" Holmes ở Kyoto 3: Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Holmes ở Kyoto 3: Tâm Tư Lẩn Khuất Cõi Trần Ai PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HOLMES Ở KYOTO - TẬP 3 ~ Tâm tư lẩn khuất cõi trần ai ~ Tác giả: Mai Mochizuki Người dịch: Ninh Nhân Văn Phát hành: WingsBooks Nhà xuất bản Kim Đồng 2021 —✥— ebook©hotaru-team Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes.” Cháu trai ông chủ tiệm đồ cổ “Kura” ở khu phố Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng có thể trở nên sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura” và được Kiyotaka chỉ dạy về mĩ thuật cổ. CHƯƠNG MỞ ĐẦU TÂM TƯ THẦM KÍN Ở khu vực lân cận Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, có đến mấy con phố mua sắm giăng mắc với nhau theo một bố cục tương đối là phức tạp. Những mái vòm nối liền nhau rất dễ khiến người ta nhầm tưởng rằng tất cả đều thuộc cùng một khu mua sắm, nhưng thực chất mỗi con đường lại là một phố mua sắm khác nhau. Từ đường Oike rẽ vào đường Teramachi là “phố mua sắm của Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, đi thêm chút nữa sẽ giao với “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”. “Phố mua sắm Teramachi Kyogoku” và “phố mua sắm Shinkyogoku” chạy song song với nhau, nhìn đằng trước sẽ thấy được “chợ Nishiki”, nơi nổi danh toàn quốc là “nhà bếp của đất kinh kì”. Chỉ nghe tả thế này thôi thì đúng là hơi bị rối rắm, có vẻ đến dân Kyoto cũng nhiều người ú ớ, nên khách du lịch không nắm được âu cũng là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, người đi mua sắm có khi cũng chẳng cần để ý nhiều đến vậy. Từ đường Oike vào “phố mua sắm Hiệp hội Cửa hàng chuyên doanh Teramachi”, người ta có thể ngoặt sang “dãy cửa hàng danh tiếng Sanjo”, và cũng có thể cứ thế đủng đỉnh đi dọc “phố mua sắm Teramachi Kyogoku” hay “phố mua sắm Shinkyogoku” rồi lang thang thăm thú “chợ Nishiki”. Thậm chí ta còn có thể bước qua một loạt những cửa hàng nối liền nhau, rồi bắt gặp một ngôi đền, ngôi chùa nhỏ xinh nào đó. Tiệm đồ cổ “Kura” nằm lặng lẽ giữa khu phố mua sắm với kết cấu y hệt mê cung như vậy. Cửa hàng tuyệt nhiên chẳng mang diện mạo cố tình gây ấn tượng, nên người đi đường nhiều lúc sẽ chỉ lướt qua, nhưng một khi đã để mắt tới nó, người ta sẽ nhận ra rằng nơi đây toát lên một sức hấp dẫn lạ kì. Trong cửa hàng có đèn chùm, bộ sô pha cổ, bên vách tường cạnh quầy thu ngân là giá sách và tủ đựng đồ kiểu Nhật làm bằng gỗ sồi đánh véc ni. Một nơi dung hoà phong cách Nhật Bản với phương Tây, khiến ta liên tưởng đến các quán cà phê mang xu hướng Modern Retro[1] đậm nét. Kim giây của chiếc đồng hồ tủ đứng cỡ lớn đang miệt mài di chuyển phát ra những âm thanh tích tắc. Âm sắc nhạc jazz du dương như hoà nhịp với tiếng kim đồng hồ. Đủ loại đồ cổ và đồ tạp hoá được xếp thành hàng trên giá. Vẫn như mọi khi, thời gian cứ như đã ngừng trôi trong cửa hàng này. Tôi, Mashiro Aoi, nhân viên đang làm thêm trong tiệm, vừa phủi bụi cho các món hàng như thường lệ, vừa đưa mắt liếc về phía quầy thu ngân. Ở đó, một chàng thanh niên với khuôn mặt tuấn tú đang cầm một bức tranh cuộn trong tay và cười tủm tỉm. Tên anh là Yagashira Kiyotaka. Anh ấy là sinh viên cao học, nhờ khả năng quan sát và mắt giám định phi phàm hiếm thấy, lại thêm cái họ “Yagashira” nên anh có biệt danh là “Holmes”. Ngoài ra, anh còn là cháu nội kiêm đệ tử của ông chủ cửa hàng này là ông Yagashira Seiji, người được biết đến với tư cách Chuyên gia giám định cấp Quốc gia. Anh là một thanh niên điển trai với vóc người mảnh khảnh, tóc mái hơi dài, làn da trắng trẻo và sống mũi thẳng tắp. Hoàn toàn tương ứng với ngoại hình ấy, anh cũng là một người lịch thiệp, dịu dàng, nho nhã và có phong thái ứng xử hết sức ôn hoà. Nhưng mặt khác, anh còn là một kẻ tương đối kì quặc, thi thoảng lại tỏ ra nham hiểm, thậm chí có cả cái tính cứng đầu, hiếu thắng, hơn hết là lòng dạ nhiều khi hơi hơi đen tối. Lúc đầu tôi cũng hay bị anh làm cho lúng túng, thế mà chúng tôi đã cùng nhau trải qua khoảng thời gian tới tám tháng rồi. Chắc rằng tôi đã quen hơn nhiều, nên giờ không còn cảm thấy ngạc nhiên trước những nét kì quặc và tính cách hai mặt của anh ấy nữa. “... Bức tranh cuộn treo tường mà bác Ueda mang đến thế nào rồi ạ?” Tôi bước đến và thò mặt lại gần quầy thu ngân. Cuộn tranh anh Holmes hiện đang cầm trên tay là đồ tôi giữ giùm bác Ueda, một khách quen nhẵn mặt của tiệm, trong lúc anh ấy không có mặt ở cửa hàng. “Aoi thấy sao?” Anh Holmes hơi nghiêng nửa thân trên để tôi thấy được cuộn tranh. Một bức tranh được gọi là “mĩ nhân hoạ”, hay nói cách khác... “... Là ukiyo-e[2] anh nhỉ?” “Ừ, đúng rồi.” Bức ukiyo-e ấy vẽ một người phụ nữ hơi cúi đầu, tay cầm tẩu thuốc. Gương mặt mang nét u sầu ấy vô cùng xinh đẹp, nhưng tôi chẳng cảm nhận được sức ép khiến mình phải nín thở chút nào. Nếu được hỏi về tính thật giả của bức tranh này thì tôi có cảm giác đây không phải đồ thật. Có điều, ukiyo-e vốn là “tranh in khắc”, vậy nên... Đối với tranh in thạch bản của nước ngoài, tranh thật được gọi là “thạch bản gốc”, chủ yếu chỉ những tác phẩm do chính tác giả in, hoặc được chế tác tại công xưởng dưới sự giám sát của tác giả. Trước đây, anh Holmes đã dạy tôi điều đó. Vậy thì có phải ukiyo-e cũng giống thế không? “... Tranh khắc ukiyo-e thật với giả khác nhau ra sao ạ? Có phân biệt dựa vào việc ‘tác giả có chính tay in tranh hay không’ giống tranh in thạch bản không anh?” Khi tôi nói ra nguyên văn nghi vấn vừa hiện lên trong đầu, anh Holmes bèn gật gù. “Phải rồi. Ukiyo-e gồm hai loại chính, ‘tranh vẽ cọ’ do hoạ sĩ vẽ nên và ‘tranh in khắc’ được in từ mộc bản. Nhắc ukiyo-e chủ yếu là ám chỉ tranh mộc bản của vế sau, còn tranh vẽ cọ là thứ có một không hai đến từ hoạ sư, cho nên vô cùng giá trị. Hiểu một cách nôm na thì tranh mộc bản phải trải qua những công đoạn như: hoạ sĩ vẽ bản thảo gốc, sau đó giao cho thợ khắc, cuối cùng là đến thợ in thực hiện việc in ra, vậy nên mới tồn tại những bức tranh mộc bản được in cùng thời điểm.” “Thế nghĩa là hoạ sĩ không tự tay khắc mộc bản anh nhỉ?” “Đúng vậy, mỗi công đoạn đều do nghệ nhân với chuyên môn riêng thực hiện.” “Vậy thì với ukiyo-e, chỉ tranh vẽ cọ mới được coi là ‘đồ thật’ ạ?” “Dĩ nhiên tranh vẽ cọ là đồ thật. Còn khi là tranh mộc bản, những bức tranh in ra gần như cùng lúc từ ‘mộc bản gốc’ được khắc vào thời Edo thì đều có giá trị rất cao, tuỳ quan điểm mà sẽ có người gọi chúng là ‘đồ thật’. Càng về các thời đại sau này, dù có chung một mộc bản gốc thì giá trị tranh in ra vẫn giảm đi. Tuy nhiên, dù thế nào thì mộc bản gốc cũng sẽ xuống cấp, và cũng tồn tại nhiều ‘bản phục khắc’ được làm mới ở các thời kì sau.” Nghe anh Holmes giải thích, tôi “ồ” lên hưởng ứng, rồi nhìn xuống bức ukiyo-e một lần nữa. “... Ừm, tranh này rất đẹp, nhưng em có cảm giác nó không phải đồ thật.” Từ biểu cảm, mái tóc, cho đến đường nét đều vô cùng mĩ miều, nhưng tôi không cảm nhận được điều gì đặc biệt toát ra từ nó cả. “Ừ, cái này là tranh in khắc ukiyo-e của Utamaro. Có lẽ là bản phục khắc được in trong thời Chiêu Hoà.” “Utamaro mà anh nói là Utamaro đó ấy ạ?” “Đúng, Kitagawa Utamaro[3] đấy.” Tôi không rành ukiyo-e, nhưng tất nhiên là có biết cái tên này. Đúng vậy, Utamaro là hoạ sư ukiyo-e nổi danh thế giới, tầm cỡ ngang ngửa Hokusai hay Sharaku. “... Anh không nghĩ bác Ueda mang cái này đến vì tin nó là đồ thật có giá trị đâu...” Anh Holmes vừa ngắm nghía bức tranh cuộn vừa cất tiếng thì thào như hơi thở. “Ơ? Sao anh lại nghĩ thế ạ?” Bác Ueda trước khi mang thân phận “khách quen” của cửa hàng thì đã là bạn thân của bố anh Holmes, người thường được gọi là “quản lí”. Hai người chơi với nhau từ thời đại học, quan hệ của bác với nhà Yagashira cũng rất thân mật, mang đến cảm giác giống như một người bà con đối với anh Holmes. Tuy nhiên, bản thân bác ấy hình như không được tinh tường cho lắm. Bác luôn luôn hào hứng mang món đồ gì đó tới và phán, “Bữa nay chắc chắn bác kiếm được hàng khủng đó nha!” rồi lại thất vọng sau khi món đồ được anh Holmes giám định là đồ giả. Hình ảnh ấy để lại trong tôi ấn tượng rất mạnh. Vì thế, tôi đã tưởng rằng lần này bác ấy cũng nghĩ là mình vừa tìm ra một món bảo vật lợi hại rồi mới mang đến, vậy nhưng... “Vốn dĩ, ở thời hiện đại đã chẳng còn nhiều những bức tranh cuộn có giá trị đủ để gọi là ‘đồ thật’. Đến mức ông nội anh còn nói chắc như đinh đóng cột rằng ‘chín phần mười số tranh cuộn ngoài kia đều là đồ giả’.” “Ơ? Chín phần mười... ấy ạ?” Tôi nghe mà hết cả hồn. Ông nội đã mất của tôi cũng có rất nhiều tranh cuộn, vậy có nghĩa phần lớn trong số đó đều là hàng giả hay sao? “Vì sao đồ giả lại nhiều đến thế ạ?” “Cũng không hẳn là đồ giả, mà nói chính xác hơn thì chúng phần lớn là ‘tranh phục chế’. Ở Nhật Bản ngày xưa, tranh cuộn là một món nội thất giá cả phải chăng. Kể cả nhà dân thường cũng có những hốc tường thụt vào, nên người ta cần tranh cuộn để trang trí ở đó. Thế nhưng, một gia đình bình thường sao có thể sắm được đồ đắt tiền, nên họ phải mua ‘bản sao’ tranh của những hoạ sĩ tên tuổi. Có cầu thì ắt có cung, nên về phía thương nhân, họ đã sản xuất bản phục chế tranh của những hoạ sĩ tiếng tăm với số lượng lớn. Đó là văn hoá của thời kì đó, nên đến thời hiện đại, khi tranh cuộn xuất hiện trong nhà kho của gia đình, nhiều người sẽ kì vọng đây sẽ là một thứ thật giá trị, nhưng thường không được như mong đợi.” Tôi gật gù ra chiều đồng tình với những điều anh ấy nói. “Tóm lại là tranh cuộn khi ấy kiểu kiểu như poster thời nay phải không anh?” “Ừ, anh nghĩ là nó cũng thân thuộc cỡ đấy. ‘Bản sao’ tranh của Hokusai, Sharaku, Utamaro cũng được sản xuất rất nhiều. Bức ukiyo-e mà bác Ueda mang đến là một bức tranh in từ bản phục khắc hết sức bình thường, anh nghĩ bác Ueda cũng biết điều này. Vì bác ấy thích ukiyo-e lắm.” Nghe anh Holmes nói vậy, tôi “ồ” lên hưởng ứng. Tôi không hề biết chuyện bác Ueda thích ukiyo-e. “... Lúc mang bức tranh này đến đây, anh đoán bác Ueda không nói mấy câu cửa miệng như ‘hỏi nó xem cái này mấy tiền’, phải không?” Nghe anh ấy hỏi thêm, tôi khoanh tay và hồi tưởng lại chuyện xảy ra khi ấy. Lúc bác Ueda mang bức tranh cuộn này đến, thấy mỗi mình tôi trong cửa hàng, bác hỏi. “Ớ, Holmes hổng có đây hở con?” “Vâng, giờ anh Holmes đang ở trên trường ạ.” “Vậy cũng hông sao, con kêu Holmes coi cái này giùm bác nha.” Nói đoạn, bác lấy từ trong túi ra bức tranh cuộn này rồi đặt nó trên quầy thu ngân. “... Đúng rồi. Nghĩ lại thì đúng là bác ấy không hề nói câu ‘hỏi nó xem cái này mấy tiền’ quen thuộc. Tôi nhớ ra chuyện lúc đó và ngẩng mặt lên. Anh Holmes tỏ thái độ cho thấy việc ấy đúng như anh dự đoán. “Chắc bác Ueda không phải muốn nhờ anh ‘giám định’, mà chỉ muốn cho anh xem bức tranh này theo nghĩa đen thôi.” Anh Holmes nhìn xuống bức tranh mĩ nhân của Utamaro và khẽ nhếch mép. Bác ấy muốn cho anh Holmes xem bức tranh này ư? “... Ừm, đó là vì bác Ueda cho rằng đây là một tác phẩm đẹp bất chấp giá trị của nó ạ?” “Không, anh nghĩ bác ấy muốn anh đoán ra điều gì đó từ bức tranh này.” “Tức là trong bức tranh này chứa đựng một lời nhắn từ bác Ueda ấy ạ?” “Đúng rồi.” “Là lời nhắn gì vậy nhỉ?” “Có thể em sẽ nhận ra sau khi nghe tiêu đề của bức tranh này đấy.” “Tiêu đề tranh là gì thế ạ?” “‘Tình yêu thầm kín đậm sâu’.” “... Tình yêu thầm kín.” Tôi cũng nhìn lại bức tranh mĩ nhân một lần nữa. Người phụ nữ hơi cúi đầu, vẻ sầu muộn phủ trên nét mặt, quả thật giống như đang khổ tâm vì một mối tình không thể tỏ bày. Bác Ueda muốn nhắn với anh Holmes rằng “có người đang mang cảm xúc như thế này” ư...? Nếu vậy thì... “Rốt cuộc là ai đang có tâm trạng này nhỉ?” Chẳng lẽ có người đang ôm nỗi lòng da diết thế này với anh Holmes? Nghĩ đến đây, tôi bỗng thấy hơi nóng ruột. Tại sao tôi lại phải cảm thấy nóng ruột nhỉ… “Là chuyện liên quan đến bố anh rồi.” “... Dạ? Quản lí ấy ạ?” Giọng tối cất lên the thé bởi đó là một nhân vật mà tôi không ngờ đến. “Lúc nào cũng vậy, dù có bắt đầu tìm hiểu người phụ nữ nào đó thì bố cũng sẽ giấu anh.” “T-Tại sao vậy ạ?” “Ngày trước, bố anh từng bảo ‘không muốn mang chuyện yêu đương về nhà’, nhưng anh nghĩ đó là vì có nhiều chuyện bố không muốn bị anh đoán được.” “...” Mặt tôi cứng đờ ra, cảm giác mình cũng hiểu được tâm lí ấy. Tôi quá hiểu cảm xúc của quản lí khi không muốn bị đọc vị hết chuyện nọ đến chuyện kia bởi đứa con trai sắc sảo này. “Cơ mà, có vẻ bố đã bộc bạch đủ điều với bác Ueda rồi.” Bạn bè bằng hữu quả nhiên là thế. Chắc hẳn bác quản lí có thể tâm sự với bác Ueda được cả những chuyện mà bác không thể nói với con trai mình. “Anh dám chắc một điều, người đang qua lại với bố anh có tính đến chuyện kết hôn, nhưng có lẽ đang buồn lòng vì bố anh không có ý định đấy.” “Nghĩa là bức ukiyo-e này ám chỉ người phụ nữ đang hẹn hò với quản lí ạ?” “Có thể đoán như vậy.” “Sao bác Ueda lại gửi lời nhắn cho anh Holmes theo cái cách mất công như thế này nhỉ...?” “Chắc tại bác ấy đã hứa với bố anh là ‘không được kể cho Kiyotaka đâu đấy’. Làm thế này thì sẽ không bị tính là nuốt lời mà.” “Ra vậy. Bác ấy đúng là anh trí.” Tôi phì cười. Không kể lại bằng miệng nên không thể gọi là thất hứa. Đúng là với cách này, bác ấy có thể chống chế rằng, “Tui chỉ cho nó coi tranh cuộn thui mờ.” “Chắc bác Ueda muốn nói với anh thế này: ‘Ổng hổng đi bước nữa là vì nghĩ tới cảm nhận của con đó. Nên là con cởi áo xắn tay giúp ổng đi’.” “Ra thế. Vậy là anh Holmes sẽ cởi áo xắn tay giúp bác quản lí ạ?” Tôi hào hứng nhổm người lên. Cái này gọi là chiến dịch vĩ đại hỗ trợ chuyện tái hôn của quản lí phải không? “Anh không cởi đâu.” “Ơ, không cởi ấy ạ? Cởi đi anh.” “Mấy chuyện cởi với không cởi ấy, giờ mà có khách khứa vào nghe thấy thì oan quá.” Anh Holmes để tay ở cằm và cười khúc khích, khiến má tôi bỗng chốc nóng bừng. “... Xin lỗi, anh trêu em thôi. Vốn dĩ bố anh không tái hôn không phải vì để tâm đến cảm nhận của anh đâu.” “V-Vậy ạ?” “Lúc anh còn nhỏ thì không nói, chứ giờ anh đã là người trưởng thành đàng hoàng rồi. Em nghĩ bố anh sẽ ngại những chuyện như thế hả?” “À, cũng phải. Vậy thì tại sao quản lí lại không tái hôn thế ạ?” “Bố anh độc thân đã khá lâu rồi, anh nghĩ ông thấy thoải mái với tình trạng hiện tại. Đến lúc này rồi chắc bố cũng chẳng còn mong muốn gì cái chuyện kết hôn.” Anh trả lời thản nhiên trong lúc cẩn thận cuộn bức tranh lại. Tôi vừa gật gù và nghĩ bụng, “Hoá ra là vậy à?” vừa cầm cây phủi bụi để chuẩn bị quay lại với công việc dọn dẹp. Nhìn quanh cửa hàng, tự nhiên mắt tôi dừng lại ở bức “thư pháp” lớn treo trên tường. Đây không phải tác phẩm của một nghệ nhân danh tiếng, mà là thư pháp do chủ cửa hàng này và cũng là ông nội anh Holmes, ông Yagashira Seiji thảo nên. Thư pháp là sở thích của ông chủ, thi thoảng có hứng, ông sẽ viết chữ rồi treo trong cửa hàng. Tuy thế, nét chữ của ông vẫn mang một vẻ đẹp tinh tế mà phóng khoáng, khó có thể gói gọn trong một từ “sở thích” đơn thuần. Đúng là “thư pháp” từ đầu bút của người có đôi mắt tinh tường tầm cỡ thế giới có khác. Thật không ngờ ông chủ hào sảng, phóng khoáng ấy lại có thể thảo nên những con chữ thế này. Khoan bàn đến vẻ bề ngoài mà xét về nội tâm bên trong, có lẽ ông là một người kĩ lưỡng và tinh tế. Trên bức thư pháp là một bài waka. “Tình nồng muốn giấu vào tận tâm Mà sao nét mặt chẳng âm thầm Người đời nhìn thấy thời ướm hỏi Hay có người thương rồi phải không?” Một bài thơ của Taira no Kanemori được rất nhiều người biết đến. “... Hôm trước ở đây vẫn còn treo một bài thơ về mùa thu, nên em đã nghĩ có khi lần tới ông chủ sẽ treo một bài thơ về mùa đông, hoá ra lại là thơ của Taira no Kanemori à.” Tôi chăm chú nhìn bức thư pháp rồi quay sang anh Holmes. “Ừ, không biết ông nghĩ gì, hôm trước đột nhiên tới cửa hàng rồi treo bức thư pháp kia lên.” Anh Holmes nói vậy, mắt vẫn nhìn vào sổ cái, không buồn ngó bức “thư pháp” lấy một lần. Cung cách nói chuyện cộc lốc và lạnh nhạt. Sao vậy nhỉ? Anh ấy có vẻ không hoan nghênh bức “thư pháp này cho lắm. “Đây là bài thơ được ngâm trong ‘Hội thơ’ thời Heian anh nhỉ?” Ừ “Ừ, đúng rồi. Nó là bài thơ được ngâm trong ‘Hội thơ Nội cung Thiên Đức[4]’. Em biết rõ ghê.” “Không đến mức ‘biết rõ’ đâu ạ. Chẳng qua em đã đọc được ở đâu đó trong sách thôi. Em còn quên cả cái tên chính thức của nó là Hội thơ Nội cung Thiên Đức kia mà.” Tôi ngại ngùng co vai lại. Thấy vậy, anh Holmes híp mắt như muốn mỉm cười. “... Vào năm Thiên Đức thứ tư, Thiên hoàng Murakami có tổ chức Hội thơ, hay nói cách khác là một cuộc thi phân tranh cao thấp trong sáng tác thi ca. Cuối cùng, trong hiệp đấu thứ hai mươi, Mibu Tadami đã ngâm một bài thơ như thế này: ‘Nghe nói phong thanh truyền vạn lí Biết đâu tình ý đã tỏ bày Thâm tâm tưởng tượng tình tĩnh tại Thiên hạ bất tri, chỉ ta hay’.” “... Bài thơ có ý nghĩa gì vậy ạ?” “Theo lối nói hiện đại, bài thơ ấy có thể hiểu thành: ‘Người ta kháo đủ chuyện linh tinh Chuyện tim tôi có một khối tình Thế mà tôi ngỡ tình thầm lặng Kín đáo chớm nở chẳng ai hay’.” “Oa, hay quá.” Nhờ có anh Holmes truyền đạt lại bằng lối văn hiện đại, tôi trực tiếp cảm nhận được tâm tư khi đang yêu của chàng trai trẻ thời Heian, khiến trái tim này lên một nhịp. Trái tim con người quả là nhiều mối tương đồng, dù có ở thời đại nào đi chăng nữa. “Đối lại bài thơ ấy, Taira no Kanemori đã ngâm bài thơ này.” Anh Holmes hướng mặt về phía bức “thư pháp” treo trên tường. Thấy vậy, tôi cũng đưa mắt nhìn bài thơ của Taira no Kanemori một lần nữa. “Tình nồng muốn giấu vào tận tâm Mà sao nét mặt chẳng âm thầm Người đời nhìn thấy thời ướm hỏi Hay có người thương rồi phải không?” Đây cũng là một bài thơ tình. Bài thơ này thì tôi cũng có thể luận ra nghĩa. Nếu như nhân vật trong bài thơ của Mibu Tadami cố che giấu tâm tình khi yêu nhưng vẫn khiến người ta cảm nhận được niềm phấn khởi và sự tươi sáng ở đâu đó, thì bài thơ này lại gợi lên một nỗi buồn xót xa, một tình cảm nồng cháy giấu kín nơi lồng ngực. “Nghe nói hai bài thơ cùng xuất hiện đều là tuyệt tác, giám khảo nâng lên đặt xuống mãi mà vẫn không xác định được kết quả. Đúng lúc ấy, Thiên hoàng buột miệng ngâm, ‘Tình nồng muốn giấu vào tận tâm…’ nên Taira no Kanemori đã giành chiến thắng.” “Đúng là một cuộc đấu cân tài cân sức anh nhỉ.” “Phải rồi. Cũng có giả thuyết nói rằng Mibu Tadami sau khi thua cuộc đã chết tức tưởi vì không cam lòng đấy.” “H-Hả? Không cam lòng mà chết ấy ạ?” “Tuy không biết thông tin ấy đáng tin cậy đến đâu, nhưng chắc ông ấy cũng phải uất ức đến mức hình thành lời đồn ấy.” “Thì ra là thế, bài nào cũng hay, vậy mà... Tính chuyện hơn thua trong thơ phú như vậy chẳng phải hơi tàn nhẫn sao? Kết quả còn phụ thuộc rất nhiều vào sở thích của người chấm nữa.” “Ừm, anh cũng đồng tình với em. Tuy vậy, ‘nghệ thuật’ vốn là thứ dù ở thời đại nào cũng sẽ bị đem ra so sánh, phân định cao thấp theo sở thích cá nhân của người đời. Chúng ta có thể nhìn nhận theo hướng này: đôi khi phải cảm thấy uất ức, đôi khi phải có sự cạnh tranh thì mới cho ra đời những tác phẩm xuất sắc hơn được.” “Em hiểu rồi, cũng có thể là như thế.” Ừ Ừ nhỉ, có thể việc không có kẻ thắng người thua, “mọi tác phẩm đều xuất sắc” là một điều tuyệt vời, thậm chí còn có cảm giác lí tưởng, nhưng nếu làm vậy thì chất lượng các bài thơ cũng sẽ chỉ dừng lại ở đó mà thôi. Đôi khi những tác phẩm tuyệt vời sinh ra trên đời cũng là nhà phân tranh cao thấp. “Mà sao tự nhiên ông chủ lại quyết định treo bài thơ waka này thế ạ?” “... Anh chịu. Ông nội anh là người tuỳ hứng, nên chắc cũng chẳng có ý gì đặc biệt đâu.” Anh Holmes thản nhiên nói, rồi lại cắm mặt vào sổ cái. Không có ý gì đặc biệt... ư? Có thật thế không? Cũng giống anh Holmes, ông chủ có những nét hơi bị bí hiểm, nên tôi không cho rằng bức thư pháp này hoàn toàn vô nghĩa. Bức thư pháp được treo lúc trước là thơ của một người tên là Sakyo Daifu Akisuke. “Thổi qua một trận thu phong Dải mây ngắt đoạn trăng trong sáng ngời.” Khi treo bài thơ ấy lên, ông chủ đã tâm đắc nói, “Đây là một bài thơ tả mùa thu, có nghĩa là: ‘Từ kẽ mây trôi theo gió thu thổi, ánh trăng ló ra sao mà tinh khiết, trong trẻo đến vậy’. Lúc bị vẻ đẹp của đêm thu mê hoặc, ta hổng có kiếm được lòng nên đã viết bài thơ này đó.” Thế thì lần này cũng giống vậy chăng? “Có phải ông chủ đã gặp một chuyện khiến ông ấy mường tượng ra bài thơ này của Taira no Kanemori không nhỉ.” “Cũng có thể... Nhưng nói gì thì nói, bức thư pháp này cứ làm anh ngứa mắt thế nào ấy, hay là chúng ta cất nó đi thôi.” Nghe anh Holmes lạnh lùng nói, tôi ngạc nhiên chớp mắt. “Sa-Sao anh lại thấy ngứa mắt ạ?” “... Thì tự nhiên thấy vậy thôi.” Anh Holmes nhìn đi chỗ khác, mặt không cảm xúc. Rốt cuộc là vì sao chứ? Tôi đang nghiêng đầu không hiểu gì thì chuông cửa vang lên leng keng. Đang định cất tiếng “kính chào quý khách”, tôi liền ngậm miệng vào. Đúng là nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến. Người xuất hiện ở đó là quản lí. Bác ăn mặc cực kì bảnh bao theo phong cách mùa động chuẩn mực với áo khoác Burberry[5] cùng khăn quàng. “Bố về rồi đấy ạ. Aoi, bây giờ anh phải lên trường, nhờ em trong cửa hàng cùng bố anh nhé.” Anh Holmes đóng xoạch sổ cái rồi đứng dậy. “À, vâng, em biết rồi ạ.” Có vẻ đã đến ca của quản lí. Quản lí lẳng lặng treo áo khoác và khăn quàng lên cây treo quần áo, vật vờ tiến về phía quầy thu ngân rồi ngồi sụp xuống ghế. Nét mặt u ám vô cùng. “Q-Quản lí? Bác có sao không ạ?” “Bố, có chuyện gì thế ạ?” Tôi và anh Holmes hỏi gần như cùng lúc. Quản lí nghe thế liền thở dài thườn thượt. “... Bố phải viết lại toàn bộ bản thảo.” Bác ấy đưa tay lên để trán và cúi đầu than thở. Nghề nghiệp chính của quản lí là nhà văn. Bác chủ yếu sáng tác tiểu thuyết lịch sử, cũng được khá nhiều người biết đến. “Bản thảo mà bố nói là cái bố đã bỏ công làm sau khi nhận được lời đề nghị ‘viết một tiểu thuyết lịch sử lãng mạn’ đúng không ạ.” Tôi cũng có biết chuyện đó. Nghe nói trong thể loại tiểu thuyết lịch sử hiện giờ, những tác phẩm tập trung vào yếu tố tình cảm lãng mạn đang rất được ưa chuộng. Chẳng hạn như câu chuyện về Hoàng nữ Kazunomiya[6], về Yoshitsune với Shizuka Gozen[7], rồi Truyện Ise[8]... Ngoài hiệu sách xếp đầy các tác phẩm lịch sử lãng mạn thuật lại những câu chuyện tình kinh điển ấy nhưng với cách diễn giải mới. Quản lí cũng kể rằng mình đã nhận được yêu cầu từ phía nhà xuất bản và tôi từng trông thấy bác ngồi múa bút thoăn thoắt ở quầy thu ngân. “Ôi... Tuy biết đấy là đường tắt nhưng bố cũng đã cố gắng kể lại câu chuyện của ‘Nobunaga và Nohime[9]’ dưới một góc nhìn mới, vậy mà...” Nghe câu đó, cả tôi lẫn anh Holmes đều ngay lập tức hiểu ra sự tình và quay sang nhìn nhau. Mới hôm trước, một tác giả nổi tiếng khác cũng đã xuất bản cuốn tiểu thuyết lịch sử “Nobunaga và những người phụ nữ của ngài” với góc nhìn, cách xử lí cốt truyện mới mẻ, hấp dẫn, và trở thành best-seller chỉ trong nháy mắt. Quản lí tiếp tục ôm đầu, lầm bầm không ngớt. “Những sự kiện kịch tính trong lịch sử đều đã được khối người khai thác đi khai thác lại rồi. Chẳng còn gì để viết nữa. Bố không nghĩ ra gì hết. Ý tưởng của bố đã cạn kiệt rồi.... Bố chẳng có tài cán gì cả.” “Q-Quản lí...” Quản lí không phải người đặc biệt nhiều năng lượng, nhưng thường ngày vẫn rất lạc quan. Tôi chưa bao giờ thấy bác thất vọng đến thế này. Nhìn bác như vậy, tôi trở nên lúng túng, không giấu nổi sự dao động của mình. Vốn dĩ bản thảo vẫn đang được triển khai thuận lợi, nhưng hiện giờ, “Nobunaga và những người phụ nữ của ngài” đã ra mắt, mọi thứ đứt gánh giữa đường buộc bác ấy phải viết ra một câu chuyện hoàn toàn mới. Tôi chẳng biết gì về các tác giả, nhưng có thể tưởng tượng được chuyện đó vất vả ra sao. “À, ừm, cháu thấy truyện ngắn hồi trước quản lí viết trong dự án Truyện kể Genji hay lắm ạ. Cái truyện tập trung miêu tả cuộc tình bi đát giữa Nữ ngự[10] Fujitsubo[11] và Hikaru no Kimi[12] ấy.” Nếu biến câu chuyện ấy thành truyện dài kì thì sao? Tôi ngầm gợi ý cho bác ấy, nhưng quản lí vẫn cúi gằm mặt và trầm giọng nói. “Aoi, cảm ơn cháu đã lo cho bác, nhưng một tác giả khác cùng nhà xuất bản cũng đang khai thác Truyện kể Genji, nên không được rồi. Đến trời cũng chẳng thương bác nữa.” Tôi bị áp đảo bởi sự ảo não vượt ngoài tầm kiểm soát kia. Anh Holmes nhẹ nhàng bước đến cạnh và khẽ thì thầm vào tai tôi. “Với bố anh trong những lúc thế này, dù là ý kiến như thế nào thì ông cũng chỉ tiếp nhận theo hướng tiêu cực. Do đó, tốt nhất là em cứ mặc kệ ông ấy đi. Không cần phải để tâm đâu.” “V-Vâng ạ.” Mặc dù anh ấy đã bảo là không cần để tâm, nhưng tôi vẫn thấy lấn cấn. Tôi vừa liếc nhìn bác quản lí vẫn đang cúi mặt, vừa cảm thấy thấp thỏm thì anh Holmes dựng ngón trỏ lên trước miệng và nhoẻn cười. “Không sao đâu. Đây, em xem nhé.” “... D-Dạ.” Trong tình cảnh này mà ánh mắt tôi vẫn bị thu hút bởi dáng vẻ đầy cám dỗ thường trực của anh Holmes. “Anh quyết định sẽ bắt chước bác Ueda.” “Bắt chước bác Ueda?” Giây trước anh Holmes vừa mới khuất dạng vào sâu bên trong cửa hàng, thế mà giây sau anh đã quay trở lại với một bức tranh cuộn mới trên tay. “... Bố ơi, tiếp xúc với nghệ thuật là cách hữu hiệu nhất trong những lúc đâm vào ngõ cụt. Bố xem thử bức tranh này rồi bình tĩnh lại nhé. Sẽ thấy được xoa dịu đấy ạ.” Anh Holmes nhẹ nhàng đặt bức tranh cuộn còn nguyên dây buộc lên quầy. “…” Bác quản lí đưa mắt nhìn xuống bức tranh, không nói một lời. “Nếu có thời gian thì con nghĩ bố nên đi đâu đó như Kamakura để giải toả tâm trạng. Chuyện cửa hàng bố không phải lo đâu.” Anh Holmes nói tiếp với nụ cười dịu dàng. “... Kamakura thì đường đột nhỉ.” “Hoặc bố có thể đổi gió bằng cách dạo quanh đền chùa nào đấy ở bên ngoài Kyoto cũng được.” Nói vậy xong, anh Holmes đưa mắt nhìn về phía chiếc đồng hồ tủ đứng rồi ưỡn thẳng lưng lên. “Ôi, đã đến giờ này rồi. Thế nhờ Aoi nhé.” “Dạ, vâng, anh đi ạ.” Anh Holmes cúi chào đáp lại cái cúi đầu của tôi, khoác áo rồi rời tiệm. Tiếng chuông leng keng vang vọng trong cửa hàng như dư âm còn vương lại. “Nghệ thuật à...” Bác quản lí thở ra với vẻ bất lực trong lúc rút găng tay khỏi túi áo để mở bức tranh cuộn, vẫn giữ nguyên biểu cảm chẳng hào hứng chút nào. Chắc bác chỉ đang miễn cưỡng vì con trai đã mất công góp ý thôi. Trong khi đó, tôi thì lại vô cùng hứng thú, thắc mắc không biết lựa chọn của anh Holmes là một bức tranh cuộn kiểu gì. “... Oa.” Dáng vẻ của Phật Bà Quan Âm được hoạ bên trong cuộn tranh đã mở. Đó là hình ảnh Đức Phật Bà tay trái cầm hoa, tay phải vươn ra cứu độ, sau lưng là một vầng hào quang soi chiếu. Biểu cảm ôn nhu đầy từ ái. Một dáng vẻ thần thánh với cách phối màu tinh tế, dịu dàng. Tôi có thể lờ mờ đoán được lí do anh Holmes mang bức tranh này ra. “Bức tranh này thật khiến người ta cảm thấy thanh thản, bác nhỉ...” “Phải, bức ‘Thánh Quan Âm’ này đẹp quá.” “Thánh Quan Âm ấy ạ?” “Đúng vậy. Quan Âm Bồ Tát có rất nhiều dáng vẻ, chẳng hạn như ‘nghìn mắt nghìn tay’ ấy.” “À, vâng, Quan Âm có thể có nhiều mặt hoặc nhiều tay bác nhỉ.” “Người ta gọi dáng vẻ Phật Bà không mang tính chất siêu nhiên như thế mà chỉ có một khuôn mặt cùng hai tay là ‘Thánh Quan Âm’.” Tôi “ồ” lên hưởng ứng. Quả nhiên quản lí cũng có vẻ rành mấy chuyện này. “... Nhưng sao Kiyotaka lại cho bác xem cái này nhỉ?” Bác quản lí cau mày, khoanh tay trước ngực. “Ơ? Không phải là vì bức tranh này khiến người ta cảm thấy được chữa lành ạ?” “Ồ không, chúng ta đang nói về thằng bé ấy kia mà. Nhất định phải có chủ ý gì khác đấy.” “A...” Tôi hiểu ra, bèn gật đầu thật mạnh. Chính anh Holmes đã nói là “sẽ bắt chước bác Ueda”. Từ đó suy ra có một lời nhắn từ anh Holmes được chứa đựng trong bức tranh cuộn này. “Kamakura à... Nhắc đến chỗ đó cũng đường đột thật đấy.” Quản lí ậm ừ trong miệng, tay vẫn khoanh trước ngực. Chắc bác đang ngẫm lại câu anh Holmes nói ban nãy, rằng bác “nên đi đâu đó như Kamakura.” “Bác quản lí thật ra thích Kamakura từ đầu phải không ạ?” “Ừ, thích thì có thích, nhưng cũng không đến mức hễ bị bí ý tưởng là bác sẽ tìm đến đó đâu.” “... Nếu vậy thì, lẽ nào ở ‘Phật Bà Quan Âm’ và ‘Kamakura’ có gợi ý gì đó ạ?” “Bác cũng nghĩ vậy. Thằng bé còn bảo bác nên đi dạo quanh đền chùa ở những nơi khác ngoài Kyoto, chắc nó ám chỉ một ngôi chùa thờ Phật Bà Quan Âm ở Kamakura. Thế này đúng là làm khó nhau quá.” “Làm khó ạ?” “Ít nhất cũng có đến ba mươi ba ngôi chùa thờ Phật Bà Quan Âm ở Kamakura cháu ạ. Nó được mệnh danh là ‘Kamakura Tam Thập Tam Quan Âm Linh Trường’ mà.” “Nhiều bác nhỉ? Trong số đó, ngôi chùa nào có quan hệ mật thiết với Thánh Quan Âm ạ?” “Để xem nào...” Quản lí lấy tư liệu từ trên giá sách và nói tiếp, “Kosoku-ji, Jomyo-ji, Hokoku-ji, Enmei-ji... Có mười lăm chỗ.” “Mười lăm chỗ ấy ạ? Thế cũng nhiều thật.” Tôi cũng ngó vào tài liệu để xác nhận thông tin bác nói. “... Phải rồi.” Như vừa sực nhớ ra điều gì, quản lí bàn rút một tập tài liệu khác ra khỏi giá, giở loạt soạt một hồi rồi dừng tay. “...Ồ, quả đúng như những gì bác nghĩ.” “Bác phát hiện ra điều gì rồi ạ?” Ừ “Ừ, chuyện này phải quay ngược về thời kì Chiến Quốc[13], khi ấy ở Kamakura có một ngôi chùa của các ni cô tên là Taihei-ji. Từng xảy ra vụ việc một vị tướng quân nọ đã mang ‘tượng Thánh Quan Âm’ thờ ở chùa đó đi mất.” Quản lí vừa xem tài liệu vừa gật gù. “Ơ, vậy là ông ấy đã ăn trộm bức tượng ạ?” “Ừ thì... đây là chuyện trong thời Chiến Quốc nên sắc thái hơi khác với ‘ăn trộm’. Khi đem quân đến tấn công Kamakura, võ tướng Satomi Yoshihiro[14] của Boso[15] đã mang đi cả bức tượng Thánh Quan Âm lẫn trụ trì ‘ni cô Shogaku’ của chùa Taihei-ji.” “H-Hả? Không chỉ cướp tượng Quan Âm mà còn mang đi cả ni cô trong chùa ấy ạ?” Không thể tin được! Thấy tôi trợn tròn mắt, quản lí bèn mỉm cười thích thú. “Chắc hẳn chính ni cô đó mới là báu vật mà vị tướng quân kia khao khát nhất.” “... Điều đó có nghĩa là, vị võ tướng ấy yêu ni cô chùa Taihei-ji ạ?” “Phải. Đằng sau sự kiện ấy là một câu chuyện thú vị. Vị ni cô đó là con gái của Ashikaga Yoshiaki[16] và cũng là bạn thanh mai trúc mã với Satomi Yoshihiro.” “Bạn thanh mai trúc mã!” “Ừ. Không có quá nhiều văn kiện xoay quanh sự việc này được lưu lại, nhưng người đời phỏng đoán rằng có thể cặp thanh mai trúc mã này thực ra vẫn luôn dành tình cảm cho nhau. Tướng quân thậm chí đã lập ni cô Shogaku làm chính thất sau khi cướp nàng về. Chắc hẳn ông ấy đã chủ động biến mối tình ấp ủ qua năm tháng của mình thành hiện thực.” “Oa…” Nghe được câu chuyện lãng mạn không ngờ tới ấy, tôi che miệng trầm trồ. Bao nhiêu là tình tiết xảy ra, cô gái trở thành ni cô và vị võ tướng đã quyết liệt dẫn nàng đi mất. Hai người thực ra là bạn thanh mai trúc mã, lòng vẫn luôn hướng về nhau... “... Nghe thật kịch tính bác nhỉ.” Ừ “Ừ, đúng là vậy.” “Lần đầu tiên cháu được nghe về mẩu chuyện lịch sử này đấy ạ. Nó có nổi tiếng không bác?” “Không, đây là một phân đoạn khó có thể nói là quan trọng. Người không biết chắc sẽ nhiều hơn người biết về nó đấy.” Gật đầu xong, quản lí chợt khựng lại rồi nhìn tôi. “...” Tôi cũng im re, trân trối nhìn lại bác. Hai bên chẳng trao đổi lấy một lời, nhưng vẫn hiểu điều người kia muốn nói. Hoá ra là vậy. Đây chính là lời nhắn của anh Holmes. “... Ừ nhỉ. Nếu lấy hai người này làm đề tài... Ra vậy, có khi sẽ rất thú vị đấy.” Quản lí phì cười. Thấy quản lí mọi khi đã quay trở lại, tôi thở phào nhẹ nhõm. “Mà Kiyotaka đúng là lúc nào cũng thế.” “Vâng. Nhưng anh ấy cũng đâu cần phải vòng vo tam quốc thế này, cứ nói thẳng ra là được.” “Thằng bé chỉ đang thể hiện sự tôn trọng đối với bác trong vai trò nhà văn thôi. Nó sẽ không đưa ra lời khuyên một cách thẳng thừng. Hơn nữa còn giúp bác thay đổi tư duy đấy.” “... Có lẽ đúng như bác nói ạ.” Với tình trạng của quản lí lúc nãy, có lẽ bác sẽ không thành thật tiếp nhận nếu phải nghe một lời khuyên thốt thẳng ra miệng. Sau khi tâm trạng được thay đổi nhờ vào việc giải một câu đố nhỏ, bác đã cảm thấy đầu óc thoải mái hơn đôi chút. Quả không hổ danh là anh Holmes. Anh ấy có thể đưa ra một gợi ý lớn như vậy một cách tự nhiên mà không ép buộc hay động chạm đến lòng kiêu hãnh của bố mình, người đồng thời cũng là một nhà văn. Quản lí vừa ngắm nghía cuộn tranh vừa thoáng nheo mắt vui mừng. “Vậy thì, cháu cũng muốn có ích một chút, nên cháu sẽ đi pha cà phê ạ.” “Cảm ơn cháu.” Tôi chui vào phòng trà nước phía sau và chuẩn bị pha cà phê. Nhìn thấy bức tranh cuộn bác Ueda gửi đang được cất trên giá trong cùng, tôi chợt nhớ lại chuyện ban nãy. Tuy là anh Holmes đã nói thế, nhưng quản lí thật sự không muốn tái hôn ư? Bởi vì, những khi bế tắc và bất an như vừa rồi, người ta thường hay nghĩ rằng, nếu có người mình yêu ở bên cạnh thì hay biết mấy. “Mời bác ạ,” tôi đặt tách lên quầy thu ngân. Quản lí khẽ gật đầu cảm ơn tôi rồi vui vẻ đưa tách cà phê lên miệng. “... Ừm, bác quản lí... đã bao giờ muốn đi bước nữa chưa ạ?” Tôi lúng búng hỏi. Nghe thế, quản lí liền ho khù khu, chẳng biết có phải là bị câu hỏi quá đột ngột của tôi làm cho bất ngờ không. “A, cháu xin lỗi, cháu vô ý vô tứ quá.” “Không, không sao. Kiyotaka đã nói gì với cháu à?” Quản lí lấy khăn tay lau miệng, ánh mắt nhìn tôi rất đỗi hiền từ. “Dạ, không, à, cũng đại loại thế,” tôi không làm thế nào có thể trơn tru qua mặt bác, mắt cứ đảo sang hai bên như rang lạc. Trông thấy tôi như vậy, bác quản lí không nhịn được cười. “... Nói thật là đã có một buổi xem mặt được dàn xếp qua tay Ueda. Lão ấy kể rằng có một người phụ nữ tuyệt vời là fan của bác, thành ra bọn bác cứ thế gặp nhau, còn chuyện đó là một buổi xem mặt thì bác hoàn toàn mù tịt...” “Là thế ạ” tôi thầm bổ sung, hoá ra là xem mặt. “Thực tế, gặp rồi thì thấy đối phương đúng là người phụ nữ rất tuyệt vời, nhưng bác vẫn từ chối. Hình như Ueda nghĩ bác làm vậy là vì nghĩ đến cảm nhận của Kiyotaka, cơ mà...” Tôi vừa nghe vừa gật gù. Bác Ueda hẳn đã nghĩ rằng, “Mối tốt thế này sao lại từ chối chớ. Uổng quá đê!” nên mới mang bức tranh cuộn đó tới. “Nhưng không phải bác quản lí vì ngại cho anh Holmes mà từ chối đâu bác nhỉ?” “Ừ, bác thấy ngại với đối phương là chính, hơn cả với Kiyotaka.” “... Ngại với đối phương ấy ạ?” Tôi chớp mắt thắc mắc nguyên do, còn quản lí nở nụ cười tự giễu. “Bác vẫn chưa... quên được người vợ đã mất của mình.” Nghe quản lí thì thào, tôi câm nín. Vợ bác ấy mất khi anh Holmes hai tuổi, là chuyện đã xảy ra cách đây hai mươi năm. “... Đều tại cô ấy chơi xấu cả.” Sau một khoảng lặng, bác từ tốn nói thế, tách cà phê vẫn ở trên tay. “Chơi xấu ấy ạ?” Tôi chăm chú nhìn lại về phía quản lí trong sự bối rối. “Ừ, xấu lắm.” Quản lí gật đầu thật khẽ rồi cụp mắt xuống. “Cô ấy bất chợt ra đi đúng vào thời khắc cô ấy đang xinh đẹp nhất, đang đáng yêu nhất, hệt như một đoá hoa đang nở rực rỡ bỗng chốc lụi tàn. Trong lòng bác chỉ còn lại những kỉ niệm cùng bóng hình người vợ xinh đẹp nhất đời, đáng yêu nhất đời mà thôi. Cả đời này bác làm sao có thể quên được chứ? Dù cho sau đó bác có yêu thêm bao lần thì cũng chẳng ai có thể sánh bằng cô ấy cả. Đương nhiên chuyện đi bước nữa cũng là không thể rồi. Đã chẳng yêu người ta được hơn vợ mình mà còn tính đến chuyện cưới xin thì có lỗi với người ta lắm.” Nói rồi, bác nhoẻn cười. Nụ cười ấy chứa đựng cả sự trìu mến lẫn xót xa, khiến tôi như bị đè bẹp. “... Bác quản lí.” Mắt tôi nóng ran lên. “... Giờ thì bác phải xốc lại tinh thần và cố gắng thôi. Kiyotaka đã mất công cho bác ý tưởng rồi mà.” “V-Vâng. Bác cố lên nhé.” “Được rồi!” Bác quản lí gật đầu rồi lấy giấy viết bản thảo mới ra từ trong cặp, tay cầm chặt chiếc bút ưa dùng. Tiếng bút chạy sột soạt vang vọng khắp cửa hàng. Bác hăng hái viết những câu văn lên mặt giấy, khiến vẻ ủ rũ lúc trước giờ chẳng khác gì một trò đùa. Nhất định trong tương lai gần, tôi sẽ được thưởng thức câu chuyện tình lịch sử đầy kịch tính do quản lí viết. Mối tình đầu thoảng qua của đôi thanh mai trúc mã, nỗi giằng xé trong lòng vị tướng quân trẻ tuổi và sự đau thương của người thiếu nữ xuất gia làm ni cô. Để rồi cuối cùng vị tướng quyết tâm đoạt lấy người con gái ấy. Thật không dám tin là những chuyện kịch tính đến vậy cũng có thật trong cuộc sống này... Tôi khẽ thì thầm... Tình yêu thật là lợi hại… Không riêng gì những chuyện tình trong lịch sử. Quản lí cũng vậy thôi, bởi bác là người đã khẳng định rằng bây giờ mình vẫn còn yêu vợ, dù rằng từ khi bác gái mất, tận hai mươi năm đã trôi qua. Có thể khiến con người ta bị giam cầm bởi nỗi lòng mãnh liệt đến thế... tình yêu đôi khi thật giống như một lời nguyền. Tuy cảm thấy một nỗi sợ mịt mờ, nhưng đâu đó trong lòng tôi vẫn có chút ganh tị. Tôi vừa quay mặt đi để che giấu những giọt lệ đang chực trào thì bức “thư pháp” của ông chủ đập ngay vào mắt. “Tình nồng muốn giấu vào tận tâm Mà sao nét mặt chẳng âm thầm Người đời nhìn thấy thời ướm hỏi Hay có người thương rồi phải không?” Bài thơ mà Taira no Kanemori đã ngâm là một bài thơ tình đầy xót xa với nội dung là... ... Tôi đã chôn giấu tình cảm này vào tim sao cho không một ai hay biết, thế nhưng có vẻ nỗi lòng ấy lại hiển hiện ra nét mặt mất rồi. Đến mức còn bị người ta hỏi: “Phải chăng đang đau khổ chuyện gì ư?” Đầu đông, một bài waka cất lên nỗi lòng không thể che giấu hết được treo trong tiệm. Từ đây, tôi và anh Holmes sẽ bị cuốn vào một loạt vụ việc và biến cố xoay quanh những “tâm tư chôn giấu ấy... Nhưng đó là chuyện của sau này. CHƯƠNG 1 NIỀM ÁI MỘ KABUKIBITO[17] 1 Đ ã giữa tháng Mười Một. Những chiếc lá đỏ tô điểm cho phố phường thêm đẹp mắt đã rơi rụng, gió trời cũng mỗi lúc một lạnh hơn. Để ý thì thấy tiết thu đã dần phai nhạt, dấu hiệu của mùa đông càng ngày càng trở nên rõ nét. Người ta vẫn bảo Kyoto rét thấu xương. Ngày lại ngày, cái lạnh như chích lên da thịt càng trở nên khắc nghiệt. Những du khách qua lại trong khu phố mua sắm cũng đã chuyển hẳn sang phong cách mùa đông với áo khoác dày, khăn quàng và mũ. Nhưng dù ngoài trời có rét mướt, trong cửa hàng đồ cổ “Kura”, chiếc máy sưởi chạy dầu mang hình hài cổ điển vẫn dịu dàng sưởi ấm cả không gian, khiến tôi hoàn toàn chẳng cảm nhận được cái lạnh ở bên ngoài. Lần đầu tôi ghé thăm cửa hàng đồ cổ “Kura” trên phố Teramachi Sanjo này là vào chớm xuân, khi trời vẫn còn se lạnh. Thế mà giờ mùa đông đã sắp tới rồi, bốn mùa quả thực xoay vần nhanh chóng mặt. Khi tôi rời mắt khỏi cửa sổ và quay mặt vào trong cửa hàng, tôi thấy anh Holmes đang kiểm kho với cuốn sổ còng trên tay. Anh cẩn thận sờ nắn, kiểm tra từng thứ, từng thứ một. Ánh mắt nghiêm túc, khuôn mặt nhìn nghiêng thật thanh cao. Vóc dáng cao ráo mảnh khảnh của anh khiến anh trông vẫn bảnh bao như thường lệ. “...” Thời gian gần đây, tôi hay bất giác nhớ về chuyện khi ấy. Lúc chúng tôi bước chân ra khỏi Genko-an sau khi kết thúc cuộc đấu trí với gã thợ làm đồ giả Ensho. Anh Holmes nhẹ nhàng vươn tay đến và ghì chặt lấy tay phải của tôi. ẳ Tôi ngỡ ngàng ngẩng mặt lên thì thấy mắt anh Holmes đang nhìn thẳng vào mình... Bàn tay đang bị nắm chặt của tôi nóng rẫy... “... Aoi, anh...” Anh Holmes dồn sức vào bàn tay đang giữ tay tôi. Không biết anh ấy định nói điều gì. Tôi hồi hộp, chỉ biết chờ đợi câu nói tiếp theo. Thế nhưng, đúng lúc ấy, vì anh Akihito cất tiếng gọi “Vẫn chưa tới à?” nên anh Holmes bèn nín bặt. “Xin lỗi em, để lúc khác, anh sẽ từ từ nói. Lúc nào đó không có anh Akihito lảng vảng ở gần.” Anh ấy buông tay, vừa vuốt tóc mái vừa nói vậy. ...Từ đó tới giờ đã khoảng một tháng trôi qua. “Lúc khác” của anh rốt cuộc là khi nào thế? Anh Holmes đã không đả động gì đến việc ấy thì chớ, lại còn cư xử bình thường như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Vẫn cầm cây phủi bụi trong tay, tôi thấy hơi ấm ức bèn lườm nguýt về phía lưng anh Holmes. “Có vấn đề gì thế?” Hình như cảm nhận được ánh nhìn, anh Holmes quay người lại. Tôi suýt ngạt thở vì bị bất ngờ. “... A... thì... đấy... lúc trước...” “Ừ?” “Ở Genko-an, anh có bảo ‘để lúc khác, anh sẽ từ từ nói’...” Tôi e dè hỏi. Anh Holmes “à” một tiếng rồi đánh mắt sang chỗ khác, tay chống hông, vẻ lúng túng như thể vừa bị khơi ra điều mình không muốn ai hỏi tới. “Phải... rồi. Nói thế nào nhỉ...” “D-Dạ…” “Anh muốn... cảm ơn em.” “Cảm ơn?” “Phải. Anh đã được Aoi khích lệ, và hằng ngày em cũng giúp đỡ anh rất nhiều.” “Em có giúp được gì đâu ạ...” Tưởng gì, hoá ra chỉ có thế à. Tôi tiu nghỉu. Rốt cuộc là tôi đang trông đợi điều gì chứ... Nhưng mà, thế có nghĩa là khi ấy anh Holmes chỉ định nói, “Aoi, anh muốn làm gì đó để cảm ơn em,” thôi hả? Cảm giác của tôi là đó đâu phải chuyện cần treo lại để “lúc khác” chứ. Tôi đang thấy có chút băn khoăn thì tiếng chuông cửa leng keng bất chợt cất lên. “Kính chào quý khách.” Quay mặt ra cửa, tôi thấy một người phụ nữ lớn tuổi đang thở hồng hộc. “Bé cưng Kiyotaka ơi, cuối cùng cũng tới ngày mai rùi.” Người vừa nói vậy với hai mắt sáng long lanh là bà Mieko, một quý bà kinh doanh âu phục trong cùng khu phố mua sắm, đồng thời cũng là bạn tốt lâu năm của ông chủ. “Vâng, tất nhiên là cháu biết mà.” Anh Holmes tươi tỉnh đáp lại bằng một nụ cười nhã nhặn. “Đã là mai rùi đó. Một năm qua nhanh quá trời.” “Vâng, nhanh thật bà nhỉ.” Thấy hai người hào hứng nói chuyện, tôi đưa mắt nhìn cuốn lịch để bàn trong cửa hàng. ... Mai là ngày mười lăm tháng Mười Một. Rốt cuộc là có chuyện gì nhỉ? “.. Ừm, ngày mai có vụ gì thế ạ?” Tôi dè dặt hỏi. Nghe thấy thế, bà Mieko hăm hở quay mặt về phía tôi. “Còn vụ gì nữa ngoài vụ cuối cùng cũng bắt đầu bán bán vé Kaomise rồi nè.” Kaomise? Tức là cho xem (mise) mặt (kao)? Tôi tự hỏi đó là cái gì trong giây lát, nhưng cụm từ “Kaomise” viết bằng ba chữ Hán “Nhan (nghĩa là khuôn mặt) - Hiện (nghĩa là trông thấy) - Thế (nghĩa là thế gian)” của giới Kabuki lập tức xuất hiện trong đầu. Bởi vì dạo này tôi thường hay thấy nó trên bản tin thời sự. “... Bà định đi xem Kabuki ạ?” Tôi hỏi trong lúc vẫn còn đang cảm thấy hơi rén thái độ vồ vập của bà Mieko. “Đúng đó con,” bà gật đầu, “Kaomise trong lòng người Kyoto đặc biệt lắm.” “Ồ...” Tôi biết “Kaomise” là một buổi công diễn Kabuki. Nhưng ngoài chuyện đó ra, tôi gần như chẳng biết gì, chỉ mường tượng được cảnh dàn diễn viên xếp thành một hàng rồi cúi đầu là hết. Tôi không biết rằng đây là thứ có ý nghĩa đặc biệt với người Kyoto. “‘Kaomise’ đúng như mặt chữ, là một buổi ‘xem mặt diễn viên’, Aoi ạ. Trong giới Kabuki, mỗi năm một lần lại có sự thay thế diễn viên. Sau khi thay đổi, đoàn kịch sẽ tổ chức buổi diễn đầu tiên với những gương mặt mới vào tháng Mười Hai. Người ta gọi nó là ‘Kaomise’. Buổi diễn ấy được coi như nét thơ của mùa đông nơi mảnh đất kinh kì, và cũng là một sự kiện lớn, tiêu biểu cho mùa đông đối với người Kyoto.” Có lẽ vì đã đoán ra suy nghĩ của tôi qua nét mặt, nên anh Holmes lại lập tức lên tiếng giải thích như mọi lần. “... Nghĩa là vào tháng Mười Hai, những thành viên mới trong đoàn kịch sẽ tiến hành buổi diễn đầu tiên phải không ạ?” “Phải rồi.” “Em lại tưởng mấy sự kiện như thế phải được tổ chức vào năm mới cơ.” “Vào thời Edo, hợp đồng thuê diễn viên của nhà hát kịch Kabuki thường có thời hạn từ tháng Mười Một đến tháng Mười năm sau. Cũng có nghĩa là cứ đến tháng Mười Một, nhân sự trong đoàn kịch sẽ thay đổi, để rồi sang tháng tiếp theo, đoàn kịch cùng các diễn viên mới sẽ được công bố trước mặt quan khách, vậy nên lễ ‘Kaomise’ luôn được tổ chức vào tháng Mười Hai.” Nghe anh Holmes giải thích bổ sung, tôi gật gù ra chiều đã hiểu. Lúc nào cũng vậy, cách giảng giải của anh luôn rất dễ tiếp thu. “Bé Aoi, con nhớ cho kĩ nha. Người cố đô cuối năm đều vung tiền đi coi Kaomise, vừa để thư giãn sau một năm làm việc miệt mài, vừa để khích lệ bản thân tiếp tục cố gắng đặng năm sau còn đi coi được Kaomise tiếp.” Nghe bà Mieko say sưa kể, tôi “ồ” lên phụ hoạ. “Vậy là vé cho buổi diễn đó được bắt đầu bán từ ngày mai bà nhỉ?” “Đúng rồi con. Chỉ cần lơ là một tẹo là sẽ cháy vé trong nháy mắt, nên năm nào bà cũng nhờ cu Kiyotaka mua hộ. Ba cái máy tính này bà dở ẹc hà, hên là có Kiyotaka đó.” Bà Mieko ngước nhìn anh Holmes, tít mắt cười vui vẻ. “Thì ra là thế. Anh Holmes tốt bụng ghê.” “Có gì đâu, anh cũng mua vé cho mình mà. Tiện thể thôi.” “Tiện thể ấy ạ?” Nghe anh ấy thản nhiên đáp, tôi cười rinh rích. “Tiện thể thì cũng là giúp bà rồi. Đây, con ăn cái này đi ha. Bữa giờ bà đi Sagano với bạn rồi mua về đó.” Bà Mieko hăm hở đặt một chiếc túi giấy lên quầy thu ngân rồi nói tiếp. “Bà chỉ đến để nhắc vậy thôi à. Giờ bà đi nha. Kiyotaka, nhờ con ha.” Xong xuôi, bà Mieko tất tả rời khỏi cửa hàng. Bà lúc nào cũng là người tràn trề năng lượng. Tôi cứ nghĩ phụ nữ Kyoto sẽ phải từ tốn hơn, nhưng đúng là ở đâu cũng có người này người nọ. Mà có khi vì là dân buôn bán nên tính cách bà cũng sẽ khác đi. “Bà Mieko bảo là quà Sagano, không biết bà để lại cho mình món gì anh nhỉ?” “Để xem nào” anh Holmes chạm vào túi giấy để kiểm tra bên trong. Thế rồi, anh reo lên cực kì vui sướng. “A, là đậu phụ, đậu viên rán nhân rau củ, đậu rán miếng và đậu rán lát mỏng của ‘Morika’. Thích thật.” “Đậu phụ của Morika ngon lắm ạ?” “Ừ, đó là một cửa hàng đậu truyền thống lâu đời ở Sagano... cụ thể là nằm ở phía Arashiyama đấy. Cửa hàng này nổi tiếng nhờ chế biến từng miếng đậu phụ bằng tay hết sức tỉ mỉ. Đậu của họ vừa mềm vừa chắc, lại láng mịn và ăn rất ngon. Mà không riêng gì đậu phụ, đậu viên rán nhân rau củ, đậu rán miếng và đậu rán lát mỏng cũng ngon lắm. Vậy là tối nay có món đậu luộc rồi.” Anh Holmes hồ hởi bỏ túi nilon đựng đầy nhóc đậu phụ vào tủ lạnh phía sau cửa hàng. “Em không biết có cửa hàng đậu phụ ngon đến thế Sagano đấy.” “Nghe nói cửa hàng ấy mở vào thời An Chính[18], được rất nhiều nhà hàng và chùa chiền ủng hộ, chẳng hạn như chùa Tenryu-ji. Bà Mieko cho nhiều lắm, nên anh sẽ chia cho cả Aoi. Đậu rán lát mỏng này mà nướng qua bằng lò nướng bánh mì rồi ăn với xì dầu thì phải gọi là ngon tuyệt.” “Ôi, thích quá. Em cảm ơn anh.” “Anh cũng thấy vui ghê, lâu lắm rồi không được thưởng thức mấy món này. Biết ơn bà Mieko quá.” Anh Holmes nheo mắt cười và nói. Nhìn anh vui vẻ như thế, tôi bỗng thấy ngưỡng mộ bà Mieko. Đúng là người quen lâu năm của anh Holmes có khác, bà ấy hiểu rõ sở thích của anh ghê. “Còn chuyện ‘cảm ơn’ lúc nãy...” Anh Holmes bất chợt quay lại chủ đề trước đó, làm tôi giật mình ngẩng mặt lên. “D-Dạ?” “Thật ra anh đang mong được đi xem ‘Kaomise’ với Aoi.” “Ý anh là xem kịch Kabuki ấy ạ?” “Ừ, hồi trước, lúc được anh Kajiwara tặng vé xem Kabuki, anh em mình đã hẹn cùng đi, thế mà anh lại bận nên không đi được còn gì. Anh cũng cứ để tâm chuyện ấy mãi.” Câu nói ấy làm tôi nhớ lại chuyện xảy ra vào mùa hè. Tôi “à” lên một tiếng rồi gật đầu. Lúc ấy là đầu tháng Bảy. Kajiwara tiên sinh là một nhà văn sở hữu biệt thự trên núi Kurama. Sau khi giải quyết xong mớ rắc rối trong gia đình ông, anh Holmes đã được tặng vé xem kịch Kabuki thay cho lời cảm ơn. Khi đó, anh ấy có bảo, “Lần tới mình cùng đi nhé” nhưng vé chúng tôi được cho là vé buổi công diễn tháng Tám, thành thử cuộc hẹn ấy đã không thành hiện thực. Tại vì ông chủ và anh Holmes đã phải ra nước ngoài suốt cả tháng Tám. Rốt cuộc, vé xem Kabuki ấy được nhường lại cho quản lí và bác Ueda. Đó là chuyện ngay cả chính bản thân tôi cũng gần như đã lãng quên, không ngờ anh Holmes vẫn còn để trong lòng, làm tôi cứ thấy có chút gì áy náy. “... Dạ thôi, anh không cần để ý chuyện đó đâu ạ. Vé xem Kabuki lại còn đắt tiền nữa. Một con bé học cấp ba không hiểu được cái hay cái đẹp của Kabuki như em, có đi xem cũng như đàn gảy tai trâu thôi.” “Aoi, anh cho rằng sân khấu truyền thống cũng là nghệ thuật. Chuyến này sẽ trở thành một trải nghiệm rất tuyệt vời, một bài học hữu ích, em nhất định nên đi.” “D-Dạ…” “Hơn nữa, anh cũng muốn có cơ hội cảm ơn em.” Tôi vốn chẳng nhớ mình đã làm gì đáng được “cảm ơn”, không những thế, nếu nói bên nào chịu ơn bên nào, thì tôi mới là đứa suốt ngày được anh Holmes kèm cặp, tôi phải là người cảm ơn anh mới đúng... Tôi còn đang cúi mặt phân vân... “Không thì em cứ nghĩ đây là buổi huấn luyện kiêm phụ cấp mùa đông từ ‘Kura’ đi.” Câu nói kế tiếp của anh Holmes lại làm tôi kinh ngạc. Tôi hơi bối rối... không hiểu tại sao anh ấy phải làm đến mức này. Có lẽ nào, anh Holmes, và cũng là thầy của tôi, thay vì cảm ơn gì gì đó, thực ra đang muốn tôi tìm hiểu thêm về sân khấu truyền thống chăng? ... Ừm, nếu là anh Holmes thì có thể lắm. Cộng thêm chuyện lời hẹn “lần tới mình cùng đi nhé” của hai chúng tôi khi được anh Kajiwara tặng vé Kabuki đã không thành hiện thực, có thể anh ấy nghĩ rằng sẽ làm cho tôi có được một trải nghiệm hay ho. Nếu vậy thì, với tôi mà nói, đây là một cơ hội vô cùng đáng quý. Đi xem kịch Kabuki thật sự là một trải nghiệm không dễ gì có được... Thế nhưng, bây giờ, ngoài đi làm thêm ra thì thật sự tôi rất khó bước chân ra khỏi nhà dù là vì bất kì lí do gì đi nữa... “... Buổi diễn kịch Kabuki ấy rơi vào buổi tối phải không ạ?” “Cũng có suất diễn ban ngày đấy.” “Ơ, thế ạ. Ban ngày thì may ra...” “Em không thích đi xem buổi tối à?” “Thật ra, kết quả của em trong đợt thi định kì lần trước kém lắm. Bố mẹ em đang doạ là nếu lần tới mà điểm còn kém nữa thì em sẽ phải nghỉ Ở làm để đi học thêm, nên bây giờ em đang cố gắng học hành ạ. Ở nhà dạo này, ban ngày thì còn đỡ, chứ buổi tối cứ khó ra ngoài thế nào ấy.” Tôi bảo thế với vẻ khó nói xen lẫn bồn chồn. Anh Holmes chớp mắt ngạc nhiên rồi lập tức cụp hai mắt xuống. “... Có chuyện như vậy à? Thế thì anh phải xin lỗi em rồi.” “Dạ?” Sao lại thành “xin lỗi” vậy? “Vì làm thêm cho nhà anh mà thành tích học tập của em sa sút như vậy, đúng là vấn đề không thể bỏ qua.” “Không, em học hành sa sút không phải tại đi làm thêm...” Chỉ là do tôi chểnh mảng chuyện học thôi, chẳng liên quan gì đến việc làm thêm cả. “Nhưng bố mẹ em đã nói nếu thành tích kém đi thì phải nghỉ việc, đúng không?” “V-Vâng.” “Thế cũng khó cho tiệm nhà anh lắm. Chưa kể nhà anh cũng có lần nhờ em trong cửa hàng trước kì thi, nên anh nghĩ là việc thành tích của em sụt giảm cũng có một phần lỗi của nhà anh đấy. Vậy nên, anh muốn chịu trách nhiệm đàng hoàng với em.” “Tr-Trách nhiệm ấy ạ?” “Aoi, em ngồi đấy đi. Từ hôm nay mình sẽ học ở đây lúc có thời gian trống. Anh sẽ kèm cho.” “D-Dạ?” “Rồi mình cùng đi xem Kaomise nhé. Anh nhất định sẽ kéo thành tích của em lên cho coi.” Anh Holmes đặt tay lên ngực với ánh nhìn đầy quyết tâm làm má tôi nóng bừng. “V-Vâng. Nhờ anh giúp đỡ ạ.” Đúng lúc tôi cúi đầu xuống, chuông cửa lại kêu leng keng. Có khách à? Tôi nghĩ vậy rồi quay đầu lại thì bắt gặp mấy chị sinh viên đại học đang đứng đó. “A, Holmes có ở đây thiệt nè.” “Tụi tui tới chơi nè.” Các chị bước vào trong cửa hàng, mặt tươi cười rạng rỡ. “Trời, mấy người mắc công tới thăm tui hở?” Anh Holmes vui vẻ bước tới chỗ các chị ấy. “Đúng rồi, tụi này tới ngắm cái bản mặt của Holmes đó.” “Giỡn chơi thôi hà, thiệt ra tụi tui đang tính qua rạp chiếu phim ở Sanjo cơ.” “Vui quá ha. Thi thoảng tui cũng muốn đi coi phim quá xá.” “Thế Holmes có đi cùng hôn?” “Tự nhiên biểu vậy thì hổng được rồi, hôm nào kêu tui sơm sớm đi nghen?” “Kêu mà, tụi tui sẽ kêu ông. Hẹn hò thôi. À, chứ hôm lớp nghiên cứu chuyên đề nhậu, ông đi được hông vậy?” “Phải đi chớ, hổng đi thầy lại nói móc cho.” “Thiệt đó.” Cách đó một đoạn, tôi vừa nhìn cảnh anh Holmes cùng bạn bè sôi nổi trò chuyện vừa khẽ thở dài. 2 “... Thích nhỉ, bồ được anh Holmes dạy học cơ đấy. Ảnh dù gì cũng là sinh viên cao học Đại học Kyoto đúng hôn?” Giờ nghỉ ở trường. Cô bạn tôi dựa vào tường và thốt lên ghen tị trong lúc nói chuyện cùng tôi bên ô cửa sổ gần phía hành lang như mọi lần. Cậu ấy là Miyashita Kaori, đứa bạn chơi thân với tôi qua “vụ lá thư đe doạ Saiodai”, con gái của cửa hàng trang phục truyền thống Miyashita. Bình thường, cậu ấy rất điềm tĩnh, làm mọi việc đâu ra đấy, đúng như những gì ta có thể cảm nhận được từ khuôn mặt thông minh, nhưng thực ra, cậu ấy vẫn có phương diện đáng yêu, đấy là cái tính khoái đu theo trào lưu và thích người nổi tiếng. “Anh Holmes mà dạy học chắc sẽ rất nhẹ nhàng, chưa kể cách dạy hẳn cũng vô cùng chuyên nghiệp,” Kaori tiếp lời. “Ừ” tôi gật đầu, “đúng là anh ấy rất nhẹ nhàng, cách dạy cũng hay, mỗi tội...” Ban đầu, đúng như Kaori nói, anh ấy chỉ tôi học một cách hết sức dịu dàng và kiên nhẫn. Nhưng rồi, trong lúc dạy... “... Hổng được rồi. Vào thời điểm trước kì thi như bây giờ thì cái quan trọng là phải tính toán làm sao cho không bị tụt điểm, và đảm bảo lấy được điểm, chứ không phải khắc phục những môn còn yếu. Thi cử hay buôn bán cũng như nhau cả thôi, ở thị trường hay trường thi, đều phải chắc cú coi mình lại được nhiêu đó!” ... Thế là chẳng biết từ bao giờ tôi lại được dạy dỗ về tư duy buôn bán. “Cho anh xin lỗi. Nhưng thi cử là phải gom nhặt chắt chiu từng điểm một. Em phải luôn ghi nhớ điều này đấy.” Anh Holmes nói thế với vẻ mặt nghiêm túc, ánh mắt sắc lẻm, làm tôi thấm thía cảm nhận được một sự thật rằng anh ấy đúng là dân buôn bán tinh tường, dẫu làm kinh doanh theo nhịp độ phù hợp với bản thân, nhưng vẫn nhất định phải tạo ra một khoản lời lãi tương xứng. Được một anh Holmes láu cá trong cách ăn điểm như thế xem bài vở, có vẻ kì thi lần này sẽ đầu xuôi đuôi lọt và tôi có thể vô tư đi xem Kaomise rồi. Tuy lúc trước còn lưỡng lự không biết có nên đi hay không, nhưng giờ thì tôi thực sự mong chờ Kaomise mà anh Holmes đã thiết tha giới thiệu. Dù vậy, tôi chẳng biết chuyện người Kyoto coi Kaomise như một biểu tượng của mùa đông và là niềm khích lệ của họ trong suốt một năm trời. Đúng là người Kyoto xưa và nay đều thanh lịch biết mấy... “... Aoi, hổng được nhầm tưởng đâu nha.” “Hả?” “Giờ chỉ có một số người háo hức mong chờ Kaomise suốt cả một năm, rồi năm nào cũng đi xem thôi á.” Kaori đang nghe chuyện của tôi bèn liếc sang ngán ngẩm. “Thế hả? Không phải mọi người đều đi à?” “Ừa, hổng đi thường xuyên vầy đâu. Mấy người làm ăn buôn bán xưa giờ như ba má tui với nhà anh Holmes coi bộ có suy nghĩ rằng ‘mình không đi thì ai sẽ đi’, nên thôi hổng nói làm gì, chứ mấy gia đình bình thường á, có là dân Kyoto cũng hổng mấy khi đi đâu.” “Ư-Ừ nhỉ, cũng có lí.” May quá, chưa kịp lầm tưởng kì quặc đã được sửa sang nhận thức cho rồi. “Kaori đi xem rồi à?” “Ừa, năm ngoái tui được ba má dẫn đi xem, kêu là ‘sẽ giúp ích cho con sau này’. Mèn ơi, đi rồi mới có cảm giác hiểu ra vì sao người ta đi một lần mà ghiền luôn mấy thứ như vậy á.” Kaori khoanh tay trước ngực và nói. Tôi bèn gật gù tỏ ý “ra là vậy sao”. “Lễ Kaomise năm nay coi bộ xôm à nha. Vai chính dù sao cũng là ‘Ichikata Kisuke’ mà.” Nghe đến đấy, tôi kêu “ồ” lên và vỗ tay một cái. ... Ichikata Kisuke. Anh ấy là người của dòng họ Ichikata, danh gia vọng tộc trong giới Kabuki, một diễn viên Kabuki chuyên diễn vai mĩ nam với gương mặt thanh thoát đậm chất Nhật Bản. Anh ấy cũng tích cực tham gia đóng phim truyền hình, nhiều lần xuất hiện tin đồn bê bối với phụ nữ, có thể nói là một trong những ngôi sao đang lên trong ngành giải trí. (Nhân tiện là hiện anh này đang có tin đồn dính líu tới một thần tượng áo tắm.) “Nếu được xem anh Ishikata Kisuke diễn nữa thì tới lại càng thấy háo hức hơn.” Tôi cười hì hì. Kaori lẩm bẩm bảo “thích nha,” rồi ngẩng mặt lên nhìn trần nhà. “Cơ mà quả là hổng hổ danh anh Holmes nha. Hẹn hò ở Kaomise đúng là khác người ghê đó.” “Có phải hẹn hò đâu.” “Cứ cho là vậy, nhưng làm gì có ai mời đứa mà mình hổng có ý gì. Mua vé đi coi Kaomise nhọc lắm đó nha. Tình hình hai người ngon lành rồi chứ hở?” Kaori hỏi lại, nhưng tôi chỉ nhún vai. “Thật ra tớ cũng có chút hi vọng... đúng hơn là đã từng nghĩ rằng ‘biết đâu anh ấy có ý với mình’, nhưng xem ra quả nhiên không phải vậy.” “Hổng phải vậy á?” “... Ừ, lần đi xem Kaomise này vốn là do anh ấy áy náy chuyện không thực hiện được lời hứa đợt hè, ngoài ra có vẻ xuất phát từ tâm lí của một người thầy, muốn cho tớ cơ hội tốt để học hỏi... Mà quan trọng hơn cả là tớ hình như đã tưởng bở nữa.” Tôi nhận ra bản thân xìu xuống trong lúc kể. “Tưởng bở chi cơ?” Kaori hơi nhoài người lên với vẻ mặt thật nghiêm túc, chắc vì thấy tò mò. “... Anh Holmes lúc nào cũng hết sức lịch thiệp và nhẹ nhàng, nên tớ đã hiểu nhầm rằng có thể anh ấy coi tớ là người ‘đặc biệt’. Nhưng tớ đã biết là không phải thế mà đối với phụ nữ thì anh ấy đều như vậy cả thôi.” “Có chuyện gì xảy ra làm bộ nghĩ vậy hả?” “Hôm trước có mấy bạn nữ của anh Holmes ở trường đại học đến cửa hàng chơi, trông thấy anh ấy vui vẻ nói với giọng điệu suồng sã rằng, ‘Trời, mấy người mắc công tới thăm tui hở?’ xong, tớ bèn nghĩ thế. Với ai, anh Holmes cũng lịch thiệp, dịu dàng, thi thoảng hơi ma mãnh như vậy... Lúc ấy, tớ mới nhận thức được rằng mình chẳng có gì đặc biệt, chỉ là một nhân viên làm thêm không hơn không kém mà thôi.” Tôi cũng giống như tất cả mọi người. Mà không, còn xa cách hơn so với những cô gái khác. Đến giờ anh ấy vẫn dùng cách nói chuyện lịch sự với tôi mà. “... Vậy là tâm trạng bồ như bị thất tình hở?” Kaori nhòm vào mặt tôi với vẻ hơi lo lắng. Tôi khẽ lắc đầu. “Không, không. Chẳng đến mức gọi là thất tình đâu. Nói đúng hơn là tớ thấy thật may khi mình đã nhận thức được hiện thực trước khi sa đà vào những hiểu lầm. Nghĩ lại thì anh Holmes tuy có phần lập dị nhưng vẫn là một người rất tuyệt, chẳng phù hợp với kẻ tầm thường như tớ chút nào. Thôi thì tớ cho rằng, mình cứ vừa vạch ra một ranh giới, vừa tiếp tục ngắm nhìn anh Holmes với tâm thế hơi thần tượng một chút như từ trước đến giờ là đủ lắm rồi.” Chính tôi cũng biết rằng mình đã trót nói nhanh hơn trong lúc thốt ra những lời này. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng có thể hiểu rõ hiện thực trước khi tình cảm thật sự lớn lên là một điều may mắn. ... Tôi đã chán ngấy những nỗi đau khổ gây ra bởi tình yêu rồi. Trên hết, quãng thời gian tôi trải qua trong tiệm đồ cổ “Kura” là sự chữa lành đối với tôi, là thứ tôi không đành lòng đánh mất. 3 ... Sau đó hai tuần. Giờ đã là hạ tuần tháng Mười Một. Phố phường cố đô Kyoto cũng bắt đầu được trang hoàng theo phong cách Giáng Sinh, còn nhạc Giáng Sinh thì ngân vang khắp chốn. Ở “Kura” chỗ chúng tôi cũng bày một cây thông hoành tráng trong cửa hàng, nhạc nền thì đổi sang bài hát Giáng Sinh phối theo kiểu nhạc jazz. “Ở Kyoto mà lại có Giáng Sinh, cảm giác cứ lạ lùng thế nào ấy ạ.” Tôi vừa ngắm đồ trang trí lấp lánh trên cây thông vừa khúc khích cười. Anh Holmes bèn quay sang nhìn tôi và hỏi: “Vậy à?” “Đúng vậy đấy ạ. Nơi này về cơ bản là mảnh đất của đền chùa miếu mạo mà.” “Ở Kyoto cũng có nhiều nhà thờ lắm đấy.” Nghe anh nói thế, tôi mở to mắt và kêu “a” một tiếng. “Đúng là có nhiều nhà thờ thật anh nhỉ.” Ngẫm mới thấy, ở Kyoto, đền, chùa, nhà thờ, đều ở trong trạng thái lèn chặt như nêm cối. Tôi còn nghĩ linh tinh mấy chuyện như là: các vị thánh, vị thần của Thần đạo, Phật giáo hay tôn giáo nước ngoài chẳng biết có tranh cãi gì với nhau không nhỉ. “... Nước Nhật cơ bản có tín ngưỡng tôn thờ tự nhiên, là đất nước của vô số các vị thần. Thế nên, tất cả thần thánh, từ nước mình cho đến nước ngoài, đều được chào đón như một lẽ dĩ nhiên.” Anh Holmes đáp vanh vách, chẳng biết có phải vì đã đoán ra suy nghĩ của tôi không nữa. Tôi bèn gật gù, “Ra thế,” rồi nói thêm, “nghĩ lại thì Phật giáo vốn cũng của nước ngoài anh nhỉ?” “Ừ, thần linh Nhật Bản rộng lượng lắm.” “Đúng thật ạ.” Trong lúc chúng tôi đang cười khúc khích, bóng dáng một người đàn ông trẻ tuổi phăm phăm bước về phía cửa hàng bỗng lọt vào mép tầm nhìn của tôi. Ủa, vừa rồi là...? Đúng lúc tôi quay mặt ra, lòng thầm nghĩ người kia trông giống ai đó, cửa “Kura” bật mở... “Chào, lâu lắm không gặp! Tôi đến chơi với cậu đây, Holmes.” Anh Akihito lao vào cửa hàng, mặt cười tươi rói. “... Gì mà đến chơi với tôi chứ. Chẳng ai mời anh đến, cũng chẳng có ai chờ anh cả.” Anh Holmes nhún vai, vẻ ngán ngẩm cực độ. “Xem ai đang nói kìa, cậu muốn gặp tôi lắm đúng không, người anh em!” Anh Akihito cứ thế ngồi phịch xuống ghế và khoe nụ cười toe toét. “... Chắc tại tôi bụng dạ hẹp hòi vì không phải thánh thần gì nên mới thấy hơi bực đấy.” Anh Holmes khẽ thở dài. “Hả, thánh thần gì cơ? Cậu đang nói gì thế?” Thấy anh Akihito nghiêng đầu không hiểu, tôi trót phì cười. “Cơ mà đấy, lâu lắm mới gặp nhau, thế mà Holmes vẫn lạnh lùng như thế.” “... Đúng là đã lâu không gặp thật. Công việc ở Tokyo của anh gần đây có vẻ lại nhiều lên, chắc anh bận rộn lắm nhỉ.” Nghe anh Holmes nói, tôi cũng gật gù. “Dạo này em hay thấy anh Akihito xuất hiện trên ti vi lắm.” “Cái chương trình chơi khăm[19] đợt trước cũng hay mà.” Anh Holmes cười khùng khục. Phải, đoạn băng chơi khăm được quay lén ở nhà bác gái anh Akihito cuối cùng cũng đã lên sóng truyền hình. “Hình ảnh ngoài đời thật” của Kajiwara Akihito, người đã giới thiệu thành phố Kyoto một cách chuẩn mực và xuất sắc, đồng thời toát lên khí chất hết sức cao sang, đã gây nên một cơn chấn động lớn, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng mọi nhà. Mặt khác, sau khi nghe anh Akihito hùng hồn tuyên bố rằng mình chỉ “diễn xuất cho phù hợp với chương trình”, người ta bắt đầu kháo nhau rằng anh Akihito “hẳn là một diễn viên đáng nể” và đánh giá anh ấy cao hơn. Tần suất xuất hiện trên ti vi của anh ấy cũng tăng lên nhờ thế. Nếu điều này cũng nằm trong tính toán của anh quản lí thì người đó thật sự đáng gờm. “À, thật ra bây giờ tôi cũng đang trong giờ làm việc đấy.” “Đang trong giờ làm việc?” Thấy chúng tôi ngơ ngác, anh Akihito bèn gật đầu cái rụp. “Ừ, tôi đang ghi hình cho một chương trình du lịch giải trí giới thiệu phố xá Kyoto, nhưng hiện giờ có chút sự cố về thiết bị nên mới được giải lao đấy. Tôi cứ nghĩ là bạn diễn của mình cũng đến đây, thế mà...” Đúng lúc anh ấy đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, chuông cửa vang lên leng keng, và một anh chàng đẹp trai bảnh bao xuất hiện. Tôi khựng lại trước sự hiện diện của một người nổi tiếng mà mình biết mặt. “... Hả?” Là Ichikata Kisuke... đúng không? Cái anh diễn viên Kabuki đang nổi như cồn ấy. Tôi bối rối chưa được bao lâu thì ngay sau đó, cựu thành viên của đoàn kịch Takarazuka[20], ngôi sao chuyên đảm nhiệm vai nam, nữ diễn viên Asamiya Rei cũng xuất hiện. Với vẻ đẹp rực rỡ như có hoa hồng bung nở phía sau lưng, chị khẽ cúi chào chúng tôi trước khi đặt chân vào cửa tiệm. “Ồ, Kisuke và chị Rei đấy à. Đây là cửa hàng của bạn thân tôi.” Anh Akihito vẫn ngồi nguyên trên ghế, toe toét vẫy tay. Bỗng nhiên lại có siêu sao quá bộ tới “Kura”. Tình huống bất ngờ này khiến tôi đứng hình tại chỗ. “Bạn thân... ấy hả?” Anh Holmes cũng cứng người, theo một nghĩa khác. “... Ồ, chỗ này là cửa hàng đồ cổ sao?” “Cứ như quán cà phê đồ cổ ấy, tuyệt thật.” Anh Kisuke và chị Rei tò mò quan sát bên trong cửa hàng. Ch-Chói mắt quá! “Kura” chưa bao giờ rực rỡ đến thế này. Tôi muốn gọi Kaori đến ngay lập tức! “Kính chào quý khách.” Trái ngược với sự phấn khích của tôi, anh Holmes mỉm cười cúi đầu như thường lệ. “A, cậu là cháu của ông Yagashira Seiji phải không? Rất vui được gặp cậu, tôi là Ichikata Kisuke.” Anh Kisuke giới thiệu bản thân với phong thái đường hoàng rồi cúi đầu thật thấp. Anh ấy có khuôn mặt thanh thoát, song lại mang nhãn lực mạnh mẽ, khiến người ta cảm nhận được khí chất của một diễn viên. “Rất vui được gặp anh. Tôi là Yagashira Kiyotaka... Anh biết ông nội tôi ạ?” Anh Holmes đáp lại bằng một nụ cười tao nhã, chẳng hề bị áp đảo bởi khí chất kia. “Vâng, tất nhiên là tôi biết rồi. Tôi đã gặp ông ấy mấy lần trong phòng nghỉ của Minamiza[21] hay ở phố hoa.” Anh Kisuke cười và trả lời như thế. Ra vậy, quan hệ xã hội của ông chủ rộng đến thế cơ à? (Thật không hổ danh ông chủ.) “Chị cũng từng có cơ hội được xuất hiện cùng Yagashira tiên sinh trong một chương trình ở Kansai. Dẫu vậy, thấy cháu tiên sinh đẹp trai thế này làm chị ngạc nhiên đấy. Cậu có hứng thú với mấy thứ như showbiz không? Nếu cậu định nghiêm túc theo đuổi ngành này thì chắc sẽ nổi tiếng đấy. Cần thì chị sẽ nói đỡ cho.” Chị Rei hơi nhoài người về phía trước để dò hỏi. “Không không, chị Rei! Cậu ta không quan tâm mấy cái đấy đâu.” Anh Akihito nhanh nhảu quàng tay qua vai anh Holmes rồi kéo anh ấy sát lại phía mình. “Vâng, để chị phải uổng phí lời vàng ngọc rồi. Tôi rất lấy làm vinh hạnh, nhưng tôi nghĩ đây là một thế giới vượt quá tầm với, không phù hợp với tôi... Anh Akihito, tay anh nặng quá.” Anh Holmes vừa đối đáp trôi chảy, vừa hất cánh tay anh Akihito đang vòng qua vai mình không khác gì người ta phủi bụi. “Cậu đúng là vẫn lạnh lùng thế, Holmes ạ.” Anh Akihito dẩu mỏ tỏ vẻ không vui. Nghe anh Akihito nói vậy, anh Kisuke và chị Rei đều nghiêng đầu ra vẻ thắc mắc. “... Holmes?” “À, tên này còn trẻ mà đã là một giám định viên tinh tường, đầu óc thông minh sáng láng, cho đến giờ này đã giải quyết được rất nhiều vụ án khó nhằn. Vì thế mà cậu ta được gọi là ‘Holmes’.” “Anh Akihito, xin đừng tuỳ hứng thậm xưng. Tôi không nhớ mình đã từng giải quyết vụ án khó khăn một lần nào cả.” Anh Holmes thở dài chán nản. “Đấy chỉ là biệt danh thôi ạ. Họ của tôi là Yagashira nên mọi người mới gọi tôi là ‘Holmes’.” Nói xong, anh ấy đặt tay lên ngực và nhoẻn cười. Lại nữa rồi, một câu nói mãi. “Cái gì mà không nhớ mình đã từng giải quyết các vụ án khó nhằn chứ. Cậu chẳng hoá giải bao nhiêu vụ đấy còn gì.” Thấy anh Akihito có vẻ hơi cáu gắt, anh Holmes cười gượng và nhún vai. “Không, mấy vụ đó đâu có gọi là ‘khó nhằn’ được.” Quả thực gọi chúng là “những vụ việc tạo nhã” có lẽ sẽ đúng hơn là “những vụ án khó nhằn”. “Tạm gác chuyện đó lại, mời anh chị ngồi, tôi sẽ đi pha cà phê. À, cà phê có được không ạ? Nếu không, tôi cũng có thể chuẩn bị hồng trà hay trà Nhật nữa.” “Cảm ơn cậu, cà phê là được rồi.” “Tôi cũng vậy.” Chị Rei và anh Kisuke nói vậy rồi ngồi xuống sô pha, nhìn ngắm không gian bên trong cửa hàng với vẻ đầy hứng thú, còn anh Holmes thì lui về đằng sau. “... Vậy ư, ra là cậu cũng sẽ tới xem Kaomise à? Cảm ơn cậu đã ủng hộ. Buổi ghi hình chúng tôi đang thực hiện cũng kết hợp tuyên truyền cho Kaomise luôn đấy.” Anh Kisuke niềm nở chuyện trò trong lúc nhấp miệng vào tách cà phê do anh Holmes pha một cách ngon lành. “Đây là buổi Kaomise đầu tiên kể từ khi anh Kisuke tiếp nhận nghệ danh mới[22] vào tháng Chín. Chắc hẳn bây giờ anh đang ngùn ngụt ý chí. Tôi rất trông đợi buổi diễn này.” Mời cà phê mọi người xong xuôi, anh Holmes ngồi xuống ghế đối diện và mỉm cười hoà nhã. Tôi cảm nhận được một bầu không khí thanh nhã như thể hai người con trai trong câu lạc bộ trà đạo hoặc cắm hoa đang trò chuyện. “Vâng, cái tên ‘Kisuke’ là niềm ngưỡng vọng của tôi, nên tôi muốn đó phải là một buổi diễn xứng đáng với danh xưng ấy.” Đúng thế, anh Ichikata Kisuke chỉ vừa mới kế thừa nghệ danh vào mùa thu này. Vì thường xuyên xuất hiện trên ti vi nên cái tên “Ichikata Kisuke” đã bén rễ trong lòng công chúng, nhưng trước đó, anh ấy mang một cái tên khác. “Từ sau khi nhận nghệ danh, nét mặt Kisuke thay đổi hẳn nhỉ.” Chị Rei cười khúc khích. “Vậy sao?” “Ừ, cảm giác hết sức nghiêm túc.” Cảnh tượng một diễn viên Kabuki và một cựu thành viên Takarazuka vui vẻ chuyện trò thật khiến người ta loá mắt. Bị choáng ngợp bởi hào quang quá ư rực rỡ của họ, tôi chỉ dám ngồi im một góc, rón rén đưa cà phê sữa lên miệng, tim đập thình thịch. Thế rồi, anh Akihito, một người thật ra cũng không kém cạnh gì hai con người rực rỡ kia, rướn cổ nhìn anh Kisuke đang ngồi cách mình một ghế và nói. “Phải rồi, tôi có nghe nói Kisuke là thứ nam, vậy là việc thừa kế nghệ danh không liên quan gì đến chuyện trưởng thứ à? Anh trai anh cũng là diễn viên Kabuki nhỉ?” Anh Akihito hỏi, thái độ giống như bất chợt nghĩ ra thì tiện mồm thắc mắc. Anh Kisuke bèn cười gượng và nói với vẻ hơi khó xử. “Ừ thì, trong giới Kabuki, ‘tài nghệ’ là trên hết nên...” Giới nghệ thuật quả là khốc liệt, chẳng can hệ gì trưởng thứ, cứ ai ưu tú hơn thì sẽ là người kế tục thôi. Tôi không biết gì về anh trai của anh Kisuke, nhưng mất danh xưng kia vào tay em trai thì hẳn là cũng sẽ thấy vô cùng ấm ức. Trong khi tôi đang tự tiện suy đoán lung tung, anh Kisuke vừa uống cà phê vừa ngắm nghía cửa hàng với vẻ hiếu kì. “Nhìn từ lối vào, tôi có ấn tượng cửa hàng khá hẹp, nhưng thực ra bên trong sâu ra phết nhỉ.” “Đúng thật, lại còn bày biết bao nhiêu là đồ nữa.” Chị Rei cũng nhìn quanh cửa hàng với vẻ thích thú. “Nếu thấy hứng thú thì mời anh chị vào xem sâu bên trong, có nhiều mặt hàng lắm ạ.” Anh Holmes đưa tay về phía bên trong cửa hàng. Hai người liền đứng dậy và nói, “Vậy chúng tôi xin phép,” rồi vui vẻ tiến sâu vào phía trong. “Ừ thì, lần đầu tới đây ai chẳng thấy tò mò. Chỗ này có đủ thứ, từ đồ mĩ nghệ cổ phương Đông đến đồ cổ phương Tây.” Anh Akihito vừa gật gù vừa đảo mắt nhìn quanh cửa hàng. “Anh Akihito, thật ra cửa hàng này có cả hương, dầu thơm và muối tắm đấy.” Việc hai con người rực rỡ kia biến mất khỏi tầm mắt đã giúp tôi được giải phóng khỏi sự căng thẳng và cuối cùng cũng có thể mở miệng nói chuyện bình thường. “Thật á? Anh không biết là ở đây có cả những thứ ấy đâu đấy.” “Những thứ như muối tắm là do ông chủ và anh Holmes mua lúc đi châu Âu đó ạ. Em cũng thích chúng lắm.” Tôi cho anh Akihito xem một bộ sản phẩm muối tắm. Anh ấy cầm lấy, “ồ” lên đầy vẻ hứng thú. “Vậy thì, chắc cho anh lấy cái đó đi. Anh cũng đang cảm thấy hơi mệt mỏi đây.” “Cảm ơn anh đã ủng hộ. Cuộc sống của anh bây giờ thay đổi nhiều lắm phải không? Sức khoẻ anh vẫn tốt chứ?” Không biết có phải do vui vẻ vì có khách mua hàng hay không mà anh Holmes vừa bỏ muối tắm vào túi giấy, vừa hỏi han với ngữ điệu dịu dàng hiếm thấy. “Nói thế nào nhỉ, người ngợm thì không sao, nhưng tâm trạng lại hơi rối.” “Anh Akihito mà cũng có lúc tâm trạng rối bời cơ à.” Lần này thì anh Holmes lại thản nhiên buông một cầu hơi động chạm, làm anh Akihito cứng đờ mặt. “Ê, cậu... Đúng là chẳng thay đổi gì cả. Cơ mà...giờ tôi lại thấy cứ như Holmes thế này cũng hay. Cái đám hồi trước vẫn xem thường tôi là ‘thằng diễn viên mạt kiếp cũng không khá lên được’ ấy, giờ thay đổi thái độ như lật bánh tráng luôn. Lúc đầu tôi cũng hả hê nghĩ thật đáng đời, nhưng được một thời gian, tôi bắt đầu cảm thấy có gì đó sai sai.” Anh Akihito thở dài đến là to. “... Kisuke cũng thế, biết tôi là con trai nhà văn ‘Kajiwara Naotaka’ một cái thì mới bắt đầu trò chuyện đàng hoàng với tôi. Mà thôi, thế cũng chẳng sao.” Anh Akihito nhỏ giọng nói tiếp như vậy. Thấy thế, anh Holmes mỉm cười và gật đầu. “Vậy là được rồi, anh Akihito ạ? “Hả?” “Nói ‘thôi cũng chẳng sao’ rồi cho qua là tốt nhất. Không cần phải mang chấp niệm với người đến kẻ đi. Trong giới showbiz, anh cứ dốc hết sức hoàn thành công việc được giao, chịu ơn ai thì cố gắng báo đáp người ấy. Đấy là điều quan trọng nhất với anh bây giờ.” Được nghe anh Holmes nhẹ nhàng giảng giải, anh Akihito mang đôi mắt rưng rưng. “Holmes... cậu tốt quá. Holmes đúng là bạn tri kỉ của tôi mà.” “Nghe khó ưa thế nhỉ.” “Ê này, ác ôn!” Tôi toét miệng cười nhìn điệu bộ của hai người họ, rồi bất chợt nhận ra anh Kisuke và chị Rei vẫn chưa quay trở lại, bèn nhòm vào bên trong cửa hàng. Nói mới nhớ, cả hai chui vào rồi cứ ở rịt trong đấy. Có khi nào họ trót đánh vỡ bát đĩa hay cái gì đó, nên đi ra không được mà ở lại cũng không xong? Nghĩ vậy, tôi nhẹ nhàng đứng dậy và tiến vào bên trong cửa hàng. “Ưm...” Một âm thanh ngọt ngào tựa như tiếng thở lọt ra khỏi kẽ môi vọng đến tai tôi, khiến tôi dừng bước. Tôi rón rén vươn cổ ra và thấy anh Kisuke với chị Rei đang trao nhau những nụ hôn như quấn lấy đối phương ở góc trong cùng của cửa hàng. “...!” Tôi kinh ngạc, lấy tay che miệng mình trong vô thức. “... K-Kisuke. Thôi, đừng mà. Ở chỗ thế này.” Môi hai người vừa rời ra, chị Rei đã nói ngay, nhịp hô hấp vô cùng hỗn loạn. “... Nói dối. Mặt chị trông như đang thèm thuồng ấy,” anh Kisuke kéo chị Rei lại gần và tiếp tục hôn. ... Kh-Không thể nào! Ichikata Kisuke và Asamiya Rei đang hẹn hò á? Làm sao bây giờ, làm thế nào bây giờ, tôi vừa lỡ nhìn thấy một chuyện động trời rồi! Mà khoan. Còn có tin đồn Ichikata Kisuke đang qua lại với một thần tượng áo tắm mà nhỉ? Hoá ra đấy chỉ là chuyện đơm đặt, còn chị Rei mới thật sự là người trong lòng của anh ấy ư? Ch-Cha mẹ ơi, dù gì thì tôi cũng đã trót nhìn thấy một cảnh tượng kinh thiên động địa. Sợ quá sợ quá sợ quá. Phải tàng hình luôn mới được. Tôi lẳng lặng rút lui trong tâm trạng y như là vừa phát hiện được một thông tin cơ mật cấp quốc gia. Đúng lúc đó, vai tôi đụng vào giá để đồ, làm mấy chiếc lọ nhỏ đựng dầu thơm rơi ra sàn và lăn lông lốc. “Ch-Chết” tôi cuống quýt nhặt lại thì nghe thấy tiếng hai người kia cất lên. “Chà, đúng là có nhiều đồ thật đấy. Từ những tác phẩm mĩ thuật cổ điển cho đến búp bê kiểu cũ.” “Công nhận, nhìn không dứt ra được luôn.” Hai người từ trong góc đi ra, mặt tỉnh như không. Thái độ khiến cho người khác không hề cảm nhận được chuyện họ là hai kẻ đến tận khi nãy vẫn còn quấn lấy nhau. Tôi đến phải reo lên thán phục rằng: “Đúng là diễn viên có khác!” mất thôi. Tôi tiếp tục ngồi xổm, chậm rãi nhặt mấy lọ dầu thơm bị rơi, cố gắng không để họ phát giác ra sự hoảng loạn của mình. “Kisuke, chị Rei, vừa có liên lạc từ nhân viên tổ quay. Họ bảo máy móc đã sửa xong, chúng ta sắp phải quay lại rồi!” Đúng lúc đó, giọng nói vô tư vang khắp cửa hàng của anh Akihito đã cứu tôi một bàn thua trông thấy. “Chà, nhanh hơn chị nghĩ. Holmes, cảm ơn cậu đã pha cà phê cho bọn chị. Khi khác bọn chị sẽ lại đến ngồi lai rai nhé.” Chị Rei nở một nụ cười tuyệt đẹp rồi vẫy tay. Anh Akihito cũng xách túi giấy lên và hăng hái vẫy chào, “Thế nhé, lần sau gặp lại.” “Cà phê ngon lắm. Đã làm phiền cậu rồi.” Cuối cùng, anh Kisuke cúi đầu một cách lịch sự. Quả nhiên là diễn viên kịch Kabuki, lễ nghĩa không có chỗ nào để chế cả. Anh Holmes lắc đầu, “Dạ không, có gì đâu ạ,” rồi tiến đến trước mặt anh Kisuke, chia cho anh ấy tờ khăn giấy nhỏ. “Anh Kisuke, trước khi ra ngoài, miệng của anh...” Anh Holmes mỉm cười, chỉ lên khoé miệng mình. “... A.” Anh Kisuke gượng gạo nhận lấy khăn giấy, chùi thật nhanh rồi vội vã rời khỏi cửa hàng. Ba người nổi tiếng đi rồi, cửa hàng bỗng chốc trở nên tĩnh lặng. “M-Miệng anh Kisuke... dính cái gì phải không ạ?” Khi không còn thấy bóng dáng tất cả bọn họ nữa, tôi mới bối rối nhìn anh Holmes. Tôi không nhìn kĩ mặt anh ấy nên không để ý. “... Chỉ một chút thôi. Không nói ra có khi cũng chẳng ai để ý, nhưng cái kiểu chim chuột trong cửa hàng nhà mình của họ làm anh bực, nên phải nhận cơ hội cảnh cáo.” Vậy là anh Holmes cũng nhận ra. Lại còn “vì bực nên cảnh cáo” nữa chứ, đúng là mức độ thâm hiểm của anh ấy vẫn ổn định quá cơ! Nhưng mà đúng thật. Dám chim chuột trong cửa hàng thiêng liêng này, chắc chắn là một việc vô cùng đáng giận trên lập trường của anh Holmes, người trân trọng của hàng này hơn bất cứ thứ gì. “Trong khi tui thì phải nhẫn nhịn bao nhiêu...” Không nghe rõ những lời anh Holmes vừa lẩm bẩm, tôi ngẩng mặt lên và hỏi: “Dạ?” “Không có gì. Mà đoàn khách vừa rồi rực rỡ thật đấy.” “V-Vâng. Người trong giới showbiz đúng là đẹp long lanh. Lần đầu tiên em được nhìn nghệ sĩ ở khoảng cách gần như thế, nên thấy rối trí quá.” Anh Holmes tròn mắt. “Sao lại là lần đầu tiên? Lúc nào em cũng nhìn anh Akihito ở khoảng cách gần đấy còn gì.” “... À, đúng thật.” Thấy tôi nhún vai nói thế, anh Holmes bật cười. “Anh thấy anh Akihito cũng toả sáng, cũng hào hoa phong nhã đấy chứ.” “Có thể nhưng em vẫn thấy anh ấy thân thiện quá mức kiểu gì ấy.” “Thôi thì, đây cũng có thể là điểm mạnh của anh Akihito.” “Anh Holmes mà lại khen anh Akihito thì đúng là chuyện hiếm nhỉ?” “Em nói anh mới nhận ra. Anh ấy hiện giờ hoạt động khá là năng nổ, nhưng nhìn chung vẫn chẳng thay đổi gì, nên anh cũng đánh giá anh ấy cao hơn một chút.” Anh Holmes cười nhẹ, khoé miệng nhếch lên. Thì ra là thế. Đúng là gần đây tần suất xuất hiện của anh Akihito tăng vọt, hoạt động trong giới sôi nổi đến mức dễ nảy sinh lòng tự mãn, nhưng thực tế, anh ấy chẳng thay đổi chút nào. Đó có khi là một phẩm chất vô cùng đáng ngưỡng mộ. Mong là sau này anh Akihito cũng sẽ như vậy mãi. “... Nhưng đúng là chuyện anh Kisuke với chị Rei hẹn hò làm em hết cả hồn. Một cặp đôi trường phái thực lực có thể làm rung chuyển cả giới showbiz. Em thấy hai người họ xứng đôi như vậy, lẽ ra phải công khai cho mọi người biết mới phải.” Nghe tôi phấn khích cảm thán, anh Holmes chỉ gật đầu nói “phải đấy...” mà không nhìn vào mắt tôi. “...?” Sao thế nhỉ? Trông anh ấy cứ như thể đang suy nghĩ chuyện gì... Tôi nhíu mày. Có khi nào anh Holmes sắc sảo đã cảm nhận được điều gì đó? Bởi vì chỉ vài hôm sau... “Ichikata Kisuke đính hôn với cựu người mẫu kiêm tiểu thư con nhà đại gia (một người phụ nữ bình thường)!” Tôi đã được một phen ngã ngửa khi nghe tin ấy... “E 4 -Em chắc từ giờ không dám tin đàn ông nữa...!” Tôi vừa dán mắt vào mục giải trí trên tờ báo trong tiệm “Kura” vừa run tay vì cú sốc quá lớn. Thứ gây chấn động là vào cái đêm Ichikata Kisuke công bố hôn ước, có thần tượng áo tắm dính tin đồn với anh ta đã đăng trên mạng xã hội: “Thằng cha đó nói đính hôn là đính hôn thật hả? Thật chỉ muốn giết hắn luôn.” Phát ngôn ấy đã khiến mảng tin giải trí ngày hôm sau nháo nhào cả lên với các bài viết có nội dung: “Ichikata Kisuke đính hôn dù vẫn chưa thu xếp ổn thoả các mối quan hệ với phụ nữ!” Đấy là chưa kể chính mắt tôi đã trông thấy cảnh anh ta cùng Asamiya Rei – ngôi sao chuyên thủ vai nam, cựu thành viên của đoàn kịch Takarazuka - khoá môi hết sức nồng nàn. Cũng có nghĩa là Kisuke (tôi không thèm gọi “anh” nữa) đã chân đạp ba thuyền, tà lưa với cả cựu người mẫu nhà giàu, thần tượng áo tắm lẫn chị Asamiya Rei. Chính vì tôi đã gặp anh ta ngoài đời và trót nhìn thấy cảnh tượng ấy nên mới sốc nặng. Khéo tôi mất niềm tin vào đàn ông luôn quá. “... Thôi nào Aoi. Đừng để giận quá mất khôn.” Anh Holmes đang ngồi ở quầy thu ngân vừa kiểm tra sổ sách vừa cười khúc khích. Thấy vậy, tôi nhăn nhó quay lại. “Anh Holmes nghĩ sao ạ? Đúng là đồ tệ hại anh nhỉ, chân đạp ba thuyền lận!” “Aoi nói như vậy cũng dễ hiểu, nhưng đây vốn là chuyện khó tránh khỏi.” “Kh-Khó tránh khỏi?” Có lí do gì đặc biệt sao? Đúng rồi, nhỡ đâu có một nguyên nhân sâu xa nào đó buộc Kisuke phải chân đạp ba thuyền. Nhưng vậy thì lí do đó có thể là gì? “Anh ấy dù sao cũng là diễn viên Kabuki.” Câu tiếp theo của anh Holmes làm tôi đứng hình. “... Ừm, nghĩa là sao ạ?” “Đúng như nghĩa đen thôi. Anh ấy là diễn viên kịch Kabuki. Chơi bời gái gú cũng là nghệ thuật đối với anh ấy.” “Logic gì thế ạ!” “Một người có thể đứng trên sân khấu và toả sáng với tư cách diễn viên Kabuki sẽ luôn mang trong mình bản năng, hoặc có thể nói là số phận, buộc họ phải theo đuổi sắc dục.” “Kh-Không, em vẫn không hiểu nổi...” “Nếu đã đi xem sân khấu Kabuki một lần, chắc Aoi cũng sẽ cảm nhận được điều đó, chứ không phải dựa vào lí trí. Tình yêu, đấu trường tranh đoạt, và những tổn thương sinh ra từ đó, tất cả đều sẽ trở thành máu thịt bồi dưỡng cho tài nghệ của họ, để rồi từ những kinh nghiệm ấy, họ sẽ trở thành những diễn viên xuất chúng.” Anh Holmes đặt tay lên ngực và nói với vẻ tâm đắc, làm tôi á khẩu. “C-Cái đó không thể xem là lí do, và cũng không thể tin được ạ. Có là diễn viên Kabuki hay gì thì bắt cá nhiều tay như vậy vẫn là cực kì không chung thuỷ thôi!” Tôi trót nổi giận và nói năng gay gắt. Thấy vậy, anh Holmes khẽ gật đầu. “Phải, Aoi nói rất có lí.” “Dạ?” “Vậy nên, người như Aoi tuyệt đối không được lại gần mấy gã đàn ông như thế. Những người muốn trở thành vợ của nghệ sĩ, nếu không dám bất chấp tất cả để tâm niệm rằng, ‘chơi bời gái gú chỉ là để bồi dưỡng nghệ thuật, còn mình sẽ trở thành chỗ dựa tinh thần cho anh ấy,’ thì mối quan hệ của họ sẽ chẳng thể kéo dài.” “Ngh-Nghĩa là không rộng lượng thì không được ạ?” “Không phải vấn đề rộng lượng hay hẹp hòi, mà mỗi người sẽ chịu đựng được một kiểu khác nhau. Có người chịu được nghèo khó, nhưng tuyệt đối không tha thứ cho chuyện trăng hoa, thì cũng có người suy nghĩ ngược lại. Đây là vấn đề liên quan tới tính khí của mỗi người.” “Th-Thế ạ...” Vậy có nghĩa là người trong giới nghệ sĩ theo đuổi sắc dục nhiều đến thế. “Nh-Nhưng, anh xem... còn Ichikata Tozaro, người được coi là cây đa cây đề trong giới Kabuki! Ông ấy không phải nổi tiếng thuỷ chung với vợ sao?” Nhân vật được cho là có vai vế trong giới Kabuki, Ichikata Tozaro, nghe đâu cũng là chú của Kisuke, đã kết hôn với một cựu nữ diễn viên. Ông chung thuỷ đến mức thường xuyên tuyên bố trên truyền hình rằng: “Tôi một lòng với vợ, chưa bao giờ lăng nhăng.” Mặc dù đó vẫn có thể là một lời nói dối, nhưng thực tế cũng chưa có vụ bê bối nào của ông bị khơi ra cả. Thấy bảo ông này hồi trẻ đã trúng tiếng sét ái tình khi gặp vợ tương lai, vì muốn trở thành người xứng đáng với bà mà cố gắng mài giũa năng lực của bản thân, tìm mọi cách cưa cẩm, để rồi cuối cùng cũng về đích bằng một đám cưới. “À, đúng là Ichikata Tozaro nổi tiếng một lòng một dạ với vợ.” “A-Anh thấy chưa?” “Có điều, trước khi gặp vợ, ông này cũng trăng hoa có tiếng đấy.” “Nh-Nhưng, sau khi kết hôn thì ông ấy không còn tin đồn yêu đương vớ vẩn nào nữa, đúng không ạ?” “Ừ, đúng. Chắc hẳn ông ấy đã lấy được người phụ nữ mình thật sự si mê. Nên cũng có khả năng anh Kisuke sẽ thay đổi sau cuộc hôn nhân với người vợ sắp cưới.” “Th-Thế ạ... Nếu được như thế thì tốt...” Nhưng mà có tốt thật không đây...? “Tạm dẹp chuyện ấy sang một bên. Anh mong đến Kaomise quá.” “À, vâng ạ. Em cũng rất trông chờ vào nó, theo nhiều nghĩa...” “Theo nhiều nghĩa... à.” Thấy mặt anh Holmes dãn ra với vẻ thích thú, tôi cuống lên. “E-Em xin lỗi, chỉ là háo hức đơn thuần thôi ạ.” “Không, không sao, anh cũng trông đợi nó ‘theo nhiều nghĩa’ mà.” Hai đứa nhìn nhau rồi cười khì khì. Chúng tôi định sẽ đi xem “suất ban ngày” trong ngày công diễn đầu tiên của Kaomise, sau đó dùng bữa ở Pontocho. Anh Holmes còn bảo: “Vì đây là phần thưởng từ Kura, nên sẽ phải mời em một bữa.” Lần đầu tiên trong đời tôi được xem kịch Kabuki, sau đó còn đi Pontocho. Tuy có chút áy náy, nhưng tôi vẫn rất mong chờ, gấp tờ báo lại mà lòng mừng khấp khởi. T 5 hế rồi, một hôm trước ngày diễn ra Kaomise, ngày hai mươi chín tháng Mười Một. Tôi đang vui vẻ chuyên tâm quét dọn “Kura” như mọi khi... hoặc không. “Aoi, chỗ này em tính sai rồi.” “A, đúng thật.” Tôi vừa rên rỉ vừa tẩy công thức mình vừa viết vào vở. Hiện giờ, tôi đang ôn thi tại quầy thu ngân của tiệm “Kura”. “Xem ra Aoi hay sai nhiều lỗi do bất cẩn và mất thời gian tính toán nhỉ. Có phải cứ đến môn Toán là em thường bị thiếu thời gian không?” Anh Holmes vừa đọc phần giải bài tập của tôi, vừa điềm tĩnh phân tích. Tôi so vai bảo, “Đúng như anh nói ạ.” “Tăng tốc độ làm bài không phải chuyện đơn giản, nên tốt nhất khi đi thi, em hãy xác định rõ câu hỏi dễ ăn điểm rồi bắt đầu làm từ đó.” Anh vừa chỉnh lại cặp kính gọng vuông vừa nói như đang độc thoại. Nhân tiện là cặp kính ấy có vẻ là kính không độ. Lúc nghe anh Holmes nói, “đeo kính giúp anh cảm thấy mình giống một gia sư hơn” với vẻ mặt nghiêm túc, mặt tôi đã cứng đờ. Không ngờ anh ấy lại là người chú trọng hình thức thế. “V-Vâng ạ.” “Lần này em hãy cố gắng kiếm điểm sao cho hiệu quả nhé.” “... Từ đầu em đã có cảm giác cách học, hay nói đúng hơn là cách xử lí mọi việc của em chưa tốt. Nhất là môn Toán đấy ạ.” Tôi thở dài. Anh Holmes bèn giở loạt soạt tập đề ra cho tôi xem. “Để anh xem nào... Ví dụ như với môn Toán, sau khi mở tập đề bài ra, em hãy đọc lướt qua thật nhanh rồi thử giải câu khó nhất trong đó trước tiên. Nếu làm được, em có thể nghĩ rằng mình đã giải quyết xong câu này rồi tiếp tục với các câu hỏi khác, còn nếu giải không ra, em sẽ nhận thức được rằng đây là điểm yếu của mình, đúng không?” “R-Ra vậy, thế thì em sẽ biết cách tính toán để rút ngắn thời gian anh nhỉ!” “Ừ, đúng vậy. Theo những gì anh thấy từ bài giải của Aoi, chỉ cần em xử lí khéo một chút là sẽ ăn thêm năm điểm. Bỏ thêm ít công sức là được thêm mười điểm, tức là mười lăm điểm mỗi môn, cố hơn tí nữa để nâng con số ấy lên hai mươi điểm là được rồi.” “Đ-Được thêm tận hai mươi điểm đơn giản vậy sao?” “Yên tâm. Câu hỏi anh soạn đều dựa trên phạm vi ra đề, trước mắt em cứ giải hết chỗ đó đi.” “... V-Vâng ạ.” Chúng tôi đang nói đến đây thì nghe thấy tiếng chuông cửa reo leng keng. ... A, có khách. Nhưng mà, tôi bây giờ không phải nhân viên, chắc không cần nói “kính chào quý khách” đâu nhỉ? Tôi chắc chắn chẳng khác gì một nữ sinh cấp ba cực kì khả nghi đang ngồi giải bài tập trong góc quầy thu ngân của một tiệm đồ cổ. Tôi bồn chồn thu mình lại hết cỡ… “Ồ, chẳng phải là anh Kisuke sao. Mời anh vào.” Câu nói của anh Holmes khiến tôi ngỡ ngàng ngoảnh lại. Người đang đứng đó là Ichikawa Kisuke, không lẫn đi đâu được. Anh ta bận một chiếc áo khoác mỏng, đội mũ, đeo kính và quàng khăn, nhìn thoáng qua có thể sẽ khó mà nhận diện được. “... Xin chào.” Anh Kisuke mỉm cười cúi đầu chào. Tôi cũng cúi chào đáp lại trong yên lặng. “Anh ngồi đi ạ.” Anh Holmes đứng dậy kéo ghế. “Cảm ơn cậu.” Anh Kisuke ngồi xuống cách tối một chiếc ghế trống ở giữa. Anh ấy bỏ mũ, liếc sang, rồi mở to mắt như thể bây giờ mới nhận ra tôi. “À, là cô bé làm thêm đợt trước à.” “V-Vâng, kính chào quý khách ạ.” “Hôm nay cô bé là khách hả?” “... Cũng không hẳn là khách, mà là em đang được anh Holmes kèm học ạ.” Không hiểu sao cảm thấy hơi xấu hổ, tôi lí nhí trả lời. “Ồ, còn dạy học cho cả nhân viên làm thêm, cậu Holmes đúng là chu đáo quá. À, xin lỗi, đến tôi cũng lỡ miệng gọi cậu là ‘Holmes’ rồi.” “Không sao đâu, anh thích gọi thế nào thì cứ gọi ạ. Để tôi đi pha cà phê nhé.” “Cảm ơn cậu.” Anh Holmes chui ra đằng sau và pha cà phê phin giống mọi lần. Khi hương cà phê thơm phức bắt đầu lan toả khắp cửa tiệm, anh Holmes bừng khay trên tay và xuất hiện từ phía sau. “Mai là ngày công diễn đầu tiên rồi nhỉ? Tôi đang rất háo hức đấy ạ.” “Cậu sẽ đến xem buổi diễn đầu tiên vào ngày mai à?” “Vâng, tôi sẽ đi xem suất ban ngày với Aoi. Ông nội tôi cũng bảo sẽ đến nghe bài phát biểu khai mạc suất tối.” Nói rồi, anh Holmes đặt cà phê trước mặt tôi và anh Kisuke. “Cảm ơn cậu.” Anh Kisuke cúi đầu, rồi không hiểu vì sao lại đưa tách cà phê lên miệng với vẻ gấp gáp. “... Ngon quá.” Anh Kisuke thốt lên như thế, tựa như đang cảm thán từ tận đáy lòng. “Cảm ơn anh vì lời khen ạ.” Anh Holmes cũng nheo mắt như thể thật sự lấy làm vui sướng. “Buổi diễn tập cũng vừa đi đến giai đoạn cuối... Tôi được giải lao một tiếng cho đoàn kiểm tra lại các thiết bị. Trong lúc ấy, tôi bỗng dưng thấy thèm tách cà phê ngon tuyệt mà cậu pha... Chà, đến tiệm đồ cổ để uống cà phê, nghe thật chẳng ra làm sao. Tôi đúng là mặt dày quá.” Anh Kisuke cho tay lên đầu và cười ngượng nghịu. “Không, không, những lời ấy của anh khiến tôi vui lắm.” Thì ra anh Holmes thực sự rất thích thú với việc pha cà phê và nghe người ta khen cà phê mình pha ngon miệng. Tự dưng tôi lại cảm thấy hơi có lỗi vì suốt ngày uống cà phê sữa. Tôi co vai rồi cũng nhấp một ngụm cà phê sữa. “À, đúng rồi. Anh Kisuke, chúc mừng anh đã đính hôn.” Nghe anh Holmes nói, tôi cuống quýt kìm lại ngụm cà phê suýt phun ra rồi khẽ ho sù sụ. Sau đó, anh Kisuke gãi trán với vẻ yếu đuối. “À, không, tôi đã khiến dư luận xôn xao, lại còn bị cậu phát hiện ra chuyện lần trước, nên nói thật là tôi đang ngượng lắm. Nhưng mà, dù sao cũng cảm ơn cậu.” “Anh Kisuke là diễn viên mà. Đây cũng là dinh dưỡng nuôi chất nghệ sĩ trong anh.” Nghe anh Holmes dịu dàng nói, mặt anh Kisuke dãn ra như thể đã được cứu vớt đôi phần. Kể cả anh Holmes có tha thứ, thì phụ nữ trên thế gian này, bao gồm cả tôi, cũng không tha cho anh đâu nhé! Tôi thầm nghĩ như thế ở bên cạnh. “... Giờ thì, anh Kisuke. Ngoài việc muốn uống cà phê ra, anh đến đây còn vì có chuyện cần nói với tôi phải không ạ?” Nghe anh Holmes nhẹ nhàng hỏi, tôi kinh ngạc ngẩng mặt lên. Ánh mắt anh Kisuke cũng lộ vẻ sửng sốt. “S-Sao cậu biết?” “Anh cứ bồn chồn suốt từ lúc đến đây tới giờ.” Nghe anh ấy nói tôi mới để ý, anh Kisuke có vẻ gì đó thấp tha thấp thỏm. Phải chăng anh ấy có điều gì muốn nói, chỉ đang chờ thời điểm thích hợp để mở lời? “Có phải chuyện đính hôn của anh đã kéo theo rắc rối gì đấy không ạ?” Nghe anh Holmes tiếp tục hỏi thẳng thừng, tôi bèn nín thở. (Anh Holmes toàn chủ động đẩy câu chuyện đi nhẹ như không vậy.) “À, không... Chuyện này không dính dáng gì đến phụ nữ.” Anh Kisuke rút ra từ túi ngực một tờ giấy A4 gấp đôi rồi đặt lên quầy. Trên giấy là một hàng chữ viết dọc[23] có vẻ được in ra từ máy tính với nội dung như sau: [Thật khó lòng chấp nhận việc mày được thừa kế cái tên Ichikata Kisuke. Mau từ bỏ nghệ danh ấy. Tao sẽ bằng mọi giá ngăn cản bài phát biểu khai mạc của mày.] Sau khi xem tờ giấy, tôi và anh Holmes đều nín thinh trong chốc lát. Đây... là thư đe doạ phải không? Tuy tôi không tường tận chuyện ngành showbiz, nhưng cũng đoán là sẽ tồn tại những vụ “ghen ghét đố kị” kiểu này, không ít thì nhiều. Anh Holmes đeo găng tay trắng để cầm tờ giấy và vẫn giữ im lặng. “Có dấu băng dính nhỉ? Tờ giấy này đã được dán lên đâu đó ạ? Một nơi khiến anh Kisuke khiếp sợ... Hơn nữa, còn được dán với số lượng lớn, đúng không anh?” Anh Holmes tuôn ra một tràng, khiến đôi vai anh Kisuke run rẩy. “Đ-Đúng, đúng vậy. Chúng được dán rất nhiều trên tường phòng nghỉ của tôi. Nhưng... làm sao cậu biết...?” “Tờ giấy này không in trực tiếp từ máy tính, mà là bản sao từ máy photocopy. Thế thì khó mà tin được chuyện kẻ muốn quấy rầy anh chỉ photo một bản. Hắn nghĩ rằng đã mất công làm thì phải photo thật nhiều rồi dán chi chít, vậy là có thể gây được sức ép tâm lí dồn nạn nhân đến chân tường. Giả sử chỗ giấy đó được dán lên ô tô, thường thì người ta sẽ nghĩ rằng thủ phạm là một anti-fan phiền phức, nhưng nếu thủ phạm vào được tận bên trong thì chuyện lại khác rồi.” Anh Holmes nói trơn tru, làm anh Kisuke chỉ biết mở to hai mắt. Đúng là nếu chưa quen thì không ngỡ ngàng cũng sẽ sợ mất vía thôi. Tôi bất giác cười thầm. “... Chà, công nhận cậu đỉnh thật. Thảo nào cái cậu Akihito ấy cứ luôn miệng khen cậu là ‘cái thằng giỏi dã man’.” Anh Kisuke gãi đầu như đã tâm phục khẩu phục. Anh Holmes bèn nghiêng cổ thắc mắc. “Anh nói ‘cái cậu Akihito’ ấy, là sao...?” Tôi cũng cảm thấy hơi kì lạ. Không ngờ anh Kisuke lại tin tưởng lời nói của anh Akihito đến thế. Anh Kisuke tiếp lời, “Cậu ấy là người rất thật thà,” nghe xong, chúng tôi bèn gật gù, “Ra vậy.” Đúng là anh Akihito sẽ chỉ khen những người mà anh ấy thấy thật sự đáng nể bằng câu “cái thằng giỏi dã man”. Không như người ta tưởng, anh ấy chẳng phải kiểu người hay đi nịnh nọt, thậm chí còn cứng đến mức có vẻ sẽ thản nhiên nói ra sự thật mất lòng nào đó cho dù đối phương có là người như anh Kisuke. “Kể cả sau cái lần đầu tiên tôi gặp cậu, cậu Akihito cũng suốt ngày nói: ‘Holmes đúng là cái thằng giỏi dã man’ như thành một câu cửa miệng vậy.” Anh Kisuke vừa dùng hai tay ôm trọn tách cà phê vừa nhận định với vẻ tâm đắc. ... Câu cửa miệng như thế nghe ghét thật. “Thế ạ. Vậy thì tôi phải mắng anh Akihito một trận thôi.” Ơ kìa, anh Holmes! Tôi suýt phì cười. Bên cạnh tôi, anh Kisuke cười thích thú. “Cậu với cậu Akihito thực sự thân nhau đấy.” “... Tôi cũng không biết phải nói thế nào. Mà quan trọng hơn, tờ giấy này...” Thấy anh Holmes giơ tờ giấy lên, anh Kisuke chấn chỉnh lại biểu cảm của mình. “Tờ giấy này được dán khắp tường phòng nghỉ của anh ở Minamiza. Vậy nhưng, không hề có nhân chứng nào ạ?” Cậu nói ấy làm vai anh Kisuke run bắn. “V-Vâng, đúng thế. Tôi đã dò hỏi xem liệu có ai lên vào không, nhưng chẳng có nhân chứng nào cả.” “Khoá phòng thì sao?” “Tôi không khoá. Đồ đạc có giá trị tôi đều gửi cho quản lí rồi.” “Tôi hiểu rồi. Vậy là ở một mức độ nào đó, ai cũng có thể vào.” “Kh-Không. Hôm đó chúng tôi không có buổi công diễn nào cả, chỉ tập trên sân khấu thôi. Hầu như không có khách thường.” Trạng thái hầu như không có khách thường vào toà nhà. Trong hoàn cảnh ấy, người ngoài mà trà trộn vào để di chuyển về phía phòng nghỉ thì chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý, nên chuyện đó càng không thể xảy ra. “Vậy thì có khả năng trò đùa ác ý này là tác phẩm của người trong nội bộ. Thế nên anh mới không muốn gọi cảnh sát khiến mọi chuyện ầm ĩ lên. Chưa kể ngày công diễn đầu tiên của Kaomise cũng đã gần kề.” “Đ-Đúng vậy. Tất cả đều đúng như những gì cậu nói. Sao cậu lại biết tất tần tật mọi chuyện như vậy chứ?” Trán anh Kisuke rịn mồ hôi, chắc vì quá ư kinh ngạc. “Bởi vì anh đã cất công đến tận chỗ tôi để bàn bạc chuyện này. Dù cho anh đã nghe anh Akihito kể bao nhiêu chuyện đi chăng nữa, anh cũng không biết được năng lực của tôi đến mức nào. Nhưng anh vẫn tới tìm tôi. Từ đó, tôi có thể cảm thấy rằng anh đang ở tình thế dù chỉ là một cọng rơm cũng phải cố mà bấu víu, bởi không có ai trông thấy thủ phạm, và anh cũng không thể báo cảnh sát việc này.” “R-Ra là vậy.” Anh Kisuke vừa gật đầu vừa lấy khăn tay lau mồ hôi. “Có khoảng bao nhiêu người không hài lòng với việc anh tiếp nhận nghệ danh ‘Ichikata Kisuke’ ạ?” “Nói... sao nhỉ, tôi nghĩ là có rất nhiều.” “Ơ, nhiều lắm ạ?” Tôi buột miệng thốt lên. Anh Kisuke khẽ cười rồi gật đầu. “Ừ, bởi giới nghệ sĩ là vậy đấy. Có rất nhiều diễn viên muốn được thừa kế nghệ danh ấy, kể cả anh trai tôi.” “Anh có biết tại sao mình lại được chọn không?” “Lí do lớn nhất là tôi có sự ủng hộ của Ichikata Tozaro.” Ichikata Tozaro. Một cây đa cây đề trong giới Kabuki, cũng là chú của anh Kisuke. Ông đã kết hôn với một cựu diễn viên, và nổi tiếng là một người thuỷ chung với vợ. “Còn lí do ông ấy ủng hộ tôi, ừm, nói thế nào nhỉ. Chắc là vì giới Kabuki cũng cần một con gấu trúc hút khán giả. Thực lực của tất cả chúng tôi có thể một chín một mười, nhưng người có độ nhận diện công chúng lớn nhất là tôi, nên...” Anh Kisuke cười chua chát. Nhờ xuất hiện nhiều trên truyền thống, anh Kisuke nổi tiếng cả trong thế hệ trẻ, là diễn viên Kabuki được biết đến rộng rãi nhất hiện nay. Nói thật lòng, về những diễn viên Kabuki khác ngoài anh Kisuke, tôi cũng không rành lắm. Dù là nghệ thuật truyền thống đấy, nhưng quay đi quay lại vẫn là thế giới giải trí phục vụ công chúng mà thôi. Đằng nào cũng vậy, có lẽ mong muốn người nổi tiếng kế thừa nghệ danh lại là suy nghĩ trung thực nhất. “Anh Kisuke nhận nghệ danh ‘Ichikata Kíuke’ từ ba tháng trước. Từ đó đến giờ, anh có hay bị quấy rối kiểu này không?” “Không, có thể vẫn có nhiều lời thì thầm to nhỏ sau lưng tôi, nhưng mấy trò gây rối lộ liễu thế này thì gần đây tôi mới thấy.” “Thế à? Lẽ nào chúng xảy ra sau khi anh công bố tin đính hôn ạ?” Anh Holmes hỏi tiếp như vậy. Trán anh Kisuke liền túa mồ hôi. Người này hoá ra dễ đoán đến không ngờ. “S-Sao cậu biết?” “Lần trước gặp anh ở ‘Kura’ mặt anh không có ủ dột thế này. Nhắc tới chuyện gì đó quan trọng xảy ra sau đấy thì chỉ có chuyện công bố hôn ước mà thôi. Nghĩa là trò quấy rối này có liên quan đến chuyện ‘đính hôn’. Nói thế này có hơi thất lễ, nhưng một người còn trẻ, còn nhiều ham muốn với phụ nữ như anh, tại sao lại đính hôn sớm vậy? Cũng không phải vì cô gái kia đã có bầu, đúng không ạ?” Ch-Chà! Anh Holmes lại nói toạc móng heo ra như thế rồi. Tôi hồi hộp nghĩ vậy trong lúc hóng hớt nghe câu chuyện. Tuy nhiên, đúng như những gì anh Holmes nói, người con gái kia cũng chẳng phải đã mang thai, vậy mà anh Kisuke lại đính hôn sớm như thế... khiến tôi cũng cảm thấy bất ngờ. “Đ-Đó là vì tôi muốn ở cùng cô ấy, nhưng người ta là tiểu thư của một gia đình nghiêm khắc, nếu không bàn chuyện cưới xin thì sẽ không được phép sống chung.” “Tôi hiểu rồi. Nghĩa là bây giờ anh đang sống cùng vị hôn thê của mình, đúng không ạ?” “... Phải.” “Có thể đoán được người viết thư đe doạ là một người ở gần anh, không ủng hộ việc anh ‘đính ước’ và ‘kế thừa nghệ danh’. Nếu nghĩ theo chiều hướng đó, có phải trong anh đã hình dung được thủ phạm là ai không ạ?” Nghe anh Holmes nói thế, anh Kisuke mở to mắt, mặt mũi trắng bệch. Toàn thân anh ấy run lên bần bật. Chắc hẳn trong đầu anh Kisuke đã hiện ra... hình ảnh của thủ phạm. “Kh-Không, tôi không đoán ra... thủ phạm... là ai hết...” Nói đến đấy, anh Kisuke vồ lấy tờ giấy đang để trên mặt quầy thu ngân như ăn cướp rồi đứng bật dậy. “Th-Thôi, tôi phải quay về luyện tập đây. Xin lỗi vì đã đường đột tới làm phiền, cảm ơn cậu rất nhiều.” Anh ấy cúi đầu chào rồi quay lưng đi như muốn bỏ chạy. Lúc anh Kisuke chạm vào tay nắm cửa, anh Holmes lặng lẽ cất lời, “Anh Kisuke.” Anh Kisuke từ từ quay lại với khuôn mặt căng cứng. “Tôi cảm nhận được từ vụ quấy rối này một sự bốc đồng, ‘một nỗi lòng không cách gì kìm nén’. Không thể lường trước được một kẻ như thế sẽ làm to chuyện đến đâu. Mong anh cẩn thận.” Anh Holmes nói với ánh nhìn cứng rắn, khiến anh Kisuke căng thẳng nuốt nước bọt. “C-Cảm ơn cậu. Tôi sẽ... lưu ý.” Anh Kisuke cúi đầu lần nữa rồi bước ra khỏi tiệm. Tiếng chuông vang lên leng keng vọng khắp cửa hàng. Tôi trông thấy bóng anh Kisuke đang rảo bước bên ngoài cửa sổ. Vẻ mặt anh ta đằng đằng sát khí như thể đã xảy ra chuyện gì đó vô cùng nghiêm trọng, làm dấy lên trong lòng tôi một nỗi sợ hãi mơ hồ. ... Mai sẽ là ngày công diễn đầu tiên của lễ Kaomise. V 6 à rồi hôm sau, ngày ba mươi tháng Mười Một. Cuối cùng cũng tới ngày đầu tiên của lễ Kaomise. Suất diễn ban ngày mở màn từ mười giờ ba mươi phút, nên tôi và anh Holmes nhất trí hẹn gặp nhau lúc mười giờ sáng, trước đồn cảnh sát gần cầu Shijo-Ohashi[24]. Tôi bắt tàu điện Keihan từ ga Demachi Yanagi, sau đó xuống ở ga Gion Shijo. Có vẻ hôm trước anh Holmes ngủ ở căn hộ bên Yasaka, nghĩa là anh ấy sẽ phải đi quá Minamiza để đến gặp tôi trước đồn cảnh sát. Lúc đi về phía đồn cảnh sát, tôi thấy anh Holmes đã đến rồi. “Aoi.” Vừa thấy tôi một cái, anh nhẹ đưa tay lên. Anh Holmes nở nụ cười tươi rói, phông nền sau lưng là sông Kamo (Áp) với mặt nước sáng lung linh dưới ánh mặt trời buổi sáng. Bộ vest phóng khoáng rất hợp với anh. “A-Anh chờ lâu chưa ạ?” Về phần mình, tôi không biết mặc gì cho ổn, cuối cùng đành kết hợp chiếc áo khoác lửng yêu thích với bộ váy liền mới mua cùng bất thấp cổ. “Dễ thương lắm, trông rất hợp với em.” Anh Holmes mỉm cười và nói làm má tôi nóng bừng. Nghĩ lại thì lúc anh Holmes khen mấy cô bạn đến thăm cửa hàng cũng đến là trơn miệng, anh ấy vốn là kiểu người có thể nói những câu như vậy một cách hết sức bình thường. Tôi bụng bảo dạ rằng mình không được tưởng bở. “A-Anh vẫn khéo miệng ghê.” “Không không, làm gì có. Giờ thì anh em mình đi nhé.” “Vâng ạ.” Rồi chúng tôi cứ thế băng qua cầu Shijo-Ohashi. “Anh hẹn em ở trước đồn cảnh sát thuộc hướng đối diện Minamiza là có lí do cả đấy.” Nghe anh Holmes vừa đi vừa nói, tôi nghiêng đầu hỏi lại: “Sao ạ?” Nói mới thấy, Minamiza vốn nằm chếch chéo chốt đèn giao thông. Xem ra lí do không phải là vì đồn cảnh sát dễ tìm. “Anh muốn em thấy khung cảnh nhộn nhịp của Minamiza trong dịp Kaomise từ một khoảng cách hơi xa như thế này.” Anh Holmes khẽ khàng dừng bước và nhìn chéo sang bên kia cầu. “Minamiza là nhà hát kịch có lịch sử lâu đời nhất Nhật Bản trên mảnh đất đã sản sinh ra bộ môn nghệ thuật Kabuki. Sự bề thế, uy nghi của kiến trúc có ván diềm ở tường hồi mái dốc theo phong cách Momoyama thực sự vô cùng cuốn hút.” “Vâng, rất ấn tượng ạ.” Phải, trông nó bắt mắt đến mức có lẽ ai tới cầu Shijo-Ohashi cũng phải dừng chân lại để ngắm nhìn. Có vẻ đây được gọi là kiến trúc có ván diềm ở tường hồi mái dốc theo phong cách Momoyama. Một nhà hát kịch kiểu Nhật thâm trầm mà tinh tế. Ấn tượng nhất là chiếc đèn lồng đỏ lớn viết chữ “Minamiza” cùng những tấm biển ghi tên diễn viên được xếp thành một hàng. “Mà anh ơi, mấy tấm biển tên kia bình thường không ở đó phải không nhỉ?” “Ừ, những tấm biển ấy gọi là ‘maneki[25]’. Mỗi dịp Kaomise, chúng sẽ được trưng lên để mọi người nhìn một cái sẽ nhận ra ngay dàn diễn viên ấn tượng.” “Ồ, chúng được gọi là ‘maneki’ ạ?” Tôi gật gù trước điều mới mẻ vừa học được. Trước cổng nhà hát kịch chưa gì đã có một đám đông ồn ã. Tôi trông thấy các quý bà diện kimono và các quý ông trong bộ lễ phục, nhưng ngay sau đó lại phát hiện ra vẫn có những người mặc quần áo bình thường, thực sự là mỗi người một vẻ. Vừa trầm trồ, tôi vừa băng qua ngã tư đèn xanh đèn đỏ và đến trước toà nhà Minamiza. Quả thật là vô cùng náo nhiệt. Ai nấy đều mang khuôn mặt tươi cười rạng rỡ, sự háo hức hiện hữu ở khắp nơi. ... Giờ mới nghĩ đến chuyện này e là hơi muộn, nhưng anh Holmes đã mất công dẫn tôi đến đây rồi, liệu tôi xem xong có hiểu nổi cái hay của Kabuki không nhỉ? Tôi đã từng xem Kabuki trên ti vi rồi, nhưng nói thật là tôi còn chẳng hiểu diễn viên đang nói cái gì cơ. Bị choáng ngợp bởi không khí nhộn nhịp trước cửa ra vào, tôi bỗng cảm thấy hơi lo lắng. Trong lúc ấy, anh Holmes đã nhanh nhẹn đi làm thủ tục nào đó như thường lệ. Anh ấy đang làm gì thế nhỉ? Tôi vừa tự hỏi thì anh ấy đã trao cho tôi một thiết bị màu đen, trông như một chiếc radio cỡ nhỏ. “Của em đây.” “Ơ, đây là...?” Nó có gắn cả tai nghe nữa. “Là thiết bị hướng dẫn bằng âm thanh đấy.” “Hướng dẫn bằng âm thanh! Có cả thứ như thế kia ạ!?” “Phải, phần lớn mọi người đều có thể mượn được thứ này. Trong đây có giải nghĩa chi tiết, em sẽ vừa hiểu được lời thoại, vừa có thể thưởng thức vở diễn mà không gặp khó khăn gì.” Thì ra là phải thưởng thức Kabuki như thế! May quá, không phải tất cả mọi người đều hiểu được cái thứ ngôn ngữ như nói mơ kia. Tôi thở phào nhẹ nhõm và bước vào sảnh chính đang huyên náo toàn người là người. Trên thảm nhung màu đỏ xếp một dọc những món mây tre đan cao đến thắt lưng. “Kia là...?” “Chúng là ‘ngựa tre’. Đây là phong tục chỉ có ở Minamiza, người ta gửi một loạt những lời chúc mừng tới diễn viên Kabuki bằng ngựa tre đan. Giống như vòng hoa ở chỗ khác ấy.” “Ồ, lần đầu tiên em thấy thứ như vậy đấy.” Tôi lại tiếp tục trầm trồ thì bỗng anh Holmes kêu “a” một tiếng và ngẩng mặt lên. “Aoi, cô gái đang mặc trang phục truyền thống ở đằng kia...” Nghe vậy, tôi cũng quay sang nhìn. Ánh mắt anh Holmes đang hướng về phía một mĩ nữ trông vô cùng quý phái. Cô khoác trên mình một bộ homongi[26] phối màu tươi sáng và nhã nhặn. “Cô ấy là cựu người mẫu con nhà tài phiệt đã đính ước với anh Kisuke đấy.” “Hô...” Tôi buột miệng thốt lên. Ra vậy, một cô gái mang vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản gọn gàng và tươm tất, người có vẻ sẽ lọt trắng mắt xanh của một ngôi sao Kabuki đang nổi rần rần. Vừa quan sát người phụ nữ ấy từ đằng xa, chúng tôi vừa tiến về phía hội trường. Hội trường mang lại ấn tượng tổng thể như được bao bọc bởi một màu đỏ son. Hệ thống chiếu sáng dạng đèn lồng xếp một dọc trên tường trông vô cùng ấn tượng. ... Một không khí độc đáo, khác hẳn với những sản khấu kịch thông thường. “Aoi, bên này,” anh Holmes dẫn tôi vào hàng ghế đầu ở vị trí trung tâm của tầng hai. Từ đây có thể nhìn xuống sân khấu rất rõ. “Ừ-Ừm, đây chắc là chỗ ngồi tốt phải không ạ?” Tôi vừa rón rén ngồi xuống vừa hỏi. “Phải, hàng trên cùng tầng hai là ‘chỗ ngồi đặc biệt’ đấy.” “Chỗ ngồi đặc biệt!” Tôi trợn tròn mắt. “A-Anh ơi... chỗ ngồi đặc biệt thì có sao không ạ?” “Aoi, em nên nhớ đây là nơi người ta vung tiền qua cửa sổ mỗi năm một lần.” Anh cười khì, nheo mắt dịu dàng. “Hờ...” “Trên hết, đây là gia huấn nhà Yagashira đấy.” “Gia huấn nhà Yagashira ấy ạ?” “Ông anh luôn dạy rằng: ‘tiền chi ra cho những hoạt động nghệ thuật hay thú vui để mài giũa bản thân thì không cần phải tiếc’.” “... Nghe đúng chất ông chủ luôn đấy ạ.” Không tiếc tiền đầu tư cho việc mài giũa bản thân, lúc nào cần tiêu thì phải tiêu, không hổ danh dòng dõi thương nhân buôn bán lớn. “Ghế đặc biệt chỉ có hàng ghế đầu tầng hai này thôi ạ?” “Không đâu, em xem, tầng một, hàng ghế ngang nằm cạnh đường hoa[27] kia cũng là ghế đặc biệt. Lần này, anh muốn Aoi xem được toàn cảnh sân khấu nên mới đặt hàng đầu trên tầng hai.” Anh Holmes đưa mắt nhìn xuống hàng ghế cạnh lối đi dưới tầng một rồi vui vẻ nói tiếp, “... A, kìa Aoi, ông Ichikata Tozaro nổi tiếng yêu vợ đang ngồi đằng kia đấy.” “Dạ?” Tôi vươn cổ ra nhìn hàng ghế đặc biệt ở tầng một và trông thấy ông Ichikata Tozaro mà tôi đã từng bắt gặp trên ti vi cùng người vợ cựu diễn viên của ông ấy. “O-Oa, đúng thật này! Trông y như trên ti vi anh nhỉ, phu nhân quả xứng danh cựu diễn viên, đẹp quá đi mất.” Tôi buột miệng reo lên bằng giọng đầy phấn khích. Tôi nhớ không nhầm thì bà ấy đã ngoài năm mươi tuổi, nhưng trông vẫn trẻ trung và cực kì xinh đẹp. Trong lúc tôi đang nhìn xuống hàng ghế đặc biệt ở tầng một và không ngớt trầm trồ... “Ô, Holmes với Aoi kìa.” “Ái chà, xin chào.” Nhận ra giọng nói quen thuộc, tôi ngoảnh lại thì thấy anh Akihito và chị Asamiya Rei đang đứng đó. “Anh Akihito, chị Rei, hai người cũng đến ạ!” Tôi kinh ngạc thốt lên. “Ừ, đây là ngày công diễn đầu tiên của Kisuke, nên chị tới xem từ trưa đến tối.” Chị Rei vừa xem lại vẻ, vừa ngồi xuống cạnh anh Holmes. Có vẻ chỗ của chị Rei cũng là ghế đặc biệt. “Anh thì nghĩ là đằng nào cũng mất công đi, vậy đi luôn ngày đầu cho nóng. Thế rồi gặp được chị Rei ở đằng kia. Mà không ngờ em với Holmes cũng đến đấy.” Anh Akihito vỗ bồm bộp đầu anh Holmes từ phía sau. “Không cần cứ hở ra là dính lấy tôi như thế đâu. Anh Akihito không ngồi à?” Anh Holmes hất tay anh Akihito với vẻ phiền phức rồi quay đầu lại. Anh Akihito bèn chỉ lên tầng trên. “Tôi ngồi ghế hạng bốn, là hàng cuối cùng ở tầng ba cơ. Tôi nghĩ tạm thời cứ lấy chỗ rẻ nhất là được.” “... Tốt xấu gì anh cũng là người trong giới, tôi mong anh có chí vào, ngồi ghế tốt hơn một tí mà còn học hỏi.” Thấy ánh nhìn lạnh tanh của anh Holmes, tôi cứng đơ cả mặt. “Thôi nào, Holmes, cái đó cậu phải bảo tôi trước khi tôi đặt vé chứ.” Anh Akihito cười ha hả, rồi lại vỗ nhẹ mấy cái vào đầu anh Holmes. ... Anh Akihito đúng là không ai địch nổi mà. Anh Holmes thở ra một hơi rồi đưa cho anh Akihito cuốn sách hướng dẫn dày cộp anh đã mua ngoài sảnh. “Anh Akihito, nếu thích thì anh có thể lấy cái này.” Anh ấy cũng có mua cho cả tôi nữa. “Sách hướng dẫn hả? Thôi, kể cả đi xem phim điện ảnh tôi cũng không mua thứ này.” “Anh đừng nói thế. Vừa hay trong buổi diễn hôm nay có tiết mục ‘Chiếc quạt vẫy gọi ở Itsukushima’ đấy.” “‘Chiếc quạt vẫy gọi ở Itsukushima’?” “Phải, Kiyomori gọi mặt trời. Anh quên rồi sao? Là vở diễn tái hiện bức tranh cuộn mà bố anh đã tặng anh trai anh đấy.” Nghe anh Holmes nói xong, sắc mặt anh Akihito thay đổi, rồi anh nhận lấy quyển giới thiệu. “... Ừ, thank you. Tôi sẽ đọc thật kĩ. Vậy thôi, tôi cũng phải về chỗ đây.” Cầm quyển giới thiệu trên tay, anh Akihito đi lên tầng ba với vẻ mặt nghiêm túc. Chị Rei đang ngồi cạnh anh Holmes, vừa nhìn theo bóng lưng ấy vừa cười rinh rích. “Chà, ra vậy. Chị cảm giác mình đã hiểu tại sao Akihito lại bảo ‘Holmes là sư phụ của tôi’ rồi. Ra là vì cậu hay thuyết giảng cho cậu ta như thế.” Anh Holmes cũng đáp lại chị ấy bằng một nụ cười. “Chuyện gì anh ấy cũng cứ nói quá lên.” Câu nói đó của anh Holmes khiến chị Rei cười khoái chí. Hôm nọ, chị Rei đã cùng anh Kisuke trao nhau nụ hôn nồng cháy ở “Kura”. Nhìn mặt thì thấy chị ấy bây giờ vẫn không khác gì lần gặp trước, đầy sức sống và không hề bị che phủ bởi mây mù u ám chút nào. Chị ấy đến tận sân khấu để xem kịch thế này nên chắc tâm lí cũng đã thông suốt rồi nhỉ? Lại còn xem cả suất ban ngày và suất tối nữa... Đúng lúc đó, tiếng loa phát thanh vang lên trong hội trường: “Xin quý khách tắt nguồn các thiết bị di động như điện thoại.” “A, phải tắt nguồn thôi.” “Vâng.” Tôi vừa cầm smart phone lên thì thấy có tin nhắn anh Akihito gửi đến. “Ơ, có tin nhắn của anh Akihito.” “Anh cũng nhận được. Có vẻ là gửi đồng thời cho cả hai chúng ta.” Chúng tôi mở xem tin nhắn của anh Akihito ngay trước lúc tắt nguồn. “Cấp báo, cấp báoooo! Ở ghế hạng bốn có cô thần tượng áo tắm bị đồn với Kisukeeee!” Thứ được gửi tới là một thông báo đi kèm với đống biểu tượng cảm xúc đầy kích động. “...” Anh Holmes và tôi quay sang nhìn nhau trong yên lặng, cùng cười trừ rồi lặng lẽ tắt nguồn điện thoại. “Hửm? Akihito sao thế?” Chị Rei bất chợt nhìn sang làm tôi giật nảy người. Sao chúng tôi có thể nói với chị ấy rằng thần tượng áo tắm trong lời đồn đã tới đây được. “Mấy trò gây sự chú ý như mọi khi thôi chị ạ.” Anh Holmes cất điện thoại vào túi áo trong. “Mà vụ xem cả suất ban ngày lẫn suất tối nghe tuyệt thật. Có khi nào vé của chị là do anh Kisuke...?” Anh đổi đề tài êm ru. “Không đâu, chị tự mua đấy. Chị là thành viên cũ của Takarazuka mà, dĩ nhiên phải yêu sân khấu chứ.” “Ra thế.” “Vả lại... chị cũng là người hâm mộ Kisuke.” Chị Rei vừa ngắm sân khấu vừa lẩm bẩm, sau đó, như thể nhớ ra một chuyện, chị nhìn sang anh Holmes. “Hôm ấy, lúc ở cửa hàng, bọn chị bị cậu thấy rồi nhỉ? Hãy coi đây là chuyện chỉ chúng ta biết với nhau thôi nhé. Kisuke cũng đính hôn rồi mà.” Chị nháy mắt rồi đưa ngón trỏ lên chặn trước miệng. Không hiểu được tâm lí ấy của chị Rei, tôi bất giác nhổm người dậy. “... À, ý em muốn hỏi là, chị Rei không giận ạ?” Thế là chị Rei khẽ cười và nhún vai. “Chuyện đó tính ra cũng không vui vẻ gì, nhưng cậu ấy là người của một thế giới đặc biệt. Với lại chị cũng đã biết trước rồi, cả vụ hôn thê lẫn vụ cô bé thần tượng áo tắm kia nữa.” Tôi bị choáng khi thấy chị Rei nói thế một cách thản nhiên. N-Nói chuyện này ở đây... không sao chứ? Tôi cuống quýt nhìn quanh. Cũng may là tiếng nói chuyện không to lắm, những người khác có vẻ không nghe thấy gì, nên tôi vuốt ngực đầy nhẹ nhõm. “Tức là anh ấy giấu đầu hở đuôi hả chị?” “Ừ. Tửu lượng Kisuke kém vô cùng. Say một cái là sẽ đi huyên thuyên về người con gái khác. Vậy mà không hiểu sao, chị không ghét cậu ấy được. Cậu ấy khen tất cả mọi người. Cái gì mà ‘cô ấy là người phụ nữ tốt’, rồi ‘cô bé ấy đáng yêu lắm’! Đàn ông thường sẽ chê bôi những người phụ nữ khác hòng lừa ngọt đàn bà con gái còn gì? Để chứng tỏ với cô gái trước mặt mình rằng ‘em là số một’. Riêng cậu ấy tuyệt đối không bao giờ làm vậy, hay nói đúng hơn là không làm được, vì cậu ấy yêu tất cả. Thế nên, mặc dù rất ngán cái tính ấy của Kisuke, chị vẫn nghĩ rằng, ‘mình không sao ghét cậu ấy được’.” Chị Rei vắt chéo chân, tay chống cằm, và nhún vai cười. Nếu tôi không nhầm thì chị Rei hơn tuổi anh Kisuke. Cũng có thể vì thế mà chị ấy thấy anh ta dễ thương. Dù vậy thì với tôi, sức hút của anh Kisuke cũng là thứ thật khó mà lí giải được... “Nhưng thôi, chị với cậu ấy đã chấm dứt rồi. Chị cũng không mặt dày đến mức đi dan díu với người đã đính hôn đâu. Bởi thế, chuyện này khép lại ở đây nhé.” Nhìn chị Rei tươi cười, ngực tôi thắt lại. Sự thật chắc chắn là chị ấy đang rất khổ tâm, vậy mà nụ cười của chị ấy vẫn thật đẹp đẽ và can đảm... Trước mặt người phụ nữ như chị, tôi và anh Holmes chỉ có thể lặng lẽ gật đầu. Cuối cùng cũng đến giờ mở màn, tôi nhẹ nhàng giở cuốn sách giới thiệu ra xem. Suất ban ngày hôm nay bao gồm: Vở thứ nhất “Chiếc quạt vẫy gọi ở Itsukushima ~Kiyomori gọi mặt trời~” Vở thứ hai “Ngàn dặm vu quy ~Kho tàng truyện kể trung thần~”[28] Vở thứ ba “Cụ ông cụ bà”[29] Vở thứ tư “Hai Wankyu” Vở thứ năm “Yoshitsune và ngàn gốc anh đào” “Một buổi diễn Kabuki không diễn xuyên suốt một câu chuyện dài, mà chia thành nhiều câu chuyện nhỏ anh nhỉ?” Nghe tôi thì thào, anh Holmes bèn gật đầu đáp lại. “Ừ. Đúng vậy. Nhắc mới nhớ, Aoi, em đã từng xem kịch sân khấu bao giờ chưa?” “Em mới xem vở ‘Bóng ma trong nhà hát’ của một đoàn kịch nổi tiếng thôi ạ.” “Thế nên em mới tưởng rằng buổi diễn hôm nay sẽ chỉ có một vở nhỉ. Kabuki phần lớn sẽ được chia thành vài tiết mục như thế này.” Tôi vừa “ồ” lên trầm trồ thì vở thứ nhất là “Chiếc quạt vẫy gọi ở Itsukushima” đã khai màn. “Vào thời cực thịnh của mình, Taira no Kiyomori đã cho xây mới ngôi đền Itsukushima. Đây là vở kịch diễn lại điển tích ấy.” Cùng lúc, tôi nghe thấy thuyết minh từ thiết bị hướng dẫn bằng âm thanh. Sân khấu bắt đầu chuyển động. Lời thoại quả nhiên sử dụng ngôn ngữ đặc trưng của Kabuki, đứa nghiệp dư như tôi gần như chẳng hiểu người ta nói gì. Tuy vậy, nhờ có tiếng thuyết minh ngay bên tai nên tôi vẫn nắm được toàn bộ nội dung, có thể tập trung vào sân khấu mà không gặp chút trở ngại nào. Ngược lại, nếu không có thiết bị hướng dẫn bằng âm thanh, chắc tôi chẳng hiểu mô tê gì mất. Có thể nói rằng đây là vật không thể thiếu trong một buổi diễn Kabuki. Trên sân khấu là hình ảnh Kiyomori đang ở đỉnh cao huy hoàng, cùng các gia thần và thiếp thất trước phông nền là quang cảnh Itsukushima với thần điện màu đỏ son. Khí chất của Kiyomori ngồi ở trung tâm sân khấu rất đáng nể, dường như áp đảo người xem hoàn toàn. Tôi nghĩ rằng biết đâu Kiyomori ngoài đời cũng là người như thế, cảm tưởng giống như tôi đang được nhìn vào lịch sử xa xưa. Dáng vẻ bạch phách tử[30] mở màn bằng một điệu múa dâng thần linh[31] đẹp đến mê hồn. Diễn viên Kabuki đều là nam giới, nên đương nhiên bạch phách tử đó cũng là nam. Thế nhưng, vũ điệu ấy lại đẹp đẽ, uyển chuyển và đầy nữ tính đến mức không thể nghĩ rằng đó là do nam nhân thực hiện. Màn biểu diễn của bạch phách tử khiến Kiyomori rất hài lòng, ông nói: “Ta sẽ thưởng cho ngươi. Nào, hãy lại gần đây.” Bạch phách tử nghiêm cẩn tiến lại gần, rồi bất chợt hô to: “Kẻ thù của phụ thân ta!” và cầm đoản kiếm chém Kiyomori. Tình hình đột ngột trở nên căng thẳng. Tiếng phách vang lên. Diễn xuất đầy thuyết phục làm tôi xem mà tim đập thình thịch. ẳ Chẳng mấy chốc, bạch phách tử đã bị khống chế, bèn xưng danh mình là con gái Minamoto no Yoshitomo, công chúa Kokonoe. Biết được sự thật đó, Kiyomori không khỏi bàng hoàng, nhưng vẫn tỏ lòng với công chúa Kokonoe rằng ông và Yoshitomo đã từng là bằng hữu có một không hai từ thuở thiếu thời, và cho đến tận bây giờ, việc phải triệt hạ Yoshitomo vẫn là một kí ức vô cùng đau đớn. Làm sao ông có thể xuống tay với cả con gái của bạn thân như thế được. Ông ra lệnh tha chết cho nàng, nhưng các gia thần người thì làm ầm lên rằng: “cho ả ta trốn thoát sẽ để lại hậu hoạ” người thì tỏ ý can ngăn: “không thể để máu làm vấy bẩn nghi thức trọng thể này; hơn nữa, đó cũng là ý chí của ngài Kiyomori.” Rốt cuộc, nàng công chúa được thả ra, nghi lễ cũng chuẩn bị bắt đầu, nhưng những người thợ cả vẫn còn ở bên bờ biển. Hỏi ra mới biết, vùng này khó mà nhận biết đúng dòng chảy và hướng của thuỷ triều, nên việc chuẩn bị đang gặp khó khăn. Chưa chắc đã chuẩn bị được xong xuôi trước lúc mặt trời lặn, nên gia thần của Kiyomori xin ông cho dời buổi lễ sang hôm khác. Nghe xong tình hình, Kiyomori bèn đứng lên nói: “Vậy thì ta sẽ làm mặt trời sắp lặn trồi lên!” Đám gia thần và con trai ông nghe vậy thì thật kinh. “Người trên đỉnh vinh hoa như phụ thân cũng không thể xoay chuyển thái dương đâu.” “Phải đấy, thưa ngài Kiyomori.” Mọi người đồng thanh, nhưng Kiyomori vẫn nở một nụ cười tự tin, không hề nao núng. “Hừ, chẳng phải hoàng đế Trung Hoa[32] đã từng bắn hạ chín mặt trời sao? Thế thì chuyện khiến mặt trời quay trở lại cũng dễ như bỡn.” Nói rồi, Kiyomori cầm một chiếc quạt lớn phẩy từ dưới lên. Và mặt trời sắp lặn lúc chiều tà quả thực đã từ từ nhô lên không chậm trễ. “Thế này là thế nào?” Giữa lúc tất cả mọi người còn đang kinh hãi bủn rủn chân tay, Kiyomori vẫn mang vẻ mặt dương dương tự đắc trong khoảnh khắc hạ màn... “Chiếc quạt vẫy gọi Itsukushima ~Kiyomori gọi mặt trời~” là một câu chuyện như vậy. Xem xong, tôi há hốc miệng, ngẩn người ra. Kiyomori chuyển dời thái dương, và thế là hết... Thật là một câu chuyện hoang đường. “... Người ta nói tiết mục này là nhằm thể hiện vẻ quyền uy và tính cách ngạo mạn của Kiyomori, người hung hăng đến độ ‘có thể xoay chuyển cả mặt trời’. Ngoài ra, những diễn viên đóng Kiyomori trong vở này trước đây nghe nói đều là những ngôi sao lớn của thời đại.” Anh Holmes có lẽ đã đoán được tâm trạng choáng váng và bối rối của tôi, liền thì thầm bên tai tôi để giải thích. Nghe xong, tôi gật gù “ra thế” rồi hướng mắt trở lại sân khấu. Diễn biến câu chuyện khiến tôi bị sốc, nhưng bản thân sân khấu Kabuki thật sự rất tuyệt vời. Tôi như bị lôi tuột vào một thế giới độc đáo, quên đi cả thực tại. Qua diễn xuất, lời ca và điệu múa thanh nhã, tấn kịch nhân gian được tái hiện đẹp đến lớp hồn. Giờ thì tôi đã thấm thía câu nói: “Sân khấu truyền thống cũng là nghệ thuật” của anh Holmes. Hoá ra Kabuki là thế. ... Cuối cùng cũng tới giờ giải lao, tôi hơi hoang mang khi thấy mọi người xung quanh bắt đầu rộn rã sửa soạn cơm hộp. “Ơ, mọi người ăn trưa ở đây ạ?” “Phải, ở đây tuy có chỗ ăn, nhưng đặt cơm ở các hàng chuyên giao tận nơi rồi dùng bữa tại ghế khán giả cũng là một phong vị của Kabuki.” Anh Holmes cũng bắt đầu lọ mọ sửa soạn gì đó. Chị Rei ngồi cạnh chúng tôi đặt một hộp cơm lên đùi rồi mỉm cười hãnh diện, “Của chị là cơm hộp mua tại hàng cơm ở đây.” “Ô-Ồ..” Tôi đại loại là gật đầu cho có, còn anh Holmes sau đó lấy ra hai hộp cơm từ trong túi giấy. “Của em này. Đây là suất cơm đặt từ hàng cơm hộp giao tận nơi ưa thích của anh,” anh đưa cho tôi một hộp. “E-Em xin ạ.” Tôi nín thở khi nhìn thấy hộp cơm xa xỉ với cơm trắng và các món ăn kèm. “À, đây là khăn ướt. Anh còn có cả trà nữa.” Anh Holmes chia cho tôi khăn ướt và một chai nhựa chưa mở nắp. “... E-Em cảm ơn anh. Mời anh ăn cơm ạ.” Mức độ tinh tế của anh Holmes có thể nói là tương đương phái nữ rồi, lúc nào cũng vậy, chu toàn đến mức không chê trách được điểm gì. Ai như tôi chẳng được tích sự gì, thảm không chịu nổi. Tôi vừa ăn suất cơm hộp ngon lành, vừa cảm thấy suy sụp tinh thần trước sự nhiệt tình chu đáo của anh Holmes. Thế rồi, thời gian nghỉ giải lao cũng kết thúc, và nửa sau của buổi diễn lại bắt đầu. Vở tiếp theo là “Hai Wankyu”. Tôi đang xem sách giới thiệu thì nghe tiếng anh Holmes thì thầm vào tai. “Tiếp theo là màn diễn của Ichikata Matsunosuke... anh trai anh Kisuke đấy.” Tôi gật đầu, tim tự nhiên đập bình bịch. “Hai Wankyu” Đó là một câu chuyện vô cùng bi đát. Ngày xửa ngày xưa, một phú thương nổi danh nọ tên là Wankyu đã kết thân với một thái phu[33] trong vùng. Vì quá si mê nàng thái phu này, Wankyu lầm đường lạc lối đến tán gia bại sản, rồi bị người nhà tống vào hầm ngục. Sau đó, Wankyu vì nhớ thương nàng thái phu mà hoá điên. Ông chạy ra rừng thông sáng trắng, nhảy múa trong điên dại khi nghĩ về người con gái ấy[34]. Diễn xuất của anh trai anh Kisuke là anh Ichikata Matsunosuke trong vai Wankyu khiến tôi bị choáng ngợp. Nỗi héo hon, buồn bã cùng tình yêu dành cho người con gái kia như đè nén trong lồng ngực. Tới cả đứa ngoại đạo như tôi cũng cảm nhận được rằng... anh ấy là một diễn viên cừ khôi. “Đúng là anh Matsunosuke có khác, thiệt hổng làm người ta thất vọng ha.” “Phải đó, nếu xét riêng thực lực thì đáng ra anh Matsunosuke phải là người được kế thừa nghệ danh mới đúng...” “Thiệt luôn. Bị thằng em suốt ngày chỉ biết yêu đương kia cướp mất cái tên ‘Ichikata Kisuke’ chắc ảnh ức lắm.” Tôi nghe thấy những lời rì rầm xung quanh. ... Hoá ra người hâm mộ Kabuki nghĩ như vậy. Tôi cúi xuống xem bức ảnh giới thiệu trong sách với tâm trạng hơi phức tạp. Sau đó là tới tiết mục cuối cùng của suất ban ngày. Chờ mãi cũng đến vở diễn “Yoshitsune và ngàn gốc anh đào” do anh Kisuke diễn chính. Lúc mới nhìn tiêu đề, tôi đã chắc mẩm rằng nhân vật chính là Minamoto no Yoshitsune, nhưng hoá ra không phải. Nhân vật chính của câu chuyện này là hồ ly tinh Genkuro, vì quyến luyến Yoshitsune mà hoá thành Yoshitsune. Bị anh trai Yoritomo vụ cho tội mưu đồ tạo phản để tiếm ngôi, Yoshitsune trốn khỏi kinh đô về nơi xa xôi và được trung thần ở núi Yoshino[35] che giấu. Chuyện đó đến tại Yoritomo, khiến tình hình trở nên náo loạn, nhưng hồ ly Genkuro đã gắng hết sức gây cản trở. Đây là một câu chuyện có tính giải trí cao với nhiều tình tiết dồn dập. Một mình anh Kisuke đóng ba vai là hồ ly, Sato Tadanobu[36] và Minamoto no Yoshitsune. Dáng vẻ hồ ly nhẹ nhàng bay ra từ dưới gầm sàn hay từ trên gác mái gây rất nhiều thiện cảm cho người xem, không làm thế nào rời mắt được. Diễn xuất của anh trai anh ấy ban nãy làm tôi choáng ngợp, nhưng anh Kisuke cũng giỏi theo cách riêng của mình. Trên hết, tôi có thể cảm nhận được anh là một diễn viên “đầy sức hút”. Cuối vở diễn, giữa khung cảnh hoa rụng lả tả đầy mê hoặc, hồ ly tinh Genkuro như nổi lơ lửng giữa không trung, chạy qua bầu trời để bỏ sân khấu lại phía sau. Đã đến màn cao trào của câu chuyện. Tôi hoàn toàn không ngờ tới việc mình sẽ được chiêm ngưỡng một pha diễn hành động dùng cáp treo trong kịch Kabuki! Tôi đang say sưa theo dõi với tâm thế sẵn sàng để vỗ tay, thì không hiểu sao anh Kisuke đột nhiên mất thăng bằng trên không. Có vẻ như đã xảy ra sự cố với dây cáp, khiến anh văng xuống thành một đường cánh cung, cả người đập xuống sàn sân khấu. Rầm! Tiếng động nghe đau điếng vang lên, khán giả la hét ầm ĩ. “...!” Tấm màn sân khấu vội vã buông xuống đã cho chúng tôi biết rằng đó không phải một phần của vở diễn. “Aoi, chị Rei, đi thôi! Chắc chắn đây không chỉ đơn thuần là tai nạn.” Anh Holmes đứng phắt dậy. Vẻ mặt hết sức nghiêm trọng. Phải rồi... Anh Kisuke đã nhận được thư đe doạ mà. “Kh-Không chỉ đơn thuần là tai nạn... ý là sao?” Vừa nhanh chân đuổi theo anh Holmes ra khỏi hội trường, chị Rei vừa hỏi, mặt mày biến sắc. “Chuyện đó tôi sẽ giải thích sau. Chị Rei, có nhiều người biết mặt chị. Chị có thể nói giúp với nhân viên để người ta cho bọn tôi vào phòng nghỉ được không?” “Ch-Chị hiểu rồi.” Khi chúng tôi ra tới lối đi và đang trao đổi với nhau mấy lời như thế, anh Akihito cũng chạy tới và gọi: “Holmes!” Phía sau anh là thần tượng áo tắm dính tin đồn với anh Kisuke, Kano Airi. ... A- Anh Akihito! Sao lại dẫn chị ấy tới chứ! Trong lúc tôi còn đang kinh ngạc, chị Rei đã thương lượng xong với nhân viên nhà hát để chúng tôi vào phòng nghỉ của anh Kisuke. """