"Hồi Ức Và Suy Nghĩ - Trần Quang Cơ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồi Ức Và Suy Nghĩ - Trần Quang Cơ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Hồi Ức và Suy Nghĩ Trần Quang Cơ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 2/194 Lời tựa Tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ (1920–) lưu chuyển trong nước từ đầu năm 2003. Tác giả nguyên là Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao, thành viên Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội nghị Paris (68–73) về Việt Nam. Trước khi làm việc tại Bộ Ngoại Giao (1954), Trần Quang Cơ là sĩ quan quân đội nhân dân giảng dạy tại trường Cao Đẳng Ngoại Giao. Ông là cán bộ ngoại giao suốt 44 năm (54–97) – 1964 làm bí thư thứ nhất ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – 1966 Trần Quang Cơ trở lại Hà Nội, 1976 phụ trách Vụ Bắc Mỹ rồi chuyển sang vụ Âu Châu trước khi sang làm Đại Sứ tại Thái Lan vào năm 1982. Được đưa vào Trung ương đảng cộng sản Việt Nam từ 1986; ròng rã 12 năm kể từ 1979, ông Trần Quang Cơ tham gia các cuộc thương lượng nhằm giải quyết chiến tranh tại Cambodia. Sau chiến tranh Việt Nam, ông tham gia cuộc đàm phán bình thường hoá quan hệ với ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc. Tháng hai 1991, ông xin rút ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam khóa VII nhưng không được chấp thuận. Tháng bẩy cùng năm ông gặp Tổng Bí Thư Đỗ Mười xin không nhận chức bộ trưởng ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch. Cuối năm 1993, ở Hội nghị giữa nhiệm kỳ, ông tự ý xin rút khỏi Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Trong chiều hướng đi tìm những đối thoại thẳng thắn giữa cựu thù, McNamara đề nghị những học giả và cựu lãnh đạo cuộc chiến hai bên cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ cùng ngồi xuống duyệt lại những quyết định trong cuộc chiến nhằm hiểu rõ để khả dĩ rút được những kinh nghiệm lịch sử, thực dụng cho toàn cầu qua “bài học Việt Nam”. Sáu hội nghị như trên đã diễn ra tại Hà Nội từ tháng 11, 1995 đến tháng 2, 1998; Hội nghị thứ 7 thực hiện tại Viện Rockefeller ở Bellagio, Italy. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 3/194 Ông Trần Quang Cơ, Nguyễn Cơ Thạch và một số học giả, tướng lãnh và cựu lãnh đạo CHXHCN Việt Nam đã tham dự chuỗi hội nghị này, quan trọng nhất là hai hội nghị chính vào tháng 6, 1997 và tháng 2, 1998. Tập tài liệu này ghi lại nhiều dữ kiện quan trọng về quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa lớn nhỏ, với Hoa Kỳ và khối ASEAN cũng như những tranh chấp trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam. Ghi lại những thông tin nổi cộm về các vấn đề của Việt Nam cận đại sau hơn bốn mươi năm mắt thấy tai nghe – được giữ kín–mật, chưa bao giờ phổ biến – cùng với những suy nghĩ của một cán bộ cộng sản trung kiên, tập hồi ký này sẽ phần nào giúp các nhà quan sát, những người cầm bút, thêm tài liệu phân tích cục diện Việt Nam những năm sau cuộc nội chiến và những tháng ngày trước mặt. Dù ở ngàn năm trước hay ngay thời đương đại, quan hệ Việt– Trung lúc nào cũng là nỗi quan ngại của người Việt Nam, nhất là trước những mất mát, thiệt hại, đe dọa lớn đến chủ quyền và tài nguyên Việt Nam trong những năm gần đây dọc đường biên giới phía Bắc cũng như ở Vịnh Bắc Việt và cả vùng Biển Đông của Tổ Quốc; tập tài liệu này chỉ rõ một số hệ quả của tư duy và cách ứng xử của những người có trách nhiệm an dân bảo quốc trong những thập niên cận đại. Đấy là những bài học quý giá cho tất cả mọi người Việt quan tâm đến vận mệnh dân tộc. Phụ đính, mục lục, tất cả những cước chú và chú thích cuối tập tài liệu nhằm giúp người đọc dễ hiểu hơn và để tra cứu thêm khi cần. Phần phụ đính gồm một nhận định khác của Trần Quang Cơ (Tạp chí Cộng Sản số 31, 2003) và một số những trích đoạn bài viết liên hệ đến tập hồi ký trước năm 2005. Người biên tập Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 4/194 Mục lục Lời tựa------------------------------------------------------------------------- 1 Hồi ức và Suy nghĩ----------------------------------------------------------- 5 Việt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20 ------------------------------- 7 Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạt. --------------------------------------19 Đại hội “đổi mới”. ---------------------------------------------------------28 CP87 và 3 tầng quan hệ của vấn đề Campuchia.-----------------------30 Từ chống diệt chủng đến “giải pháp đỏ”? ------------------------------36 Một bước tự cởi trói: đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ .---------40 Trung Quốc uốn mình để thích nghi với thế cực . ----------------------44 Hiệp 1 của Hội nghị quốc tế Pa–ri về Campuchia .--------------------49 Đặng Tiểu Bình tiếp Kaysone Phomvihan để nói với Việt Nam . -----56 Thuốc đắng nhưng không dã được tật .----------------------------------64 BCT đánh giá cuộc đàm phán tháng 6/1990 ----------------------------74 Một sự chọn lựa thiếu khôn ngoan.---------------------------------------80 Cuộc gặp cấp cao Việt–Trung tại Thành Đô 3–4/9/90 -----------------83 Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta?------------------------88 Ai là người đáng lý ra phải nhớ dai? ------------------------------------95 Món nợ Thành Đô.----------------------------------------------------------99 Những vấn đề về tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại còn có tranh luận------------------------------------------------------------------ 105 Đại hội VII và cái giá phải trả cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc .------------------------------------------------------------- 108 Hiệp 2 của Hội nghị quốc tế về Campuchia.-------------------------- 115 Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trang --------- 119 Phụ lục --------------------------------------------------------------------- 124 Những thách thức đe dọa an ninh và phát triển của ta có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào? --------------------------------------- 125 Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe dọa an ninh và phát triển của ta là từ đâu? --------------------------------------------------------------- 129 Kiến nghị đối sách-------------------------------------------------------- 134 Bảng niên đại-------------------------------------------------------------- 141 Phụ Đính------------------------------------------------------------------- 177 Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 5/194 Hồi ức và Suy nghĩ Trong 44 năm (1954–1997) làm ngoại giao, trải qua những giai đoạn khác nhau. Bản thân chứng kiến và tham gia nhiều sự kiện ngoại giao đáng ghi nhớ của thời kỳ kháng chiến và của thời kỳ hậu chiến như cuộc đàm phán hoà bình với Mỹ ở Pa–ri (1968–1973), đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Sở dĩ tôi chọn quãng thời gian (1975–1993) để viết ký ức này vì nó chứa đựng nhiều diễn biến khúc mắc tế nhị về đối ngoại. Nhất là trong quan hệ của ta với ba nước lớn, dễ bị vô tình hay cố ý làm “rơi rụng” để cho lịch sử được “tròn trĩnh”, khiến cho việc đánh giá và rút bài học bị sai lệch. Và đây cũng là giai đoạn mà mối quan hệ của ta với các nước lớn có những điều đáng phải băn khoăn suy nghĩ, không những cho hiện tại mà có thể cho cả tương lai. Bối cảnh quốc tế lúc này rất phức tạp, chiến tranh lạnh đã đi vào giai đoạn cuối. Cả 3 nước lớn Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc đều có những chuyển đổi về chiến lược, từ chỗ đối đầu quyết liệt với nhau chuyển sang hoà hoãn tay đôi rồi tay ba. Cục diện chính trị luôn biến đổi ở Châu Á Thái Bình Dương tác động trực tiếp đến tiểu khu vực Đông Nam Á và nước Việt Nam ta. Khu vực Đông Nam Á lúc này cũng đang trong quá trình chuyển đổi từ đối đầu sang quan hệ đối thoại giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN. Hoàn cảnh này đúng ra đòi hỏi Việt Nam phải mạnh dạn sớm đổi mới tư duy về đối ngoại để có được một đường lối phù hợp với thực tiễn khách quan nhằm thoát ra khỏi thế cô lập, hoà nhập được với đà phát triển chung của khu vực và thế giới. Nhưng không! Tư duy chính trị xơ cứng đã giam giữ nước ta trong cảnh khó khăn một thời gian dài. Chính vì thế ngoại giao quãng thời gian này đã để lại trong tôi nhiều băn khoăn suy nghĩ về cái đúng cái sai, cái nên làm và cái không nên làm. Tôi nghĩ rằng nếu nghiên cứu một cách trung thực và có trách nhiệm những sự kiện của giai đoạn lịch sử này thì từ đây có thể rút ra những bài học bổ ích và Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 6/194 đích đáng cho ngoại giao ta hiện tại và tương lai với mục đích tôi cho là đảm bảo được lợi ích của dân tộc trong mọi trường hợp. Vì vậy tài liệu này tôi viết làm 2 phần: Hồi ức và Suy nghĩ. Phần Hồi ức cố gắng ghi lại một cách khách quan và trung thực diễn biến của các sự kiện trong thời gian 1975–1993 trên cơ sở những tư liệu và nhật ký công tác còn lưu giữ được. Còn phần Suy nghĩ dành cho những ý nghĩ của riêng tôi, những điều trăn trở của tôi khi nghiền ngẫm lại các sự việc đã trải qua. Những ý nghĩ hoàn toàn theo chủ quan, có thể sai có thể đúng. 23.1.2001 Bản thảo này đã được bổ sung và hoàn chỉnh ngày 22.05.2003 Trần Quang Cơ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 7/194 Việt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20 Nước Việt Nam ta trong những năm 70 của thế kỷ 20 đã trải qua những sự kiện to lớn: Hiệp định Pa–ri1 1973 về Việt Nam kết thúc cuộc đàm phán “ma–ra–tông2” 1968–1973 giữa VN và Mỹ, toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 đã đưa Việt Nam tới đỉnh cao của giải phóng dân tộc và uy tín của quốc tế. Thắng lợi của Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ không chỉ là một tác nhân đưa đến những thay đổi rất quan trọng trong chiến lược của các nước lớn mà còn làm chuyển đổi cục diện chính trị khu vực Đông Nam Á. Nể sợ sức mạnh quân sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối đe dọa từ nước Trung Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam Á, đồng thời lại có yêu cầu phát triển kinh tế, các nước ASEAN3 sốt sắng bình thường hoá và cải thiện quan hệ với Việt Nam; tổ chức liên minh quân sự SEATO4 tan rã; xu hướng hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á phát triển. Sau khi bị “gáo nước lạnh” ở Việt Nam, Mỹ lo tháo chạy khỏi Đông Nam Á, song lại sợ tạo ra một “khoảng trống” có lợi cho các đối thủ của mình. Một mặt sợ Liên Xô thừa thế mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á và thế giới, mặt khác lo Trung Quốc phát huy vai trò nước lớn Châu Á để lấp chỗ “hổng” đó nên Mỹ vừa tìm cách khai thác mâu thuẫn Xô–Trung vừa muốn có một nước Việt Nam độc lập cả với Trung Quốc lẫn Liên Xô để duy trì thế cân bằng chiến lược giữa 3 nước lớn trong khu vực Châu Á–Thái Bình Dương. Trong tập “Tài liệu Lầu Năm Góc” (Pentagone Papers5) của Mỹ có viết: “Báo cáo của đại sứ Mỹ tại Anh gửi Bộ Ngoại giao 1 Paris 2 Marathon 3 The Association of Southeast Asian Nations, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 4 Southeast Asia Treaty Organization 5 The Pentagon Papers (1971), the New York Times ed. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 8/194 Mỹ ngày 1.3.1967 ghi lại một cuộc đối thoại ngắn giữa ngoại trưởng Anh Brown6 và ngoại trưởng Ba Lan Rapacki7 tại Luân đôn ngày 22.2.1967. Khi Brown hỏi nhận định của Rapacki về mức độ thế lực của Kossyguine8 (thủ tướng Liên Xô lúc đó) đối với Hà Nội. Rapacki trả lời: “Không kém của ông đối với Hà Nội”. Và khi Brown hỏi: “Giữa Trung Quốc và Liên Xô nước nào có nhiều ảnh hưởng hơn đối với Hà Nội?”. Rapacki trả lời: “Bắc Việt Nam”. Đường lối độc lập tự chủ của Việt Nam thể hiện rõ nét trong suốt thời gian đàm phán với Mỹ ở Pa–ri. Sau cuộc đàm phán với Mỹ ở Pa–ri năm 1973 tôi được đề bạt làm vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ nên có đầy đủ điều kiện trực tiếp theo dõi và xử lý mối quan hệ của nước ta với Mỹ sau chiến tranh. Vào quãng hơn một tháng sau khi giải phóng miền Nam, ta có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng “Lãnh đạo VNDCCH tán thành có quan hệ tốt trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía VN đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía VN đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch đối với Mỹ ở Việt Nam và VN cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ”. Ngày 12.6.75, Mỹ gửi đến Sứ quán ta ở Pa–ri bức thông điệp đáp lại: “Về nguyên tắc, Mỹ không thù hằn gì Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Đề nghị trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên (procced on this basis in any relations between the two sides). Mỹ sẵn sàng nghe bất cứ gợi ý nào mà 6 George Alfred George–Brown, Baron George–Brown (11.8.1966– 16.3.1968) – Từ chức vì nghiện rượu 7 Adam Rapacki, Ngoại trưởng Poland 1956–1968 (+1970) 8 Kosygin, Alexei Nikolayevich , 1904–80, Thủ tướng USSR (1964–80) dưới thời Leonid Brezhnev Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 9/194 phía VNDCCH có thể muốn đưa ra”. Thông điệp này do Sứ quán Mỹ ở Pa–ri gửi tới Sứ quán ta, nội dung không nói rõ là của Bộ Ngoại giao Mỹ hay của cấp nào. Ngày 11.7.75, ta gửi thông điệp cho Mỹ, chủ yếu nhắc lại đoạn nói về Mỹ trong Báo cáo của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh9 đọc trước Quốc hội ngày 4.6.75: “Việc Chính phủ Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, từ bỏ hoàn toàn sự can thiệp vào công việc nội bộ miền Nam Việt Nam, làm nghĩa vụ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh ở cả hai miền Việt Nam, sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ bình thường giữa VNDCCH và Hoa Kỳ theo tinh thần Điều 22i Hiệp định Pa–ri về Việt Nam.” Cuộc tiếp xúc đầu tiên sau chiến tranh giữa ta và Mỹ diễn ra tại Pa–ri ngày 10.7 ở cấp bí thư thứ nhất đại sứ quán (Đỗ Thanh– Pratt) chủ yếu bàn về vấn đề MIA10, cụ thể phía Mỹ xin được trao trả một số hài cốt phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc. Đến cuộc gặp tiếp theo ngày 5.9.75, cũng vẫn phía Đỗ Thanh và Pratt, ta đồng ý sẽ giao cho Mỹ 3 bộ hài cốt “giặc lái”. Song mãi tới tháng 12 ta mới cho phép một đoàn 4 hạ nghị sĩ Mỹ do Chủ tịch Ủy ban POW/MIA11 G.V. Montgomery dẫn đầu vào Hà Nội nhận. Đoàn này đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp. Sang năm 1976, Mỹ lại thông qua Liên Xô thăm dò việc tiếp xúc với ta, song khẳng định sẽ không thực hiện điều 21ii của Hiệp định Pa–ri. Công hàm ngày 26.3.76 của Henry Kissinger– lúc này là ngoại trưởng–gửi ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cảm ơn ta đã đón tiếp đoàn Montgomery và sẵn sàng mở cuộc thảo luận về việc thiết lập mối quan hệ mới giữa hai nước. “I believe that the interests of peace and security will benefit from 9 1910–1985, Đại diện VNDCCH ký Hiệp Định Paris 1973 10 Missing–In–Action 11 Prisoner–Of–War/ Missing–In–Action Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 10/194 placing the past behind us and developing the basis for a new relationship between our two countries”. Ngày 30.4 bộ trưởng ngoại giao ta gửi công hàm trả lời, nêu lại những vấn đề tồn tại giữa 2 nước (vấn đề bồi thường chiến tranh và vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh), trên cơ sở giải quyết 2 vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ theo quy định của Điều 22 Hiệp định Pa–ri. Ta sẵn sàng xem xét đề nghị cụ thể của Mỹ về việc mở thương lượng giữa hai bên. Ta sẽ có trả lời không để quá lâu, song sẽ không trước khi Quốc hội Mỹ bàn về việc bỏ cấm vận đối với Việt Nam. Gần như đồng thời với việc G. Ford12 bác kiến nghị của Quốc hội Mỹ yêu cầu tạm ngừng trong 6 tháng lệnh cấm vận buôn bán với Việt Nam. Bộ ngoại giao Mỹ gửi thông điệp khẳng định sẵn sàng sớm có thảo luận với VN, song nhận xét quan điểm ta đặt thương lượng trên cơ sở “selective application of past agreements” là không đem lại kết quả xây dựng; vấn đề “full accounting” về MIA sẽ là một trong những vấn đề hàng đầu của Mỹ, chỉ khi nào vấn đề này được giải quyết “một cách cơ bản” (substantially) mới có thể có tiến bộ thật sự tới bình thường hóa quan hệ giữa hai nước chúng ta. Đề nghị VN xem lại một cuộc họp bàn về các vấn đề tồn tại là có bổ ích hay không? Tình hình nhùng nhằng như vậy kéo dài cho tới khi Jimmy Carter13 trúng cử tổng thống thay Gerald Ford năm 1977. Chính quyền mới của đảng Dân chủ có quan điểm chiến lược khác và thái độ đối với Việt Nam mềm mỏng hơn. Nguyên nhân quan trọng khiến chính quyền Carter quan tâm ngay từ đầu đến việc thiết lập mối quan hệ mới với Việt Nam là lợi ích chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở Châu Á. Không 12 Gerald Rudolph Ford, (14.7.1913–), tên Leslie Lynch King, Jr. khi mới chào đời, đổi tên và lấy họ của cha kế. Tổng Thống thứ 38 của Hoa Kỳ (1974–1977) 13 James Earl Carter, Jr. (1.10.1924–) Tổng Thống thứ 39 của Hoa Kỳ (1977–1981) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 11/194 phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 1/1977). Ngày 6/1/1977, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3 bước về bình thường hóa quan hệ với Việt Nam: 1) Việt Nam cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). 2) Mỹ chấp nhận Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam. 3) Mỹ có thể đóng góp khôi phục lại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác. Ngày 3/3/1977 chính quyền Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận đối với ta, cho phép tàu thuỷ và máy bay nước khác chở hàng sang Việt Nam được ghé các cảng và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người Mỹ buôn bán với Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam, cấm tàu và máy bay Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày 9/3/1977 Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên, CPC14 kể từ ngày 18/3/1977. Đến giữa tháng 3, ta nhận tiếp đón Leonard Woodcock15, đặc phái viên của tổng thống Mỹ Carter, sang Việt Nam. Ngày 17/3/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp L. Woodcock và 4 thành viên – trong đó có Thượng nghị sĩ Mansfield tại Chủ tịch phủ ở Hà Nội. Ngày hôm đó, đoàn Mỹ cũng đã đến chào Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh. Sau chuyến đi thăm mở đường này, hai bên đã thỏa thuận mở 14 Kampuchea (Cambodia) 15 (15.2.1911–18.1.2001) Chủ tịch Công Đoàn UAW (1970–77), Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Beijing Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 12/194 cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ tại Pa–ri. Đoàn ta lúc đó do Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, thành viên có tôi, vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, anh Vũ Hoàng, vụ trưởng Vụ Lãnh sự và mấy cán bộ Vụ Bắc Mỹ: a. Bùi Xuân Ninh, Cương, Lê Mai. Anh Lê Mai khi đó là cán bộ Vụ Bắc Mỹ, làm phiên dịch cho trưởng đoàn. Sứ quán ta ở Pháp có anh Đỗ Thanh, bí thư thứ nhất và anh Nguyễn Thiện Căn, tuỳ viên báo chí, tham gia đoàn. Phía Mỹ do R.Holbrooke làm trưởng đoàn. Cuộc đàm phán diễn ra khá lâu, phải qua 3 vòng đàm phán trong tháng 5, tháng 6 và tháng 12 năm 1977. Địa điểm luân phiên ở đại sứ quán ta và đại sứ quán Mỹ tại Pháp. Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3–4/5/1977), lập trường của Mỹ là hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những vấn đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Còn về điều 21 (của Hiệp định Pa–ri về VN), Mỹ có khó khăn về pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo. Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói” 3 vấn đề: ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô–la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây. Trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô–la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó dứt khoát không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Ngày 2–3/6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng 5. Ngày 19/7/1977, tại Hội Đồng Bảo An LHQ, Mỹ rút bỏ việc phủ quyết Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ chốt16 của ta lúc đó đều nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên quyết của ta, tại vòng 3 (19–20/12/1978), Mỹ đề nghị 16 Lãnh đạo bộ chính trị ĐCSVN (1977): Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 13/194 nếu chưa thoả thuận được về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền lợi (Interest section) ở thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có Phòng Quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ lập trường cứng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề. Rõ ràng năm 1977 chính quyền Carter thực sự muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và năm 1977 đã có khả năng thực tế để ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ nhưng ta đã bỏ qua. Trong khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới từ ngày 20 tháng 4 và đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.1977. Từ đầu năm 1978, quan hệ giữa 3 nước lớn Mỹ–Xô–Trung bắt đầu chuyển từ hình thái đối đầu từng đôi một sang hình thái Mỹ–Trung câu kết chống Liên Xô. Liên Xô nhân thế yếu của Mỹ sau thảm bại ở Việt Nam ra sức tăng cường ảnh hưởng ở Á–Phi và Mỹ la tinh bằng học thuyết “chủ quyền hạn chế” của Brejnev17. Tại Châu Á, Liên Xô đưa quân vào Afghanistan (1979), đồng thời thực hiện chính sách bao vây Trung Quốc. Cũng từ năm 1978, Mỹ đẩy nhanh quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (từ tháng 2/1978), khi Kissinger đi thăm Bắc Kinh, TQ18 và Mỹ đã ký thoả thuận lập Cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước với quy chế như một sứ quán. Nước cờ “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” của cố vấn an ninh quốc gia Z. Brzezinski19 đã dần dần lấn lướt chủ trương của ngoại trưởng Cyrus Vance và R. Holbrooke là “thúc đẩy song song việc cải thiện quan hệ với Việt Nam và Trung Quốc”. Ngày 23/8/78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình thường hoá quan hệ với ta ở Pa–ri, ngoại trưởng Mỹ C. Vance đã đi 17 Leonid Ilyich Brezhnev (1906–1982) 18 Trung Quốc 19 Zbigniew Brzezinski (28.3.1928–) Warsaw, Poland, trở thành công dân Canada, rồi công dân Hoa Kỳ (1958); cố vấn cho các chính phủ của đảng Dân Chủ từ những năm 60; Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của TT Carter Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 14/194 thăm Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình20 tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19/5/1978) và Brzezinski đi thăm Trung Quốc (20/5/1978) thì chính quyền Carter đã chọn con đường bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Ngày 21 tháng 8 năm 1978 Quốc hội Mỹ còn cử một đoàn 7 hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hoà, do hạ nghị sĩ Dân chủ G.V. Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu sang Việt Nam chủ yếu để trao đổi với thứ trưởng Phan Hiền về vấn đề tìm kiếm “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA). Ta đã trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt để tỏ thiện chí hợp tác trong vấn đề MIA. Và theo yêu cầu của họ, tôi đã dẫn đoàn Montgomery đi miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đây là lần đầu tiên ta cho phép một đoàn Mỹ chính thức thăm thành phố Hồ Chí Minh kể từ khi giải phóng miền Nam. Sau đó chừng một tháng, tôi sang Nữu–ước21 để tiếp tục cuộc đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Cuộc đàm phán vòng 4 về bình thường hoá quan hệ Việt Nam–Mỹ không kéo dài nhiều năm 1977 ở Pa–ri. Lần này trưởng đoàn đàm phán của ta là thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch22. Còn phía Mỹ vẫn là R. Holbrooke. Đến lúc này khi ta quyết định rút bỏ đòi hỏi “Mỹ phải bồi thường chiến tranh – viện trợ 3,2 tỷ đô–la – mới bình thường hoá quan hệ” và nhận công thức “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ thì đã muộn. Sở dĩ Mỹ tiếp tục đàm phán vấn đề bình thường hoá với ta lúc đó 20 Deng Xiaoping (1905–1997), cha đẻ của “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” tại Trung Quốc vào cuối thập niên 70 21 New York 22 Tên thật là Phạm Văn Chương (1920–1998), thư ký riêng của Võ Nguyên Giáp (1945–49); Tổng Giám Đốc ở Bộ ngoại giao (1954); Tổng Lãnh Sự tại India (1959) vào Trung ương đảng từ 1976, Thứ trưởng thứ nhất (1979), Bộ trưởng Ngoại Giao từ 1986 đến khi “về hưu” năm 1991. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 15/194 là chỉ nhằm làm Việt Nam chập chững trong quan hệ với Liên Xô và trong vấn đề Campuchia, trong khi đó Mỹ đã chuyển hướng sang phía Trung Quốc. R. Holbrooke nói với ta: Mỹ coi trọng Châu Á; Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Nhưng Mỹ lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh. Trong khi chờ đợi phía Mỹ trả lời dứt khoát về vấn đề bình thường hoá quan hệ, khoảng hạ tuần tháng 11, anh Thạch về Hà Nội trước, còn tôi vẫn ở lại Nữu ước để giữ cầu. Ngày 30/11/1978, R. Oakley23, trợ lý ngoại trưởng Mỹ, trả lời sự thúc dục của tôi, còn nói: Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề CPC, Hiệp ước Việt–Xô và vấn đề người di tản. Rồi họ trao cho tôi tấm ảnh toà nhà của sứ quán ngay trên đường R. ở Hoa–thịnh–đốn24, nói là sẽ trao trả ta toà nhà đó làm trụ sở đại sứ quán, yêu cầu ta cung cấp sơ đồ ngôi nhà cũ của tổng lãnh sự quán Mỹ tại đường Tràng Thi (?) Hà Nội. Tôi ở lại Nữu ước mãi tới cuối tháng 1/1979, sau khi ta đưa quân vào Campuchia giúp bạn đánh đuổi Polpot giải phóng Nông–Pênh25. “Các cuộc nói chuyện Mỹ–Việt Nam về bình thường hoá đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam” (Cyrus Vance 9/1/1979). Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta từ khi ta tham gia khối COMECON26 và ký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (3/11/1978), để bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô ở Châu Á–Thái Bình Dương. Việc Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29–30/1/1979) đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Mỹ–Trung Quốc, cũng là chính thức xếp lại việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam–Mỹ tới 17 23 Robert B. Oakley, Deputy Assistant Secretary of State for East Asia and the Pacific (2.1977) 24 Washington D.C. 25 Phnom Penh, thủ đô Cambodia 26 The Council for Mutual Economic Assistance Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 16/194 năm sau. Trong khi gặp Carter ở Hoa–thịnh–đốn, Đặng Tiểu Bình đã tỏ ý sẽ tiến công vào Việt Nam và không gặp phải phản ứng bất lợi nào từ phía Mỹ. Theo Brzezinski, trong cuộc hội đàm với Carter hôm 29/1, Đặng yêu cầu có sự cộng tác giữa Mỹ và TQ để chống Liên Xô. Còn Carter có phần thận trọng hơn, đồng ý có những cuộc tham khảo chặt chẽ giữa hai nước để chặn chủ nghĩa bành trướng của LX nhưng thận trọng tránh đề cập tới đề nghị của Đặng. Sau đó, ngày 26/2/1979, Carter có nêu 6 nguyên tắc xử sự khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam: Mỹ không can thiệp trực tiếp; khuyến khích các bên tự kiềm chế; Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam, cuộc xung đột không đe dọa lợi ích trước mắt của Mỹ; không đặt lại vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe dọa. Cũng từ đó, cuộc xung đột CPC và quan hệ với Việt Nam đã được đặt trong khuôn khổ của mối quan giữa 3 nước lớn Mỹ– Xô–Trung. Và cũng từ đó Mỹ gắn vấn đề quan hệ Mỹ–Việt Nam với quá trình giải quyết vấn đề CPC. Là nhân chứng lịch sử và cũng là người trực tiếp tham gia các hoạt động ngoại giao này với tư cách là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ Bộ ngoại giao, trực tiếp tham gia đoàn đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Mỹ ở Pa–ri năm 1977 rồi ở Nữu ước năm 1978, tôi thật sự đau xót vì ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình (From Third world to First27–Từ thế giới thứ ba đến thế giới thứ nhất). Lý Quang Diệu28 đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Băng–cốc29. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”. 27 From Third World to First: The Singapore Story, 1965–2000, Lee Kwan Yew, HarperCollins, 10.1.2000 28 Lee Kwan Yew, Thủ tướng đầu tiên của Singapore sau ngày độc lập (1959–1990) 29 Bangkok, thủ đô Thailand Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 17/194 Việc ta từ chối lời đề nghị “bình thường hoá quan hệ không điều kiện” của Mỹ, làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này, theo tôi, đã đưa lại những hệ quả vô cùng tai hại cho nhân dân và đất nước ta. Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và có dám đánh ta năm 1979 nếu như Việt Nam sau Chiến thắng 1975 có một chiến lược “thêm bạn–bớt thù” thực sự cầu thị hơn? Việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ và việc gia nhập khối ASEAN mãi ngót 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện được một cách khá chật vật. Theo tôi, tư duy đối ngoại có phần cứng nhắc của ta lúc ấy quả đã không theo kịp bước chuyển biến của chính trị thế giới thể hiện qua sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn sau sự kiện Việt Nam 1975, để dám có những quyết sách linh hoạt kịp thời đem lại lợi ích to lớn lâu dài cho dân tộc ta. Ngược lại, việc ta bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ lúc này đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng. Còn với Trung Quốc, sau khi có Hiệp định Pa–ri 1973, Trung Quốc có lợi ích duy trì nguyên trạng ở Đông Dương, nhất là việc Việt Nam chia cắt thành hai miền dưới hai chế độ chính trị khác nhau là phù hợp với ý đồ lâu dài của họ ở Đông Nam Á. Sau khi đi thăm Trung Quốc về, thượng nghị sĩ Mỹ K. Mansfield báo cáo trước Quốc hội Mỹ (1/2/1975): Trung Quốc tán thành để hai nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất, trung lập là điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định. Từ 1973, đã xảy ra những va chạm ở biên giới Việt–Trung. Năm 1974, Trung Quốc chiếm ngon lành nốt phần còn lại ở quần đảo Hoàng Sa của ta. Có người cho rằng chỉ sau khi ta ngả hẳn theo Liên Xô thì Trung Quốc mới chống ta. Song sự thật là các hoạt động thù địch của Trung Quốc đối với Việt Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 18/194 Nam đã xảy ra từ trước khi Việt Nam tham gia khối SEV30 (tháng 6/1978) và ký Hiệp ước hữu nghị với Liên Xô (tháng 11/1978). Tháng 12 năm 1975, sau khi thăm Trung Quốc qua Pa–ri, H. Kissinger nói: Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực. Nét đặc trưng của giai đoạn 1975–78 là Campuchia trở thành tiêu điểm của sự đối đầu giữa một bên là Trung Quốc và một bên là Việt Nam được Liên Xô ủng hộ. Sự đối đầu ấy trở thành xung đột quân sự ngay từ tháng 5/1975 và phát triển lên thành cuộc chiến tranh biên giới Tây–Nam nước ta. Trong khi trả lời phỏng vấn, ngày 8/1/1978 tôi đã nhận định: Điều lý thú đây là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác giữa Liên Xô và Trung Quốc; xung đột giữa Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và CPC được Trung Quốc ủng hộ. Như vậy chỉ qua 4 năm sau khi giải phóng được đất nước, ta lại bị xô đẩy vào cuộc chiến thảm khốc ở Campuchia, đối đầu ngay với Trung Quốc, kẻ đã từng là đồng minh chiến lược của ta trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược phương Tây. Sau hai cuộc kháng chiến gian khổ, dân ta mới chỉ được hưởng mùi vị của chiến thắng và hoà bình êm ả chưa đầy 5 năm. Vết thương chiến tranh chưa lành thì đã lâm vào cảnh nửa hoà bình nửa chiến tranh. Chiến tranh chống Mỹ tuy gian khổ khốc liệt song Việt Nam còn có được mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ, còn trong cuộc chiến đấu chống diệt chủng Polpot thì Việt Nam hầu như hoàn toàn cô lập. Các nước cùng khu vực lo sợ Việt Nam sau khi “hạ xong” Campuchia sẽ phát huy sức mạnh quân sự ra cả Đông Nam Á. Còn Trung Quốc ra sức vu khống “Việt Nam xâm lược Campuchia và có mưu đồ lập “Liên bang Đông Dương” để làm chủ cả Lào lẫn Campuchia, xoá mờ tính chất “chống diệt chủng” của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia. 30 SEV, Liên minh hỗ trợ kinh tế (COMECON , CMEA, CEMA: COuncil for Mutual ECONomic assistance) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 19/194 Cũng thời gian này, do những khó khăn kinh tế–xã hội chồng chất của thời kỳ chiến tranh chưa được tháo gỡ, lại bị bao vây cấm vận bên ngoài nên trong nước đã nảy sinh ra tình trạng “vượt biên” trốn ra nước ngoài của một bộ phận dân chúng ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, tạo thêm gánh nặng về đối ngoại cho ta, bôi đen thêm hình ảnh Việt Nam trên quốc tế. Vấn đề Campuchia và vấn đề “thuyền nhân” (boat people) lúc đó quả là hai gánh nặng trên mặt trận đối ngoại của ta trong thập niên 80 của thế kỷ 20. Nửa cuối của thập kỷ 70 này là thời gian ta chồng chất nhiều sai lầm về đối ngoại nhất trong suốt lịch sử dựng nước sau cách mạng (từ 1945 đến nay): - Ta không khôn ngoan duy trì mối quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, nhân tố cực kỳ quan trọng đảm bảo thắng lợi của ta trong kháng chiến chống Mỹ. - Bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá quan hệ với Mỹ, năm 1977, khi chính quyền Carter đã chủ động đề nghị hai bên bình thường hoá quan hệ không điều kiện. - Đánh giá sai và không gia nhập khối ASEAN ngay từ 1976 khi cả 6 nước này đều mong muốn ta tham gia vì lợi ích của mỗi một quốc gia và của chung khu vực. - Dính líu sâu và lâu vào vấn đề Campuchia. Những sai lầm này có hệ quả liên quan chặt chẽ với nhau, gây thiệt hại lớn cho ta về đối ngoại, về an ninh quốc phòng, về phát triển kinh tế trong một thời gian dài. Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạt. Tháng 10.1982, tôi được bổ nhiệm đi làm đại sứ tại Vương quốc Thái Lan31–một điểm tiên tiến của mặt trận đối ngoại thời 31 Thailand Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 20/194 kỳ ấy vì chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng Polpot chống Việt Nam. Không thể nói nhiệm kỳ đại sứ của tôi ở Thái Lan khi đó là bình lặng hay tẻ nhạt. Hầu như không có tháng nào là không có những đám đông biểu tình trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược” Campuchia, xâm phạm lãnh thổ Thái. Thông thường những hoạt động này trở nên náo nhiệt vào đầu mùa khô hàng năm, cùng lúc với các hoạt động quân sự bắt đầu trên biên giới CPC–Thái. Đám “biểu tình” – có khi là dân “xám–ló” (loại xe xích–lô máy của Thái), có khi là tổ chức dân vệ Thái, có khi là đám người Việt phản động ở mấy tỉnh Đông Bắc–thường tụ tập trong công viên Lum–pi–ni32 ở gần đại sứ quán ta trên đường Oai–rơ–lét (Wireless Road33), để nhận tiền “biểu tình phí”. Báo chí Thái Lan hồi đó hình như rất khoái theo dõi phản ánh các hoạt động của đại sứ Việt Nam, đặc biệt là những khi có cuộc gặp gỡ không lấy gì làm vui vẻ giữa Bộ Ngoại giao Thái Lan và đại sứ Việt Nam. Phải nói rằng nhiệt độ không khí “chuyện trò” giữa tôi với các vị quan chức, ngoại giao Thái phản ánh khá trung thành cường độ chiến sự ở vùng biên giới Campuchia–Thái Lan. Tôi không thể nào quên lời phát biểu đầy phẫn nộ của ngài Tư lệnh lục quân đầy quyền uy Ac–thit Khăm–lang–ẹc34 với báo chí: “Chẳng cần có đại sứ Việt Nam ở Thái Lan nữa”, sau khi tôi đã lịch sự nhưng kiên quyết từ chối nhận hai bức công hàm phản đối của ngoại trưởng Thái. Bức công hàm ngày 17.4.1983 của Thái phản đối quân đội Việt Nam bắn rơi chiếc máy bay trinh sát L19 làm chết viên phi công lái máy bay đó, và sau đó lại bắn hỏng một chiếc trực thăng của quân đội Thái. Còn công hàm ngày 1.5.1984 phản đối quân đội Việt Nam “pháo kích vào lãnh thổ Thái” thuộc 32 Lumpini Park: công viên ngay trung tâm thủ đô Bangkok 33 Phía tây của công viên Lumpini 34 Arthit Kamlangek, Tướng Tổng tư lệnh quân đội và Tư lệnh tối cao Lục Quân hoàng gia Thailand đến 1986 Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 21/194 tỉnh Surin làm chết và bị thương một số dân làng. Tuyên bố giận dữ của tướng Ac–thit đã được phụ hoạ bởi một số báo Thái, trong đó tờ nhật báo tiếng Anh “Daily News” (Tin tức hàng ngày) có xã luận viết: “Chính phủ (Thái Lan) cần yêu cầu Việt Nam thay ngay đại sứ của họ ở Băng–cốc để phản đối việc ông này đã từ chối nhận công hàm phản kháng của Thái”. Sự việc đó xảy ra vào thời gian đầu mùa khô 1984–1985, lúc quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch đánh thẳng vào vùng “đất thành” và xoá sạch các căn cứ của 3 phái Khơ–me phản động nằm trên đường biên giới Campuchia–Thái Lan và cắm sâu vào đất Thái Lan. Cũng thời gian đó đã xảy ra những vụ tập kích và pháo kích của quân Trung Quốc vào mấy tỉnh biên giới phía Bắc nước ta để phối hợp cứu nguy cho bọn diệt chủng Polpot ở mặt trận phía Tây nước ta. Thông qua báo chí Thái, tôi cũng đã có dịp làm cho nhân dân Thái Lan rõ sự thật về vấn đề Campuchia trong khi trả lời phỏng vấn của tờ Kledlap (Bí Quyết) ngày 15.4.1984: Hỏi: Ngài có tán thành ý kiến cho rằng chiến tranh CPC là cuộc xung đột giữa Liên Xô–VN một bên với Trung Quốc– Khơ–me đỏ một bên, còn ASEAN và các bên khác chỉ đóng vai trò phụ? Nếu đúng như vậy, Ngài có ý kiến thế nào về sáng kiến của ông Adam Malik35 về đàm phán Liên Xô–Việt Nam– Trung Quốc để giải quyết vấn đề CPC? T.L: Thực chất của cái gọi là vấn đề CPC hiện nay là việc Trung Quốc sử dụng một trong những công cụ đắc lực nhất và cũng là thô bạo nhất của họ để can thiệp và đe dọa an ninh của các nước Đông Dương, trước hết là Campuchia. Nếu cho rằng đây là xung đột giữa Liên Xô–Việt Nam với Trung Quốc–Khơ– me đỏ thì là mắc bẫy Trung Quốc cả, đều là sai lầm nguy hiểm. Vì như thế sẽ không thấy được mối đe dọa lớn đối với an ninh của tất cả các khu vực này là chủ nghĩa bành trướng và bá 35 Phó Tổng Thống Indonesia từ 1978–1983 (1917–1984) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 22/194 quyền Trung Quốc. Liên Xô trước đến nay chỉ giúp nhân dân 3 nước Đông Dương bảo vệ độc lập và xây dựng hoà bình đất nước mình, không đe dọa ai cả. Vì vậy, xin miễn phát biểu về ý kiến của ông Adam Malik ở đây. Hỏi: Chiến tranh (ở CPC) kéo dài sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và ASEAN, không rõ ai sẽ chịu đựng được lâu hơn ai? T.L: Tôi nghĩ rằng không nên đặt vấn đề như vậy, vì sẽ trúng hiểm kế của Bắc Kinh. Thủ đoạn lớn của họ trong chính trị quốc tế xưa nay vẫn là “ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Nước chúng ta không lớn như họ, vì vậy ta cần phải thông minh hơn họ, ít nhất cũng không mắc mưu họ. Lợi ích của nhân dân các nước Đông Nam Á không cho phép chúng ta kéo dài tình hình đối đầu hiện nay để cho các nước khác đứng ngoài hưởng lợi. Trong chuyến đi Inđônêxia36 tháng 3 vừa qua của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Việt Nam và Inđônêxia đã nhất trí nhận định là để tình hình tiếp tục như hiện nay là có hại cho các nước trong khu vực trong cố gắng xây dựng nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân mình. Hai bên đã thừa nhận là giải quyết được tình hình này sẽ có lợi cho tất cả các nước Đông Nam Á. Nếu không sẽ chỉ có lợi cho các bên thứ ba. Hỏi: Không rõ Ngài có thể khẳng định được hay không rằng trong tình hình hiện nay quân VN sẽ không tràn qua biên giới Thái Lan. T.L: Về điều này chúng tôi có thể đảm bảo chắc chắn rằng chúng tôi không xâm phạm lãnh thổ của Thái Lan. Hỏi: Nhưng chính quyền và quân đội Thái Lan đã vạch rõ điều 36 Indonesia Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 23/194 đã xảy ra. Một số phóng viên nước ngoài cũng đưa tin này. T.L: Xin khẳng định lại rằng trong đợt tấn công bọn Khơ–me đỏ vừa qua, bọn này đã chạy vào lãnh thổ Thái Lan. Lực lượng của chúng tôi đã dừng lại ở biên giới chứ không xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, mặc dù phía Thái Lan đã tạo điều kiện cho bọn này chạy sang. Về tin nói rằng bắt được tù binh Việt Nam, có xác binh sĩ và xe tăng Việt Nam trong đất Thái Lan là hoàn toàn bịa đặt. Hỏi: Ngài Tư Lệnh tối cao kiêm Tư Lệnh Lục quân (Ac–thit Khăm–lăng–ẹc) đã đưa ra tin này T.L: Chính Ngài Tư Lệnh tối cao quân đội khẳng định tin nói rằng quân đội Thái Lan đã sử dụng máy bay A.37 ném bom phá hủy kho vũ khí của Khơ–me đỏ, cũng chưa rõ kho này nằm trên đất Thái hay trên đất CPC. Trong khi chiến sự đang xảy ra ở biên giới, quân đội Thái Lan đã không tạo điều kiện cho phóng viên nước ngoài vào làm tin ở khu vực đó. Nhiều phóng viên nước ngoài rất bất bình về việc này và nói rằng quân đội Thái Lan đưa tin rất lộn xộn, hôm nay nói thế này, ngày mai lại nói thế kia, không thống nhất. Ví dụ như lúc đầu nói bắt được 40 tù binh VN, sau đó nói là bắt được 41 người, tiếp đó nói chỉ bắt được 6 người, còn là người Khơ–me. Hỏi: Không rõ Việt Nam sẽ có biện pháp sớm chấm dứt chiến sự như thế nào? T.L: Theo ý kiến riêng tôi, nếu chiến sự lần này chấm dứt càng sớm sẽ càng có lợi cho các bên. Trước hết chúng tôi muốn giữ gìn mối quan hệ, muốn làm cho biên giới Thái Lan–Campuchia có hoà bình ổn định và muốn cho Việt Nam và Thái Lan sớm có quan hệ hữu nghị. Chúng tôi không muốn chiến tranh kéo dài, nhưng cũng không sợ chiến tranh kéo dài. Hỏi: Vấn đề không an toàn hiện nay là quân đội VN đã áp sát Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 24/194 biên giới Thái Lan. Nếu ở vào cương vị Thái Lan thì VN cũng sẽ cảm thấy mình không an toàn nếu như có lực lượng nước ngoài xâm phạm như vậy. Đây là điều suy nghĩ hiện nay của Thái Lan. T.L: Nếu như các ông theo dõi kỹ vấn đề thì các ông sẽ thấy không phải là gì mới mẻ cả. Chúng tôi đã nhiều lần đưa ra nhiều sáng kiến: từ năm 1980 chúng tôi đã đề nghị xây dựng khu an toàn dọc biên giới Thái Lan–CPC nhằm đảm bảo an ninh ở khu vực này, để làm cho phía Thái Lan khỏi lo ngại việc quân đội VN có mặt ở CPC. Nhiệm vụ của quân đội VN ở CPC chỉ nhằm tiêu diệt lực lượng Polpot. Chúng tôi đã nhiều lần tuyên bố quân đội VN sẽ rút ngay khi nguy cơ đe dọa từ Trung Quốc đã chấm dứt. Khi cho in bài phỏng vấn này, Ban biên tập đã tự ý cắt bỏ không dùng trả lời của tôi nói về bằng chứng quân đội Thái đã giúp quân Polpot và đã xâm phạm lãnh thổ CPC. Trong khi Việt Nam tiếp tục sa lầy vào Campuchia thì ba nước lớn trong tam giác chiến lược Mỹ–Xô–Trung lại có sự điều chỉnh chiến lược để tập trung vào phát triển kinh tế, đi vào xu thế hoà hoãn nhằm vừa tranh thủ vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau. Vấn đề Campuchia bắt đầu được đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán từng cặp một giữa ba nước lớn. Ngay từ khi Trung–Xô khởi đầu quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ giữa hai bên, tháng 10.1982 ở Bắc Kinh, Trung Quốc đã nêu “3 trở ngại” cho việc bình thường hoá quan hệ Trung–Xô là xung đột biên giới Trung–Xô, vấn đề Campuchia, vấn đề Afghanistan, và trao bản yêu sách 5 điểm về vấn đề Campuchia cho Liên Xô: a) Liên Xô chấm dứt ủng hộ Việt Nam xâm lược Campuchia. b) Việt Nam tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia. Đàm phán bình thường hoá quan hệ Trung–Việt sẽ bắt đầu Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 25/194 sau khi những đơn vị quân VN đầu tiên rút. c) Trung Quốc có những biện pháp cải thiện quan hệ với Liên Xô. d) Lập chính phủ liên hiệp CPC đại diện cho tất cả các phe phái ở Campuchia (điều này có nghĩa là hợp thức hóa phái Polpot diệt chủng). e) Bảo đảm quốc tế cho một nước CPC độc lập và không liên kết. Đến ngày 1.3.1983, Trung Quốc đưa ra công khai 5 điểm trên. Thực ra lúc đó Trung Quốc đưa ra lập trường 5 điểm giải quyết vấn đề Campuchia chủ yếu để làm con bài mặc cả với Liên Xô, và gây sức ép với Mỹ và ASEAN chứ chưa định giải quyết vì Trung Quốc cho rằng ghìm chân Việt Nam ở Campuchia càng lâu càng có lợi cho họ. Thời gian tôi làm đại sứ Việt Nam ở Thái Lan thì đại sứ Trung Quốc ở Thái Lan là Trương Đức Duy, với Trương Thanh là tham tán. Những nhân vật này tôi lại gặp lại sau này khi đàm phán với Trung Quốc về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Thời gian làm đại sứ ở Bangkok cũng đã giúp tôi tìm hiểu được thêm về ý đồ lâu dài của Trung Quốc ở Đông Nam Á và trong vấn đề Campuchia. Vấn đề Hoa kiều cũng là một đặc điểm mà Trung Quốc muốn khai thác để hòng giành thêm lợi thế chính trị và kinh tế ở Đông Nam Á. Số lượng người Hoa ở Thái Lan cũng như các nước ĐNÁ khác đều khá lớn và nắm vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Nhưng ở các nơi khác cộng đồng người Hoa thường tách biệt riêng ra còn ở Thái họ hầu như đã đồng hóa với dân địa phương. Rất khó phân biệt người Thái gốc Hoa với người bản địa, nhất là trong tầng lớp trung lưu trở lên, kể cả trong hoàng tộc. Trong khi đó, người Việt ở Thái Lan lại chịu một số phận hẩm hiu hơn nhiều. Ta quen gọi là Việt kiều Thái Lan, nhưng chính quyền Thái Lan chỉ coi họ là những người “tị nạn bất hợp pháp” của nước Việt Nam cộng sản, không coi là ngoại kiều Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 26/194 (không được cấp giấy “tàng–dạo” – giấy chứng nhận là ngoại kiều) cũng không được nhập quốc tịch Thái. Vì vậy nên hàng chục vạn người Việt mặc dù đã làm ăn sinh sống trên đất Thái hàng chục năm vẫn bị “quản thúc” ở mấy tỉnh miền Đông Bắc Thái Lan. Phải xin giấy phép của chính quyền Thái nếu muốn ra khỏi nơi mình cư trú, cũng như nếu muốn đến sứ quán ở Băng–cốc những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc khánh. Ngược lại đại sứ ta cũng không thể tới những tỉnh có đông người Việt ở Đông Bắc để thăm hỏi bà con kiều bào mình. Người tiền nhiệm tôi, anh Hoàng Bảo Sơn, trước khi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ đã đặt vấn đề với Bộ Ngoại giao Thái Lan xin được đi Đông Bắc thăm và chào từ biệt kiều bào và đã nhận được câu trả lời rất chi là “ngoại giao”: không đảm bảo an toàn trên đường đi. Để vượt qua sự ngăn cản đó đến với kiều bào, ngày tháng 6 năm 1985, không báo trước cho Bộ Ngoại giao Thái nhưng có thông báo với ban đại diện Việt kiều tỉnh, tôi cùng mấy anh em trong bộ phận lãnh sự đáp máy bay nội địa đi thẳng đến Ubon Thani, tỉnh có đông Việt kiều nhất vùng Đông Bắc. Đến nơi bà con Việt kiều ở Ubon và các tỉnh lân cận tổ chức đón tiếp cực kỳ nhiệt tình, bộc lộ tình cảm khát khao với quê hương đất nước. Nhưng đồng thời, chính quyền và công an tỉnh cũng không kém phần quan tâm đến chúng tôi. Họ chất vấn tôi ngay khi vào phòng khách sạn: vì sao ngài đại sứ đi không báo cho Bộ Ngoại Giao? Ngài đến Ubon có việc gì? Đã dự kiến trước tình huống này, tôi thản nhiên đáp: Tôi nhận được thiếp báo cưới con cháu gái hơi chậm nên vội đi. Hơn nữa đây là chuyện riêng tư gia đình nên không muốn các ngài bận tâm đến. Đại khái câu chuyện trao đi đổi lại lúc đầu có vẻ căng thẳng nhưng đã kết thúc khá êm thấm. Cuối cùng họ chỉ yêu cầu mỗi khi đại sứ đi đâu xin cho hai xe mô tô đi trước và một xe ô tô công an đi sau hộ tống. Và buổi lễ cưới hôm sau được biến thành một cuộc mít–tinh lớn tổ chức ở ngoài trời chiếm cả một đường phố lớn để đông đảo Việt kiều được tham dự. Sự kiện này là một kỷ niệm khó quên của tôi ở Thái Lan. Tháng 10 năm 1986, vừa tròn 4 năm ở Thái, tôi kết thúc nhiệm Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 27/194 kỳ đại sứ, rời Bangkok về Hà Nội. Ngay sau khi về nước, tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu giúp bạn Lào trong cuộc đàm phán với Trung Quốc vào cuối năm 1986 theo yêu cầu của Bộ Ngoại Giao Lào. Tôi đã sang Vientiane37 3 lần trong mấy tháng 10, 11 và 12.1986 để trao đổi ý kiến với bạn trong việc chuẩn bị nội dung chính trị và kế hoạch tiến hành cuộc đàm phán. Việc Trung Quốc đáp ứng khá nhanh lời tuyên bố của ngoại trưởng Lào–trong bản tuyên bố của Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 3 nước Đông Dương lần thứ 13 (tháng 8/1986)–trong khi họ vẫn từ chối đàm phán bình thường hoá quan hệ với VN, nhằm chia rẽ ba nước Đông Dương; âm mưu bình thường hoá quan hệ riêng rẽ với Lào, cải thiện quan hệ với Liên Xô và Đông Âu để gây sức ép với ta trong vấn đề Campuchia. Vì vậy, trong đàm phán, Trung Quốc muốn kéo Lào đi vào bàn các vấn đề cụ thể thuộc quan hệ song phương hai nước. Cụ thể TQ nêu 4 vấn đề: lập lại quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, quan hệ mậu dịch, thỏa thuận những điểm tồn tại về biên giới, nhân dân vùng biên hai bên qua lại tự do. Còn phía Lào nêu lại 3 vấn đề: tình hình căng thẳng ở biên giới Lào–TQ, TQ nuôi dưỡng bọn Lào lưu vong, giải quyết với cả 3 nước Đông Dương. Theo chủ trương đã nhất trí với ta là “không giải quyết gì, chủ yếu để thăm dò đối phương và giữ cầu để tiếp tục đàm phán”. Lào kéo Trung Quốc phải đi vào bàn những vấn đề có tính chất nguyên tắc và phải đề cập đến những vấn đề mà Bắc Kinh muốn lẩn tránh như vấn đề Campuchia, vấn đề quan hệ Trung Quốc–Việt Nam. Qua đàm phán chính thức cũng như qua những cuộc trao đổi riêng, ta đã hiểu rõ thêm được về ý đồ của Trung Quốc đối với khu vực này. Lúc này Trung Quốc tuy chưa thay đổi chính sách đối với Đông Dương–Đông Nam Á, song có khó khăn thúc bách về thời gian. Trước mắt họ muốn nắn gân cốt ta, muốn thăm dò mức độ đoàn kết nhất trí giữa Việt Nam–Lào– Campuchia, nhất là về vấn đề Campuchia. Thứ trưởng ngoại giao Lưu Thuật Khanh38, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc, coi vấn đề Campuchia không liên quan gì tới Lào cũng như tới 37 Vientiane, thủ đô Laos 38 Liu Huaqiu (1939–) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 28/194 quan hệ Trung Quốc–Lào, nhưng đồng thời lại có ý qua Lào thăm dò ý đồ của ta trong vấn đề Campuchia. Cuộc đàm phán không đem lại kết quả. Lưu mời Lào sang Bắc Kinh bàn tiếp. Đối với tôi đây cũng là một dịp bản thân tôi được bổ sung thêm hiểu biết về chính sách của TQ đối với Đông Dương và dụng ý xấu xa của họ khi tiếp tục tung ra luận điệu “Việt Nam mưu đồ thiết lập Liên bang Đông Dương”. Đại hội “đổi mới”. Đại hội VI, mệnh danh là Đại hội “đổi mới” của Việt Nam, thực chất bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế mà đi tới đổi mới tư duy đối ngoại. Đại hội diễn ra trong bối cảnh xu hướng hoà bình ổn định trên thế giới đang phát triển, các nước lớn đi sâu vào quan hệ hoà hoãn từng cặp Mỹ–Xô, Mỹ–Trung và Xô– Trung. Không phải ngẫu nhiên mà Nghị quyết 32 BCT ngày 9.7.1986 quy định cần đạt giải pháp chính trị vấn đề Campuchia và đi vào bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (“giải pháp vấn đề Campuchia phải giữ vững thành quả cách mạng Campuchia, giữ vững đoàn kết 3 nước Đông Dương”) lại ra đời ít ngày trước bài diễn văn của Gorbachov39 ở Vladivostok40 (28.7.1986) trong đó Gorbachov công bố những nét lớn trong chính sách đối ngoại mới của Liên Xô đối với Châu Á–Thái Bình Dương: xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết “3 trở ngại” mà Trung Quốc nêu ra (rút quân khỏi Afhganistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung–Xô, giải quyết vấn đề Campuchia). Gorbachov tuyên bố: Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các thủ đô xa xôi, kể cả ở Liên Hiệp Quốc, phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng. 39 Gorbachev, Mikhail Sergeevich (2.3.1981–), Chủ tịch Union of Soviet Socialist Republics (USSR) 40 Vladivostok, căn cứ hải quân Nga cách biên giới TQ 100km đối diện đảo Honshu bên kia biển Nhật Bản Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 29/194 Cũng trong những năm 1986–1988, cuộc khủng hoảng kinh tế– xã hội ở nước ta lên tới đỉnh cao. Trước thúc bách của hoàn cảnh thế giới và trong nước như vậy, về đối ngoại, Đảng đã quyết định chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới trong cùng tồn tại hoà bình với Trung Quốc, ASEAN, Mỹ để nhanh chóng phục hồi kinh tế, phát triển trong hoà bình. Giai đoạn đấu tranh nhằm giành thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng CPC với ảo tưởng “tình hình không thể đảo ngược” (irreversible) đã kết thúc và ta phải chấp nhận thực tế đấu tranh từng bước để đạt một giải pháp chính trị cho vấn đề CPC. Sau khi được đắc cử (không phải qua ứng cử ở một đảng bộ địa phương) đi dự Đại hội VI (tháng 12.1986), tôi được bầu vào Trung ương khóa 6. Rồi đến tháng 1.1987 nhận chức thứ trưởng Bộ Ngoại giao, chuyên trách vấn đề giải pháp Campuchia. Ngày 09.4.1987, để giúp Bộ Chính trị xúc tiến việc thực hiện Nghị quyết 32 BCT và Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI. Bộ Ngoại giao đã ra quyết định thành lập Tổ nghiên cứu nội bộ lấy ký hiệu là CP87 với nhiệm vụ: - Nghiên cứu chủ trương giải quyết các vấn đề bình thường hoá quan hệ với TQ, vấn đề Campuchia và hoà bình ở Đông Nam Á; chuẩn bị các phương án đấu tranh trước, trong và sau khi có giải pháp; - Nghiên cứu các diễn đàn có thể tác động tích cực tới phương hướng đó; - Nghiên cứu nội dung phối hợp hoạt động với Liên Xô, Lào, Campuchia theo phương hướng đó. Bộ phận thường trực CP87 gồm có: Trần Quang Cơ, phụ trách chung, Đặng Nghiêm Hoành (vụ trưởng Vụ Tổng hợp đối ngoại) tổ phó, Nguyễn Phượng Vũ (vụ trưởng Vụ Trung Quốc), Trần Xuân Mận (vụ trưởng Vụ Á châu II). Các thành viên Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 30/194 không thường trực của CP87 có: anh Đặng Nghiêm Bái (vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ), anh Tạ Hữu Canh (vụ trưởng Vụ Liên Xô), anh Nguyễn Can (vụ trưởng Vụ Á châu III), anh Trịnh Xuân Lãng (vụ trưởng Vụ Báo chí), … Là thứ trưởng chuyên trách vấn đề Campuchia, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo CP87. Bộ Ngoại giao CHND Campuchia cũng thành lập bộ phận B1 có thứ trưởng Ngoại giao Dith Munty, Sok An, Chom Prasit … làm đối tác của CP87. CP87 và 3 tầng quan hệ của vấn đề Campuchia. Trước tình hình quốc tế và khu vực ngày càng rối rắm phức tạp, vấn đề CPC đã được quốc tế hoá cao, chúng tôi không thể không cùng nhau rà lại những nhân tố cơ bản trước khi đưa ra những phương án giải quyết. Qua phân tích tình hình, chúng tôi thấy việc giải quyết vấn đề CPC nay đã quốc tế hoá cao nằm trong lợi ích không những phe phái CPC mà còn đụng đến lợi ích của các nước trong khu vực và chịu ảnh hưởng tính toán chiến lược của các nước lớn trên thế giới nữa. Cho nên những lực lượng trực tiếp can dự vào việc giải quyết vấn đề Campuchia có thể phân thành 3 tầng: Tầng 1 gồm 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An, chủ yếu là ba nước lớn: Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ. Tầng 2 gồm các nước Đông Nam Á, chủ yếu là Việt Nam và Thái Lan. Tầng 3 là các bên Campuchia gồm Nhà nước Campuchia (SOC41) và 3 phái trong cái gọi là “Campuchia Dân Chủ”. Thoạt nhìn tưởng chừng như các phe phái CPC và những nước kế cận phải giữ vai trò quyết định vấn đề CPC vì có lợi ích “sát sườn”42. Nhưng nếu suy xét thật thấu đáo thì mới thấy giữ vai trò quyết định lại là các nước lớn. Việc nghiên cứu giải pháp của chúng tôi tất nhiên phải tập trung vào theo dõi sát những nhân tố trực tiếp trong tầng thứ 41 State of Cambodia 42 “vested interest” Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 31/194 ba, nhưng không thể bỏ sót những động thái trong mối quan hệ giữa các nước thuộc tầng thứ nhất. Để có được phương hướng hành động giữa lúc nhiều nhận thức về đối ngoại của ta khi đó còn trong tình trạng tranh tối tranh sáng, chúng tôi đã tổ chức những buổi thảo luận trong nội bộ CP87 với tinh thần tự do tư tưởng để có thể nhìn thấy được thực chất của sự việc. Trong lúc nhận thức con người về thế giới bên ngoài còn bị chi phối bởi cảm tính mạnh hơn lý trí, người ta dễ xem nhẹ thực chất vấn đề mà hướng theo những hiện tượng nhất thời. Sau sự kiện Trường Sa 1988 mà hải quân Trung Quốc đã gây tổn thất khá nặng cho hải quân ta và việc Trung Quốc tiếp tục gây căng thẳng trong quan hệ với ta, bác bỏ các đề nghị của ta cải thiện quan hệ giữa hai nước, trong nội bộ ta đã xuất hiện những ý kiến khác nhau. Không khí chung lúc đầu là không thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc theo tinh thần Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị. Ta nhìn mặt bành trướng bá quyền của Trung Quốc đậm nét hơn mặt xã hội chủ nghĩa. Nhiều ý kiến cho rằng trong khi Trung Quốc đang chống ta trong vấn đề Campuchia và tìm cách lấn chiếm biên giới hải đảo của ta, việc ta quyết định rút quân khỏi Campuchia, sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng là hữu khuynh trong quan hệ với Trung Quốc. Chủ trương của Bộ Chính trị về giảm tuyên truyền chống Trung Quốc cũng không được thực hiện đầy đủ. Ngày 20.5.1987, với tinh thần thực sự cầu thị, Bộ Ngoại Giao làm tờ trình lên Bộ Chính trị kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất như đã sửa Điều lệ Đảng, mãi tới 26.8.1988 Quốc Hội mới có nghị quyết thông qua việc sửa này. Có người còn nói mỉa: có phải Ngoại giao định quỳ gối trước Trung Quốc không”. Nhưng rồi sang năm 1989, khi bắt đầu cuộc khủng hoảng trong phe xã hội chủ nghĩa, một số ngành trong Trung Ương ta và ngay trong Bộ Chính trị lại xuất hiện những ý kiến khác nhau về đánh giá sự kiện Thiên An Môn cũng như đánh giá tình hình Liên Xô–Đông Âu. Lúc này luận điểm được dùng lại là: “dù bành trướng thế nào Trung Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 32/194 Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”. Tôi và anh em trong bộ phận thường trực CP87 đã mất khá nhiều thời giờ tranh luận về thực chất Trung Quốc là xã hội chủ nghĩa hay bành trướng bá quyền? mặt nào là chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc? “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” cụ thể là gì? Trung Quốc muốn gì trong vấn đề Campuchia? muốn gì khi nuôi dưỡng bè lũ Khơ–me đỏ chống Việt Nam? ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam? Chúng tôi thấy rằng: Trung Quốc ngày nay có hai mặt, mặt xã hội chủ nghĩa và mặt bành trướng bá quyền. Tính chất xã hội chủ nghĩa thể hiện tương đối rõ nét hơn về chính sách đối nội, ở cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế của họ. Còn đường lối đối ngoại của Trung Quốc lại mang tính chất cổ truyền của họ là bành trướng bá quyền. Cái bất biến của Trung Quốc là tham vọng bá quyền. Nhưng những cái mà Trung Quốc sử dụng làm công cụ để thực hiện chính sách đó lại là “vạn biến”. Tùy theo lợi ích của họ trong từng lúc mà một nước nào đó có thể được Trung Quốc coi là bạn hay là thù. Tại Đông Nam Á, khi Trung Quốc muốn chống hay gây sức ép với chính quyền tư sản các nước này thì họ lập ra, hoặc giúp đỡ lập ra các đảng cộng sản Mao– it43 ở Thái Lan, Miến Điện44, Mã–lai45, v.v…; khi Trung Quốc thấy cần tranh thủ các chính quyền tư sản khu vực này thì ta đã thấy các đảng cộng sản đó lần lượt tiêu tan để phục vụ cho mục đích của Trung Quốc. Rồi sau sự kiện Thiên An Môn46, để xoa dịu phản ứng của Mỹ và phương Tây, Trung Quốc hy sinh nốt Đảng Cộng sản Mã–lai theo lệnh của Bắc Kinh, tổng bí thư đảng này là Trần Bình gốc Trung Quốc, đã ra ký kết đầu hàng chính quyền Ma–lay–xia và giải tán đảng Cộng sản. 43 Maoist 44 Myanmar 45 Malaysia 46 Quảng trường Tiananmen nơi hang ngàn thanh niên thiếu nữ TQ bị quân đội nhân dân đàn áp trong cuộc vận động đòi tự do dân chủ từ tháng 4 đến tháng 6.1989 Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 33/194 Trường hợp Khơ–me đỏ sau này cũng vậy, theo tờ “Ý thức Khơ–me47“ ngày 17/10/2000 dưới đầu đề “Trung Quốc giết Pôn Pốt48 để đe dọa những chỉ huy Khơ–me đỏ còn lại buộc trở về với Hun–xen49 viết “Sau khi đi gặp Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok, Pôn Pốt chết không phải do bệnh tật cũng không phải do Hun–xen mà chết do thuốc độc của Trung Quốc (?). Bởi vì Trung Quốc vận động các chỉ huy Khơ–me đỏ trở về với chế độ của Thủ tướng Hun–xen không được nên đã giết Pôn Pốt để đe dọa những chỉ huy Khơ–me đỏ khác… Sở dĩ Trung Quốc muốn các chỉ huy Khơ–me đỏ trở về với Hun–xen vì TQ đã chọn Hun–xen làm con bài có lợi về chính trị cho họ sau khi Pôn Pốt không còn ý nghĩa đối với họ nữa”. Trong lịch sử 50 năm của nước C.H.N.D. Trung Hoa thì có hơn 30 năm Trung Quốc hết chống Liên Xô lại chống Việt Nam. Trên cơ sở đó, tôi hoài nghi là liệu có thể đứng trên lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa để tranh thủ Trung Quốc được chăng? Trong khi nghiên cứu ý đồ Trung Quốc đối với Việt Nam và trong vấn đề Campuchia, chúng tôi đã thử liệt kê những thay đổi trong lập trường của Trung Quốc về việc nối lại đàm phán bình thường hoá quan hệ với ta trong thời gian 1980–1988. Kết quả cho thấy là từ khi Trung Quốc đơn phương chấm dứt vòng 2 đàm phán Việt –Trung về bình thường hoá quan hệ hai nước vào ngày 8.3.1980, Trung Quốc đã luôn luôn nâng cao điều kiện nối lại đàm phán với Việt Nam: A. (1980–9/1985) Trung Quốc đòi ta rút hết quân khỏi CPC thì sẵn sàng nối lại đàm phán - Tháng 10.1982, tại vòng 1 đàm phán Xô–Trung, Trung Quốc trao cho Liên Xô bản đề nghị 5 điểm về vấn đề Campuchia trong đó điểm 2 nói: Việt Nam 47 Moneakseka Khmer (Khmer Conscience) 48 Pol Pot, lãnh tụ Khmers Đỏ 49 Samdech Hun Sen Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 34/194 tuyên bố rút hoàn toàn. Trung Quốc sẽ tiến hành tham khảo với Việt Nam về bình thường hoá quan hệ hai nước ngay sau khi Việt Nam rút những đơn vị đầu tiên. Tháng 3.1983, Trung Quốc đưa ra công khai đề nghị này. - Sau chiến dịch pháo kích và tập kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc nước ta kéo dài 3 tháng (tháng 4–6.1984), Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia thì hai bên sẽ mở đàm phán. B. Từ tháng 9/1985 đến cuối năm 1985 khi ta tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia trong năm 1990, Trung Quốc lại không nói “sẵn sàng đàm phán” với ta nữa, mà chỉ nói sẽ nói chuyện qua đại sứ hai bên. - Ngày 6.9.1985, đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội gửi công hàm trả lời công hàm ngày 21.8.85 của Bộ Ngoại Giao trong đó nói: “Việt Nam tuyên bố thời gian rút quân kéo dài đến 1990 và đặt điều kiện vô lý cho việc rút quân, như vậy là chưa có thiện chí. Đàm phán giữa hai nước với bất cứ hình thức nào cũng khó đạt kết quả. Nếu Việt Nam có vấn đề gì cần nói thì cứ chuyển qua đại sứ hai bên”. C. Từ cuối 1985 đến tháng 3.1986, Trung Quốc một mặt vẫn đòi ta cam kết rút quân nhưng đưa thêm điều kiện là nếu Việt Nam không loại trừ lực lượng Polpot thì Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam. - Ngày 18.12.1985, lãnh tụ Rumani Ceausescu50 sau khi thăm Trung Quốc thông báo với anh Hoàng Tùng để chuyển Tổng Bí Thư Lê Duẩn: “Trung Quốc sẽ đàm phán ngay với Việt Nam, nếu Việt Nam đồng ý không loại trừ lực lượng Polpot. Đàm phán sẽ bắt đầu trong khi Việt Nam chưa rút hết quân khỏi Campuchia, song cần cam kết rút hết”. 50 Nicolae Andruta Ceausescu (26.1.1918–25.12.1989). Nicolae cùng vợ là Elena (thành viên BCT đảng CS Romania) bị bắt và xử bắn sau cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài và đảng CS Romania. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 35/194 D. Từ tháng 3.1986 (khi 3 phái Khơ–me phản động đưa đề nghị 8 điểm) đến nay (6.1987) Trung Quốc đòi Việt Nam rút hết quân nhưng đòi Việt Nam nói chuyện với “Chính phủ liên hiệp CPC dân chủ” và với Sihanouk, còn Trung Quốc chỉ đàm phán trực tiếp với Việt Nam sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách của Trung Quốc. - Ngày 25.8.1986, thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói với vụ phó Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại Giao ta Vũ Thuần: Trung Quốc không thể thay mặt Campuchia để bàn với Việt Nam vấn đề Campuchia được, Việt Nam phải bàn với Campuchia Dân chủ. - Tháng 10.1986, TBT Hồ Diệu Bang51 nói với Honecker52 đang thăm Trung Quốc “Lúc đầu Trung Quốc nghĩ có thể đàm phán (với Việt Nam) trước, rút quân sau. Nhưng sau tính lại nhiều lần, Trung Quốc quyết định Việt Nam phải rút quân trước, sau đó mới đàm phán. Đây là phương án tốt nhất, nếu không sẽ tác động không tốt tới ASEAN và 3 phái (Sihanouk, Son San53 và Khơ–me đỏ)”. - Ngày 14.5.1987, Đặng Tiểu Bình tiếp Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc De Cuellar và nhờ ông ta chuyển cho ta một “thông điệp miệng” (message oral): chỉ khi nào vấn đề Campuchia được giải quyết theo cách này (Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, lập chính phủ liên hiệp 4 bên gồm Sihanouk, Son San Khieu Samphon54, Heng Xamrin55; do Sihanouk đứng đầu) thì Trung Quốc mới đàm phán trực tiếp 51 Tổng Bí Thư (1980–1987) Hu Yaobang (1915–15.4.1989) 52 Erich Honecker (August 25, 1912 – May 29, 1994), 53 Son Sann (5.10.1911, Phnom Penh, Cambodia—19.12. 2000, Paris, France) – Lãnh tụ MTGPQGND Khmer (KPNLF) 54 Khieu Samphan (27.7.1931–) Tổng Tư Lệnh QĐ Khmer Đỏ, Quốc Trưởng Cambodia (14.4.1976–7.1.1979) 55 Heng Samrin – Quốc Trưởng Cambodia (1979–1991) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 36/194 với Việt Nam. Đàm phán như vậy sẽ bao gồm cả vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Còn trước đó thì mọi cuộc đàm phán trực tiếp đều không thể có được. Như vậy là từ sau khi đơn phương cắt đứt cuộc đàm phán (sau khi Trung Quốc gây chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1979, ta đã có 2 vòng đàm phán với Trung Quốc: vòng 1 từ 18/4 đến 18/5/1979 tại Hà Nội; vòng 2 từ 28/6/79 đến 6/3/80 tại Bắc Kinh) từ năm 1980 đến cuối năm 1988, đã ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác với lý do này hoặc lý do khác. Và Trung Quốc nâng cao dần điều kiện lên (tựu chung là về quân sự đòi Việt Nam rút quân, về chính trị đòi Việt Nam chấp nhận việc lập chính phủ liên hiệp ở Campuchia, bao gồm cả Khơ–me đỏ). Trong khi thoái thác đàm phán với ta, Trung Quốc xúc tiến đàm phán bình thường hoá quan hệ với Liên Xô (từ tháng 10.1982) và với Lào (từ cuối 1986) để cô lập và ép Việt Nam. Đặc biệt là thông qua đàm phán với Liên Xô. Sau khi Gorbachov lên làm tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô (11/3/1985). Xô–Trung bắt đầu bàn đến vấn đề Campuchia trong vòng đàm phán thứ 7 ở Bắc Kinh (4–20/10/1985), Trung Quốc thể hiện ngay thái độ làm cao, không nói đến đàm phán với Việt Nam nữa để gia tăng sức ép đối với Việt Nam về vấn đề Campuchia. Trong vòng 10 đàm phán Xô–Trung ở Mạc–tư–khoa (7.2.1987), Trung Quốc nêu lại “3 trở ngại” trong việc bình thường quan hệ với Liên Xô mà trở ngại lớn nhất là việc Việt Nam xâm lược Campuchia. Và cũng từ đó, các lần gặp gỡ Xô–Trung đều tập trung bàn vấn đề Campuchia và công khai hoá điều đó. Từ chống diệt chủng đến “giải pháp đỏ”? Rõ ràng Trung Quốc mưu dùng vấn đề Campuchia để cải thiện thế đứng trong quan hệ với các nước lớn, trước hết là trong Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 37/194 quan hệ Trung–Xô và quan hệ Trung–Mỹ. Còn Gorbachov cũng sẵn sàng dùng món quà Campuchia để sớm gặp được Đặng, cải thiện quan hệ với Trung Quốc nhằm tác động đến quan hệ Mỹ–Xô. Chính trong bối cảnh đó, đã ra đời cái gọi là “giải pháp đỏ”, xuất phát từ ý tưởng của Gorbachov muốn vấn đề Campuchia được giải quyết giữa hai nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Trung Quốc cho nên định gán ghép hai lực lượng cộng sản Khơ–me thù địch. Khơ–me đỏ của Polpot Ieng Sary56 thân Bắc Kinh và Nhà nước Campuchia thân Hà Nội, bắt tay nhau dưới cái mũ “hoà hợp dân tộc”. Đầu tháng 3.1987, ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadzé57 đến Nông Pênh trong chuyến đi thăm 3 nước Đông Dương. Sau cuộc gặp Shevardnadzé, Hun–xen nói với anh Đỗ Chính, trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia là: Liên Xô có vẻ muốn thúc giục giải quyết nhanh vấn đề Campuchia cũng như vấn đề Afghanistan. Liên Xô chắc đã chuẩn bị một công thức giải pháp chính trị ở Campuchia nhưng gặn hỏi không nói, chắc Liên Xô sẽ nêu trong cuộc gặp Gorbachov–Nguyễn Văn Linh ở Mạc–tư–khoa (tháng 5/1987). Shevardnadzé nói đến hoà hợp dân tộc Campuchia và hỏi ai trong Khơ–me đỏ còn có thể dùng được? Hun–xen liên hệ chuyện này với phát biểu của Gorbachov ở Vladivodstock (28/7/1986) và cho rằng có thể Liên Xô nghĩ đến chuyện khuyến khích hai phái cộng sản CPC dàn xếp với nhau. Khi thuật lại lời Shevardnadzé khuyên CPC thúc đẩy mạnh hoà hợp dân tộc, Hun–xen nói: Chúng nó mà về thì chúng sẽ làm thịt những người tích cực, trước hết là bọn chúng ta. Sau cuộc họp BCT 7/3/1987, Lê Đức Thọ sang trao đổi với BCT Lào, rồi đến cuối tháng 4/1987 Lê Đức Thọ lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với những người lãnh đạo Nông–pênh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia và 56 Ngoại Trưởng Khmer Đỏ (1976–1979) 57 Eduard Amvrosiyevich Shevardnadze, Ngoại trưởng Soviet Union dưới thời Mikhail Sergeyevich Gorbachev Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 38/194 quan hệ với Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP87. Anh Lê Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải pháp đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp đỏ”. Nói gọn lại, “giải pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc xung đột CPC bằng cách hoà giải Nông–Pênh với bọn diệt chủng Polpot và lập nên một nước CPC xã hội chủ nghĩa vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của lãnh đạo ta. Trong thâm tâm chúng tôi–những anh em CP87 đều thấy không thể chấp nhận được cái “sáng kiến” kỳ quái này. Phần vì quá ghê tởm với tội ác của bọn Khơ–me đối với nhân dân CPC cũng như đối với nhân dân ta để có thể nghĩ đến chuyện hợp tác với chúng phần vì nghĩ rằng khó có khả năng thực hiện được trò chơi nguy hiểm này. Quả nhiên lãnh đạo Nông–Pênh đã đón nhận những gợi ý này với một thái độ lạnh nhạt. Họ chủ trương “ăn cả” bằng một giải pháp quân sự coi Khơ–me đỏ lẫn Xi–ha–núc và Son San đều là đối thủ phải loại trừ. Nhưng với sức ép của hai đồng minh chính–Liên Xô và Việt Nam–trong cuộc họp giữa các bên Campuchia, Giacácta58, Hun–xen đã thử tiếp xúc với Khiêu Samphon song tên đầu sỏ Khơ–me đỏ này chỉ đáp bằng thái độ khinh miệt. Ngày 30.7.1988, trong buổi thông báo kết quả cuộc Họp không chính thức ở Jakarta lần 1 (JIM159) cho đại sứ, đại biểu các nước xã hội chủ nghĩa ở Phnôm Pênh, khi đại sứ CHDC Đức hỏi khả năng lôi kéo Khiêu Samphon và những nhân vật ôn hoà của Khơ–me đỏ, Hun–xen nói: bọn thú chứ không phải là người. Cứ để chúng trong rừng, không có chúng, ta cũng giải quyết được. Chúng không thay đổi. Nhân dân Campuchia không chấp nhận chúng. Chúng tôi rất hiểu Khơ–me đỏ. Mong các đồng chí hiểu cho bọn này không chơi được. Nếu chỉ riêng Campuchia thôi thì Campuchia không cần Khơ–me đỏ. Nhưng Campuchia liên quan đến các nước xung quanh mà Việt Nam lại cần bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nên chúng tôi 58 Jakarta 59 Jakarta Informal Meeting 1 Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 39/194 chấp nhận chúng về chính trị … Tôi cho rằng cứ để chúng (Khơ–me đỏ) ở ngoài rừng, không sao cả! Thái Lan đã trung lập thì CPC tranh thủ Sihanouk, Son San để đánh Khơ–me đỏ. Ngày 12/10/1989, tâm sự với đại sứ Ngô Điền, sau khi phê phán Liên Xô nhượng bộ Trung Quốc, ép Campuchia thỏa hiệp với Trung Quốc và Khơ–me đỏ, đánh đồng “tội phạm với phạm nhân” không tôn trọng các nước bạn, Hun–xen nói: “Việt Nam cũng có đồng chí nói phải nhượng bộ cái gì đó giữ thể diện cho Bắc Kinh. Năm 1987 tôi cũng đã tính đến giải pháp đó. Bọn Khơ–me đỏ, trừ số đầu sỏ, có thể tham gia, chúng phải xin lỗi nhân dân rồi hòa hợp dân tộc. Nay tôi đã suy nghĩ nhiều, tiếp xúc với dân ở nhiều nơi, trực tiếp gặp bọn Khiêu Samphon, tôi nhận thức rõ là dứt khoát không chơi với bọn này được, phải giải tán lực lượng của chúng”. Tháng giêng 1989, Hun–xen xuất bản cuốn sách “Campuchia– con đường 10 năm”, có dành một đoạn dài nói về giải pháp đỏ, phê phán những suy nghĩ về giải pháp đỏ, cho quan điểm đó là “sai lầm và nguy hiểm”, là “điều phi lý và trái đạo đức khi đánh đồng bọn tội phạm Polpot với nạn nhân của chúng”, rồi kết luận “giải pháp đỏ là con đường nguy hiểm rất lớn cho nhân dân Campuchia. Nó không thể nào hình thành được, bởi vì chúng tôi không “đỏ” như người ta hiểu là có thể hoà đồng vào cái “đỏ” của bọn Polpot được”. Những ai đã có sáng kiến nghĩ ra (cho đến nay tôi cũng chưa biết được chính xác ai là tác giả của cái quái thai này: Liên Xô? Việt Nam? hay Hun–xen? Có điều chắc là lãnh đạo VN trong suốt thời kỳ 1987 1991 vẫn coi đó là nước bài hay) hay tán thưởng “giải pháp đỏ” chắc cho rằng giải quyết vấn đề Campuchia theo cách đó sẽ làm hài lòng Trung Quốc. Nhưng thực ra cái sáng kiến này chẳng hợp với đường lối “tranh thủ phương Tây vì mục tiêu “4 hiện đại”60 của Đặng Tiểu Bình 60 “Four Modernisations” Bốn hiện đại hoá là chủ trương của Thủ Tướng Chu Ân Lai (Zhou Enlai) trước khi qua đời: Công nghệ, Nông nghiệp, Khoa Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 40/194 chút nào mà lại gây thêm sự nghi ngại của Nhà nước Campuchia đối với ta, mà chính Trung Quốc đã đem chuyện này nói với Mỹ và các nước phương Tây để chứng tỏ rằng Việt Nam luôn có thủ đoạn lắt léo, là một đối tượng đàm phán không đáng tin cậy, bên ngoài thì hô to “chống diệt chủng” bên trong thì ép Nông Pênh thỏa hiệp với bọn Polpot. Thật đáng tiếc, ảo tưởng về “giải pháp đỏ” này vẫn còn đeo đuổi khá lâu trong các tính toán của ta về vấn đề Campuchia, thậm chí cả sau khi Trung Quốc đã nói thẳng với ta trong cuộc gặp cấp cao ở Thành Đô61 là họ không thể nuốt nổi “món quà” đó! Một bước tự cởi trói: đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ . Trong khi họp CP87 sáng 14.5.1987, chúng tôi thảo luận sôi nổi làm sao giành lại thế chủ động trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Anh Thạch có ý kiến: “Không nhất thiết ta chỉ làm với Trung Quốc. Phải thấy là ba nước lớn Mỹ–Xô–Trung đang chụm lại với nhau trao đổi về cái khung giải pháp. Cần nhớ kinh nghiệm những năm 1954, 1973, TQ vẫn phải tiếp tục lợi dụng mâu thuẫn Mỹ–Xô, Trung–Xô không thể giải quyết với nhau qua đầu Mỹ, phải thỏa thuận cả với Mỹ. Cho nên ta chỉ húc đầu vào một con đường nói chuyện với Trung Quốc là không đúng”. Bản thân tôi rất tâm đắc suy nghĩ đó. Lâu nay tôi thường cảm thấy ta chịu lệ thuộc hơi nhiều vào anh cả Liên Xô, anh hai Trung Quốc trong tư duy và hành động nên đã tự hạn chế mình trong hoạt động đối ngoại trên thế giới và ở khu vực Đông Nam Á. Muốn Trung Quốc mềm đi, phải cho thấy ta ngày càng nhiều bạn. Ngược lại nếu ta chỉ thấy có Trung Quốc thôi và nếu Trung Quốc thấy ta yếu và đơn độc thì họ sẽ rất cứng rắn với ta. Chính vì vậy mà Trung Quốc đã buộc ta phải có hết nhượng bộ nọ đến nhượng bộ kia. Mặt khác, Gorbachov học, Quân sự. 61 Chengdu, thủ phủ của Sichuan (Tứ Xuyên) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 41/194 vì lợi ích nước lớn không rõ vô tình hay hữu ý đã giam Việt Nam vào cái khung “phải giải quyết vấn đề Campuchia với Trung Quốc”. Phải nói rằng với nếp suy nghĩ quá thiên lệch, quá cứng nhắc về “hai phe” lúc đó, chỉ riêng nghĩ đến chuyện quan hệ với các nước phương Tây đã gần như một điều húy kỵ, nên việc Ngoại giao đề cập đến mở rộng tiếp xúc hợp tác ra ngoài thế giới xã hội chủ nghĩa gần như là chuyện động trời. Người ta chấp nhận nó không phải dễ dàng. Tư tưởng đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ đối ngoại đã đến với ta hơi chậm nhưng chưa muộn. Theo hướng đó, ta đã nghiên cứu và mở đợt tấn công ngoại giao tháng 6–8/1987 với đặc điểm: - không tấn công về nội dung giải pháp như mọi khi, mà tấn công về cơ chế giải quyết vấn đề; - thăm dò tất cả các diễn đàn có thể đưa đến giải pháp, tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp tất cả các đối phương (Trung Quốc, ASEAN, Mỹ); - phối hợp tốt với việc Campuchia ra “Tuyên bố về chính sách hoà hợp dân tộc”. Đợt tấn công đã đem lại những kết quả mong muốn, làm bộc lộ hai xu hướng đi ngược chiều nhau trong hàng ngũ đối phương, những mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương đã nổ ra một cách công khai gay gắt (giữa Trung Quốc với ASEAN, Mỹ, Sihanouk; trong nội bộ ASEAN; trong nội bộ 3 phái “Campuchia Dân Chủ”). Trong xu thế đối thoại đang được đẩy mạnh giữa Xô–Mỹ, thông cáo 29/7/1987 của cuộc gặp giữa Việt Nam (Nguyễn Cơ Thạch) và Inđônêxia (Mochtar62), đại diện cho hai nhóm nước 62 Mochtar Kusumaatmadja, ngoại trưởng Indonesia, chủ tịch Ủy ban thường trực của ASEAN (12.1978) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 42/194 Đông Dương và ASEAN, thoả thuận dùng hình thức tổ chức “cocktail party” để họp với các bên Campuchia bàn vấn đề Campuchia gắn với vấn đề Đông Nam Á, việc Việt Nam công bố đợt rút quân 1987 có mời quan sát viên nước ngoài đã làm chuyển động tình hình. Mỹ cử đặc phái viên của tổng thống đến Việt Nam, Sihanouk tuyên bố tạm thôi chức chủ tịch Campuchia Dân chủ và sẵn sàng gặp Hun–xen. Tất cả những động thái đó đã tạo ra khả năng thực tế phá vỡ bế tắc vấn đề Campuchia đã kéo dài hơn 8 năm qua. Trung Quốc buộc phải tính toán lại, họ không còn khả năng khống chế ASEAN cũng như Sihanouk. Về phía các nước ASEAN, điều khiến họ lo ngại Việt Nam nhất trong vấn đề Campuchia là việc Việt Nam đưa quân sang CPC nay đang được gỡ bỏ. Các diễn đàn mới về vấn đề Campuchia được mở ra khiến cho sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam bị hạn chế lại. Trong hoà hoãn giữa ba nước lớn, vai trò Trung Quốc lúc này vẫn lép nhất, hoà hoãn Xô–Mỹ phát triển mạnh nhất. Xô–Mỹ đã thỏa thuận giải quyết vấn đề Afghanistan là một vấn đề châu Á mà không có vai trò của Trung Quốc. Trung Quốc lo ngại với cái đà đó Xô–Mỹ rồi sẽ giải quyết các vấn đề Châu Á khác như vấn đề Campuchia mà cũng không có vai trò Trung Quốc. Trung Quốc muốn giữ vai trò một trong ba nước lớn giải quyết vấn đề Campuchia. Như thế sẽ lợi cho Trung Quốc hơn là để vấn đề Campuchia được giải quyết giữa người CPC, giữa ASEAN–Đông Dương, hay giữa Trung Quốc–Việt Nam. Vì vậy Trung Quốc chống lại thỏa thuận Việt Nam–Inđônêxia 29.7.1987 ở thành phố HCM, ra sức phá diễn đàn Hun–xen– Sihanouk, đòi Việt Nam đàm phán với Sihanouk, hỗ trợ Thái Lan gây xung đột biên giới Thái–Lào, gây ra xung đột với hải quân ta ở Trường Sa (3–4.1988). Trong tình hình đó, Việt Nam và CHND Campuchia đã công bố đợt rút quân tình nguyện Việt Nam lần thứ 7 khỏi Campuchia trong năm 1988. Đây là đợt rút quân lớn nhất từ khi ta bắt đầu rút quân 1982. Việc này đã làm tăng thêm khó khăn lúng túng cho Trung Quốc vì dư luận quốc Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 43/194 tế lại bắt đầu tập trung hướng về vấn đề xử lý bọn diệt chủng Polpot, đồng thời làm tăng sự thúc bách sớm có một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia trước khi Việt Nam rút hết quân vào năm 1990 như đã tuyên bố. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 44/194 Trung Quốc uốn mình để thích nghi với thế cực . Ngày 6.12.1988, sau chuyến đi Liên Xô của ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham63, Liên Xô đã thông báo lại cho ta là “các phát biểu của Tiền về vấn đề Campuchia đã có thay đổi chừng nào, chứng tỏ Bắc Kinh đang dần dần nhận thức thấy việc đạt giải pháp cho vấn đề Campuchia kịch bản của Trung Quốc là không thực tế và Trung Quốc đang từ bỏ đường lối kéo dài cuộc xung đột. Về giải pháp, Trung Quốc đồng ý với Liên Xô là việc rút quân Việt Nam là một bộ phận trong giải pháp; về các vấn đề nội bộ của Campuchia, Trung Quốc cho rằng “phải được giải quyết bởi bản thân nhân dân Campuchia trên cơ sở hoà hợp dân tộc, không có sự can thiệp từ bên ngoài”. Song Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ về việc lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu, giảm dần đi đến giải tán quân đội của cả 4 bên Campuchia; thực chất là xoá nguyên trạng ở Campuchia. Ngày 24.12.1988, trả lời thư ngày 15/12 của Bộ trưởng ngoại giao ta, phía Trung Quốc mời một thứ trưởng ngoại giao Việt Nam tới Bắc Kinh để trao đổi ý kiến giữa thứ trưởng ngoại giao hai nước chuẩn bị cho cuộc gặp cấp ngoại trưởng Trung– Việt. Sau 10 năm đối đầu gay gắt và sau 8 năm một mực từ chối đàm phán với ta, đây là lần đầu Trung Quốc nhận đàm phán với Việt Nam về vấn đề Campuchia và về bình thường hoá quan hệ hai nước, thực hiện bước chuyển sách lược ở Đông Nam Á phục vụ cho việc chuyển chiến lược chung của Trung Quốc trên thế giới và trong quan hệ với Xô, Mỹ. Sự điều chỉnh chiến lược này đã được xác định tại Hội nghị Bộ Chính Trị ĐCS Trung Quốc ở Bắc Đới Hà tháng 9 năm 1988, và được công khai hoá tại Quốc hội Trung Quốc tháng 3/1989. Sự điều 63 Qian Qichen (1928–) Phó Thủ Tướng Quốc vụ viện từ 1993, ủy viên của Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng CS Trung Quốc khóa 14 (1992–97) và 15 (1997– 2002). Không còn là ủy viên trung ương đảng CSTQ khóa 16 (2002–) http://www.chinavitae.com/biography_display.php?id=414 Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 45/194 chỉnh chiến lược lần này diễn ra trong tình hình thế giới cũng như tình hình Đông Nam Á và Campuchia đã có những thay đổi to lớn, đặc biệt từ năm 1987. Quan hệ Xô–Mỹ từ năm 1987 đã được cải thiện nhiều, hình thành thế hai cực giải quyết công việc thế giới và cả châu Á. Trung Quốc không còn lợi dụng được mâu thuẫn Xô–Mỹ như trước; đồng thời quan hệ Trung– Xô cải thiện chậm so với quan hệ Mỹ–Xô, làm cho vị trí của Trung Quốc bị yếu trong quan hệ giữa ba nước lớn. Mặt khác việc Xô–Mỹ giảm cam kết quân sự ở bên ngoài đã thúc đẩy xu thế độc lập của các nước khác, làm tăng xu hướng hợp tác khu vực để giải quyết các vấn đề khu vực. Quan hệ giữa các nước Đông Nam Á từ năm 1987 đã từ tình trạng đối đầu chuyển từng bước sang vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Các cuộc họp JIM1 và JIM2 (Jakarta Informal Meeting) đã giải quyết được mặt quốc tế của vấn đề CPC và tạo khuôn khổ hợp tác giữa hai nhóm nước ở Đông Nam Á để giải quyết các vấn đề khu vực. Đặc biệt chính quyền Chaticha ở Thái Lan lúc này quyết tâm tách khỏi chính sách đối đầu của Trung Quốc ở Đông Nam Á, thực hiện chính sách “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”. Trong tình hình đó, việc Trung Quốc tiếp tục chính sách gây căng thẳng trên đất liền và trên biển ở khu vực này chỉ làm tăng mối lo ngại đối với nguy cơ bá quyền của Trung Quốc. Với việc quân Việt Nam đã rút 3 phần tư và sẽ rút hết vào tháng 9/1989, cốt lõi của vấn đề Campuchia không còn là vấn đề rút quân Việt Nam nữa mà trở thành vấn đề làm sao loại trừ chế độ diệt chủng Polpot. Những biến đổi to lớn này buộc Trung Quốc phải chuyển từ chỗ kéo dài đàm phán về bình thường hoá quan hệ với Liên Xô để lợi dụng mâu thuẫn Xô–Mỹ và tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ sang xúc tiến bình thường hoá toàn diện quan hệ với Liên Xô, giữ cân bằng giữa quan hệ của họ với Xô và với Mỹ, đồng thời từng bước cải thiện quan hệ với các nước láng giềng để tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc cải thiện thế của Trung Quốc trên thế giới và châu Á. Tháng 1/1989, ta nối lại đàm phán với Trung Quốc để cố gắng Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 46/194 bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc đồng thời khẳng định thái độ ủng hộ Nhà nước Campuchia giữ vững thành quả cách mạng. Ngày 5/1/1989, TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của Việt Nam sang Nông Pênh dự lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Cộng Hoà Nhân Dân Campuchia. Ngay chiều hôm đó (16 giờ) TBT Nguyễn Văn Linh đã có cuộc hội đàm với Heng Somrin tại Hoàng Cung. Heng Somrin thông báo: “Bộ Chính trị (CPC) đã nhất trí sẽ tiếp tục tấn công ngoại giao trên cơ sở rút quân Việt Nam đồng thời với việc ngăn chặn viện trợ quân sự nước ngoài giúp bọn Khơ–me đối địch, chấm dứt mọi sự can thiệp vào cách mạng CPC … tạo điều kiện thuận lợi cho hoà đàm Việt Nam–Trung Quốc, Liên Xô–Trung Quốc, đẩy mạnh thương thuyết CPC–Thái Lan. Chúng ta phải có một lịch rút quân mới, trong đó nếu có một giải pháp chính trị, ta sẽ tuyên bố rút hết (quân Việt Nam) không chậm quá tháng 9/1990. Nếu Việt Nam đồng ý, sẽ tuyên bố trong diễn văn của tôi và của đồng chí ngày mai”. Nguyễn Văn Linh tán thành và đề nghị thông báo lại cho Liên Xô và Lào biết. Ngay chiều tối hôm đó anh Linh đã bảo tôi sửa lại bài diễn văn của anh theo như hai bên đã thoả thuận. Sáng 6/1/1989, trong buổi mit–ting64 long trọng. Tổng bí thư Heng Somrin tuyên bố: CPC và VN đã thỏa thuận là nếu có giải pháp chính trị thì quân VN sẽ rút hết, chậm nhất là vào tháng 9/1990. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cũng tuyên bố: VN hoàn toàn nhất trí với CPC sẽ rút toàn bộ quân VN còn lại vào cuối tháng 9/1990. Việc rút hết quân phải song song với việc chấm dứt viện trợ của nước ngoài, chấm dứt việc sử dụng lãnh thổ nước ngoài chống CPC, tiến hành dưới sự kiểm soát quốc tế. Qua những cuộc trao đổi giữa ta với bạn, là một thành viên 64 Meeting Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 47/194 trong đoàn Việt Nam, tôi đã dự cảm chừng nào những khó khăn khi đi sâu vào giải pháp. Lãnh đạo CPC có phần quá tự tin, muốn ta hoàn toàn ủng hộ bạn ăn cả; còn ta lại thiên về giải quyết vấn đề CPC một cách thuận lợi cho cải thiện quan hệ Việt–Trung. Trong nửa đầu năm 1989, đã có hai vòng đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao giữa ta với Trung Quốc (Đinh Nho Liêm và Lưu Thuật Khanh) tại Bắc Kinh. Vòng đầu (16 19.1.1989). Trung Quốc chỉ trao đổi lướt qua về quan hệ hai nước rồi lại tập trung đàm phán vấn đề Campuchia. Hai bên thoả thuận tương đối nhanh mấy vấn đề về mặt quốc tế của giải pháp CPC (rút quân VN, giám sát quốc tế, chấm dứt viện trợ quân sự, tổng tuyển cử). Hai bên đồng ý thúc đẩy các bên CPC thương lượng để sớm đạt giải pháp CPC. TQ cho là mặt quốc tế cơ bản đã xong, muốn ta thỏa thuận hướng giải quyết mặt nội bộ của giải pháp CPC, chủ yếu là hai vấn đề chính quyền và vấn đề quân đội của các bên CPC trong thời kỳ qúa độ (thời gian ngừng bắn cho đến tổng tuyển cử); cho nên có thảo luận và đạt kết quả này thì mới có giải pháp, nếu không thì mặt quốc tế có thỏa thuận cũng không giải quyết được và khó bàn quan hệ hai nước. Lập trường của ta là của vấn đề nội bộ Campuchia phải do các bên Campuchia giải quyết. Đáng chú ý là Tiền Kỳ Tham khi tiếp Đinh Nho Liêm có nói: “4 nước Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam, Thái Lan là những nước có liên quan trực tiếp, có trách nhiệm về vấn đề CPC cần thỏa thuận với nhau về chính quyền lâm thời 4 bên Campuchia trong thời kỳ quá độ thì mới giải quyết được vấn đề Campuchia”. Họ nói đã bàn với Liên Xô và Liên Xô đã nhất trí nguyên tắc này. Ngày 11/2/1989, BCT họp bàn đề án đấu tranh về vấn đề CPC theo hướng: - tách và giải quyết từng bước mặt quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia; - gắn việc giải quyết vấn đề CPC với yêu cầu kiến lập Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 48/194 hoà bình ở Đông Nam Á; - triển khai các diễn đàn: Việt–Trung (vòng 2), JIM2, 4 bên CPC, Thái–SOC, Việt –Thái, Việt–Mỹ Trên tinh thần đó, ngày 15/2/1989, tôi cùng mấy cán bộ CP87 bay đi Gia–các–ta họp Nhóm Làm việc (Working Group) để chuẩn bị cho cuộc họp JIM 2 (19–21/2/1989) với các thành phần cũng như JIM1 các bên CPC, Việt Nam, Lào và 6 nước ASEAN. Hội nghị khẳng định lại kết quả đạt được năm trước JIM 1(25 28/7/1988) và nhất trí là vấn đề CPC phải được giải quyết bằng một giải pháp chính trị góp phần vào việc thiết lập có chủ quyền, hoà bình, trung lập và không liên kết trên cơ sở quyền tự quyết và hoà hợp dân tộc. Hội nghị nhất trí cần triệu tập Hội nghị quốc tế về CPC để bàn và đi đến một giải pháp chính trị toàn diện, công bằng và hợp lý cho vấn đề CPC. Ngày 14.3.1989 BCT họp quyết định rút hết quân khỏi CPC vào cuối tháng 9/1989 và thúc đẩy diễn đàn Hun–xen– Sihanouk. Sang vòng 2 (8–10.5.1989) vẫn tại Bắc Kinh, cuộc đàm phán vấp ngay vào hai tảng đá lớn vấn đề diệt chủng và việc xử lý các vấn đề nội bộ của CPC. Phía Trung Quốc đòi ta thỏa thuận về nguyên tắc hai vấn đề thuộc mặt nội bộ CPC: lập chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu, đóng kết và giảm quân đội của 4 bên CPC. Đàm phán kết thúc mà không đi đến kết quả gì. Phía TQ đề nghị tạm thời chưa tính đến đàm phán vòng 3. Tiền Kỳ Tham nói với Đinh Nho Liêm rồi sau đó công bố: bình thường hoá quan hệ hai nước chỉ có thể thực hiện sau khi vấn đề CPC đã được giải quyết, không phải là trước đó. Sau này Trung Quốc đã nói toạc ra rằng: Việt Nam không những phải rút hết quân khỏi Campuchia mà còn có trách nhiệm giải quyết những hậu quả của việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia, cụ thể là xoá chính quyền và quân đội CHND CPC đã được hình thành sau khi quân Việt Nam vào Nông Pênh đánh đuổi bọn Polpot. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 49/194 Việc Trung Quốc nối lại đàm phán với Việt Nam lúc này, mà phía Trung Quốc gọi là gặp gỡ nội bộ, theo tôi, mục đích chính là để biểu diễn cho thế giới thấy là TQ đã nắm con chủ bài giải quyết vấn đề CPC. Hiệp 1 của Hội nghị quốc tế Pa–ri về Campuchia . Hai tháng sau, Hội nghị quốc tế Pa –ri về Campuchia (30/7– 30/8/1989) tuy chưa kết thúc được nhưng có thể nói đã mở ra giai đoạn kết thúc vấn đề CPC. Sau JIM, đây là cuộc hội nghị quốc tế đầu tiên bàn về vấn đề CPC. Hội nghị tiến hành ngoài khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc tuy có mặt DeCuellar65, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, và bộ trưởng ngoại giao 5 nước thành viên Hội Đồng Bảo An. Tổng thư ký LHQ dự hội nghị chỉ với tư cách một thành viên của hội nghị. Trong hội nghị này, lần đầu các bên Campuchia đối địch ngồi sát cạnh nhau, dứơi một cái biển ghi tên chung là Campuchia. Ngoài đại diện của 4 phái CPC: Hun–xen (CHND CPC66), Khieu Samphon (Khơ–me đỏ), Ranarit67 (phái Sihanouk), Son Sonbert (con Son San), có các đoàn đại biểu của 17 nước do bộ trưởng ngoại giao dẫn đầu: Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nhật, Úc, Ấn Độ, Canada, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Inđônêxia, Singapore, Malaysia, Philipin68, Brunei, Phong trào Không Liên Kết do ngoại trưởng Zimbawe đại diện. Ngoại trưởng Pháp Roland Dumas và ngoại trưởng Inđônêxia Ali Alatas là đồng chủ tịch hội nghị. Sáng 28/7, tôi cùng đại bộ phận đoàn ta tới Pa–ri. Đoàn có các anh Lê Mai, Đặng Nghiêm Hoành, Ngô Điền, Hà Văn Lâu, Trần Huy Chương, Lê Công Phụng, Huỳnh Anh Dũng, chị Tôn 65 Javier Perez de Cuellar, Tổng thư ký thứ 5 của Liên Hiệp Quốc 66 People's Republic of Kampuchea 67 Samdech Krom Preah Norodom Ranaridth 68 The Philippines Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 50/194 Nữ Thị Ninh, Thiếu tướng Phi Long được Bộ Quốc Phòng cử đi tham gia đoàn. Ngày 29/7 anh Nguyễn Cơ Thạch đến nơi. Hội nghị khai mạc chiều 30/7/89. Thành phần hội nghị tuy đông nhưng không có lợi cho ta, song ta đến hội nghị với thế mạnh của Tuyên bố rút hết quân vào cuối tháng 9/89 mà CHND CPC vẫn tỏ ra vững vàng tự tin. Ngay từ đầu Hội nghị đã vạch ra chương trình phải họp cả tháng từ 30/7–30/8/90 vì vấn đề rất phức tạp mà lập trường giải pháp của các bên lại còn khá xa nhau. Suốt thời gian hội nghị nổi cộm lên hai vấn đề lớn: - loại trừ hay chấp nhận bọn diệt chủng Polpot. - duy trì hay xoá bỏ nguyên trạng chính trị và quân sự ở CPC. Cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trong suốt quá trình hội nghị. Đối phương dùng áp lực của 5 nước lớn và đa số trong hội nghị đòi áp đặt việc lập Chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu và đòi lập bộ máy kiểm soát quốc tế của LHQ. Còn phía ta đòi loại trừ bọn diệt chủng Polpot, đòi tôn trọng nguyên tắc nước ngoài không được can thiệp vào công việc nội bộ Campuchia, tôn trọng nguyên trạng ở Campuchia có 2 chính quyền, tôn trọng quyền của nhân dân Campuchia tự quyết định chế độ chính trị của mình và lập chính phủ của mình, thông qua tổng tuyển cử tự do. Phía ta chấp nhận sự đóng góp của LHQ nếu LHQ chấm dứt những nghị quyết thiên vị, ủng hộ 1 bên chống 1 bên . Phát biểu của ta tại phiên họp toàn thể tập trung lên án diệt chủng Polpot, khẳng định kết luận của JIM về 2 vấn đề then chốt (rút quân VN và lên án diệt chủng) và nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ CPC, đề cao vị trí của Nhà nước CPC. Các ngoại trưởng chỉ dự các phiên họp toàn thể hội nghị trong 3 ngày đầu và 2 ngày cuối của hội nghị, còn phần lớn thời gian dành cho các buổi họp các ủy ban 1 (về kiểm soát Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 51/194 quốc tế), ủy ban 2 (về bảo đảm quy chế), uỷ ban 3 (về người tị nạn và vấn đề tái thiết CPC), ủy ban ad hoc (gồm các bên CPC để bàn các vấn đề thuộc nội bộ CPC) và ủy ban Phối hợp, có nhiệm vụ thảo luận thực chất nội dung của giải pháp. Cũng trong thời gian này, ta tranh thủ tiếp xúc riêng các đoàn. Ngày 3/8, thứ trưởng ngoại giao Liên Xô Rogatchev cho biết: phái đoàn Trung Quốc Lưu Thuật Khanh nói do không có thời gian nên Tiền Kỳ Tham không gặp được đồng chí Nguyễn Cơ Thạch; nhưng Tiền lại nói nếu đồng chí Trần Quang Cơ yêu cầu thì có thể gặp (?). Hôm sau Lưu Thuật Khanh lại nhắn qua Rogatchev: chưa thấy đồng chí Cơ yêu cầu gặp, nếu yêu cầu thì sẽ nhận lời. Đến sáng 7/8, ta đặt vấn đề với phía Trung Quốc: Nguyễn Cơ Thạch và Trần Quang Cơ đề nghị gặp quyền trưởng đoàn TQ Lưu Thuật Khanh (Tiền Kỳ Tham về nước) để trao đổi ý kiến. Lưu Thuật Khanh nhận lời ngay. Cuộc gặp diễn ra tại sứ quán TQ ở Pa–ri ngay 4 giờ chiều ngày hôm đó. Thái độ của Lưu tỏ ra nhã nhặn tuy lập trường TQ chưa có gì khác. Lưu nói nếu VN đồng ý có chính phủ lâm thời 4 bên CPC (tức là có cả Khơ–me đỏ như một thành viên ngang với 3 bên kia) thì vấn đề CPC coi như giải quyết, và thanh minh là Trung Quốc không muốn phía 3 phái chiếm ¾ chiếc bánh, chỉ cần có sự tham gia của cả 4 bên CPC, còn chia phần như thế nào là tuỳ họ. Nếu chỉ 2 bên, 3 bên thì không thực tế và không chấp nhận được. Lưu đề nghị ta không dùng từ “diệt chủng”, vấn đề diệt chủng là việc nội bộ CPC, do họ tự giải quyết. Sở dĩ Trung Quốc đến Hội nghị Pa–ri trong khi chưa sẵn sàng giải quyết vấn đề CPC là vì họ đang cố gắng gỡ thế cô lập sau sự kiện Thiên An Môn và trong lúc nội bộ họ vẫn đấu tranh gay gắt về các vấn đề đối nội và đối ngoại. Trung Quốc bất chấp tình hình thực tế, đưa ra đòi hỏi rất cao là xoá nguyên trạng ở Campuchia trước tổng tuyển cử, chia xẻ quyền lực cho 4 phái, làm suy yếu cách mạng Campuchia, chia rẽ 3 nước Đông Dương, Mỹ, phương Tây, ASEAN mâu thuẫn với Trung Quốc về vấn đề Campuchia, và có lợi ích không làm xấu thêm quan Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 52/194 hệ với Trung Quốc. Chiều 10/8, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Lambertson69 cùng 4 người trong đoàn Mỹ tới phòng làm việc của đoàn ta ở Trung tâm hội nghị Kléber, yêu cầu gặp tôi để trao đổi về vấn đề CPC. Tôi cùng anh Lê Mai đã tiếp họ trong 1 tiếng. Họ trình bày quan điểm của Mỹ về vấn đề CPC; cần có giải pháp toàn bộ, không nhận giải pháp bộ phận; có sự chia sẻ quyền lực thật sự cho các phái Khơ–me không cộng sản và trao thực quyền cho Sihanouk chứ không phải tượng trưng, mong VN tác động để Hun–xen mềm dẻo hơn. Về vấn đề diệt chủng và Khơ–me đỏ, họ vẫn giữ lối nói nước đôi. Họ nói đến triển vọng quan hệ tốt giữa Mỹ và VN, nhưng không quên vấn đề MIA. Ngày 11/8/90 anh Thạch về nước, đến 25/8 mới trở lại. Tuy là có tranh cãi với đoàn TQ trong các buổi họp chung như đã thoả thuận với Lưu Thuật Khanh nhưng trong buổi họp ủy ban 1 (Ủy ban về kiểm soát quốc tế) ngày 16/8 bàn vấn đề diệt chủng, sau khi tôi phát biểu lên án Khơ–me đỏ, vạch tội ác diệt chủng, đại biểu Trung Quốc đã phản bác: Việt Nam đòi kết tội diệt chủng là để che dấu hành động xâm lược, thoái thác trách nhiệm viện cớ chống diệt chủng để đưa quân trở lại Campuchia; kết tội diệt chủng thì Khơ–me đỏ sẽ không được tham gia chính quyền, sẽ vào rừng tiếp tục đánh nhau, do đó sẽ không có hoà bình ở Campuchia và đổ tội cho Việt Nam sẽ phải chịu trách nhiệm về thành công hay thất bại của hội nghị. Tôi không thể không phát biểu đập lại các luận điệu đó, khẳng định phải giải quyết vấn đề ngăn chặn diệt chủng mới giải quyết được các vấn đề khác. Tôi vạch rõ sự thật lịch sử là những năm 1975–78 là thời gian cho bọn diệt chủng Polpot hoành hành thì VN không có mặt ở CPC, lúc đó chỉ có cố vấn Trung Quốc mà thôi. Sau phát biểu của ta về vấn đề diệt chủng, trừ Trung Quốc và 69 Lambertson, David F., Deputy Assistant Secretary, Bureau of East Asian and Pacific Affairs, Department of State Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 53/194 Singapore, không còn ai nói “génocide” (diệt chủng), Sihanouk tuyên bố không cho Khơ–me đỏ đại diện cho 3 phái, các ủy ban đều phải ghi nhận và bàn vấn đề diệt chủng, những kẻ đòi không dùng từ “diệt chủng” cũng phải nhận sự tàn bạo của Khơ–me đỏ. Ngày 29/8/1989, theo chương trình đã định, các ngoại trưởng, trừ ngoại trưởng Mỹ và ngoại trưởng Trung Quốc, trở lại Pa–ri để kết thúc họp phiên kết thúc Hội nghị. Ngày 30/8 sau khi trao đổi với ta đồng chủ tịch hội nghị về dự thảo tuyên bố của Hội nghị quốc tế, anh Thạch chờ ở phòng họp đến giờ trưa, vì tình hình sức khoẻ phải trở về sứ quán để nghỉ. Ta báo Ban Thư Ký hội nghị là thứ trưởng Trần Quang Cơ sẽ là quyền trưởng đoàn Việt Nam dự phiên họp cấp bộ trưởng bế mạc hội nghị. Cuộc họp hẹp không chính thức ở cấp bộ trưởng bắt đầu từ khoảng 14 giờ kéo dài gần 1 tiếng. Vì là họp hẹp, mỗi đoàn chỉ có 2 người dự, nên chỉ có tôi và anh Lê Mai trong phòng họp. Cuộc họp này chủ yếu tranh cãi về điều bổ sung vào dự thảo Tuyên bố hội nghị của trưởng đoàn Canada dựa theo ý của Trung Quốc, mang hàm ý phủ nhận kết luận của JIM về 2 vấn đề then chốt của giải pháp. Do chưa hiểu hết ý đồ của đối phương, anh Hun–xen đã phát biểu chấp thuận bổ sung này. Để tránh chỗ sơ hở này và không để đối phương có thể khai thác sự khác nhau giữa ta và CPC, tôi đã yêu cầu chủ tịch cuộc họp ngừng cuộc họp ít phút để trao đổi riêng giữa 3 đoàn VN, CPC và Lào. Sau khi phân tích để bạn thấy được ý định nguy hiểm của đối phương trong điểm bổ sung này, tôi đề nghị cả 3 đoàn gặp 2 đồng chủ tịch yêu cầu sửa lại bổ sung này, không để cho đối phương có thể lợi dụng câu chữ mập mờ để nói là Hội nghị Quốc tế Pa–ri đã phủ nhận kết luận của JIM về chống diệt chủng. Sau khi dự thảo Tuyên bố của hội nghị được thông qua, mới đi vào phiên họp chính thức để bế mạc Hội nghị sau một tháng làm việc liên tục. Tuyên bố chung ngắn gọn của Hội nghị Quốc Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 54/194 tế Pa–ri về Campuchia ghi nhận Hội nghị này là một bước tiến có ý nghĩa. Hội nghị tạm ngừng, kêu gọi các bên CPC và các nước có liên quan tiếp tục cố gắng để đi tới một giải pháp toàn bộ. Kết quả rất hạn chế của Hội nghị phản ánh tính chất vô cùng phức tạp của vấn đề CPC. Việc VN rút hết quân vào tháng 9/89 và triển vọng Nhà Nước CPC vẫn đứng vững đã thúc ép đối phương phải có hội nghị này, song chưa tới mức họ phải chấp nhận nguyên trạng chính trị quân sự ở CPC. Hội nghị kết thúc một giai đoạn đấu tranh và mở ra giai đoạn đấu ttranh mới về vấn đề CPC trong tình hình VN đã rút hết quân ở CPC nhưng vấn đề CPC vẫn chưa có giải pháp. Ngày 5/10/1989, trong khi đã trả lời phỏng vấn báo chí, tôi đã nói về nguyên nhân khiến Hội nghị quốc tế Pa–ri chưa thành công, như sau: “Ngay từ những ngày đầu, dư luận trong và ngoài Hội nghị đều đã thấy vật cản chính và duy nhất cho khả năng tiến triển của Hội nghị là nhóm đại diện của Polpot được sự khuyến khích và phụ họa chủ yếu của một số nước vì lợi ích riêng tư của họ. Càng về cuối Hội nghị, điều này càng thành sự thực hiển nhiên. “Để lấp liếm trách nhiệm, họ đã vu khống Việt Nam và Nhà Nước Campuchia quá cứng rắn khiến Hội nghị bế tắc. “Làm sao chúng tôi có thể đi đến thoả thuận được trong khi đối phương ngoan cố tới mức tự mâu thuẫn một cách trắng trợn trong lập trường cũng như các lập luận của họ? Họ nói tôn trọng nguyên tắc chủ quyền của nhân dân Campuchia nhưng họ lại đòi phải để các nước ngoài tham gia giải quyết các vấn đề Campuchia, lại áp đặt cho nhân dân Campuchia phải chấp nhận một chính phủ phải theo hình thái họ định ra trước; họ nói họ vô cùng phản đối tội ác giết người của bọn Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 55/194 Polpot nhưng họ lại đòi hợp pháp hoá tổ chức diệt chủng và đòi chúng được chia quyền cai trị đất nước Campuchia. “Cộng đồng quốc tế có trách nhiệm loại trừ hiểm họa diệt chủng này. Đặc biệt là những nước xưa nay lớn tiếng đòi Việt Nam rút quân trong khi đó lại lẫn tránh lên án diệt chủng, thì nay đến lượt họ phải có trách nhiệm ngăn diệt chủng gây nội chiến ở Campuchia. “Về triển vọng quan hệ giữa các nước khu vực với đà tiến triển của vấn đề CPC còn tuỳ thuộc các nhân tố chủ quan cũng như khách quan, trong đó có khả năng của ta chuyển hoá các nhân tố khách quan có lợi hơn cho việc thực hiện mục tiêu của ta. Chẳng hạn như khả năng thực hiện phương châm “thêm bạn bớt thù” trong đối ngoại đòi hỏi có được một ý niệm rộng rãi hơn về bạn. Tất nhiên mở rộng việc kết bạn không có nghĩa là thủ tiêu đấu tranh và phải trên cơ sở bảo vệ tốt lợi ích an ninh quốc gia của ta”. Cũng nên biết đối với vấn đề diệt chủng ở Campuchia, Liên Xô vì lợi ích chiến lược của mình nên chủ trương hầu như không khác gì Trung Quốc. Trong cuộc gặp anh Nguyễn Văn Linh ở Hà Nội tối 5/9/1989, Heng Samrin cho biết anh vừa đi nghỉ ở Liên Xô về và kể rằng: “Trước khi đi, tôi nêu yêu cầu được gặp Gorbachov để thông báo tình hình Campuchia và trao đổi một số vấn đề Liên Xô đồng ý. Nhưng khi đến Liên Xô, đồng chí Gobachov không gặp tôi mà để đồng chí ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị, phó chủ tịch Xô Viết tối cao gặp. Tôi hiểu rằng vì Hội nghị quốc tế ở Pa–ri chưa có kết quả gì nên Gorbachov không gặp tôi. Trong khi gặp tôi phía Liên Xô nói thẳng là chúng tôi phải chấp nhận lập chính phủ liên hiệp 4 bên, cho cả Khơ–me đỏ vào và để Sihanouk làm chủ tịch. Chính phủ đó và Sihanouk có thực quyền, Liên Xô giải thích là trong Khơ–me đỏ chỉ có Polpot và vài người theo Polpot là xấu thôi, còn lại thì Nông Pênh nên chấp nhận cho họ tham gia chính phủ. Lập trường này của Liên Xô, chúng tôi không đồng ý”. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 56/194 Vậy là đến lúc này cả Liên Xô lẫn Trung Quốc vì lợi ích của mình cùng nhất trí trong hành động dùng sức ép nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền Campuchia. Đặng Tiểu Bình tiếp Kaysone Phomvihan70 để nói với Việt Nam . Những biến động lớn trong tình hình thế giới bên ngoài lúc này đã tác động mạnh mẽ tới suy nghĩ của lãnh đạo ta về phương hướng chiến lược đối ngoại. Cuộc khủng hoảng chính trị tại nhiều nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa đã bùng nổ từ năm 1989 và đang có chiều hướng lan rộng ra. Tháng 6/1989 xảy ra vụ Thiên An Môn ở Trung Quốc. Cũng trong năm 1989, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu như CHDC Đức, Ba Lan, Ru–ma–ni, Hung, Tiệp, Hà Lan71 đều đã sụp đổ. Đầu tháng 10/1989, TBT Nguyễn Văn Linh đi dự kỷ niệm 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức, khi về đến Hà Nội thì bức tường Berlin đổ, Honecker bị lật. Lãnh tụ Ru–ma–ni Ceaucescu, người mà khi ở Berlin anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới đang lâm nguy, vừa chân ướt chân ráo về đến Bucarest thì bị truy bắt. Với “tư duy mới” của Gorbachov, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên lộn xộn. Trước tình hình ấy, trong nội bộ lãnh đạo ta đã nảy sinh những ý kiến khác biệt trong nhận định về sự kiện Thiên An Môn cũng như về những biến đổi dồn dập tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô. Nổi lên là ý kiến nhấn mạnh mặt 70 (13.12.1920, Naseng – 21.11.1992, Vientiane) mẹ người Laos, bố Việt Nam, Kaysone học luật tại Hà Nội, trở về làm lãnh tụ Pathet Lao. 1975 lật đổ chính phủ hoàng gia Laos. Thủ tướng CHDCND Laos (1975–91), Chủ tịch (1991–92) – "Kaysone Phomvihan." Britannica Concise Encyclopedia. 2004. Encyclopædia Britannica Premium Service. 29 Jan. 2004 http://www.britannica.com/ebc/article?eu=394304. 71 Biên tập gạch ngang Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 57/194 xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, phải bằng mọi giá bắt tay ngay sau Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, để chống Mỹ và các thế lực đế quốc khác. Chính điều đó đã tạo nên bước ngoặt khá đột ngột trong thái độ của ta đối với Trung Quốc. Suy nghĩ đơn giản của ta là không có lý gì Việt Nam lại ngủng ngỉnh với Trung Quốc trong khi Liên Xô đã bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (tháng 5/1989). Lào cũng đã thoả thuận trao đổi đại sứ trở lại với Trung Quốc và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, đánh dấu bằng cuộc đi thăm chính thức Trung Quốc của Kayson Phomvihan, tổng bí thư Đảng NDCM Lào, tháng 10/1989. Chính là thông qua cuộc nói chuyện với Kayson ngày 7/10/89 mà Đặng Tiểu Bình đã bộc lộ rõ phần nào những tính toán sâu xa của mình đối với Việt Nam: phân hoá Việt –Lào, Việt–CPC, Việt–Xô và phân hoá cả nội bộ Việt Nam. Đặng nói với Kayson rằng Việt Nam đã có biểu hiện chống Trung Quốc từ khi Hồ Chí Minh còn sống; rằng sau khi thắng Mỹ, Lê Duẩn trở mặt chống Trung Quốc, xâm lược Campuchia, Việt Nam đi theo Liên Xô, đưa quân vào Campuchia, nên mới có chuyện Trung Quốc đánh Việt Nam. Lúc đầu Trung Quốc cho là vì Brejnev xúi giục nên Việt Nam xâm lược Campuchia, nhưng chính là do Việt Nam có ý đồ lập Liên bang Đông Dương, không muốn Lào, Campuchia độc lập. Việt Nam chống Trung Quốc vì Trung Quốc là trở ngại cho việc lập Liên bang Đông Dương …Trong khi không tiếc lời phê phán Lê Duẩn, Đặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh; Đặng kể lại khi làm tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1963, đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh từ miền Nam sang Hồng Kông để đi thăm Bắc Kinh gặp nhau, khen anh Linh là “người tốt, sáng suốt và có tài”; nhờ Kayson chuyển lời hỏi thăm anh Linh; khuyên Nguyễn Văn Linh nên giải quyết dứt khoát vấn đề Campuchia, nếu làm được việc này thì sẽ khôi phục được uy tín của Việt Nam. Cho đây là việc Việt Nam phải làm, vì những gì Việt Nam đang làm là sai lầm; mong muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam trước khi ông ta nghỉ hưu… Về điều kiện bình Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 58/194 thường hoá quan hệ Trung–Việt, Đặng nhấn mạnh Việt Nam phải rút hết quân, rút triệt để, rút thật sự khỏi CPC thì sẽ có bình thường hoá quan hệ (tuy lúc đó ta đã kết thúc đợt rút quân cuối cùng khỏi CPC từ ngày 26/9/1989). Theo thông báo của đại sứ Lào tại Trung Quốc, trong 70 phút nói chuyện với Kayson, Đặng nói về Việt Nam và quan hệ Trung–Việt tới 60 phút. Ngày 21/10/1989 BCT ta đã họp để nhận định về phát biểu của Đặng Tiểu Bình khi tiếp Kayson. Cuộc họp đã đi đến kết luận: trong lúc Trung Quốc đang còn găng với ta, ta cần có thái độ kiên trì và thích đáng, không cay cú, không chọc tức nhưng cũng không tỏ ra nhún quá. Cần tiếp tục thực hiện đường lối Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính Trị, cần thấy cả mặt xã hội chủ nghĩa và mặt bá quyền nước lớn của Trung Quốc. Trong khi cố kéo Trung Quốc, ta cần đồng thời hoạt động trên nhiều hướng; củng cố đoàn kết chặt chẽ với Lào, phân hoá Mỹ, phương Tây, ASEAN với Trung Quốc. Theo phương đó, ngày 6/11/1989, anh Thạch đã chuyển qua đại sứ Trung Quốc thông điệp miệng của TBT Nguyễn Văn Linh gửi Đặng Tiểu Bình, ngỏ ý mong sớm có bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ba ngày sau, anh Thạch lại gửi thư cho Tiền Kỳ Tham nhắc lại thông điệp ngày 6/11 và đề nghị: phía Việt Nam sẵn sàng gặp lại phía Trung Quốc ở cấp bộ trưởng hoặc thứ trưởng ngoại giao tại Hà Nội hoặc Bắc Kinh trong tháng 12/1989. Nhưng Trung Quốc không trả lời thông điệp của Tổng bí thư ta lẫn thư của anh Thạch. Mãi đến ngày 12/1/1990, đại sứ Trung Quốc mới gặp anh Thạch chuyển thông điệp miệng của phía Trung Quốc trả lời TBT Nguyễn Văn Linh, vẫn đặt điều kiện cho việc nối lại đàm phán với ta: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo khác của Trung Quốc chân thành mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ Trung–Việt. Vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 59/194 yếu làm cho quan hệ hai nước xấu đi đến nay chưa được cải thiện. Việc khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước chưa có thể cải thiện nếu bỏ qua vấn đề CPC. Đồng chí Đặng Tiểu Bình có nêu ra là việc Việt Nam rút quân sạch sẽ, triệt để và việc CPC lập Chính phủ Liên hiệp Lâm thời 4 bên do Sihanouk đứng đầu là hai vấn đề hạt nhân thiết thực cần đồng thời giải quyết. Phía Trung Quốc sẵn sàng suy xét đề nghị của VN về việc mở vòng thương lượng mới ở cấp thứ trưởng, nếu Việt Nam chấp nhận một cơ chế giám sát quốc tế do Liên Hiệp Quốc chủ trì có 4 bên CPC tham gia để kiểm chứng việc rút quân VN và lập chính phủ 4 bên do Sihanouk đứng đầu trong thời kỳ quá độ”. Từ 26/2 đến 1/3/1990 tại thủ đô Inđônêxia đã họp Hội nghị không chính thức về CPC (IMC–Informal Meeting on Campuchia). Dự họp ngoài các bên CPC, VN, Lào và 6 nước ASEAN (như họp JIM, còn có thêm đại diện Tổng thư ký LHQ Pháp và Ô–tra–lia72). Hội nghị không ra được tuyên bố chung vì Khơ–me đã dùng quyền phủ quyết. Ngày 8/3/1990, cố vấn Lê Đức Thọ cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân nói mấy ý kiến về vấn đề CPC: cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề CPC. Phải giải quyết với TQ, nếu không thì không giải quyết được vấn đề CPC. Không thể gạt Khơ–me đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, có thể nói không để trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ. Không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở CPC. Phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề CPC trước Đại hội VII để khai thông những vấn đề khác. Hai hôm sau anh lại nói với Nguyễn Cơ Thạch những ý đó. Đến ngày 3/4/1990, Trung Quốc đột nhiên lại biểu thị hoan 72 Australia Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 60/194 nghênh việc thứ trưởng Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh “kiểm tra sứ quán” và công bố tin Trung Quốc sẽ đàm phán với thứ trưởng ngoại giao Việt Nam về vấn đề Campuchia. Lúc này CP87 đã giải thể. Các thành viên thường trực của CP87 đều đã được bổ nhiệm đi nhận trọng trách ở nước ngoài. Anh Đặng Nghiêm Hoành đã nhận quyết định đi đại sứ ở Trung Quốc. Anh Trần Xuân Mận nhận chức đại sứ ở An–giê– ri73. Anh Nguyễn Phượng Vũ trên đường đi nhận chức đại sứ ở Phi–li–pin, đã chết trong tai nạn máy bay trên bầu trời Thái Lan. Thay vào đó, Bộ Ngoại Giao đã lập Nhóm ad hoc về giải pháp Campuchia với nhiệm vụ cụ thể hơn vì vấn đề CPC đã đến lúc phải giải quyết. Nhóm vẫn do tôi phụ trách, có các anh Trần Huy Chương, Lê Công Phụng, Huỳnh Anh Dũng, Nguyễn Can tham gia. Nhóm Nghiên cứu giải pháp Campuchia chúng tôi nhận định có mấy lý do đã khiến Trung Quốc mềm mỏng hơn trong thái độ đối với Việt Nam về vấn đề CPC: - quan hệ Mỹ–Xô đang có chuyển động mạnh. Chỉ trong vòng 6 tháng, từ tháng 12/1989 đến tháng 5/1990, đã có 2 cuộc gặp cấp cao Xô–Mỹ. Trong khi đó quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và các nước phương Tây chậm khôi phục sau vụ Thiên An Môn. - giữa Trung Quốc với Mỹ, phương Tây đang nảy sinh những mâu thuẫn về vấn đề Campuchia, chủ yếu trong vấn đề đối xử với Khơ–me đỏ. Trong các cuộc họp 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An tháng 2 và tháng 3/1990, Trung Quốc ở thế bị cô lập đã buộc phải có nhân nhượng và phải chấp nhận vai trò của Liên Hiệp Quốc. - đàm phán Sihanouk–Hun–xen có tiến triển. Ngày 9/4/1990 Sihanouk có phần nhượng bộ khi đưa ra 9 73 Algérie Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 61/194 điểm giải pháp, nhận lập Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao (Supreme National Council–SNC) gồm số đại diện bằng nhau của hai chính phủ, 6 của Chính phủ Nông Pênh và 6 của Chính phủ Campuchia Dân Chủ như đề nghị của Hun–xen; không đòi hỏi giải tán Nhà Nước Campuchia (SOC), tuy đòi thực quyền cai quản Campuchia trong thời kỳ quá độ phải là cơ cấu quyền lực của Liên Hiệp Quốc. Ngày 10/4 BCT họp bàn đề án đấu tranh sách lược về vấn đề CPC do Bộ NG74 dự thảo: dùng công thức LHQ để nói về vấn đề diệt chủng và cho Khơ–me đỏ vào chính phủ liên hiệp CPC, nhận vai trò Sihanouk, lập chính phủ liên hiệp để tổ chức tổng tuyển cử… Đại đa số BCT đồng ý. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ Nguyên còn nhấn vào âm mưu của đế quốc Mỹ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu, VN và TQ cần liên kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội và cùng tác động để có một nước CPC thân thiện với TQ và VN và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đó là lợi ích chung của TQ và VN. Riêng Nguyễn Cơ Thạch nói rõ quan điểm của Ngoại Giao là cần tranh thủ TQ, song đồng thời phải chuẩn bị có 3 khả năng về thái độ của TQ: - khả năng 1: TQ cùng ta bảo vệ chủ nghĩa xã hội. - khả năng 2: TQ cấu kết với Mỹ chống ta như trước. - khả năng 3: TQ vừa bình thường hoá quan hệ với ta, vừa tranh thủ Mỹ, phương Tây là chính. Lúc đó tôi có cảm giác nhiều ủy viên BCT không tán thành quan điểm này vì đã có định hướng cùng TQ bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc. Ngày 16–17/1/1990, thực hiện quyết định của Bộ Chính Trị theo hướng sớm làm lành với Bắc Kinh, anh Nguyễn Cơ Thạch 74 Ngoại Giao Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 62/194 đi Nông Pênh gặp 4 người chủ chốt trong BCT Campuchia: Heng Somrin, Chia Xira75, Hun–xen và Sor Kheng76 để cố thuyết phục bạn nên tính tới bước sách lược về vấn đề diệt chủng và không gạt Khơ–me đỏ, nhưng phía Campuchia không đồng ý vì tỏ ra muốn giữ đường lối độc lập trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, không muốn ta đàm phán với Trung Quốc về các vấn đề nội bộ của Campuchia. Bạn tỏ ra rất găng về vấn đề diệt chủng, nói nếu bộ ta sẽ không còn vũ khí gì chống các luận điểm của đối phương vu cáo “Việt Nam xâm lược Campuchia”, “chính quyền Nông Pênh do Việt Nam dựng lên”. Hơn nữa chính lúc này phương Tây đang khơi lên vấn đề lên án diệt chủng. Ngày 2/5/90 với danh nghĩa “đi kiểm tra sứ quán”, anh Đinh Nho Liêm đến Bắc Kinh để có cuộc “trao đổi ý kiến không chính thức” với Trung Quốc. Lần này đối tác không phải thứ trưởng Lưu Thuật Khanh mà là trợ lý bộ trưởng Từ Đôn Tín77. Phụ tá cho anh Liêm là anh Đặng Nghiêm Hoành lúc này đã là đại sứ Việt Nam ở Trung Quốc. Cuộc đàm phán không có mấy tiến triển về thực chất. Về bình thường hoá quan hệ hai nước, phía Trung Quốc không mặn mà gì với gợi ý của ta về việc xích lại gần hơn nữa giữa hai nước xã hội chủ nghĩa để cứu vãn sự nghiệp xã hội chủ nghĩa chung trên thế giới đang lâm nguy. Trung Quốc chỉ đặt quan hệ với Việt Nam trong khuôn khổ chung sống hoà bình như các nước láng giềng khác. Lần này phía Trung Quốc đi vào những vấn đề thuần tuý nội bộ của Campuchia, đòi ta đàm phán về vi phạm quyền lực của Hội 75 Semdech Chea Sim, Kampuchean People's Revolutionary Party. Đến 1991, thay Heng Samrin là chủ tịch đảng với tên mới là Đảng Nhân Dân Cambodia (Cambodian People's Party, CPP) 76 Sar Kheng, Phó Thủ tướng kiêm đồng Bộ trưởng nội vụ chính phủ Cambodia 77 Xu Dunxin (1934–), Thứ trưởng ngoại giao (1991–1993); Thành viên Ủy Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân Dân Trung Quốc (1998–2003) Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 63/194 đồng dân tộc tối cao Campuchia (SNC) và về việc xử lý quân đội 4 bên Campuchia. Về vấn đề chính quyền Campuchia trong thời kỳ quá độ (từ khi Việt Nam rút hết quân đến khi tổng tuyển cử), Từ nói Trung Quốc thấy tốt nhất là lập một chính phủ liên hiệp 4 bên–gọi là Hội đồng dân tộc tối cao cũng được– bằng không thì phải chọn phương án giao quyền cho Liên Hiệp Quốc. Chính quyền thời kỳ quá độ này phải bao gồm cả 4 bên Campuchia (với hàm ý Khơ–me đỏ được chính thức coi là 1 bên tham chính) mới thể hiện được tinh thần hoà giải dân tộc. Nếu các đồng chí thấy nói 4 bên có khó khăn thì nói là “các bên Campuchia” cũng được, không gạt một bên nào, không bên nào nắm độc quyền. (Trong buổi làm việc với anh Đặng Nghiêm Hoành sáng 4/5, Vụ phó Trương Thanh cũng nhắc lại ý này: Hội đồng này bao gồm đại diện của 2 chính phủ, 4 bên hay các bên Campuchia đều được). Từ nói: nếu so sánh giữa phương án chính thức liên hiệp lâm thời đỏ, Trung Quốc đề ra và phương án Liên Hiệp Quốc quản lý thì chúng tôi vẫn thấy phương án của TQ là tốt hơn. Về vấn đề diệt chủng, Từ nói có ý đe dọa là nếu cứ khẳng định Khơ–me đỏ phạm tội thì phía bên kia sẽ nói Việt Nam là xâm lược và Nông Pênh là ngụy quyền, cho nên không nên nói đến vấn đề đó nữa. Trong đàm phán, phía Trung Quốc để lộ rõ ý đồ muốn Hội đồng Dân tộc tối cao thực tế sẽ thay thế Chính phủ Nông Pênh; còn quân đội của “4 bên” Campuchia phải tập kết vào những địa điểm được chỉ định rồi giải pháp toàn bộ; ít nhất là lúc đầu giảm quân số tới mức tối đa, mục đích là tước bỏ thế mạnh cả về chính quyền lẫn về lực lượng vũ trang của Nhà Nước Campuchia. Cách làm của Trung Quốc đúng là “một mũi tên bắn hai đích”, vừa xoá sạch thành quả cách mạng Campuchia vừa phân hoá quan hệ Việt Nam–Campuchia. Để tránh đi ngay vào chuyện hóc búa này, anh Liêm nói sẽ đem hai vấn đề này về bàn nghiên cứu thêm rồi sẽ phát biểu. Đồng thời theo chỉ thị trên, ta đã nhận Việt Nam không nói đến từ “diệt chủng” nữa và sẽ tìm một công thức khác thích hợp để nói về vấn đề đó. Phía Trung Quốc còn đề nghị lãnh đạo Việt Nam nên gặp Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 64/194 Sihanouk như Sihanouk đã ngỏ ý để “tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy giải pháp”. Đáng suy nghĩ là Từ Đôn Tín đã gợi ý là sau khi Việt Nam và Trung Quốc nhất trí được về giải pháp Campuchia thì 3 nước Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan sẽ họp lại. Điều này chúng tỏ là Thái Lan giữ một vai trò không nhỏ trong việc cùng Trung Quốc nuôi dưỡng Khơ–me đỏ và làm chảy máu Việt Nam bằng vấn đề CPC. Phần vì tình thế thúc bách đẩy nhanh giải pháp Campuchia, phần vì hài lòng với cuộc gặp này, Tiền Kỳ Tham đồng ý đầu tháng 6 sẽ cử Từ Đôn Tín sang Hà Nội với danh nghĩa “khách của đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội” để tiếp tục trao đổi ý kiến với ta. Đây là lần đầu tiên trong 10 năm qua phía Trung Quốc nhận sang Hà Nội đàm phán với ta, trong khi tuyệt đại đa số các đợt đàm phán Việt–Trung đều tiến hành ở Bắc Kinh. Động thái này đã được lãnh đạo ta hiểu như một cử chỉ thiện chí đặc biệt của Trung Quốc đối với Việt Nam. Thuốc đắng nhưng không dã được tật . Sáng 30/5/1990, Bộ Chính trị họp bàn về đàm phán với Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 tổng bí thư đảng Lào và đảng Campuchia ngày 20–21/5, nói ra dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong BCT tỏ ý phải thận trọng trong xử sự với Trung Quốc. Anh Tô78 nói: Mấy nghìn năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng phải cảnh giác đừng để hớ. Đỗ Mười cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định của anh Linh, cho rằng phải thăm dò và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử lý mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực HĐBA, tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước xã hội chủ 78 Phạm Văn Đồng Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 65/194 nghĩa. Đa số trong BCT đều cho rằng không nên nói đến “giải pháp đỏ” với Trung Quốc nữa. Cuối cùng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh kết luận lại là anh sẽ chỉ gặp đại sứ Trung Quốc, còn không gặp Từ Đôn Tín; về phía lãnh đạo ta, chỉ có anh Thạch tiếp Từ. Nguyễn Văn Linh còn nói khi gặp Trương Đức Duy anh sẽ chỉ nói về hợp tác hai nước và đề nghị gặp cấp cao, không nói đến “giải pháp đỏ”. Nhưng trên thực tế trong cuộc gặp đại sứ TQ vài hôm sau, Nguyễn Văn Linh đã lại nêu vấn đề đó. Ngày 5/6/90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật. Đây cũng là lần đầu tiên trong 10 năm, tổng bí thư Đảng ta tiếp đại sứ Trung Quốc để tỏ sự trọng thị đối với Bắc Kinh. Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo TQ để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội … chúng âm mưu diễn biến hoà bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì xã hội chủ nghĩa, nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội… Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay… Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác–Lênin”. Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp đỏ” để giải quyết: “Không có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản được”, “họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”. Sáng 6/6/1990, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 66/194 giữa hai người. Trương Đức Duy vốn là thông dịch rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19 tháng 6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11–13/6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khơ–me nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ ngày 6/6, phía Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và Trương Đức Duy. Còn Đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, vụ trưởng Vụ Trung Quốc, biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6/6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về “giải pháp đỏ”: Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot. Trung Quốc và Việt Nam sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn bình thường… Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi … Theo Hồ Càn Văn, ngày 23/5/90 Cục trưởng Cục Đối Ngoại Bộ Quốc Phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho Trung Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò của Bộ Ngoại giao không còn như trước. Ngày 8/6/1990, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín, Bộ trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh còn điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp đỏ”: Việc hai bên đỏ tiếp xúc với nhau là Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 67/194 chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía CPC thân Trung Quốc, ta sẽ tác động với phía CPC thân với ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau. Việc này phải có thời gian, không thể đòi họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời … Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi TQ gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới. Những lời dặn dò này đối với tôi thực ra là không cần thiết, không phải vì tôi sẵn ý thức bảo mật cao, mà bởi vì ngay từ đầu tôi đã khó chịu với cái ý nghĩa gọi là “giải pháp đỏ”, với ý nghĩa bắt tay với bọn diệt chủng–dù chỉ là gián tiếp–để làm vừa lòng Trung Quốc. Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11/6/1990 sau đàm phán phiên đầu với Từ Đôn Tín, tôi về Bộ Ngoại Giao hồi báo lại với anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông Âu–Liên Xô. Anh Thạch liền gạn hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp đỏ” không. Tôi nói: đồng chí Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán. Anh Thạch vặn lại: Vậy đồng chí nghe theo ý kiến bộ trưởng Quốc phòng hay ý kiến bộ trưởng Ngoại giao. Tôi đáp: Là cán bộ ngoại giao tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là ủy viên Bộ chính trị. Lúc ấy tôi thật bất ngờ trước phản ứng của anh Thạch, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được vết rạn nứt trong BCT đã khá sâu. Phía Trung Quốc tất nhiên không để lọt hiện tượng này vì chính họ đang muốn tác động vào nội bộ ta. Chính thái độ quá đặc biệt, quá nhún mình và cũng quá sơ hở của lãnh đạo ta ngày 5 và 6/6/1990 đã gây khó khăn không nhỏ cho ngoại giao ta trong đợt đàm phán này. Ngay từ hôm đầu đến Hà Nội và trong suốt mấy ngày đàm phán, Từ Đôn Tín luôn dở giọng cao ngạo, dùng uy lực của chính lãnh đạo ta để gây sức ép với cán bộ ngoại giao ta. Ngay trong lời đáp từ tại buổi tiệc của tôi chiêu đãi đoàn TQ tối 9/6/1990, Từ đã nói: “Sau khi nghe đại Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 68/194 sứ Trương Đức Duy báo cáo lại, tôi càng tăng thêm lòng tin tưởng, tôi tin rằng đồng chí thứ trưởng Trần Quang Cơ và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam, cụ thể hóa vào cuộc trao đổi với chúng tôi để chúng ta nhanh chóng giải quyết xong vấn đề”. Vào phiên đàm phán đầu tiên, sáng 11/6/1990, Từ đã tìm cách ghim lại những điểm có lợi cho Trung Quốc hoặc ít nhất cũng hợp với ý đồ của họ bằng cách nêu ra 5 nhận thức chung rất bổ ích mà hai bên đã đạt được trong cuộc gặp ở Bắc Kinh đầu tháng 5/1990: 1. Hai bên đều cho rằng vấn đề Campuchia cần đạt được một giải pháp toàn diện, công bằng và hợp lý. 2. Phía Việt Nam bày tỏ đã rút hết quân khỏi Campuchia, chấp nhận sự kiểm chứng của Liên Hiệp Quốc và cam kết sẽ không quay lại Campuchia. 3. Hai bên đều cho rằng, trong thời kỳ quá độ ở Campuchia sau khi Việt Nam rút hết quân, chấm dứt viện trợ bên ngoài và thực hiện ngừng bắn, cần thành lập Hội đồng toàn quốc tối cao. Về nguyên tắc hai bên chúng ta đều tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao phải là cơ cấu quyền lực có thực quyền, cònviệc tổ chức Hội đồng đó thế nào, ý kiến của hai bên cơ bản nhất trí với nhau. Ứng cử viên của Hội đồng đó cụ thể là ai thì phải do các bên Campuchia lựa chọn. Trung Quốc, Việt Nam tôn trọng sự lựa chọn đó. Chúng ta tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao không loại trừ bất cứ bên nào, cũng không để bên nào nắm độc quyền. Về Hoàng thân Sihanouk, hai bên đều chủ trương Hoàng thân Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng toàn quốc tối cao. 4. Vấn đề quân sự trong thời kỳ quá độ, hai bên đều cho rằng để tránh xảy ra nội chiến và giữ hoà bình ở Campuchia, cần có sự sắp xếp thoả đáng quân đội 4 bên Campuchia. Dĩ nhiên sắp xếp như thế nào, hai bên chúng ta cần bàn thêm. 5. Còn một điểm nữa, các đồng chí Việt Nam bày tỏ từ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 69/194 nay về sau sẽ không nhắc đến vấn đề diệt chủng, kể cả trong các văn kiện quốc tế cũng không nêu nữa. Vì vậy Từ đề nghị tập trung bàn hai điểm tồn tại của lần gặp trước là vấn đề phạm vi quyền lực của Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia và vấn đề lực lượng vũ trang của các bên Campuchia trong thời kỳ quá độ. Trong 3 ngày đàm phán, mỗi khi phía Trung Quốc thấy ta không chấp nhận yêu sách vô lý của họ về hai vấn đề thuộc nội bộ CPC này, nhất là khi ta kiên trì công thức “hai bên Campuchia”– tức là hai chính phủ Nông Pênh và chính phủ Campuchia Dân chủ – hoặc có thể nói 2 bên Campuchia, nhưng dứt khoát bác công thức “4 bên Campuchia” của họ mang hàm ý chấp nhận vai trò hợp pháp của bọn Khơ–me đỏ, thì Từ lại lên giọng chê trách tôi làm trái ngược ý kiến của lãnh đạo VN, với lập luận là lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra ý “hợp tác giữa 2 phái cộng sản Khơ–me” tức là nhận từ “4 bên CPC” (có nghĩa là đưa Khơ–me đỏ lên ngang với Chính phủ Nông Pênh) và nhắc đến thoả thuận Tokyo, Từ nói: “Phát biểu của các đồng chí không nên trái ngược với các đồng chí lãnh đạo Việt Nam. Ý kiến của Bộ Ngoại Giao nên nhất trí với ý của lãnh đạo cấp cao, không nên có hai tiếng nói trái ngược”. Tôi phải đưa Từ trở về vị trí của y: “Đồng chí có thể yên tâm, không cần lo hộ, chúng tôi là Bộ Ngoại Giao có tiếng nói khác Trung ương. Đảng chúng tôi nhất trí từ trên xuống do Bộ Ngoại Giao là một bộ phận chịu sự lãnh đạo chặt chẽ của Bộ Chính Trị chúng tôi”. Về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia, Trung Quốc kiên trì 3 điểm: - HĐDTTC (SNC) phải là cơ quan chính quyền tối cao hợp pháp duy nhất đại diện cho độc lập, chủ quyền, thống nhất của Campuchia. Về mặt đối ngoại, đại diện cho Campuchia trên quốc tế, giữ ghế cho Campuchia ở Liên Hiệp Quốc; về mặt đối nội, thực hiện quyền lập pháp và quản lý hành chính, trực tiếp nắm các ngành Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 70/194 quan trọng ảnh hưởng đến tổng tuyển cử tự do, công bằng gồm quốc phòng, ngoại giao, nội vụ, tuyên truyền, tài chính (với hiểu biết là xoá 5 bộ này của chính quyền Nông Pênh). - Không loại bên nào (tức là không loại Khơ–me đỏ), không bên nào độc quyền. Thành phần, số lượng do 4 bên Campuchia bàn bạc và quyết định. Sihanouk làm chủ tịch HĐDTTC (thực chất là bác bỏ Thông cáo chung Tokyo đã thỏa thuận là Hội đồng gồm 12 người, chia đều cho 2 bên, mỗi bên 6 người). Tôi khẳng định HĐDTTC có trách nhiệm và quyền lực trong việc thực hiện các hiệp định được ký kết về Campuchia, về hoà giải dân tộc và về tổng tuyển cử; hai chính quyền hiện tồn tại không được làm việc gì cản trở trách nhiệm và quyền lực trên đây của HĐDTTC. Còn việc các bên Campuchia chấp nhận ý kiến của Trung Quốc đến đâu là quyền của các bên Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc không thể thay các bên Campuchia sắp đặt việc nội bộ của Campuchia. Về vấn đề lực lượng vũ trang, Trung Quốc đòi ghi vào biên bản thỏa thuận: quân đội của 4 bên Campuchia phải tập kết vào những địa điểm do ủy ban giám sát của Liên Hiệp Quốc chỉ định. Còn việc giảm quân hay thực hiện các nguyên tắc trên sẽ do các bên Campuchia thỏa thuận với nhau. Như để thuyết phục ta chấp nhận lập trường của họ, Từ đưa ra dự kiến của Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước: 1. Trung–Việt đạt được thoả thuận về giải pháp vấn đề Campuchia và ghi nhận lại bằng một biên bản nội bộ; 2. Họp ngoại trưởng 5 nước Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Lào và ra tuyên bố chung; 3. Họp hội nghị có tính chất khu vực giữa 5 nước trên và 4 bên Campuchia; Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 71/194 4. Họp 5 nước Hội Đồng Bảo An với 4 bên Campuchia; 5. Họp Hội nghị quốc tế Pa–ri về Campuchia. Từ nói chỉ trao đổi nội bộ với ta dự kiến này ở đây, không nói với 4 nước ủy viên thường trực Hội Đồng Bảo An, cũng không nói với Liên Xô để tránh sự quấy nhiễu của bên ngoài. Tôi tránh bình luận cụ thể, chỉ nói đây là một gợi ý thú vị, rất đáng suy nghĩ, song cần làm sao cho bước khởi động của chúng ta ở đây có kết quả thì toàn bộ kế hoạch mới có khả năng triển khai được. Chiều ngày 12/6/1990, thực hiện yêu cầu của phía Trung Quốc, đã có cuộc họp hẹp giữa hai trưởng đoàn. Qua đó Từ nhờ tôi chuyển tới lãnh đạo VN trả lời của lãnh đạo Trung Quốc về những ý kiến mà Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc ngày 5 và 6/6/1990: “Lãnh đạo Trung Quốc rất coi trọng quan hệ Trung–Việt. Lãnh đạo Trung Quốc cũng rất coi trọng những ý kiến Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và đồng chí Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trương Đức Duy. Phía Trung Quốc cho rằng quan hệ Trung–Việt sớm muộn cũng sẽ bình thường hóa. Hai bên đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện.Vấn đề Campuchia, cuộc chiến tranh Campuchia đã kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan tâm, các nước trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với hai nước Trung Quốc và Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết hiện nay là trên cơ sở những nhận thức chung đã đạt được, tiếp tục trao đổi ý kiến về hai vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội đồng tối cao và việc xử lý quân đội của các bên CPC), làm sao cho có tiến triển về hai vấn đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự giải quyết vấn đề Campuchia. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có đi xong bước này, chúng ta mới có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng có nghĩa là chỉ có đi xong bước này lãnh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ về việc gặp cấp cao và việc thúc đẩy hai phái cộng sản Khơ–me đỏ hoà giải với nhau. Giải quyết xong 2 điểm tồn tại đó để có được giải pháp toàn bộ, không Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 72/194 nên vượt qua vấn đề Campuchia. Giải quyết xong vấn đề Campuchia thì các bước tiếp theo về gặp gỡ cấp cao và bình thường hoá quan hệ giữa hai nước sẽ dễ giải quyết. Ngay sau đó, tôi sang gặp thủ tướng Đỗ Mười báo cáo tình hình cuộc đàm phán để chuẩn bị cho việc anh ấy tiếp Từ Đôn Tín chiều hôm sau như đã dự định. Tôi nói: chỉ với việc anh Linh và anh Lê Đức Anh gặp Trương Đức Duy trước khi Từ Đôn Tín tới Hà Nội đã làm cho phía Trung Quốc lên giọng trong đàm phán, nay nếu anh Linh hoặc anh Mười lại tiếp hắn nữa thì rất không nên. Nghe tôi trình bày xong, Đỗ Mười bảo sở dĩ anh nghĩ đến chuyện gặp Từ là vì sáng 10/6/1990 Lê Đức Anh đến yêu cầu Đỗ Mười gặp Từ. Nay như vậy thì không cần gặp nữa. Đỗ Mười bảo tôi cùng đi ngay sang báo cáo sự tình với TBT Nguyễn Văn Linh vì anh Linh cũng dự định tiếp Từ. Sau khi nghe tôi trình bày, có một phút lặng đi, tôi nghĩ bụng Tổng bí thư chắc bị bất ngờ về những câu trả lời quá ư lạnh nhạt của lãnh đạo Trung Quốc đối với những điều tâm huyết mà anh và Lê Đức Anh đã thổ lộ với đại sứ Trương Đức Duy. Rồi anh Linh cho ý kiến là trong tình hình này anh Mười hoặc một cấp cao khác của ta không cần tiếp Từ Đôn Tín nữa. Ba ngày đàm phán với Từ nói chung là căng nhưng giông tố chỉ nổ ra khi Từ Đôn Tín đến chào Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chiều 13.6.1990 trước khi đoàn Trung Quốc rời Hà Nội. Ngay từ đầu, không khí trò chuyện đã không lấy gì làm mặn mà lắm. Nhưng đến khi Từ nói: “Các đồng chí nói chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản Campuchia hòa giải với nhau nhưng lại không chấp nhận có “4 bên” Campuchia. Chúng tôi không thể hiểu được trong hai giọng nói đó cái nào là thật cái nào là giả. Nghe tiếng nói này thì tiếng nói kia là giả dối, nghe tiếng nói kia thì tiếng nói này là giả dối. Mong rằng sau này các đồng chí không nên làm như vậy”, anh Thạch đã phản ứng mạnh: “Chúng tôi không đòi các đồng chí nói chỉ có hai bên Campuchia; các đồng chí cũng không thể đòi chúng tôi nói 4 bên. Chúng tôi nói các bên, không loại bỏ bên nào là đủ rồi. Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 73/194 Nếu nói khác đi là chống lại Hội nghị Tokyo. Tôi nói thật, dùng thủ đoạn xuyên tạc thì rất khó đàm phán … Tôi rất trọng đồng chí nhưng rất không hài lòng với những điều đồng chí nói vì đồng chí có những xuyên tạc. Như thế rất khó đàm phán”. Cuộc nói chuyện kết thúc bằng câu “Chào Ngài” của Từ Đôn Tín. Và anh Thạch cũng đáp lại bằng từ đó thay vào từ “đồng chí”. Tôi không có mặt trong buổi anh Thạch tiếp Từ Đôn Tín nhưng khi nghe kể lại chuyện đó tôi không hề ngạc nhiên. Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong buổi gặp ngày 13/6/90: Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc–Việt Nam. Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là Từ muốn nói đến những điều mà anh Linh và anh Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngày 5 và 6/6/1990. Đây là cuộc đàm phán giữa hai quốc gia bình đẳng, làm sao Trung Quốc có thể nói đến chuyện “xem xét nguyện vọng” của lãnh đạo Việt Nam được thêm vào đó; tâm trạng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong những ngày này lại đang nặng trĩu những suy tư khác. Sau khi xảy ra va chạm giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn TQ Từ Đôn Tín, sức ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn; suốt nửa cuối 1990 đến đầu 1991, TQ phớt lờ Bộ Ngoại Giao, chỉ làm việc với Ban Đối ngoại; ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Nguyễn Cơ Thạch tại kỳ họp Đại hội đồng LHQ ở Nữu–ước tháng 9/1990. Trước đó, ý đồ TQ phân hoá nội bộ ta đã bộc lộ rõ: muốn ta phải thay đổi bộ trưởng ngoại giao. Liều thuốc của thầy Tàu bốc cho ta thật là đắng, thế nhưng đâu có dã được tật! Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 74/194 BCT đánh giá cuộc đàm phán tháng 6/1990 Ngày 19/6/1990 Bộ Chính Trị đã họp để đánh giá cuộc đàm phán. Rất tiếc không hiểu vì sao ngay sáng hôm họp BCT anh Linh lại đi vào Thành phố Hồ Chí Minh và nhắn qua anh Nguyễn Thanh Bình đề nghị BCT cứ họp nhưng chưa bàn về phương hướng tới. Là người trực tiếp đàm phán với TQ, tôi đã trình bày trước BCT bản báo cáo của Bộ Ngoại Giao trong đó có nhận định về ý đồ của Trung Quốc qua cuộc đàm phán này: • Ý đồ Trung Quốc về vấn đề quan hệ với Việt Nam và về vấn đề Campuchia; qua cuộc gặp này đã bộc lộ rõ. Chiến lược của Trung Quốc là đặt ưu tiên cao nhất vào việc tranh thủ Mỹ, phương Tây, ASEAN để phục vụ mục tiêu “4 hiện đại hoá”. Chính sách đối với Việt Nam, cũng như với Liên Xô và các nước khác đều phải phục tùng lợi ích tối cao này, không được gây nên bất kỳ ảnh hưởng xấu nào trong quan hệ của Trung Quốc với Mỹ, phương Tây, ASEAN. Chính vì vậy Trung Quốc đã không đáp ứng những đề nghị mà TBT Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh nói với đại sứ Trung Quốc trước cuộc đàm phán này: a) về việc ta đề nghị gặp cấp cao nhất của 2 nước càng sớm càng tốt, Trung Quốc trả lời chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia thì lãnh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ đến việc này cũng như mới có thể bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. b) về việc ta đề nghị hai nước đoàn kết để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, họ nói rõ họ coi quan hệ với Việt Nam sau này cũng chỉ nằm trong phạm vi quan hệ giữa hai nước láng giềng, trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Họ Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 75/194 còn nói quan hệ Việt Nam–Trung Quốc không thể làm cho Mỹ và ASEAN lo ngại. c) về việc ta đề nghị hai nước cùng thúc đẩy 2 phái cộng sản Khơ–me hoà giải với nhau, họ cũng chỉ trả lời là giải quyết xong vấn đề Campuchia thì lãnh đạo Trung Quốc sẽ tính về việc này. Thực chất phương án giải quyết vấn đề Campuchia của Trung Quốc là nhằm xoá đi chính quyền và lực lượng quân sự của Nhà Nước Campuchia để giao thực quyền cho Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao do Sihanouk chủ trì. Hai chính quyền hiện nay–Nhà Nước Campuchia và Campuchia Dân Chủ–đều do hai lực lượng cộng sản kiểm soát là chính, và các lực lượng quân sự Campuchia mạnh nhất cũng là của hai nhóm cộng sản Khơ–me. Trung Quốc đòi cho quân sự của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ hoặc đòi để Liên Hiệp Quốc cai trị hoàn toàn Campuchia. Để thực hiện tính toán chiến lược của họ, Trung Quốc sẵn sàng ngả theo phương án của Mỹ và phương Tây, trái với suy tính của ta. • Trung Quốc không đáp ứng các đề nghị của lãnh đạo ta, đồng thời họ lại đánh giá sai lầm là Việt Nam yếu, có nhiều khó khăn do tình hình bản thân VN và do tác động của tình hình Liên Xô, Đông Âu nên quá lo sợ bị đế quốc diễn biến hoà bình như đối với các nước Đông Âu, do đó Việt Nam rất cần Trung Quốc. Vì vậy họ đã lợi dụng lòng khát khao hợp tác với Trung Quốc của lãnh đạo ta để gây sức ép mạnh với ta trong đàm phán. Đồng thời, từ khi có cuộc gặp không chính thức với ta ở Bắc Kinh cho đến nay, Trung Quốc không ngừng đưa tin về các hoạt động của Trung Quốc ở Trường Sa và Hoàng Sa với ý đồ vừa gây sức ép với ta vừa làm cho Mỹ, ASEAN yên tâm là quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam chẳng phải có sự ưu ái gì hơn Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 76/194 mối quan hệ của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á khác. • Trung Quốc ép ta chấp nhận lập trường của họ về 2 vấn đề thuộc phạm vi nội bộ Campuchia còn nhằm mục đích chia rẽ ta với bạn CPC, sau khi Trung Quốc đã cố gắng tranh thủ Lào, nhằm tách Lào khỏi Việt Nam và Liên Xô. • Trung Quốc không hài lòng về Thông cáo chung Tokyo vì nó đề cao vai trò Nhật ở Châu Á đồng thời xoá bỏ vai trò Khơ–me đỏ, con chủ bài của Trung Quốc trong vấn đề Campuchia… ngày 4 và 5/6/1990 ở Tokyo đã có cuộc họp giữa các bên Campuchia và đã ra được Thông cáo chung Hun– xen–Sihanouk thỏa thuận một cuộc ngừng bắn tự nguyện đồng thời với việc lập ra Hội Đồng Dân Tộc Tối Cao gồm số người của 2 bên ngang nhau (6+6), nhưng Trung Quốc không dám công khai phản đối nên cố kéo ta cùng có lập trường khác với Thông cáo Tokyo. • Trung Quốc đưa ra dự kiến giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước nhằm giành cho Trung Quốc vai trò trung tâm và chủ động trong cả quá trình giải quyết vấn đề CPC, qua đó khẳng định các vấn đề Châu Á không thể chỉ Mỹ và Liên Xô giải quyết mà không có Trung Quốc. Trung Quốc xem đàm phán với ta là bước mở đầu có tính quyết định của “kế hoạch 5 bước” để giải quyết vấn đề Campuchia, vì Trung Quốc cho rằng Liên Xô không ép được Việt Nam, chỉ có Trung Quốc dùng đòn bẩyvề bình thường hoá quan hệ với Việt Nam mới ép được Việt Nam xoá bỏ hoặc hạn chế đến mức thấp nhất chính quyền Nông Pênh. • Trong quan hệ với ta, Trung Quốc luôn có hai giới hạn: một đàng là Trung Quốc muốn không làm gì với Việt Nam gây ảnh hưởng bất lợi đến quan hệ với Mỹ, phương Tây, ASEAN; một đàng là Trung Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 77/194 Quốc cũng không muốn tỏ ra quá căng với Việt Nam làm cho vấn đề Campuchia không thể sớm giải quyết được, đồng thời duy trì quan hệ căng thẳng với Việt Nam không phù hợp với lợi ích Trung Quốc lúc này là tạo hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc ổn định nội bộ thực hiện “4 hiện đại”. Nghe xong bản báo cáo và kiến nghị của Bộ Ngoại Giao, BCT chưa có ý kiến ngay mà bàn tới diễn biến của cuộc đàm phán vừa qua. Về vụ to tiếng giữa anh Thạch và Từ Đôn Tín chiều 13/6, anh Đào Duy Tùng nói “Cần phải nói lại mạnh mới được”. Còn anh Đồng Sĩ Nguyên nói: “Nếu anh không phản ứng mạnh thì chúng tôi không thể hiểu nổi”. Về việc anh Lê Đức Anh và anh Linh gặp Trương Đức Duy trước khi ta và Trung Quốc đàm phán, anh Tô phát biểu: “Trong cuộc họp BCT bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã nói 3 lần là không được hớ phải rất thận trọng với trung Quốc. Đằng này anh lại ngửa bài trước để họ biết hết và kết quả là điều đã xảy ra. Trung Quốc họ nghĩ theo kiểu Đại Hán của họ và kết quả là họ ép mình. Ngoại giao như đánh bài phải giữ thế, không phải lúc nào cũng lật hết lá bài ra. Không thể đưa ngực ra cho nó biết”. Khi anh Lê Đức Anh nói có ý thanh minh sở dĩ anh nói “giải pháp đỏ” với đại sứ Trung Quốc là vì Campuchia nhờ ta thăm dò Trung Quốc, anh Võ Văn Kiệt nói: “Nhưng ta thăm dò thật thà quá! Anh Võ Chí Công nói: “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích quốc tế của xã hội chủ nghĩa. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Anh Lê Đức Thọ, ngày 12/6, khi nghe báo cáo nội dung trả lời của Trung Quốc về các đề nghị của anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh, đã có ý kiến: “Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đã làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên gặp”. (Anh Lê Đức Thọ lúc này đang ốm nặng, nằm ở nhà). Ngày 12/6, khi dặn dò anh Đặng Nghiêm Hoành, đại sứ ta ở TQ, anh Lê Đức Anh lại nói: “Anh Linh nói chuyện với Trương Đức Duy cũng có đôi chỗ thật lòng quá. Nhưng cũng không phải vì thế mà nó Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 78/194 cho là mình yếu” (?). Tôi nghĩ, xét cho cùng nội bộ ta lúc này đã có hai cách đánh giá về Trung Quốc, cũng như có hai cách đánh giá về cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô nên đã có hai cách xử sự khác nhau. Từ Đôn Tín nói ta có “hai tiếng nói trái ngược”, “không biết cái nào giả, cái nào thật” và khuyên Bộ Ngoại Giao nên nhất trí với ý kiến của lãnh đạo cấp cao”, như thế có nghĩa là Trung Quốc đã biết nội bộ ta đã có kẽ hở mà họ không dại gì bỏ qua không lợi dụng để giành lợi cho họ. Ngày 25/6/1990 TBT Nguyễn Văn Linh từ Thành phố Hồ Chí Minh điện ra cho Bộ Chính Trị tôi đã đọc biên bản cuộc họp BCT 19/6/1990, có một số ý kiến sẽ phát biểu sau. Anh không đồng ý thông báo cho Trung ương và các cấp ủy về điều tối mật (tức là những điều Lê Đức Anh đã nói với Trương Đức Duy ngày 6/6/1990 mà chỉ thông báo rằng cuộc họp Việt– Trung vừa qua không có kết quả là do Trung Quốc phá. Ngoại giao cần có cách giải thích cho dư luận theo hướng trên. Ngoại giao theo dõi khi Trung Quốc lộ ra những điều mà ta lấy tình bạn nói với họ thì phủ nhận ngay, không để chậm. Đợt đàm phán tháng 6/1990 không kết quả, nhưng TQ không cắt cầu như các lần trước mà để thực hiện ý đồ… đại sự! Như vậy, sau khi đàm phán thất bại đã có hàng loạt hành động tiến hành song song; hai bên vừa tiếp tục nói chuyện với nhau, vừa công kích nhau trên mặt trận dư luận. Để giành chủ động trong việc tranh thủ dư luận quốc tế, ngày 21/6/1990, dưới hình thức trả lời phỏng vấn của Việt Nam Thông Tấn Xã, tôi đã nêu rõ nguyên nhân khiến cuộc nói chuyện với TQ không tiến triển được chỉ vì VN kiên quyết tuân thủ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ CPC, cản trở chính cho giải pháp CPC là việc Trung Quốc vẫn cố bám giữ bọn diệt chủng Polpot. Song điều khiến Trung Quốc cay cú nhất là tôi đã vạch “Trung Quốc không tán thành Thông cáo Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 79/194 chung Tokyo nhưng không muốn đơn phương một mình chống lại. Họ muốn Việt Nam và Trung Quốc cùng có một lập trường trái với Thông cáo chung Tokyo”. Vì vậy ngay sau đó, tờ Nhân Dân Nhật Báo Bắc Kinh ngày 5/7/1990 đã có ngay bài “Kế hoạch một hòn đá ném hai đích của Hà Nội” của Thái Tích Mai, Tân Hoa Xã, phản ứng ngay về bài đó, nói Trần Quang Cơ định “dụ dẫn nhân dân thế giới vào cái bẫy của họ bằng hàng loạt sách lược một hòn đá nhằm hai cái đích”. Ý đồ thứ nhất của Hà Nội là thông qua việc ngừng bắn tại chỗ để che đậy về việc quân đội VN vẫn có mặt ở CPC. Ý đồ thứ 2 của Hà Nội là thành lập HĐDTTC trong khuôn khổ Nông Pênh. Ý đồ thứ 3 là lấy cuộc đối thoại giữa hai chính quyền thay thế nguyên tắc 4 bên. Hiểm độc nhất là Trung Quốc đã thông báo khá rộng rãi với các nước những điều Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh nói riêng với Trương Đức Duy về “giải pháp đỏ” và đoàn kết xã hội chủ nghĩa nhằm gây ấn tượng xấu về ta đối với các nước quan tâm đến vấn đề CPC, kể cả Liên Xô và các nước bạn khác của ta. Sáng 26/6/1990, đại sứ CHLB Đức khi gặp Vụ Châu Âu II BNG79 ta cho biết là ngày 22/6 Trung Quốc đã thông báo cho đại sứ các nước Thị trường chung Châu Âu ở Bắc Kinh nội dung cuộc hội đàm giữa Từ Đôn Tín và tôi, và đưa ra kết luận: Việt Nam là những người rất xảo trá, rất xấu xa và rất cứng rắn. Họ chỉ muốn Hun–xen độc quyền. Họ không chịu nhân nhượng bất cứ điều gì… Ông Nguyễn Cơ Thạch là người xảo quyệt, rất cứng rắn và căm thù Trung Quốc cao độ. Tuy nhiên, theo chủ trương kiên trì thúc đẩy bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích chiến lược của ta, trong thời gian này hàng tuần tôi vẫn gặp trao đổi ý kiến với đại sứ Trung Quốc để giữ cầu. 79 Bộ Ngoại Giao Hồi ức và Suy nghĩ Trần Quang Cơ 80/194 Một sự chọn lựa thiếu khôn ngoan. Trong cuộc gặp tôi ngày 25/6/1990 ở Bộ Ngoại Giao, không hiểu sao Trương Đức Duy đã đọc lại toàn văn trả lời của lãnh đạo Trung Quốc gửi lãnh đạo Việt Nam và nói là bản này “chính xác hơn” (so với bản mà Từ Đôn Tín đã chuyển ngày 12.6) (?), trong đó đoạn cuối về CPC đã sửa lại là: “Vấn đề Campuchia đã kéo dài 11 năm, trở thành vấn đề quốc tế trọng đại mà cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN , rất chú trọng. Chúng tôi cho rằng việc này cần làm gấp. Trước mắt là hai bên Trung Quốc–Việt Nam nên đi đến thỏa thuận càng sớm càng tốt về một số mặt quan trọng trong giải pháp chính trị về vấn đề CPC để thúc đẩy và tăng cường hơn tiến trình giải quyết toàn diện vấn đề CPC. Bước này đi tốt thì có lợi cho việc suy tính những vấn đề của bước sau và tạo điều kiện cần thiết cho cuộc gặp cấp cao Trung Quốc–Việt Nam, và tạo sự hoà giải nội bộ Campuchia”. Thực ra nội dung không có gì khác, chỉ là lời lẽ được sửa lại cho bớt giọng xấc xược ngạo mạn. Ngày 2/8/90. trước khi họp BCT, Tổng bí thư hỏi Nguyễn Cơ Thạch có nên nhắc lại TQ về gặp cấp cao và nói “giải pháp đỏ”. Vào cuộc họp, Thạch nói TQ đã 3 lần bác bỏ “giải pháp đỏ”. Anh Võ Chí Công nói thêm: đó chỉ là ảo tưởng, ngây thơ. Trong cuộc gặp Trương ngày 5/8/1990, tôi đã nêu lại những điểm mà hai bên đã có được sự nhất trí và những điểm tồn tại về vấn đề CPC, đồng thời nói rõ lập trường của VN về vấn đề vai trò LHQ và về việc lập HĐDTTC CPC. Tôi nhấn mạnh lập trường nguyên tắc của VN là công việc nội bộ của CPC chỉ có thể do người CPC quyết định. Trương Đức Duy đồng ý là những vấn đề nội bộ CPC phải thuộc chủ quyền của CPC, nhưng lại cho rằng nếu không có sự can thiệp của bên ngoài thì sẽ khó có được giải pháp toàn diện. Qua trao đổi, đại sứ TQ đã phải thừa nhận là các nước khác có thể bàn nhưng phải là người CPC quyết định thì mới thực hiện được. Về quan hệ hai """