"
Holmes ở Kyoto 2: Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Holmes ở Kyoto 2: Hồ Sơ Vụ Án Đồ Thật Đồ Giả PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
HOLMES Ở KYOTO - TẬP 2 ~ Hồ sơ vụ án đồ thật đồ giả ~ Tác giả: Mai Mochizuki
Người dịch: Dương Dương Phát hành: WingsBooks
Nhà xuất bản Kim Đồng 2020 —✥—
ebook©hotaru-team
Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes.” Cháu trai ông chủ tiệm đồ cổ “Kura” ở khu phố Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng có thể trở nên sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto nham hiểm.
Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại tiệm “Kura.” Từng vương vấn cậu bạn trai học cùng trường cấp ba ngày trước, nhưng cuối cùng cũng đã rũ bỏ được.
Tại tiệm đồ cổ “Kura” toạ lạc giữa khu phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto, có một “chàng trai cố đô” kì lạ với mắt thẩm định và quan sát hết sức tinh tường, đến mức được người ta tặng cho biệt danh “Holmes.”
“Không phải đâu Aoi. Mọi người chỉ gọi anh bằng cái tên Holmes vì họ của anh là Yagashira thôi.”
Phải. Hán tự gồm chữ Gia và chữ Đầu, nên đọc thành Homes. “.. Ủa, giờ này mà anh vẫn còn đính chính chuyện đấy à?”
Đây là ghi chép về những vụ án li kì mà anh Holmes, tên thật là Yagashira Kiyotaka, và tôi, một nữ sinh trung học phổ thông tên là Mashiro Aoi, đã gặp phải tại thành phố Kyoto.
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
CUỐI HÈ
Khi men từ Đường Oike xuống phía Nam khu phố mua sắm Teramachi, chẳng mấy chốc bạn sẽ trông thấy một hàng đồ cổ nhỏ.
Tấm biển hiệu phía trên chỉ ghi đúng một chữ “Kura.” Đó là tên của cửa hàng. Và đây chính là nơi tôi, Mashiro Aoi, đang làm bán thời gian. Bầu không khí bên trong cửa hàng này là một sự kết hợp hài hoà giữa Nhật Bản và phương Tây, gợi nhớ về thời kì Minh Trị - Đại Chính. Nội thất của nó khiến người ta không khỏi liên tưởng đến một quán cà phê retro, với quầy thu ngân và bộ sô pha cổ điển thường thấy trong phòng khách của một toà kiến trúc phương Tây xưa cũ.
Trần nhà chẳng hề cao chút nào và trên đó có treo một bộ đèn chùm nhỏ. Chiếc đồng hồ tủ đứng khá lớn được dựng sát tường. Sâu bên trong là một loạt tủ kệ trưng bày đủ thứ đồ cổ và đồ tạp hoá.
Người đang có mặt trong cửa hàng lúc này là cháu trai của ông chủ, anh Yagashira Kiyotaka, tên thường gọi là anh “Holmes.”
Một chàng thanh niên điển trai với thân hình cao ráo, tóc mái hơi dài, nước da trắng trẻo và sống mũi thẳng tắp.
“Có vấn đề gì thế Aoi?”
Chiếc đồng hồ quả lắc vừa điểm một giờ chiều, anh Holmes đang ngồi hạch toán trước quầy thu ngân bỗng cất tiếng hỏi, mắt vẫn dán vào cuốn sổ cái trước mặt.
Xem ra con người trực giác nhạy bén kia không cần nhìn về hướng này cũng có thể cảm nhận được ánh mắt của tôi đang dõi theo anh ấy. “À không ạ, em dọn dẹp xong rồi nên đứng ngẩn ra thôi. Anh còn việc gì khác cho em làm không ạ?”
Tôi cuống lên giải thích, tay vẫn cầm cây phủi bụi. Đó không phải là một lời nói dối. Chỉ đơn giản là sau khi quét dọn xong hết một lượt, tôi đứng đó vu vơ ngắm nhìn góc mặt nghiêng hoàn hảo của anh Holmes thôi.
“Cũng không có việc gì... Hay anh em mình lại cùng nhau học nhé?” “D-Dạ vâng! Rất sẵn lòng ạ.”
Thấy tôi hăng hái cao giọng, anh Holmes nheo mắt lại, trông có vẻ vui. “Aoi này, mình không kinh doanh quán rượu đâu nhé. Giờ thì em ngồi ở đằng trước quầy đi.”
Tôi gật đầu và “dạ” một tiếng, tung tăng bước về phía quầy thu ngân. Anh Holmes liền đứng dậy không một tiếng động, nhẹ nhàng kéo ghế cho tôi.
“E-Em cảm ơn ạ.”
Anh Holmes cúi nhẹ người rồi cứ thế bước vào phía trong. Như mọi khi, từng cử chỉ từng động tác của anh đều rất tinh tế và điêu luyện.
Tôi đến đây làm việc cũng sắp được năm tháng rồi. Đã không ít lần tôi chứng kiến tác phong lịch lãm của anh rồi nhìn lại bản thân và tự nhủ, “Mình cũng phải cố gắng nghiêm chỉnh hơn chút nữa mới được!”
“Hôm nay anh muốn em xem cái này. Nó là một món trong bộ sưu tập của ông nội anh.”
Nói rồi, anh Holmes bê ra một chiếc hộp nhỏ từ sâu bên trong cửa hàng.
Đôi găng trắng mọi khi... không còn trên tay anh, thay vào đó là một đôi găng màu đen.
“Anh Holmes đổi sang găng tay đen rồi ạ?”
Trước giờ tôi chỉ thấy mỗi găng trắng nên âm lượng giọng tôi trở nên hơi to bởi cảm giác bất ngờ mới lạ này.
“Ừ, anh có cả găng màu đen mà. Em không biết à?”
Anh Holmes đáp như thể đó là chuyện rất bình thường, rồi ngồi xuống trước mặt tôi và cẩn thận nhấc ra một chén trà từ bên trong chiếc hộp. “Vậy thì, anh em mình bắt đầu giờ học nhé.”
Anh giơ ngón trỏ thon dài lên trước miệng, rồi mỉm cười. Chỉ là đổi màu găng từ trắng sang đen thôi mà bầu không khí quanh anh dường như cũng đổi khác, khiến tôi cảm thấy hồi hộp lạ thường. Trước mặt chúng tôi là một chén trà làm bằng gốm.
Phải, “giờ học” ở đây chính là khoảng thời gian anh Holmes giảng giải cho tôi về những tác phẩm mĩ nghệ cổ. Trước giờ, anh vẫn dành ra vài phút ngẫu hứng để chỉ bảo cho tôi, nhưng từ khi bước vào kì nghỉ hè, chúng tôi đã chính thức khởi động một thứ gọi là “buổi học về mĩ thuật cổ.”
Vì bây giờ đã là kì nghỉ dài nên số ngày tôi được yêu cầu đến làm thêm cũng nhiều hơn trước.
Nhưng đó cũng chẳng phải vì có nhiều việc cho tôi làm, mà chỉ đơn thuần là cửa hàng cần nhân viên phụ tiếp khách, hay nói cách khác là người trong tiệm mà thôi.
Cửa hàng này về căn bản chẳng mấy khi có khách ghé vào, công việc lau dọn và kiểm kê hàng hoá trong kho thì đằng nào làm cũng không bao giờ hết được, nên ngược lại, chúng tôi nhiều lúc chẳng muốn cố nữa rồi thành ra dư dả thời gian. Và để sử dụng khoảng thời gian ấy một cách hiệu quả, anh Holmes đã bắt đầu dạy về đồ cổ cho tôi.
Chén trà lần này có hình dạng giống một cái bát, lớp men nâu nhạt, được người ta dùng bút vẽ lên vài hoạ tiết màu nâu sẫm trông như những đoá hoa. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chén trà này.
“Đây là...?”
“Là chén trà Kokaratsu.”
“Kokaratsu…”
“Nó là chén trà được nung vào thời Momoyama trong lò gốm thuộc tỉnh Saga hiện giờ. Trước tiên em hãy quan sát nó thật kĩ nhé.” “… Dạ vâng.”
Tôi dán mắt vào chén trà. Dáng vẻ mộc mạc mà vẫn thật tinh tế. Vậy nhưng, chỉ có những bông hoa... nói thẳng ra là trông hết sức vụng về, đến nỗi chẳng thể hiểu nổi người tạo tác đang muốn vẽ cái gì nữa. “... Nét vẽ không hẳn là xuất sắc anh nhỉ?”
Khi tôi buột miệng thành thật nói ra điều này, anh Holmes mỉm cười và gật đầu.
“Phải, đó cũng là phong vị của gốm Kokaratsu. Kokaratsu còn được gọi là điểm dừng chân cuối cùng của những người yêu gốm. Đặc trưng của loại chén này là đất cứng, phần trên bát không tráng men được nặn thành các nếp nhăn, gọi là nếp nhiễu[1].”
“Nếp nhiễu à.”
Tôi vừa gật gù vừa rút một quyển sổ tay ra khỏi túi áo và ngoáy thật nhanh những điều anh Holmes vừa nói cùng cảm nhận của bản thân mình. “… Aoi lúc nào cũng nhiệt tình thật đấy.”
“D-Dạ không, tại nếu không chép lại em sợ sẽ quên mất. Được sư phụ Holmes chỉ bảo tận tình như thế này, đệ tử đương nhiên phải chuyên tâm học hành rồi.” Tôi đưa tay lên làm một động tác chào thật dứt khoát.
“Đệ tử gì chứ. Bản thân anh cũng đang học nghề, sao dám nhận là sư phụ của ai.” Anh Holmes cười khó xử và nhún vai.
Phải, anh Holmes là cháu trai kiêm học trò của ông Yagashira Seiji, chủ cửa hàng đồ cổ này, đồng thời cũng là một nhà giám định nổi tiếng, được phong là “Chuyên gia giám định cấp Quốc gia.” Hiện tại, anh Holmes vẫn đang được ông đào tạo.
“Nhân tiện, học nghề giám định thường phải làm gì hả anh?” “Cũng khó giải thích lắm. Nói đơn giản thì là tranh thủ trải nghiệm thực tế để lấy kinh nghiệm chăng? Cách duy nhất là tiếp xúc với đồ cổ đích thực nhiều nhất có thể. Ông nội anh luôn bảo rằng không có phương pháp học tập nào khác, ngoại trừ trực tiếp quan sát đồ thật và cảm nhận chúng, từ đó rèn giũa con mắt nội tại của bản thân.”
Anh Holmes vừa nói bằng giọng trầm tư, vừa cẩn thận cất chén trà Kokaratsu vào trong hộp.
“Ra thế.” Đúng lúc tôi vừa gật mạnh đầu một cái, chuông cửa bỗng reo leng keng.
“K-Kính chào quý khách ạ?” Tôi gấp gáp bật dậy và cúi chào. Bởi cửa hàng chẳng mấy khi có khách nên tôi vẫn hay bị cuống, hầu như trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Anh Holmes thì ngược lại, không hề mảy may dao động. Anh vừa cất chiếc hộp đựng chén trà Kokaratsu lên giá đồ, vừa nở một nụ cười dễ chịu và nói, “Mời vào.”
Vị khách mới bước vào là một người đàn ông trung niên. Ông ta khoác trên người một bộ com lê bóng bẩy trông có vẻ sang trọng và đeo một chiếc đồng hồ mạ vàng. Trên tay ông ta cầm một bọc khăn furoshiki.
Nhìn qua thì có vẻ là đại gia. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn cảm thấy có gì đó kì quặc, hay nói đúng hơn là không ăn nhập với ông ta. Có khi nào là nhà giàu mới nổi?
... Mà đoán bừa vậy thôi. Có cảm giác vì hay ở bên người nhìn một phát cũng đoán ra được nhiều điều về kẻ khác như anh Holmes nên tôi đã quen thói tuỳ tiện đánh giá người ta từ lúc nào không biết mất rồi. “Tui muốn nhờ cậu giám định giùm vật này được hôn?”
Người đàn ông tươi cười bước lại gần quầy thu ngân.
“Vâng, được ạ. Mời ngài ngồi?”
Anh Holmes mỉm cười và mời khách ngồi xuống.
“Cảm ơn cậu.” Vị khách thả người xuống bộ sô pha đặt ở trước quầy. “Đây là vật tui muốn cậu coi giùm.”
Ông ta lập tức mở rộng chiếc khăn furoshiki, để lộ ra chiếc hộp bên trong.
(Nhìn vào kích cỡ chiếc hộp thì chắc bên trong là chén trà?) Tôi cầm cây phủi bụi trong tay, đứng cách quầy một quãng, vừa dọn dẹp vừa liếc về phía hai người họ để dò xét tình hình.
“Vậy tôi xin phép.”
Anh Holmes mở hộp bằng bàn tay vẫn đang đeo găng đen, rồi nhấc ra từ bên trong một chén trà.
Quả nhiên trong hộp là một chén trà. Đó là một chén trà dạng bán trụ, cảm giác khá nặng, với lớp men màu vàng hoàng thổ được tô điểm bằng hoạ tiết hoa màu lục thẫm.
“Ái chà chà.”
Anh Holmes bỗng nhoẻn miệng cười như thể vừa gặp được chuyện gì thú vị lắm.
“Thực ra tổ tiên nhà tui làm nghề buôn bán ở Osaka đời này qua đời khác, có chiếc chén này nằm lăn lóc trong góc kho, do người ông đã mất
của tui sưu tầm, không biết nó có phải ‘chén trà Kizeto’ hông nhẩy? Nghe biểu là hàng xịn, mà tui lại hổng quan tâm tới tách chén là bao...” Có lẽ người đàn ông cho rằng anh Holmes đã cảm thấy hứng thú với chén trà mình mang đến, nên gương mặt ông ta sáng bừng lên, đồng thời, ông ta hơi rướn người về phía trước và bắt đầu tuôn cả một tràng. “Kizeto ấy ạ...?”
Anh Holmes lầm bầm, rồi liếc mắt sang tôi. Đây là tín hiệu của anh Holmes. Anh đang dùng ánh mắt để hỏi tôi rằng, “Em nghĩ thế nào?” Trong những buổi học về mĩ nghệ cổ từ đầu hè đến giờ, tôi cũng đã được nghe giảng về “Kizeto.”
Tôi im lặng gật đầu, rồi một lần nữa quan sát thật kĩ chén trà do người đàn ông kia mang đến.
“...”
Lớp men màu vàng hoàng thổ mờ mờ. Dáng vẻ nặng nề và hơi thô. Nó cũng toả ra bầu không khí mang lại cảm giác lâu đời, nhìn qua thì đúng là giống với đồ gốm Kizeto về mặt hình thức.
Nhưng vẫn còn đó một “cảm giác sai trái” không thể nào gạt bỏ. Tuy chỉ là phỏng đoán, nhưng tôi nghĩ rằng chén trà này có lẽ không phải đồ thật.
Nó khác với chén trà thật ở chỗ nào thì tôi cũng không biết diễn tả ra sao, nhưng tóm lại là có cảm giác không ổn.
Tôi khẽ lắc đầu. Anh Holmes liền gật gù với vẻ hài lòng tựa như muốn nói, “Chính xác,” rồi lại hướng ánh nhìn về phía người đàn ông kia. “Rất tiếc, đây là đồ giả.”
Nghe anh Holmes khẳng định dứt khoát như vậy, người đàn ông trợn trừng mắt.
“Kizeto thật thường có bề mặt láng bóng như được tráng dầu, là thứ mà người ta vẫn gọi là ‘men bóng dầu’ ngoài ra còn toát lên sự thanh khiết. Nhưng vật này thì dường như không có được cái chất như vậy.
Hơn nữa, đặc trưng của đồ thật là cảm giác khi cầm lên thường nhẹ hơn vẻ bề ngoài, chứ không nặng trịch như thế này đâu ạ. Chưa kể màu xanh của đồng sulfat trên đồ thật thường rất tươi, nhưng chén trà này lại trông hơi xỉn. Đây chắc chắn là đồ giả do người ta cố tình nhái lại Kizeto.”
Anh Holmes cầm chén trà trên tay và tuyên bố bằng thái độ có chút lạnh lùng.
Người đàn ông nọ ngây người một lúc rồi nặn ra một nụ cười méo mó. “Th-Thứ nhãi con như bây... biết cái chi mà phán chứ?”
Trong giọng nói của người đàn ông dồn nén sự giận dữ. Ông ta không thể nào chấp nhận được việc bảo vật mà mình mang đến và đinh ninh là đồ thật lại bị một giám định viên trẻ tuổi như thế này gán cho cái danh “hàng giả” chăng?
“Biết chứ. Nếu được thì tôi xin mạn phép đoán thêm, ngài đây chắc đã biết chén trà này là đồ giả, nhưng vẫn mang vào cửa hàng, đúng không ạ?” “Gì!” Người đàn ông nọ thình lình lớn giọng.
Bản thân tôi khi nghe câu đó cũng cảm thấy bất ngờ không kém. Té ra ông ta mang chén trà ấy vào đây khi đã thừa biết nó là hàng giả, chứ không phải vì tin rằng nó là đồ thật ư?
“Như chính ngài đã nói, và từ ngữ điệu cũng có thể thấy, ngài sinh sống ở phía Nam Osaka. Tại sao phải lặn lội mang chén trà đến một tiệm đồ cổ ở Kyoto cơ chứ? Osaka cũng đều thiếu gì những cửa hàng chuyên thẩm định và thu mua đồ cổ?”
Anh Holmes tươi cười hỏi. Giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, nhưng vẫn toát lên uy lực. Người đàn ông kia tắc nghẹn trong giây lát, nhưng rồi lại cất giọng hào sảng, như để thể hiện rằng ông ta quyết không để cho bất cứ kẻ nào lấn át mình.
“L-Là tình cờ thui. Tình cờ có dịp tới Kyoto nên tui mới tạt qua đây đó mà.”
“Tình cờ đến Kyoto, rồi lại tình cờ mang theo cả chén trà Kizeto này, thật là một câu chuyện nghe cực kì gượng ép. Ngài chắc đã sớm biết việc nhà giám định nổi tiếng Yagashira Seiji có một cậu cháu trai đang học việc kiêm nhận giám định tại tiệm đồ cổ ở Teramachi Sanjo rồi, đúng không? Bằng chứng là khi tôi chuẩn bị thẩm định món đồ, ngài không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào cả. Tất cả những vị khách đến đây thông thường đều rất ngỡ ngàng khi thấy một người trẻ tuổi như tôi bắt tay vào thẩm định đấy.”
Vừa nghe, tôi vừa gật đầu tán thành trong vô thức.
Đúng vậy, khi biết một sinh viên như anh Holmes sẽ đảm nhiệm việc giám định, khách mang đồ đến tiệm thường không giấu nổi sự kinh ngạc lẫn vẻ bất an.
Nhân tiện là bản thân tôi trong lần đầu tiên chứng kiến anh Holmes giám định đồ cổ cũng đã ngạc nhiên tột độ, bởi “nhìn kiểu gì cũng chỉ thấy anh ấy là một sinh viên đại học mà thôi.”
“Chính vì vậy, ngài cố ý nhắm đến cửa tiệm này... Chắc ngài nghĩ một cậu sinh viên đang học nghề giám định sẽ dễ xơi lắm phải không?” Nói rồi, anh lại nhìn xuống chén trà, khoé miệng hơi nhếch lên.
“... Sau khi chén trà này được làm ra, nó có vẻ đã được giao cho thợ bôi bẩn gia công nhỉ?”
“... Thợ bôi bẩn là sao ạ?”
Tôi vô tình thốt ra một câu hỏi. Anh Holmes khẽ mở miệng, mắt vẫn nhìn chén trà.
“Có những người thợ chuyên bôi bẩn chén trà mới, khiến chúng có cảm giác cũ kĩ và lâu đời. Kĩ thuật này cũng có một cách gọi khác là ‘phủ màu thời gian’. Chỉ trong một tháng, họ sẽ khiến ngay cả một chén trà mới cũng có được vẻ đẹp không hoàn hảo[2] tương đương với tuổi đời ba trăm năm. Mời được cả chuyên gia như vậy nhúng tay vào thì có lẽ ngài đây đã quen với việc mua bán đồ cổ giả, đến giờ cũng qua mắt được không ít giám định viên nghiệp dư rồi.”
Anh Holmes nói như đang diễn giải cho chính mình nghe. Người đàn ông có vẻ đã bị anh Holmes áp đảo, không ho he thêm được câu nào.
Anh Holmes ngả về phía trước, như muốn tiếp tục dồn ông ta tới chân tường.
“Bộ com lê này chắc là đồ ngài đi mượn để thể hiện mình là người có tiền nhỉ? Tiếc thay, kích cỡ của nó không hề vừa với ngài, và dù bộ com lê có chỉn chu thì đôi giày ngài đang đi vẫn đã cũ mòn. Ngài đây chắc từng có được đồ cổ giả một cách tình cờ, và đã thành công trong việc bán chúng cho giám định viên nghiệp dư với giá trên trời. Thế nên lần này, khi biết được ở Teramachi Sanjo có một giám định viên trẻ non nớt kinh nghiệm, ngài cũng định lừa bán đồ giả cho cậu ta... Tôi nói không sai chứ?”
Anh Holmes vẫn tủm tỉm cười.
Nhưng nụ cười ấy khiến tôi sợ đến buốt lạnh cả sống lưng. “Ờm, tui... thiệt ra là...”
Người đàn ông có lẽ đang nao núng vì bị nhìn thấu hết ý đồ. Ông ta đổ mồ hôi lã chã, miệng ấp a ấp úng.
“Đáng tiếc thiệt. Tui tuy còn trẻ nhưng hổng non đến mức bị gạt bởi món đồ dỏm vụng về như vậy đầu nghen.”
Anh Holmes để lộ ánh nhìn lạnh tanh trong chốc lát, khiến gã đàn ông kia tái mét mặt mày.
Oái, xuất hiện rồi, tiếng Kyoto mỗi khi anh Holmes nổi giận! “Holmes Hắc Ám” đã giáng lâm.
Anh Holmes lúc nào cũng dịu dàng, ôn hoà, đứng đắn và lịch lãm. Mới đầu nhìn qua tôi cứ ngỡ anh là một con người hoàn hảo, thậm chí có phần vô hồn, tưởng như không bao giờ bị kích động, nhưng sau một thời gian làm việc cùng anh, tôi dần nhận ra đó không phải là sự thật. Con người anh thực chất hiếu thắng đến không ngờ. Tuy luôn để tâm đến cảm xúc của người khác, nhưng cũng rất ích kỉ.
Và gần đây tôi cũng phát hiện ra rằng anh ấy có thể trở nên rất đáng sợ khi nổi giận. Hễ cảm xúc dâng trào là cách nói chuyện lịch sự mà anh ấy luôn dùng sẽ biến mất, rồi phương ngữ Kyoto xuất hiện, khiến một mặt đáng sợ trong con người anh lộ ra rõ mồn một.
Tôi hay thầm gọi anh Holmes ở trạng thái ấy là “Holmes Hắc Ám.” Đụng phải một anh Holmes đen tối như vậy, gã đàn ông nọ liền vơ vội chén trà giả cùng khăn furoshiki, lao ra khỏi tiệm như đang tìm đường chạy trốn.
“Thiệt tình, biểu có điên hông chớ. Aoi, em kiếm muối rải ra ngoài cửa giùm anh!”
Sau khi người đàn ông đi khuất hẳn, anh Holmes quay ngoắt lại nhìn tôi.
“Dạ, vâng. Muối?”
“Ừ, muối.”
Ừ
“Ừm, trong cửa hàng bây giờ chỉ có muối gia vị dùng để chấm trứng luộc thôi, loại này thì có được không ạ? Anh không thấy thế hơi phí của à?”
Trông thấy tôi thò mặt ra từ trong kho, tay cầm lọ muối gia vị, anh Holmes tròn mắt ngẩn ra một lúc, rồi khẽ bật cười.
“... Em nói phải. Làm thế lãng phí thật.”
“Em bảo mà.”
“Vậy thôi, anh em mình luộc trứng ăn nhé?” Anh ấy vui vẻ cười, có vẻ đã hết bực.
“Vâng, thích quá, đúng lúc em đang hơi đói bụng.”
Vậy là, tranh thủ lúc cửa tiệm vắng khách, chúng tôi quyết định luộc trứng và nghỉ uống cà phê.
“Ở bên Aoi luôn có cảm giác nhẹ nhõm, dễ chịu thật đấy.” Vừa cẩn thận bóc vỏ trứng bằng những ngón tay thon dài, anh Holmes vừa thốt ra một câu nghe như độc thoại.
“Hơ, tại sao ạ?”
“Mỗi lần đụng phải mấy món đồ cổ giả được làm với mục đích xấu, anh luôn luôn cáu bẳn hết cả một ngày. Nhưng lần này, lúc trông thấy Aoi cầm lọ muối gia vị, cảm giác như khí nóng trong người anh bỗng xì hết ra ngoài.”
“Khí nóng ấy ạ...” Tôi bất giác phì cười. “Mà người đàn ông ấy dù sao cũng là một kẻ lừa đảo, không báo cảnh sát liệu có ổn không ạ? Cũng có những giám định viên đã bị ông ta lừa rồi mà.”
“Nói ra nghe hơi máu lạnh, nhưng những giám định viên bị lừa kia cũng có lỗi trong chuyện này. Đối phương của ông ta đâu phải người bình thường chứ. Nhưng dĩ nhiên là anh vẫn sẽ trình báo rằng có chuyện như vậy đã xảy ra.”
Cũng phải, cho dù người đàn ông đó cố tình mang đồ giả đến, đã là một giám định viên thì đáng lẽ phải nhìn ra được mánh khoé của ông ta. Đó chính là cuộc chiến giữa giám định viên và người làm đồ giả. “... Nhân tiện, không phải còn có ‘hàng mô phỏng’[3] sao? Chúng chính ra cũng là sản phẩm sao chép, gọi là đồ giả chắc không sai anh nhỉ?”
“‘Hàng mô phỏng’ là những sản phẩm sao chép do chính tác giả công nhận, được làm ra với mục đích tốt. Vì thế, người ta không hề che giấu việc chúng chỉ là hàng mô phỏng và giá cả cũng khác. Người mua cũng hiểu rõ bản chất của chúng rồi mới chi tiền.
Trong khi đó, ‘đồ cổ giả’ là thứ xấu xa mang mục đích lừa gạt, bòn rút tiền người khác. Dù thế nào anh cũng không thể tha thứ cho ý đồ tồi tệ ẩn sau chúng. Sự tồn tại của chúng là một sự phỉ báng đối với nghệ nhân và những người yêu nghệ thuật.”
Anh vừa nhăn mặt vừa đưa tách cà phê lên miệng.
“... Anh Holmes đúng là một người ngay thẳng nhỉ?”
Nghe tôi buông một câu như vậy, anh Holmes nhìn tôi bằng ánh mắt ngạc nhiên.
“Ngay thẳng... Anh á?”
“Vâng.” Tôi gật đầu dứt khoát. Anh Holmes đã thể hiện sự căm ghét đối với đồ giả rõ ràng đến vậy, nhất định phải là một con người ngay thẳng, không thể tha thứ cho những hành vi gian trá.
“Không có đâu, anh chỉ ghét đồ giả, chứ về bản chất vẫn là một kẻ tính cách vặn vẹo, lòng dạ đen tối lắm. Em nói gì lạ thế?”
Anh liếc sang tôi một cái và phát ngôn như vậy, khiến tôi bị sặc. L-Lòng dạ đen tối?
“Mà Aoi này, em đã có kế hoạch gì cho kì nghỉ hè chưa?” Khi tôi đang cúi xuống ho, vì anh Holmes bỗng nhiên hỏi một chuyện như thế nên tôi bị giật mình và phải ngẩng mặt lên.
“Ngh-Nghỉ hè ấy ạ?”
Tại sao anh lại hỏi chuyện đó nhỉ?
Có khi nào anh ấy định rủ tôi đi chơi đâu đó trong kì nghỉ hè? “D-Dạ không, không có kế hoạch gì ạ. Nên em có thể phụ việc ở cửa hàng bao nhiêu cũng được ạ.”
Do hơi dao động nên tôi buột miệng nói nhanh như tên bắn. Rõ ràng là kể cả anh ấy có rủ tôi thật đi chăng nữa thì cũng chỉ là đến viện bảo tàng với phòng trưng bày nghệ thuật để học hỏi thôi. Ấy vậy mà chẳng hiểu sao tôi vẫn thấy hơi hồi hộp.
Thế rồi, anh Holmes bỗng nở một nụ cười nhẹ nhõm, tay đưa lên ngực.
“May quá. Thực ra, tháng Tám này anh sẽ cùng ông chủ đi châu Âu trong khoảng một tháng.”
“Ồ?”
“Ông hay được các bảo tàng mỹ thuật nước ngoài nhờ giám định, hoặc chịu trách nhiệm thu mua tác phẩm trưng bày cho mấy khách sạn lân cận. Vậy nên, hè năm nào hai ông cháu anh cũng bay sang đó.”
“... Vậy ạ? Hoá ra ông chủ còn làm cả những việc như thế nữa.” “Ừ, là vậy đấy. Nên trong khoảng thời gian đó, nhờ em trong tiệm cùng bố anh. Em có thể mang bài tập ở trường đến tiệm làm, khi nào muốn nghỉ thì nhắn với bố anh là được.”
Nhìn anh Holmes nói thế với vẻ áy náy, tôi cảm thấy sức lực của mình đồng loạt tiêu tan.
“... Hầy, không vấn đề gì ạ. Anh đi châu Âu vui vẻ nhé?” “Anh đi với tư cách phụ tá kiêm chân sai vặt của ông, sợ là muốn tận hưởng cũng khó. Nhưng anh sẽ mua quà cho Aoi.”
“Oa, em mong lắm đó!”
Tôi vốn là đứa dễ chiều, nghe vậy mặt mũi liền tươi tỉnh hẳn. Đồng thời, tôi bỏ tọt miếng trứng luộc vào miệng.
“Tính ra đây là mùa hè thứ hai kể từ khi Aoi chuyển đến Kyoto nhỉ? Chúc em có một kì nghỉ hè vui vẻ nhé.”
“... Dạ vâng. Năm nay em đang định đi xem ‘Daimonji-yaki’ ạ.” “Aoi, không phải ‘Daimonji-yaki’, mà là ‘Gozan no Okuribi’[4] nhé.” Anh Holmes giơ ngón trỏ lên và cất giọng như đang quở trách. “À phải rồi. Không được gọi thế trước mặt người Kyoto nhỉ.” Phải, hồi còn ở Kanto tôi chỉ biết về “Daimonji-yaki”, nhưng tên chính thức của nó là “Gozan no Okuribi.”
Hình chữ Đại thứ nhất, hình chữ Diệu Pháp, hình con thuyền, hình chữ Đại thứ hai và hình cổng torii trên năm ngọn núi sẽ lần lượt được châm lửa. (Sẵn tiện giải thích luôn, vì có hai chữ Đại được đốt trên hai ngọn núi, nên chữ Đại thứ hai được gọi là Hidari Daimonji[5]).
“Đúng rồi, gọi thế là hỏng đấy.” Anh Holmes gật đầu chắc nịch. Thái độ cố hữu ấy khiến tôi phải bật cười.
“Em xin lỗi ạ. Mà anh này.”
“Sao thế?”
“Anh bảo anh lòng dạ đen tối là thật ạ?” Tôi đem chuyện lúc trước ra hỏi lại.
“Em không biết à, Aoi? ‘Trai Kyoto’ lòng dạ đen tối thấy ghê luôn đó.” Anh Holmes đặt tay lên ngực rồi nở nụ cười đắc ý.
“...!”
Dáng vẻ ấy như một mũi tên bất ngờ xuyên thẳng vào tim tôi, khiến tôi cứng họng.
Còn vụ tôi đã trót nghĩ trong đầu rằng, “Một chàng trai Kyoto lòng dạ đen tối có lẽ cũng khá hay ho” thì tôi sẽ giữ lại cho mình. Đó là câu chuyện của một buổi chiều mùa hạ nhàn nhã như bao ngày khác.
CHƯƠNG 1
TRIẾT LÍ NGHỀ GIÁM ĐỊNH
K
1
hi cái nóng ngột ngạt của Kyoto đã dịu đi một chút cũng là lúc kì nghỉ hè kết thúc và một học kì mới lại bắt đầu. Thế nhưng, đám học sinh thì vẫn chưa thoát ra khỏi tâm lí muốn xả hơi.
Chúng tôi còn là học sinh lớp Mười Một, sang năm sẽ phải thi đại học rồi, chắc thế nên nhiều người có tâm lí tranh thủ năm nay chơi cho xả láng, vì vậy mà bộ dạng cháy nắng của đám bạn cùng lớp cứ liên tục hiện lên trước mắt tôi.
Đến giờ nghỉ trưa, bầu không khí trong lớp càng trở nên uể oải. “Hảảả, vậy là Aoi đã chấm dứt hẳn với bạn trai cũ rùi hở?” Người vừa la lên với vẻ kinh ngạc là Miyashita Kaori, từ lớp bên cạnh sang chơi.
Cậu ấy chơi thân với tôi sau “vụ lá thư đe doạ gửi đến Saiodai” và là người duy nhất trong số bạn bè ở trường này biết về anh Holmes cùng quá khứ của tôi.
Tiện nói luôn, giờ tôi với cậu ấy đã chuyển sang gọi thẳng tên nhau. Chúng tôi hiện đang ngồi bên ô cửa sổ thoáng gió và cập nhật cho nhau tình hình gần đây sau một thời gian dài không gặp.
“... Ừ, mặc dù dây dưa cũng hơi lâu.”
Sau khi kể lại cho Kaori chuyện xảy ra vào đêm Yoiyoiyama đợt lễ hội Gion, tôi cụp mắt xuống.
... Chuyện xảy ra vào mùa hè năm ngoái. Vì hoàn cảnh gia đình mà tôi phải chuyển từ Saitama đến Kyoto sinh sống.
Ở Saitama, tôi có một cậu bạn trai, là người tôi đã hẹn hò từ hồi cấp hai. Như một lẽ đương nhiên, chúng tôi phải yêu xa trong vài tháng. Không lâu sau đó, cậu ấy cuối cùng cũng nói lời chia tay.
Ban đầu tôi đã chấp nhận rằng xa mặt cách lòng là chuyện không thể nào tránh khỏi. Nhưng lí do chia tay thật sự lại là vì cậu ấy đã bắt đầu hẹn hò với bạn thân của tôi... Biết được sự thật ấy, tôi vô cùng choáng váng.
Tôi muốn lập tức quay về Saitama để xác minh mọi chuyện, vì thế mà định bán đi mấy bức tranh cuộn treo tường của người ông đã khuất làm chi phí đi đường. Thế là vào một ngày tháng Ba, khi tiết trời vẫn còn se lạnh, tôi đã ghé vào tiệm đồ cổ “Kura” trong khu phố mua sắm Teramachi Sanjo.
Tại đó, tôi đã gặp gỡ một chàng thanh niên kì lạ mang tên Yagashira Kiyotaka với biệt danh là “Holmes”.
“Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không? Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?”
Bằng khả năng quan sát tinh tường đến đáng sợ, anh Holmes đã đoán ra mọi ý định của tôi và mời tôi đến làm thêm ở tiệm đồ cổ nhà mình. Sau một thời gian tiếp xúc với chàng trai kì lạ ấy cùng những tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, vết thương trong lòng tôi dần được chữa lành. Cả cậu bạn trai cũ lẫn cô bạn thân kia đều đã là chuyện quá khứ. Khi ấy, tôi đã định từ bỏ việc quay trở lại Saitama.
Vào đêm Yoiyoiyama của lễ hội Gion...
Tôi đã phải đối mặt với bạn thân và bạn trai cũ khi họ tới đây từ Saitama theo chương trình dã ngoại của trường.
Đương nhiên là không hề có cách giải quyết dễ dàng cho mọi chuyện. Bạn bè trong nhóm ai cũng về phe bạn thân và bạn trai cũ của tôi, trong khi tôi một mình vật lộn với nỗi nhục nhã và đau đớn như đang ngồi trên bàn chông vậy.
Người đã đến giải cứu tôi khi ấy cũng chính là anh Holmes. Anh ấy đã kéo mạnh tay tôi, dắt tôi khỏi nơi đó... khiến tôi có cảm giác như mình thật sự được cứu rỗi.
“Khóc cho hết đi nha, Aoi đã gắng lắm rùi mờ.”
Bàn tay to lớn nhẹ nhàng vỗ lưng tôi.
Mỗi lần hồi tưởng lại cảnh mình khóc trong vòng tay anh Holmes, dưới ánh sáng của những chiếc đèn lồng... tôi lại thấy nóng râm ran trong lồng ngực.
“Nè, vậy là bồ mê người ta rồi hén?”
Kaori đột nhiên nhòm vào mặt tôi, khiến tim tôi nảy thót lên một cái. “H-Hả?”
“Ảnh đã cứu bồ khỏi một bàn thua trông thấy còn chi? Lại điển trai như vậy, có cảm thấy ngây ngất vì ảnh cũng hổng kì đâu à. Chị hai nhà tui cũng hâm mộ anh Holmes lắm á.”
“C-Còn Kaori thì sao?”
Tôi ngần ngừ hỏi. Kaori liền nhăn nhó ra mặt, rồi lắc đầu. “Tui chịu chết. Ấn tượng rằng ảnh đáng sợ và khó lường trong tui quá mạnh. Chị hai suốt ngày mơ mộng kêu ảnh đẹp trai. Chứ tui thì thực lòng ớn cái kiểu nhìn thấu mọi chuyện của ảnh lắm.”
Cũng phải, trong vụ Saiodai, những việc Kaori làm đều bị anh Holmes phát hiện ra, cảm thấy sợ có lẽ cũng chẳng có gì vô lí.
“Thế Aoi thấy sao?”
“N-Nói thật là cũng hơi xao động... Có điều, tớ đã trải qua một thời gian dài đau khổ vì bạn trai cũ, nên giờ cũng không hiểu rõ lắm về cảm xúc của mình.”
“Cũng phải. Cơ mà cả mùa hè bồ ở cạnh anh Holmes thì phải rút ngắn được thêm khoảng cách chứ?”
“Không, anh Holmes theo ông chủ ra nước ngoài suốt kì nghỉ hè, còn tớ thì chỉ trông cửa hàng thôi.”
“Ông chủ là ông Yagashira Seiji ấy hả?”
Ông nội của anh Holmes, chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji có vẻ được khá nhiều người trong thành phố này biết đến. “Ừ, nghe nói ông chủ nhận rất nhiều công việc ở nước ngoài, hình như đợt nghỉ hè nào cũng dẫn anh Holmes đi đây đi đó.”
“Ờ, phải rồi, anh Holmes là người kế nghiệp ông ấy mà ha” Kaori gật gù.
Cụm từ “kế nghiệp” quả nhiên không lệch đi đâu được.
Là người có tầm ảnh hưởng quốc tế trong giới giám định mĩ thuật hiện nay, có vẻ ông chủ đang cố gắng hết sức để đứa cháu kế nghiệp mình là anh Holmes được thật nhiều người trong ngành biết đến.
Theo lời anh Holmes thì đó không phải chuyện mới bắt đầu gần đây, mà từ xưa, hễ được nghỉ dài là anh ấy lại bị ông lôi đi nước ngoài, không có thời gian học hành gì cả. Nhắc mới nhớ, hồi mới gặp anh ấy cũng kể mình “toàn đi chơi với ông nội nên không vào được hệ đại học của Đại học Kyoto”, hoá ra là ám chỉ chuyện này.
“Nên là trong thời gian nghỉ hè, tớ đã cùng quản lí trong tiệm Kura.” “Chẹp, mùa hè của bồ coi bộ hổng có chút hơi thở lãng mạn nào sất. Ngồi coi tiệm với bác quản lí thì nhạt nhẽo thí mô à.”
“Tớ thấy trong tiệm cùng bác quản lí cũng thoải mái lắm.” Quản lí tuy ít nói nhưng rất tốt bụng, tôi rất thích khoảng thời gian được ở cùng bác ấy.
“Vậy là một mình bác quản lí phải trong cả cửa tiệm lẫn nhà riêng, coi bộ cũng cực ha... Nhắc mới nhớ, hổng biết cái anh Holmes đó sống trong căn nhà như thế nào ta?”
Tôi chỉ biết chớp mắt trước câu hỏi từ trên trời rơi xuống của Kaori. “Nhà á?”
“Ảnh dầu sao cũng là người trong giới mĩ nghệ cổ, nên tui có cảm giác ảnh sẽ sống trong một căn nhà kiểu Nhật có kiến trúc xưa cũ hay đại loại thế?”
“Ừ, hợp lí. Anh ấy lại còn đặc sệt chất trai Kyoto, dễ là sống trong nhà kiểu Nhật[6] truyền thống lắm.”
Tôi gật đầu tán thành. Kaori bỗng nhíu mày nhìn tôi với vẻ khó hiểu. “Trai Kyoto là sao? Phải là ‘nam nhân Kyoto’ chứ?”
Cậu ấy đặt câu hỏi giống hệt anh Holmes. Dân Kyoto xem ra hơi bị nhạy cảm khi người khác tuỳ tiện cải biên những từ ngữ có từ xưa của họ. “Ừ, tớ biết, cơ mà tớ thấy ‘trai Kyoto’ dùng để diễn tả anh Holmes hợp hơn là ‘nam nhân Kyoto’ ấy. Cảm giác nhẹ nhàng hơn nam nhân Kyoto một chút, kiểu thế.”
“... Ờ, nghe bồ biểu tui mới thấy đúng là có thể cảm nhận được sắc thái đó thiệt.”
Cậu ấy gật gù, có vẻ đã thông.
Xem ra người Kyoto vẫn sẽ chấp nhận sự cải biên miễn là họ hiểu được nó.
“Mà vậy nghĩa là bồ hổng biết nhà anh Holmes ở đâu hử?” Kaori khơi lại chủ đề, khiến tôi sực tỉnh và ngẩng mặt lên. “Ừ. Tớ chưa từng đến hay trông thấy nhà anh ấy.”
Chỉ là, tôi đã từng nghe qua “tình trạng nơi ở” của gia đình Yagashira. Nhà ông chủ ở gần chùa Ginkaku-ji, quản lí sống trong một khu chung cư ở Yasaka, còn anh Holmes vừa đi lại giữa hai căn nhà ấy vừa coi sóc chúng. Đối với anh Holmes, trạng thái đó giống như anh có hai căn nhà vậy.
“Vậy sao? Ra là cả nhà họ hổng có sống chung.”
Sau khi nghe tôi kể về tình trạng nơi ở của gia đình Yagashira, Kaori ồ lên, hai tay khoanh trước ngực với vẻ hứng thú.
“Mà sắp tới tớ được mời đến nhà ông chủ đấy.”
“Thích vậy. Về nhớ tả lại cho tui nghe xem nhà cửa thế nào nha.” Nhưng khi nghe tôi nói tiếp rằng, “Hôm ấy tớ muốn Kaori đi cùng tớ nữa cậu ấy bật ra một tiếng “Hả?” lạc điệu, rồi lắc đầu nguây nguậy như muốn cự tuyệt bằng toàn bộ cơ thể.
“Tui á? Tại sao? Chịu thui, tui hổng muốn đụng mặt anh Holmes đâu.” “Ơ, tại sao?”
“Cảm giác làm gì cũng sẽ bị ảnh bắt bài, sợ lắm.”
Kaori phản đối với vẻ mặt hết sức nghiêm túc, khiến tôi bất giác phì cười.
“Có thể anh ấy sẽ bắt bài được cậu thật, nhưng không sao đâu.” “Rõ ràng là sẽ bị bắt bài mờ, hãi chết đi được. Mà sao Aoi vẫn tỉnh queo vậy? Bị ảnh đi guốc trong bụng mà hổng thấy ớn sao?” “T-Tớ à? Ban đầu có hơi rợn gáy thật, nhưng dạo này cũng quen quen rồi. Có thể nói rằng nhanh hiểu ý nhau hơn kể ra cũng là chuyện tốt?” “Nhanh hiểu ý nhau là do bồ quen quá thành chai rùi đó. Mà sao tự dưng lại rủ tui?”
Kaori thấy thắc mắc cũng dễ hiểu thôi.
“Chuyện là... ngày hôm qua...”
Khi tôi bắt đầu chậm rãi kể, Kaori nuốt nước bọt lắng nghe.
C
2
huyện xảy ra vào Chủ Nhật, cũng là ngày hôm qua.
Cảm giác như nhờ có sự trở về của anh Holmes sau một tháng vắng mặt mà tiệm đồ cổ “Kura” có phần tất bật trước đó cuối cùng cũng đã ổn định lại.
Một lần nữa, tôi lại nhận thức được rằng anh Holmes tuy là cháu ông chủ, chuyên môn vẫn là học hành, nhưng sự tồn tại của anh là thứ không thể thiếu ở tiệm “Kura.” Khi tôi đang thong dong làm việc như mọi khi trong lúc cảm thấy tâm trạng mình trở nên thư thái thì...
“Aoi, cuối tuần sau em có rảnh không?”
Anh Holmes đang ghi sổ cái, bỗng ngẩng mặt lên hỏi như vừa sực nhớ ra.
“Cuối tuần sau ấy ạ?” Cuối tuần nào tôi chẳng đến đây làm thêm... Vừa nghĩ vậy, tôi vừa đưa mắt về phía cuốn lịch để bàn và chợt nhớ ra rằng cuối tuần sau là ngày nghỉ hiếm hoi của “Kura.”
“Anh nhắc em mới nhớ, tuần sau tiệm mình nghỉ nhỉ?”
“Ừ, đúng rồi.”
Cửa tiệm này không có ngày nghỉ cố định.
Tuy “Kura” vốn không đông khách, doanh thu có vẻ cũng chẳng để nuôi sống ai, nhưng “nếu đóng cửa thì khu mua sắm sẽ có cảm giác trống trải” nên tiệm căn bản lúc nào cũng mở cửa đón khách.
Một tiệm “Kura” như thế lại đóng cửa hết hai ngày cuối tuần, đúng là chuyện lạ.
(Cũng xin được nói thêm, đây là lần đầu tiên có ngày nghỉ như thế này kể từ khi tôi bắt đầu tới đây làm.)
Không biết có chuyện gì mà anh ấy lại hỏi dự định cuối tuần của tôi thế nhỉ?
Tự nhiên cảm thấy tim mình hơi loạn nhịp, tôi ngoảnh lại và đáp, “Em không bận gì ạ.”
Nghe thế, anh Holmes hỏi tiếp.
“Em có muốn đến nhà anh chơi không? À, chính xác là nhà của ông nội anh.”
Nhà ông chủ là căn nhà ở gần chùa Ginkaku-ji.
“Dạ?” Nỗi ngạc nhiên bị niềm vui lấn át, khiến mặt tôi giãn hết cả ra. Đơn giản là tôi rất tò mò muốn biết nhà Yagashira trông như thế nào. “Nếu muốn, em có thể rủ cả Kaori bạn em cũng được.”
Nghe anh Holmes bổ sung thêm như vậy, tôi thốt lên bằng giọng hoang mang, “Kaori ấy ạ?”
Tại sao anh ấy lại bảo rủ Kaori nhỉ?
Có khi nào anh Holmes để ý Kaori, nên mới mượn tôi làm cái cớ để mời cậu ấy đến nhà?
... Thích ai là việc của anh ấy, nhưng bị lợi dụng kiểu đấy thì không vui tẹo nào.
Đúng lúc tôi đang cảm thấy hơi tủi thân, anh Holmes bỗng khẽ thở dài. “Ừ, càng nhiều người tham dự thì càng vui mà. Nhất là tính người đó rất mê phụ nữ, không phân biệt già trẻ lớn bé gì.”
“... Người đó ý là...?”
“À, cho anh xin lỗi. Thực ra cuối tuần sau nhà anh. sẽ tổ chức tiệc sinh nhật cho ông nội. Ăn mừng hỉ thọ ấy mà.”
Nếu tôi không nhầm thì “hỉ thọ” nghĩa là mừng thọ bảy mươi bảy tuổi. Nhắc mới nhớ, tôi cũng có kí ức về lần đón sinh nhật thứ bảy mươi bảy của người ông quá cố, là dịp mà họ hàng tụ tập lại và tổ chức ăn mừng.
Ông chủ cũng chuẩn bị bước sang tuổi bảy mươi bảy rồi. Vậy mà vẫn khoẻ mạnh... hay đúng hơn là sung sức ghê.
“Ra là thế. Chúc mừng gia đình ạ.”
“Cảm ơn em. Vì tính tuổi mụ là bảy mươi bảy tuổi nên tuổi chẵn của ông mới có bảy mươi sáu thôi. Ông bảo muốn mở tiệc mừng hỉ thọ tại nhà và mời thật nhiều bạn bè người quen đến dự.
Gia đình anh rất mong Aoi có mặt, nhưng sợ là hôm ấy anh sẽ bận bịu luôn chân luôn tay, nên anh nghĩ nếu em có bạn đi cùng thì chắc sẽ không có gì phải lo lắng.”
Câu nói đó đã giúp tôi hiểu được ý đồ của anh Holmes khi bảo tôi rủ cả Kaori.
Ra thế, một bữa tiệc sinh nhật đông người tới dự.
Trong lúc anh Holmes tất bật chạy đôn chạy đáo, tôi rất có thể sẽ bị lẻ loi một mình.
Anh ấy nghĩ rằng nếu tôi có bạn đi cùng thì sẽ vững dạ hơn. Anh Holmes vẫn như mọi khi, suy nghĩ thật chu đáo.
“D-Dạ vâng, em rất sẵn lòng. Em sẽ rủ cả Kaori nữa.”
“Thế thì tốt quá. Bữa tiệc dự định sẽ tổ chức vào trưa Thứ Bảy, em nhớ đến nhé.”
“Thứ Bảy phải không ạ...? Thế tại sao phải nghỉ cả Chủ Nhật hả anh?” “Vì có khả năng buổi tiệc sẽ kéo dài đến tận sáng ngày hôm sau nữa.” Anh Holmes nói với một cái nhún vai. Thấy thế, tôi cười và đáp, “Ra là
vậy. Mà tiệc bắt đầu từ buổi trưa, nghĩa là buổi sáng anh Holmes sẽ phải sửa soạn mọi thứ ạ?”
Một buổi tiệc với nhiều khách tham dự, chuẩn bị chắc cũng mệt lắm. Đồ ăn chẳng hạn, có khi nào anh Holmes sẽ đảm nhiệm toàn bộ việc nấu nướng không?
“Ừ. Có điều, anh đã đặt đồ ăn của một nhà hàng truyền thống mà gia đình anh quen biết rồi, nên việc anh cần làm chủ yếu là bày biện và sắp xếp không gian cho bữa tiệc thôi.”
Đồ ăn đặt ở nhà hàng cơ à. Chắc sẽ hoành tráng lắm.
Nếu thế thì chắc một mình anh Holmes cũng sẽ xoay xở được, cơ mà... “Ừm... nếu anh không phiền, em có thể đến từ buổi sáng để giúp được không ạ? Dù chưa chắc em đã làm được gì nhiều...”
Tôi rụt rè đề nghị. Anh Holmes chớp mắt nhìn tôi và thốt lên, “Gì cơ?” “A, em mà ở đấy chắc chỉ thêm vướng víu thôi nhỉ...”
“Không, không có chuyện đó đâu. Nhưng mà em chắc là em ổn với việc đó chứ?”
“Vâng, dĩ nhiên ạ”
“... Cảm ơn em. Vậy Thứ Bảy nhờ em đến giúp nhé?”
Khi tôi đáp, “Vâng ạ? và gật đầu một cách khoẻ khoắn, anh Holmes bất ngờ nói rằng, “Cảm ơn em nhiều lắm. Aoi tốt bụng ghê ha,” khiến hai má tôi nóng phừng phừng.
3
“... Ra là tiệc mừng hỉ thọ của ông chủ!”
Hai mắt Kaori sáng rực lên sau khi nghe xong câu chuyện của tôi. “Nếu cậu thích thì ghé qua từ trưa Thứ Bảy nhé. Nhân tiện là tớ dự định đến từ buổi sáng để giúp đỡ mọi người một tay.”
“Nghe vui đó. Tui nhất định sẽ tới!”
“Cảm ơn cậu. Mà tớ hơi bất ngờ đấy. Cứ tưởng cậu sẽ từ chối và bảo là ‘không hứng thú’ cơ.”
Dù trong lòng cho rằng việc cậu ấy đồng ý ngay lập tức như vậy đúng là ngoài dự đoán, tôi vẫn đưa tay lên ngực và thấy nhẹ cả người. “Thì bởi, nó là tiệc hỉ thọ của Yagashira Seiji đó? Kiểu gì cũng sẽ có một dàn khách mời hoành tráng tới tham dự. Aoi mới chuyển tới đây năm ngoái nên hổng biết thui, chớ tầm hai năm về trước, ông Seiji thi thoảng vẫn xuất hiện trên truyền hình Kansai đó.”
“Thật hả? Chuyện này tớ mới nghe lần đầu luôn.”
“Thì đó, ngày xưa có một chương trình tên là ‘Truy tìm gia bảo’ phớ hôn?”
“Truy tìm gia bảo” là một chương trình truyền hình có nội dung kể về việc giám định những món đồ quý được truyền lại trong các gia đình. Tuy chương trình khá được yêu thích, nhưng do không có nhiều những gia đình sở hữu bảo vật nên nó đã bị ngừng sản xuất từ rất lâu rồi. “Ở đất Kansai, chương trình ‘Truy tìm gia bảo’ đó được ưa chuộng lắm, nên người ta vẫn tiếp tục làm phiên bản đặc biệt để phát sóng định kì.” “Ồ, thế cơ à?”
“Ông Yagashira Seiji thi thoảng lại xuất hiện trên chương trình đó với tư cách chuyên gia giám định, nên ổng là người hơi bị nổi tiếng ở Kansai đó nghen.”
“Tớ không biết đấy.”
Thật tình, sao chẳng ai nói gì cả nhỉ? Nhưng mà, hoá ra là vậy. Cái bầu không khí như thể người ta muốn reo lên, “Là ông Yagashira Seiji đấy!” bao trùm khắp mọi nơi này có lẽ cũng nhờ một phần vào sức mạnh của truyền thông.
“Chương trình đó về căn bản là dành cho người có tuổi nên tui cũng hổng coi thường xuyên, cơ mà ông Seiji khi lên ti vi luôn toát ra khí chất vừa lịch thiệp vừa tinh tế, nghe đâu rất được lòng mấy bà nội trợ xem đài.” “Vừa lịch thiệp... vừa tinh tế...”
Coi bộ ông chủ cũng khá là biết giả nai lúc xuất hiện trên ti vi. Mặc dù tôi nghĩ rằng nếu ông ấy thể hiện bản chất phóng khoáng, tự do của mình thì chính ra lại dễ nổi tiếng hơn ấy chứ.
“Bởi vậy, khách mời biết đâu sẽ có cả mấy người trong ngành giải trí cũng nên.”
“Ng-Ngành giải trí?”
Thôi chết, lỡ có ngôi sao điện ảnh hay ca sĩ gì đó tham dự thật thì sao nhỉ, run quá! Tôi cuống lên trong giây lát, nhưng sau đó, tôi chợt nhớ ra anh Akihito.
À... phải rồi, người đó cũng là nghệ sĩ này. Hơn nữa lại còn khá đẹp trai.
Nghĩ vậy, cảm giác căng thẳng trong tôi đột nhiên tan biến. “Ngóng đến bữa tiệc ghế đó.”
Thấy Kaori híp mắt lại với vẻ sung sướng, tôi có chút bối rối. “... Không ngờ Kaori lại là kiểu phấn khích vì người nổi tiếng như thế đấy.”
Tôi cứ tưởng cậu ấy là người điềm tĩnh hơn cơ.
“Bồ nói gì kì. Dân Kyoto hơi bị khoái đu theo trào lưu đó nha.” “Hơ? Thật hả?”
“Chớ sao. Mặc dù cũng có nhiều người kiềm chế, hổng thể hiện sự cuồng nhiệt đó ra ngoài. Tiện bổ sung thêm là tụi này cũng thích những thứ mới lạ, bánh mì, đồ ăn kiểu Tây và mì ramen lắm.”
“Công nhận là ở đây nhiều tiệm bánh và quán mì ramen thật.” Hai đứa nhìn nhau rồi cùng phá lên cười.
K
4
ể từ hôm đó, anh Holmes vì bận cả việc học hành lẫn chuẩn bị tiệc sinh nhật nên không đến “Kura” nữa.
Người trông cửa tiệm chủ yếu là quản lí.
Mỗi khi bí ý tưởng, dường như quản lí sẽ không thể ngồi yên một chỗ. Nhiều khi tôi vừa đến làm là quản lí sẽ chuồn khỏi cửa hàng ngay lập tức, nhưng đợt này bác ấy viết có vẻ năng suất hơn. Không còn những lần phi thân ra ngoài tiệm, thay vào đó, bác ngồi lì trước quầy và dồn toàn tâm toàn ý cho việc viết bản thảo.
Chẳng hạn như hôm nay, lúc tôi vào tiệm và chào quản lí, phải mất một lúc bác ấy mới nhận ra tôi.
Khả năng tập trung thật đáng ngưỡng mộ. Mặc dù tôi vẫn thắc mắc về chuyện bác ấy trong tiệm kiểu này liệu có ổn không.
Tôi khúc khích cười, rồi lặng lẽ bắt tay vào dọn dẹp để không làm phiền công việc viết lách của quản lí.
Trước mắt, vì trong tiệm bày rất nhiều các món hàng, nên chỉ quét bụi thôi cũng đủ mệt bở hơi tai.
Tôi chuyên tâm dọn dẹp trong lúc quản lí lướt bút sột soạt trên trang giấy. Những khoảng thời gian như thế này chính ra không tệ chút nào. Quản lí đột ngột dừng bút, vươn vai và lẩm bẩm, “Được rồi!” Có vẻ bác ấy đã xong được một phần công việc.
Tôi đang quét dọn dở tay, nhưng vẫn tức tốc chạy vào phòng đun nước và pha cà phê cho bác ấy.
“Mời bác ạ.” Khi tôi đặt tách cà phê xuống kèm âm thanh lạch cạch, bác quản lí ngẩng mặt lên như vừa sực tỉnh khỏi cơn mơ. “... À, cảm ơn cháu, Aoi.” Bác trông có vẻ vui, hai mắt híp lại. “Bác xong một phần bản thảo rồi ạ?”
Ừ
“Ừ, là bản thảo truyện ngắn, cuối cùng cũng hoàn thành rồi.” “Bác vất vả rồi ạ.”
“Cảm ơn cháu,” bác quản lí nhẹ nhàng đáp, rồi đưa tách cà phê lên miệng.
Cử chỉ của bác ấy những lúc như thế này quả thật rất giống anh Holmes.
Nhận thấy ánh mắt của tôi, bác quản lí nhìn về phía tôi, tỏ vẻ thắc mắc. “Có vấn đề gì hả cháu?”
“Không có gì đâu ạ. Mà sắp đến buổi tiệc của ông chủ rồi bác nhỉ?” Tôi vừa dứt lời, quản lí liền đưa mắt về phía cuốn lịch để bàn, rồi thở ra một tiếng nghe có vẻ mệt mỏi.
“Đúng thế thật...”
Cảm giác bác ấy không được hào hứng cho lắm.
“Lẽ nào là công việc của bác bị dồn ứ lại ạ?”
“Không không, chỉ là bác ngại đứng trước đám đông thôi. Sinh nhật của bố thì bác phải lên đọc lời chúc đúng không? Mỗi lần như vậy là bác lại căng thẳng đến mức bụng đau quặn lên cháu ạ.”
Bác lại trút ra một hơi thở dài não nề. Nói ra sợ hơi thất lễ, cơ mà bác quản lí nhát người như vậy cảm giác thật đáng yêu. Điểm này của bác khác hẳn với anh Holmes và ông chủ.
Ông chủ thậm chí còn lên cả ti vi cơ mà.
“... Nhắc mới nhớ, bạn cháu kể là ông chủ từng lên cả ti vi, có thật không ạ?”
“Ừ. Mà khoan, hoá ra Aoi không biết à?”
“Không ạ. Cũng chẳng ai nói cho cháu mà.”
“Vậy thì cho bác xin lỗi. Nói sao nhỉ, nó như sự thật hiển nhiên ai cũng biết rồi. Với cả, dù nói là xuất hiện trên ti vi thì lần gần nhất cũng đã là hai năm về trước, bây giờ ông ấy chẳng còn tham gia chương trình nào nữa rồi.”
“Thế nghĩa là ông chủ không còn lên ti vi nữa ạ?”
“Ừ, vẫn có lời mời, nhưng ông ấy từ chối hết.”
“Buồn nhỉ. Cháu cũng muốn xem ông chủ trên ti vi.”
Thấy tôi tỏ vẻ tiếc nuối như vậy, quản lí khẽ cười.
“Trên ti vi ông ấy hơi bị đĩnh đạc, cứ như người khác ấy.” “Bạn cháu cũng nói thế. Mà tại sao giờ ông chủ không lên ti vi nữa ạ?” “À, cái đó... đại khái là đã có nhiều chuyện xảy ra.” Quản lí ngập ngừng.
“Dạ?” Lúc tôi đang dán mắt vào quản lí thì cánh cửa bên ngoài bỗng bật mở và phát ra tiếng chuông leng keng.
“Oa, bên trong đẹp quá. Y như một quán cà phê đồ cổ vậy.” “Em vẫn luôn muốn một chiếc cốc làm bằng gốm.”
Hai vị khách – có vẻ là khách du lịch – bước vào tiệm.
“Xin chào quý khách. Mời quý khách tự nhiên xem hàng ạ.” Tôi vội vàng quay về phía cánh cửa và nở một nụ cười đón khách.
5
T
hế rồi đến Thứ Bảy.
Tôi hẹn gặp anh Holmes lúc chín giờ sáng ở lối vào “Con đường Triết Học.”
Nhân tiện là muốn đến được Con đường Triết Học, cần phải chạy một mạch về hướng Đông theo đường ngang gọi là “Đường Imadegawa” để đâm ra đường dọc gọi là “Đường Shirakawa.”
Lối vào Con đường Triết Học nằm ngay tại đó.
“Bắt xe buýt cũng chẳng sao, nhưng khoảng cách hoàn toàn có thể đạp xe, nên thôi thì xe đạp thẳng tiến vậy.”
Nghĩ vậy, tôi đi xe đạp đến như thường lệ nhưng... đoạn từ Đường Higashioji trở đi lại là một con dốc thoai thoải kéo dài!
Cảm giác hơi mệt (dù đoạn đường về chắc hẳn sẽ nhẹ nhàng). Tôi hùng hục nhấn bàn đạp. Hộp quà sinh nhật cho ông chủ rung lắc lạch cạch trong giỏ xe.
Tiện nói luôn, món quà của tôi là một chai rượu Tenranzan, đặc sản tỉnh Saitama. Không biết phải tặng gì cho một chuyên gia giám định cấp quốc tế, tôi bèn tham khảo ý kiến của mẹ, và sau khi đi đến kết luận “rượu có lẽ là an toàn nhất”, tôi đã nhờ mẹ đặt chai rượu này.
Sau một hồi miệt mài chạy xe, tôi bắt đầu trông thấy một cây cầu nhỏ ở đoạn dốc trước mặt, với dòng chữ “Cầu Jodo-ji” được viết bằng chữ mềm. Góc trong cùng bên phải có một tấm bảng làm bằng gỗ ghi “Con đường Triết Học.” Trên cầu, anh Holmes đang quay ra phía tôi, giơ một tay lên với khuôn mặt tươi cười.
Anh mặc một chiếc áo sơ mi cùng quần bò, trông giản dị mà vẫn tinh tươm, khiến tôi phải ngẩn ra ngắm nhìn trong vô thức.
“Đ-Để anh phải chờ rồi.”
Sau khi băng qua chốt đèn và lên đến trên cầu, tôi xuống khỏi xe đạp. “Anh biết em sẽ đến bằng xe đạp mà. Đoạn dốc đi lên từ Imadegawa đạp mệt lắm phải không?”
Anh Holmes cười khúc khích rồi chìa cho tôi một chai nước uống thể thao chưa mở nắp. Có vẻ anh ấy đã đoán được rằng tôi sẽ đạp xe đến nên chuẩn bị sẵn cho tôi.
Đến giờ tôi vẫn không khỏi trầm trồ trước sự tinh tế và chu đáo của anh ấy.
“... Em cảm ơn ạ. Em cứ tưởng khoảng cách này thì đạp xe chắc cũng không sao, ai ngờ lại có một đoạn dốc lên dài như thế.”
Tôi vặn nắp chai rồi uống ực một ngụm.
Cảm giác sảng khoái thấm vào và lan toả khắp cơ thể mệt mỏi của tôi. “Từ khu Rakuhoku em đang ở mà tới đây bằng xe đạp thì chạy từ Đường Kitaoji ra Đường Shirakawa, sau đó vòng xuống chắc sẽ đỡ mệt hơn đấy?”
“Ơ kìa, chuyện như vậy đúng ra anh phải nói trước cho em biết chứ?” Tôi ấm ức ngẩng lên nhìn anh. Anh Holmes bật cười, “Ừ nhỉ. Thôi thì giờ anh em mình đi nhé. À, xe đạp để anh dắt cho.” Nói rồi anh Holmes đặt tay lên ghi-đông, vừa đẩy xe đạp vừa chậm rãi bước.
“... Em cảm ơn ạ.”
Tôi nhẹ nhàng bước theo sau, lòng thầm thán phục sự khéo léo chẳng bao giờ thay đổi của anh ấy.
Hai bên kênh đào hồ Biwa là hai hàng cây với những tán lá hơi ngả sang sắc đỏ.
Tất cả đều là cây anh đào, đến mùa xuân hẳn sẽ hoá thành một khung cảnh tuyệt sắc. Những tán lá khẽ lay động trong gió như hoà nhịp với tiếng nước chảy lặng lẽ dưới kênh. Trông thấy đây đó lác đác vài quán cà phê thời thượng, lòng tôi bỗng ngập tràn sự háo hức chẳng hiểu vì lí do gì.
Tôi lại một lần nữa cảm nhận được rằng “Con đường Triết Học” quả là một nơi tuyệt vời, cực kì thích hợp để vừa thong dong tản bộ vừa thả mình trong suy nghĩ.
“... Nhà anh ở gần đây ạ?”
“Phải đi bộ một đoạn, nhưng cũng gần.”
“Thế ạ? Em mong được thấy quá.”
Nhà ở của người thường xuyên mặc kimono như ông chủ không biết sẽ thế nào.
Chẳng lẽ là biệt thự kiểu Nhật truyền thống thật?
Có thể mở một bữa tiệc tại nhà thì chắc phải rộng lắm.
Chà, háo hức quá đi.
“Phải cố gắng giúp được thật nhiều việc mới được.”
Tôi vừa mới nắm chặt tay và buột miệng một câu nghe như tự nhắc nhở mình, anh Holmes đã quay sang nhìn tôi với vẻ ái ngại.
“Xin lỗi em. Anh đã bày biện xong hết trong tối qua và sáng sớm hôm nay rồi.”
“Gì, gì cơ ạ?”
“Dù sao cũng bắt em đến tận đây rồi, nên anh định dẫn em đi thăm chùa Ginkaku-ji luôn, em thấy sao? Aoi từng đến chùa Ginkaku-ji lần nào chưa?”
Nghe anh ấy hỏi, tôi bèn cười trừ.
“Chùa Ginkaku-ji thì... em từng đến hồi đi dã ngoại với trường cấp hai, nhưng không đọng lại được gì nhiều trong kí ức. Tuy là em vẫn nhớ rõ về Con đường Triết Học. Còn chùa Ginkaku-ji[7] là em đi tham quan sau chùa Kinkaku-ji[8], nên ấn tượng mạnh nhất là suy nghĩ của em lúc đó rằng ‘nó có dát bạc đâu’.”
Tôi nhún vai đáp. Anh Holmes gật gù với thái độ, “Anh cũng đoán thế rồi.”
“Nhiều người cũng bày tỏ ý kiến giống em, nhưng chùa Ginkaku-ji kể ra vẫn thú vị lắm đấy. Bản thân ngôi chùa không được dát bạc, nhưng nó mang một vẻ thâm trầm, tựa như bạc đen vậy.”
“Bạc đen... ấy ạ?”
“Phải. Nếu ví chùa Kinkaku-ji với con người hào hoa phóng khoáng là ông nội anh, thì chùa Ginkaku-ji chắc sẽ giống bố anh, điềm đạm và nho nhã.”
Phép so sánh ấy tuy đường đột nhưng lại rất dễ hiểu, làm tôi phải bật cười.
“C-Công nhận, ông chủ giống chùa Kinkaku-ji lộng lẫy xa hoa thật! Em cũng muốn quay lại thăm chùa Ginkaku-ji gợi nhớ đến bác quản lí” Tôi cất giọng hào hứng.
“Thế thì mình đi.”
Anh Holmes mỉm cười với tôi.
Cứ thế tiến sâu vào Con đường Triết Học, rồi rẽ trái (về phía Đông) là sẽ đến được đường lên chùa Ginkaku-ji.
Một lối đi nhỏ chỉ vừa đủ cho hai chiếc ô tô con lách qua nhau. Rất nhiều quầy bán đồ lưu niệm nằm kề nhau san sát.
“Oa, cảm giác như dốc Ninensaka đi lên chùa Kiyomizu-dera ấy.” “Nơi này tuy quy mô không hoành tráng bằng đoạn dốc đó, nhưng vẫn có bầu không khí khiến người ta vui vẻ nhỉ.”
Anh Holmes vừa dắt xe đạp vừa gật đầu với tôi.
Giờ này hãy còn sớm nên xung quanh vẫn vắng người, nhiều tiệm thậm chí chưa mở cửa, nhưng đến trưa hẳn sẽ nhộn nhịp lắm.
Cũng có mấy quán cà phê trông khá kiểu cách, làm tôi chợt muốn khi nào thong thả ghé vào đó xem sao.
“Anh Holmes đã bao giờ vào quán cà phê kia chưa ạ?”
Tôi hỏi, mắt hướng về phía một quán cà phê.
“Hả?” Anh Holmes liền quay sang nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên. Phản ứng ấy làm tôi bối rối.
“Chuyện gì thế ạ?”
“Aoi, em hỏi gì ngớ ngẩn thế?”
“Ng-Ngớ ngẩn lắm ạ?”
“Ngớ ngẩn là hơi quá lời rồi, cho anh xin lỗi. Anh rất thích đi cà phê. Anh đoán có khi mình đã ghé qua hết tất cả những quán cà phê trong thành phố Kyoto này rồi ấy.” Cái cách anh để lộ ra ánh nhìn kiên định ấy khiến cho lần này đến lượt tôi bị ngạc nhiên.
“Ơ thế ạ? Anh nhớ rõ từng quán cà phê trong thành phố cơ ạ?” “Phải, anh có lưu lại toàn bộ ghi chép và cảm nhận vào một cuốn sổ.” “A-Anh giỏi thật đấy.”
“Tham vọng của anh là một ngày nào đó có thể viết một cuốn sách với tiêu đề: ‘Hành trình khám phá những quán cà phê ở Kyoto’.” “Oa, nghe hay ghê.”
“Không, anh đùa đấy.”
“X-Xin anh đừng đùa kiểu khó hiểu như thế nữa!”
Nói... nói sao nhỉ, anh Holmes... thật sự rất kì quặc!
“Tuy tham vọng ra sách là đùa, nhưng anh có dự định sau khi hoàn thành chương trình sau đại học sẽ biến Kura thành một tiệm cà phê đồ cổ. Với tình hình hiện tại, khách khứa thường rất ngại vào tiệm mình đúng không? Anh nghĩ nếu là một quán cà phê thì người ta sẽ thoải mái bước vào hơn, và họ còn có thể tiếp xúc với đồ cổ nữa.”
“Ra vậy. Ý tưởng ấy cũng rất hay. Nếu là quán cà phê thì dễ vào hơn nhiều mà.”
“Cảm ơn em. Khi ấy chắc anh vẫn phải nhờ Aoi giúp đỡ nhiều, mong em tiếp tục chiếu cố nhé.”
Nhìn nụ cười dịu dàng của anh Holmes, tim tôi lại nhảy lên “thịch” một tiếng.
Chuyện đó rốt cuộc là bao nhiêu năm sau chứ? Một tương lai xa như vậy mà anh ấy vẫn tiếp tục để tôi làm cho tiệm liệu có ổn không? “D-Dạ vâng. Em sẽ cố gắng.”
“Mà nghĩ lại, ngày ấy vẫn còn xa quá nhỉ.”
Anh Holmes cười vui vẻ, khiến tim tôi không ngừng loạn nhịp. Thế rồi, chúng tôi bước đi như tản bộ trên đoạn đường dẫn lên chùa ngắn ngủi, dựng xe đạp rồi bước vào khuôn viên của Ginkaku-ji. Nhân tiện, “Ginkaku ji” chỉ là tên gọi thân mật, tên chính thức của ngôi chùa này là Higashiyama Jisho-ji.
Đến khi tôi nhận ra thì anh Holmes đã trả phí tham quan chùa, rồi trao cho tôi tấm vé hình lá bùa và bảo, “Của em đây.”
“Em cảm ơn ạ. Nhưng anh ơi, tại sao chùa này không dùng bạc khi xây mà lại được gọi là Ginkaku-ji ạ?”
“À ừ, người xây ngôi chùa này là Ashikaga Yoshimasa, tướng quân đời thứ tám của Mạc phủ thời Muromachi. Ông đã tham khảo thiết kế chùa Kinkaku-ji, do ông nội mình là Ashikaga Yoshimitsu xây, để dựng nên sơn
trang Higashiyama này. Người ta gọi những toà kiến trúc dạng tháp trong sơn trang Higashiyama là ‘Ginkaku’ nên toàn bộ nơi này được gọi là chùa Ginkaku-ji.”
Vừa trầm trồ trước những kiến thức uyên bác tuồn ra từ miệng anh Holmes như thường lệ, tôi vừa tiếp tục tiến vào trong.
Ngay trước mặt chúng tôi là một ngôi chùa màu đen bóng (Quan Âm Điện).
Dáng đứng tĩnh lặng của nó quả thật toát lên vẻ thâm trầm tựa như bạc đen vậy.
Trong chuyến dã ngoại hối cấp hai, tôi chẳng cảm nhận được gì... thậm chí còn thấy thất vọng với chùa Ginkaku-ji, nhưng lần này, sau khi nghe anh Holmes mô tả rằng nó “thâm trầm tựa như bạc đen”, tôi đã phải gật gù công nhận.
Ngôi chùa này không đẹp một cách hoa lệ. Nó êm đềm, dịu dàng, vô cùng nho nhã... và trầm mặc.
“Đ-Đúng là giống quản lí thật, anh Holmes nhỉ!”
Thấy tôi ngoảnh lại và kêu lên, những người xung quanh đều há hốc, làm tôi phải luống cuống lấy tay che miệng.
“Ngôi chùa này đúng là thâm trầm như ‘bạc đen’ có phải không?” “Vâng ạ, nói thế nào nhỉ, nó có một sức hút mà phải trưởng thành rồi mới có thể cảm nhận. Hồi còn học cấp hai thì em không hiểu được điều đó.”
“Aoi giờ cũng lớn hẳn rồi mà.”
Nghe anh Holmes trầm ngâm phán, hai má tôi bỗng nóng bừng. Chính là nó, đòn tấn công “nham hiểm” đặc trưng của anh Holmes. “Th-Thôi, anh đừng có trêu em. Mà gạt chuyện đó sang một bên, nếu ví bác quản lí là chùa Ginkaku-ji, ông chủ là chùa Kinkaku-ji thì anh Holmes là chùa gì ạ?”
“Anh á? Anh chẳng dám so mình với chùa nào đâu. Cơ mà ngôi chùa anh thích nhất là chùa Kiyomizu-dera. Chữ Kiyo trong Kiyomizu cũng trùng với Kiyotaka nữa.”
Nói rồi, anh Holmes áp tay vào ngực, mắt sáng lên lấp lánh và nhìn xa xăm.
A, ra anh ấy thích chùa Kiyomizu-dera... Nghĩ vậy, tôi cũng lơ đễnh nheo mắt như đang nhìn về phía xa.
“Chỉ là thích thôi, chứ không phải anh tự nhận mình là chùa Kiyomizu dera đâu nhé. Em có thể thôi nhìn anh bằng cặp mắt kì thị đó không nhỉ?” “Hơ, thật ạ?”
“Ừ, anh làm sao sánh được với chùa Kiyomizu-dera chứ.” Vừa tiếp tục rảo bước, chúng tôi vừa cười và nói với nhau những chuyện vẩn vơ như vậy.
Khung đường vòng quanh khuôn viên chùa Ginkaku-ji dài hơn tôi tưởng.
Phải... phải đi bộ lâu như thế này à? Khi tôi leo hết những bậc thang đá, đồng thời cảm nhận được rằng mình có chút hụt hơi, tôi có thể nhìn xuống phố phường Kyoto từ địa điểm ấy.
Nằm gọn giữa vòng vây của những ngọn núi là các nóc nhà dân thấp tè xếp liền nhau. Không có nhiều nhà cao tầng nên ai nhìn cũng thấy thành phố này thực sự được núi non bao bọc.
“O-Oa, tầm nhìn tuyệt quá!”
“Đây chính là thành phố Kyoto nhìn từ Higashiyama đấy. Quang cảnh rất ấn tượng đúng không?”
“Vâng ạ! Tự dưng em không còn thấy mệt nữa!”
Dưới bầu trời xanh trong, cơn gió thu mát rượi mơn trên làn da thật nhẹ nhàng.
Thành phố Kyoto nhìn bao quát từ núi Higashiyama đem lại cảm nhận rất khác…
“Anh Holmes, em thấy rất mừng vì mình đã đến đây. Em trở nên cực kì thích chùa Ginkaku-ji mất rồi.”
Khi tôi nói thế và ngoảnh lại, nụ cười đầy hạnh phúc của anh Holmes bất ngờ lọt vào mắt tôi, khiến tim tôi lỡ mất một nhịp.
“Thế thì tốt quá. Anh cũng rất thích chùa Ginkaku-ji. Tiếc là, anh cứ có cảm giác nơi này hơi phải chịu thiệt thòi vì biệt danh của nó.” “Có lẽ anh nói đúng.”
“Cho nên anh rất vui khi Aoi thấy thích nó.”
Anh Holmes vẫn vậy, luôn cực kì có trách nhiệm với mảnh đất cố đô. Nhìn anh như thế, khoé miệng tôi giãn ra thành một nụ cười. “Vậy thôi, anh em mình đi nhé?”
“À, dạ, vâng ạ.”
Phải rồi, còn bữa tiệc sắp bắt đầu nữa.
“Nhắc mới nhớ, có phải ông chủ ngày xưa từng lên ti vi không ạ?” Trong lúc xuống dốc, tôi chợt nhớ ra liền hỏi anh Holmes. Anh ấy khẽ gật đầu.
“Phải, cũng thỉnh thoảng, cho tới hai năm trước.”
“Tại sao bây giờ lại không xuất hiện nữa ạ?”
Lúc tôi hỏi quản lí chuyện này, có cảm giác bác ấy không muốn trả lời cho lắm.
“Thực ra là hai năm trước, lúc xuất hiện trên “Truy tìm gia bảo ☆ Chương trình đặc biệt mùa thu, ông nội anh đã gây ra chút rắc rối. Từ đó trở đi ông bắt đầu chê mấy chương trình ti vi là phiền phức.” “Rắc rối ạ?” Tôi bắt đầu cảm thấy bất an.
“Aoi có biết ảo thuật gia ‘Don Kageyama’ không?”
“Tất nhiên là có ạ. Ông ấy nổi tiếng lắm anh nhỉ?”
Một người có danh tiếng lẫy lừng đến mức tôi gật đầu ngay như cái máy. Don Kageyama là một ảo thuật gia, được gọi là ‘Vua ảo thuật thời Heisei’, người mà kể cả trong ngành giải trí cũng có thể xếp vào hàng tai to mặt lớn. Ông còn được biết đến bởi sự ngoa ngoắt và độc miệng của mình, cũng đã nhiều lần xuất hiện với tư cách bình luận viên trên các chương trình tin tức.
Tuy sở hữu hình tượng một kẻ ngang ngược, nhưng lại tích cực tham gia cả các hoạt động từ thiện, nên ông ta mang khí chất giống như một nhân vật có tiếng nói trong ngành giải trí.
“Don Kageyama đã mang bảo vật của gia đình đến tham dự chương trình. Đó là một chiếc bình sứ Thanh Hoa[9] của vương triều nhà Lý ở Triều Tiên, nếu là đồ thật thì sẽ có giá trị cao khủng khiếp. Một vật phẩm có thể xem là điểm sáng của chương trình ngày hôm đó. Tuy nhiên, khi thẩm định qua món đồ trước giờ khởi quay, ông nội anh đã phát hiện ra nó là đồ giả, làm cả ê-kíp nháo nhào lên.
Nhà sản xuất có nhờ vả ông rằng, vì chương trình, hãy cứ nói nó là đồ thật. Nhưng dĩ nhiên là ông nội anh không chấp nhận, mà cũng chẳng còn cách nào khác nên vẫn phải bắt đầu thu hình. Tuy chỉ là thu hình, nhưng vẫn có khán giả bình thường đến xem. Khi ông anh tuyên bố rằng chiếc bình đó là đồ giả, Don Kageyama đã nổi giận đùng đùng, bảo ông có mắt như mù, khiến cả trường quay được một phen náo loạn.
Cuối cùng, toàn bộ phân đoạn của Don Kageyama bị cắt. Bầu không khí xung quanh như muốn thể hiện rằng mọi chuyện đều là lỗi của ông nội anh và điều đó cũng lại khiến cho ông nổi giận. Ông còn bảo là, “Tui sẽ không bao giờ xuất hiện trên ti vi nữa! Đại loại như thế đấy.”
“R-Ra vậy.”
Tôi thậm chí còn cảm thấy ngưỡng mộ trước một sự kiện nghe rất đúng phong cách ông chủ như thế này.
“Vụ việc không lên sóng nên không được biết đến rộng rãi, nhưng nghe đồn là ở hậu trường nhiều người bàn tán lắm.”
“Hoá ra còn có chuyện như thế...”
Giới truyền hình đúng là nhiều thị phi.
Cơ mà ông chủ đã gây ra chuyện ầm ĩ đến vậy thì chắc sẽ không có ai trong ngành giải trí tới dự tiệc đâu.
Tôi thấy nhẹ nhõm đi phần nào, nhưng đồng thời lại có cảm giác áy náy đối với Kaori. Bởi vì cậu ấy đã mong chờ buổi tiệc này nhiều lắm. ... À mà khoan, anh Akihito chắc vẫn sẽ đến, vậy là được rồi nhỉ? Anh ấy cũng có thể gọi là một diễn viên đẹp trai mà.
Tôi rời khỏi chùa Ginkaku-ji, lại một lần nữa cảm thấy mình được sự tồn tại của anh Akihito cứu rỗi.
6
“N
hà anh ở hướng này.”
Anh Holmes lại tiếp tục dắt xe đạp cho tôi. Ra khỏi lối lên chùa một đoạn, chúng tôi tiến vào đoạn đường nằm ở chính giữa.
“Em háo hức muốn biết ngôi nhà trông như thế nào quá.” Tôi hồi hộp theo sau anh ấy. Liệu trông nó có giống một ngôi chùa? Hay mang phong vị của một ngôi nhà kiểu Nhật truyền thống? “Nó như thế kia kìa.” Nhìn theo hướng ngón tay anh chỉ, tôi lập tức á khẩu.
Tôi còn tưởng toà nhà ấy là bảo tàng mỹ thuật lúc nhìn thoáng qua. Một dinh thự kiểu Âu được xây bằng đá vô cùng bề thế. Lớp tường đá màu xám như của một công trình kiến trúc thời Minh Trị. Bầu không khí khiến người ta liên tưởng đến những di sản văn hoá thường thấy ở các thành phố cảng như Yokohama hay Otaru.
Nói sao nhỉ, nó... chẳng mang phong cách Nhật gì cả!
“H-Hoành tráng ghê.”
Một từ “hoành tráng” thôi không đủ để diễn tả công trình ấy. Một căn biệt thự không có kích thước quá khủng, nhưng vẫn gây được ấn tượng cực kì mạnh mẽ. Nó quả thật trông như một viện bảo tàng thu nhỏ vậy.
“Dinh thự này vốn thuộc về bác trai kiêm sư phụ của ông nội anh.” Cánh cổng với những song sắt màu đen mở ra, tạo nên những âm thanh ken két.
“Bác trai của ông chủ cũng là sư phụ của ông ấy ạ?”
“Ừ, bác của ông nội anh chính là sư phụ của ông. Sư phụ ông là một thương gia giàu có, đồng thời cũng là một nhà giám định mĩ thuật hết sức tài năng. Mà nói đúng hơn thì đây có lẽ là sự thành công nhờ vào con mắt
tinh tường. Dinh thự này được ông ấy xây dựng nhằm mục đích trưng bày bộ sưu tập của mình cho khách khứa đến ngắm.”
Có nghĩa đây vốn là “dinh thự dùng để triển lãm những tác phẩm nghệ thuật”.
Thế thì việc bản thân dinh thự trông giống một viện bảo tàng cũng không có gì khó hiểu.
“Ông nội anh kể rằng ông dọn đến dinh thự này khi đã ngoài bốn mươi tuổi, sau khi sư phụ ông rút lui khỏi giới và chính thức công nhận ông là người nối nghiệp mình.”
“Vậy là ông ấy không để dinh thự cho con cái thừa hưởng, mà truyền lại nó cho cháu trai ạ?”
“Sư phụ của ông nội anh vốn không có con, nên đã tuyên bố sẽ để lại dinh thự cho người thừa kế xứng đáng nhất trong số họ hàng và đệ tử của mình. Ông nội anh kể hồi đó ông có rất nhiều đối thủ, nên đã phải cố gắng hết mình để được sự phụ thừa nhận.”
“Th-Thế ạ.”
Thì ra dinh thự này giống như vòng nguyệt quế dành cho kẻ thắng... Thứ bao quanh căn nhà kiểu Âu được xây bằng đá là một khu vườn theo phong cách Nhật Bản, chẳng ăn nhập chút nào. “Trông không đồng điệu đúng không? Ông nội anh bảo vườn kiểu Nhật có ‘vẻ đẹp không hoàn hảo’ nên ông thích thế hơn. Tuỳ vị trí còn có thể thưởng thức vẻ đẹp của bốn mùa trong năm nữa.”
“Ra là thế. Có thể không được đồng điệu, nhưng khi quan sát như thế này lại có cảm giác hợp lí, tuyệt lắm ạ.”
Đây chính là sự giao thoa hoàn hảo của kiến trúc phương Đông và phương Tây. Mà nghĩ lại thì tiệm “Kura” cũng kết hợp hai phong cách châu Âu - Nhật Bản, nên có lẽ đây là một đặc điểm của dòng họ Yagashira. “Aoi, đằng này.”
“Dạ, vâng.” Ngoảnh đi ngoảnh lại, anh Holmes đã đỗ giùm tôi chiếc xe đạp trong một góc vườn.
Chúng tôi cứ thế leo lên những bậc thang đá, khi mở cánh cửa đôi khổng lồ ở lối ra vào, khu vực sảnh thông lên trên thành giếng trời hiện ra trước mắt.
“E-Em xin phép.”
Tôi rụt rè bước vào, lòng dạ không khỏi bồn chồn.
Đồng hồ tủ đứng, chùm đèn hoa lệ. Tranh vẽ, bình trang trí cùng những tác phẩm điêu khắc được xếp cạnh nhau, thật sự không khác gì bảo tàng mỹ thuật.
“Ừm... em để giày ở đâu ạ? Hay cứ đi cả giày vào?”
“Tầng một có thể đi giày, từ tầng hai trở đi mới phải đổi sang dép đi trong nhà.”
“Thế ạ?”
“Tầng một này căn bản được xem như không gian trưng bày tác phẩm nghệ thuật, cho khách đến ngắm ấy mà.”
“À, ra vậy.”
Hiểu theo cách nào đó thì nơi này đúng là một viện bảo tàng. Đúng lúc tôi đang cảm thấy bị thuyết phục và đặt chân vào bên trong... “... Kiyotaka về rồi đấy à?”
Cửa một căn phòng nằm ở phía sau nối liền với đại sảnh bật mở, một mĩ nhân mặc váy lụa đen bước ra từ bên trong.
Mái tóc màu nâu hạt dẻ được uốn xoăn, cặp môi thoa son đỏ chót. Nốt ruồi nơi khoé miệng trông đến là gợi cảm. Thân hình cực chuẩn, tuy mảnh mai mà vẫn tràn đầy sức sống. Chiếc váy ôm sát cơ thể với đôi giày cao gót đỏ rực nhìn ấn tượng vô cùng.
Một vẻ đẹp dường như không có gì để chê, như cái cách nó được thể hiện qua nét óng ả trên mái tóc.
Tuổi... chắc khoảng trên dưới ba mươi?
A-Ai thế nhỉ? Đừng bảo là... bạn gái anh Holmes?
“Cháu về rồi ạ, cô Yoshie. Cô chuẩn bị sẵn sàng rồi nhỉ.” “Ái chà, Kiyotaka cũng phải sửa soạn sớm đi.”
Người phụ nữ tên Yoshie nhìn anh Holmes bằng ánh mắt có phần khiển trách, hai tay khoanh trước ngực.
Xem ra không phải bạn gái anh ấy rồi.
Khi tôi đang bị thái độ của hai người làm cho choáng ngợp, thì cô Yoshie bỗng quay sang tôi và nở nụ cười hiền hậu.
“Xin chào, cô là Takiyama Yoshie. Rất vui được gặp cháu.” “D-Dạ chào cô, cháu là Mashiro Aoi ạ.”
Tuy chưa hiểu tình hình nhưng tôi vẫn tự giới thiệu bản thân và cúi đầu chào.
“Cô đã nghe Seiji kể rồi. Bảo là tiệm vừa có thêm một nhân viên bán thời gian mới rất dễ thương, lại chịu khó làm việc. May quá, Kiyotaka nhỉ?” Cô ấy vui vẻ cười híp mắt.
“Vâng, rất may ạ.” Anh Holmes gật đầu.
Tự dưng thấy ngượng ghê... Mà tạm dẹp chuyện đó sang một bên, người phụ nữ này rốt cuộc là ai nhỉ?
Tôi hoang mang chẳng được bao lâu thì cửa phòng đằng sau lại bật mở, và lần này đến lượt ông chủ bước ra.
“Bé Aoi, cám ơn con hôm nay đã tới nha.”
Thường ngày, ông chủ luôn khoác trên mình một bộ kimono nho nhã, nhưng hôm nay ông ấy lại đóng hẳn một bộ tuxedo.
“Chúc mừng sinh nhật ông chủ. Ừm, cháu có chút quà mọn biếu ông, là loại rượu đặc sản của Saitama ạ.” Tôi chìa ra chiếc hộp đựng rượu đã được gói ghém cẩn thận. Ông chủ liền cười xoà.
“Ta cám ơn nghen. Phiền cho con quá.”
“Dạ không, không có gì đâu ạ. Hôm nay ông chủ mặc âu phục nhỉ. Lần đầu tiên cháu được thấy đấy ạ.”
“Bảnh phớ hôn? Nhưng tẹo nữa ta cũng sẽ bận kimono đó.” “Đấy gọi là màn thay trang phục ạ?”
“Phải.”
Chẳng phải cô dâu trong lễ cưới mà vẫn có màn thay đổi trang phục, ông chủ đúng là làm gì cũng khoa trương.
Thế rồi, cô Yoshie bỗng xáp lại gần ông chủ với vẻ hạnh phúc. “Đúng là anh Seiji mặc âu phục cũng rất bảnh bao.”
“Chớ sao.” Ông chủ phổng mũi cười hãnh diện.
... Ừm... hỏi nghiêm túc, cô ấy rốt cuộc là thế nào vậy?
Thấy tôi lại băn khoăn nghiêng đầu, anh Holmes đoán ra sự lúng túng của tôi, liền ghé sát tại tôi và thì thào.
“Cô Yoshie là bạn gái của ông nội anh.”
“B-Bạn gái ấy ạ?” Giọng tôi cao vút.
“Em thấy bất ngờ không?”
“Có, có ạ. Tuổi hai người chắc chênh nhau lắm ạ?”
“Ừ, đúng là hơi chênh lệch, cơ mà... cô ấy nhìn trẻ vậy thôi, chứ tuổi thật đã ngoài bốn mươi rồi.”
“Kh-Không phải chứ!”
“Anh hay gọi cô ấy bằng tên thân mật là ‘yêu quái’.”
Đúng là sự trẻ trung có thể xếp vào hàng yêu quái thật.
“Cô ấy điều hành một công ty tư vấn tổ chức sự kiện có liên quan đến ngành mỹ thuật, cũng là đối tác của cửa tiệm nhà mình. Cô ấy bắt đầu hẹn hò với ông nội anh khoảng mười năm trước. Có điều, tự tôn của hai người đều rất cao nên cứ liên tục hẹn hò xong lại chia tay, dây dưa mãi không dứt nhau ra được.”
“Ồ... mối quan hệ kiểu dây dưa, lúc hẹn hò lúc lại chia tay à.” Tôi ngẩn ra nhìn cô Yoshie đang đứng cạnh ông chủ.
Ai ngờ ông chủ lại có một cô bạn gái xinh đẹp như thế. Đó chưa biết chừng chính là bí quyết trẻ lâu của ông.
“Mà có cả màn thay trang phục giữa buổi tiệc, ông chủ cũng chăm chút thật đấy...”
“Ừ. Để chuẩn bị cho ngày hôm nay, ông nội anh thậm chí còn nhờ nghệ nhân ở tận Yokohama chuẩn bị giày và âu phục, mũ thì đặt thợ ở Kobe, còn kimono là đặt từ tiệm dệt truyền thống Miyashita.”
Anh Holmes bổ sung thêm như thế khiến tôi bị choáng.
Làm sao bây giờ, không ngờ buổi tiệc lại được đầu tư kĩ lưỡng đến thế.
Cả cô Yoshie cũng trưng diện rõ đẹp, thế mà tôi lại vác mặt đến trong bộ dạng xuềnh xoàng này vì tưởng mình còn phải giúp chuẩn bị cho bữa tiệc!
Cơ mà... anh Holmes trông cũng chẳng cầu kì lắm nhỉ?
“Anh Holmes định mặc như thế dự tiệc luôn ạ?”
“Không, lát nữa anh sẽ thay sang bộ khác.”
“E-Em có thể về nhà thay đồ được không?”
“Không cần đâu, em mặc vậy cũng xinh mà.”
“Anh lại khen đểu em.”
“Đâu có.”
Thế rồi, cô Yoshie có vẻ đã nghe hết cuộc nói chuyện, liền tiến tới bảo tôi.
“Không sao. Nếu là váy liền thì cô có mang theo mấy bộ, để cô cho bé Aoi mượn. Nào, cô cháu mình cùng đi thay đồ.”
“Dạ?”
“Đằng này.”
Tôi mới tỏ ra lúng túng chưa được bao lâu thì đã bị cô Yoshie lôi vào phòng sau.
“... Aoi thích màu gì, hồng, trắng hay xanh ngọc?”
Vừa bước vào phòng, cô Yoshie đã hào hứng mở vali ra.
“D-Dạ... màu xanh ngọc ạ?” Tôi vẫn chưa hết hoang mang, cơ mặt căng cứng lại.
“Ấy, chẳng mấy khi được dịp thế này, sao cháu không chọn màu hồng?”
“M-Màu hồng có hơi...”
“Đừng lo. Không phải hồng đậm mà là hồng phớt đấy.” Nói rồi cô ấy cho tôi xem một bộ váy với sắc hồng rất nhạt, thậm chí còn hơi ngả trắng. Thiết kế tuy đơn giản nhưng vô cùng đáng yêu.
“Chiếc váy xinh ghê.” Tôi thành thật nhận xét. Cô Yoshie liên khúc khích cười.
“Cô nghĩ biết đâu Aoi sẽ cần, nên đã mang theo mấy bộ váy có vẻ hợp gu giới trẻ bây giờ đấy”
“Hơ, thật thế ạ? Cháu cảm ơn cô.”
Quả nhiên là người có quan hệ lâu dài với gia đình Yagashira, xem ra cũng rất biết cách quan tâm chăm sóc người khác.
“Cháu không cần khách sáo đâu. Nói thật là cô đã rất mong được gặp Aoi đấy. Một lần nữa, từ giờ mong cháu giúp đỡ cô nhiều nhé.”
“V-Vâng, cháu cũng vậy ạ.”
“Nhà Yagashira đã toàn đàn ông rồi, lại còn hơi khác người nữa nhỉ?” “D-Dạ…”
“Cô đoán Aoi tiếp xúc với mấy người đàn ông trong gia đình Yagashira thì chắc phải nhẫn nhịn nhiều lắm. Có gì cứ xả hết ra đi cũng được.” “Nhẫn nhịn...?” Có chuyện đó à? Đúng là đôi lúc bác quản lí sáng tác không suôn sẻ liền chuồn ngay khỏi tiệm, khiến tôi hơi bối rối, nhưng chưa đến mức gây khó dễ cho tôi.
Anh Holmes thỉnh thoảng có chút lươn lẹo, nhưng luôn đối xử tốt với tôi.
Tôi nghĩ một lúc rồi trả lời, “... Không đâu, cháu không thấy có gì đáng kể ạ.”
Mà ngay từ đầu tôi cũng chưa quen họ đủ lâu hay đủ thân thiết để có thể tích tụ áp lực do cảm thấy bản thân phải nhẫn nhịn nhiều. “Cô Yoshie đang phải nhẫn nhịn chuyện gì thế ạ?”
“Trong trường hợp của cô là đồ cổ chăng?”
“Đồ cổ ạ?”
“Cứ động đến đồ cổ là nói dài nói dai, một khi bắt đầu thưởng thức đồ cổ là quên luôn cô đang có mặt ở đấy, hoặc đột nhiên bay ra nước ngoài để xem tác phẩm nghệ thuật chẳng hạn!”
Cô ấy hùng hổ đổ người về phía trước làm tôi hơi hoảng. Ra vậy, ở vị trí của một người bạn gái có lẽ cũng vất vả thật. “Tình yêu của ông Seiji dành cho đồ cổ thật sự không bình thường.
Ông ấy mê mẩn đồ cổ đến mức có lần cô còn muốn đập vỡ chúng luôn.” “M-Muốn đập vỡ ấy ạ?”
“Dĩ nhiên là cô chỉ nói miệng thôi. Tóm lại là ông ấy quan tâm đến đồ cổ còn hơn cả cô, cảm giác chẳng dễ chịu chút nào.”
Cô Yoshie hậm hực nói, hai tay khoanh trước ngực.
Nhìn là biết cô ấy thực sự rất yêu ông chủ. Mặt tôi giãn ra thành một nụ cười, cảm giác ấm lòng biết mấy.
“Nhưng cô Yoshie yêu ông chủ không phải vì tình yêu mãnh liệt của ông dành cho đồ cổ sao?”
Ừ
“... Ừ, ban đầu là thế. Mọi chuyện cũng xuất phát từ việc cô kính trọng ông ấy với tư cách một giám định viên. Cơ mà quan trọng hơn, gu của cô vốn là trâu già nữa.”
“Trâu già?”
“À, thanh niên bây giờ còn dùng cách nói ấy không nhỉ? Cô vốn chỉ thích những người đàn ông đã quá tuổi trung niên thôi. Có nghĩa là cả ngoại hình của ông Seiji cũng trúng phóc gu cô đấy.”
“Ra là thế!”
Tôi bỗng dưng hiểu ra rất nhiều chuyện.
“Nhưng ông Seiji bao giờ cũng yêu đồ cổ hơn cô; mà ngay từ đầu ông ấy cũng thích sự tự do, nên cô không thể nào nắm thóp được ông ấy. Đã bao nhiêu lần cô nghĩ ‘không thèm quan tâm cái người đấy nữa’ và quyết định chia tay, tìm cho mình một người đàn ông khác. Nhưng đến khi thật sự rời xa và hẹn hò với người khác, cô lại càng cảm thấy ông Seiji tuyệt vời hơn! Đàn ông nhà Yagashira thật sự dữ dội theo nhiều nghĩa nhỉ?”
“Đúng là dữ dội thật…” Riêng về chuyện này tôi có thể đồng tình. “Đấy! Khuyết điểm, ưu điểm, cái gì cũng dữ dội, không thể chịu nổi.” “Cái đấy cháu cũng hơi hiểu được.”
Dù chính bản thân tôi cũng ít nhiều phát ớn với những điểm kì quặc của anh Holmes, nhưng chúng dần dà cũng trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của tôi.
“Ôi, có thể nói những chuyện này với Aoi nhẹ nhõm ghế! Cô đã thử kể cho bạn bè mình nghe, nhưng chẳng ai thấu hiểu cho cô cả.” Cũng phải. Những ai không quen biết nhà Yagashira hẳn là sẽ không hiểu được.
“Thật sự là từ giờ sẽ phải trông cậy vào cháu nhiều rồi. Cả những lúc cô muốn càu nhàu nữa, mong cháu chịu khó lắng nghe nhé.” Nghe cô Yoshie phấn khởi nói, tôi liền phì cười.
“Vâng, một lần nữa cháu rất mong được cô giúp đỡ.”
Mới nhìn, tôi còn tưởng cô Yoshie là kiểu người đẹp quyến rũ khó gần điển hình, nhưng may quá, cô ấy có vẻ là người tốt.
Tôi bắt tay cô ấy, trong lòng có chút mừng thầm.
“Vậy thôi, cô cháu mình thay đồ nhé.”
Dù bị vẻ hăng hái của cô Yoshie làm cho lúng túng, nhưng tôi rốt cuộc vẫn bị sự quyết đoán của cô ấy cuốn đi và thay sang chiếc váy liền màu hồng nhạt. Thế rồi, cô vén tóc tôi lên và tấm tắc khen.
“Chà, Aoi, gáy của cháu đẹp ghê. Cái này sẽ là vũ khí mạnh đấy! Đây nữa đây nữa, chỉ cần uốn mi lên là đem lại ấn tượng khác hẳn, thoa thêm một chút son đi.” Cô ấy thậm chí còn trang điểm cho tôi nữa. Xong xuôi, cô Yoshie liền vỗ tay.
“Chao ôi! Cô biết mà, cháu trang điểm thế này đáng yêu lắm!” Tuy còn hơi xấu hổ, nhưng bản thân tôi đang phản chiếu trong gương thật sự trông cứ như biến thành người khác.
“Ôi, có con gái đúng là thích thật. Con trai cô cũng đáng yêu, nhưng cô vẫn muốn có con gái cơ.”
Cô Yoshie thở ra một tiếng đầy nồng nhiệt.
“Ủa? Cô Yoshie, cô có con rồi ạ?” Tôi ngạc nhiên quay đầu lại. “Ừ, cô đã có một đời chồng và một đứa con trai. Hiện thằng bé học lớp Mười và đang đi du học nước ngoài.”
“Lớp, lớp Mười sao ạ?”
Nhỏ hơn tôi một tuổi. Ai mà tin nổi cô ấy lại có một đứa con trai lớn đến vậy cơ chứ!
À, nhưng với một người trạc ngoại tứ tuần thì cũng không có gì lạ nhỉ. Biết sao được, bề ngoài cô ấy trẻ quá mà.
“Hết con trai cô, rồi đến lượt ông Seiji, anh Takeshi, Kiyotaka, xung quanh cô chỉ toàn đàn ông là đàn ông. Vậy nên, cô rất vui khi có thể gần gũi với Aoi như thế này.”
Cô Yoshie nở một nụ cười rạng rỡ, quả nhiên là hết sức xinh đẹp. “Tr-Trông cô Yoshie đúng là trẻ thật đấy ạ. Nhìn không giống một người đã có con học cấp ba tẹo nào.”
Nghe tôi thật thà nói, cô liền cười vui vẻ. “Ông Seiji thích những thứ đẹp đẽ, nên cô luôn phấn đấu cháu ạ. Nhưng không phải vì ông ấy, mà là vì chính bản thân cô.”
Những lời ấy len lỏi sâu vào trái tim tôi.
Có thể phấn đấu vì người mình yêu như vậy là một điều thật tuyệt vời. ẳ
Nhưng tôi nghĩ dám khẳng định rằng mình làm vậy vì chính bản thân cũng cực kì đáng ngưỡng mộ.
Lúc cuối, cô ấy bổ sung thêm một câu, “Tiện nói luôn, cô là kiểu người yêu cả ông Seiji lẫn chính bản thân mình.” Đáp lại, tôi thì thầm trong lòng rằng, “Cháu cũng có cảm giác đấy,” chứ không thốt lên thành tiếng.
Khi tôi vừa sửa soạn xong và bước ra ngoài thì khách khứa cũng đã bắt đầu kéo đến, khiến đại sảnh trở nên ồn ã và náo nhiệt hơn hẳn.
L
7
ọt vào mắt tôi đầu tiên là hai gương mặt quen thuộc của bác Ueda và bà Mieko, thêm cả anh Akihito nữa.
“Vở kịch của bọn anh đã có buổi công diễn cuối cùng vào tuần trước, nên anh định ngày kia sẽ về Tokyo. May mà trước đó vẫn kịp đến dự tiệc của ông chủ.”
Anh Akihito mặc một bộ com lê dự tiệc trông khá bóng bẩy, tuy vẫn có cái vẻ lông bông như mọi khi, nhưng riêng về mặt ngoại hình thì vẫn có thể gọi là trai đẹp.
May quá, anh ấy cũng có mặt.
Vậy là có thể khiến Kaori mãn nguyện phần nào rồi.
Tôi vừa thở phào nhẹ nhõm, vừa nhìn lại những vị khách xung quanh. Đứng cạnh anh Akihito là một người đàn ông trung niên mặc com lê. Ông ta đeo một cặp kính râm nhạt màu, dưới cằm là một bộ râu được chăm sóc cẩn thận. Bầu không khí mà ông ta toả ra cảm giác như của người trong ngành giải trí.
“Ô, là nhà sản xuất Shimizu!” Cô Yoshie reo lên.
“Đúng là người trong ngành giải trí thật!” Tôi nghĩ và ngẩng mặt lên nhìn.
“Ông ấy hình như là nhà sản xuất chương trình ‘Truy tìm gia bảo’ phải không cô?”
“Phải. Ngày xưa ông ấy có giúp đỡ ông Seiji, cứ tưởng sau đó đã cắt đứt quan hệ rồi, vậy mà...”
Cô ấy có vẻ bất ngờ khi thốt ra câu đó.
Hẳn là nhà sản xuất ấy đã ngừng mọi liên lạc với ông chủ kể từ sau vụ lùm xùm hai năm về trước.
Đứng cạnh ông ta là một bộ đôi trông quen quen.
“Ồ, hai người họ không phải là cặp diễn viên hài ‘Masamune’ sao?” Nghe cô Yoshie thì thào, tôi mới giật mình nhận ra.
“Phải rồi, là ‘Masamune’ đấy ạ.”
Nói là diễn viên hài, nhưng chính xác hơn thì hai người họ là những người trình diễn, chuyên thực hiện những môn nghệ thuật sân khấu như kịch câm để thu hút sự chú ý của khán giả. Bộ đôi nọ thậm chí đã được ra nước ngoài công diễn. Tên của hai người lần lượt là Masataka và Muneyoshi, ghép lại thành “Masamune”.
“Ông chủ cũng thân với cả ‘Masamune’ hả cô?”
“Cô cũng không biết... nhưng có lẽ hôm nay là lần đầu ông ấy gặp bọn họ. Chắc là nhà sản xuất Shimizu dẫn họ tới. Cô cũng qua đó chào hỏi đây.”
Nói rồi, cô Yoshie chạy đến chỗ ông chủ, người đang vui vẻ trò chuyện với khách.
Tôi có thể thấy anh Akihito đang hau háu nhìn theo cô Yoshie xinh đẹp một cách rất lộ liễu.
Xem ra cô Yoshie là mẫu người anh ấy thích. Nếu biết được cô ấy đã ngoài bốn mươi, không những thế còn là người yêu ông chủ, nhất định anh ấy sẽ sốc lắm. Khi tôi đang khúc khích cười, bên cạnh tôi bỗng vang lên giọng nói của anh Holmes.
“Có chuyện gì thú vị à?”
“Dạ, không chỉ là anh Akihito...”
Vừa quay đầu lại, tôi thấy tim mình nảy tưng lên khi trông thấy anh Holmes trong bộ com lê sang trọng.
Mái tóc đen óng ả cùng gương mặt tuấn tú, nước da trắng sáng hẳn lên trong bộ lễ phục màu đen bóng bẩy. Thêm vào đó là cử chỉ thanh tao và nụ cười hoà nhã.
Một công tử nhà quý tộc thời Minh Trị - Đại Chính có lẽ trông sẽ như thế này đây.
Làm sao bây giờ, anh Holmes trông tuyệt quá đi mất!
Tôi bỗng thấy hơi uất ức vì đã bị anh ấy làm cho hồi hộp. “Bất ngờ ghê, kiểu tóc đó là cô Yoshie làm cho em à?”
Anh Holmes tròn mắt nhìn tôi, có vẻ ngạc nhiên thật sự.
“Dạ, vâng. Cô ấy không chỉ cho em mượn váy mà còn làm tóc cho em nữa. Tr-Trông có kì không ạ?”
Tôi rụt rè ngẩng mặt lên, lòng hơi lo lắng.
“... Đẹp lắm. Hạp với em ghê ta.”
Câu nói ấy như xuyên thẳng vào tim tôi vậy.
Ch-Chuyển sang dùng phương ngữ Kyoto đúng lúc này thật không công bằng mà.
Trong lúc chúng tôi nói chuyện, khách khứa đã lại lũ lượt kéo đến, buộc anh Holmes phải chạy đi tiếp đón ngay lập tức.
Tôi chỉ nhận ra ông Yanagihara – đồng nghiệp giám định của ông chủ – và cô Hanamura – giáo viên dạy cắm hoa mà hồi trước tôi đã gặp ở khách sạn Kyoto Hotel Okura.
Ngoài ra thì mấy người anh chị em họ của ông chủ cũng đến rất đông. (Đây chắc là những đối thủ cạnh tranh với ông chủ ngày xưa nhỉ?) “Aoi!”
Nhận ra giọng nói quen thuộc, tôi ngoảnh lại và trông thấy Kaori cùng bố mẹ cậu ấy. Nhà làm nghề buôn bán sản phẩm dệt may truyền thống có khác, mọi người đều đang khoác trên mình một bộ kimono. “A, Kaori.”
“Hoá ra cả nhà tui đều được mời á bồ. Mặc dù chị hai tui có một buổi phỏng vấn trên ti vi nên hổng có tới được.”
“Ừ, nghe bảo ông chủ sẽ mặc một bộ kimono do tiệm dệt truyền thống Miyashita chuẩn bị là tớ cũng ngờ ngợ rồi. Kaori mặc kimono đẹp thế.” Một bộ kimono dự tiệc màu đỏ trầm được tô điểm bằng hoạ tiết lá thu. Cậu ấy diện nó rất chuẩn, không hổ là con gái của một nhà máy truyền thống.
“Cám ơn nha. Aoi cũng xinh dữ lắm. Nè, tui bị ngạc nhiên phết á, nhưng mà anh chàng bô trai đằng kia là diễn viên phải hôn? Cả bộ đôi ‘Masamune’ cũng tới nữa kìa!”
Kaori hào hứng tóm lấy tay tôi, mắt nhìn về phía anh Akihito. “Đúng là kiểu khoái người nổi tiếng.” Tôi thầm nghĩ, miệng cười tủm tỉm. Đúng lúc đó, quản lý xuất hiện, lặng lẽ dừng chân trước một cánh cửa lớn treo tấm biển đề “Phòng triển lãm”, rồi cúi chào tất cả mọi người.
“... Xin được chào mừng tất cả các vị khách quý đến tham dự buổi tiệc sinh nhật của bố tôi ngày hôm nay.”
Quản lí nói, rồi cúi đầu chào thêm lần nữa. Giọng bác ấy cao hơn một tẹo so với mọi khi, chắc là đang căng thẳng. Mọi người lập tức ngừng trò chuyện và quay về phía bác.
“C-Căn nhà này vốn được xem như một bảo tàng mỹ thuật tư nhân, thuộc sở hữu của Yagashira Kuranosuke, một thương nhân với năng khiếu thẩm định, đồng thời cũng là sư phụ của bố tôi. Tiếp nối truyền thống ấy, chúng tôi có trưng bày bộ sưu tập những tác phẩm nghệ thuật, cũng là niềm tự hào của gia đình Yagashira, trong phòng triển lãm này. Kính... kính mời các vị khách quý vào trong thưởng lãm trước khi bữa tiệc bắt đầu.”
Quản lí giới thiệu một cách ngượng nghịu, rồi mở toang hai cánh cửa lớn có ghi dòng chữ “Phòng triển lãm”.
“Oa!” Những vị khách đều sáng mắt lên và tiến vào phòng trưng bày. “Là bộ sưu tập của ông chủ đó. Mau đi thui Aoi.”
Nhìn biểu cảm háo hức của Kaori, tôi gật đầu đáp “ừ” rồi cùng cậu ấy tiến vào phòng triển lãm.
Bước vào đó một bước, tôi choáng ngợp đến nỗi không thốt nên lời. Bên trong quả thật không khác gì một viện bảo tàng thu nhỏ. Không gian tiếp khách tái hiện lại kiến trúc thời kì Phục hưng, được
trang hoàng bởi hàng loạt những tác phẩm nghệ thuật. Trên tường treo đầy những bức vẽ và tranh cuộn. Bên trên những chiếc bàn tròn được đặt cách nhau một khoảng cố định bày nào chum, nào lọ hoa, nào bình tưới, rồi cả những chiếc đĩa lớn.
“Chao ôi, món nào cũng đẹp tuyệt vời.”
“Đúng là ông Seiji có khác.”
Những vị khách say mê ngắm nghía.
“Xin mọi người chú ý đừng chạm vào những món đồ trưng bày ạ.” Quản lí nhắc nhở với vẻ lo lắng.
Trong lúc đó, anh Holmes đang đứng trước một chiếc bình được bày trên bàn ở cuối phòng để giới thiệu nó cho khách khứa. Đó là một chiếc bình màu xanh cẩm thạch với lớp men nhẵn mịn.
“Chiếc bình này là bình gốm men ngọc đến từ Trung Quốc, một trong những món đồ cổ được ông nội tôi trân quý hơn cả. Gốm men ngọc Trung Hoa là dòng sản phẩm nung được phong cho danh hiệu tuyệt phẩm. Với vẻ đẹp đơn giản mà trang nhã, tràn ngập sự tinh tế, chúng tượng trưng cho thẩm mĩ của dân tộc Trung Hoa. Tính riêng những sản phẩm gốm men ngọc đã được công nhận thì trên toàn thế giới chỉ còn vài chục món tương tự như chiếc bình này. Nó vốn là do sư phụ của ông nội tôi, ngài Kuranosuke, tìm ra và mang về từ đại lục.
Chiếc bình này là hàng cực phẩm hết sức có giá trị, nên nhân dịp này mong mọi người hãy thoả sức thưởng lãm.”
Anh Holmes cười rất tươi và nói.
“Món đồ như vậy mà lại thuộc sở hữu của một gia đình thường dân(?), ai có thể tin được chứ!” Tôi vừa kinh ngạc vừa cảm thán trong lòng. Sau khi giới thiệu xong một loạt những món đồ trong bộ sưu tập, anh Holmes nói nhỏ với bác quản lí, “Bố, con đi kiểm tra phòng tiệc nhé,” rồi rời phòng triển lãm.
Việc công khai bộ sưu tập này hẳn là để câu giờ cho đến khi chuẩn bị xong hết đồ ăn đây.
Tôi đang nhìn theo bóng anh Holmes rời khỏi phòng triển lãm thì thấy anh Akihito tiến tới với nụ cười rạng rỡ.
“Chào Aoi, hôm nay trông em tuyệt lắm, rất ra dáng người lớn.” “Cảm ơn anh Akihito.”
Đứng cạnh anh Akihito là bộ đôi diễn viên kịch câm “Masamune.” “Tía má ơi, cả một đoàn toàn văn nghệ sĩ.”
Kaori thì thào, hai mắt long lanh xem chừng hạnh phúc lắm. “Anh Akihito, đây là bạn em, Miyashita Kaori. Gia đình cậu ấy kinh doanh tiệm dệt truyền thống Miyashita đấy ạ.”
Tôi liền tranh thủ giới thiệu Kaori.
“Ồ, ra vậy. Thảo nào cô bé mặc bộ kimono xinh thế. Có thể quen biết một nữ sinh trung học diện kimono đẹp xuất sắc như em, thật vinh hạnh quá.”
Anh Akihito đón lấy tay Kaori và khoe ra một nụ cười điển trai. “D-Dạ, em hổng dám...”
Kaori ngượng chín mặt, vội vàng cúi xuống.
Anh Akihito vẫn lãng tử như mọi khi, nhưng Kaori có vẻ vui, nên thôi kệ vậy.
Đúng lúc đó, quản lí bước thật nhanh tới chỗ tôi.
“A, Aoi. Xin lỗi cháu, bác có chuyện phải ra ngoài một lát. Khi nào nghe thấy tiếng gọi từ phòng tiệc, cháu nhất định phải khoá cửa phòng này thật cẩn thận giùm bác rồi mới ra đó có được không?” Nói rồi, bác ấy đưa cho tôi một chiếc chìa khoá kiểu cổ điển.
“... À, dạ vâng, cháu biết rồi ạ.”
Ngay khi tôi đón lấy chiếc chìa khoá, bác quản lí liền vội vàng bước ra khỏi phòng triển lãm.
Rốt cuộc là có chuyện gì thế nhỉ?
Nhìn mặt bác ấy xanh xao như vậy, có thể là do căng thẳng quá mà lên cơn đau bụng, giống như hồi trước bác có lần kể tôi nghe. Nhưng giao cho tôi khoá của căn phòng này thì cảm giác trách nhiệm nặng nề quá... Bởi bên trong còn có hàng loạt các tác phẩm nghệ thuật giá trị mà?
Lúc tôi cầm chiếc chìa khoá trong tay, lòng nóng như lửa đốt thì một thành viên của Masamune là Masataka bỗng ngước lên trần nhà và kêu, “Oa...! Giờ mới nhận ra, bộ đèn chùm hoành tráng thế!”
Nghe vậy, chúng tôi cũng ngẩng mặt lên nhìn bộ đèn chùm. Kiểu dáng của nó tựa như loại đèn chùm thường được treo giữa phòng tiệc trong cung điện, với nhiều giọt pha lê nối liền nhau, phát ra ánh sáng lấp lánh.
“Công nhận. Đúng phong cách thời kì Phục hưng ha.”
“Ừ, bộ đèn chùm này chắc cũng đắt tiền lắm.”
“Ngưỡng mộ thật đấy.”
Mọi người đang mải nhìn lên trần nhà và trầm trồ tán thưởng thì từ phía bên kia cánh cửa, giọng quản lí bỗng vọng tới.
“Phòng tiệc đã được chuẩn bị xong xuôi, mời mọi người di chuyển ạ.” “Cuối cùng bữa tiệc cũng bắt đầu rồi. Háo hức quá.”
Dàn khách khứa vừa tươi cười vừa lũ lượt ra khỏi phòng. Tôi cũng đi theo những vị khách, rồi dừng chân trước cửa.
Sau khi Kaori, anh Akihito và nhóm hai người Masamune đã rời khỏi phòng triển lãm, bên trong không còn một ai, tôi nghiêm chỉnh khoá cửa lại. Tôi xoay nắm đấm cửa để kiểm tra xem cửa đã được khoá chắc chắn hay chưa, gật đầu, sau đó đi đến phòng tiệc.
Khi ấy tôi chẳng mảy may nghĩ tới việc... một vụ án động trời sẽ xảy ra sau đó.
K
8
hi tôi bước chân vào phòng tiệc, đồ ăn đã được bày ra theo phong cách tiệc đứng.
Dễ dàng bắt gặp bóng dáng mấy nhân viên phục vụ khoác trên mình bộ đồng phục trắng. Chiếc bàn dài trải khăn trắng tinh, bên trên bày một loạt những món ăn Trung - Nhật - Tây, cứ như một bữa tiệc tự chọn trong khách sạn vậy.
“Oa, trông có vẻ ngon.”
“Hôm nay phải chén no căng bụng mới được. Holmes, bọn này ăn được chưa?”
Mắt chúng tôi sáng rực lên. Anh Holmes liền nhoẻn miệng cười. “Ngay sau đây ông nội tôi sẽ có một bài phát biểu cực kì lê thê, sau đó còn nâng cốc chúc mừng nữa. Khi nào tất cả xong xuôi thì mọi người có thể ăn thoải mái.”
“Cực kì lê thê” á...? Chúng tôi vô tình đưa mắt nhìn nhau. “Mà hoá ra tiệc được phục vụ theo hình thức tự chọn như thế này. Nghe anh bảo đã đặt đồ ăn từ một nhà hàng truyền thống quen thân với gia đình, em còn tưởng sẽ có cách phục vụ khác hẳn cơ.” Tôi vừa nói vừa đưa mắt nhìn quanh sảnh.
“Ừ,” anh Holmes gật đầu, “anh nghĩ phong cách này là phù hợp nhất với một buổi tiệc rồi. Cơ mà bất ngờ thật đấy.”
“Dạ?”
“Lúc vừa sửa soạn xong, anh đang định qua phòng triển lãm mời các vị khách di chuyển sang đây thì mọi người đã kéo đến rồi.” “Hơ, nhưng em có nghe thấy bác quản lí báo đã chuẩn bị xong rồi mà.” “Vậy hả? Bố anh ư...?”
Gương mặt anh Holmes để lộ vẻ nghi hoặc. Đúng lúc đó, ông chủ ra đứng ở chính giữa sảnh rồi hắng giọng. Những vị khách ngưng nói chuyện và tập trung nhìn ông chủ.
“Chân thành cám ơn mọi người đã tới dự tiệc hỉ thọ của tui ngày hôm nay.”
Ông chủ nói và bắt đầu bài diễn văn khai mạc buổi tiệc.
Đúng như anh Holmes cảnh báo, diễn văn của ông chủ... quả thật rất dài.
Nào là bản thân ông đã phải vất vả thế nào để có thể leo lên vị trí người thừa kế gia tộc Yagashira.
Rồi thì ông yêu những tác phẩm nghệ thuật đến nhường nào. Đến cả niềm xúc động của ông trong lần đầu tiên chiêm ngưỡng chén trà Shino[10] cũng được thuật lại hết sức tường tận…
“Giờ đây tui đã sang tuổi bảy mươi bảy. Từ tận đáy lòng, tui hết sức biết ơn bạn bè cùng gia đình đã nâng đỡ và dìu dắt, giúp tui có được ngày hôm nay. Thực lòng cám ơn tất cả mọi người. Nâng cốc!”
Cuối cùng cũng được mời nâng cốc, mọi người vừa thở phào nhẹ nhõm, vừa giơ cao ly và hô lớn, “Nâng cốc!”
“... Chà, tiên sinh quả nhiên vẫn khoẻ mạnh như cũ. Thực ra tôi vẫn mong ông xuất hiện trở lại trên sóng truyền hình.”
Giọng của nhà sản xuất nọ lọt vào tai tôi.
“Ông Shimizu, tui biết tui đã được ông đỡ đần nhiều, cũng đã gây cho ông hổng ít rắc rối, nhưng tui sẽ hổng lên ti vi nữa đâu.”
Ông chủ đáp với vẻ khó chịu.
“Tiên sinh đừng nói thế. Chẳng là đang có đề xuất cho phiên bản làm lại của chương trình ‘Truy tìm gia bảo’...”
“Bữa nay đang vui. Tui hổng muốn phải nổi đoá. Làm phước đừng nhắc chuyện công việc ở đây.”
Tôi dõi theo cuộc nói chuyện của hai người từ đằng xa, đầu nghĩ thầm, “Ra thế.”
Biết ngay là người của đài truyền hình đến đây chẳng phải với động cơ trong sáng gì. Thế giới của những người làm ăn khắc nghiệt thật đấy. “Ê, hai cậu Masamune. Có thể dạy cho tôi diễn kịch câm không?”
Cùng lúc, giọng nói vô tư của anh Akihito từ góc phòng cũng vọng đến tai tôi, khiến lòng tôi phần nào dịu lại.
Như thường lệ, anh Akihito luôn là một nhân vật ngố tàu có năng lực giải toả muộn phiền cho người khác.
“Được chứ. Đầu tiên là động tác cơ bản nhất, bức tường vô hình.” Anh Masataka – một người trong bộ đôi Masamune – đặt tay ở giữa không trung, tạo cảm giác như có một bức tường ở đó.
“Xuỳ, cỡ đó tôi cũng làm tốt.”
Anh Akihito lập tức bắt chước, nhưng chẳng giống tường gì cả. Vậy mà Kaori vẫn trầm trồ, “Anh Akihito cũng tài thiệt!” Tôi nghĩ chắc là bộ lọc trai đẹp trong não Kaori đang hoạt động, khiến cậu ấy cho điểm dễ dãi hơn.
“Kế đến là động tác khiến vật nhẹ trông như nặng hơn trọng lượng thật của nó.”
Lần này đến lượt anh Muneyoshi lôi ra một quả bóng bay từ túi áo trong và nhanh chóng thổi phồng nó. Sau đó, anh ấy tâng nó lên, chuyển cho anh Masataka. Khoảnh khắc đón bóng, vai anh Masataka trĩu xuống như thể vừa hứng trọn một quả bóng bowling.
Cánh tay run run cùng gương mặt nhăn nhó khiến người ta thật sự có cảm giác như là anh ấy đang giữ một vật cực nặng vậy.
Không hổ danh người trình diễn chuyên nghiệp được cả thế giới công nhận, đáng nể ghê.
“A, anh Akihito, đón lấy!”
Anh Masataka tung hết sức để chuyền quả bóng bay về phía anh Akihito.
“O-Oái!” Anh Akihito ngã phịch xuống đất.
Diễn xuất của hai người họ quá đỗi sống động, khiến anh Akihito phản ứng lại như thể họ thật sự ném một quả bóng bowling về phía mình. Một phản ứng mà theo cách nào đó có thể nói là không nằm ngoài dự đoán, khiến chúng tôi phá lên cười. Đúng lúc đó...
“Choang!” Có tiếng đổ vỡ vọng lại từ đằng xa.
“Này, vừa rồi hình như có tiếng gì vỡ bên ngoài thì phải?”
“Đúng đúng, là từ trong phòng triển lãm” Tiếng thứ gì đó vỡ phát ra từ phòng triển lãm...
Nghĩa là một tác phẩm mĩ thuật trong đó vừa bị vỡ ư? Bầu không khí đông cứng lại trong nháy mắt.
Thế nhưng, có vẻ ngoài những người đang đứng gần cửa là chúng tôi ra, không ai nghe thấy âm thanh đó cả. Những vị khách còn lại vẫn đang vui vẻ chuyện trò.
“À, Aoi vẫn còn cầm chìa khoá nhỉ? Hay mình đi kiểm tra xem thế nào?”
Anh Akihito khẽ thì thào với tôi. Tôi gật đầu, rồi lặng lẽ chui ra khỏi phòng tiệc.
Thế là tổng cộng năm người – tôi, anh Akihito, Kaori và bộ đôi “Masamune” – kéo sang phòng triển lãm.
“Em, em mở cửa nhé.”
“Ư, ừ.”
Hi vọng chỉ là chúng tôi tưởng tượng ra. Tôi vừa cầu trời khấn phật, vừa thấy thấp thỏm trong lòng bởi một dự cảm chẳng lành, tay vặn chìa khoá và từ từ mở cửa ra.
Sau khi nhìn quanh phòng, thấy không có gì bất thường, tôi đang chuẩn bị thở phào nhẹ nhõm thì...
“A-Aoi, đằng kia!.”
Tôi nhìn theo hướng Kaori chỉ và chết điếng.
Bảo vật quý giá trên-thế-giới-chỉ-còn-vài-chục món-tương-tự của ông chủ.
Chiếc bình men ngọc Trung Quốc... đã vỡ vụn trên mặt bàn. “...!”
Chúng tôi bàng hoàng không nói nên lời.
Cửa sổ đóng cẩn thận. Phòng cũng đã khoá. Trong phòng không có ai. Thế mà bảo vật của ông chủ... không, một tác phẩm nghệ thuật tầm cỡ thế giới, lại đột nhiên bị vỡ tan tành.
... Không thể tin được.
“A-Aoi, có chắc lúc ra khỏi đây em đã khoá cửa cẩn thận không?”
Anh Akihito xanh mặt hỏi khiến tôi càng thêm cuống.
“R-Rồi ạ. Em thề, em đã khoá rất kĩ.”
Biết mình được giao cho trách nhiệm lớn nên tôi đã kiểm tra lại đàng hoàng. Riêng khoản này thì tôi chắc chắn.
“Nh-Nhưng... thế thì sao... nó có thể tự bể chứ?”
Kaori lập bập, mắt trợn ngược, vẻ như không thể tin vào chuyện vừa xảy ra.
“Đã thế lại còn vỡ đúng món giá trị nhất là chiếc bình men ngọc của Trung Quốc nữa chứ.”
“Phải đấy, chỉ một mình nó bị vỡ, như thể bị súng bắn vậy.” “Ừ.” Bộ đôi “Masamune” đồng tình. “Đây có lẽ là hành động phá hoại có chủ đích.”
Đúng lúc đó, nhà sản xuất Shimizu lên tiếng, chẳng hiểu đã đứng sau lưng chúng tôi tự khi nào.
Tôi giật mình ngoảnh lại nhìn ông ấy.
“Có chủ đích... ý ngài là ai đó đã cố tình gây ra chuyện này ạ?” “Không, sao có thể chứ.”
Chúng tôi đang xôn xao thì cô Yoshie bỗng xuất hiện.
“Aoi, có vấn đề gì thế?”
“Cô, cô Yoshie... nó...” Tôi chỉ sang chiếc bình men ngọc bị vỡ. “...!” Cô Yoshie mở to mắt, đưa tay lên che miệng.
“L-Là ai làm vỡ thế? Thế này là lớn chuyện rồi!”
Cô Yoshie tái mét mặt và đưa mắt nhìn xung quanh.
“Kh-Không ai cả ạ. Chúng cháu đang ở trong phòng tiệc thì nghe thấy tiếng vỡ. Cửa cũng đã được khoá cẩn thận rồi mà.”
“Thế, thế còn cửa sổ? Mọi người, mau xem lại khoá cửa sổ đi!” Cô Yoshie vừa run lẩy bẩy vừa la lên, có vẻ hơi kích động. “V-Vâng.”
Chúng tôi chia nhau ra kiểm tra cửa sổ một lần nữa.
“Mọi cửa sổ đều đã khoá chặt, cũng không có dấu hiệu vỡ ạ.” “Chưa kể đây tuy là tầng một, nhưng vẫn khá cao so với mặt đất. Muốn lẻn vào mà không dùng đến thang chẳng phải hơi bất khả thi sao?” Bộ đôi
Masamune lên tiếng.
Cô Yoshie nghe vậy liền áp tay lên trán. “L-Làm thế nào bây giờ!” “Tr-Trước mắt cháu sẽ đi gọi ông chủ ạ!”
Tôi vừa quay lưng định ra khỏi phòng thì tay tôi liền bị cô Yoshie vội vàng túm lấy.
“Kh-Không được, Aoi! Đây thực sự là chuyện lớn đấy!”
Thế là, ông Shimizu bỗng cười rúc rích.
“Có khi đó chính là mục đích của thủ phạm cũng nên.”
“Hả?”
“Khi Yagashira tiên sinh mời mọi người đến đây, nhất định sẽ khoe chiếc bình men ngọc này. Biết đâu trong buổi tiệc ngày hôm nay có kẻ căm thù ông ấy, nên đã lập kế hoạch đập vỡ chiếc bình men ngọc mà ông ấy trân trọng nhất: Đây có thể xem như một vụ án mạng trong phòng kín... không phải gọi là phá hoại cổ vật trong phòng kín.”
Ông Shimizu nói nửa đùa nửa thật, trên gương mặt hiện lên một nụ cười méo mó.
Vụ phá hoại cổ vật trong phòng kín... Nhìn chiếc bình men ngọc tan tành trước mặt, chúng tôi đứng thần ra như những pho tượng.
K
9
ẻ nào đó vì có thù với ông chủ, nên đã đập vỡ món bảo vật số một của ông là chiếc bình men ngọc Trung Quốc...
Thật là một chuyện khó tin.
Nhưng thực tế là chuyện khó tin ấy đã xảy ra.
Chiếc bình men ngọc đột nhiên vỡ thành tiếng trong một căn phòng kín hoàn toàn.
Thủ phạm rốt cuộc là ai? Và kẻ đó đã thực hiện chuyện này như thế nào?
Suy nghĩ về cả hai vấn đề cùng một lúc khiến tôi bắt đầu rối trí. ... Trước tiên, thử nghĩ xem ai là thủ phạm đã.
Người có khả năng thù oán ông chủ.
Nhà sản xuất Shimizu, người vừa phải hứng chịu những lời lẽ gay gắt từ ông chủ.
Hoặc Yanagihara tiên sinh, đồng nghiệp trong nghề giám định với ông chủ, có thể cũng ghét ông ấy.
Cô Hanamura dạy cắm hoa và bộ đôi Masamune... chắc không có thù hằn gì với ông chủ đâu nhỉ?
Còn anh Akihito... Tôi liếc sang nhìn thì thấy anh ấy đang run bần bật, mặt xanh lét.
“Anh Akihito sao thế ạ?”
“A-Aoi, làm sao bây giờ, có khi chính anh là người đã làm vỡ nó cũng nên.”
Anh Akihito lí nhí thì thào như vậy.
“D-Dạ? Sao lại thế ạ?”
“Tiếng bình vỡ vang lên ngay sau khi anh ngã dập mông đúng không? Có thể là do chấn động từ cú ngã ấy.”
“...”
Tôi cứng họng trước vẻ sợ sệt, mắt ngân ngấn nước của anh ấy. Tôi và Kaori cùng nhìn nhau.
Xem ra ngố tàu nếu quá đà cũng có thể khiến người ta gai mắt. “Cú ngã như thế không đủ sức làm vỡ một chiếc bình đâu anh.” Tôi ngán ngẩm đáp. Gương mặt anh Akihito liền tươi tỉnh trở lại, như vừa được cứu khỏi một bàn thua trông thấy. “Th-Thế à?
Ừm, chắc chắn không phải anh Akihito rồi.
Anh Akihito vốn chỉ ngưỡng mộ ông chủ, chứ không thù địch gì ông ấy.
Nhắc đến thù địch thì những người anh em họ xưa kia được cho là đối thủ của ông chủ cũng có khả năng.
Tôi đang chau mày băn khoăn thì nét mặt đầy đau khổ của cô Yoshie bỗng hiện lên nơi khoé mắt.
Khoảnh khắc ấy, trong đầu tôi chợt vang vọng câu nói lúc trước của cô ấy: “Tình yêu của ông Seiji dành cho đồ cổ thật sự không bình thường. Ông ấy mê mẩn đồ cổ đến mức có lần cô còn muốn đập vỡ chúng luôn.”
Có lẽ nào... Nếu không phải hận ông chủ, mà hận những món đồ cổ được ông chủ trân trọng hơn bất cứ thứ gì, thì cô Yoshie cũng có thể là thủ phạm.
Không được, nếu nghi ngờ cô Yoshie thì phải nghi ngờ cả quản lí nữa. Quản lí có nhiều cảm xúc phức tạp như vậy, biết đâu lại đem lòng căm ghét bảo vật của ông chủ (mà nghĩ lại thì biểu hiện của bác ấy cũng có chút kì lạ).
Nhưng, không thể nào là cô Yoshie hay quản lí đâu nhỉ?
Dù bất mãn cỡ nào thì tôi cũng không thể hình dung ra cảnh họ đập vỡ một món đồ cổ có giá trị tầm cỡ thế giới được.
Cơ mà, nếu giả sử cô Yoshie với quản lí là thủ phạm, thì việc họ nắm trong tay chìa khoá dự phòng cũng không có gì lạ... Trời ơi, rối quá đi mất! Bao suy nghĩ cứ quay mòng mòng trong đầu tôi không thấy điểm dừng, mà tôi cũng không thích việc bản thân đi nghi ngờ những người gần gũi với mình như thế này chút nào cả!
Đúng lúc đó…
“Có vấn đề gì thế?”
Giọng anh Holmes vang lên trong phòng triển lãm.
“Anh Holmes!”
Tâm trạng tôi như thể vừa được cứu vớt ngay lúc nhìn thấy bóng hình anh.
Sau lưng anh Holmes là ông chủ, đang mặc bộ kimono mới thay. Mọi người lập tức đông cứng lại.
“Chi mà mặt mấy người ai cũng như đưa đám hết dợ?”
Hai ông cháu vừa định bước vào phòng triển lãm thì cô Yoshie bỗng oà khóc, rồi bấu lấy ông chủ.
“Anh Seiji, em xin lỗi! Chiếc bình men ngọc bị vỡ mất rồi! Tất cả là lỗi tại em!”
Thấy cô Yoshie khóc lóc thảm thiết, mọi người liền trợn tròn mắt và kêu lên. “Hả?”
Thật, thật sự, là cô Yoshie làm sao?
“Trước giờ em vẫn luôn ghét những món đồ cổ được anh xem trọng! Thậm chí còn mong chúng vỡ đi cho rồi! Nên mới để xảy ra chuyện như thế này, em thật sự xin lỗi!” Cô Yoshie vừa khóc vừa kể lể. “Em đang um lên cái chi dợ?”
Ông chủ nhíu mày tỏ vẻ không hiểu, rồi quay sang nhìn về phía góc trong cùng căn phòng. Ông tròn mắt khi thấy món đồ gốm men ngọc vỡ vụn ở trên bàn.
“Em thật sự xin lỗi.”
“Kh-Không, không phải lỗi của cô Yoshie đâu ạ. Thực ra là lúc nãy, trong phòng tiệc…”
“Không phải, là do cháu ngã dập mông.”
Chúng tôi đồng loạt tiến tới, cố thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Thế nhưng, ông chủ lại cười khẩy.
“Cái đó hổng phải bình gốm men ngọc.”
Nghe ông chủ khẳng định dứt khoát như vậy, mọi người đều khựng lại. “Hả?”
“Hình thức, màu sắc và độ bóng của mấy mảnh sứ đều hổng giống. Cái bình đó là đồ dỏm.”
“D-Dạ?”
“Thế là sao ạ?”
Chúng tôi ngơ ngác. “Ta chịu! Mấy đứa kiếm Kiyotaka mà hỏi!” Ông chủ ưỡn ngực và nhìn sang anh Holmes.
“... Đùn đẩy trách nhiệm mà có thể hiên ngang đến mức này thì cũng thật đáng nể.”
Anh Holmes thở dài và nhún vai, sau đó tiến tới gần chiếc bàn. Giữa không gian yên lặng tuyệt đối, ai cũng có thể nghe thấy tiếng bước chân của anh Holmes vang vọng khắp căn phòng.
Bầu không khí cũng như dây đàn khiến mọi người đồng loạt nín thở. “Nếu dựa theo lời khai ban nãy của mọi người để suy luận thì ta có thể đoán được rằng vụ lùm xùm này không phải do ‘kẻ nào đó đột nhập vào phòng kín’, mà là ‘kẻ nào đó đã đánh tráo chiếc bình thật với món đồ giả bị vỡ trong lúc căn phòng này đang mở’.”
Nghe thế, chúng tôi nhíu mày nhìn nhau.
“Kh-Không thể nào. Trong lúc chúng ta đang có mặt tại đây, sao có thể làm được điều đó chứ.”
“Phải, phải đấy.”
“Có lẽ thủ phạm đã cố tình đánh lạc hướng ánh nhìn của mọi người khỏi chiếc bình men ngọc, rồi thực hiện việc đánh tráo. Còn bình thật, tôi đoán là nằm ở đây.”
Nói rồi anh Holmes nhẹ nhàng vén tấm khăn trải bàn màu trắng lên. Ngay dưới chân bàn là chiếc bình men ngọc vẫn còn nguyên vẹn. “L-Là bình men ngọc! Nó chưa bị vỡ!”
“Tôi khá chắc thủ phạm đã dụ các vị khách nhìn lên bộ đèn chùm trên trần nhà hoặc bức tranh treo trên tường ở phía đối diện, rồi tranh thủ thời cơ đánh tráo chiếc bình.
Sau đó, kẻ ấy lập tức ra ngoài, giả giọng bố tôi để gọi mọi người sang phòng tiệc. Tôi đoán là khi ra khỏi phòng triển lãm này, thủ phạm đã tự mình đứng chắn để không ai nhìn thấy chiếc bình men ngọc bị vỡ? Còn
ẳ
tiếng vỡ chắc là âm thanh đã được thu sẵn. Hẳn là thủ phạm đã căn đúng thời điểm để bật nó lên.”
Nghe anh Holmes giải thích, chúng tôi đều lộ vẻ bối rối.
Đúng là cách ấy khả thi thật, nhưng ai có thể thực hiện điều đó chứ... “Thủ phạm phải là người có khả năng thao túng ánh nhìn và hành động của đám đông một cách khéo léo. Người đủ sức thực hiện điều đó, tôi nghĩ không còn ai khác ngoài cặp diễn viên nổi tiếng thế giới, ‘Masamune’.” Anh Holmes mỉm cười. Mọi người trợn tròn mắt, rồi nhìn sang bộ đôi “Masamune”.
Họ đang nhìn lại anh Holmes với gương mặt không cảm xúc. Nhắc mới nhớ...
Lúc đó, anh Masataka trong nhóm Masamune đã kêu lên rằng, “Bộ đèn chùm hoành tráng thế!” và hướng ánh nhìn của chúng tôi về phía trần nhà. Trong khoảng thời gian ấy, anh Muneyoshi đã thực hiện hành vi đánh tráo, rồi cứ thế đi ra khỏi phòng và giả giọng quản lí, yêu cầu mọi người di chuyển sang phòng tiệc.
Sau đó, anh Muneyoshi nhanh chóng quay trở lại đứng cạnh anh Masataka, tỏ vẻ như từ đầu đến giờ mình vẫn luôn ở cùng anh ấy. Lúc chúng tôi rời khỏi phòng triển lãm, hai người họ đã làm thành bức tường để không ai nhìn thấy chiếc bình men ngọc bị vỡ cả. ... Tôi không nhớ chính xác, nhưng hình như họ là những người cuối cùng ra khỏi phòng.
Trước suy luận của anh Holmes, nhóm “Masamune” không phản biện, cũng không tìm cách thanh minh. Ông Shimizu tròn mắt ngạc nhiên. “Ủa, đúng là hai cậu hả? Tại sao lại bày trò đùa ác thế?”
Ông Shimizu nghiêng người về phía trước. Khoé miệng hai người kia nhếch lên khiến gương mặt trở nên méo xẹo.
“… Có khi nào hai người họ là chỗ quen biết với ảo thuật gia Don Kageyama không?”
Anh Holmes hỏi. Ông Shimizu lắc đầu.
“Không, tôi khá chắc họ không thuộc cùng công ty quản lí với Kageyama, cũng không có quan hệ thầy trò gì cả.”
Thế rồi, bộ đôi Masamune bỗng chưng ra điệu cười mỉa mai.
“Ông Kageyama... là ân nhân của chúng tôi.”
Ân nhân?
“Phải, chúng tôi từng là những đứa trẻ không nơi nương tựa, lớn lên trong một trại trẻ mồ côi. Ông Kageyama thường đến hoạt động tình nguyện định kì ở trại trẻ của chúng tôi và biểu diễn ảo thuật cho mọi người xem.”
“Ông Kageyama dạy cả ảo thuật cho chúng tôi... rồi chẳng biết từ lúc nào, chúng tôi đã đem lòng ngưỡng mộ, muốn trở thành người như ông ấy. Ông là vị ân nhân đã ban cho chúng tôi giấc mơ và hi vọng.”
Nghe họ kể, những người có mặt trong phòng đều tỏ ra ngạc nhiên, chỉ mình anh Holmes là giữ được vẻ mặt bình thản. Từ biểu hiện ấy của anh, tôi không hình dung nổi anh đang nghĩ gì.
“Vậy nghĩa là hai đứa bây muốn trả đũa lại Yagashira tiên sinh, vì đã giám định bảo vật của ân nhân là đồ giả?”
Ông Shimizu sấn tới hỏi. Anh Holmes khẽ gật đầu.
“Có lẽ vậy. Chương trình không được phát sóng, nhưng vẫn không thể thay đổi sự thật là ông ấy đã bị mất mặt. Nghe nói ông Kageyama đã phải chịu một cú sốc khá nặng.”
Đáp lại lời anh Holmes, bộ đôi Masamune nhếch miệng cười cay đắng. “Buổi thu hình ngày hôm ấy, hai người chúng tôi cũng có mặt tại hàng ghế khán giả. Cả hai không thể nào quên được gương mặt thất thần của ông Kageyama khi ấy; và hơn hết thảy, chúng tôi muốn thử xem Yagashira Seiji có phân biệt được chính xác đâu là ‘đồ thật’ hay không.” “Phải, chúng tôi vẫn luôn băn khoăn, rốt cuộc mắt thẩm định của ông ta tinh tường đến cỡ nào. Nếu Yagashira Seiji trông thấy chiếc bình men ngọc quý giá của mình bị vỡ mà nhảy dựng lên, thì chúng tôi có thể cười nhạo ông ta, nói rằng đây là đồ giả. Có điều, rốt cuộc vẫn chẳng thành công.”
Bộ đôi Masamune tặc lưỡi với vẻ cay cú.
“Rất tiếc phải nói điều này, nhưng hai người đã quá xem thường chúng tôi. Trong mắt chúng tôi, sự khác biệt giữa bình thật và bình giả kia rõ mồn một, không khác gì đổi một chiếc bình từ màu trắng sang màu đen cả.” Anh Holmes ngán ngẩm nói, ánh mắt hết sức lạnh lùng.
“Mày nói gì...!”
Anh Masataka chồm tới tựa như muốn nhảy xổ vào anh Holmes. Mọi người đều ngây ra như hoá đá giữa bầu không khí tưởng chừng là chỉ chạm vào một cái cũng sẽ nổ tung.
Hiếm khi thấy anh Holmes ăn nói gay gắt như vậy.
Ngoài mặt anh ấy có thể điềm tĩnh, nhưng trong lòng hẳn đang rất giận những kẻ đã gây ra chuyện này trong ngày sinh nhật của ông chủ. Ngay lập tức, anh Muneyoshi đưa tay cản anh Masataka lại và nói, “Thôi đi, Masataka... Anh là Yagashira Kiyotaka nhỉ? Nếu ‘giám định viên’ các anh thực sự có con mắt tinh tường như anh nói, thì có thể so tài với tôi một ván không?”
Anh Muneyoshi lôi ra một bộ bài tú lơ khơ từ trong áo khoác và đặt phịch nó lên mặt bàn ở chính giữa phòng.
“... Anh muốn chơi bài?”
“Phải, chúng ta sẽ chơi xì tố[11], anh thấy thế nào?” Mắt anh Muneyoshi ánh lên sự khiêu khích.
“... Được thôi.” Anh Holmes ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh bàn. “Anh Kiyotaka, nếu anh thua, tôi muốn anh phải chống tay xuống sàn và dập đầu xin lỗi vì đã làm ân nhân của chúng tôi mất mặt.” Ông chủ chỉ giám định ra đồ giả là đồ giả thôi, tại sao lại phải xin lỗi chứ?
Tôi nghẹn lời trước một đòi hỏi quá ư là vô lí.
Thế nhưng, anh Holmes vẫn gật đầu, nhếch miệng cười và đáp, “Tôi chấp nhận” khiến tất cả mọi người xôn xao.
“Hừ, ở đấy mà tỏ vẻ ung dung. Trình độ đánh bài của Muneyoshi thuộc đẳng cấp quốc tế đấy.” Anh Masataka nói và đặt tay lên vai anh Muneyoshi.
Anh Muneyoshi gật đầu, trước tiên xoè bộ bài ra thành hình quạt sao cho thấy được mặt bài, rồi ngay lập tức gom chúng lại và bắt đầu tráo. Không hổ danh nghệ sĩ tầm cỡ thế giới. Động tác vô cùng điêu luyện. Một lúc sau, năm lá bài đã được chia ra.
Trông thấy ánh mắt tự tin của anh Muneyoshi khi xem bài, tôi lại một lần nữa cảm thấy căng thẳng.
Anh Holmes chẳng buồn đụng đến những lá bài mà chỉ nhún vai. “Chà, không xong rồi. Tôi chịu thua.”
Mọi người đều ngây ra khi thấy anh Holmes giơ tay xin hàng trong khi bài vẫn úp.
“Holmes, nhìn bài đã rồi hẵng kết luận. Với cả chơi xì tố có thể đổi bài mà.”
“Phải đấy anh Holmes. Không việc gì phải dập đầu xin lỗi đám người như họ.”
Tôi và anh Akihito lên tiếng giục, nhưng anh Holmes chỉ cười yếu ớt. “Trong tay anh Muneyoshi là hai quân Át và ba quân K, làm thành cù lũ[12]. Còn của anh, đáng tiếc, chỉ toàn là bài rác. Cố lắm thì được một đôi hoặc hai đôi thôi, không thể thắng được đâu.”
Anh Holmes nói với vẻ tiếc nuối, nhưng trên môi vẫn nở một nụ cười. Thấy vậy, anh Muneyoshi tròn mắt.
“Làm, làm sao anh biết được...”
“Những lá bài mà anh cho tôi thấy lúc xoè bộ bài ra thành hình quạt có thứ tự sắp xếp đã được định sẵn từ đầu. Nhờ vào nỗ lực luyện tập, anh có thể làm giả động tác cắt bài, nhưng thực chất đã biết trước những lá bài sẽ quay trở về đúng vị trí cũ. Anh để quân Át Bích ở trên cùng, nhưng phát bài từ lá thứ hai trở đi. Lúc đầu, anh Masataka còn đặt tay lên vai anh và tuần một lá bài từ cổ xuống ống tay áo anh, chắc là bài dự phòng lúc xảy ra trường hợp ngoài ý muốn. Tiểu xảo quá ngoạn mục, làm tôi có cảm tưởng như vừa được chiêm ngưỡng một buổi biểu diễn vậy. Thế này thì đúng là khó lòng thắng nổi. Có điều... so tài như vậy không được công bằng lắm đâu.”
Anh Holmes nói với nụ cười vẹn nguyên trên khuôn mặt, khiến những người có mặt tại đó không ai nói được câu nào.
Cả phòng triển lãm lặng thinh.
Anh Holmes nhẹ nhàng đứng lên mà không gây ra tiếng động. “M-Mày là thứ quái nhân gì thế?” Anh Masataka hỏi, giọng lạc hẳn đi.
“Tôi chỉ là một giám định viên tập sự thôi. Tuy nhiên, mong hai anh nhớ cho điều này.”
“C-Cái gì?”
Có thể cảm nhận được không chỉ bộ đôi Masamune, mà cả những người khác cũng đang nín thở.
Anh Holmes đang cười tươi rói, nhưng thoắt cái đã để lộ ánh mắt cực kì sắc lạnh.
“... Đừng bao giờ coi khinh mắt nhìn của tụi tui.”
“...!” Bị lấn át bởi áp lực mà anh Holmes toả ra, bộ đôi Masamune đứng chết trận một chỗ.
Căn phòng lại một lần nữa trở nên lặng ngắt như tờ.
“Đủ rồi, Kiyotaka.”
Giữa tình hình ấy, ông chủ đặt nhẹ tay lên vai anh Holmes, rồi liếc sang bộ đôi Masamune.
“Ta xin nhận lỗi vì đã làm bẽ mặt ông Kageyama giữa chốn đông người.”
Nhìn ông chủ cúi đầu thật thấp, bộ đôi Masamune tròn mắt kinh ngạc. “… Ta thực lòng muốn xin lỗi khi đã khiến ông Kageyama bị tổn thương sâu sắc vì lời nói của mình. Cái bình ông Kageyama mang đến là thứ đồ dỏm cực kì tinh xảo. Có lẽ tuỳ kẻ ngắm mà sẽ thấy nó là vật tương đối giá trị. Có điều đồ dỏm vẫn mãi là đồ dỏm. Dù thế nào cũng hổng kêu là đồ thiệt được. Một khi giám định viên tụi ta tuyên bố như vậy, người khác sẽ công nhận nó như hàng chính gốc, và mọi thứ sẽ bị truyền đạt lại một cách sai lệch.
Sai lầm của một giám định viên có thể uốn cong cả lịch sử. Tụi ta gánh trên mình trách nhiệm vô cùng to lớn. Bởi vậy, dù được người ta cho bao nhiêu tiền, hết lời năn nỉ ra sao, thậm chí bản thân ta có cảm thấy nặng lòng đi chăng nữa, thì trong bất kì tình huống nào, ta cũng hổng được hô biến đồ dỏm thành đồ thiệt. Đó là triết lí của nghề giám định theo quan điểm của ta.”
Ông chủ nói với giọng điệu cương quyết, khiến lồng ngực tôi nóng rực lên.
Chắc hẳn những người khác cũng cảm nhận được điều đó.
Triết lí của nghề giám định.
“Xin lỗi.”
Phải một lát sau, bộ đôi Masamune mới khe khẽ đáp lại rồi cúi đầu. “Thực ra là đâu đó trong lòng, chúng tôi đã nghi ngờ rằng khi đó ông chỉ nói bừa vì ghét ông Kageyama.”
“Không những thế, chúng tôi còn tuỳ tiện nghĩ rằng kể cả đó có là đồ giả thì ông vẫn nên tuyên bố là thật để giữ hoà khí... Đó quả thực là một suy nghĩ vô cùng nông cạn.
... Đúng như anh ta nói. Chúng tôi đã coi thường nghề giám định.” Thấy hai người họ cụp mắt xuống với vẻ rầu rĩ, anh Holmes liền nở một nụ cười dịu dàng.
“Hai người hiểu được là tốt rồi.”
“Thôi, chuyện này coi như giải quyết xong xuôi. Còn bao nhiêu rượu và đồ ăn ngon đang chờ đó. Ta quay về phòng tiệc cụng ly thôi!” Nghe ông chủ lên giọng, mọi người khúc khích cười.
Đúng lúc đó, bác quản lí ló mặt vào.
“Có mấy vị khách mới đến phòng tiệc, đang đi tìm nhân vật chính đấy. Trong này xảy ra chuyện gì thế?” Bác ấy nhìn chúng tôi với vẻ lấy làm lạ, sau đó la toáng lên, mặt mày tái mét. “Ối, bình men ngọc bị vỡ rồi!”
“Cái đó là bình dỏm, trò tiêu khiển do tụi Masamune bày ra ấy mà.” “T-Tiêu khiển, ấy ạ?”
“Ừa, tiêu khiển thui. Mà vậy là lại có thêm khách tới hở? Quý quá quý quá. Ta bắt đầu lại bữa tiệc thui. Các vị di chuyển tới hội trường nào.” Ông chủ vui vẻ đi trước. Mọi người cũng tươi cười theo sau. “Đúng là tui kiểu gì cũng hổng ưa nổi anh Holmes, ớn quá đi hà.” Bên cạnh tôi, Kaori đang ghì chặt lấy cơ thể mình.
“Ừ, anh cũng thấy hơi lạnh sống lưng.”
Anh Akihito gật đầu đồng tình.
“...” Tôi không nói gì, chỉ nhìn xuống.
Có thể khi ấy anh Holmes quả thật toát lên sự uy hiếp và đáng sợ, tới mức tôi hiểu được tại sao hai người họ lại nói thế.
Nhưng tôi…
“Aoi, em có cầm chìa khoá phòng này không?”
Khi anh Holmes tiến lại gần, Kaori và anh Akihito giật bắn mình. “A, có ạ. Em xin lỗi nhé, cầm mãi chưa chịu trả.”
Tôi luống cuống đưa chìa khoá cho anh ấy. Anh Holmes khẽ lắc đầu. “Không, không sao, cảm ơn em đã giữ hộ.”
Sau khi kiểm tra lại xem các vị khách đã ra khỏi phòng hết chưa, anh ấy khoá cửa phòng triển lãm.
“Vừa rồi cho anh xin lỗi, để em trông thấy vẻ mặt khó coi như vậy mất rồi. Cũng tại anh nổi nóng không kiềm chế được.”
Anh Holmes khẽ thì thào trên đường sang phòng tiệc.
“Không, không sao đâu ạ” Ngẩng đầu lên, tôi bỗng giật mình khi trông thấy vẻ mặt sầu muộn của anh Holmes.
“Chắc Aoi cũng thấy anh đáng sợ lắm?” Anh hỏi, sắc mặt thoáng chút bất an.
“Dạ?”
“Hồi trước cũng có lần anh làm chuyện tương tự trước đám đông, khiến nhiều người méo mặt vì kinh hãi.”
Nhìn anh Holmes nặn ra một nụ cười như tự giễu bản thân, tôi có cảm giác trái tim mình thắt lại.
Anh ấy vốn sắc sảo hơn người thường, nên chắc hẳn cũng đã chịu rất nhiều những tổn thương.
“Dạ không, không đáng sợ chút nào đâu ạ. Khi ấy, em có thể cảm nhận được anh Holmes thật sự rất tự hào về ông nội mình. Dáng vẻ của anh Holmes khi đứng ra bảo vệ những người quan trọng đối với mình quả thật rất tuyệt vời. Em thấy anh ngầu lắm ạ.”
Nghe tôi nói, anh Holmes tròn xoe mắt.
“Cám ơn em nha, Aoi.”
Rồi anh nở nụ cười hồn nhiên như một đứa trẻ.
“...” Cảm giác hơi khó nhìn trực diện, nên tôi vội cụp mắt xuống. Sao thế nhỉ? Anh Holmes hôm nay quả thật có cái gì đó hơi bị trái luật rồi.
“Kiyotaka! Còn hông mau qua đây!”
Tiếng quát của ông chủ vọng đến, phá vỡ sự im lặng.
“Hờ...” Anh Holmes nhún vai. “Thật tình, chịu thua ông ấy luôn.” “Nhưng ông chủ đúng là đáng ngưỡng mộ anh nhỉ? Lúc nãy, nghe những lời giảng giải của ông, em đã rất cảm động.”
“Ừ, ông là người thầy mà anh vô cùng kính trọng. Nếu có thể thừa kế tất cả những gì thuộc về ông nội, rồi một ngày nào đó vượt qua ông.” Sau khi lẩm bẩm như đang nói với chính mình như vậy, anh mỉm cười và cất bước.
“Vậy thôi, anh em mình đi nhé”
“Vâng” Tôi gật đầu thật mạnh và theo sau anh.
Nơi trung tâm sảnh, ông chủ đang được mọi người vây quanh. Chuyên gia giám định cấp quốc gia Yagashira Seiji thật sự là một người đáng nể.
Anh Holmes rồi có lẽ cũng sẽ tiếp bước ông ấy.
Kế thừa triết lí của nghề giám định, và tất cả những gì đi cùng nó...
CHƯƠNG 2
TỰA NHƯ BỨC HOẠ LAS MENIAS
1
P
hố phường cố đô đang đón những ngày thu.
Không khí mát mẻ và dễ chịu. Bầu trời xanh cao, trong vắt, cùng những chiếc lá phong lá đỏ mùa thu đang chậm rãi chuyển màu.
Vào mùa thu hoạch, từ các món ăn chế biến bằng nông sản Kyoto chín mọng cho đến những loại bánh kẹo truyền thống dùng đẫy hạt dẻ đều rất được ưa chuộng. Dường như có thể nói mùa thu ở Kyoto là mùa hấp dẫn nhất trong năm.
Đúng là mùa cao điểm du lịch có khác.
Những khu phố mua sắm trên Đường Teramachi và Đường Sanjo cũng trở nên đông đúc hơn hẳn.
Tôi vừa đủng đỉnh quét dọn bên trong tiệm, vừa nhìn ra ngoài cửa sổ. Gần đây, tôi bắt đầu nhận biết được trong số những người qua đường, ai là khách du lịch, ai không, chỉ qua phong thái của họ. Và mùa này quả thật rất đông khách du lịch. Những vị khách ấy cứ thế lướt qua, không hề để mắt đến cửa tiệm này. Phải, như thường lệ, tiệm đồ cổ này vẫn thật yên tĩnh, bất chấp bao ồn ào náo nhiệt ngoài kia.
Chiếc đồng hồ tủ đứng vẫn tiếp tục chạy, như hoà cùng tiết tấu của giai điệu jazz ngọt ngào đang lan toả khắp không gian cửa tiệm. Anh Holmes ngồi tại quầy thu ngân, một tay cầm bút và giở sổ cái ra như thường lệ.
... Anh ấy lại đang kiểm tra sổ cái.
Nghĩ lại thì lúc nào cũng thế, chẳng hiểu rốt cuộc là anh ấy phải kiểm tra cái gì thường xuyên đến vậy nữa.
Vẫn cầm cây phủi bụi trong tay, tôi lén nhòm sang chỗ anh ấy. Hoá ra anh Holmes chỉ giả vờ kiểm tra sổ cái, chứ thực chất là đang làm bài tập trên trường.
“Anh Holmes, anh đang học bài ạ?”
Tôi ngạc nhiên hỏi. Anh Holmes liền yếu ớt nhìn tôi.
“Em phát hiện ra rồi à? Xin lỗi nhé, tại anh có bài tập phải nộp...” “Th-Thế ạ..” Anh cần gì phải xin lỗi ạ, tôi bổ sung thêm như thế trong lòng.
“Nhân dịp này anh cũng muốn thú nhận, đôi lúc anh giả vờ như đang ngồi ghi sổ cái, nhưng thực ra là học bài đấy.”
“Hoá ra là vậy!”
Thảo nào thấy anh ấy giở sổ cái ra suốt ngày.
“Nếu muốn, Ai cũng có thể ngồi làm bài tập của mình, anh không phiền đâu.”
Nhìn anh Holmes tỏ thái độ dè dặt, xem chừng vẫn còn áy náy, tôi không nhịn được cười.
Anh không cần phải cảm thấy tội lỗi đâu mà.
Cháu trai của ông chủ vừa trong tiệm vừa làm bài tập trên trường cũng đâu có gì lạ.
“Thôi ạ, em chỉ là nhân viên làm thêm. Không làm việc sao em dám nhận lương chứ. Mặc dù, nếu gặp phải trường hợp bất khả kháng, buộc phải đi làm thêm trong khi sắp có bài kiểm tra thì có thể em sẽ xin phép học bài một chút.”
Thường thì khi sắp có bài kiểm tra tôi sẽ xin nghỉ. Nhưng thi thoảng cũng có ngày tôi được nhờ nhất định phải đến trong tiệm. Lúc ấy, miễn được cho phép ngồi học bài trong tiệm thì sẽ chẳng có vấn đề gì. “Thế thì đến lúc ấy anh sẽ kèm em học.”
“Thật ạ? Vậy thì tốt quá.”
Được anh Holmes chỉ bài, còn gì sung sướng bằng.
Ngay khi tôi vừa nhoài người về phía trước vì cảm kích, chuông cửa bỗng reo lên leng keng.
“K-Kính chào quý khách.”
Tôi giật mình ngoảnh lại và thấy một người đàn ông gầy gò. Toàn thân anh ta toát lên vẻ trung tính, mái tóc dài buộc lại thành một túm phía sau. Nhìn qua có vẻ chưa đến ba mươi tuổi.
“Chào Kiyotaka.”
Anh ta nói và chưng ra một điệu cười ngây ngô, trông có phần yếu đuối.
“Anh Yoneyama đấy à.”
“Lâu rồi không gặp. Cho anh xin lỗi vì đã đường đột tới trong lúc em đang bận việc nhé” Thanh niên nọ co vai.
“Dạ không, như anh có thể thấy, em chỉ đang làm chút việc vặt thôi. Mời anh ngồi ạ. Aoi cũng giải lao đi nhé. Để anh đi pha cà phê.” Nói rồi, anh Holmes đứng dậy.
Việc vặt gì chứ, anh đang làm bài tập của chính mình thì có. “Chào em, hân hạnh được làm quen. Lẽ nào em là bạn gái của Kiyotaka?”
Tôi vừa ngồi xuống chiếc ghế sô pha trước quầy thì người thanh niên nọ đã cất tiếng hỏi với một nụ cười ỏn ẻn.
“D-Dạ không, em chỉ là nhân viên làm bán thời gian thôi ạ.” Tôi vội lắc đầu.
“À, ra thế. Thấy không khí giữa hai đứa có vẻ ngọt ngào nên anh cứ tưởng thế.”
Không khí ngọt ngào? Tim tôi giật thót khi nghe cụm từ ấy. “Anh là Yoneyama Ryosuke. Hiện đang làm cho một phòng tranh.” Anh ấy thậm chí còn đưa danh thiếp cho một đứa học sinh cấp ba như tôi nữa. “Em là Mashiro Aoi ạ.”
Vừa đón lấy danh thiếp bằng hai tay, tôi vừa ngẩn ngơ nhìn tấm danh thiếp đậm chất nghệ thuật ấy.
“Danh thiếp này thiết kế đẹp thật đấy.”
“Cảm ơn em.” Anh ấy vui mừng đỏ mặt, hơi khom lưng lại và gãi gãi đầu.
Chắc hẳn tấm danh thiếp này là do anh ấy tự thiết kế. Thậm chí còn có cảm giác anh ấy muốn được khen nên mới chủ động lôi danh thiếp ra. Một anh chàng coi bộ dễ thương ra phết.
Tôi đang ngắm nghía tấm danh thiếp thì anh Holmes bước ra từ khu trà nước, tay bưng một chiếc khay. Rồi anh đặt tách xuống trước mặt chúng tôi và nói.
"""