên mà nói vậy, tôi ho khù khụ. “Vâng, Aoi vô cùng dễ thương lại còn chịu khó, nên con rất vui ạ.” Nghe anh Holmes đáp không chút ngượng ngùng, tôi lại mém sặc. Cái người này vẫn vậy, không bao giờ để xảy ra sai sót, hay nói đúng hơn là “điệu nghệ”. “Mà hổng biết sao, đến tuổi này rồi bà vẫn được ông Yoshio kêu là ‘dễ thương’ á.” Bà Tsubaki tự mình khơi chuyện, nhưng giờ lại phồng má, vẻ như bị cụt hứng bởi thái độ của anh Holmes. “Thế thì tốt quá rồi” anh Holmes cười thích thú. Người chồng lạnh lùng như thế mà cũng biết khen vợ “dễ thương” à? Tôi đưa bát mạt trà lên miệng, trong lòng có chút ngạc nhiên. “Thiệt luôn. Ông Seiji vốn hổng phải típ người nói được mấy câu đó. Coi vậy chở trước lúc kết hôn, ổng vẫn nỗ lực nhiều, vậy mà cưới xong hổng thấy gì nữa luôn. Bé Aoi sau này cũng coi chừng đó. Lựa phải mấy gã đàn ông bắt được cá rồi hổng thèm cho mồi nữa là dở lắm nghe.” ẳ Nghe bà phán một câu thẳng thừng như thế, tôi bối rối gật đầu, “D-Dạ vâng.” “Con thì cho rằng chẳng qua là ông nội dễ xấu hổ thôi.” “Cũng đúng ha, ông còn gởi lan hồ điệp cho bà cơ mà.” Bà Tsubaki nở một nụ cười tinh quái. “À mà, Kiyotaka. Con có còn chơi cái trò giả làm thám tử hôn?” Như vừa sực nhớ ra, bà Tsubaki nhóm người về phía trước. “… Con không có ý ‘chơi trò giả làm thám tử’, cơ mà có chuyện gì thế ạ?” Anh Holmes lộ vẻ mặt bất đắc dĩ trong giây lát, nhưng vẫn hỏi, dường như đã lấy lại tinh thần. “Chẳng là có chuyện này kì lắm. Con đợi chút nghen.” Bà Tsubaki nhanh nhẹn đứng dậy. Một lúc sau, bà trở lại với một con búp bê sứ trên tay. “Là về con búp bê này.” Đó là một con búp bê sứ hình bé trai. Khoảnh khắc trông thấy nó, tôi vô thức “a” một tiếng. Bởi tôi cảm thấy nó là một cặp với cô búp bê sứ được trưng bày ở “Kura”. Anh Holmes mỉm cười dịu dàng và quay sang nhìn tôi. “Em nhận ra rồi à?” “V-Vâng. Con búp bê sứ này là một cặp với búp bê bé gái ở cửa hàng mình phải không ạ?” “Phải, Nó với con búp bê sứ ở cửa hàng là một đôi.” “Quả nhiên là thế.” Đường nét khuôn mặt, độ bóng của tóc hay da đều giống nhau, và nhất là trang phục. Con búp bê sứ hình bé gái ở cửa hàng diện một chiếc áo cánh trắng với rất nhiều diễm xếp nếp, trước ngực cài ruy băng đỏ, bên dưới mặc chân váy đỏ. Còn con búp bê nam này thắt ruy băng xanh nước biển nhạt, mặc áo cánh đính điểm tương tự cùng quần ngắn màu lam sẫm. Nhìn một cái là đủ cảm nhận được chúng là một cặp đôi nam nữ. Lần đầu ghé thăm “Kura” tôi đã bị con búp bê sứ xinh đẹp ấy hớp hồn, đồng thời cũng thấy chút rợn gáy sau một hồi quan sát. Có thể là tại con búp bê được làm quá công phu, khiến tôi ngỡ như thể nó có cảm xúc thực thụ. “Đây là quà ông Seiji tặng bà lúc kết hôn. Sau ngày li dị, lúc ổng gởi đồ đạc cho bà thì bên trong chỉ có con búp bê này.” Bà Tsubaki cầm con búp bê trên tay, buông lời than thở, “chắc ổng khoái con búp bê nữ hơn nên hổng muốn cho đi đây mà” rồi cười khúc khích. “Thế con búp bê sứ này có vấn đề gì ạ?” “À, phải rồi. Bà thì chẳng thấy gì, nhưng đứa cháu sống gần nhà bà hổng biết sao lại kêu con búp bê này ‘đáng sợ’.” Bà ôm con búp bê cho chúng tôi xem rồi ngồi xuống. Tôi cười trừ. Tôi có thể hiểu được cảm giác “đáng sợ” đó. “... Con búp bê ở trong nhà này lâu vậy rồi, sao đột nhiên cháu bà lại bảo là nó đáng sợ?” “Chẳng là con búp bê này vốn được để trong phòng bà, trên một góc kệ. Gần đây bà nhớ đến nó, bèn đem ra trưng phòng khách. Mới đầu cháu bà cũng kêu nó ‘dễ thương’, thế mà lúc sau lại thành ‘đáng sợ’. Rồi còn biểu con búp bê này bị trù ếm nữa.” “Bị trù ếm?” Tôi và anh Holmes đồng thanh. “Nghe cháu bà kể thì nó dòm thấy ‘con búp bê này đang khóc’ á,” bà Tsubaki nhún vai. Con búp bê đang khóc... Sao tự dưng lại thành chuyện kinh dị thế này. “Đứa cháu ấy của bà năm nay bao nhiêu tuổi rồi ạ?” Anh Holmes tuy là cháu bà Tsubaki, nhưng bà đã có gia đình riêng với người chồng mới, có con, có cháu. Chắc hẳn anh ấy cũng không nắm được mọi chuyện trong gia đình bà. Từ câu hỏi của anh Holmes, tôi có thể cảm nhận được điều đó. “Nó là con gái, đang học cấp hai.” Học sinh cấp hai... Nếu là một đứa bé ít tuổi hơn thì từ cảm giác “sợ” búp bê có thể gây ra ảo giác kiểu đấy, nhưng nếu là học sinh cấp hai thì chuyện lại hơi khác đi rồi. “Thế ạ? Cô bé bảo rằng đã tận mắt chứng kiến con búp bê khóc hả bà?” “Nó kêu nghe thấy tiếng gì như tiếng khóc, lúc trở ra phòng khách thì trông thấy con búp bê vốn ở trên kệ đang nằm lăn lóc dưới sàn, quanh mắt đẫm nước.” “Ra là thế,” anh Holmes khoanh tay và gật đầu. “Rùi nhá. Sau khi xảy ra chuyện đó, con búp bê bắt đầu di chuyển khắp nơi.” Nghe bà thản nhiên nói vậy, sống lưng tôi lạnh toát. “D-Di chuyển ấy ạ?” “Ừa. Rõ ràng bà để nó trên kệ, vậy mà lúc thì nó ngồi trên sô pha, lúc lại ra trước tủ quần áo. Hỏi người nhà thì ai cũng kêu hổng biết chi hết trơn. Thế rùi cháu bà bắt đầu than rằng, ‘nó ghê quá, con hết chịu nổi rồi, bà làm gì đó đi.’ Cơ mà nó đã làm gì nên tội đâu chớ.” Bà Tsubaki nói vẻ như chẳng có chuyện gì to tát, tay vẫn âu yếm xoa đầu con búp bê, điều đó càng khiến tôi thêm rùng mình. Tôi rất hiểu tâm trạng của cháu gái bà. Cho dù nó chưa làm gì nên tội đi chăng nữa, tôi cũng không muốn chứa chấp một con búp bê hết khóc thút thít lại lượn lờ chỗ này qua chỗ khác. Giờ mới nói thế này thì cũng không phải, nhưng tôi cũng thi thoảng cảm thấy mắt con búp bê nữ ở “Kura” hơi ươn ướt, như thể nó sẽ oà khóc bất cứ lúc nào. Biết đâu nó cũng sụt sùi khóc ở nơi nào đó tôi không biết. Nghĩ thế, lưng tôi càng thấy lạnh hơn. “Kiyotaka nghĩ sao?” Bà Tsubaki hơi nhổm tới và hỏi. “Xem nào,” anh Holmes đặt tay lên cằm. “... Bà lôi con búp bê ấy ra khỏi góc kệ từ tháng trước ạ?” Nghe xong câu hỏi của anh Holmes, bà Tsubaki nghĩ ngợi một chút, rồi gật đầu, “Đúng rồi, vào dịp cuối năm đó.” “Cháu gái bà nghe thấy tiếng khóc của con búp bê bao nhiêu lần ạ?” “Hình như nghe thì chỉ có một lần, nhưng nó biểu đã nhiều lần trông thấy nước đọng quanh mắt con búp bê rồi đó.” “Cháu bà có thường xuyên sang nhà này chơi không ạ?” “Giờ bắt đầu học kì rồi nên nó hổng sang nữa, nhưng trong lúc nghỉ đông thì thi thoảng con nhỏ lại thò mặt qua chơi.” “... Con búp bê chỉ di chuyển vị trí vào những ngày có mặt cháu bà thôi ạ?” “Ờ, nghĩ lại thấy đúng thiệt. Con nhỏ tối ngày la lối om sòm, ‘Nó lại chuyển động nữa kia, kinh quá đi mất!’ Bị nói như vậy, chắc nhóc này tủi thân lắm.” Bà Tsubaki nhẹ nhàng xoa đầu con búp bê. Dù xảy ra chuyện như vậy mà bà Tsubaki chẳng lộ vẻ sợ hãi chút nào, trông cứ như bị búp bê mê hoặc, khiến tôi thấy lạnh toát cả sống lưng. “Cơ mà để cháu bà sợ hồn xiêu phách lạc như vậy mãi cũng hổng có được. Những chuyện như vậy có lẽ nên giao cho ‘thầy trừ tà’ nhỉ?” Bà Tsubaki nhún vai, thoáng vẻ yếu đuối. “Không ạ,” anh Holmes nhẹ lắc đầu. “Thứ này không phải bị ‘ám’ đâu.” “Hổng phải thì là chi?” “... Đây chỉ đơn thuần là giả thuyết của con.” Anh Holmes chỉnh lại tư thế ngồi. Cả tôi và bà Tsubaki nuốt vào đánh ục rồi chờ đợi câu nói tiếp theo. “E rằng đây không phải một ‘hiện tượng quái dị’, mà là sự việc ‘do con người gây ra’.” Nghe anh Holmes khẳng định chắc nịch, bà nội anh tròn mắt. “‘Con người gây ra’. Ý con là ai đó trong gia đình bà làm chuyện đó hả? Con đang biểu cháu bà nói dối hả?” Bà hơi nhấn giọng cuối câu, dường như bà nghĩ anh Holmes đang buộc tội cháu gái bà. Tuy nhiên, nếu cho rằng ai đó là thủ phạm thì có cháu gái quả thật rất đáng nghi. Chẳng nhẽ mọi chuyện là do cô bé nói xằng nói bậy? “Chuyện gì đã khiến bà đột nhiên lôi con búp bê này ra khỏi đáy tủ thế ạ?” “Có gì đâu, chỉ là tự dưng bà thấy nhơ nhớ thôi.” “Có phải do bà mới nhận được hoa từ ông nội không ạ?” Bà Tsubaki lập tức gật đầu đáp lại câu hỏi của anh Holmes. “Đúng rồi. Bà nhận được hoa của ông Seiji, thấy bồi hồi, nên đem mấy thứ ngày xưa ra. Trong đó có cả con búp bê này.” “Con muốn xác minh lại thôi, nhưng cho tới gần đây, bà chưa từng nói cho ai biết chuyện con búp bê sứ này là ‘quà của ông nội con’, phải không bà?” Anh Holmes nhẹ nhàng hỏi. Sau một hồi nghĩ ngợi, bà Tsubaki gật đầu mơ hồ. “Ờ, hình như vậy đó.” “Sau khi nhận được hoa mừng hỉ thọ từ ông nội, bà liền mang con búp bê ấy ra ngoài phòng khách. Chồng bà có hỏi gì về chuyện đó không ạ?” Nghe anh Holmes nói tiếp, bà Tsubaki ngước lên trần nhà như đang lục lọi lại bộ nhớ. “... Có đó. Ổng hỏi bà, ‘Tự dưng sao thế?’ nên bà mới đáp, ‘Ông Seiji vừa gởi hoa nên tui chợt nhớ ra. Cái này là khi xưa tui được ổng tặng đó’.” Những lời của bà Tsubaki khiến tôi giật mình nhận ra. Tôi đang nghĩ ngợi rằng “phải chăng là…” thì anh Holmes đã vươn tay ra bảo, “Bà có thể cho con mượn được không?” Đón lấy con búp bê bà Tsubaki đua, anh ôm nó trên tay. “... Rất có thể chồng bà, khi biết được con búp bê bà trân quý bấy lâu nay là quà do ông nội con tặng, đã phải nhận một cú sốc nặng nề.” Nghe anh Holmes tiếp lời, bà Tsubaki mở to mắt. “Sốc?” Nét mặt bà như thể hiện rằng bà chưa từng nghĩ đến khả năng đó. “Con nghe nói lí do hai ông bà chia tay vốn dĩ là vì sau khi kết hôn, bà ốm đau liên miên, ông nội thấy thế đã tự cho rằng ‘mình là hung thần mang bệnh tật đến cho bà’.” Nghe anh Holmes nói thế, tôi buột miệng hỏi, “Hung thần mang bệnh tật?” “... Ngày xưa, một ông thầy chữa bệnh bằng phương pháp tâm linh đã nói với ông nội anh như thế này. Kẻ giẫm đạp lên tất cả để có được tất cả như ông, nghiệp rất nặng. Tuy nhiên, bản thân ông được tổ tiên phù hộ, sẽ không gặp phải nghiệp chướng gì, nhưng mọi nhân quả sinh ra từ đó sẽ do người phối ngẫu của ông gánh chịu’.” Câu chuyện tôi chưa từng nghĩ đến đó quả thực gây chấn động, khiến tôi không nói được câu nào. “Đó chỉ là những lời hết sức hồ đồ. Nhưng chuyện bà nội ốm đau không dứt là có thật. Nghe nói, sau khi sinh ra bố anh, bà mắc bệnh nặng suýt chết. Nhìn tình trạng ấy của bà, ông nội đinh ninh rằng mình đang gây ra bệnh tật cho bà, và quyết ý chia tay.” “Sao có thể.” Tôi nghẹn lời trước lí do li hôn của ông chủ mà tôi lần đầu được biết. “Chuyện đúng là vầy, cơ mà lúc bà đang ở nhà ngoại dưỡng bệnh, tự dưng nhận được thư chia tay với giấy tờ li hôn làm bà sốc không để đâu cho hết. Tức đến độ thổi bay hết bệnh luôn.” Bà Tsubaki cười khanh khách. Trong lòng bà, những gì xảy ra từ nửa thế kỉ trước đã trở thành một câu chuyện hài hước rồi chăng? Mà không, cười được như thế này chứng tỏ bây giờ bà đang rất hạnh phúc. “... Theo cách nghĩ của con, chắc ông nội tặng bà ‘con búp bê hình bé trai’ này là để nó ‘trở thành thế thân cho mình, người không thể ở bên bà nữa’. Còn về phần ông, ông quyết định giữ lại con búp bê hình bé gái kia thay thế cho bà. ‘Hai ta tuy không thể ở cùng nhau với tư cách vợ chồng, nhưng thật lòng tôi đã muốn được ở bên em.’ Rất có thể đó là tình cảm ẩn chứa bên trong những con búp bê đấy ạ.” Lời giải thích ấy làm bà Tsubaki ngừng cười, nét mặt trở nên nghiêm túc. “Chắc hẳn chồng bà đã trót nhận ra tình cảm ấy của ông nội. Việc bà hết mực cưng chiều, trân trọng con búp bê chứa đựng nỗi niềm chua xót đó dường như đã gây ra một cú sốc cho ông ấy. Ông ấy có lẽ cảm thấy cuộc sống vợ chồng với bà bao lâu nay đã bị phủ nhận cũng nên.” “Nh-Nhưng cuộc hôn nhân của bà với ông Seiji chỉ vỏn vẹn có năm năm, còn chồng hiện tại đã ở với bà hơn năm mươi năm rồi mà.” “Vâng, chồng bà cũng từng tin như vậy, nhưng vẻ mừng rỡ của bà khi nhận được bó hoa mừng hỉ thọ từ ông nội con cùng sự thật về con búp bê chắc đã khiến ông ấy nhất thời không biết phải nghĩ sao. Có khả năng ông ấy đã nghĩ rằng, ‘Phải chăng từ trước đến giờ mình chỉ là người thay thế ông Seiji. Có lẽ bà ấy chung sống với mình, nhưng trong lòng vẫn luôn nhớ về ông Seiji.’” “... Không thể nào.” “Ngay sau khi những cảm xúc ấy trỗi dậy, nước mắt chảy ra cũng là chuyện bình thường. Chồng bà ở một mình trong phòng, tay cầm con búp bê này, ghìm giọng lại mà rơi lệ. Đúng lúc đó lại nghe thấy tiếng bước chân của cô cháu gái, ông bèn dời đi thật nhanh, bỏ lại con búp bê. Con búp bê bị quăng dưới sàn liệu có phải đã ướt đẫm bởi nước mắt của chồng bà không ạ?” Vừa chăm chú nhìn con búp bê, anh Holmes vừa nói như đang trò chuyện với nó. “... Vậy còn chuyện con búp bê di chuyển thì sao?” Bà Tsubaki hơi nhoài người tới để hỏi. Anh Holmes cười ái ngại. “Chắc là vì cháu gái bà nói con búp bê này ‘đáng sợ’ nên chồng bà đã nảy sinh ý định không hay cho lắm. Có thể ông ấy nghĩ rằng, bằng việc thay đổi vị trí của con búp bê này, chưa biết chừng bà sẽ thấy nó ghê ghê rồi đem trả nó lại cho nhà Yagashira.” Anh Holmes nói một cách khó khăn. Sự thật về cuộc li hôn giữa ông chủ và bà Tsubaki. Tình cảm ông chủ gửi gắm vào con búp bê. Người đã nhận ra tình cảm ấy của ông chủ, trớ trêu thay không phải bà Tsubaki, mà lại là người chồng hiện tại của bà. Bà Tsubaki chắc cũng không có ý gì khác cả. Bà thực sự là một người vô tư như thế. Ông chủ và người chồng hiện tại có lẽ đã đem lòng yêu tính cách ấy của bà. “... Bà ngốc thiệt đó. Nửa thế kỉ đã trôi qua, mà giờ nghe con nói, bà mới hiểu được tấm lòng của ông Seiji. Đã vậy còn khiến người luôn ở bên và đối xử tốt với bà phải đau lòng... Nếu ổng nâng niu một món đồ do người đàn bà nào đó trong quá khứ tặng, bà cũng sẽ hổng vui.” Bà nói những lời vừa rồi như đang độc thoại, mắt nhìn xa xăm vô định. Lệ đang chực trào ra nơi khoẻ mắt bà. Khi bà Tsubaki nín lặng, cả căn phòng cũng chìm trong tĩnh mịch hồi lâu. Nhưng nó không hề ngột ngạt, mà là một sự yên tĩnh dịu dàng pha chút xót xa. “... Kiyotaka. Con có thể giữ đứa nhỏ này ở ‘Kura’ hông?” Một lúc sau, bà Tsubaki mỉm cười và nói. Anh Holmes khẽ gật đầu. “Vâng, thực ra con búp bê sứ hình bé gái ở cửa hàng chúng con đó giờ vẫn luôn mang vẻ mặt rầu rĩ. Được gặp lại người thương sau nửa thế kỉ, chắc nó sẽ rất vui. Con sẽ trông nom con búp bê nam này thật cẩn thận.” Anh Holmes thận trọng ôm cậu bé búp bê như đang che chở cho nó, rồi ngẩng mặt lên. Có thể ông chủ đã tặng bà Tsubaki con búp bê này với niềm ước ao “một ngày nào đó được trở về bên nhau”. Nhưng suy nghĩ ấy giờ đã không còn. Cả ông chủ lẫn bà Tsubaki đều đã tìm được bạn đời mới và bước tiếp. Vậy là, sau nửa thế kỉ bị chia cắt bởi hoàn cảnh của người sở hữu, đôi búp bê sứ cuối cùng cũng được hội ngộ cùng nhau. “Cám ơn con. Nhờ con tạ lỗi với con búp bê nữ giùm bà. Cả nhóc nữa, cám ơn vì đã ở bên ta tới tận giờ. Về chỗ Kiyotaka rồi, phải hoà thuận với người yêu đó nghe chưa.” Bà Tsubaki nhìn vào mắt con búp bê sứ nam và nói. Khung cảnh thật ấm lòng khiến tôi không kìm được nụ cười. “Cả Kiyotaka và Aoi nữa, đừng để mắc sai lầm như bà nhá. Nghĩ ngợi linh tinh nhiều là hỏng đó. Có cảm xúc gì trong lòng phải nói ra miệng để người ta biết nghe hôn.” Bà Tsubaki nhẹ vươn tay ra và siết chặt tay hai chúng tôi. Tay bà mới mềm mại và ấm áp làm sao. “D-Dạ vâng.” Tình cảm phải bộc lộ rõ ràng, nếu không sẽ không ai hiểu được. Lời khuyên hàm chứa sự hối tiếc sâu sắc của bà Tsubaki như bóp nghẹt tim tôi. “Nhất là con đó, Kiyotaka, muốn gì thì phải nói. Từ xưa con đã là đứa nhỏ có tâm sự gì cũng chỉ giữ trong đầu chứ hổng chịu bày tỏ, giờ thì liệu mà nói ra cho đàng hoàng nghen.” Bà Tsubaki nhìn thẳng vào mặt anh Holmes và căn dặn. Anh Holmes định nói gì đó, nhưng rồi lại mím môi và nở nụ cười yếu ớt. “... Bà nói đúng. Nghĩ lại thì từ bé đến giờ, cái gì khơi dậy trong con hứng thú vừa phải, con đều có được dễ như không, nhưng những ‘thứ con thật sự muốn’ đều vuột khỏi tầm tay. Thế nên, không hiểu từ lúc nào, đến cả việc nói thành lời ‘mong muốn’ của bản thân, con cũng không làm được nữa. Cảm giác như nếu không nói ra điều mình muốn, thì dù có đánh mất nó, con cũng sẽ tránh được bị tổn thương.” Anh Holmes lẩm bẩm như đang nói với chính mình. Những lời ấy của anh càng khiến tôi day dứt. Đúng như anh Holmes nói, với một người thông minh, khéo léo, giỏi xoay xở như anh, gần như đã hứng thú với cái gì là sẽ đạt được chúng. Nhưng những thứ anh ấy thật lòng khao khát lại đều không thuộc về anh. Có thể trong những thứ anh Holmes thật sự ao ước có sự hiện diện của “mẹ” và “bà nội”. Tuy nhiên, mẹ anh Holmes đã qua đời từ khi anh còn nhỏ, còn người bà mà anh ấy muốn nhận được sự cưng chiều đã có thế giới riêng. Có lẽ anh ấy đã luôn từ bỏ “những điều mình thực sự mong muốn”. “Con cũng ngốc lắm. Hổng nói thành lời thì khi đánh mất mới đau khổ hơn nhiều chớ.” Bị bà Tsubaki mắng thẳng vào mặt, anh Holmes đưa tay xới tung tóc mái lên. “Thiệt luôn á. Bà cũng thế còn chi, chuyện của mình thì ù ù cạc cạc, nhưng tánh con thì lại rành ghê.” Nhìn gương mặt dù đang nở nụ cười nhưng trong lại như sắp oà khóc của anh ấy, cảm giác xót xa đè nặng lên trái tim tôi. “Thì bởi, bà là bà nội của con mà.” “... Phải rồi ha, cám ơn bà, bà nội.” Hai bà cháu nhìn nhau và mỉm cười. Hai người làm tôi cay cay sống mũi, phải hết sức kiềm chế không cho nước mắt chảy ra. “V 6 ậy thôi, chúng cháu đã làm phiền gia đình bà rồi ạ.” Tôi ra vườn đúng lúc ông Yoshio chuẩn bị vào nhà. “... Mấy đứa sắp về à?” Ông Yoshio gượng gạo hỏi, vẫn không nhìn vào mắt chúng tôi. “Vâng, xin lỗi vì đã làm phiền gia đình ông mà không báo trước ạ.” Anh Holmes cúi chào, có vẻ không hề bận tâm đến thái độ lạnh nhạt của ông Yoshio. “Vậy à...” Ông Yoshio bất chợt tỏ ra kinh ngạc khi nhìn thấy anh Holmes ôm con búp bê sứ. “... Con búp bê đó là...?” “Dạ, chúng cháu đã quyết định sẽ đem con búp bê này về ‘Kura’.” Anh Holmes giải thích một cách ngắn gọn. Ông Yoshio bèn quay sang nhìn bà Tsubaki, vẻ như không tin nổi vào tai mình. Bà Tsubaki tủm tỉm cười. “Thiệt ra tui cũng tính trả nó lâu rùi. Hôm nay tụi nhỏ đến vừa đúng lúc.” “... Bà có chắc hôn?” Ông Yoshio ngơ ngác hỏi. Đáp lại, bà Tsubaki khẽ nhếch khoé miệng lên. “Thế ông mua cho tui một con búp bê mới nghen.” Nghe câu nói ấy của bà, ông Yoshio mang biểu cảm khá là phức tạp, nhưng ngay sau đó... “... Thích thì bà cứ mua đi,” ông trả lời cộc lốc. Ông chồng vụng về và người vợ hồn nhiên vô tư. ... Tôi tự nhiên thấy họ quả thật là một đôi vợ chồng tuyệt vời. Khi chúng tôi cúi đầu chào một lần nữa và ra khỏi cổng, bầu trời đã nhuốm sắc hoàng hôn. Vầng trăng bạc treo lơ lửng trên bầu trời rực rỡ ánh cam nhìn lên từ phố cổ Gion. Cảnh tượng ấy đẹp như tranh vẽ. “... Đúng ra hôm nay anh phải dẫn em đi tham quan thành phố, xin lỗi em nhé.” Anh Holmes nói với vẻ ái ngại. Tôi bèn lắc đầu. “Dạ không, có sao đâu ạ. Dù gì em cũng đã ngắm cảnh thoả thuê, lại còn được trò chuyện với bà nội của anh Holmes nữa, em thấy vui lắm ạ. Bà anh là một người hết sức tuyệt vời.” “Cảm ơn em. Anh rất mừng khi nghe em nói vậy.” Anh Holmes vui vẻ cười híp mắt. “Vậy thôi, anh Holmes, mình mau quay về ‘Kura’ đi.” “Hả?” “Con búp bê nữ ở ‘Kura’ đang chờ đứa nhóc này.” Tôi đón lấy con búp bê sứ hình bé trai từ tay anh Holmes và nở nụ cười. “... Em nói đúng. Nó đang đợi nhỉ.” “Vâng, nó đã chờ cả nửa thế kỉ rồi mà.” Chúng tôi nhìn nhau rồi rúc rích cười. “Mình đi chứ?” “Vâng,” tôi sánh vai cùng anh ấy và bắt đầu rảo bước. Từ trước đến giờ, mỗi khi nhìn cô búp bê sứ được bày trên chiếc ghế trong cửa tiệm, tôi luôn cảm thấy chút gì đó vừa cô đơn, vừa buồn bã. Do thu nhận cảm xúc ấy mà tôi đã xem nó như một vật “đáng sợ”. Thế nhưng, một khi có thêm đứa nhóc này, chắc là tôi sẽ không còn suy nghĩ như vậy nữa. Cửa hàng “Kura” sẽ được bao trùm bởi bầu không khí hạnh phúc và ấm áp hơn, chắc chắn là như vậy. Tôi nhìn xuống con búp bê sứ trong tay mình và khẽ mỉm cười. CHƯƠNG 2 DẠ TIỆC VALENTINE T 1 háng Giêng tất bật đã kết thúc. Giờ là tháng Hai. Rinh rinh rinh, rinh rinh rinh, chiếc điện thoại cố định trong cửa hàng đồ cổ “Kura” bắt đầu đổ chuông thường xuyên hơn. Mỗi khi nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo, anh Holmes lại nhún vai càu nhàu, “thật tình” rồi nhấc máy. “... A lô, đây là cửa hàng đồ cổ ‘Kura’ ạ” Dù tỏ vẻ chán chường, giọng trả lời điện thoại của anh vẫn hết sức tươi tỉnh. “... Dạ không, tôi không phải thám tử tư đâu ạ.” Có điều, chẳng mấy chốc giọng nói ấy đã chùng hẳn xuống. Trông thấy anh Holmes như thế, bác Ueda đang ngồi uống cà phê cạnh quầy thu ngân liền phì cười. “Sao, lại có người muốn thuê bây ‘hành nghề’ hở?” Anh Holmes vừa đặt ống nghe xuống, bác Ueda đã hỏi bằng giọng châm chọc, khiến tôi nghiêng đầu thắc mắc. “Hành nghề ạ?” “Ủa, bé Aoi hổng biết hở? Gần đây họ đang đồn ầm lên rằng thằng nhỏ này là ‘thám tử đại tài’, ‘có thể giải quyết mọi vụ án’ nên người ta gọi điện tới giao việc cho nó hoài đó.” Dường như thấy tình huống này hết sức thú vị, bác Ueda cười khùng khục, tay chỉ vào anh Holmes. “Cháu không biết chuyện đấy ạ. Có thật không hả anh?” “... Người tung tin đồn là ông nội chứ ai. Đã thế còn thổi phồng mọi thứ ngoài sức tưởng tượng, thật chẳng biết phải xử lý thế nào.” Anh Holmes thở một hơi dài thượt, hai vai rũ xuống. “Bác cũng có nghe qua, thấy tâng bốc thằng nhỏ quá trời luôn. Cái gì mà ‘chỉ cần nhìn vô mắt là đọc được suy nghĩ của người ta’, ‘tới hiện trường phát là biết ngay hung thủ’, rồi còn ‘trừng trị kẻ xấu với tốc độ xuất quỷ nhập thần’ nữa.” “Thật là, nếu kẻ như vậy thực sự tồn tại thì gần như không phải là con người nữa rồi.” Nghe anh Holmes nói với vẻ chán chường, tôi im thin thít, quay sang nhìn bác Ueda. ... Đúng là chuyện hơi bị thổi phồng, nhưng cũng không sai sự thật lắm. “Cơ mà vẫn có những người nghe tin đồn ấy xong tìm đến anh định nhờ vả thật, thế mới khó xử chứ,” anh Holmes ngồi xuống ghế và mở sổ tồn kho. “Nè, người ta nhờ vả bây cái gì dợ?” “Cháu không nhận yêu cầu nên cũng không hỏi đến nội dung, nhưng có những người vẫn kể tuốt tuồn tuột cho cháu nghe. Toàn mấy yêu cầu mà dù có là thám tử thật cháu cũng muốn từ chối. Đa phần là những chuyện kiểu như: ‘hình như có ai đó trong gia đình đang muốn giết tôi để chiếm đoạt tài sản, xin hãy cho tôi biết đó là ai’, rồi ‘nhờ cậu thăm dò suy nghĩ thật của người đàn ông mà tôi chuẩn bị cưới’.” “Chà, mấy cái đó thì đúng là khó xử thật.” Bác Ueda gật đầu ra vẻ thấu hiểu. Tôi cũng gật gù lẩm bẩm “ừm, ừm” phụ hoạ theo. “Người ta có vẻ tin vào cái đoạn ‘đọc được suy nghĩ’ dữ lắm.” “Ừ, có vẻ người tin vào chuyện như thế phần đông là phụ nữ, nên người gọi cho anh cũng toàn nữ giới thôi.” “Hổng phải thế đâu. Là do lời đồn còn đính kèm một thông tin sốt dẻo, kêu bây là ‘chàng thanh niên đẹp tao nhã như anh đào cành rủ[31]’ đó.” “... Anh đào cành rủ cơ à, vinh dự cho cháu ghê. Mỗi tội giờ vẫn đang là mùa hoa mơ[32] ạ”. Anh Holmes ngán ngẩm buông thõng vai. Anh đào cành rủ cũng từa tựa dương liễu. Những nhành cây đơm hoa trĩu xuống như muốn trút hoa lên mặt đất, tạo ra bầu không khí huyền ảo rất khó diễn tả thành lời. Nó vô cùng lộng lẫy, nhưng đôi khi lại khơi dậy trong lòng chút cảm giác gì đó bất an. “Không biết ai là người tung tin đồn ấy, nhưng ví anh Holmes với ‘anh đào cành rủ’ cũng khéo ghê.” Vừa mường tượng ra rừng anh đào cành rủ đẹp đẽ tráng lệ trong đầu, tôi vừa tấm tắc khen. Anh Holmes khẽ thở dài với vẻ khó xử. “Cũng là ông nội anh đấy.” “Ông chủ...” Tôi và bác Ueda cùng kêu lên. Cái tật cuồng cháu trai của ông chủ xem ra vẫn chưa sửa được. “Vậy thôi, bác phải qua cửa tiệm ở Kitayama rồi.” Bác Ueda đặt tách cà phê lên đĩa lót nghe lách cách rồi vươn vai. Bác vừa mở một quán cà phê trên đường Kitayama hồi cuối năm ngoái. Quán còn có tên gọi khác là “Cà phê mĩ nam”, với dàn nhân viên tập hợp toàn những chàng trai ngoại hình bắt mắt. Từ hồi mới mở, quán đã tương đối đông khách, bản thân tôi cũng từng ghé qua vài lần, nhưng gần đây không còn hay đến đó nữa. “Quán dạo này thế nào rồi ạ?” “Ổn áp lắm con. Cơ mà bác đang tính nhượng lại cho ai đó nhân lúc còn làm ăn phát đạt.” “Hơ, sao lại thế ạ?” Tôi chớp mắt ngạc nhiên. Anh Holmes chỉ cười trừ. “Một quán cà phê do ‘mĩ nam’ vận hành nhiều rủi ro lắm. Không phải lúc nào cũng kiếm được nhân sự, mà rắc rối với khách hàng nữ rồi sẽ xảy ra. Nếu có một người chủ tỉnh táo, đủ khả năng quản lí quán thì còn đỡ, chứ bác Ueda đang bận ôm cả đống kế hoạch kinh doanh rồi.” “Tóm lại là vậy đó. Giá có thằng Holmes về làm chủ, cắm chốt thường xuyên ở tiệm cho bác thì chuyện đã khác rồi.” “Cháu xin được từ chối ạ.” “Biết ngay mà. Vậy thôi, bác đi nha.” Bác Ueda bật dậy, rồi cứ thế rời khỏi “Kura”. Sau khi bác Ueda đi khỏi, tôi lập tức đứng dậy, đưa tay ra định đặt tách lên khay thì bỗng nhiên chạm phải tay anh Holmes, người cũng đang có ý định dọn tách giống mình. “...!” Tôi hoảng hốt rụt tay lại. “... Xin lỗi em nhé.” “D-Dạ không, không sao đâu ạ, anh cứ để đấy em dọn...” Tôi chưa kịp nói hết câu thì anh Holmes đã nhìn tôi, “Aoi này.” “Dạ.” “... Lần nào chạm nhẹ vào tay anh, em cũng rụt về rất nhanh là vì em sợ anh à?” Thấy anh ấy nghiêm nghị hỏi, tôi chớp mắt. “D-Dạ không... Em có sợ đâu ạ.” Nghe câu trả lời ấy của tôi, anh Holmes thở ra có vẻ nhẹ nhõm rồi cụp mắt xuống. “Th-Thế thì em... có ghét anh hay gì không?” Anh lại khẽ khàng hỏi. Giọng anh rất nhỏ, tưởng như có thể bị tiếng nhạc jazz trong cửa hàng nhấn chìm bất cứ lúc nào. “Dạ?” “Anh chỉ lo lỡ như một chút va chạm cũng khiến em cảm thấy khó chịu... Nếu đúng vậy thì sau này anh sẽ cẩn thận hơn.” Anh Holmes nói thế mà không nhìn vào mắt tôi. Tôi sững sờ câm nín. Những lúc tay hoặc vai chúng tôi khẽ chạm nhau, tôi thường thấy ngượng ngùng nên mới vội vàng tránh ra, không ngờ phản ứng của tôi lại khiến anh ấy suy nghĩ như vậy. Đời nào có chuyện tôi ghét anh Holmes chứ. Người tinh tường như anh ấy sao lại hiểu theo hướng đấy nhỉ? Chẳng nhẽ thái độ quyết tâm “giữ khoảng cách” của tôi gây ra ấn tượng xấu đến vậy sao? “D-Dạ không, sao có thể. Tuyệt đối không có chuyện em ghét anh đâu ạ. Ngược lại là đằng khác. Đối với anh Holmes, mà không, không chỉ anh Holmes, cả bác quản lí và ông chủ, ai em cũng quý. Em yêu cửa hàng ‘Kura’ này, và hơn hết thảy, em cực kì kính trọng anh Holmes ạ.” ẳ Tôi dùng giọng khẳng định chắc nịch, khiến mặt anh Holmes hiện lên một biểu cảm hết sức phức tạp, không hiểu là nhẹ nhõm hay đắng lòng. “... Thế thì tốt rồi.” Một câu trả lời yếu ớt như không còn sức lực. Hình như anh ấy vẫn chưa tin tôi. “K-Kìa, em nói thật đấy. Không có chuyện em thấy phiền khi chạm vào tay anh đâu. Em rụt tay lại chẳng qua là vì giật mình thôi. M-Mình thử bắt tay nhau đi ạ.” Nói rồi, tôi chìa tay ra cho anh ấy bắt. Anh Holmes bối rối mở to mắt, nhưng vẫn nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi. Chỉ là cái bắt tay sơ sơ, thế mà lồng ngực tôi vẫn đánh “thịch” một tiếng. “A-Anh thấy chưa? Em không hề ghét việc chạm vào tay anh nhé.” Dứt lời, tôi vừa định buông tay ra thì anh Holmes đã hơi nhếch khoé miệng lên rồi dồn sức siết lấy tay tôi. “Thụp!” Lần này thì tim tôi nhảy cẫng lên một nhịp. “Ừ, thế thì may rồi. Anh cứ sợ mình bị em ghét bỏ,” anh vẫn bắt tay tôi mà nói. “Sao em lại ghét anh cơ chứ...” Rõ ràng chúng tôi chỉ đang bắt tay, nhưng cái trạng thái bị anh ấy nhìn chằm chằm, tay nắm tay này, làm hai má tôi nóng dần lên, và tôi bất giác cúi gằm mặt xuống. “Ừ, cuối cùng anh cũng hiểu được rằng mình không bị ghét rồi.” “C-Cuối cùng là sao ạ…” “... Tay Aoi bé nhỉ?” “Đ-Đâu có, bình thường thôi ạ. Tay anh Holmes mới phải gọi là to ấy.” “Thế à?” “Vâng, ngón tay anh rất dài...” Nói rồi, tôi chăm chú nhìn bàn tay vẫn đang giữ lấy tay tôi. Đó là một bàn tay lớn, trông hơi gầy guộc. Những ngón tay thon dài cùng nước da trắng muốt. “...” Chết, tôi phải làm gì bây giờ. Tình huống này rốt cuộc là gì thế? Đúng lúc đó, nghe tiếng chuông cửa leng keng, tôi giật mình trông về phía lối vào thì thấy quản lí đang đứng đó. Thấy chúng tôi đang trong tư thế bắt tay nhau, bác ấy tròn mắt hỏi. “... Hai đứa vừa làm hoà chuyện gì à?” Quản lí thắc mắc nghiêng đầu. “Vâng, cũng gần thế ạ,” anh Holmes đáp gọn, chậm rãi thả tay tôi ra và nói thêm, “à đúng rồi, bác Ueda vừa đến cửa hàng mình đấy ạ.” Bác quản lí “à” một tiếng rồi gật đầu. “Bố cũng có gặp và nói chuyện qua ở chỗ mái vòm. Ueda xem ra vẫn sung sức nhỉ.” “Công nhận đấy ạ. Bố có uống cà phê không?” “Thôi khỏi, bố ngồi quán nước nãy giờ rồi.” Bác quản lí vắt áo khoác lên cây treo quần áo, sau đó ngồi xuống chiếc ghế ở mé quầy thu ngân như mọi khi. Không biết phải chui vào cái lỗ nẻ nào, tôi vội vơ lấy cây chổi phủi bụi và bắt đầu lau dọn. “Phải rồi, Aoi, khi nãy bắt tay em anh mới nhớ ra...” Anh Holmes nói, tay mở ngăn kéo phía sau quầy thu ngân. “Dạ?” “Anh định tặng em cái này,” anh ấy lôi ra từ ngăn kéo một đôi găng trắng mới toanh đựng trong túi ni-lông. “Là găng giám định dành cho nữ giới đấy. Chúng có cả khấc chống trơn, rất dễ sử dụng, nên nếu em thích thì anh tặng em.” “O-Oa, cảm ơn anh.” Tôi cũng có găng tay, nhưng không phải loại găng chính thức dùng cho công việc giám định. Đó là thứ tôi luôn thầm ao ước được sở hữu, nên tôi thật sự rất vui. “Em vui lắm ạ. Em sẽ sử dụng chúng thật cẩn thận.” Tôi nhận lấy đôi găng rồi ghì chặt chúng bằng cả hai tay. “Ừ, em dùng đi nhé.” Trong lúc chúng tôi đang nhìn nhau mỉm cười, bác quản lí chêm vào một câu, “Thích quá Aoi nhỉ,” nhưng người bác cứ ngọ nguậy liên tục, vẻ như đứng ngồi không yên. Rốt cuộc là có chuyện gì thế nhỉ? “Bố sao thế ạ?” Anh Holmes cũng lập tức nhận ra điều đó và hỏi bằng giọng nhẹ nhàng. “À, không có gì, chỉ là...” Bác quản lí lúng túng đảo mắt. “Có phải bố muốn nói chuyện gì với con không ạ?” “À, ừ, phải rồi... Kiyotaka có biết nữ tác giả tên là ‘Aigasa Kurisu’ không?” Quản lí mở miệng một cách khó khăn. Khi nãy trông bác ấy cứ bồn chồn, hoá ra là vì có chuyện muốn nói với anh Holmes, nên bác đang quan sát xem khi nào thì lên tiếng được. “Vâng, nếu chỉ là tên thì con cũng có nghe qua.” Đứng cạnh anh Holmes, tôi cũng gật đầu. “Aigasa Kurisu” là một nữ tiểu thuyết gia chuyên về thể loại huyền bí tâm linh. Những tác phẩm đóng mác light novel[33] do cô sáng tác luôn nổi đình nổi đám, thậm chí còn được chuyển thể thành phim hoạt hình. Ngoài ra thì cá tính của chính tác giả cũng không kém phần nổi tiếng. Cô còn được biết đến với hình ảnh một người phụ nữ rất trẻ trung, trang điểm cực đậm và sáng tác truyện trong trang phục kiểu gothic lolita[34]. Không riêng gì tác phẩm, mà bản thân “Aigasa Kurisu” cũng có không ít người hâm mộ. “Chẳng là, biên tập viên hiện tại của bố ngày trước từng phụ trách cô Aigasa.” Nghe quản lí kể tiếp, chúng tôi ồ lên trầm trồ. Một nhà xuất bản lớn như vậy, chắc cũng có lúc bất ngờ điều động biên tập viên từ ban light novel sang ban biên tập tiểu thuyết lịch sử. “Sắp tới cô Aigasa dự định tổ chức một buổi tiệc đọc sách. Người ta nhờ bố chuyển lời là rất mong Kiyotaka sẽ góp mặt.” Truyền đạt hết những điều cần truyền đạt xong, quản lí nhìn anh Holmes bằng ánh mắt như van lơn. “... Tại sao lại là con ạ?” “Ừ thì, cô ấy vốn là người Kanto, hiện đang sống ở Kyoto, không biết từ đâu mà nghe được tin đồn về Kiyotaka. Cái gì mà chàng thám tử mĩ nam tao nhã như anh đào cành rủ, mang biệt danh ‘Holmes của khu phố Teramachi Sanjo’ ấy…” Nghe quản lí nói đến đây, anh Holmes đập mặt cái rầm xuống quầy thu ngân. “... Con xin mọi người đấy, có thể hoá giải hiểu nhầm ấy giùm con được không?” Anh làu bàu, giữ nguyên tư thế úp mặt ấy. “Không không, mọi người đều hiểu rõ chuyện ấy là phóng đại lên mà. Nhưng quan trọng hơn, con có thể đến dự buổi tiệc đọc sách ấy giùm bố được không? Đấy, đưa cả Aoi đi cùng nữa. Biết đâu hiểu nhầm sẽ được gỡ bỏ nhờ việc con tham gia đấy.” Hẳn là quản lí đã lỡ gật đầu với biên tập viên, “Chuyện nhỏ ấy mà,” nên giờ mới cuống quýt tuôn ra một tràng năn nỉ. “... Buổi tiệc đọc sách ấy được tổ chức ở đâu, khi nào ạ?” “Vào đêm Valentine, ở ‘Sơn trang Yoshida’. Hôm đó đúng ra là một ngày đặc biệt với con, vậy mà... Bố cảm thấy có lỗi quá.” Nghe những lời ấy, tôi chợt nhíu mày, “Hửm?” “Ngày đặc biệt với con” là sao? Valentine có gì đặc biệt với anh Holmes à? Hay là đối với tất cả những chàng trai trẻ, ngày Valentine đều có ý nghĩa đặc biệt? ... Nhắc mới nhớ, sắp đến Valentine rồi. Thật lòng mà nói, tôi muốn tặng sô-cô-la cho anh Holmes. Dù sao thì thường ngày anh ấy cũng giúp đỡ tôi rất nhiều. Có điều, nếu tặng sô-cô-la vào ngày Valentine, liệu tôi có bị anh ấy hiểu nhầm không nhỉ? Tôi phải cố gắng chuẩn bị loại sô-cô-la nào đó không bị nhầm là sô-cô la tình yêu mới được. Mà sô-cô-la như thế nào thì người ta có thể nhìn phát biết ngay là sô cô-la nghĩa vụ? Tôi đang nghĩ ngợi lan man thì anh Holmes rướn nửa thân trên lên. “Sơn trang Yoshida à, nghe không đến nỗi nào nhỉ.” Hai mắt anh sáng trưng, xem chừng rất có hứng thú với địa điểm đó. “Cái nơi gọi là ‘Sơn trang Yoshida’ ấy tuyệt lắm ạ?” Anh Holmes gật đầu đáp lại câu hỏi của tôi. “Ừ. ‘Sơn trang Yoshida’ nằm ở lưng chừng núi Yoshida, vốn được xây vào đầu thời Chiêu Hoà làm biệt phủ cho gia đình Higashifushimi no Miya, em trai nuôi của Thiên hoàng Chiêu Hoà. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó trở thành một quán trọ ẩm thực, nhưng thi thoảng còn tổ chức những sự kiện chẳng hạn như hoà nhạc, tóm lại là một sơn trang hết sức tráng lệ và tuyệt vời. Tổ chức tiệc đọc sách ở một nơi như thế, xem ra gu của cô Aigasa cũng khá đây.” Nghe anh Holmes say sưa kể, tôi ồ lên hào hứng. “Núi Yoshida, tức là gần đại học Kyoto... chỗ đền Yoshida ạ?” “Phải. Nó nằm lệch về phía Đông hơn chút nữa. Em chạy xe về hướng Đông đường Imadegawa, sau đó rẽ xuống phía Nam đường Kaguraoka, đi được một đoạn rồi nhìn sang bên phải là sẽ thấy nó.” “Chỗ đó cũng gần Con đường Triết Học nữa.” Nghe quản lí bổ sung thêm, tôi lơ đễnh gật đầu. Từ lúc chuyển đến Kyoto, tôi đã đạp xe đi chỗ này chỗ kia, nhưng vẫn còn rất nhiều con đường và địa điểm mà tôi chưa biết tới. “Anh cũng rất muốn cho Aoi cơ hội tiếp xúc với sự tuyệt vời của ‘Sơn trang Yoshida’ em có bằng lòng cùng anh đến buổi tiệc đọc sách ấy không?” Nhìn anh Holmes đột nhiên trở nên sốt sắng hơn hẳn, tôi khẽ phì cười. Quản lí mà nhắc đến “Sơn trang Yoshida” ngay từ đầu thì anh ấy đã chẳng cằn nhằn. Cái tính cách tưởng chừng khó chiều, nhưng thực ra rất đơn giản của anh Holmes kể ra cũng dễ thương ra phết. “Vâng, em cũng muốn đi một lần cho biết ạ.” Thấy tôi gật đầu, quản lí đưa tay lên ôm ngực như vừa được cứu một bàn thua trông thấy. T 2 hế rồi, ngày Valentine cũng đến. Theo chương trình, buổi tiệc đọc sách sẽ mở cửa đón khách từ năm rưỡi chiều và khai mạc lúc sáu giờ. Vì thế, chúng tôi căn giờ rời khỏi cửa hàng và đi ô tô lên núi Yoshida. “Thứ được bỏ trong chiếc phong bì mà quản lí đưa cho tụi mình trước khi đi là thiệp mời anh nhỉ. Em xem có được không?” Tôi ngồi ghế phụ lái và lục ra từ trong túi một chiếc phong bì kiểu Tây màu trắng. “Ừ, nhờ em đấy.” “Vâng ạ.” Khi tôi cẩn thận mở nắp phong bì, dòng tiêu đề “Đêm Valentine: Dạ tiệc tại ‘Shinkokan’ của Sơn trang Yoshida ~Tiệc đọc sách Linh hồn của Aigasa Kurisu~” đập vào mắt tôi. “... Thiệp ghi dạ tiệc ở Shinkokan, là sao ạ?” “À, tiệc đọc sách sẽ không diễn ra ở sơn trang, mà ở Shinkokan. Đó cũng là một điểm rất tinh tế. Shinkokan là tên của một quán cà phê nằm trong khuôn viên Sơn trang Yoshida. Nó là một ngôi nhà kiểu Âu nhỏ, tựa như căn cứ bí mật, với vẻ ngoài được bảo toàn nguyên trạng như hồi mới xây vào thời đại của gia đình hoàng tử, cũng là một nơi hết sức tuyệt vời. Với anh, nó là một trong những quán cà phê đáng ghé thăm đếm trên năm ngón của một bàn tay. Có điều, đã lâu rồi anh không đến đó, nên giờ anh vui lắm.” Anh Holmes vừa lái xe vừa sung sướng kể. “Một trong những quán cà phê đáng ghé thăm đếm trên năm ngón của một bàn tay ấy ạ?” Anh Holmes thích đi cà phê, và đã chinh phục hết những quán cà phê trong nội thành Kyoto. Quán cà phê lọt được vào Top 5 của anh Holmes hẳn phải là nơi thật sự tuyệt vời. “À, đấy chỉ là ý kiến của cá nhân anh thôi nhé?” Anh ấy nhấn mạnh. “Vâng, em biết mà. Bốn quán cà phê còn lại là những quán nào thế ạ?” Tôi hơi ngả người sang để hỏi. Anh Holmes lầm bầm, “Bốn quán còn lại ư?” rồi nhíu mày im lặng. “... Xin lỗi em. Anh có quá nhiều quán cà phê yêu thích, không chọn ngay bây giờ được, để anh từ từ cân nhắc nhé.” Sau một hồi nín thinh, có vẻ suy nghĩ rất dữ, anh Holmes buông một câu làm tôi phì cười. “Nhưng vị trí trong Top 5 của ‘Shinkokan’ ở Sơn trang Yoshida vẫn không xê dịch ạ?” “Ừ, dáng vẻ bên ngoài, nội thất, không khí, cảnh sắc từ cửa sổ nhìn ra, tất cả đều đánh trúng sở thích của anh.” “Chứ không phải là hương vị của cà phê ạ?” “Đương nhiên có cả hương vị rồi. Cà phê ở Sơn trang Yoshida ngon lắm. Nhưng vốn cái anh tìm kiếm ở quán cà phê là ‘không gian’, quan trọng là ta có thể tận hưởng khoảng thời gian thoải mái như thế nào. Nếu chỉ là hương vị cà phê thì anh tự pha ở nhà theo sở thích của mình là được.” “Ồ, cũng đúng.” Đó chắc là đạo lí thưởng thức quán cà phê của anh Holmes. Chúng tôi đi từ bãi để xe ngầm ra đường Oike, rồi rẽ ngay lên phía Bắc đường Kawabata. “Đường Kawabata[35]” đúng như tên gọi, là một con đường chạy dọc bờ Đông sông Kamo. Ở đây có thể ngắm sông Kamo, xuân có anh đào, thu có lá đỏ, cũng là nơi thích hợp nhất để tản bộ hoặc đạp xe. “Đường Kawabata tuyệt anh nhỉ. Em thích đạp xe, nên thi thoảng em vẫn chạy xe qua đường này những lúc đi từ nhà đến ‘Kura’ dù hơi mua đường một tẹo” Tôi vừa nhìn ra ngoài cửa sổ vừa cảm thán. “Ừ, có thể ngắm sông và cây cối đúng là thích thật. À phải rồi, nghe nói đường Kawabata ngày xưa là một tuyến đường sắt đấy. Tuy chỉ kéo dài đến đường Sanjo thôi.” Như vừa sực nhớ ra, anh Holmes nói. “Hơ, đường Kawabata từng là đường sắt ạ?” “Ừ, đấy là chuyện từ trước khi anh sinh ra cơ. Có vẻ là tàu điện Keihan từng chạy qua đây cho đến năm đầu tiên của thời đại Bình Thành[36]. Sau đó, do quy hoạch lại nên đường sắt đã được chuyển xuống dưới lòng đất.” “Hoá ra là vậy. Nhưng mà, để tàu điện chạy dọc bờ sông sẽ tạo thành một khung cảnh nên thơ, như thế hay hơn chứ nhỉ?” “Ừ, em nói không sai, nhưng nghe nói từ khi chuyển thành đường bộ, việc đi lại cũng trở nên thuận tiện hơn rất nhiều đấy.” Tôi đang gật gù lẩm nhẩm, “ra thế” thì anh Holmes đã đến đường Marutamachi và rẽ về phía Đông. “Không phải rẽ ở đường Imadegawa hả anh?” “Ừ, rẽ về phía Đông ở đường Marutamachi, đến đường Yoshida Higashi thì đi lên phía Bắc một chút, sau đó chui vào một con đường nhỏ và đi tiếp về phía Đông thì sẽ gần hơn.” “... Ồ.” Dân bản địa có khác. Cứ thế đâm thẳng vào đường nhỏ mà không cần thiết bị định vị luôn. Trong lúc tôi còn đang mải thán phục, ô tô của chúng tôi đã chạy vào con đường nhỏ. Chẳng mấy chốc, cổng Sơn trang Yoshida đã hiện ra. Thứ lọt vào tầm mắt tôi bên cạnh cánh cổng trông y như cổng chùa ấy là một tấm biển màu đen viết chữ trắng: “Sơn trang Yoshida”. Xe chúng tôi chui qua cổng và leo lên một con dốc thoai thoải. Sau đó, theo chỉ dẫn của nhân viên trong vườn, chúng tôi dừng và xuống xe. Đứng trước “Sơn trang Yoshida” mọc lên sừng sững giữa vườn cây được chăm chút kĩ lưỡng, tôi không khỏi reo lên ngưỡng mộ. Đó là một căn nhà kiểu Nhật không quá lộng lẫy, mà mang vẻ trầm mặc thanh tao. Quả đúng là phong cách biệt phủ của gia đình hoàng tử. “Tuyệt quá. Nhìn thôi đã cảm nhận được bề dày lịch sử anh nhỉ.” “Ừ. Sơn trang này được xây dựng vào năm Chiêu Hoà thứ bảy[37], nghe nói toàn bộ đều được dựng bằng gỗ cây bách xoắn. Nó không chỉ trang nhã mà còn toả ra hơi ấm nữa kia.” “Vâng, nơi này trang nhã, ấm áp, khơi dậy cảm giác hoài niệm về một quá khứ xa xôi. Chưa kể là nó cũng không giống một công trình kiến trúc thời Minh Trị - Đại Chính, mà đậm chất “đầu thời Chiêu Hoà”. Nói sao nhỉ, như là căn nhà xuất hiện trong tiểu thuyết của Yokomizo Seishi[38] ấy ạ…” Tôi vừa chăm chú ngắm sơn trang vừa thì thào. Anh Holmes cười và nói. “Công nhận. Bầu không khí giống với căn nhà cổ nơi Kindaichi Kosuke được mời đến nhỉ.” “Vâng, cảm tưởng như Kindaichi Kosuke sẽ vừa gãi đầu vừa chui ra khỏi nhà ngay lúc này ấy. À, cả cô chủ nhà cực kì xinh đẹp nữa.” “Hoặc một bà cụ hay lẩm bẩm những câu quái gở.” “Đúng rồi, trong truyện có xuất hiện bà cụ hơi đáng sợ anh nhỉ!” Hai chúng tôi nhìn nhau và cười rúc rích. “Giờ thì...” Anh Holmes quay người, miệng vẫn cười tươi rói, “bên này là ‘Shinkokan’.” Căn nhà phụ “Shinkokan” chỉ cách Sơn trang Yoshida có một đoạn. Gọi là dinh thự kiểu Âu nhỏ, nhưng nó không mang kiến trúc phương Tây tráng lệ, mà là một căn nhà gỗ mộc mạc, tựa như ẩn mình giữa khu rừng. “Căn nhà này, nói sao nhỉ, dường như có thể xuất hiện trong tác phẩm của Miyazawa Kenji[39]. Hình tượng ‘Quán Mèo Rừng’ trong trí tưởng tượng của em chắc cũng từa tựa thế này.” Nghe tôi trình bày cảm nhận, anh Holmes khoanh tay trước ngực với vẻ đồng tình. “Ra thế. Trong ‘Quán ăn lắm yêu sách’[40] nhỉ?” “Đúng rồi ạ. Nhớ thật đấy. Hồi tiểu học em đã từng đọc nó.” “Quán ăn lắm yêu sách” là một câu chuyện kì ảo pha chút rùng rợn về hai thanh niên đi lạc vào rừng và gặp một nhà hàng có tên “Quán Mèo Rừng”. Khi bước vào, họ buộc phải đáp ứng một loạt yêu sách, cuối cùng mới phát hiện ra rằng nhà hàng ấy không phải “nơi người ta có thể thưởng thức món ăn, mà là “nơi người ta bị biến thành món ăn”. “Trong ‘Quán ăn lắm yêu sách’, anh nhớ nhất câu: ‘Xin hãy dùng kem trong lọ thoa kín mặt mũi tay chân.’ Câu chuyện này đọc từ góc nhìn của kẻ bị ăn thì đáng sợ, nhưng trên quan điểm của kẻ ăn thịt thì lại khá là phấn khích.” Anh Holmes trích nguyên câu văn trong “Quán ăn lắm yêu sách” và quay sang nhìn tôi tìm kiếm sự đồng tình làm tôi cứng cả mặt. “B-Bình thường chẳng ai đọc nó ‘trên quan điểm của kẻ ăn thịt’ đâu ạ.” Anh Holmes cười bảo, “Vậy thì cho anh xin lỗi,” rồi nhìn về phía căn nhà kiểu Âu. Phía trước Shinkokan, người ta dựng một tấm biển đứng với dòng chữ “Đêm Valentine: Dạ tiệc tại ‘Shinkokan’ của Sơn trang Yoshida ~Tiệc đọc sách Linh hồn của Aigasa Kurisu~”, trước cửa treo thông báo “đang chuẩn bị”. “Vẫn chưa mở cửa nhỉ? Xem ra anh em mình trót đến hơi sớm rồi.” “Đúng thật.” Cơ mà cũng chỉ còn có mười lăm phút, chắc lát nữa cửa sẽ mở thôi. Tôi nhìn lại tấm biển, thấy dòng chữ “Valentine” mới giật mình nhớ ra một chuyện, “Ph-Phải rồi. Hôm nay là Valentine nên em có mang theo sô-cô-la. Nếu anh không thấy phiền thì mong anh nhận ạ.” Tôi lôi từ trong túi xách ra một gói quà rồi chìa cho anh Holmes trước khi quên khuấy mất. “Ơ, anh nhận cũng được sao?” Anh Holmes tròn mắt ngạc nhiên. “Vâng, coi như cảm ơn những gì anh đã làm cho em từ trước đến giờ ạ.” Có thể nhìn thấy sô-cô-la bên trong qua lớp giấy gói trong suốt. Những thỏi sô-cô-la có hình gương mặt nhìn nghiêng đang ngậm tẩu thuốc của Sherlock Holmes, cùng với dòng chữ: “Cảm ơn anh đã luôn chiếu cố.” “Sô-cô-la Sherlock Holmes à?” Vừa chăm chú nhìn gói sô-cô-la trong tay, anh Holmes vừa nói với vẻ có chút thích thú. “Vâng, dù sao anh cũng là ‘Holmes của phố Teramachi’ mà” . “Cảm ơn em. Sherlock Holmes là nhân vật yêu thích của anh, nên anh rất vui.” Nghe anh Holmes nói tiếp như thế, tôi ngẩng phắt mặt lên. “Ủa? Anh Holmes... thích Sherlock Holmes ạ?” “Ừ, anh là fan cứng của ông ấy mà.” “Th-Thế thì tại sao, lần nào có người gọi anh bằng cái tên Holmes, anh cũng giải thích rằng, ‘vì họ anh là Yagashira’?” “Đấy là bởi vì chính anh cũng là người hâm mộ Sherlock Holmes. Được người ta gọi là ‘Holmes’, anh vừa thấy vinh dự, vừa thấy có lỗi. Giả sử Aoi được gọi là ‘nàng Irene của khu Shimogamo’, chắc em cũng không chỉ đơn thuần cảm thấy vui đúng không?” Irene ở đây là Irene Adler, một nhân vật xuất hiện trong bộ tiểu thuyết “Sherlock Holmes”. Cô được xem như nàng Madonna[41] của tác phẩm, một người phụ nữ vô cùng tài trí và quyến rũ. “... Dạ không, chuyện em được gọi là ‘nàng Irene của khu Shimogamo’ ngay từ đầu đã chẳng thể xảy ra rồi. Ví dụ của anh khiên cưỡng quá.” Tôi nói, mặt đơ ra. “Tạm bỏ qua ví dụ vừa rồi, em còn nhớ hồi mới gặp, anh Akihito khi biết chuyện người ta gọi anh là Holmes đã tỏ thái độ khó chịu ra mặt không? Anh rất hiểu tâm trạng ấy.” “Ồ, ra là vậy.” Bản thân anh Holmes là người hâm mộ Sherlock, nên mới sinh ra câu cửa miệng “vì họ anh là Yagashira”. Anh Holmes nhìn xuống gói sô-cô-la một lần nữa, mặt giãn ra sung sướng. “Cảm ơn em nhiều lắm. Cái này cũng có thể coi như một món quà sinh nhật tuyệt vời rồi.” “... Sinh nhật?” “Ừ, hôm nay, ngày mười bốn tháng Hai, Valentine là sinh nhật anh.” “H-Hảảảả?” Giọng tôi vỡ oà ra bởi sự thật không ngờ tới ấy. “Em đâu cần ngạc nhiên thế?” “Ph-Phải ngạc nhiên chứ, vì em có biết gì đâu.” Gượm đã, vậy nên quản lí mới gọi hôm nay là “ngày đặc biệt với con”. Ai ngờ lại là sinh nhật của anh Holmes cơ chứ. “Anh nghĩ mình chưa có nói, nên em không biết cũng là chuyện đương nhiên.” “N-Nếu anh chịu nói trước thì em đã chuẩn bị quà cho anh rồi.” “Anh nhận được quà rồi mà. Cảm ơn em.” Anh Holmes cầm gói sô-cô-la trong tay, miệng cười hồn nhiên như đứa trẻ. “Kh-Không, đó là quà ‘Valentine’. Em muốn trao quà sinh nhật đàng hoàng cho anh cơ.” “Được em quan tâm như vậy là anh mừng rồi.” “Không, không được, mai em sẽ chuẩn bị cho anh. Thú thực là gặp người như anh Holmes, em chẳng biết phải tặng gì, chỉ sợ lại trao phải món quà nhạt nhẽo như gói bánh quy tự làm đợt Giáng Sinh.” “Nó không hề nhạt nhẽo!” Thấy anh ấy cao giọng như thể bị xúc phạm, tôi lại tròn mắt ngạc nhiên. “À, không, gói bánh quy lần ấy khiến anh rất vui. Anh cứ tiếc rẻ nên mỗi ngày chỉ dám ăn một ít... Bánh ngon lắm.” Nói thế xong, anh Holmes lấm lét đảo mắt nhìn đi chỗ khác. Thấy vậy, tim tôi đập rộn ràng vì niềm hạnh phúc bất ngờ. “C-Cảm ơn anh ạ.” Tôi không nghĩ là anh ấy lại mừng đến vậy. “Th-Thế nghĩa là anh Holmes đã sang tuổi hai mươi ba rồi ạ?” “Ừ, anh hai mươi ba tuổi rồi.” “Chúc mừng anh. Vậy là giờ anh còn trưởng thành hơn trước rồi.” “... Cảm ơn em. Đúng là anh ‘trưởng thành hơn trước’ thật.” Anh Holmes nói thế, khuôn mặt trông có vẻ khổ sở. Đúng lúc tôi đang nghiêng đầu không hiểu tại sao anh Holmes lại có biểu cảm đó, anh ấy khẽ ngẩng lên, mắt hướng về phía chiếc xe chở khách loại nhỏ vừa chạy vào sơn trang. “... Những vị khách khác đã đến, cửa cũng mở rồi. Anh em mình vào thôi.” “Dạ, vâng.” Tôi tiến về phía cánh cửa của Shinkokan, vừa đi vừa liếc nhìn chiếc xe khách. Một nhóm người gồm cả nam lẫn nữ đang nối đuôi nhau xuống xe. Bị cơn gió lạnh se sắt của tháng Hai dẫn dụ, tôi ngước lên và thấy bầu trời buổi hoàng hôn đang trải rộng. Phía Tây nhuộm sắc cam, phía Đông ngả màu chàm, trên đỉnh đầu là vầng trăng xanh bạc treo lơ lửng. Cây cối, sơn trang, mặt trăng khổng lồ nhìn lên từ công trình kiểu Âu cổ kính đẹp đến mức khiến người ta nín thở, mang màu huyền ảo tựa hồ cảnh vật thuộc về một thế giới khác. Tất cả như đang ngầm báo trước những sự kiện sẽ xảy ra trong buổi tiệc đọc sách sau đây. 3 “K ính chào quý khách.” Ngay ở lối vào Shinkokan, người ta đã dựng sẵn một quầy tiếp tân dành cho buổi tiệc đọc sách. Phụ trách tiếp tân là một cô gái trẻ tầm trên dưới hai mươi tuổi, có vẻ là sinh viên đi làm bán thời gian. Chị ấy không bận trang phục gothic lolita giống “Aigasa Kurisu”, mà mặc một chiếc váy màu vang đỏ theo phong cách cổ điển đương đại, gợi nhớ đến thời kì Đại Chính. Cách ăn mặc ấy nếu bắt gặp ở nơi nào khác chắc sẽ nổi bần bật, nhưng lại ăn rơ với ngôi nhà kiểu Âu cổ kính này đến không ngờ. “Phiền quý khách cho xem vé vào cửa hoặc vé mời ạ.” Chị nhân viên tiếp tân mỉm cười thân thiện. Tôi hấp tấp chìa ra nguyên cả chiếc phong bì kiểu Tây màu trắng mà quản lí đã giao cho. “Tôi xin phép,” chị ấy bắt đầu kiểm tra bên trong. “Ngài Yagashira phải không ạ? Xin chào mừng. Mời ngài đi tiếp lên tầng hai ạ.” Chị ấy chỉ về phía chiếc cầu thang bên cạnh lối vào. Chúng tôi cúi chào chị tiếp tân, rồi cứ thế đi lên tầng hai. Trong lúc leo cầu thang, tôi liếc thấy những vị khách vào quán sau chúng tôi đang trả phí dự tiệc. Có vẻ như khách mời được vào cửa miễn phí, còn khách khác sẽ bị thu tiền. Sau khi leo hết bậc thang, tôi đứng trước quán cà phê tầng hai, miệng vô tình buột ra một câu cảm thán, “Tuyệt quá...” Sàn ở đây có lẽ nên gọi hẳn là “sàn gỗ” thay vì “nền nhà” cho chính xác. Trên mặt sàn nâu cháy mà nếu đi lại chắc sẽ nghe thấy rõ tiếng bước chân, có năm chiếc bàn gỗ tương đối sáng màu. Mỗi bàn đều được tô điểm bằng những đoá hồng đỏ rực. Cửa sổ khung gỗ đồng màu với sàn nhà cùng bức tường trắng tạo nên sự tương phản vô cùng đẹp mắt. Trần nhà treo một chùm đèn nhỏ xinh. Bên tường có cửa sổ được trang hoàng bằng những chiếc đèn cổ trông giống như đèn lồng. Cạnh khung cửa sổ ấy, một chiếc sô pha đơn bọc nhung màu đỏ như máu được đặt lẻ loi. Chắc người ta sẽ ngồi đấy để đọc sách. Tiếng đàn cello vang lên rất đỗi êm đềm. Giữa khoảng không gian đầy vẻ hoài cổ, hương hoa hồng thoảng qua làm tôi ngây ngất. Cảm giác như thể vô tình lạc tới một thế giới khác thật kì lạ biết bao. “... Em có sao không?” Nghe anh Holmes hỏi, tôi mới hoàn hồn, ngẩng mặt lên và đáp. “Dạ, không...” Chỉ là em thấy nơi này cứ như một chiều không gian khác thôi. Vừa tự bổ sung trong lòng như thế, tôi vừa nhìn sang anh Holmes. Thấy anh ấy không hề lạc lõng dù đứng giữa nơi này, tôi toét miệng cười trong vô thức. Nghĩ lại thì mới đầu, khi bước chân vào cửa hàng đồ cổ “Kura”, tôi cũng ngỡ rằng đó là một thế giới khác. “... Đây là lần đầu tiên em dự tiệc đọc sách, có phải tác giả sẽ là người đọc sách không ạ?” Tôi xốc lại tinh thần và hỏi. Anh Holmes nhẹ nhàng lắc đầu. “Không, anh nghĩ việc đó sẽ được giao cho người đọc sách chuyên nghiệp. Đối với một nhà văn, có lẽ không còn gì tra tấn hơn đích thân đọc thành tiếng những gì chính mình viết ra trước mặt người khác.” “Hơ, thế ạ?” “Như bố anh ấy, chỉ cần trông thấy người ta mở sách của mình trước mặt là đã chịu không nổi rồi.” “H-Hể, ra thế.” Nhưng vậy cũng giống tính cách của quản lí. “Vậy nên, thi thoảng anh lại nói, ‘Câu này hay thật đấy’ rồi đọc to lên cho bố nghe. Ông sẽ bối rối đỏ mặt, rồi lập tức trốn tiệt đi đâu mất.” Nhìn anh Holmes khúc khích cười, mặt tôi cứng lại, Xem chừng đến cả người làm cha cũng không thoát khỏi sự “nham hiểm” của anh. (Quản lí cố lên...) Trong lúc chúng tôi trò chuyện, những vị khách khác đã lao nhao lên tầng hai. Một người đàn ông có lẽ ngoài ba mươi tuổi, hai cô gái ngoài đôi mươi, và hai người đàn ông nữa theo sau họ, chắc là đi cùng nhóm khách nữ. Cuối cùng là một người đàn ông độ bốn mươi tuổi trong bộ âu phục nhàu nhĩ xuất hiện với vẻ phiền hà. ... Hiện tại đã có sáu người. Tính cả chúng tôi thì là tám. Nơi này không quá rộng rãi, dựa vào số bàn để suy luận thì chắc khách khứa cũng chỉ có ngần này? So với tiệc đọc sách của một tác giả danh tiếng thì quy mô hình như hơi nhỏ. Đấy là chưa kể đến việc tôi tưởng người hâm mộ “Aigasa Kurisu” phải thuộc thế hệ trẻ hơn cơ... Dường như đoán được suy nghĩ của tôi, anh Holmes giơ điện thoại cho tôi xem. “Anh đã kiểm tra trang thông tin chính thức của nhà văn Aigasa, không thấy đả động gì đến buổi tiệc đọc sách này cả.” Nghe câu ấy xong, tôi cũng nhìn vào màn hình điện thoại của anh Holmes và thử đọc trang web chính thức của “Aigasa Kurisu”. Ấn tượng nhất là bông hồng đỏ nổi lên giữa nền đen, còn phần thông tin quan trọng chỉ có một lời tạ lỗi về việc “chậm trễ phát hành sách mới”. “Có khi buổi tiệc đọc sách này là tiệc thử nghiệm dành cho người quen trước khi tổ chức tiệc chính thức.” Nghe anh Holmes bổ sung như thế, tôi thấy bị thuyết phục liền gật đầu. Có lẽ vì vậy mà quy mô buổi tiệc mới nhỏ, độ tuổi người tham dự cũng khá cao. “Nhân dịp được mời đến buổi tiệc đọc sách lần này, anh đã đọc qua một vài tác phẩm của nhà văn Aigasa.” Anh Holmes nói tiếp. “Em cũng vậy” tôi gật đầu đáp. “Nhưng vì thể loại bí ẩn rùng rợn mang màu sắc tâm linh không phải sở trường của em, nên em chỉ đọc được một cuốn.” “Nghe nói cô Aigasa sáng tác với phong cách thời trang gothic lolita, anh còn tưởng truyện của cô ấy sẽ nhẹ nhàng hơn, nhưng đúng là không được phép nhận định trước. Những tình tiết man rợ trong truyện vừa khơi dậy nỗi sợ, vừa không phản bội kì vọng của độc giả. Đặc biệt, anh rất ngạc nhiên trước những mưu mẹo được xây dựng một cách tài tình, cùng kết cấu trau chuốt gây ấn tượng sâu đậm. Cô ấy khiến anh liên tưởng đến một tượng đài nữ văn sĩ của nước Anh ngày xưa, từng được ca tụng là ‘nữ hoàng của dòng truyện bí ẩn’. Việc một tác giả như vậy có nhiều người hâm mộ trung thành cũng dễ hiểu thôi.” “Vâng, sách của cô ấy tuy không hợp với em, nhưng em nghĩ sẽ có nhiều người thích cách cô ấy xây dựng thế giới.” “Nghe nói hồi còn theo học tại một trường dạy nghề trong lĩnh vực sản xuất hoạt hình, tác phẩm của cô Aigasa đã lọt vào danh sách những tác phẩm khá trong ‘Giải Khai quật Tân binh’, một cuộc thi sáng tác truyện và nộp bản thảo công khai quy mô nhỏ do nhà xuất bản tổ chức hằng tháng. Nó đã giúp cô ấy có cơ hội ra mắt công chúng, nhưng số tiền thưởng có nhận được khi ấy chỉ vỏn vẹn một trăm nghìn yên.” “Ơ, thế cơ ạ?” Đạt giải khá trong một cuộc thi nhỏ, đã vậy tiền thưởng còn có mỗi một trăm nghìn yên, đúng là một khởi đầu giản dị, khó mà hình dung nổi nếu nhìn vào những gì cô ấy đã đạt được ở thời điểm hiện giờ. “Ừ, Có vẻ như khi ấy, nhà xuất bản cũng không kì vọng quá nhiều vào cô Aigasa. Tuy nhiên, tác phẩm đạt giải của cô ấy lại nhận được phản hồi tương đối tốt lúc đăng lên tạp chí. Sau khi tiến hành sửa chữa bổ sung và ra sách, tác phẩm ấy bán đắt như tôm tươi, thế là trong nháy mắt, cô ấy đã trở thành nhà văn nổi tiếng.” “Đúng là một câu chuyện thành công.” Tôi gật gù ngưỡng mộ. Đúng lúc đó, một người đàn ông ngoài ba mươi vừa trông thấy anh Holmes liền xáp lại gần chúng tôi, mắt lấp la lấp lánh. “Em có phải con trai của nhà văn Ijuin không?” Khi chúng tôi ngoảnh lại... “À, xin lỗi, anh là biên tập viên Hashimoto. Trước anh từng phụ trách cô Aigasa, còn hiện đang là biên tập viên của Ijuin tiên sinh.” Biên tập viên tự xưng là Hashimoto tươi cười chia danh thiếp. Với thân hình cao ráo và gương mặt hiền lành dễ khiến đối phương gỡ bỏ hàng rào cảnh giác, người như anh ấy chắc sẽ được lòng, hay nói đúng hơn là dễ chiếm cảm tình của phụ nữ. Vẻ ngoài của anh giống một “nhà sản xuất đến từ đài truyền hình” hơn là “biên tập viên của nhà xuất bản”. “Cảm ơn anh đã luôn giúp đỡ bố em. Em là Yagashira Kiyotaka. Hiện đang là sinh viên, đồng thời cũng phụ việc ở cửa hàng của ông nội.” Anh Holmes cũng lôi danh thiếp của “Kura” ra khỏi túi và trao đổi nó với anh Hashimoto. “Cho anh xin lỗi, dịp này đã làm khó em rồi. Chẳng là cô Aigasa nghe được tin đồn về em, nên cứ nằng nặc đòi em tới dự. Chà, quả là một chàng thanh niên tuấn tú y như trong lời kể.” Anh Hashimoto khoanh tay trước ngực, gật gù một hồi rồi nhìn sang tối. “Còn cô bé này, phải chăng là bạn g...?” “D-Dạ không, em là Mashiro Aoi, nhân viên làm thêm của ‘Kura’ ạ,” tôi vội vàng tự giới thiệu và cúi đầu. “Aoi chắc là học sinh cấp ba nhỉ?” “Vâng ạ.” “Hây, thích nhỉ, nữ sinh trung học à...” Thấy anh Hashimoto cười tít mắt, anh Holmes lập tức bước lên chắn phía trước tôi. “Anh Hashimoto hình như đã kết hôn, sao hôm nay lại tới một mình thế ạ?” Khi anh Holmes cố tình chĩa ánh mắt về phía chiếc nhẫn trên ngón áp út trái của anh Hashimoto, anh ấy bèn gật đầu. “À ừ. Tại có con đấy. Vợ anh đang mang thai, nên hôm nay anh đến một mình.” Nói rồi, anh ấy nhún vai. Từ biểu cảm khó tả của anh Hashimoto lúc trả lời “tại có con đấy”, có thể đoán được rằng anh ấy vẫn chưa muốn kết hôn. Tôi không thể không cảm thấy tội nghiệp cho chị vợ khi bị chồng tỏ thái độ ra mặt như thế. Tuy là vẫn có khả năng một khi đứa trẻ chào đời, suy nghĩ của anh ấy cũng sẽ thay đổi... Giữa lúc tôi đang chìm trong tâm trạng phức tạp, nhân viên phục vụ đã bưng khay đến cùng với hồng trà, cà phê, trà hoa nhài, nước quả, bánh sandwich, bánh scone, kẹo... trong đó có rất nhiều kẹo sô-cô-la, chắc bởi hôm nay là Valentine nhỉ? “Quý khách muốn dùng thức uống gì ạ?” """