"Holmes ở Kyoto 1 - Mai Mochizuki PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Holmes ở Kyoto 1 - Mai Mochizuki PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HOLMES Ở KYOTO - TẬP 1 Tác giả: Mai Mochizuki Người dịch: Nguyễn Thu Thủy - Ninh Nhân Văn Phát hành: WingsBooks Nhà xuất bản Kim Đồng 2020 —✥— ebook©hotaru-team Nằm lẻ loi tại một góc phố mua sắm Teramachi Sanjo ở Kyoto là cửa hàng đồ cổ “Kura”. Từ một sự việc tình cờ, nữ sinh cấp ba Mashiro Aoi đã quen biết cháu trai chủ cửa hàng ấy, tên là Yagashira Kiyotaka, rồi sau đó, cô bé bắt đầu làm thêm tại đây. Kiyotaka là một người ăn nói dịu dàng, cư xử hoà nhã, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Anh được gọi là “Holmes của phố Teramachi”. Aoi cùng Kiyotaka nhận được rất nhiều yêu cầu liên quan tới các món cổ vật mà khách hàng mang tới... Một tác phẩm kì bí nhẹ nhàng rất xuất sắc lấy bối cảnh cố đô Kyoto! Yagashira Kiyotaka: Hai mươi hai tuổi. Sinh viên cao học năm nhất Đại học Kyoto. Tên thường gọi là “Holmes”. Cháu trai ông chủ tiệm đổ cổ “Kura” toạ lạc ở Teramachi Sanjo, Kyoto. Cư xử dịu dàng và lịch lãm, nhưng lại sắc sảo đến đáng sợ. Đôi lúc thích bắt nạt người khác, một chàng trai Kyoto “nham hiểm”. Mashiro Aoi: Mười bảy tuổi. Học sinh lớp Mười Một. Chuyển từ thành phố Omiya tỉnh Saitama đến Kyoto sinh sống đã được bảy tháng. Từ một sự việc không lường trước mà bắt đầu làm thêm tại cửa tiệm “Kura”. Vẫn còn vương vấn người yêu cũ ở trường cấp ba ngày trước. CHƯƠNG MỞ ĐẦU HOLMES VÀ THIỀN SƯ BẠCH ẨN “Quý khách có món đồ cổ nào đang ngủ quên trong nhà không? Cửa hàng chúng tôi nhận giám định và thu mua đồ cổ!” Khi đi bộ dọc con phố mua sắm mái vòm[1] đông đúc náo nhiệt ở Teramachi Sanjo thuộc Kyoto, ta sẽ thấy một tiệm đồ cổ nhỏ nằm giữa những cửa hàng kề nhau san sát. Trên biển hiệu, chỉ có một chữ Hán “Kura”[2]. Đây có vẻ là tên cửa hàng. (Nếu nói đến tiệm đồ cổ, trong đầu mình sẽ hiện lên các cái tên như, “Phòng triển lãm OO”, hay “Antique[3] OO”, hoặc cái tên nào đó có gắn chữ “Đường”[4], thế nhưng ở đây lại có mỗi một chữ “Kura”, đơn giản quá nhỉ...) Đó là ấn tượng đầu tiên của tôi với cửa hàng này Không khí cửa hàng giống như một quán cà phê retro[5] hơn là một tiệm đổ cổ. Cửa hàng được bài trí kết hợp phong cách Nhật Bản và phương Tây, làm người ta liên tưởng tới thời kì Minh Trị - Đại Chính[6]. Sát lối vào là một góc uống trà, còn phía bên trong thì bày sản phẩm. Tôi thấy bóng dáng một người phụ nữ đứng tuổi với một người đàn ông đang uống cà phê và chuyện trò vui vẻ. Thật sự là nếu không nhìn biển hiệu, có khi tôi sẽ nghĩ đây là một quán cà phê. Trong khi tôi đang đứng trước cửa hàng và lấm lét ngó vào trong, tôi nhận ra mấy người đi ngang qua cứ thi thoảng lại lén liếc nhìn tôi một cái. “...” Tôi luống cuống chỉnh lại tư thế, mặt làm ra vẻ chẳng biết gì. Chắc người ta sẽ thấy lạ lắm khi bắt gặp một nữ sinh cấp ba lảng vảng trước cửa hàng đổ cổ. “Cô bé kia muốn vào cửa hàng mà không vào được nhỉ?” Có thể họ sẽ nghĩ về tôi theo kiểu ấy cũng nên. Nếu người ta nghĩ như thế thì... vâng, chuẩn rồi. Đúng, tôi là một cô nữ sinh cấp ba chán đời, dù muốn vào hàng đồ cổ này nhưng không thể, thế nên đang lảng vảng ở bên ngoài. Cũng bởi, nếu đây là một tiệm tạp hoá mang phong cách Bắc Âu cởi mở, hay một cửa hàng đồ cổ nhẹ đô hơn thì đã chẳng nói làm gì. Nhưng không khí cửa tiệm này lại đậm chất “cửa hàng mĩ nghệ cổ”, nên tôi không thể thoải mái bước vào. “Nhận giám định và thu mua đồ cổ.” Kể từ khi tình cờ nhìn thấy dòng chữ đó, tôi đã để ý đến cửa hàng này. Bao nhiêu lần tôi đã bụng bảo dạ rằng, “Vào thôi, vào thôi,” nhưng kết quả là tôi vẫn cứ lướt qua. “Kyoto”. Không phải quá lời khi nói đây là địa điểm tham quan số một Nhật Bản. Trong vòng một năm, rất nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới đã ghé thăm nơi đây. Thế nhưng, đối với một học sinh cấp ba sống tại mảnh đất này mà nói, đây không ngờ lại là một “thành phố không có chỗ để vui chơi”. Đền chùa miếu mạo thì tuyệt vời và cũng xoa dịu lòng người đấy, nhưng không phải nơi cho bạn bè tụ tập chơi đùa. Chỗ để giải trí loanh quanh chỉ có tới quán karaoke hoặc trung tâm thương mại lớn, tạt vào rạp chiếu phim ở Sanjo rồi đi dạo lòng vòng ở khu mua sắm mái vòm mà thôi. Nhân tiện, tôi thấy con chim linh vật tên “Sanjoto~ri”, biểu tượng của khu phố mua sắm Sanjo, đáng yêu hết biết. Tôi thích nó ghê. A, ở lối vào cửa hàng này cũng dán poster “Sanjoto~ri” nữa. Quả nhiên là đáng yêu thật, nhìn mà dịu cả lòng. Mà thôi, tạm thời không nói đến chuyện đó. Vì lí do kể trên, hễ tới chơi ở phố mua sắm Sanjo, tôi lại liếc nhìn cửa hàng “Kura”, nhưng lần nào cũng chỉ lướt ngang qua nó. Đến nước này rồi, tôi không thể cứ lảng vảng bên ngoài mãi được. Tôi nắm chặt quai chiếc túi giấy trong tay. (Được rồi, vào thôi!) Ngay giây phút tôi vừa hạ quyết tâm, một người đàn ông trung niên mặc com lê từ sau lưng vượt qua tôi êm ru rồi mở cửa đánh xạch một cái. “Chào cả nhà, Holmes có đây hôn?” Ông vừa nói vậy vừa bước vào cửa tiệm. (Holmes?) Dù cảm thấy khá là kì quặc, tôi vẫn bước vào cửa hàng, như thể bị lôi kéo bởi người đàn ông nọ. Vừa mới vào bên trong, tôi trông thấy ngay một bộ sô pha cổ làm người ta liên tưởng tới phòng tiếp khách của những tòa kiến trúc phương Tây cổ kính. Một phụ nữ đứng tuổi đang vui vẻ nâng tách cà phê lên miệng. Chiếc đèn chùm nhỏ treo trên trần nhà không cao lắm. Một cái đồng hồ tủ đứng rất to dựng sát tường. Rất nhiều những món đồ cổ và vật dụng đủ loại được bày trên giá nằm sâu bên trong cửa hàng. Nhìn từ cửa ra vào thì cửa hàng trông cũng nhỏ, nhưng bên trong có vẻ khá sâu. Quầy thu ngân nằm ở bên khoảng không gian tiếp khách đặt ghế sô pha, tại đó có một chàng trai trẻ đang ngồi trên ghế, nhìn thế nào cũng thấy giống sinh viên đại học. “Kính chào quý khách.” Anh chàng trông như sinh viên ấy đưa mắt về phía chúng tôi và mỉm cười tươi tắn. Thân người mảnh dẻ, tóc mái hơi dài, làn da trắng trẻo. Sống mũi thẳng tắp, khá là... À không, rất chi là đẹp trai. ... Bảnh thật đấy. Anh ấy là nhân viên làm thêm chăng? “Holmes, xem hộ bác cái này chút ha.” Người đàn ông trung niên trong bộ com lê ngồi xuống ghế, đặt một bọc được gói bằng khăn furoshiki[7] lên quầy thu ngân. “Bác Ueda, thôi nào. Đừng gọi cháu là ‘Holmes’ nữa, có được không bác?” “Kêu vậy hay mà, có chi đâu?” ẳ “Bác Ueda” chẳng buồn tỏ ra áy náy. Thấy vậy, anh đẹp trai được gọi là “Holmes” nhún vai, đeo găng tay trắng vào rồi cẩn thận gỡ nút buộc khăn furoshiki. Bên trong tấm khăn furoshiki là một chiếc hộp gỗ hông hoàng gia[8] hình chữ nhật, chỉ thoáng nhìn thôi đã thấy ấn tượng rồi. Khi anh ấy tiếp tục mở hộp ra, tôi nhìn thấy một vật màu vàng kim được cuộn lại, trông cũng khá dày. Hình như đó là tranh cuộn. Nó tỏa ra bầu không khí của một “món hàng đắt tiền”. “Giấy thêu kim tuyến ạ...?” Anh Holmes buột miệng ồ một tiếng rồi ngẩng mặt lên. “Kimono tốt bác nhỉ.” “Phải ha? Bác là bác cũng nghĩ vậy đó.” Nghe thấy đoạn hội thoại ấy, tôi nghiêng đầu thắc mắc. (Kimono tốt?) Thế rồi, người phụ nữ đứng tuổi đang uống cà phê ở sô pha đứng dậy, vừa nói, “Chà chà, kimono ấy hả?” vừa rướn người ra đằng trước, “Ơ hay, nghe kêu ‘kimono tốt’ nên bà cứ tưởng là kimono. Hổng phải đây là tranh cuộn hở? Lại còn tuyệt hảo nữa chớ.” Người phụ nữ lên giọng chẳng buồn giữ kẽ, còn anh Holmes thì mỉm cười đáp lại. “Kimono tốt có nghĩa là ‘tuyệt hảo quá mức’ đấy ạ, bà Mieko.” Có vẻ tất cả mọi người đều là khách quen nên họ biết hết mặt nhau. “Tuyệt hảo quá mức thì hổng được sao?” “Vâng, giống như một kẻ nói dối có thể sắp xếp câu chữ rất trơn tru, hộp và vỏ ngoài phô trương quá mức thế này thì giống như đồ giả vậy. Người ta gọi những thứ như thế là ‘kimono tốt quá mức’ hoặc có gì đấy sai sai’.” Anh ấy giải thích với giọng điệu rất hiền hoà. Tôi vừa hóng hớt vừa gật gù lẩm bẩm: “Ồ...” “Ồ, vậy hả? Túm lại là kiểu nói biến nói tướng ha. Vậy kia cũng là đồ dỏm hở?” Bà Mieko hạ mắt nhìn xuống bức tranh cuộn và nói. Đáp lại, anh Holmes chỉ nhẹ lắc đầu. “Không, cái đó thì giờ cháu phải xem mới biết được. Với chuyện này, mình cũng không thể để định kiến chi phối được đâu.” Anh ấy cẩn thận nhấc cuộn tranh lên rồi từ từ mở ra. Bên trong cuộn giấy thêu kim tuyến vẽ hình núi Phú Sĩ. Đằng trước là cây hoa anh đào. Núi Phú Sĩ điềm nhiên dựng lên sừng sững ở phía bên kia rặng anh đào. Thứ đó có một lực hấp dẫn như muốn hút lấy tôi. (... Đỉnh quá.) Trong lúc rón rén ngó nghiêng, dãy núi Phú Sĩ trong bức tranh cuộn ấy khiến tôi bị áp đảo, thậm chí còn cảm thấy rung động tâm can. “Ồ, coi này.” Anh Holmes thốt lên với vẻ trầm trồ. “Đó, dữ ha con?” Bác Ueda chồm người ra đằng trước, mắt sáng lên lấp lánh. “Là ‘Tranh Phú Sĩ và hoa anh đào’ của ‘Yokoyama Taikan’[9]. Hàng tuyển đấy bác nhỉ?” “Phải hôn? Tình trạng cũng tốt nè, ổn ra trò đó chớ?” “Chà chà, Yokoyama Taikan sao? Mắc tiền lắm hở?” Bà Mieko nhìn về phía bác Ueda và nói. “Ô kìa, nếu là tranh Taikan thiệt, năm triệu cũng đừng có mơ nha. Cái này có khi phải tới cả chục triệu hổng chừng?” “Chục triệu ấy hở!? Bác Ueda, thế thì khủng à nha!” “Chớ sao?” Thấy hai người hào hứng như vậy, hàng lông mày của anh Holmes trĩu xuống với vẻ hơi áy náy. “... Vâng... Tranh này rất đẹp, tình trạng cũng tốt. Nhưng thật đáng tiếc, đây lại là ‘tranh dựng’ ạ.” Câu nói đó làm bác Ueda khựng lại, lông mày nhíu vào đầy vẻ hoài nghi. “... Thiệt hở? Nếu là ‘tranh dựng’ của Taikan thì phải có đóng dấu ‘dựng’ chớ? Hổng có thấy đâu nè. Chắc là đồ thiệt chớ?” “Không, đây là ‘tranh dựng’ đấy ạ. Không nhầm lẫn được đâu.” Nghe anh Holmes tuyên bố không chút chần chừ, bác Ueda buông thõng vai, như thể đột nhiên không còn sức lực. Tôi không hiểu “tranh dựng” là thế nào, nhưng đại khái có vẻ là đồ giả. (... Là vậy sao?) Giống với người được gọi là bác Ueda, tôi cũng có chút thất vọng. Thì bởi, tôi đã lỡ cảm động vì bức tranh ấy mà. Nhìn một bức tranh cuộn giả mà cũng thấy cảm động, tôi đúng là gà mờ... Thế nhưng, đây hẳn là một cú sốc lớn với bác ấy, người đã tin bức tranh ấy là đồ thật và mang nó đến đây. Tôi đoán chắc bác ấy vẫn chưa phục kết quả giám định này. Chủ cửa hàng cũng trẻ mà. Có lẽ anh ấy vẫn còn non và xanh lắm? Khi tôi đang nhủ thầm trong lòng những lời không thể nói ra ấy, bác Ueda bất ngờ thay lại lập tức lộ ra vẻ mặt không còn gì vướng bận. “Ui trời, ra là vậy. Kể ra bác cũng nghĩ, ‘có khi là đồ thiệt,’ nhưng thôi, con đã nói thì cấm có sai rồi.” Tay chống cằm, bác Ueda thở dài một cái. (... Ơ, bác ấy chấp nhận nhẹ như không vậy sao?) Trong lúc tôi đang quan sát tình hình, sự rút lui dễ dàng của bác ấy có phần làm tôi chưng hửng. Dù vậy, cái câu: “Con đã nói thì cấm có sai,” kia chứng tỏ bác ấy phải tin tưởng anh chủ đẹp trai trẻ măng kia lắm. Dẫu rằng trong mắt tôi, trông anh ấy thế nào cũng chỉ ra sinh viên đại học. “Nè, Holmes, nếu là con thì con để giá bao nhiêu?” “À vâng... Tình trạng cũng tốt, nên chắc khoảng một trăm nghìn. Cháu mua nhé?” “Thôi khỏi. Để bác mang nó đến mấy tiệm đồ cổ hổng có mắt giám định.” Bác Ueda nói vậy chẳng chút ngại ngùng rồi gói cuộn tranh vào khăn furoshiki. ... Một trăm nghìn. Đấy cũng là một số tiền khá lớn. Nếu tôi mà nhận được một trăm nghìn thì đã là quá đủ rồi. Tuy vẫn đang dỏng tai nghe ngóng, nhưng đứng gần quan sát tình hình mãi thế này cũng không hay, nên tôi cứ thế bước vào sâu bên trong cửa hàng. “... Ồ,” tôi buột miệng kêu lên. Trên những chiếc giá được xếp liền thành dãy bày biện bình và bát trông vô cùng đẹp mắt. Ở phía đối diện cũng có những vật dụng phương Tây như bộ ấm trà hay chân nến. Có rất nhiều mặt hàng, từ những vật đắt đỏ cho đến các món đồ tạp hoá rẻ tiền mà ngay cả tôi cũng có thể mua. Dù vậy, chỗ này không hề gây ra cảm giác tạp nham mà mọi thứ lại được sắp xếp rất hợp thẩm mĩ. Cảm giác như tất cả đều được đối xử với thái độ trân trọng vô cùng. (Đúng là có nhiều đồ quá.) Chiếc bình có vẻ thuộc về cung đình Trung Quốc, bộ tách trà đặt ở tủ tường. Thậm chí có cả búp bê sứ phương Tây nữa. Con búp bê này thật đẹp. Làn da gốm sứ, đôi mắt to màu xanh, mái tóc vàng buông xuống như dòng nước chảy. Chăm chú nhìn nó một hồi, không hiểu sao tôi bỗng thấy ớn lạnh. Tại vì, con búp bê này đẹp thì đẹp đấy, nhưng cảm giác cứ sờ sợ kiểu gì. Tôi luống cuống nhìn tránh đi để quan sát sang thứ khác. A, đồ trang trí bên này trông tuyệt thật. Có cả gói hồng trà hàng hiếm nữa này. Cảm thấy phấn khởi hơn một chút, tôi tiếp tục nhìn ngắm chỗ này chỗ kia, rồi dừng chân trước chiếc bát uống trà đặt trong tủ kính. “...” Một chiếc bát uống trà nền trắng với hoa văn màu nâu đỏ, hình dáng thoạt nhìn có vẻ méo mó, đường nét trang trí bên ngoài mộc mạc, chẳng hề hoa mĩ. Thế nhưng, nói sao đây nhỉ, khi nhìn thấy nó, tôi thầm nghĩ bụng, “Tuyệt quá đi~.” Khi tôi dừng chân lại đó và mải mê ngắm nhìn chiếc bát, một giọng nói đột ngột vang lên ở sau lưng. “... Quý khách có thích món này không ạ?” Tôi giật mình quay lại. Anh Holmes đang nở một nụ cười nhã nhặn. “A, không, nói sao nhỉ, em cũng không biết nữa. Chỉ là, em nghĩ cái này hay hay...” Giọng tôi lạc đi vì hồi hộp. Người, người này, nhìn gần còn bảnh hơn ban nãy nữa. Mái tóc suôn mềm, dáng người cao, chân cũng dài. Trên hết, cử chỉ của anh ấy có vẻ cực kì lịch lãm. Thấy tôi đảo mắt như rang lạc, một nụ cười nhẹ hiện lên trên khóe môi anh ấy. “Thế ạ? Vậy mời quý khách cứ thong thả xem các sản phẩm của cửa hàng chúng tôi.” Anh chỉ nói vậy rồi quay lưng. Thấy thế, tôi lập tức cất giọng, “A... Anh ơi!” “Vâng.” Anh Holmes quay lại đáp. Tôi định đưa túi giấy ra và bảo, “Em muốn nhờ anh giám định cái này,” nhưng lại không nói nên lời. “À, ừm... Tại sao anh lại được gọi là ‘Holmes’ vậy?” Tự nhiên tôi lại buột mồm hỏi một câu cực kì ngu ngốc. Anh ấy mở to mắt nhìn tôi. “Q-Quả nhiên là vì anh biết rất nhiều thứ giống như Sherlock Holmes phải không ạ?” Vì quá ngại ngùng, tôi đành sôi nổi tiếp tục câu chuyện. Thế rồi, anh Holmes híp mắt lại thành hình như lưỡi liềm với vẻ thích thú. “... Xem nào. Em là học sinh trường cấp ba Oki, nhưng em vốn không phải người Kansai, mà là người Kanto. Chắc em chuyển đến Kyoto được tầm nửa năm nhỉ? Em đến cửa hàng này vì có món đồ muốn nhờ giám định. Thế nhưng, món đồ đó lại không phải của em. Anh biết được chừng ấy thôi...” “Siêu, siêu quá.” Bị đoán trúng phóc, tôi mắt chữ o mồm chữ a. “Cỡ ấy thì ai cũng biết mà. Đồng phục của em là đồng phục trường cấp ba Oki, giọng cũng mang ngữ điệu của Kanto nữa.” Tôi sực tỉnh và kiểm tra lại bộ dạng của mình. Áo khoác dạng vest màu xanh biển đậm và chân váy kẻ ca rô. Đúng rồi, hôm nay mình mặc đồng phục, ngốc quá đi. “Th-Thế nhưng, sao anh biết em chuyển đến đây sống được khoảng nửa năm?” “Đó là một kiểu trực giác không rõ lí do ấy mà. Em không giống người vừa mới chuyển đến, nhưng cũng không đem lại cảm giác là đã hoàn toàn quen thuộc với nơi này. Thế nên anh đoán có lẽ em đã chuyển đến đây vào kì nghỉ hè năm ngoái.” Đúng y như anh ấy nói. Tôi đã chuyển đến trường cấp ba hiện tại vào cuối kì nghỉ hè năm ngoái. Từ đó đến nay đã nửa năm. Giờ là tháng Ba rồi. “Vậy thì, tại sao anh biết thứ em muốn giám định không phải đồ của em?” “Khó mà nghĩ được một học sinh cấp ba lại có đồ mang tới đây giám định. Vậy nên, nếu nghĩ rằng đó là đồ của ông hay bà em cũng là chuyện thường tình. Hơn hết, anh cảm thấy sự do dự ở em khi nhờ giám định, vì đó không phải đồ thuộc sở hữu của bản thân. ... Anh nói có sai không?” Tôi không nói nên lời. ... Anh ấy bảo đấy là những điều mà ai cũng biết, thế nhưng bình thường người ta sẽ đoán được những chuyện như thế này ư? Không, không thể có chuyện đó được. Đây chắc là lí do vì sao người ta gọi anh ấy là “Holmes” “Nhưng em đang rất cần tiền, thậm chí chấp nhận hi sinh thứ khác. Vì thế, em đã tự tiện mang đồ đi mà không xin phép, có phải vậy không?” Lần này, tim tôi nảy thót một cái. “T-Tại sao...?” Tôi không thể nói đến cuối câu rằng, “... anh biết chuyện đấy?” “Nếu được phép thì em đã không chần chừ như thế nhỉ?” Hơi thở của tôi tắc nghẹn, như thể bị một con dao chọc vào cổ họng. “Sự chần chừ ấy đã thể hiện một điều rằng, em có vẻ vốn không phải kiểu người hay tự tiện mang đồ của nhà đi bán. Thế nhưng, em vẫn quyết định hành động. Tóm lại, việc đó mang ý nghĩa rằng, em đang ở trong tình trạng thực sự bị dồn vào thế bí. Em có lí do cần tiền gấp, bằng bất cứ giá nào. Có đúng không?” Tôi kinh ngạc đến độ quên cả nhắm mắt và ngậm miệng. Bị đánh trúng chỗ hiểm, tôi chỉ còn biết đứng sững như trời trồng. Sau khi nghe câu chuyện giữa hai chúng tôi, bác Ueda bèn thở dài ngao ngán. “Kìa, Kiyotaka, con làm người ta sợ đó. Bác đã kêu con bỏ cái kiểu đấy đi rồi. Thế nên con mới là ‘Holmes’ đó nghen.” Nghe bác Ueda nhắc, người chủ tiệm trẻ tuổi, hình như có tên thật là “Kiyotaka”, nở một nụ cười khổ sở. “A, xin lỗi, anh lỡ lời...” Thấy hàng lông mày của anh trĩu xuống với vẻ hối lỗi, tôi lắc đầu, “Không, không sao ạ.” Dẫu vậy thì tim tôi vẫn đang đập thình thịch rất ồn ào. “Nhân tiện, ‘Holmes’ chỉ là một biệt danh đơn thuần thôi, không phải lấy từ ‘Sherlock Holmes’ đâu.” “... Vì, vì cái gì anh cũng biết, nên mới có biệt danh ‘Holmes’ phải không ạ?” “Không, vì họ của anh là ‘Yagashira’[10]. Nên anh mới được gọi là ‘Holmes’.” Anh nói, chỉ vào biển tên trước ngực, làm tôi khựng lại. Chữ Gia với chữ Đầu, Yagashira? Nên gọi là “Homes”[11]. “... À, ra là như vậy.” Đột nhiên tôi thấy chuyện này thật là nhạt nhẽo. Ngay lúc đó, bà Mieko bỗng rướn người lên và hùng hổ nói. “Hổng phải chỉ có vậy đâu nha, nhóc Kiyotaka siêu cực kì luôn á. Từ mùa xuân này, thằng nhỏ sẽ trở thành sinh viên cao học ở Đại học Kyoto[12] đó.” Sinh viên cao học Đại học Kyoto? Quả nhiên là sinh viên. Lại còn là Đại học Kyoto nữa chứ... “Giỏi, giỏi thật đấy.” Khi tôi thốt lên những suy nghĩ xuất phát từ tận đáy lòng như vậy, khoé miệng anh Kiyotaka, hay còn gọi là Holmes, nhếch lên với vẻ khoái chí. “Cái giỏi của anh không có nằm ở đấy.” “Hả?” “Anh vốn rất mê Đại học Kyoto, cả ông lẫn bố anh đều tốt nghiệp từ Đại học Kyoto ra cả.” “Ồ...” “Nhưng mà lúc thi đại học, anh không đỗ được vào Đại học Kyoto. Tại anh toàn đi chơi với ông suốt.” … Ủa, vừa rồi anh ấy bảo là “toàn đi chơi với ông” ấy hả? Không, chắc là tôi nghe nhầm nhỉ? Làm gì có chuyện chơi với ông nhiều đến như thế được. Tóm lại là, anh Holmes đã phải cố gắng ôn tập để thi lại và trở thành sinh viên Đại học Kyoto phải không? Chuyện ấy đúng là giỏi thật đó. Nếu là tôi, tôi sẽ không chờ đến kì thi lại mà trước hết cứ vào một trường đại học vừa tầm, vậy là mãn nguyện. Trong lúc tôi còn đang mải gật gù... “Vì thế, anh quyết định thi vào Đại học Phủ Kyoto[13].” Anh Holmes giơ ngón trỏ. “Hả? Đại học Phủ Kyoto?” “Phải, ‘Đại học Phủ’. Tuy nhiên, từ mùa xuân này, anh sẽ học cao học ở Đại học Kyoto đấy. Cứ cái đà này mà hoàn thành việc học, em nghĩ cuối cùng học bạ của anh sẽ như thế nào?” “Ờm, à... Tốt nghiệp cao học Đại học Kyoto?” “Là như vậy đấy. Ngay cả với Đại học Kyoto, tính từ bậc cao học trở lên cũng tương đối dễ vào. Anh đăng kí khóa học liên thông từ Đại học Phủ vào Đại học Kyoto. Em có thấy đây là một cách hơi bị thông minh không?” Anh ấy nói với vẻ tự hào, mắt sáng lên lấp lánh. Thấy thế, tôi nhăn mặt. Có, có hơi... láu cá. “... A, em vừa nghĩ anh ‘láu cá’ hả?” “Kh-Không ạ!” Sợ thế! Người này đúng là Holmes! Lại một lần nữa, tôi suýt đổ mồ hôi lạnh. “Em tên là gì?” “Mashiro Aoi ạ.” “Tên đẹp lắm. Người đặt tên cho em là ông hay bà em à?” “À, vâng ạ.” “Ra thế. Gia đình Aoi chuyển đến sống ở nhà ông bà đúng không?” “V-Vâng ạ.” “Nhà em ở quận Sakyo à?” “V-Vâng ạ.” “Cũng khá gần đền Shimogamo đúng không?” “V-Vâng, đúng thế. Nhưng sao anh biết?” Tôi trợn ngược mắt lên, còn bác Ueda và bà Mieko lại cười như nắc nẻ. “Làm sao biết ta?” “Vâng, chuyện đó ấy mà...” “Nói đến ‘Aoi’ thì đó...” Ba người họ cứ cười, trong khi tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Thấy tôi nghiêng đầu thắc mắc, anh Holmes chỉnh lại nét mặt nghiêm trang rồi chậm rãi nhìn thẳng vào mắt tôi. “.. Aoi, tiệm nhà anh không thu mua hàng từ trẻ vị thành niên. Cần có người giám hộ đi cùng hoặc giấy uỷ quyền chính thức.” Câu nói đó làm tôi cảm thấy như sức lực rời khỏi vai mình. Một mặt tôi thấy tiếc, nhưng mặt khác, tôi lại thấy nhẹ hết cả người. Đây là tâm trạng của tên tội phạm bị bắt ngay trước khi phạm tội. “Thế nhưng, riêng giám định thì anh làm được. Nếu không phiền, em có thể cho anh xem thứ em mang đến không? Đồ em mang đến chắc sẽ là đồ tốt.” “Ơ?” Tôi tròn mắt ngạc nhiên trước nụ cười của anh ấy. (Đồ mình mang đến chắc sẽ là đồ tốt, nghĩa là sao nhỉ?) “Anh sẽ pha cà phê. Em uống được chứ?” “À, vâng. Nếu có sữa và đường...” “Vậy để anh pha cà phê sữa nhé. Em ngồi ở sô pha đi.” Anh ấy nở nụ cười vui vẻ rồi đi vào phía sau cửa hàng. Vừa nhìn theo bóng dáng ấy, tôi vừa dè dặt thả mình xuống ghế sô pha ở góc dành cho khách uống trà. “Bé Aoi từ đâu chuyển đến thế? Tokyo à?” Bà Mieko rướn về phía trước với vẻ hết sức hiếu kì. Tôi khẽ lắc đầu đáp lại. “À, không ạ. Là Omiya ở Saitama ạ.” “Vì bố mẹ con chuyển công tác hở?” “Vâng. Ông nội cháu vừa mất năm kia, bà nội còn có một mình, vì thế mà cả nhà bàn tính tới chuyện sau này sẽ sống cùng nhau. Mất một thời gian để đơn xin chuyển công tác của bố cháu được duyệt, sau đó, cả nhà cháu đã chuyển về đây vào mùa hè năm ngoái.” “Thế đã quen chưa?” “Rồi ạ...” Khi tôi bẽn lẽn gật đầu, hương cà phê bỗng lẻn vào khoang mũi. Ngẩng mặt lên, tôi trông thấy anh Holmes đang bưng một chiếc khay trên tay. “Của em đây. Hàng nhà anh lúc nào cũng phục vụ đồ uống như thế này. Đây cũng là sở thích của anh nữa.” Anh vừa nói vừa đặt chiếc cốc gốm xuống trước mặt tôi. Cốc cà phê sữa trông rất ngon lành làm gương mặt tôi như giãn hẳn ra. “Em chuyển tới vào mùa hè năm ngoái thì nóng lắm nhỉ.” Nói rồi, anh Holmes ngồi xuống đối diện tôi. “Cũng nóng nhưng không khác Saitama là mấy ạ. Mỗi tội, em rất ngạc nhiên với cái lạnh của mùa đông.” Tôi nhẹ nhàng nâng cốc và chầm chậm đưa lên miệng. Dù đã là tháng Ba nhưng vẫn trong giai đoạn có sự chênh lệch rất lớn giữa nhiệt độ cao nhất và thấp nhất trong ngày. Cà phê sữa anh Holmes pha cho như thấm khắp cơ thể hơi cóng của tôi. “Đúng vậy ha? Kyoto mùa đông đúng là chịu hổng nổi. Rét thấu xương luôn ý.” “Phải đó, đi từ Osaka sang đây mà lạnh hết hồn.” Bác Ueda tiếp lời bà Mieko. Có vẻ bác Ueda là người Osaka. “Đền Shimogamo ở phía Bắc nên lại càng lạnh.” Anh Holmes cũng gật gù. Nhắc đến mới để ý, anh Holmes lại nói tiếng phổ thông. Anh ấy vốn là người ở đâu nhỉ? “À, anh sống ở Kyoto suốt mà. Tuy hơi khó nhận biết vì anh xài kính ngữ.” Được nhận lại câu trả lời cho thắc mắc thầm kín trong lòng, tôi suýt thì phun ra bằng sạch ngụm cà phê sữa chưa kịp nuốt. C-Cái người này, rốt cuộc là nhìn thấu người khác đến mức nào đây! “Holmes, bác đã bảo bỏ kiểu đó đi rồi mà. Bé Aoi ngạc nhiên lắm đúng hôn, cái thằng nhỏ này.” “V-Vâng. Lúc nào anh ấy cũng vậy ạ?” “Không đâu, bình thường anh vẫn chú ý để không nói ra miệng mà. Không hiểu hôm nay bị làm sao nữa.” Anh nói vậy rồi khẽ nghiêng đầu. “Chú ý để không nói ra miệng” có nghĩa anh ấy là người lúc nào cũng tinh ý thế này. Người biết giám định là kiểu như vậy hả? “... Aoi, anh có thể xem món hàng của em không?” Anh ấy đưa tay ra, vẻ như đã chỉnh đốn lại thái độ. “À, vâng.” Tôi gật đầu, trao chiếc túi giấy cho anh. “Chi đây chi đây?” “Có hai cái lận.” Bác Ueda và bà Mieko sáng mắt lên, nhổm người về phía trước. Không hiểu sao, tôi có cảm giác mình không thể tiếp tục chường mặt ra ở đây thêm nữa. “Là tranh cuộn nhỉ?” Anh Holmes đeo găng tay trắng rồi cẩn thận cầm cuộn tranh lên. Sau khi nhẹ nhàng mở nó ra, anh tròn mắt thốt lên, “Cái này là...” Bên trong cuộn tranh hiện lên hình ảnh Bồ Đề Đạt Ma tràn đầy sức mạnh. Những đường nét có vẻ được vẽ bằng mực và đôi mắt mở trừng trừng trông đều vô cùng ấn tượng. “Tranh thiền của Bạch Ẩn Huệ Hạc. Bất ngờ ghê, là hàng thật.” Dù giọng điệu nghe bình thản, nhưng đôi mắt sáng lấp lánh lại thể hiện rằng anh ấy đang hưng phấn. “Bà hổng biết Bạch Ẩn Huệ Hạc, nhưng bà đã thấy tranh Đạt Ma này ở đâu đó rồi. Ồ, là đồ thiệt hở?” Nghe bà Mieko hào hứng hỏi, anh Holmes khẽ gật đầu. “Bạch Ẩn Huệ Hạc là một thiền sư vào khoảng giữa thời Edo, được mệnh danh là tổ trung hưng của tông Lâm Tế[14].” “Trung hưng tông Lâm Tế nghĩa là...?” “Tông Lâm Tế là một trong những dòng thiền, ‘trung hưng’ nghĩa là ‘phục hưng lại thứ đã một lần lụi tàn, đứt đoạn’. Tóm lại, đó là người có công lao to lớn trong việc phục hồi lại giáo lí của một dòng thiền.” “À, ra là vậy.” “Bạch Ẩn giải thích những giáo lí thiền rất dễ hiểu, trở thành người được xưng tụng là tổ trung hưng. Ngài là vị cao tăng tên tuổi được sánh ngang tầm với núi Phú Sĩ, như trong câu nói: ‘Có hai thứ kì vĩ vượt bậc ở đất Suruga[15], đó là núi Phú Sĩ và Bạch Ẩn.’” Nói rồi, anh Holmes thả ánh mắt xuống cuộn tranh. “Ôi, ngạc nhiên thật. Tình trạng bức tranh Đạt Ma vẫn còn tốt, tuyệt quá.” “Nè, Holmes, cái đó mấy tiền con?” Bác Ueda ló mặt ra rồi hỏi thẳng. “... Để xem...” Anh Holmes nheo mắt rồi đáp. “Chắc cũng tới tầm hai triệu năm trăm nghìn yên ạ.” “Hai triệu?” Giọng tôi cất lên the thé. Cái này từng ấy tiền? Thế mà tôi đã chỉ mong được khoảng mấy chục nghìn yên. Số tiền ngoài dự đoán làm tim tôi đập thùm thụp trong lồng ngực. Tôi đã vô tư cho một thứ ngoài sức tưởng tượng vào trong túi giấy rồi mang đến đây rồi... “Anh xem luôn cái còn lại nhé.” Anh Holmes vui vẻ thò tay vào trong túi giấy, như thể ngó lơ sự dao động của tôi. “A, em nghĩ cái đó cũng là tranh của cùng một người. Dù không phải tranh Đạt Ma đâu ạ.” “Làm anh háo hức quá.” Vừa trải cuộn tranh ra, anh ấy bỗng khựng lại. “Gì đấy, lần này là tranh con nít à? Dễ thương thế.” “Ồ, Bạch Ẩn mà cũng vẽ tranh như thế này ha.” Trái ngược với hai người lớn đang trò chuyện vui vẻ, anh Holmes chỉ mở to mắt, không nói năng gì. Trông mặt anh hơi tái đi, không hiểu có phải do tôi tưởng tượng ra không nữa. “Sao vậy, Holmes?” “À, không ạ. Cháu từng xem tranh Bạch Ẩn vẽ trẻ con rồi, nhưng tranh em bé này thì lần đầu cháu trông thấy.” Bàn tay đang cầm cuộn tranh của anh Holmes hơi run rẩy. “Sao hở? Là đồ gì ghê gớm lắm à?” “... Vâng. Nói thế nào nhỉ, cháu không thể định giá được.” Câu nói anh Holmes vừa lặng lẽ thốt ra làm tôi hoang mang “hả?” một tiếng. Không định giá được? Anh Holmes nhẹ nhàng ngẩng mặt lên nhìn tôi, đứa lúc này đang ngẩn ra ngơ ngác. “... Aoi, tranh cuộn này là của ai vậy?” “Chúng là của người ông đã mất của em. Ông rất thích các tác phẩm nghệ thuật cổ, hay sưu tập cái này cái kia.” “Vậy à? Anh hỏi chuyện này thực sự có chút lạc đề, nhưng vì lí do gì mà Aoi cần tiền đến mức phải mang bán di vật của ông nội đi như thế?” Anh nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi rất dịu dàng. Còn tôi thì cụp mắt xuống, không dám nhìn trực diện. “Là tiền tàu tốc hành ạ. Dù thế nào em cũng muốn về Saitama.” “Ra thế, cũng sắp nghỉ xuân rồi, con muốn gặp bạn bè ha? Nhưng cái đó hỏi xin má là được mà?” Bà Mieko nói. Thế là anh Holmes liền khẽ đặt ngón trỏ lên miệng như muốn nói, “Giờ mình im lặng đã, bà ơi.” Thấy thế, bà Mieko vội vã ngậm chặt miệng và co vai lại. “Có chuyện gì xảy ra à?” Anh ấy dịu dàng hỏi lại. Tôi cúi gằm mặt và cắn môi. Một lúc sau, tôi mở miệng. “Là vì...” Đồng thời, nước mắt tôi bỗng nhiên ứa ra, rơi lã chã. “Th-Tháng trước, người em đang hẹn hò đã nói với em rằng, ‘Thôi chúng ta chia tay đi.’” Bà Mieko và bác Ueda mang vẻ mặt nhẫn nại nghe tôi bộc bạch như thể rặn ra từng chữ một. “... Kh-Khi ấy em đã nghĩ rằng ‘đành vậy’. Khoảng cách xa thế cũng khó mà gặp được nhau. Lại còn chẳng tránh được chuyện xa mặt cách lòng... dù rằng em rất khổ sở và buồn bã...” Tôi đã hẹn hò với cậu ấy từ thời cấp hai. Chúng tôi còn vào cùng một trường cấp ba, tôi đã tin rằng cả hai sẽ ở bên nhau mãi mãi. Thế nhưng, tôi lại phải chuyển đến Kyoto... “Trong thời đại này, mạng Internet các kiểu kết nối đến mọi nơi mà, khoảng cách xa cũng không có vấn đề gì cả. Yên tâm đi, tớ nhất định sẽ vào đại học ở Kyoto cho mà xem.” Giây phút tạm biệt tôi, cậu ấy đã nói vậy. Thế nhưng, liên lạc cứ ngày một thưa dần. “... Xin lỗi, chúng ta không thể tiếp tục được nữa rồi.” Lời chia tay cuối cùng cũng được nói ra. Đây là chuyện tôi đã có dự cảm từ trước. Tuy khổ sở, nhưng lúc đó tôi đã nghĩ rằng, “Không thể trách được ai”... Vì hoàn cảnh gia đình mà phải xa cậu ấy, tôi đã cảm thấy có lỗi lắm rồi. Thế mà... “Nhưng, nghe đâu cậu ấy đã ngay lập tức bắt đầu hẹn hò với người con gái khác. Người kia lại là... bạn thân của em. Hôm trước em vừa mới biết được chuyện ấy.” Đúng, người ấy từng là bạn thân của tôi... Là người tôi đã nghĩ là bạn thân mình. Là cô bạn mà tôi ngay lập tức trở nên thân thiết, gắn bó sau khi lên cấp ba. Chúng tôi lúc nào cũng ở bên nhau và tôi đã nghĩ đấy là người bạn tuyệt vời nhất của mình. Cậu ấy còn nói rằng, “Aoi với bạn trai đẹp đôi lắm đó! Cậu cứ yên tâm chuyển tới Kyoto nhé, tớ sẽ trông chừng không để cậu ta lăng nhăng đâu,” vậy mà... Có phải cậu ta đã tiếp cận bạn trai tôi, ngay khi tôi vừa đi khỏi? Có phải cậu ta đã mừng thầm, bởi vì tôi phải chuyển đi? Sao chuyện lại thành ra bạn trai hẹn hò với bạn thân cơ chứ? Tôi không cam tâm, khổ sở, u sầu. ... Tôi không biết làm thế nào mới phải. Tôi muốn quay về Saitama ngay bây giờ. “Ra vậy. Vì thế mà em muốn phi về Saitama ngay.” Anh Holmes gật gù. Bà Mieko thì nheo mắt lại với vẻ thương hại. “Chà chà, nhưng mà con về đó rồi làm gì nữa?” Câu hỏi đó làm tôi nghẹn lời. Đúng... vậy. Về đó rồi làm gì nữa? Tôi đã từng nghĩ đến chuyện đó rất nhiều lần. “... Ch-Cháu muốn xác nhận lại. Cháu cũng có đầy thứ để nói với họ! Cháu muốn nói với hai người đó là họ ác lắm, cháu sẽ không tha thứ đâu! Tại vì, họ thật sự quá đáng mà! Họ quá ác với cháu!” Những điều tôi đã kìm nén cho đến giờ này trào ra ào ào như đập xả nước. Vì không muốn gia đình lo lắng, tôi không thể khóc ở nhà. Ở trường tôi cũng chưa có người bạn nào để có thể giãi bày mọi chuyện. ... Tôi đã phải chịu đựng một mình. Sự thật là tôi đã luôn muốn cất tiếng khóc thật to. Tôi vùi mặt xuống bàn, hai hàng nước mắt chảy ra. Khi tôi bắt đầu khóc lên thành tiếng, một bàn tay to lớn liền xoa đầu tôi rất dịu dàng. “Aoi, em hãy nhìn bức tranh đứa bé mà em mang đến đi nào.” Dù đang bật ra những tiếng nức nở, tôi vẫn lặng lẽ ngẩng mặt lên vì câu nói ấy. Bức tranh đứa trẻ được vẽ bằng những nét cong mềm mại. Có vẻ đứa trẻ đang ngủ, nhưng trông cũng giống như đang mỉm cười. “Em có biết Bạch Ẩn không?” Anh ấy dịu dàng hỏi, còn tôi khẽ lắc đầu. Bức tranh này được tôi mang đến đây với suy nghĩ, “không hiểu tại sao nhưng nhìn có vẻ ổn”. Cho nên, chuyện về tác giả thì tôi chẳng hay biết chút gì. “Như lúc nãy anh đã nói, Bạch Ẩn là một bậc cao tăng vĩ đại đến mức tên tuổi sánh ngang tầm núi Phú Sĩ. Thế nhưng, thanh danh ấy cũng có lúc bị rơi xuống đất.” “...Ơ?” “Khi Bạch Ẩn sống trong chùa Shouin-ji ở Numazu[16], đã xảy ra vụ việc con gái của gia chủ bảo trợ cho nhà chùa mang thai. Bối rối khi bị người cha nghiêm khắc tra hỏi đứa trẻ là con ai, cô con gái đã nói dối rằng, ‘Là con của ngài Bạch Ẩn,’ vì nàng nhớ đến chuyện cha mình thường ngày rất sùng bái vị thiền sư này. Có lẽ nàng nghĩ rằng chỉ cần nói ra cái tên Bạch Ẩn thì mọi chuyện sẽ êm xuôi. Thế nhưng, cha nàng lại nổi giận đùng đùng. Ông bế đứa bé mới sinh tới chỗ Bạch Ẩn, giúi nó cho ngài và nói, ‘Làm con gái ta có chửa, nhà ngươi đúng là tên sư sãi thối tha không ra gì. Giờ thì nhận lấy đứa bé này đi.’” “Ơ... Thế ngài Bạch Ẩn bảo gì ạ?” “Đối với sự buộc tội vô căn cứ, Bạch Ẩn đã nhận lấy đứa bé mà không có lấy một lời biện hộ. Sau đó, dù bị người đời phỉ báng là ‘đồ sư sãi thối tha’, nghe nói ngài vẫn cố hết sức đi lòng vòng khắp nơi xin sữa để nuôi đứa trẻ. Cô con gái, người sinh ra đứa trẻ, đã không thể chịu đựng được cảnh này. Bị cảm giác tội lỗi dằn vặt, nàng vừa khóc vừa thú nhận sự thật với cha mình. Người cha rất sốc sau khi nghe con nói ra sự thật, lập tức tới chỗ Bạch Ẩn cầu xin được lượng thứ. Đáp lại, Bạch Ẩn chỉ nói, ‘À, vậy ư? Hoá ra đứa trẻ này cũng có cha,’ rồi trả lại đứa bé, không một lời trách cứ người cha và cô con gái. Em nghĩ Bạch Ẩn thực ra có cảm xúc thế nào đối với vụ việc này?” Nghe anh Holmes hỏi như vậy, tôi chẳng nói được gì. Một Bạch Ẩn bị phản bội, bị vu oan giá hoạ, bị chửi rủa, vậy mà vẫn hết lòng nuôi nấng đứa bé, không biện minh cho mình dù chỉ một câu. Một Bạch Ẩn đã trả lại đứa trẻ cho người cha tới tạ lỗi vì trót mắc sai lầm.Ngài ấy đã “có cảm xúc thế nào” ư... ? Có lẽ thực ra, ngài ấy đã nổi giận và nghĩ, “Các người toàn tự ý làm bừa.” “Phải chăng điều đó đã được thể hiện trong bức tranh này?” Anh Holmes chăm chú nhìn bức tranh đứa trẻ bằng ánh mắt dịu dàng. Bức tranh vẽ một đứa bé đang ngủ trong bộ dạng nhìn thật hạnh phúc. Chỉ có thể cảm nhận được từ đó “sự trìu mến” mà thôi... “... Hức.” Những giọt nước mắt rất to lại một lần nữa trào ra nơi khoé mắt. Phải chăng Bạch Ẩn, dù bị đối xử thế nào, vẫn chấp nhận, yêu thương và bao bọc mọi điều? Dù có bị ép phải nhận lấy hay bị tước đoạt khỏi tay. Tôi cảm thấy xấu hổ khi bản thân là một đứa chất chứa đầy căm ghét, oán hận, không sẵn lòng tha thứ, luôn cho rằng người khác đối xử ác với mình. Tôi lại càng xấu hổ hơn vì bản thân đã lăm le định bán món báu vật quý giá nhường này của ông chỉ để đi gặp người ta rồi phun ra những lời uất hận. ... Thế nhưng, kể cả vậy thì cảm xúc này dù thế nào cũng vẫn đau đớn vô cùng. Nó khiến tôi khổ sở đến nỗi không biết phải làm sao. Nước mắt tôi vẫn không ngừng chảy. “Aoi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không?” Câu thì thầm ngắn gọn ấy của anh làm tôi hoang mang ngẩng mặt lên, “Ơ?” “Em có mắt nhìn rất tốt. Thay vì lén lút bán bảo vật của gia đình đi để lấy tiền, em nghĩ thế nào về việc lao động chân chính nhằm kiếm phí tàu xe?” “Nhưng, nhưng mà...” “Anh nghĩ rằng, đến khi để dành đủ lộ phí đi đường, nếu em vẫn nhất quyết muốn trở về Saitama bằng mọi giá như bây giờ, thì em cứ đi để cho lòng mình thoải mái cũng được.” Nhìn gương mặt tươi cười của anh Holmes, tôi cảm thấy một thứ gì đó ấm áp bỗng trào lên trong lồng ngực. ... Đúng rồi. Tôi đã nghĩ mình phải quay về ngay bây giờ, “muốn xác nhận lại, muốn phàn nàn trách cứ”. Vì thế, tôi cần tiền ngay, làm gì có thì giờ rảnh để mà làm thêm chứ. Người ta thường sẽ bỏ lỡ nhiều điều vì những hành động bị thúc đẩy bởi suy nghĩ xốc nổi như thế đấy. Tôi từng nghe một câu nói đại ý là, có những lúc con đường sẽ hình thành như thể đã có một điều gì đó được chuẩn bị sẵn. Bây giờ, tôi đang có cảm giác như thế. Tôi muốn học một cái gì đó ở đây, bên cạnh người con trai bí ẩn này. “Vâng... Nhờ anh giúp đỡ.” Tôi cúi đầu cái rụp. Thấy vậy, bác Ueda và bà Mieko vỗ tay bảo, “Tốt quá rồi còn gì.” “May quá, thật ra anh vẫn đang tìm người phụ giúp cho cửa hàng đây.” Anh Holmes nở một nụ cười rất đỗi dịu dàng. “... Hôm nay thật lòng cảm ơn anh. Từ giờ mong anh chiếu cố em ạ.” Tôi cất tranh cuộn của Bạch Ẩn vào túi giấy rồi cúi đầu. “Anh cũng rất mong được em giúp đỡ.” Anh Holmes cúi đầu đáp lại. “Em xin phép.” Chuẩn bị ra khỏi cửa hàng, tôi bỗng dừng chân và quay lại hỏi một chuyện mình vẫn còn đang thắc mắc. “Anh này, tại sao anh lại bảo em có ‘mắt nhìn tốt’ chứ? Với lại, làm thế nào mà anh biết được em sống ở đâu?” Nghe tôi hỏi xong, anh ấy cười khúc khích. “Cái bát mà lúc nãy Aoi dừng chân ngắm nghía là ‘bát Shino’. Một trong những báu vật của ông nội anh đấy.” “Bát Shino?” “Đó là quốc bảo thời Momoyama[17]. Nó được xem là một tuyệt tác, nếu đánh mất thì sẽ không thể tạo ra lần thứ hai. Nếu quy ra tiền chắc tầm sáu mươi triệu yên đấy.” “S-Sáu mươi triệu? Để một vật ghê gớm như vậy ở chỗ đó liệu có sao không ạ?” “Chuyện này chỉ nói ở đây thôi nhé.” Anh Holmes đặt ngón trỏ lên miệng và nở nụ cười ranh mãnh. “Nhưng em đã thấy cảm động vì bức tranh núi Phú Sĩ lúc nãy đấy? Cái đó là đồ giả đúng không anh?” “À, cái đó là bản sao chép được gọi là ‘tranh dựng’. Chính Taikan cũng hết sức nỗ lực trong việc phổ cập ‘tranh dựng’ bởi ông ‘muốn nhiều người được thấy tác phẩm của mình hơn’. Thậm chí ông còn cung cấp cả loại mực mà mình đã sử dụng. Vì đây là thứ đã được chính tác giả công nhận, nên dù không được như đồ thật thì tranh dựng cũng có thể cho người ta chiêm ngưỡng một sức hút không thể xem thường. Anh nghĩ việc bức tranh ấy làm em cảm động lại là một yếu tố cho thấy em có mắt nhìn.” “Th-Thế ạ? Vậy, vì sao anh biết được nơi em sống?” “À, chuyện đó... Anh nghĩ chẳng mấy mà em sẽ hiểu ngay thôi.” Anh Holmes nói vậy rồi cười khúc khích với vẻ thích thú. ... Chẳng mấy... sẽ hiểu? Tuy còn hơi thắc mắc, nhưng tôi vẫn cảm ơn anh ấy lần nữa rồi ra khỏi cửa hàng. Trời đã nhá nhem tối. Khu mua sắm mái vòm Sanjo đã lên đèn sáng trưng, phơi bày dáng vẻ huyên náo và nhộn nhịp thật khác biệt so với ban ngày. Giờ thì về nhà thôi... Từ bấy giờ, tôi sẽ cố gắng làm việc ở nơi này. Có thể vận mệnh của tôi sẽ thay đổi chính từ cột mốc ngày hôm nay. Sự kiện xảy ra vào một ngày xuân khi tiết trời vẫn còn se lạnh đã đem đến cho tôi dự cảm kì lạ ấy. CHƯƠNG 1 NGUYỆN ƯỚC DƯỚI TÁN HOA ANH ĐÀO 1 “A oi, nếu được, em có muốn làm việc ở đây không?” Chàng trai kì lạ ở tiệm đồ cổ “Kura”, toạ lạc tại Teramachi Sanjo thuộc Kyoto. Đã ba tuần trôi qua kể từ khi tôi được anh Yagashira Kiyotaka, thường gọi là “Holmes”, mời đến làm thêm ở tiệm. “Mẹ ơi, con đi đây ạ.” Một ngày Thứ Bảy thượng tuần tháng Tư. Sau khi cẩn thận chải chuốt tóc tai, tôi hối hả lao xuống cầu thang rồi phi ra cửa. “Này Aoi, không được chạy trên cầu thang!” Ló mặt ra từ phòng khách, mẹ tôi cao giọng phàn nàn. Tôi chỉ đáp một tiếng “vâng” đơn giản rồi xỏ chân vào đôi giày thể thao. “Hôm nay con đi làm thêm à?” “Vâng.” “Đi thế có sớm không?” Mẹ vừa nhìn đồng hồ vừa hỏi. “Hôm nay con định đạp xe lòng vòng một chút. Thế nhé. Con đi đây.” Tôi lao ra khỏi cửa rồi cứ thế leo lên chiếc xe đạp dựng sẵn trước nhà. Khoảnh khắc tôi bắt đầu guồng chân đạp, cơn gió dịu nhẹ khẽ mơn man gò má của tôi. Làn gió xuân ấm áp quyện với mùi lá non. (Ôi, thật là dễ chịu.) Mùa hè thì nóng chết người, nên tôi thấy thời tiết tầm này thực sự là tuyệt hảo. Tôi khoan khoái đạp xe xuôi về hướng Nam trên con đường dọc mang tên “Đường chính Shimogamo”. Sau khi băng qua đường ngang gọi là Đường Imadegawa, “Đường chính Shimogamo” đổi tên thành “Đường Kawaramachi”. Để tới nơi làm thêm ở Teramachi Sanjo, tôi chỉ cần đi về phía Nam theo Đường Kawaramachi này là được. Vậy nên, mọi khi tôi luôn cứ thế chạy thẳng một mạch, nhưng hôm nay, tôi rẽ trái (phía Đông) sang Imadegawa để đi về hướng sông Kamo. Từ Đường Imadegawa có thể nhìn thấy phần hợp lưu, nơi hai con sông Takano cùng Kamo (Hạ Mậu) hoà làm một và trở thành “sông Kamo” (Áp) [18]. Nghe đâu cách viết chữ Hán của sông Kamo (Hạ Mậu) sau khi hợp lại với sông Takano bị đổi thành “Kamo” (Áp). Rồi thì, địa điểm hợp nhất này còn là “điểm hội tụ khí lực”. Tôi mất công đi đường vòng một chút dù phải đến chỗ làm thêm... không phải là vì muốn tranh thủ xem nơi hợp lưu sông được gọi là “điểm hội tụ khí lực”. Mục tiêu của tôi là những cây hoa anh đào nở rộ đang xếp hàng hàng lớp lớp hai bên bờ. Vừa đạp xe tôi vừa reo lên trong vô thức. “Ôi, đẹp thật đấy!” Kyoto bây giờ đang đón mùa hoa anh đào. Hàng cây anh đào đã rải vô số những cánh hoa xuống mặt sông Kamo sáng lấp lánh trong ánh nắng rực rỡ chói loà. Quả là một khung cảnh tuyệt sắc. Chắc hẳn có rất nhiều người từ xa tới thăm nơi đây để ngắm nhìn cảnh tượng này. Một đứa chỉ cần hứng lên là có thể tới đây ngắm hoa bằng xe đạp như tôi có lẽ đã nhận được quá nhiều ưu ái. Tôi tiếp tục xuôi theo đường bờ sông rồi chạy về phía Nam. Tôi guồng chân đạp pedal dưới tán anh đào, nhìn sang là dòng sông Kamo. Thực sự rất tuyệt vời. Giá mà không có bóng dáng mấy cặp đôi đang tình tứ ven bờ thì còn tuyệt vời hơn nữa. Khi bóng dáng những cặp tình nhân thắm thiết lọt vào mắt, tôi luôn bất chợt nhớ đến người bạn trai đã chia tay. Đồng thời, tôi cảm thấy nhức nhối nơi lồng ngực. Tuỳ tiện tưởng tượng đến cảnh cậu ấy và cô bạn thân đến với nhau xong, lòng tôi đau nhói. Thế này không được rồi. Khổ sở vì lời chia tay mà cậu ấy nói ra, khổ sở vì bạn thân và cậu ấy hẹn hò, ý nghĩ “vì sao lại như vậy?” cứ lặp đi lặp lại trong đầu tôi thành một mớ bòng bong không cách nào tháo gỡ. Tuy nhiên, việc hai người ấy hẹn hò chỉ là chuyện tôi nghe phong thanh. Biết đâu thật ra đấy chỉ là lời đồn thổi. Biết đâu có chuyện gì nhầm lẫn. Tôi muốn đi Saitama ngay bây giờ để kiểm chứng thực hư. (Không được, không được. Giờ có nghĩ ngợi cũng không giải quyết được gì.) Tôi khẽ lắc đầu, kiên định ngẩng mặt lên. Những cánh hoa anh đào nhảy múa trong làn gió dịu dàng. Vẻ đẹp ấy khiến trái tim đau đớn như bị băm vằm của tôi được chữa lành đôi chút. Trước mắt, bây giờ chỉ nên nghĩ đến chuyện tiết kiệm lương làm thêm thôi. Tôi đã quyết định chuyện sau này thì để đến lúc ấy tính. Tôi nắm chắc ghi đông rồi nhấn pedal. Chắc là tôi đã đạp xe như thế khoảng mười lăm phút? Xác nhận rằng mình đã đến Đường Oike xong, tôi đi lên con phố phía trên. Di chuyển thêm một chút về hướng Tây là sẽ có thể trông thấy Toà thị chính Thành phố Kyoto. Đó là một công trình bằng đá mang phong cách phương Tây, nhìn chẳng giống Toà thị chính tẹo nào. Nghe nói tòa nhà này được xây dựng từ đầu thời Chiêu Hoà[19], nhưng nét hoài cổ và sự trầm mặc khiến người ta liên tưởng tới chất lãng mạn thời Minh Trị-Đại Chính của nó mới là đặc điểm thực sự tuyệt vời. (Lần đầu tiên nhìn thấy Toà thị chính này, mình đã rất kinh ngạc. Đúng là Kyoto, có bao nhiêu thứ bá đạo vô cùng.) Trong lúc nghĩ ngợi mấy chuyện như thế, tôi dừng xe ở bãi đỗ xe Oike rồi tiến vào phố mua sắm mái vòm Sanjo. Mười giờ năm mươi phút sáng. Tôi hẹn giờ làm việc bắt đầu từ mười một giờ. Có vẻ tôi sẽ không bị muộn. 2 “C hào ngày mới.” Giống như mọi khi, sau khi điều hòa lại nhịp thở ở đằng trước cửa hàng, tôi đưa tay mở cánh cửa cổ kính. Chuông cửa vang lên leng keng, và cùng lúc đó, tôi trông thấy hai người đàn ông ngồi ở quầy thu ngân. “Chào buổi sáng, Aoi.” Một người là anh Yagashira Kiyotaka, còn gọi là Holmes, cũng là người đã đề nghị tôi nhận công việc làm thêm này. Và một người nữa là... “Chào cháu, Aoi.” Bố của anh Holmes, bác Yagashira Takeshi. Bác ấy có thân hình dong dỏng, đeo kính, mặc áo gi lê, nụ cười hòa nhã rất giống anh Holmes. “Hôm nay cũng mong được mọi người giúp đỡ ạ.” Tôi cúi đầu thêm lần nữa. Tôi đến đây làm thêm đã được một thời gian. Cuối cùng thì tôi cũng biết được rất nhiều chuyện trong cửa hàng này. Hôm ấy, tôi cứ đinh ninh anh Holmes - người đã mời tôi làm thêm ở đây - là “ông chủ trẻ”. Nhưng thực ra không phải vậy. Chủ nhân thực sự của cửa hàng này là ông của anh Holmes. Thế nhưng, nghe đâu người ông ấy là “Chuyên gia giám định cấp Quốc gia” được mệnh danh là “nhà giám định trong truyền thuyết”, không ngừng bay nhảy khắp tỉnh này tỉnh kia trên toàn quốc hoặc đi vòng quanh thế giới. Trong thời gian chủ cửa hàng thực sự không có ở đây, bố anh Holmes và anh ấy thay phiên nhau quản lí cửa hàng, đồng thời vẫn phải đầu tư công sức cho công việc chính. Nghề chính của bác trai là... Tôi khẽ liếc nhìn tay bác ấy. Tay phải bác cầm bút bi và viết những đoạn văn lên trang giấy bản thảo... Đúng vậy, bố anh Holmes là một nhà văn. Bác ấy chuyên viết tiểu thuyết lịch sử hoặc các chuyên mục trên báo. Bác lúc nào cũng sáng tác trong lúc trông cửa hàng như thế này. (À, nói thêm thì, nghề nghiệp chính của anh Holmes tất nhiên là sinh viên.) “Aoi vừa đến là trong cửa hàng như sáng bừng lên vậy. Vì ở đây toàn đàn ông con trai hết mà.” Bác trai ngẩng lên với một nụ cười dịu dàng hiện diện trên gương mặt, không biết có phải vì để ý thấy ánh mắt của tôi không. “Thôi mà bác...” Tôi vội vàng đeo tạp dề, cảm thấy rất ngại ngùng. Theo những gì tôi nghe được từ các khách quen, nhà Yagashira không có phụ nữ. Chủ tiệm là ông nội anh Holmes, có vẻ là một người phóng khoáng, đã li hôn và sống độc thân từ lâu. Vợ của bố anh Holmes, tức là mẹ anh ấy, đã mất vì bệnh khi anh Holmes được hai tuổi. Bởi lẽ đó, nhà Yagashira chỉ toàn đàn ông con trai. Vì ba người có họ giống nhau cùng quản lí cửa hàng, nên họ được gọi bằng những cái tên khác nhau, ông nội anh Holmes là ‘ông chủ”, bố anh Holmes là “quản lí”, anh Holmes là “Kiyotaka” hoặc “Holmes”. (Nhưng mà, hiếm lắm mới thấy hai bố con nhà Yagashira cùng xuất hiện.) Cảm giác thường sẽ chỉ có một trong hai người ở cửa hàng, hoặc là quản lí, hoặc là anh Holmes. “À, anh sắp ra ngoài, nên hôm nay bố anh đến đây trông giúp.” Anh Holmes quay sang phía tôi và cười thật tươi. Tôi bị sặc vì ngạc nhiên và ho khù khụ. “Đ-Đã bảo là anh đừng đọc suy nghĩ của người khác như thế nữa rồi.” “À, xin lỗi. Vì em cứ nhìn qua nhìn lại hai bố con anh với vẻ thắc mắc mà.” Anh Holmes có mắt quan sát xuất chúng. Thực ra, không phải anh có khả năng đọc suy nghĩ của mọi người, mà dường như anh luôn biết được nhiều điều từ cử chỉ, lời nói và hành động của người khác. ‘“Đọc suy nghĩ’ kia à, Aoi lúc nào cũng phóng đại ghê.” Anh cười khì thích thú còn tôi chỉ biết đờ mặt ra. Đối với tôi, người không biết bao nhiêu lần thình lình bị đoán trúng những gì đang nghĩ, đây thực sự giống như bị đọc thấu tâm can, tuyệt đối không phải là phóng đại. ... Quả nhiên, nhận được câu trả lời cho tiếng lòng rất không tốt cho tim mạch. “Đúng rồi, Aoi. Lên tầng hai một lát đi.” Vẻ như nhớ ra chuyện gì, anh Holmes đứng dậy. Câu nói của anh làm tim tôi hơi nảy lên một chút. “À, vâng ạ.” Khi anh Holmes gọi tôi lên tầng hai... Luôn luôn là lúc anh cho tôi xem “thứ gì đó”. Tôi cùng anh bước lên cầu thang của cửa hàng, trong lòng vô cùng hồi hộp. Đi hết bậc thang có một cánh cửa. Anh lấy xâu chìa khóa đeo ở hông ra, mở cửa với những âm thanh lạch cạch. Đây là căn phòng chỉ có một cửa sổ nhỏ và quạt thông gió, không hề được trang trí màu mè. Có thể nhìn thấy hàng hoá và các hộp được chất đầy lên kệ. Căn phòng tầng hai này, đúng như vẻ bề ngoài của nó, được gọi là “kho chứa”. Anh Holmes cứ thế xăm xăm tiến vào kho rồi dừng chân trước cánh cửa nằm sâu bên trong. Thứ đập vào mắt tôi là một chiếc khoá bấm. Ngoài nó ra vẫn có chỗ khác bị khoá, tuy không nổi bật. Trên bức tường cạnh cửa, có một nắp che giả dạng ổ cắm, mở nó lên sẽ thấy một cái bảng số như máy tính bỏ túi. Đó là khoá điện tử nhập số. Anh Holmes nhập số một cách thuần thục, kế đó là dùng một chiếc chìa khoá khác mở khoá bấm. Thoạt trông, đó có vẻ chỉ là một căn phòng nhỏ bình thường nằm sâu trong góc kho, nhưng không phải vậy. Cảm giác đúng kiểu “thái độ đề phòng nghiêm ngặt”. Cuối cùng, căn phòng sâu bên trong cũng được mở ra. Dù phòng lưu thông không khí bằng điều hoà, nhưng không có cửa sổ. Cùng thời điểm đèn bật sáng, căn phòng nhỏ hiện lên rõ ràng trong mắt tôi. Có một chiếc bàn ở chính giữa phòng, bên trên bàn đặt một “thứ gì đó” được bọc kín bằng vải. “Cái này là đồ ông anh mang về đêm qua…” Anh Holmes thoăn thoắt đeo găng trắng vào để cởi tuột lớp vải bọc. Ở đó có một chiếc hộp cao chừng năm mươi centimet, được bọc trong khăn furoshiki. Anh ấy tháo gỡ chiếc khăn một cách thuần thục, và thứ xuất hiện sau đó là một chiếc hộp gỗ giản đơn. Anh Holmes mở tiếp nắp hộp gỗ, và một cái bình cao chừng bốn mươi centimet xuất đầu lộ diện. Phần vai bình có vẽ những đường cong lớn lỏng lẻo và phồng lên, từ thân bình đến chân bình là những đường kẻ xiên dài rồi thu nhỏ về phía đáy. Hoa văn được vẽ với màu xanh cô ban trên nền trắng đẹp và tinh tế đến mức làm người ta choáng ngợp. “Oa!” Hoạ tiết là hình nho ư? Chúng được vẽ đẹp đẽ và tỉ mỉ đến tận phần mũi của từng chiếc lá. “... Tuyệt... quá, anh nhỉ?” Khả năng ngôn ngữ nghèo nàn quá thể. Nhưng tôi chỉ nói được thế mà thôi. “Đây là loại sứ thời Nguyên ở Trung Quốc, gọi là ‘sứ Thanh Hoa’.” “Sứ khác với gốm ạ?” “Tuy chúng rất giống nhau và cũng không có ranh giới phân định rạch ròi gốm với sứ, nhưng chất liệu làm nên sứ mang màu trắng, có tính trong mờ, lúc gõ vào nghe có âm thanh kim loại.” “Ồ, đây là đồ thật phải không ạ?” “Đúng rồi, vì sắp tới có triển lãm ở trung tâm thương mại Kyoto, món đồ này được mượn từ nước ngoài về, nên người ta nhờ ông nội anh làm giám định trước đó.” “Nghĩa là ông chủ được trung tâm thương mại nhờ giám định ạ?” “Phải, vì dù nói là đồ mượn từ nước ngoài đi nữa, lỡ đâu trưng bày hàng giả thì sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của trung tâm thương mại ấy mà.” Ông chủ là “Chuyên gia giám định cấp Quốc gia”, thi thoảng cũng được nhờ giám định như thế này, vì vậy, đôi khi người ta sẽ mang tới đây những món đồ mà một thường dân như tôi đáng ra không thể nhìn thấy ở cự li gần như thế. Mỗi khi có món đồ xuất sắc như thế ở trong cửa hàng, anh Holmes nhất định sẽ cho tôi xem. “Màu xanh cô ban này đến từ nhóm các quốc gia Hồi Giáo, thực sự là một màu lam rất sâu và đẹp.” “Vâng, đúng là màu lam rất đẹp ạ.” “Hình dạng vô cùng cân đối và đem lại cảm giác ổn định. Vẻ đẹp của đường viền cùng với sự hoàn hảo chăm chút đến từng góc cạnh. Trên hết, hoa văn này đẹp đến mức làm ta choáng ngợp, đúng không?” Anh nheo mắt với vẻ đắm say và sôi nổi nói, cứ như thể đây là một món đồ đáng tự hào của bản thân mình. Tôi cảm thấy muốn mỉm cười và nghĩ bụng rằng anh ấy đúng thật là một người cực kì yêu mĩ thuật cổ. Nhưng tôi cũng hiểu vì sao anh nói một cách nhiệt thành đến thế. Đây là món bảo vật tuyệt vời ngay cả dưới con mắt của một tay mơ. Chỉ có điều, cái làm kẻ thường dân thấp kém như tôi để tâm là... “Cái này, khoảng bao nhiêu thế ạ?” “Cái này à...? Hồi trước, từng có lần báo đài đưa tin rằng, trong một buổi đấu giá ở nước ngoài, sứ Thanh Hoa nhà Nguyên đã được chốt giá ba tỉ hai trăm triệu yên.” “B-Ba tỉ hai trăm triệu? Cái này ấy ạ?” “Không phải cái này, nhưng ý anh là cũng có người cảm thấy nó mang giá trị chừng ấy.” “Ồ, ồ...” Thế giới của họ khác biệt quá, tôi theo không nổi. Vậy là có những người dễ dàng bị các tác phẩm nghệ thuật cổ hớp hồn, giống như cái cách đá quý hay vàng bạc chiếm đoạt tâm trí người ta vậy. Ông nội tôi, người đã sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật cổ, chắc cũng là một trong số đấy. “Anh Holmes, nếu anh cũng là đại gia, anh có muốn sở hữu cái bình này dù phải bỏ ra một số tiền lớn không?” “Không đâu.” Câu trả lời nhẹ bẫng của anh Holmes làm tôi ngỡ ngàng ngẩng mặt lên. “Ơ thế ạ? Nhưng anh Holmes yêu các tác phẩm nghệ thuật cổ lắm mà?” “Ừ, đúng là như vậy. Nhưng anh không nghĩ, ‘mình muốn có nó trong tay’. Anh chỉ cần được nhìn ngắm những tác phẩm tuyệt hảo như thế này là đủ. Anh mong lúc mình còn sống có thể nhìn ngắm được thật nhiều tác phẩm đẹp nhường này, thêm cái nào hay cái đó. Để làm được điều ấy, anh cảm giác mình có thể đi tới bất cứ nơi đâu trên thế giới. Dù vậy, anh vẫn không nghĩ rằng mình muốn có món đồ ấy. Có thể nhìn ngắm và lưu giữ vào tim, vào kí ức như thế này là hạnh phúc lắm rồi.” Anh Holmes đặt tay lên ngực và nở nụ cười hiền hoà. “R-Ra là vậy.” Tôi hơi lỡ nhịp và gật đầu chẳng hiểu vì lí do gì. Dù có phần ngoài dự đoán, nhưng tôi cảm thấy điều ấy vẫn “rất đúng chất anh Holmes”. “Với anh, không chỉ có bình hay tranh cuộn, mà anh cảm thấy cả đền, chùa, lâu đài hay thành lũy ở nước ngoài cũng đều hấp dẫn. Chúng lại là những thứ bất kể làm gì cũng chẳng sở hữu được, cũng không thể dùng để trang trí trong nhà, đúng không?” Anh nở nụ cười tinh nghịch, khiến tôi cũng khẽ cười theo. “Đúng là như vậy.” “Sắp sửa có nhân viên trung tâm thương mại tới lấy món này đi, thật may là anh vẫn kịp cho Aoi xem trước.” Anh ấy đóng nắp hộp và bọc lại món đồ thật cẩn thận bằng furoshiki. Tôi cùng anh Holmes ra khỏi phòng, lơ đãng nhìn anh khoá cửa lại. ... Đúng là rất nghiêm ngặt, nhưng để ba tỉ hai trăm triệu yên ở chỗ như thế này liệu có sao không? Có thể tôi chỉ đang lo bò trắng răng, nhưng tôi vẫn cứ bị băn khoăn chuyện đó. “Không sao đâu. An ninh ở đây nghiêm ngặt hơn Aoi nghĩ nhiều.” Tay vẫn cầm khóa cửa, anh Holmes nói. Tôi lại ho khù khụ. “Đ-Đúng là bị đọc suy nghĩ thế này không tốt cho tim.” Nhìn vẻ mặt đơ ra của tôi, anh Holmes cười khoái chí. Khi hai chúng tôi xuống cầu thang, tôi nhìn thấy bác khách quen Ueda đang ngồi thư giãn ở sô pha đặt tại góc uống trà. “Ồ, Holmes với bé Aoi đấy à?” Vừa trông thấy chúng tôi, bác Ueda liền giơ tay chào với nụ cười toe toét. “Bác Ueda đấy ạ? Mừng bác ghé nhà. Bác đến gặp bố cháu ạ?” Nghe nói bác ấy là bạn từ thời đại học của quản lí. Nói cách khác, bác ấy cũng là cựu sinh viên Đại học Kyoto. Có vẻ bác ấy đang làm công việc tư vấn kinh doanh ở Osaka. Do ảnh hưởng của nhà Yagashira, bác cũng có hứng thú với các tác phẩm nghệ thuật cổ. Hễ tìm được món nào có vẻ tốt, bác sẽ đến nhờ giám định ở “Kura”. “Ờ đúng đó con. Bữa nay bác mua sách mới của ổng, tính mang qua xin chữ kí đó mà.” Bác Ueda lấy từ trong cặp ra một cuốn sách có tựa đề “Hậu cung”. Vừa nhìn thấy cuốn sách đó, tôi chồm lên phía trước. “Ồ, đây là sách của bác quản lí ạ? Cháu hỏi bác ấy bao nhiêu lẩn xem bác viết sách gì mà đến giờ vẫn chưa được trả lời.” Tôi nhìn bìa cuốn sách và cảm thấy hồi hộp bởi bút danh “Ijyuin Takeshi”. “Bút danh của quản lí là ‘Ijyuin Takeshi’ ạ? Tuyệt quá.” Thế là quản lí liền áp tay lên trán với vẻ khó xử. “Thôi nào, Aoi, cháu cứ quên tác phẩm của bác đi cũng được mà.” “Ơ kìa? Sao bác lại nói thế?” “Bé Aoi, cha này là chúa hay mắc cỡ đó. Được rồi, bác cho con cuốn này, đọc một mạch nha con.” “Ôi vui quá, bác Ueda, cháu cảm ơn bác.” Tôi nhận cuốn sách và ôm chặt vào lòng. “... Sách khó đọc lắm đấy, nên bác không khuyến khích cháu đọc đâu.” Bác quản lí vừa đánh mắt sang chỗ khác vừa nói. Má bác hơi ửng đỏ, làm tôi nghĩ bác có gì đấy thật dễ thương. “Ồng cũng là tác giả lão làng rồi, cũng phải làm quen đi chớ.” Bác Ueda ngán ngẩm nhún vai, còn bác quản lí thì ngoảnh mặt đi chỗ khác. “Đàn ông Osaka thiếu tinh tế không hiểu được đâu.” “Hừ, cái đồ ăn cơm Tokyo màu mè hoa lá hẹ. Rõ ràng là trong người chảy dòng máu Kansai, thế mà lại bán linh hồn cho Tokyo.” Phải, dù được sinh ra ở Kyoto, nhưng quản lí lại lớn lên ở Tokyo. Nghe nói ông chủ li hôn từ khi quản lí còn bé tí. Sau đó, ông chủ bận rộn thấy bản thân không thể nuôi con một mình, bèn đem gửi quản lí đến nhà họ hàng ở Tokyo. Bác quản lí trở lại Kyoto là khi bước chân vào đại học. Vì lẽ đó, quản lí bình thường toàn nói giọng phổ thông. Việc anh Holmes dùng giọng phổ thông có khi cũng do chịu ảnh hưởng từ bố mình. (Nói thêm, tất cả những điều này đều chỉ là thông tin do bác Ueda cung cấp.) “Giờ cháu đi pha cà phê nhé.” Anh Holmes đi về hướng khu trà nước phía sau. “Cám ơn nha. Lát bác có món này muốn Holmes coi giùm nè. Pha cà phê xong thì phiền con nhá.” “Vâng, cháu cũng đoán thế rồi.” Anh Holmes cười khúc khích rồi đi vào bếp. “Gì chớ, lại nhìn thấu nữa sao. Đúng là ‘Holmes’ hén.” Sau khi nhún vai một cái, bác Ueda tươi cười nhìn sang tôi. “Bé Aoi, biết gì hôn? Người đặt biệt danh ‘Holmes’ cho Kiyotaka là bác đó.” “... Dạ? Nhưng cái tên ‘Homes’ là bởi anh ấy mang họ Yagashira đúng không ạ?” “Đấy là nó nói miệng vậy thôi, chứ thiệt ra hổng phải.” “Nghĩa là sao ạ?” “Hình như chuyện từ thời Kiyotaka học mấy năm đầu cấp một hay sao đó? Lúc đến nhà bác chơi, nó nói với bác, ‘Cháu muốn chơi giải đố, bác ra câu đố đi.’” “À, mấy đứa trẻ con hay nói thế phết.” Bọn trẻ họ hàng nhà tôi cũng thế, cứ gặp là lại nhõng nhẽo đòi chơi giải đố hoặc nối chữ miết, chẳng hề có điểm dừng. “Đúng hông con? Thế là bác ra mấy câu hỏi chơi, nó lanh quá, câu nào cũng trả lời được hết trơn. Có ra bao nhiêu câu hỏi nữa, nó vẫn luôn mồm, ‘Câu tiếp theo, câu tiếp theo,’ ồn muốn chết. Thấy mắc mệt, bác mới hỏi, ‘Thế cầu thang nhà bác có mấy bậc nè?’ Nó bảo luôn: ‘Mười lăm bậc.’ Bác hết hồn kêu nó, “Con trả lời bừa đó hở?’ thì nó nói, ‘Không phải, cháu leo một lần rồi nên biết.’ Đấy, xong rồi bác đếm thử, thì đúng thiệt là mười lăm bậc đó con. Bé Aoi, con biết cầu thang nhà mình có nhiêu bậc hôn?” Câu hỏi ấy làm tôi nghẹn họng. ... Nhắc đến số bậc thang hằng ngày tôi vẫn leo lên leo xuống trong chính căn nhà của mình thì tôi... không biết. “Kh-Không ạ.” “Đó? Hổng phải làm cái mặt đó. Bình thường vẫn vậy cả mà. Ờm, lúc đó bác mới nghĩ trong bụng, ‘Thằng nhỏ này là Holmes rồi.’” “... Nhưng mà, sao như vậy lại thành ‘Holmes’ được ạ?” Thấy tôi nghiêng đầu thắc mắc, quản lí khẽ cười. “Sherlock Holmes là nhân vật như vậy đấy. Đó là người khi trông thấy cầu thang sẽ nạp vào đầu cả số bậc cầu thang ngay lúc ấy.” “Th-Thế ạ, siêu quá.” Tôi thấy thán phục từ tận đáy lòng. “Đó là khả năng thiên bẩm đấy. Có những thứ phần lớn mọi người sẽ bỏ sót dù tất cả đều nhìn những sự vật giống nhau. Và ngay cả với những thứ như vậy, Kiyotaka vẫn sẽ coi chúng là thông tin để nắm bắt và xử lí toàn bộ.” “Thế nên anh ấy mới giám định được, phải không ạ? Ông chủ cũng là người như thế sao?” “Bố bác... hơi khác một chút, nhưng lại sở hữu tài năng hiếm có phân biệt được thật giả.” “Còn ông thì chịu thua vụ giám định nhở.” Nghe bác Ueda nói ngay tắp lự, quản lí liên nở nụ cười tươi tắn nhưng lại có vẻ mỉa mai. “À vâng chuyện đó, thành thực xin lỗi quý khách vì sự vô dụng của tôi.” “Thôi thôi, được rồi.” Cả hai dành cho nhau những nụ cười châm biếm. Khi mắt tôi bắt đầu xoay mòng mòng vì bối rối... “Hai người thân thiết thì cũng không vấn đề gì, nhưng đang làm khó Aoi đấy ạ.” Anh Holmes xuất hiện cùng với hương thơm của cà phê. Có bốn cốc cà phê bằng gốm. Chỉ có duy nhất một phần cà phê sữa được chuẩn bị cho tôi. “Em xin ạ.” Ngon quá. Tôi thực sự rất thích cà phê sữa mà anh Holmes pha cho. “Bác xin. Đây, bác muốn con coi cái này.” Bác Ueda hớp một ngụm cà phê rồi đủng đỉnh lôi ra một chiếc hộp từ trong túi giấy. “Cái này ở trong nhà giám đốc chỗ bác đang giao dịch. Nó ấn tượng quá nên bác mượn về đây.” “Cháu hiểu rồi ạ. Vậy cháu xin phép xem nhé.” Anh Holmes lại đeo găng tay trắng, nhẹ nhàng mở hộp ra. Bên trong hộp là một chiếc bình nhỏ có hoa văn xanh trên nền sứ trắng. “... Cái này là?” “Cái này là sứ Thanh Hoa nhở? Sứ Thanh Hoa thời nhà Nguyên đúng hồn?” “Nói sao đây nhỉ... Đúng là duyên kì ngộ.” Anh Holmes nheo mắt lại với vẻ khoan khoái rồi chuyển ánh nhìn sang tôi. “Aoi nghĩ thế nào?” “Dạ?” Tự nhiên bị sờ gáy, tôi hoang mang nhìn cái bình. (... Cái này cùng một loại với cái bình mình vừa xem ban nãy nhỉ?) Tôi nuốt nước bọt cái ực rồi căng mắt ra nhìn. Giả sử thứ này có giá trị ngang với thứ tôi vừa nhìn thấy trên tầng... So ra thì, màu xanh của nó không hề đẹp. Cái khi nãy có màu lam sâu thẳm, là một màu cô ban tuyệt đẹp, cái này rõ ràng chỉ là “xanh”. Nhất là hoạ tiết. Cái bình ở trên tầng được vẽ rất đẹp, hoa văn vô cùng tỉ mỉ, kĩ lưỡng, như thể khí lực được dồn đến cả phần mũi của từng chiếc lá. Còn ở cái này thì cảm giác căng thẳng ấy chẳng hề tồn tại. Không chỉ có hoa văn mà hình dạng cũng thế. Ví dụ như là, tôi rất để tâm đến phần mép bên trên vặn vẹo của chiếc bình này. Tôi biết là về tổng thể, cái bình này có ý bắt chước cái bình kia, nhưng dù thế nào thì đâu đó vẫn xuất hiện những hạt sạn. Cái bình tôi thấy ở trên có một “cái gì đó làm người ta choáng ngợp” mà tôi không lí giải được. So với thứ ấy, hơn cả việc tôi không cảm thấy gì dù ngắm nghía cái bình này đến thế nào, thì có thể nói thẳng luôn là nó quá ư thô thiển. “... Ừm, em nghĩ đây là đồ giả.” Nghe tôi lẩm bẩm ngắn gọn như vậy, anh Holmes gật đầu. “Đúng như em nói.” Bác Ueda trợn tròn hai mắt. “Chi đây? Bé Aoi cũng tinh mắt vậy hở?” “Vâng ạ. Aoi ngay từ đầu đã có mắt nhìn tốt, hơn nữa, nếu nhìn đồ thật trước rồi thì sẽ nhận ra đồ giả ngay thôi.” Anh Holmes đưa mắt về phía tôi như để tìm kiếm sự đồng tình. “V-Vâng ạ. Cháu vừa được anh Holmes cho xem sứ Thanh Hoa sẽ trưng bày ở triển lãm ngay lúc nãy.” Chính vì thế mà tôi cảm nhận được sự khác biệt một cách vô cùng mạnh mẽ. Nếu chỉ nhìn món đồ mà bác Ueda mang đến, tôi có lẽ đã nghĩ là “tuyệt quá” cũng nên. “Ông nội hay nói, ‘Cố gắng chỉ nhìn đồ thật càng nhiều càng tốt.’ Làm vậy thì khi nhìn thấy đồ giả sẽ cảm nhận được sự kém cỏi thôi.” ... Ra là vậy, tôi cảm thấy một sự đồng cảm cực kì dữ dội. “Ai cũng được ban cho cơ hội tiếp xúc với đồ thật, ở các viện mĩ thuật hay viện bảo tàng luôn luôn có những tác phẩm tuyệt vời được trưng bày. Cháu muốn mọi người sẽ tận dụng những nơi như thế nhiều hơn. Có cơ hội chiêm ngưỡng những tác phẩm tuyệt vời mà không đi, theo cháu là một chuyện đáng tiếc không chịu nổi.” Bác Ueda phì cười khi thấy anh Holmes khẽ thở dài. “Gì chớ, bộ là mật thám hở?” “Có lẽ thế ạ.” Anh Holmes chẳng hề tỏ ra xấu hổ, khiến mọi người cười khúc khích. “Cơ mà... cái này là đồ dỏm hở? Mà thôi, chẳng có lí nào sứ Thanh Hoa lại xuất hiện dễ dàng như vậy ha. Bác lại lỡ làm ông giám đốc hi vọng mất tiêu rồi.” Bác Ueda cất hộp gỗ đựng cái bình vào lại trong túi giấy với vẻ tiếc nuối. “Nhưng mà đây cũng không phải đồ kém chất lượng đâu.” “Thế cái này mấy tiền?” “ .. Chắc khoảng năm mươi nghìn yên. Vị kia bị đòi bao nhiêu ạ?” “Bác cũng hổng có hỏi.” Bác Ueda nhún vai. Nghĩ đến việc chắc hẳn người kia đã mua nó với giá trội hơn một hoặc hai số không, mặt tôi đần ra vì tiếc rẻ. “Cháu nghĩ tình huống tốt nhất là khi bản thân người chủ yêu thích và sưu tập nó. Trong trường hợp đó, giá trị của món hàng sẽ do chính người ấy quyết định.” Sau khi nở nụ cười vui vẻ, anh Holmes đưa mắt về phía chiếc đồng hồ tủ đứng trong cửa hàng. “A, sắp đến giờ rồi. Vậy con đi đây bố ạ.” “Ừ, nhờ con nhé.” Quản lí gật đầu, rồi bỗng đánh mắt sang tôi. “Đúng rồi. Hay Aoi cũng đi cùng? Có khi cháu sẽ học hỏi được gì đấy.” Câu nói đó khiến tôi ngơ ngác quay đầu lại. “Ủa, anh đi đâu thế ạ?” “Chùa Ninna-ji. Vừa đúng dịp ngắm hoa anh đào. Bố anh cũng nói vậy rồi, mình đi chung nhé.” “Vâng!” Tôi gật đầu thật mạnh, đáp lại nụ cười tươi tắn của anh Holmes. 3 ... Tôi từng nghe ai đó nói rằng, ngày xưa, Kyoto vào mùa xuân và mùa thu rất “đặc biệt”. Khi tôi kể chuyện ấy với người ông giờ đã mất, ông xoa đầu tôi và bảo, “Hổng cứ gì xuân, thu, Kyoto bốn mùa đều có cái hay riêng, từng mùa đều có những địa danh nổi tiếng đó.” Tôi bèn hỏi, “Vậy điểm nổi tiếng với hoa anh đào là ở đâu ạ?” Lúc đó, ông tôi đã trả lời rằng, “Cái đấy nhiều lắm con, nhưng trước tiên phải kể đến chùa Ninna-ji đó.” Từ đó, hình ảnh “địa danh hoa anh đào nổi tiếng của Kyoto là chùa Ninna-ji” đã gắn chặt vào tiềm thức của tôi. ... Nhưng tôi vẫn chưa một lần đến đó. “Vậy à, Aoi vẫn chưa từng đến chùa Ninna-ji nhỉ?” Anh Holmes vừa lái xe vừa ra vẻ hưởng ứng, nghe vậy tôi gật đầu đáp, “Vâng,” rồi liếc nhìn logo Jaguar từ cửa kính phía trước. “Đúng là nếu nói đến hoa anh đào thì người ta hay liên tưởng đến hình ảnh ‘chùa Ninna-ji’, nhưng cũng có nhiều địa điểm ngắm hoa khác như thần cung[20] Heian hay đền Hirano nữa. Con đường Triết Học[21] cũng đẹp này.” Anh Holmes hào hứng nói, còn tôi thì cứ gật gù, không làm thế nào ngừng để ý đến logo Jaguar được. Thì bởi, đây đâu phải kiểu ô tô mà một sinh viên có thể lái chứ? “... Ừm, anh Holmes, anh đi xe oách quá.” “À, đây là xe của ông chủ đấy.” “Ồ, là xe của ông nội anh ạ?” “Đúng rồi, ông nội thích Jaguar mà. Nhà sáng lập Jaguar là Lyons[22] có tư tưởng rằng ‘những thứ đẹp đẽ sẽ bán chạy’. Ông của anh có vẻ đã cảm động đến mức khắc cốt ghi tâm tư tưởng ấy.” “Ồ...” “Thế nhưng, ông không có nhiều dịp lái xe nên bây giờ nó thành một dạng như xe công ty của ‘Kura’ rồi.” “Xe công ty thế này thì đỉnh quá.” Tôi vô thức làm mặt căng thẳng. Anh Holmes thấy vậy bèn nở nụ cười dễ chịu. Chúng tôi chạy tiếp khoảng ba mươi phút thì đến chùa Ninna-ji. Hôm nay là Thứ Bảy, lại trong mùa hoa anh đào, nên bãi để xe đã kín chỗ, nhưng chúng tôi là khách do chùa mời đến nên được hướng dẫn đi đỗ xe ở một nơi khác. Thứ tôi nhìn thấy ở chính diện khuôn viên chùa là “Nhân Vương Môn”[23] to lớn và vững chắc. “... Nên nói là vững chắc, hay là hoành tráng nhỉ. Có thể cảm nhận được lịch sử ấy.” Tôi vẫn như mọi khi, thốt ra cảm nghĩ bằng vốn từ ngữ nghèo nàn. Anh Holmes mỉm cười đáp lại. “Đúng vậy. Chùa Ninna-ji có bề dày lịch sử, được xây dựng vào thời Heian[24]. Cho đến thời Kamakura[25], ngôi chùa này vẫn duy trì sự tôn nghiêm thiêng liêng nhất với vai trò là nơi tu hành của các nhà sư thuộc dòng dõi hoàng tộc. Thế nhưng, trong loạn Onin[26], chùa đã gặp cảnh tang thương, gần như bị thiêu rụi hoàn toàn. Sau khi bước vào thời kì Edo, chùa mới được khôi phục lại. Nhân Vương Môn này được xây dựng vào thời gian đó, những cột trụ dạng tròn, rồi phần gá giữa hai lớp mái, cho đến hình trang trí ở ván diềm, đều là phong cách Nhật Bản truyền thống thời Heian.” Trước những kiến thức tích luỹ tuôn ra dạt dào như nước chảy, tôi chỉ có thể cất lên một tiếng “ồ” trầm trồ. Bước qua Nhân Vương Môn sẽ thấy đường nối từ cổng vào chính điện rộng thênh thang. Đúng là mùa hoa anh đào có khác, người đông như trẩy hội. Đi qua cổng Trung Môn[27] màu đỏ son tươi tắn ở chính diện thì thấy những cây anh đào dàn thành một hàng ở ngay bên trái lối đi. Đây quả là chỉ có thể mô tả bằng một từ “tuyệt cảnh”. Điều làm tôi ấn tượng là cây anh đào nào trông cũng thấp. Chắc chỉ tầm hai đến ba mét là cùng. “... Anh đào ở đây cây nào cũng bé, anh nhỉ?” “Ừ, hoa anh đào ở đây được gọi là ‘anh đào omuro’, kì lạ ở chỗ, cây nào cũng thấp. Cũng có người nói chúng giống như cây trồng trong chậu, đâm rễ rồi đến một mức nào đó sẽ không lớn thêm. Nhưng thành thật mà nói thì cũng không ai biết rõ chuyện đó. Nghe đâu người ta còn thực hiện điều tra để lí giải về mặt khoa học nữa đấy.” “Hả, điều tra khoa học ấy ạ? Đây không phải đặc tính của giống cây sao?” “Đúng thế, không phải do giống cây đâu. Nói thêm là ở Kyoto có kiểu nói đùa, gọi những người mũi thấp là ‘anh đào omuro’ đấy.” “Người mũi thấp là anh đào omuro. Kiểu trêu chọc của Kyoto cũng sang chảnh quá.” Tôi nhún vai, làm anh Holmes khẽ phì cười, “Công nhận.” Trong lúc chúng tôi đang trò chuyện như thế, một sư thầy bước tới gần. Trong bộ pháp phục đen gọi là sora, sư thầy nở nụ cười hòa nhã. “Thí chủ Yagashira, cảm ơn thí chủ đã tới đây. Ngài Môn Tích[28] đang chờ thí chủ.” Đáp lại vị sư cúi đầu chào thật thấp, chúng tôi cũng cúi đầu. “Xin mời đi lối này.” Vị sư bước đi. “Ừm, ngài Môn Tích là ai đấy ạ?” Tôi hỏi nhỏ. “Đó là người trụ trì ở đây.” Anh Holmes trả lời. Vào chùa xong, sư thầy dẫn chúng tôi tới một gian phòng kiểu Nhật, “Xin hai thí chủ chờ ở đây.” Trên mặt bàn đã chuẩn bị sẵn bánh kẹo để dùng với trà. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, hướng mắt ra ngoài, cửa lùa shoji vẫn đang để mở. Gió xuân thổi mơn man dễ chịu. Dưới bầu trời xanh chói mắt, hoa anh đào đẹp vô cùng. Tôi đang ngắm anh đào được một lúc thì bỗng nghe tiếng nói. “Đã để các thí chủ chờ lâu.” Cửa lùa mở ra và ngài Môn Tích xuất hiện. “Đã lâu không gặp.” Anh Holmes cúi đầu chào. Ngài Môn Tích nheo mắt với vẻ mừng vui, “Nào, xem ai này, con lớn hơn nhiều rồi, Kiyotaka.” Có vẻ họ quen mặt nhau. “Thành thật xin lỗi ngài vì hôm nay là con chứ không phải ông nội con đến ạ.” “Không không, ông Seiji đã nói là việc này cứ để cho Kiyotaka là ổn mà.” Seiji là tên ông chủ. Hoá ra là thế, việc hôm nay đáng ra là của ông chủ ư? Thế nghĩa là ông chủ đã không ra mặt mà để anh Holmes đại diện xử lí. Ngài Môn Tích và anh Holmes vui vẻ trò chuyện hỏi thăm nhau một lát rồi vào ngay chủ đề chính. “Vậy, hôm nay, đầu tiên ta muốn con xem giúp thứ này.” Một chiếc hộp nhỏ bằng gỗ hông hoàng gia được đặt nhẹ lên mặt bàn. “... Vậy, con xin phép ạ.” Vẫn như mọi khi, anh Holmes đeo găng trắng, kéo chiếc hộp về phía mình. Anh cẩn thận mở nắp hộp, bên trong đựng một chiếc bát uống trà. Anh cầm chiếc bát lên tay và nhìn chăm chú. Đó là một chiếc bát rất đẹp, xung quanh có vẽ hoa anh đào. “Gốm Kyoto đây mà. Những đường nét thật là mềm mại. Đây chắc chắn là tác phẩm của Nonomura Ninsei. Quả là một tác phẩm tuyệt vời.” Đáp lại nụ cười tươi của anh Holmes, ngài Môn Tích cũng mỉm cười, “Vậy sao?” Nonomura Ninsei... là ai? Khi tôi đang nghĩ thế ở bên cạnh thì... “Nonomura Ninsei là thợ gốm rất có tiếng nửa đầu thời kì Edo. Tên thật của ông là ‘Sei Emon’. ‘Nonomura’ là tên địa danh nơi ông sinh ra. Chữ ‘Nin’ trong ‘Ninsei’ cũng là chữ ‘Nin’ trong ‘Ninna-ji’. Chữ ‘Sei’ là lấy từ tên ông, ‘Sei Emon’.” Anh Holmes lại đoán ra thắc mắc trong lòng tôi như mọi khi và giải đáp một cách cực kì trôi chảy. “Nói cách khác, vì tên ông là Sei Eimon ở chùa Ninna-ji, sinh ra tại Nonomura, nên mới thành Nonomura Ninsei.” Thế nhưng, tại sao lại có chữ “Nin” của chùa Ninna-ji chứ? “Ông ấy là thợ gốm tuyệt vời, được xưng tụng là ông tổ của đồ gốm tranh màu Kyoto. Ông trở thành ‘Ninsei (Nhân Thanh)’ nhờ được nhận hiệu ‘Nin’ từ trụ trì, ngài Môn Tích của chùa Ninna-ji lúc bấy giờ.” Tôi chưa kịp hỏi mà anh ấy đã trả lời. Sự đáng sợ đó vẫn không thay đổi. Tóm lại, đây là tác phẩm của người có duyên với ngôi chùa này. Thế nghĩa là ngài Môn Tích muốn anh Holmes giám định bát trà này phải không? Vậy thì công việc đến đây là xong hả? Tôi đang nghĩ thế thì nghe tiếng anh Holmes. “... Lần này không phải chỉ có giám định đúng không ạ?” Anh Holmes ngẩng đầu lên nói, nghe vậy, ngài Môn Tích lộ ra biểu cảm có chút ngạc nhiên. “Chà, đúng là như vậy đấy. Thật ra chiếc bát này là có người đưa đến hỏi ý kiến ta. Con chờ ta một chút.” Ngài Môn Tích nói thế rồi đưa mắt ra dấu với sư thầy đang chờ sẵn ngoài hành lang. Sư thầy nhanh chóng rời khỏi nơi đó, một lúc sau thì quay trở lại, dẫn theo một người đàn ông. Ngay khi vừa bước vào căn phòng kiểu Nhật, người này đã xếp chân quỳ chính tọa và cúi dập đầu. “Lần đầu gặp mặt, tôi tên là Kishitani.” Nhìn qua thì thấy đây là một người đàn ông trung niên bình thường, tuy đem lại ấn tượng có chút gì đó mệt mỏi. “Chiếc chén này là của anh ta... Anh Kishitani, cái này là đồ thật.” Nghe ngài Môn Tích bảo thế, chú Kishitani gãi đầu và nói, “Thế ạ?” Không hiểu sao trông chú ấy chẳng có vẻ gì là vui mừng. “... Chú có điều gì không hiểu đúng không ạ?” Anh Holmes hỏi ngay lập tức, khiến chú Kishitani giật mình ngẩng mặt lên. “À, vâng, đúng vậy. Thật ra đây là đồ tôi nhận từ ba tôi. Ông vừa mới đi mấy bữa trước. Trong di thư có viết, ‘Cảm nghĩ của tao để cả trong chén trà của Ninsei.’ Tôi nghe nói hễ nhắc tên Nonomura Ninsei thì phải nói đến chùa Ninna-ji, nên mới tới hỏi ý kiến ngài Môn Tích.” Tôi cảm thấy bối rối với lối nói vòng vèo, biến “qua đời” thành “đi”, chắc là vì tôi vẫn chưa quen với tiếng địa phương vùng Kansai thì phải? “Ta nghe chuyện của anh ta nhưng cũng không biết đây có phải đồ thật hay không, nên mới nhờ tới ông Seiji.” Ngài Môn Tích tiếp lời. Nghe vậy, anh Holmes gật đầu đáp lại. “Cháu hiểu rồi.” “Nhưng, anh Kishitani này, việc đây là đồ thật phải chăng chính là tâm ý của ba anh? Nếu đem ra vào lúc thích hợp biết đâu sẽ có ích lợi gì. Kiyotaka, cái này được khoảng bao nhiêu nhỉ?” “Vâng, tình trạng còn tốt, hoa anh đào cũng rất đẹp, chắc sẽ có người ra giá đến năm trăm.” Năm trăm. Tất nhiên không phải năm trăm yên, mà là năm trăm vạn yên. Năm triệu yên. Vẫn là một thế giới với những con số không tưởng. “Ôi, hổng phải vậy đâu. Lúc còn sống, ba có dặn là dù chuyện gì xảy ra cũng không được bán đi cái chén này.” “Vậy hở?” Ngài Môn Tích khoanh tay trước ngực với vẻ không hiểu lắm. “... À, cháu xin lỗi vì chen ngang, nhưng chú Kishitani vẽ tranh ạ?” Nghe anh Holmes tự dưng hỏi vậy, chú Kishitani gật đầu với vẻ ngạc nhiên. “À, vâng. Đại khái tôi cũng có vẽ vời. Làm sao cậu biết...” “Tay chú có chai và móng tay của chú dính cái gì đó trông như mực... Không phải tranh hội hoạ hay thể loại tương tự phải không ạ? Nếu là thể loại hội hoạ, thường sẽ không có chai tay như vậy. Chú không nói ngay nghề nghiệp của mình mà lại bảo ‘đại khái’. ... Chú là hoạ sĩ truyện tranh phải không?” Câu nói ấy khiến chú Kishitani mở to mắt như thể bị tấn công ngay lúc không phòng bị. Ngài Môn Tích cũng tỏ vẻ bất ngờ. Ừ thì tôi cũng ngạc nhiên. “Chú không nói ngay nghề nghiệp của mình. Điều đó khiến cháu nghĩ rằng chú đã không ở trong một môi trường để có thể ưỡn ngực tự hào nói ra điều đó. Có phải bố chú phản đối công việc này không ạ?” Nghe câu hỏi của anh Holmes, tay chú Kishitani run lên nhè nhẹ. Chắc đã bị nói trúng tim đen, mặt chú ấy xanh lét. Cháu hiểu, cháu hiểu mà, chú Kishitani. Bị đoán trúng như thế này đúng là đáng sợ nhỉ. Sau một khoảng lặng, chú Kishitani khẽ gật đầu. “Đúng... là vậy. Ba tôi đã liên tục phản đối và nói rằng, ‘Truyện tranh cái gì, thứ vớ vẩn.’ Nhưng tôi vẫn không từ bỏ ước mơ mà trốn khỏi nhà để lên Tokyo. Làm thế cũng đáng, vì tôi đã có tác phẩm ra mắt. Tôi có được niềm tin vào bản thân. Tôi đã nghĩ rằng, ‘Với truyện tranh, mình có thể dễ dàng, thoải mái truyền tải những điều mình muốn nói, tới bất kể già trẻ gái trai. Không cần quá cao siêu cũng được, chỉ mong ai cũng có thể dễ dàng tận hưởng tác phẩm của mình và khi đọc xong sẽ vẫn còn điều gì đó đọng lại trong lòng họ.’ Thế nhưng... tôi chẳng nổi tiếng cho lắm, tác phẩm bán cũng hổng có chạy, cuộc sống chật vật từng ngày. Bởi tình trạng như vậy nên tôi hổng thể về nhà...” Chú Kishitani nở một nụ cười có phần tự giễu rồi cúi gục đầu. “Nhưng chú Kishitani sau đó đã vẽ những cuốn ‘truyện tranh bán được’ phải không ạ?” Nghe anh Holmes tiếp lời, chú Kishitani lại ngẩng mặt lên với vẻ kinh ngạc. “Đ-Đúng vậy. Nếu cứ thế này thì không thể trang trải cuộc sống, tôi nghe theo lời biên tập viên và bắt tay vào vẽ truyện tranh thuộc thể loại mà người ta nói là, ‘Trước mắt bây giờ sẽ bán được.’ Thế rồi, tôi bắt đầu bán chạy đến một mức độ mà trước nay tôi chưa từng nghĩ đến. Cuộc sống cũng dần trở nên đầy đủ.” “Bát trà mà bố chú gửi đến cũng là vào lúc ấy phải không ạ?” Nghe câu ấy, chú Kishitani lại giật nảy mình. Hình như là anh ấy nói đúng rồi. “V-Vâng. Ba tôi rất thích gốm Kyoto và đặc biệt trân trọng các tác phẩm của Nonomura Ninsei. Lúc tôi nhận được nó, tôi đã nghĩ rằng cuối cùng ba đã công nhận, đã chúc phúc cho mình. Tôi thật sự muốn trở về nhà ngay lập tức, nhưng bận quá chẳng về được. Trong lúc ấy, ba tôi bị bệnh mà mất... Lần này, cuối cùng tôi đã có thể về quê để dự đám tang ba. Khi thấy bức thư của ba, tôi mới nghĩ cái chén này chắc không phải quà mừng, mà ba có điều gì đó muốn nói lại với tôi. Không biết ba đã gửi vào chén trà hoa anh đào này tâm tư gì nữa? Không biết ba muốn truyền đạt lại điều chi?” Hướng mắt về chiếc bát trên mặt bàn, chú Kishitani thốt ra những lời như tự vấn. Anh Holmes nhẹ nhàng cầm chiếc bát trên tay, lật trôn bát lên cho chúng tôi nhìn. “Chú Kishitani, chú có nhìn thấy ở đây đóng một cái dấu ‘Ninsei’ không ạ?” “C-Có, đấy là dấu đóng lên đồ thiệt phải hông cậu?” “Cũng không hẳn ạ. Đồ giả được đóng dấu để nhấn mạnh đó là tác phẩm của Ninsei giờ vẫn đang lưu hành ngoài thị trường đấy. Điều cháu muốn nói ở đây là ‘dấu’ của Nonomura Ninsei.” Anh Holmes nói chắc nịch. Chú Kishitani có vẻ không hiểu lắm. “Việc đóng dấu ‘Ninsei’ vào tác phẩm như thế này được cho là bước đi trước của Nonomura Ninsei. Ninsei chủ trương coi những chiếc bát mà từ trước đến giờ chỉ như một vật thể được người nghệ nhân làm ra là một ‘tác phẩm’ của bản thân, hay nói cách khác là ‘thương hiệu’ của mình. Đó là minh chứng cho lòng tự hào, rằng tác phẩm của mình là đặc biệt chưa từng thấy, chỉ riêng bản thân ông ấy mới có thể tạo ra.” Chú Kishitani không nói gì, mắt mở to. “Chú Kishitani, liệu có phải bố chú mong muốn chú tạo ra những tác phẩm gửi gắm tâm tưởng của chú, chứ không phải thứ bắt chước người khác không? Phải chăng ông muốn chú được giống như Nonomura Ninsei, tự hào về ‘thương hiệu’ của bản thân, vẽ nên những tác phẩm của riêng mình? Nhưng có lẽ vì đang ở thế phản đối chú rồi, nên ông không thể tự nói ra những lời ấy. Vậy là ông nhờ chiếc bát này nói hộ lòng mình.” Anh Holmes nói vậy, nâng chiếc bát trên tay. Nghe xong, người chú Kishitani run lên nhè nhẹ. Ngài Môn Tích cũng nheo mắt gật gù, “Ừm, ừm. Có lẽ là vậy nhỉ? Hoạ sĩ truyện tranh là một nghề quá khắc nghiệt mà. Là bậc làm cha làm mẹ, chắc ba anh không muốn dễ dàng công nhận quyết định ấy và khiến anh có ẳ tâm thế ỷ lại. Ông hẳn muốn con mình giữ nhiệt huyết với những gì anh chọn như thể không còn chốn quay về. Ba anh chắc chắn vẫn luôn theo dõi các tác phẩm của anh. Và rồi, khi thấy anh chạy theo trào lưu, chắc hẳn ông tiếc lắm.” Nghe ngài Môn Tích dịu dàng nói, chú Kishitani gục xuống, khóc oà lên. Cảm xúc đau khổ tích tụ tính đến thời điểm ấy của chú Kishitani truyền sang, làm tôi cũng như chực khóc. Chú ấy đã có chí quyết tâm trở thành hoạ sĩ truyện tranh, bất chấp sự phản đối của cha mẹ mà ra khỏi nhà, thế mà chẳng có chút gì đơm hoa kết trái. Chú ấy trở nên nóng vội vì cảm thấy cứ thế này thì sẽ mãi mãi không được cha mẹ công nhận. Vì thế, chú đã vẽ những thứ khác với chí hướng ban đầu. Có lẽ chú nghĩ rằng kể cả khi làm như vậy, miễn là mình thành công thì cha mẹ sẽ vui mừng. ... Thế nhưng, không phải. Bố chú đã rất buồn khi đứa con trai bỏ rơi chí nguyện của mình. Bây giờ, khi đã biết chuyện đó, tâm trạng trong lòng chú Kishitani chắc chắn không thể diễn tả được thành lời. Chú Kishitani lấy gấu tay áo chùi nước mắt rồi từ từ ngẩng mặt lên. “Thiệt ra tôi đã luôn băn khoăn, bởi ‘thứ mình muốn vẽ’ và ‘thứ bán chạy’ hổng đồng nhất. Cuộc sống vất vả đã làm tôi quên mất khát vọng của mình. Nhưng từ giờ tôi sẽ nghe theo di nguyện của ba, không cố để làm vừa lòng người đời nữa. Hổng bán chạy cũng được, tôi sẽ vẽ ra những gì mình muốn truyền đạt tới mọi người.” Chú Kishitani siết chặt bàn tay đặt trên đầu gối lại. Giấc mơ, hiện thực, và lí tưởng. Tôi còn là học sinh cấp ba nên cũng không hiểu lắm, nhưng có lẽ để giữ cân bằng giữa nhiều thứ là một việc khó khăn. Lúc tôi đang cảm thấy có chút đau lòng thì... “... Chú Kishitani, còn chuyện này nữa. Cháu cảm thấy chiếc bát này còn có một lời nhắn khác nữa ạ. Chú nhìn bức tranh trên chiếc bát này đi.” Anh Holmes lật chiếc bát lên xoay một vòng rồi đặt lại chỗ cũ. Chú Kishitani bối rối nói. “Hoa... anh đào phải không?” “Vâng, hoa anh đào. Theo suy nghĩ của cháu, hoa anh đào là thứ mà vạn người mê. Có nghĩa là: ‘tuy vẽ thứ vạn người mê, nhưng vẫn là món đồ mang thương hiệu của Nonomura Ninsei, không lẫn đi đâu được.’” Chú Kishitani như giật mình bừng tỉnh trước câu nói ấy của anh Holmes. “Cháu thấy kể cả chú có vẽ một tác phẩm mà chú nghĩ là ‘cái này sẽ bán chạy đây’ thì cũng chẳng có vấn đề gì đâu ạ. Cháu vốn dĩ có quan niệm rằng người chỉ vẽ những gì mình muốn thì không thể gọi là chuyên nghiệp được. Điều quan trọng là trong đó có thương hiệu, có chứa đựng linh hồn của chú hay không. Cháu nghĩ điều đó khác với việc bắt chước.” Anh Holmes vừa nâng chiếc bát uống trà với vẻ nâng niu vừa điềm đạm nói. Nghe thế, chú Kishitani bèn cúi đầu. Sau một hồi im lặng, chú từ từ ngẩng mặt lên, dòng nước mắt lại chảy trên gò má. “Cậu Yagashira, không chừng tôi vẫn cứ luôn tìm kiếm những lời này. Thành thật cảm ơn cậu.” Thấy chú Kishitani cúi đầu thấp tới mức chạm trán xuống sàn, anh Holmes luống cuống lắc đầu. “Không, không, cháu có làm được gì đâu...” “Quả nhiên là cháu nội của ông Seiji.” Ngài Môn Tích buông một tiếng thở dài thán phục. Biết đâu chuyện lần này lại trở thành duyên cớ sản sinh cho đời một hoạ sĩ truyện tranh siêu đẳng, khi tôi đang tình cờ có mặt ở nơi đây. ... Nghĩ đến điều đó làm tôi nổi cả da gà. 4 “... Đúng thật là, lần này anh Holmes cũng siêu quá đi!” Vừa ra khỏi chùa, tôi đã cất giọng hưng phấn. Nghe vậy, anh Holmes cười khổ sở, “Aoi làm quá rồi.” “Không đâu, em không hề nói quá. Trước hết là chuyện anh nhìn thấy vết chai rồi biết ngay chú ấy là hoạ sĩ truyện tranh. Vụ đó đã làm em ngạc nhiên đầu tiên đấy.” “À, cái đó... thật ra không phải thế đâu.” “Hả?” “Trên tóc và trán chú ấy dính vụn giấy hoa văn. Nhờ vậy mà anh biết chú ấy là hoạ sĩ truyện tranh đấy. Nhưng khó mà nói với người ta chuyện đó. Nhìn tay thì lại thấy có vết chai, nên anh lấy luôn nó ra để nói.” Anh Holmes nhún vai giải thích. H-Hoá ra là vậy, là vụn giấy hoa văn. Có vẻ sẽ dễ nhận diện một hoạ sĩ truyện tranh bằng cái đó. Mắt quan sát của anh ấy quả là tinh tường. Tôi hoàn toàn chẳng nhận ra. “Thế nhưng, làm sao anh biết chuyện chú ấy bị ba phản đối, hay chuyện bây giờ chú ấy đang bán được truyện vậy?” “Giống như anh đã nói lúc nãy thôi, là vì chú ấy có vẻ khó nói về nghề nghiệp của mình. Những người như vậy phần nhiều là bị bố mẹ phản đối. Từ ngữ điệu của chú ấy, anh cảm thấy chú ấy đã sống ở Kanto một thời gian dài. Dù đang tạm thời về quê mà người vẫn dính giấy hoa văn, nghĩa là ngay cả trong tình hình này, chú ấy vẫn vẽ bản thảo. Bởi vậy, anh suy ra rằng chú ấy là một hoạ sĩ đang bán chạy.” “H-Hoá ra là vậy.” Không hổ danh Holmes ở Teramachi Sanjo. “Vả lại, dấu của Nonomura Ninsei là điều trên đời này ai cũng biết, nên mọi thứ đều hai năm rõ mười ngay.” Anh Holmes nói như thể chuyện chẳng có gì. “Nhưng em nghĩ chuyện sau đó cũng siêu đáng nể. Chỗ ‘hoa anh đào là thứ vạn người mê’ ấy. Sao anh hiểu được sâu sắc suy nghĩ của bố của chú Kishitani đến thế nhỉ?” “Vậy nhưng, chuyện đó không có bằng chứng gì đảm bảo hết.” “Nhưng vẫn rất có sức thuyết phục đấy ạ.” “Ừ đúng, có thể bố chú ấy đã thực sự muốn truyền đạt điều đó, nhưng biết đâu trong đó lại chứa cả quan điểm vị kỉ của anh.” “Quan điểm vị kỉ ấy ạ?” “Đúng vậy. Lúc đó anh cũng đã nói rồi, nếu một người luôn tạo ra những thứ mình thích theo ý bản thân, kẻ đó sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi sở thích, chứ không phải là làm việc một cách chuyên nghiệp. Vừa tạo ra thứ mà thiên hạ đòi hỏi, vừa thể hiện được bản thân đến mức tối đa, đó mới là công việc của người chuyên nghiệp. Beethoven và Chopin[29] cũng hết lòng hết sức sáng tác những giai điệu làm vui lòng giới quý tộc, cũng là những nhà tài trợ của họ. Anh nghĩ rằng ở bất cứ thời đại nào, người sáng tạo chuyên nghiệp đều gánh vác một thứ giống như sứ mệnh, phải tạo ra những thứ con người yêu cầu. Bởi vì, nghệ thuật chính là thứ chạm tới mắt nhìn của người khác.” Khi nói thế, anh Holmes hướng ánh mắt về phía tòa tháp năm tầng sừng sững trong khuôn viên chùa. Công trình ấy bế thế, uy nghiêm, đậm chất nghệ thuật. Cùng với hoa anh đào, khung cảnh đó tựa như một bức tranh. Ngọn tháp này hẳn cũng được xây nên với ý định thu hút sự chú ý và làm vui lòng những người đức cao vọng trọng. Gió xuân dịu dàng lách qua khoảng trống giữa chúng tôi. “... Đẹp thật đấy, tháp năm tầng hiện lên ở bên kia rặng anh đào. Anh thấy thật hạnh phúc khi được chiêm ngưỡng khung cảnh đẹp đẽ đến nhường này.” Anh Holmes nói thế với gương mặt vô cùng nghiêm túc. Dù đã quen rồi, nhưng tôi bất giác muốn phì cười trước câu nói sâu sắc từng trải, thứ mà người ta không thể nghĩ rằng được thốt ra từ miệng của một anh chàng trẻ tuổi đẹp trai. Nhưng mà, đúng vậy. Đúng là rất đẹp. “À đúng rồi, có một bài thơ như này nhỉ? ‘Ước nguyện của ta Dưới tán anh đào Mùa xuân tháng Hai Chết khi vọng nguyệt.’ Nghe giống kiểu của anh Holmes lắm ấy. Anh có vẻ dễ nói ra những lời như thế dưới hoa anh đào và ánh trăng xinh đẹp.” Thấy tôi cười khúc khích, anh Holmes dịu dàng nhìn thẳng vào mắt tôi. “Sai rồi, Aoi. Bài thơ ấy không phải là ‘dưới tán anh đào’ mà là ‘bên dưới tán hoa’.” Tôi bất giác bật ra một tiếng kêu kì quặc. “Hế?” “‘Ước nguyện của ta Bên dưới tán hoa Mùa xuân tháng Hai Chết khi vọng nguyệt.’ ... Là thơ của Saigyo Hoshi[30]. Ông là người vô cùng sùng kính Phật Thích Ca. Nghe nói ông đã mong mỏi được ra đi vào đúng ngày rằm tháng Hai, có nghĩa là ngày mười lăm tháng Hai, ngày giỗ của Phật Thích Ca. Thế nhưng, đáng tiếc là ông lại mất ngày mười sáu tháng Hai. Hơi tiếc cho ông ấy.” Nghe anh Holmes nói vậy, tôi nghẹn lời. ... Thế nghĩa là tôi đã nhầm đứt đuôi rồi. “Gì, gì thế, hoá ra không phải chuyện hoa anh đào với trăng, mà là thơ về niềm ngưỡng vọng đối với Đức Thích Ca nhỉ?” Ngượng quá. Phải dẹp cái trò khoe ra mớ kiến thức nửa mùa này trước mặt người học cao hiểu rộng đi thôi. “Nhưng mà, trong thế giới thơ ca, nói đến hoa nghĩa là chỉ hoa anh đào, nên anh nghĩ em nói cũng không sai. Tháng Hai ở đây cũng là tháng Hai âm lịch, chỉ mùa xuân bây giờ đấy.” “À, vâng.” “... Với lại, phiên bản thơ của Aoi cũng hay đấy chứ. Tựa như một giấc mơ. ‘Ước nguyện của ta Dưới tán anh đào Mùa xuân tháng tư Chết khi vọng nguyệt.’ ... Theo phong cách hiện đại chắc sẽ là như vậy nhỉ? Nếu có thể kết thúc sinh mệnh này dưới tán anh đào nở rộ trong ánh trăng tròn sau khi in sâu vào mắt thật nhiều điều đẹp đẽ thì đó chắc hẳn là niềm hạnh phúc vô bờ.” Nhìn anh Holmes mỉm cười hiền hoà làm tôi nóng bừng cả hai má. Anh đã nói thế ngay lập tức vì đoán ra cảm giác xấu hổ đang hiện diện trong tôi. Trông có vẻ dịu dàng, nhưng nói sao nhỉ, tôi cảm thấy đâu đó trong cái vẻ ung dung ấy có cả chút tinh ranh. “... Anh Holmes hoá ra hơi xấu tính nhỉ?” Thấy tôi dẩu mỏ ra nói thế, anh Holmes mở to mắt với vẻ có chút bất ngờ. “Xấu tính... sao?” Bị hỏi ngược lại, tôi chẳng biết nói gì. Tại tôi cũng khó trả lời nếu bị hỏi chỗ nào của anh là xấu tính. Anh ấy dịu dàng thế này cơ mà. Rồi thì, anh Holmes bỗng cười khúc khích. “Bỏ quá nghen, Aoi.” “Dạ?” “... Bởi nam nhân Kyoto nham hiểm thấy mồ à.” Lần đầu tiên tôi nghe anh Holmes nói giọng Kyoto. Đứng trước mặt anh khi anh dựng ngón trỏ lên và nhoẻn cười tinh nghịch, tim tôi nảy “tưng” lên một phát. “Vậy mình đi thôi.” Anh Holmes bước đi, không quên nở nụ cười như thường lệ. Vừa ngắm bóng lưng anh, tôi vừa buột miệng, “Nam nhân Kyoto... có lẽ cũng được ghê.” Nhưng chuyện này chỉ nói ở đây thôi. CHƯƠNG 2 THỜI KHẮC CỦA AOI V 1 ào trung tuần tháng Tư. “Saiodai[31]” năm nay vừa được công bố, khiến đường phố Kyoto sôi động hẳn lên. “Nè nè, coi bản tin về Saiodai năm nay chưa? Là sinh viên của một trường đại học dành cho toàn tiểu thư khuê các nè, gia đình thì sở hữu cửa hàng trang phục truyền thống lâu đời đó nha! Năm nay là người hơi bị đẹp luôn đó.” Nhân vật đã ghé thăm tiệm đồ cổ “Kura” ở phố Teramachi Sanjo thuộc Kyoto - bà Mieko - đang kể về “Saiodai” năm nay với vẻ vui mừng hớn hở. Đúng vậy, là người phụ nữ đứng tuổi đã có mặt ở đây lúc chuyện làm thêm của tôi được quyết định. Bà ấy là chủ kinh doanh cửa hàng quần áo nữ chéo bên đường, thỉnh thoảng lại tới đây buôn chuyện. Nghe bảo bà là bạn cũ của ông chủ. Dù vậy, hình như bà hoàn toàn chẳng có tí kiến thức nào về đồ mĩ nghệ cổ hết. Sau khi truyền tải sự hưng phấn của mình trong chốc lát, bà Mieko đưa cốc cà phê mà anh Holmes pha lên miệng uống một cách ngon lành. “Đúng rồi, bé Aoi. Con có biết tại sao Kiyotaka đoán được nơi con ở ngay khi con nói tên chưa?” Bà bất chợt quay lại nhìn tôi như thể vừa nhớ ra chuyện đó. “... À... vâng. Cháu biết rồi ạ.” Tôi đỏ mặt, lúng búng nói. Thấy vậy, bà Mieko và anh Holmes khúc khích cười. Đúng thế, vào cái ngày việc làm thêm tại đây của tôi được thu xếp xong xuôi. Nghe tên tôi xong, anh Holmes đã đoán trúng phóc nơi ở của tôi rằng, “Nhà em ở quận Sakyo, cũng khá gần đền Shimogamo nhỉ?” làm tôi bất ngờ tròn mắt mà hỏi, “Vâng, đúng thế, vì sao anh biết?” Lúc đó, tôi vô cùng sửng sốt, thầm nghĩ, “Chỉ nghe tên thôi mà đoán được nơi ở, sao mà giỏi quá!” Nhưng sau đó, tôi lập tức biết được lí do. Tính đến nay, tôi vẫn luôn đi học bằng xe buýt. Kể từ khi nhận làm thêm ở “Kura”, tôi chuyển sang đi xe đạp. Vì thế, tôi bắt đầu thấy được những thứ trước đây tôi chưa từng thấy. “Trường tiểu học Aoi”, “Tiệm giặt là Aoi”, “Chung cư Aoi”, “Hiệu sách Aoi”, “Quán cà phê Aoi”, “Toà nhà Aoi” (vân vân và vân vân, ngoài ra còn vô số những cái khác nữa). ... Khu vực lân cận đền Shimogamo sao mà ngập tràn tên “Aoi” vậy nhỉ? Đến mức, nếu là người Osaka chắc sẽ muốn châm chọc rằng, “Tụi bây khoái tên ‘Aoi’ ghê hén.” Việc đó nghe nói khởi nguồn từ “Lễ hội Aoi” được coi là một trong ba lễ hội lớn nhất Kyoto. Cỡ cái tên “Lễ hội Aoi” thì tôi đây cũng biết. Thế nhưng, tôi không nghĩ rằng vùng lân cận cũng sử dụng triệt để chữ “Aoi” tới mức này. Tôi đã hiểu ra rằng việc anh Holmes đoán được khu vực tôi ở sau khi nghe tên tôi chẳng có gì kì lạ cả. Bởi vì suy luận “Aoi = khu vực lân cận Shimogamo” là chuyện “thường thấy ở Kyoto”, thứ sẽ lập tức bật ra trong đầu mọi người dân địa phương sinh sống tại nơi này. Nhân tiện, Saiodai được bà Mieko hào hứng kể chính là nhân vật chính của Lễ hội Aoi này. Hôm trước, Saiodai năm nay được công bố, khiến nội thành Kyoto để lộ bộ mặt mới tràn đầy hứng khởi. “... Chuyện được chọn là Saiodai đáng nể ghê. Không ngờ người ta còn mở cả họp báo trên truyền hình Kyoto nữa.” Tôi thì thầm như đang độc thoại. Thế rồi, bà Mieko hăm hở quay người về phía tôi. “Đúng rồi đó, nói đến Saiodai cũng là nhắc tới một vinh hạnh lớn nhất đối với phụ nữ ở Kyoto nha.” “V-Vinh hạnh lớn nhất ấy ạ?” “Chuẩn đó. Vì chỉ những ‘tiểu thư’ hoàn mĩ nhất, thông minh, thanh lịch, con nhà gia giáo mới được chọn thui. Hổng phải cuộc thi nhan sắc chỉ cần khuôn mặt xinh xắn là được đâu nha. Vì thế, tuy đường nét khuôn mặt thì mỗi người một vẻ, nhưng phẩm chất thì mười phân vẹn mười. Với lại, Saiodai năm nay xinh cực. Mặc junihitoe[32] hợp lắm đây. Phải chụp ảnh mới được.” Tôi “ồ” một tiếng hưởng ứng bà Mieko đang nói rất nhiệt tình. Thấy tôi vẫn chưa hiểu, khoé miệng anh Holmes nhếch lên với vẻ thích thú. “Lễ hội Aoi là một lễ hội truyền thống được tiếp nối từ thời Heian, cũng xuất hiện trong truyện cổ Genji đấy.” “Ơ, trong cả truyện cổ Genji ạ? Em từng đọc truyện ấy rồi nhưng nó có xuất hiện thật ạ?” Nói là đọc rồi nhưng thực ra em chỉ đọc truyện tranh thôi. Tôi bổ sung ở trong lòng như vậy. “Em có biết tình huống chính thất và nhân tình của Hikaru Genji tranh nhau chỗ đậu xe bò khi đi xem hội không?” “A, lẽ nào là cảnh xung đột của Rokujo no Miyasudokoro với Aoi no Ue ạ?” Đấy là cảnh tình nhân (Rokujou no Miyasudokoro) thất thểu rút lui vì bị chính thê (Aoi no Ue) hạ gục. Vợ chính thức luôn là kẻ mạnh ở bất kể thời đại nào. Ủa, đó là chuyện khác mất rồi. “Đúng vậy. Lễ hội đó chính là ‘Lễ hội Aoi’. ở thời Heian, khi nhắc đến ‘lễ hội’ người ta sẽ ngầm hiểu đấy là ‘Lễ hội Aoi’. “Ồ. Nhân tiện, ‘Saiodai’ nghĩa là gì ạ?” Tôi hỏi, dù trong lòng nghĩ rằng mình đang hỏi một câu khá là ngu ngốc. Thế rồi, bà Mieko ưỡn ngực trả lời, “Nói chung là nhân vật chính đó. Ở trong đám rước, cổ sẽ mặc junihitoe và được rước bằng kiệu đó nha.” ... Trực tiếp cảm nhận được việc có người dù đã sống ở Kyoto bao năm nhưng không am hiểu nhiều lắm nên vẫn vô cùng hào hứng, tôi cảm thấy có chút yên tâm. “Saio là miko[33] của hoàng tộc. Vào thời Heian, những hoàng nữ chưa lấy chồng được lựa chọn sẽ phụng sự như một miko trong đền Kamo và thần cung Ise. Những vị hoàng nữ như vậy gọi là Saio. Hiện nay, để phục vụ riêng cho lễ hội, người ta lựa chọn những người con gái bình thường thay thế cho Saio, do đó mà có danh xưng ‘Saiodai (đại diện Saio)’.’’ “À, ra thế, thay thế cho Saio nên được gọi là ‘Saiodai’.” “Thời nay, người ta nói rằng, từ đó được coi như một đại từ nhân xưng chỉ những tiểu thư con nhà danh giá ‘tài sắc vẹn toàn’ đại diện cho Kyoto. Bởi vậy, việc được lựa chọn có thể xem là cực kì vinh hạnh đấy.” “Phải đó, tới mức nhiều người biểu, nếu được chọn làm ‘Saiodai’ thì sẽ hổng còn chi trắc trở trên con đường kiếm chồng nữa cơ.” “V-Vậy ạ!? Thế phải làm sao để được chọn ạ?” “Chuyện đó không được công khai, nhưng theo những gì anh nghe được, phía đền sẽ mở cuộc thăm dò.” “Bà từng nghe kể là nếu có học trà đạo hay cắm hoa thì sẽ được các giáo viên trao cơ hội đó.” “Ồ...” Lời nói của hai người làm tôi như bị choáng ngợp. Đúng là có đầy rẫy những chuyện chỉ người địa phương mới biết rõ mà thôi. Với thường dân như tôi, cùng lắm chỉ biết đi xem lễ hội, chứ còn “Saiodai” là một chuyện chẳng dính dáng gì. Suy nghĩ ấy vậy mà chỉ tồn tại được trong chốc lát. Lúc này, một đứa dân thường như tôi, hoàn toàn chẳng hề nghĩ rằng mình sẽ có liên quan đến Saiodai thông qua cửa tiệm “Kura”... V 2 ài ngày sau đó. Hôm ấy là ngày thường, sau khi tan học, tôi đến phụ việc ở “Kura” như thường lệ. “Aoi ơi, anh nghĩ sắp đến lúc cần thay đổi trưng bày ở cửa sổ, em hạ những thứ đang bày bây giờ xuống giúp anh có được không?” Đáp lại anh Holmes đang bưng một chiếc hộp trên tay và tiến lại gần, tôi gật đầu khoẻ khoắn rồi đáp, “Vâng.” Nhiệm vụ của tôi ở đây cơ bản chỉ có dọn dẹp và trông cửa hàng. Cho nên, một công việc ra dáng công việc khiến tôi có phần mừng rỡ. Ngay cả cái việc dọn dẹp kia thì khi tôi đến, cửa hàng đã rất sạch sẽ rồi, vậy nên, tôi không tránh khỏi cảm giác mình hoàn toàn chẳng có ích gì cả. Cả anh Holmes và bác quản lí hình như đều có tật đùng một cái là lại muốn ra ngoài không báo trước, nên đối với cửa hàng này, “người trông tiệm” có vẻ là một sự hiện diện đáng quý hơn suy nghĩ của tôi. Dẫu vậy, tôi quả nhiên vẫn muốn mình có ích hơn một chút, vì vậy mà chuyện lần này thật đáng mừng. Tại góc trưng bày ở cửa sổ có xếp những bộ ấm chén. Tôi cẩn thận phủi bụi từng cái từng cái một, dùng giấy gói chúng lại rồi cho vào hộp. Bộ ấm chén ấy thiết kế theo mô tip hoa anh đào. “... Mùa hoa anh đào của Kyoto cũng sắp hết rồi.” Vừa ngắm nghía hoa anh đào trên bộ ấm chén, tôi vừa lẩm bẩm với vẻ trầm ngâm. Anh Holmes đang kiểm tra sổ sách bèn lặng lẽ gật đầu, “Em nói phải.” “Tiếp theo thì chỗ này sẽ bày như thế nào ạ?” “Anh đang tính hay là bày những thứ gợi nhắc đến lễ hội Aoi.” “A, hợp lí đấy ạ.” Khi chúng tôi đang nói chuyện với nhau như thế, một người đàn ông đứng tuổi hùng hổ đi về phía cửa hàng. “Ồ, Kiyotaka.” Ông ta mở cửa theo một cách có thể xem là hơi thô lỗ. Ôi, gì thế cái người này? Ông ta để ria mép, mặc trang phục truyền thống, đội mũ có vành, phong cách retro rõ rệt. Đó là một quý ông toát lên sự sành điệu, chỉn chu một cách “tinh tuý”, và đâu đó có cả cảm giác quyền uy. “... Ông chủ.” Thấy anh Holmes há hốc miệng, tôi cũng mở to mắt và kêu, “ơ?” Ông chủ? Có nghĩa người này là ông chủ của cửa hàng Kura, “Chuyên gia giám định cấp Quốc gia”, ông Yagashira Seiji đó hử? Nói tóm lại là ông nội của anh Holmes? “Ô, nhìn con khỏe mạnh là hổng gì bằng rồi.” Sau một nụ cười hào sảng, ông chủ thoáng nhìn sang tôi. “Gì đó, Kiyotaka, bạn gái hở? Vui đấy!” Câu nói ấy làm tôi giật bắn, nhưng trước khi tôi kịp lên tiếng rằng, “Không phải đâu ạ,” anh Holmes đã chán nản thở dài, “Cô ấy là Mashiro Aoi, người đang phụ giúp cửa hàng mình. Con đã gọi điện thông báo cho ông về việc tuyển nhân viên làm thêm là học sinh cấp ba rồi. Ông quên rồi hả?” “Ồ, con nói chuyện đó rồi nghen. Aoi nè, mong con giúp đỡ đứa cháu kì cục kia của ta nha!” Ông chủ đưa tay ra để bắt tay tôi. Dù có chút đắn đo, tôi vẫn đón lấy bàn tay ấy. “À vâng, chính cháu cũng mong được giúp đỡ ạ.” Ông chủ kéo bàn tay đang nắm tay ông của tôi rồi nói. “Chà, dễ thương quá xá! Con có muốn cùng uống cà phê với ta ở quán đằng kia hông nè?” Khoảnh khắc tôi tròn mắt và thốt lên một tiếng “Hả?”, anh Holmes thẳng thừng nói, “Ông chủ, đừng có tán tỉnh nữ sinh cấp ba đến làm thêm.” T-Tán tỉnh? Ông cụ này đang tán tỉnh tôi? “Nói xấu ta hoài vậy. Ta chỉ định làm thân thui mà.” Trước vẻ mặt ngơ ngác của tôi, ông chủ bĩu môi ra chiều ngán ngẩm. “Quan trọng hơn, ông lại mang chuyện rắc rối gì tới phải không ạ?” Anh Holmes đóng sập cuốn sổ cái lại và cất tiếng thở dài. “Hổng hổ danh cháu của ta.” Ông chủ khoanh tay, nói với vẻ hơi tự hào. “... Ngoài cửa hàng có mấy mẹ con đang lúng ta lúng túng kìa. Là khách ông gọi đến phải không?” Câu nói đó làm ông chủ quay phắt người lại. “Mọi người đến rùi à, mời vô.” Ông lịch sự mở cửa với phong thái đầy lịch thiệp. “... Làm phiền mọi người rồi.” Có ba người, một phụ nữ trung niên trong trang phục truyền thống có vẻ cao cấp, một cô gái xinh đẹp trong bộ váy liền, chắc là sinh viên đại học, và một bạn nữ trạc tuổi tôi. Họ cúi chào rồi bước vào trong tiệm. … Ơ, người này là... Khi tôi đang dán mắt vào bạn gái trạc tuổi mình vì trông bạn ấy quen quen, đối phương bỗng lên tiếng trước, “Có phải là... bạn Mashiro ở lớp 1[34] không?” “Đ-Đúng vậy... Cậu là bạn Miyashita ở lớp 2... phải không?” Phải rồi, người này học cùng trường, cùng khoá với tôi. Vì khác lớp nên tôi không rõ cô ấy là người thế nào, nhưng từng có lần cả hai có mặt trong lớp học chung nên tôi đã biết tên và mặt. ... Bạn Miyashita Kaori. “Bạn Mashiro sao lại ở đây thế?” “T-Tớ đang làm thêm ở đây.” “À vậy hở?” Chúng tôi gượng gạo nói chuyện với nhau. “Chu choa, con là bạn với con gái út của cô Miyashita à? Tình cờ thiệt!” Ông chủ tươi cười. Đâu có, cũng không đến mức là bạn bè... Gạt sự bối rối đó của tôi qua một bên, ông chủ mời khách ngồi xuống sô pha trong lúc chỉ đạo chúng tôi, “Nào nào, cô Miyashita, mời ngồi. Kiyotaka mau chuẩn bị trà, còn Aoi đem cất biển đứng và treo biển ‘Đóng cửa’ đi nhá.” “A, vâng ạ.” ... Bất ngờ thật, đóng cửa hàng luôn. Rốt cuộc là chuyện gì sắp bắt đầu vậy? Tôi cảm thấy hơi hồi hộp, xoay tấm biển treo bên ngoài thành “Đóng cửa” rồi đem biển đứng vào trong cửa hàng. N 3 ói đến cửa hàng y phục Miyashita ở Nishijin, thì đó là một cửa hàng lâu đời có lịch sử ba trăm năm, chuyên cung cấp các mặt hàng từ trang phục cho các vở kabuki, múa truyền thống Nhật Bản, cho đến kimono của các ca sĩ enka[35] lão làng.” ông chủ vừa ngồi xuống sô pha vừa cắt nghĩa. Tôi đã cất xong biển đứng, vừa đóng chặt cửa lại vừa ngỡ ngàng ngẩng mặt lên. Kinh thật, ba trăm năm cơ à! Những cửa hàng truyền thống lâu đời tôi từng thấy ở quê cùng lắm cũng chỉ hơn trăm năm một chút. Đúng là Kyoto có khác. Lịch sử của cửa hàng lâu đời cũng không vừa. Cô Miyashita cười khổ sở và nói. “Chỉ cũ kĩ thôi mà. Có khi vì thế mà mở chi nhánh ở Roppongi[36] cũng hổng được như tụi tui nghĩ.” Hình như họ đã mở thêm cửa hàng ở Roppongi. Dù vậy thì việc nhận đặt may đến cả kimono cho các ca sĩ enka lão làng chứng tỏ nhà Miyashita đúng là hàng khủng. Tôi bắt đầu dọn dẹp với vẻ mặt làm như không để ý nhưng vẫn tiếp tục thăm dò tình hình. “Cửa hàng y phục Miyashita ạ? Nhân dịp này xin được chúc mừng cô.” Anh Holmes mỉm cười và cúi đầu. “Chúc mừng” chuyện gì thế? “Cảm ơn cậu nha. Con gái trở thành Saiodai là ước mơ từ xưa của tui đó.” Bà mẹ nhà Miyashita đặt tay lên má và nhoẻn miệng cười tao nhã. S-Saiodai? Tôi sửng sốt quay lại. Dáng vẻ rụt vai, người co rúm lại của chị gái nhà Miyashita lọt vào mắt tôi. Nhắc mới nhớ, bà Mieko có nói rằng Saiodai năm nay là con gái cửa hàng y phục truyền thống lâu đời. Hoá ra chị gái Miyashita là Saiodai năm nay. Chị ấy là một người rất xinh đẹp, thanh tú, khiến tôi cũng hiểu được vì sao bà Mieko đã sôi nổi ngợi khen rằng, “Đẹp lắm nha!” Bạn Miyashita cũng là một mĩ nhân với đường nét khuôn mặt cân đối, nhưng người chị gái vẫn mang dung mạo lôi cuốn và nổi bật hơn nhiều. “.. Vậy hôm nay cô có chuyện gì liên quan đến Saiodai đấy ạ?” Anh Holmes khoanh tay trước ngực và hỏi. Nghe vậy, ba mẹ con nhà Miyashita giật nảy người, hình như hơi kinh ngạc. “Kiyotaka à, sau công bố về Saiodai, bắt đầu có thư đe dọa gửi tới chỗ Saori đó.” Ông chủ thấp giọng nói. Nghe xong, anh Holmes khẽ nhíu mày. Chị gái nhà Miyashita, chị Saori, đang co rúm cả người. Nói thêm một chút thì tên của bạn Miyashita là “Kaori”. Có lẽ vì là một cửa hàng y phục nên người ta mới đặt nặng chữ “ori[37]” như thế. “Thư đe doạ ư?” “Vâng,” chị Saori gật nhẹ đầu rồi lấy ra một phong thư màu nâu từ trong cặp, “nó đây ạ.” “... Tôi có thể xem chứ?” “Vâng, nhờ anh ạ.” Chị Saori gật đầu cái rụp. Anh Holmes đeo găng tay trắng như mọi lần rồi đón lấy phong thư màu nâu. Sau một hồi nhìn phong thư chăm chú, anh rút ra một tờ giấy trắng từ bên trong. “Mày không xứng làm Saiodai đâu. Mau thông báo rút lui ngay lập tức.” “Cắt chữ từ báo rồi dán vào giấy A4, một bức ‘thư đe dọa’ như thể vẽ tranh.” Anh Holmes thốt lên, dường như có phần ngưỡng mộ. Chắc mẹ con nhà Miyashita không để ý, nhưng tôi cảm thấy trong câu nói kia có vẻ gì đó như là thích thú, khiến tôi hơi đanh mặt lại. “Mọi người đã bàn chuyện này với ai chưa ạ?” Anh Holmes nói tiếp. Mẹ của hai chị em Miyashita khẽ lắc đầu. “Chuyện này cứ ghê ghê, đúng ra có lẽ nhà tui nên báo cảnh sát, nhưng trong thư cũng không viết gì đe dọa, và trên hết là tui không muốn làm to chuyện trước lễ hội quan trọng này. Khi tui hỏi ý kiến chồng, ổng bẩu là thử bàn với cháu ông Seiji xem.” À, ra vậy. Hoá ra ông chủ và chú Miyashita là người quen. Có thể là mối quan hệ kinh doanh từ xưa trong cùng thành phố. “Ch-Chuyện ấy, ba tôi có nói anh Kiyotaka là một người thông minh sắc sảo, được mọi người xung quanh gọi với tên ‘Holmes’.” Chị Saori bỗng nhiên nói đầy sôi nổi. Tôi hơi bất ngờ khi thấy gò má chị ấy ửng hồng. Anh Holmes hơi tinh quái, lại có chút lập dị, nhưng khí chất tỏa ra thì rất thanh cao, bề ngoài cũng đẹp xuất sắc. Trước vẻ đẹp trai đó, đến Saiodai năm nay có lẽ cũng phải ngất ngây. “Không không, tôi được gọi là ‘Holmes’ chỉ do họ của tôi là Yagashira thôi.” Anh Holmes đáp lại chị ấy bằng câu trả lời như thường lệ. Rõ là không phải vậy mà. “Thư đe doạ này được gửi đến theo kiểu nào thế?” “Nó được bỏ trong cặp của tôi.” Chị Saori co vai lại. “Trong cặp?” “Vâng, sau khi về nhà từ trường đại học, tôi lấy đồ trong cặp ra thì thấy một phong thư lạ.” “... Bạn có tạt vào đâu khác ngoài trường không?” “Tôi còn tới lớp học cắm hoa.” “Nhân tiện, thư đe doạ chỉ có một bức này thôi à?” “À, không ạ.” Lúc chị Saori lắc đầu, bà mẹ liền chồm dậy. “Ban đầu, nhìn thấy bức thư ấy tui thấy ớn lắm, nghĩ bụng không biết phải tính sao giờ. Thế nhưng, sau đó cũng hổng có chuyện gì đặc biệt, vừa mới bẩu rằng chắc chỉ là trò ghen ăn tức ở thôi, thì lại có thư gửi đến.” “Cái đó đây ạ.” Lần này, chị ấy lấy ra một tờ giấy trắng gấp làm tư. Anh Holmes nhận lấy nó và cẩn thận mở ra. “Mau rút lui đi. Thật ngứa mắt!” “Cái này cũng là cắt ra từ báo nhỉ. Thư này không bỏ vào trong phong bì nâu à?” “Vâng. Nguyên như vậy ạ. Cái này cũng ở trong cặp tôi.” “Tôi hiểu rồi. Chắc bạn Saori cũng đã đoán được ai viết bức thư đe doạ này rồi phải không?” Bị anh Holmes nhìn thẳng vào mắt và đặt câu hỏi khiến chị Saori giật nảy mình. “S-Sao anh lại nghĩ thế?” “Bởi vì, dù nhận được lá thư nặc danh kiểu này, bạn có vẻ vẫn khá bình tĩnh. Chắc chắn không phải là bạn hoàn toàn không biết ai làm, trong lòng bạn đã có nghi vấn gì đó dạng như, ‘Không chừng là người này’ phải không?” Có lẽ trúng tim đen rồi. Dường như đến cả tôi cũng nghe thấy tiếng nuốt khan của chị Saori. “Vâng, thật ra có người mà tôi nghĩ có khi nào là người đó...” Chị Saori vừa nói đến đấy, bà mẹ liền cất tiếng kinh ngạc. “Hở, thiệt ư? Sao con hổng nói gì với má?” Thế là, người bạn cùng khoá với tôi - Miyashita Kaori - lần đầu tiên mở miệng với biểu cảm gay gắt. “Tại vì má lúc nào cũng chưa có chứng cứ gì đã làm ầm lên đó. Hồi trước, lúc chị hai mới bị bạn bè nghỉ chơi có chút thôi, má đã xông đến nhà người ta buộc tội rồi, mắc cỡ chết đi được. Về sau chị hai lại càng bị ăn hiếp hơn đó? Má hổng hiểu gì hết trơn.” “... Kaori.” Lông mày Saori trĩu xuống khi thấy vẻ ngạc nhiên của mẹ mình. “Thôi mà, Kaori. Anh Holmes, thực ra người mà tôi đang nghĩ là ‘hổng biết chừng’ kia chính là mấy nhà mà má tôi đã không mời mà đến.” Chị Kaori lên tiếng với vẻ khổ tâm, còn anh Holmes im lặng, chờ đợi câu nói tiếp theo của chị. “... Hồi học cấp ba có hai người bạn rất thân với tôi. Một người là con gái chủ một tiệm ăn nhỏ, còn người kia là con gái gia đình kinh doanh ryokan[38]. Cả hai đều là tiểu thư của những thương hiệu lâu đời được nhiều người biết tới và học chung lớp cắm hoa với tôi. Tụi tôi là nhóm ba người vô cùng thân thiết. Rôi chỉ vì chút chuyện mà tôi bị tách ra, tôi rất rầu lòng vì việc đó… Lúc tôi thử trò chuyện với má, má đã nổi xung lên, phừng phừng lửa giận, xông đến nhà hai người kia và mắng họ tơi bời rằng, ‘Dám tẩy chay Saori nhà tui ư, hổng thể tha thứ được. Tui sẽ hổng bao giờ qua lại gì với các người nữa, cũng khỏi giới thiệu khách hàng luôn.’” ... Ôi trời, phụ huynh quái vật[39] đây mà. Vừa nghe chuyện, tôi vừa khẽ cau mày. “Vụ đó khiến quan hệ của tôi với hai nhỏ kia hoàn toàn bị cắt đứt. Nhưng mà, với tụi tôi, cả cấp ba, cả đại học đều theo hình thức liên thông lên thẳng, lớp cắm hoa cũng học cùng nhau, nên không thể nào không giao du gì mãi được.” ... Vậy thì tội nghiệp thật. Nếu là tôi chắc sẽ không chịu nổi. “Lúc được chọn làm Saiodai, tôi đã báo trước với cô giáo lớp cắm hoa. Thế là, cô phấn khởi kêu lên trước mặt tất cả mọi người rằng, ‘Các em, Saiodai đã được chọn ra từ lớp chúng ta đó.’ Khi ấy, không rõ hai nhỏ kia đã hiểu lầm như thế nào mà trông hớn hở thấy rõ, có lẽ họ nghĩ rằng bây giờ mình sắp sửa được gọi tên.” Khi nghe câu đó, lời bà Mieko nói chạy vụt qua não bộ của tôi. “Bà từng nghe kể là nếu có học trà đạo hay cắm hoa thì sẽ được các giáo viên trao cơ hội đó.” ... Vì có chuyện như thế nên có lẽ hai người đó trong một thoáng đã lầm tưởng rằng giáo viên cắm hoa đang nói đến mình. “Ngay sau đấy, khi cô giáo nói, ‘Đó là Miyashita Saori,’ tôi hổng thể quên được vẻ mặt của hai nhỏ đó. Tính đến khi đó, tụi tôi ở trong tình trạng chiến tranh lạnh, chẳng mấy chuyện trò, nhưng giờ, họ còn thể hiện thái độ thù ghét ra mặt...” Nói xong, chị Saori cụp mắt xuống. Thấy vậy, anh Holmes gật đầu, “Ra là thế. Tôi có thể gặp hai người đó không?” Chị Saori ngỡ ngàng mở to mắt. Đáp lại, anh Holmes khẽ lắc đầu. “À không, tôi muốn gặp họ nhưng sẽ giấu kín chuyện mình có quen biết Saori.” “Nếu vậy thì... cuối tuần này, có buổi triển lãm cắm hoa của lớp tôi. Tất cả học sinh đều sẽ tập trung ở đó.” “Ra vậy, như thế ổn đấy. Nhất định tôi sẽ đến.” Nói vậy xong, anh Holmes nhoẻn miệng cười. S 4 au khi mẹ con nhà Miyashita ra về, anh Holmes vằn ngồi yên trên sô pha và nhìn chằm chằm hai bức thư đe dọa như muốn ăn tươi nuốt sống chúng. Tuy ánh mắt nghiêm túc, nhưng nụ cười lại hiện diện nơi khóe miệng. “... Anh biết được gì rồi à?” “Ừ, một chút.” Nói rồi, anh ấy ngậm hột thị luôn. Điều đó biểu thị rằng hiện giờ, anh ấy không muốn nói gì thêm nữa. “Thế nha, Kiyotaka, trăm sự nhờ con đó.” Ông chủ vừa nói vừa đội sụp cái mũ lên đầu. Anh Holmes nhíu mày một cách đầy lộ liễu. “Ông định đi đâu thế?” “À, ừm, ta đi tới phố Pontocho.” “Thật là, con vừa mới nghĩ là lâu lắm ông mới về, thì ông đã giúi phiền phức cho người khác rồi lập tức định chạy đi chơi. Đầu tiên phải hỏi, vì sao ông lại lôi con vào chuyện này thế ạ?” Anh Holmes thở dài chán nản với lá thư đe dọa trên tay, còn ông chủ thì cười ha hả. “Cái đó nha, là tại nhà Miyashita cứ thấp tha thấp thỏm, hổng muốn làm to chuyện, cũng hổng muốn có lời ra tiếng vào, lại không thể báo cảnh sát, nên ta lỡ miệng bảo, ‘Hỏi ý kiến Kiyotaka nhà ta xem chừng được đó, cháu ta là Holmes ở phố Teramachi Sanjo mờ.’” “Thật là... Làm gì có chuyện ‘lỡ miệng’ chứ. Đấy, cửa hàng này là của ông, thế mà ông cứ bỏ mặc suốt, nhưng vẫn tuỳ tiện khăng khăng kêu không muốn đóng cửa. Con và bố cũng có công việc riêng của mình, thế mà ông toàn giả vờ như thể công việc của một Chuyên gia giám định cấp Quốc gia bận lắm, rồi đi du lịch nước ngoài với phụ nữ. Thậm chí còn muốn tán tỉnh cả Aoi đến làm thêm ở đây nữa.” Bài thuyết giáo vừa bắt đầu là ông chủ lập tức bịt tai và kêu la ầm ĩ, “A... a... Hổng nghe thấy giề hết.” … Ơ, bộ ông là trẻ con sao... “Người phát triển tài năng của con là ta đây, thế mà con đã quên ơn, lại còn thuyết giáo ta à?” “Đấy là chuyện khác.” “Mà thôi, ta là vậy đó. Gặp gỡ mọi người, nói chuyện với gái trẻ, đều là một phần trong công việc mài giũa sự nhạy cảm của ta. Thôi nhé, ta đi phố hoa đây.” Ông chủ ra khỏi tiệm như chạy trốn. “Mình vẫn còn chuyện muốn xác nhận với ông chủ mà. Chốc nữa phải gọi điện thôi.” Anh Holmes nói như độc thoại rồi buông tiếng thở dài. Chuyện muốn xác nhận là chuyện gì nhỉ? Tạm bỏ qua cái đó thì... “Quản lí với anh Holmes tỏa ra bầu không khí giống nhau, nhưng ông chủ lại thuộc típ người khác hẳn nhỉ?” Thấy tôi lẩm bẩm như thế, anh Holmes cười cay đắng. “Đúng vậy, cả anh và bố đều rất kính trọng ông nội, nhưng một phần nào đó của ông cũng khiến người ta phải phì cười.” “... R-Ra vậy. À mà, lúc đầu ông chủ nói là đi ‘Pontocho’, nhưng khi ra khỏi cửa hàng lại đổi thành ‘phố hoa’, thật ra là ông đi đâu thế ạ?” “Pontocho cũng được gọi là ‘phố hoa’ đấy.” “Ơ thế ạ? Em cứ nghĩ ‘phố hoa là chỉ Gion.” “Ừ, Gion cũng vậy. Có sáu nơi được gọi là ‘phố hoa’, đấy là: Kamihichiken, Gion Kobu, Gion Higashi, Shimabara, Pontocho, Miyagawacho. Tất cả lại được gọi chung với cái tên ‘Kinh hoa lục phố.” “Ra là thế.” Tôi chỉ biết đến tầm Gion với Pontocho thôi, nhưng mà nghe cụm “kinh hoa phố’ thấy cứ mĩ lệ thế nào ấy. “À đúng rồi, Aoi, em cùng anh đi tới triển lãm cắm hoa của Saiodai được không? Nam giới còn ít tuổi tới đó một mình kiểu gì cũng sẽ nổi bật theo nghĩa không hay cho lắm.” Anh Holmes ngẩng mặt lên và mỉm cười. Đáp lại, tôi gật đầu thật mạnh, “À, vâng. Em cũng tò mò nên anh nhất định cho em đi theo với nhé.” “Chà, thế này thì tuy khác ông chủ về hình thức, nhưng cũng giống như là anh đang tán tỉnh Aoi nhỉ?” Anh Holmes cười khúc khích, còn tôi thì nghẹn lời và nóng bừng hai má. “Anh đùa đấy. Anh không có ý đồ bất chính đâu, em cứ yên tâm.” Anh tỉnh bơ nói tiếp. Sức lực của tôi chẳng hiểu đã bay biến đi đâu. “... Anh đúng là nham hiểm.” Thấy tôi so vai lại, anh Holmes nở nụ cười thích thú. Tôi hơi bực bội, thấy mình cứ như bị lăn qua lăn lại trong lòng bàn tay anh ấy. ... Anh Holmes đã hình dung được đến đâu về vụ thư đe dọa lần này nhỉ? Nhất định là nếu đến buổi trưng bày và gặp hai kẻ tình nghi (?), anh ấy sẽ nắm bắt được điều gì đó. Tim tôi bỗng nhiên đập thình thịch khi nghĩ thế. Phần nào đó trong tôi đang rất mong chờ triển lãm cắm hoa, theo nhiều nghĩa. Saiodai thì đang buồn lòng vì bức thư đe dọa, thế mà tôi lại thế này, thật là không đứng đắn. Nhưng, tôi mong rằng vụ việc này sẽ sớm được giải quyết, cũng là để xua đi nỗi phiền muộn của chị Saori. Tôi thực tâm cầu mong điều đó và siết chặt nắm tay của mình. 5 T hế rồi, đến Thứ Bảy. Giao lại nhiệm vụ trông “Kura” cho bác quản lí, tôi với anh Holmes đến triển lãm cắm hoa được tổ chức tại một khách sạn. Địa điểm là Kyoto Hotel Okura nằm đối diện Toà thị chính. Nghe nói triển lãm sẽ được tổ chức trong một hội trường đặc biệt ở đó. Tóm lại, đó là một khoảng cách có thể đi bộ từ “Kara”. “Aoi này, em có nói chuyện gì với cô em gái Kaori ở trường không?” Anh Holmes vừa đi về hướng khách sạn vừa hỏi. “À, có ạ.” Tôi gật đầu. “Sáng hôm sau, cậu ấy đợi em ở cổng trường, vừa thấy em đã cảnh cáo rằng, ‘Chuyện hôm qua đừng kể với ai có được không?’” “À thì, chuyện Saiodai nhận được thư đe dọa mà đến tai những cô gái trẻ thường sẽ lập tức lan rộng ra. Chắc là tối hôm ấy, cô bé đã bồn chồn lo sợ không biết Aoi đã kể cho ai đó hay chưa.” “Có lẽ vậy. Mà dù cho cậu ấy không lo lắng, thì em cũng chưa nói với ai, cũng chẳng định kể cho người nào cả.” Tôi cười cay đắng. Thấy vậy, anh Holmes khẽ nheo mắt. “Ở trường bây giờ, em không có người bạn nào có thể tin tưởng sao?” “... Không phải chuyện ‘ở trường bây giờ’ đâu ạ.” Kể từ khi phải đối mặt với hiện thực, nơi người bạn thân mà tôi tin tưởng hơn bất cứ ai hẹn hò với bạn trai trong lúc tôi không biết, tôi cảm giác mình chẳng thể tin vào thứ gọi là bạn bè nữa. Đến trường, nói những chuyện vô thưởng vô phạt, cùng ăn cơm hộp, vẫy tay chào tạm biệt rồi ra về. Chỉ làm những việc như vậy thì không có gì khó khăn cả. Vì vậy, tôi bây giờ không có chuyện tâm sự về những đau lòng, khổ sở của bản thân, càng không có một người bạn để mà thì thầm chia sẻ bí mật của người khác. “Aoi và Katsumi thực sự rất đẹp đôi! Không sao đâu, tớ sẽ trông chừng để cậu ta không lăng nhăng, nên cậu cứ yên tâm mà đi Kyoto nhé.” Câu nói của Sanae - bạn thân ngày trước của tôi - vang lên trong đầu, làm tim tôi đau nhói. Sanae... Tại sao? Tại sao cậu lại cặp với Katsumi vậy? Cậu chắc chắn vẫn biết tôi sẽ cảm thấy thế nào mà? Hay vì tôi đã không còn ở gần cậu nữa nên thế nào cũng được? Có phải cậu chỉ giả vờ ủng hộ chúng tôi, chứ thực ra cậu đã thích Katsumi từ rất lâu rồi? Phải chăng cậu đã luôn khổ sở vì chuyện ấy? Nếu vậy thì cậu đã vui mừng khi tôi không còn ở đó ư? Tôi cảm thấy khó thở. ... Lúc nào cũng thế này. Trong lúc chẳng có câu trả lời, những suy nghĩ tự vấn của tôi cứ kéo dài không dứt. Tôi thấy khổ sở, uất ức, dù thế nào cũng muốn làm rõ mọi chuyện. “Aoi, trời hôm nay đẹp nhỉ?” Nghe tiếng anh Holmes đang vừa tươi cười nói vừa ngước nhìn trời, tôi bừng tỉnh và ngẩng mặt lên. Bầu trời trong xanh không một gợn mây trông như đang sáng lên lấp lánh. “... Đúng thật, trời đẹp quá đi.” Nói mới thấy, từ khi bắt đầu làm thêm ở “Kura”, thời gian tôi rơi vào vòng lặp của những suy nghĩ khổ sở có vẻ ít đi. Cảm giác là dẫu tôi có thấy đau khổ đi chăng nữa thì anh Holmes sẽ lại kéo tôi ra bằng những lời nói vu vơ như thế này. Tôi lén ngó sang anh Holmes và thấy anh cũng nhìn mình với nụ cười tươi tắn. Đột nhiên, má tôi nóng bừng lên. Anh Holmes quá nhạy bén, có lúc thật đáng sợ, nhưng cũng nhiều lần cứu rỗi tôi. Khi đó, tôi đã định lén lút bán đồ của gia đình. Thật là một đứa chẳng ra gì. Nhưng từ tận đáy lòng, tôi thấy việc bước vào “Kura” và gặp được anh Holmes là một chuyện vô cùng may mắn. ... Vậy là chúng tôi cứ thế bước vào hội trường đặc biệt của Kyoto Hotel Okura. Tấm biển đề chữ “Triển lãm hoa phái Hanamura” ở cửa hội trường đập vào mắt tôi. Chắc hẳn tấm biển ấy được viết bởi một nhà thư pháp có tiếng. Một tác phẩm cắm hoa đồ sộ chào đón quan khách ở trung tâm hội trường, còn tác phẩm của các học viên được xếp thành hàng dọc theo bốn bức tường. “Cái này tuyệt thế.” Ngắm nghía tác phẩm cắm hoa lớn hơn cả một vòng tay, anh Holmes nheo mắt với vẻ vui thích. Có vẻ anh cũng thích cả hoa. “... Đây trông như là tác phẩm của giáo viên vậy.” “Ừ, nó biểu hiện vẻ lộng lẫy của mùa xuân đất kinh đô. Một tác phẩm lớn nhường này mà lại vô cùng tinh tế và táo bạo, lột tả được sự nhiệt tình dành cho triển lãm hoa.” Câu nói ấy làm tôi cũng quay ra ngắm hoa lần nữa. Lúc nãy tôi chỉ nghĩ là, “Ôi to thế!”, nhưng nghe diễn giải rồi nhìn lại mới thấy tác phẩm tuy lớn là vậy nhưng vẫn tinh tế vô cùng. Giống như bức tranh trên sứ Thanh Hoa nhà Nguyên, tôi cảm nhận được sự tỉ mỉ nghệ nhân dành cho từng chiếc lá. Ra là vậy, cắm hoa cũng thật sâu sắc làm sao. “Quả đúng là gia truyền chính phái. Hội trường cũng náo nhiệt ghê.” “Đúng thật.” Phần đông khách tới hội trường là những phu nhân trong trang phục truyền thống. Có nhiều người lớn tuổi, nhưng đây đó, tôi vẫn thấy bóng dáng những học sinh, sinh viên như chúng tôi, hay các học viên của lớp cắm hoa, bao gồm chị Saori. “À ở đây thì phải giả bộ như người lạ phải không anh?” “Phải đấy. Trước mắt chúng ta cứ thưởng lãm các tác phẩm đi.” “Vâng.” Tôi gật mạnh đầu, đưa mắt về phía các tác phẩm được trưng bày trên nền vải trắng tinh. Mỗi học viên được trưng bày hai tác phẩm. Khi tôi đang bâng quơ ngắm nhìn tất cả các tác phẩm của mọi người thì có một giọng nói dội vào tai, “A, đây là tác phẩm của Saiodai năm nay ư? Đẹp thiệt đó.” Hình ảnh chị Saori e ấp cúi đầu chào và một vị khách lọt vào tầm mắt tôi. Nhận ra chúng tôi, chị Saori bất động trong giây lát, nhưng rồi vẫn duyên dáng cúi chào như với những người khác. Chúng tôi cũng cúi chào, đưa mắt về phía tác phẩm của chị Saori. Một bên là tác phẩm dùng cành hoa rất dài, nhìn to lớn và có cảm giác tràn đầy năng lượng. Một bên là tác phẩm thể hiện sự cân xứng khéo léo giữa những cành cây tuy bé nhưng vươn dài sang ngang và các bông hoa li ti nhỏ xíu. Tác phẩm khiến người ta cảm thấy một sự tinh tế mong manh nhưng bản chất lại vô cùng mạnh mẽ. “...” Nói sao nhỉ? Hai tác phẩm này... Tôi vô tình khoanh tay lại. “Hai tác phẩm này cho thấy hai bộ mặt khá là khác nhau nhỉ?” Dường như có cùng suy nghĩ với tôi, anh Holmes lẩm bẩm tựa độc thoại. Đúng lúc chị Saori nghe thấy câu nói ấy và toan mở miệng, “À, cái đó...”, một giọng nói rất có uy bỗng cất lên ở sau lưng. “Phải đó, hai tác phẩm này mỗi cái một vẻ phải hôn?” Tôi giật mình quay lại thì thấy một phụ nữ trung niên trong trang phục truyền thống đang đứng đó và nở nụ cười thanh lịch. “Chào cô Hanamura.” Thấy anh Holmes cúi đầu, tôi ngạc nhiên mở to mắt. Đây là giáo viên lớp cắm hoa. Ủa mà, anh Holmes quen biết người này à? “Chu choa, Kiyotaka nhà ông Seiji hở? Lớn quá rồi nè.” """