"Hồi Ký Chính Trị - Dr Mahathir Moham PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồi Ký Chính Trị - Dr Mahathir Moham PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo MAHATHIR MOHAMAD HỒI KÝ MAHARTHIR MOHAMAD Bản quyền tiếng Việt © 2013 Công ty Sách Alpha 1. TRỞ THÀNH THỦ TƯỚNG Tôi trở thành Thủ tướng thứ tư của Malaysia vào ngày 16 tháng 7 năm 1981. Giống như các nhà lãnh đạo tiền nhiệm trong Đảng Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất (UMNO), tôi từng mơ ước trở thành thành viên trong Nội các, thậm chí mơ trở thành Thủ tướng. Nhưng tôi không thể tin rằng có ngày giấc mơ đó sẽ trở thành hiện thực. Trước giây phút đứng đối diện Quốc vương chờ tuyên thệ, tôi vẫn là ứng viên có rất ít khả năng đạt được vị trí cao nhất đất nước này. Những người có lá phiếu quyết định luôn lưỡng lự khi bầu cho tôi vì tôi không xuất thân từ tầng lớp quyền quý Mã Lai. Tunku Abdul Rahman Putra Al-haj, Thủ tướng đầu tiên của Malaysia là một thái tử, con trai của Tiểu vương Kedah (nay là một bang nằm ở vùng đông bắc bán đảo Malaysia). Ông cũng là nguyên Phó Ủy viên Công tố và Thanh tra Giáo dục ở bang này. Dòng họ Tunku được tất cả các tầng lớp xã hội nhắc đến đầy thiện cảm và thường có nhiều người đứng đầu các Bộ trong các ngành dân chính ở Kedah. Con đường tiến tới chức vụ Thủ tướng của ông không hề đi ngược với những tục lệ xã hội Mã Lai thời đó. Thủ tướng thứ hai của Malaysia, Tun Abdul Razak Hussein xuất thân từ gia tộc có nhiều chính khách xuất chúng. Cha ông là công chức cấp cao trong chính quyền bang Pahang, một bang nằm ở vùng bờ biển phía đông của bán đảo Malaysia. Bản thân Tun Razak cũng là ngoại trưởng bang Pahang trước khi ông tham dự nền chính trị quốc gia. Sau khi Liên bang Mã Lai được thành lập năm 1948, ông trở thành Thủ hiến bang. Nắm giữ vị trí thứ hai trong đảng UMNO, ông trở thành Phó Thủ tướng và là người kế nhiệm đương nhiên của Thủ tướng Tunku. Cũng như Tun Razak ở bang Pahang, người tiền nhiệm của tôi là Tun Hussein Onn cũng thuộc dòng dõi quyền quý của bang Johor, một bang miền nam bán đảo Malaysia. Ông cũng như các thành viên trong gia đình rất thân với cung điện Johor. Ông và cha ông từng là Thủ hiến bang Johor. Với họ, việc nắm quyền lãnh đạo là truyền thống của gia đình. Tôi thì khác. Tôi có xuất thân bình dân – là con trai của một giáo viên phổ thông với mức lương 90 Ringgit mỗi tháng (tính theo thời điểm tôi bắt đầu tham gia chính trị). Người Mã Lai thời đó vẫn rất phong kiến và không vượt lên thân phận của họ. Nhưng tôi đã phá bỏ được rào cản tư tưởng này, mở đường cho họ hướng tới vị trí Thủ tướng của đất nước. Ngày nay, một người bình thường khi trở thành Thủ tướng cũng được kính trọng như bất kỳ Thủ tướng nào xuất thân từ các tầng lớp quyền quý khác. Ba Thủ tướng đầu tiên của Malaysia đều là luật sư được đào tạo ở London. Tôi là bác sĩ y khoa tốt nghiệp trường Đại học Mã Lai ở Singapore. Riêng điều đó đã gây bất lợi cho tôi. Y học không được coi là chuyên môn phù hợp cho chức vụ Thủ tướng. Các luật sư được coi là thích hợp cho chức vụ này bởi việc quản lý liên quan đến các hoạt động lập pháp. Các bác sĩ không được đào tạo chuyên sâu về luật pháp và quản lý. Tôi cũng là kẻ nổi loạn, hay phá rối và không có người bảo hộ. Năm 1969, tôi bị khai trừ khỏi Đảng UMNO vì dám chỉ trích Thủ tướng Tunku. Chỉ riêng điều này cũng có thể chấm dứt sự nghiệp chính trị của tôi. Trước tôi, cũng đã có người phải trải qua cảnh ngộ tương tự. Aziz Ishak, cựu Bộ trưởng Nông nghiệp, người thuộc Nội các của Thủ tướng Tunku, đã xúc tiến thành lập xí nghiệp giống cây trồng nhằm giúp những nông dân Mã Lai vốn vẫn luôn bị phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài. Tunku không hài lòng vì điều này. Ông không muốn làm mất lòng các công ty giống cây trồng ngoại quốc và ông đã loại Aziz khỏi Nội các. Ông thậm chí còn khai trừ Aziz khỏi Đảng UMNO và không bao giờ cho phép tái gia nhập. Tôi may mắn hơn Aziz. Cuối cùng tôi cũng được khôi phục đảng nhưng lý lịch đã từng gây rối luôn cản trở tôi nắm giữ những chức vụ cao trong Đảng hoặc trong chính phủ. Không có các mối quan hệ gia đình với các quan chức quyền quý và với xuất thân bình dân, tôi sẽ khó tiến xa. Tuy nhiên, Thủ tướng Tun Razak đã là người bảo trợ chính trị cho tôi. Ông không hề để tâm đến hành vi của tôi với Tunku và đã giúp tôi rất nhiều khi chính thức bổ nhiệm tôi làm Bộ trưởng sau khi tôi giành được ghế tại Quốc hội trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1974. Mãi gần đây, ở Malaysia vẫn còn quy định chính trị ngầm rằng, một người trước khi chính thức trở thành Bộ trưởng phải là đại biểu Quốc hội và sau đó là Thứ trưởng. Tôi đã bỏ qua hai giai đoạn “học nghề” này. Điều dễ hiểu là một số người trong Đảng UMNO có chức vụ cao hơn tôi đã không chấp nhận bước đi tắt này của tôi. Thậm chí Thủ tướng Tun Razak cũng cho rằng, tôi có rất ít cơ hội để trở thành Thủ tướng. Khi ông mất vào năm 1976, tôi đã mất đi nhà bảo trợ chính trị duy nhất của mình. Ngay cả khi Thủ tướng Tun Razak còn sống, tôi cũng phải vận động tranh cử hết sức thận trọng. Một người bạn của tôi là Datuk Harun Idris, Thủ hiến bang Selangor miền trung Malaysia, người đã giúp tôi trở lại Đảng UMNO sau khi tôi bị khai trừ, cũng cho rằng, tôi đã làm mất cơ hội trở thành phó Chủ tịch Đảng UMNO trong cuộc bầu cử năm 1975 của ông. Tôi cũng cùng tranh cử năm đó và tôi đã đánh bại ông. Harun và các con ông không bao giờ tha thứ cho tôi, nhưng tôi cũng không bao giờ quên những gì ông đã làm cho tôi. Về sau, ông phải ra hầu toà và bị kết tội tham nhũng, nhưng tôi đã ân xá cho ông trong suốt thời gian tôi làm Thủ tướng. Năm 1986, Harun và con trai ông đã ủng hộ Tengku Razaleigh Hamzah, người về sau trở thành Phó Chủ tịch Đảng UMNO, khi Tengku Razaleigh và tôi cùng tranh cử chức Chủ tịch Đảng UMNO trong cuộc bầu cử của đảng năm đó. Ngay cả khi có sự ủng hộ của Thủ tướng, bạn cũng không có được sự ủng hộ của các thành viên cấp cao trong đảng. Khi Tun Hussein bổ nhiệm tôi làm Phó Thủ tướng năm 1976, tôi luôn phải đối mặt với sự phản đối của các thành viên có chức vụ cao trong đảng như Lãnh đạo Tổ chức thanh niên Tan Sri Syed Jaafar Hassan Albar, người đã chết vì bệnh tim khi đang vận động tranh cử ở bang Johor. Ngay sau khi tôi được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng, hai người bạn thân của tôi đã bị bắt vì bị cáo buộc là những người thân cộng sản. Tan Sri Abdullah Ahmad và Abdullah Majid là hai Thứ trưởng trong chính phủ của Thủ tướng Tun Hussein. Abdullah Ahmad từng là Trợ lý chính trị và là bạn của Thủ tướng Tun Hussein. Ông cũng là một trong những người ủng hộ tôi mạnh mẽ nhất. Dường như thế vẫn chưa đủ, ba ngày trước khi tôi tuyên thệ trở thành Thủ tướng, Trợ lý chính trị của tôi, Siddiq Ghouse, bị bắt vì bị cáo buộc có liên quan đến các hoạt động gián điệp. Bộ trưởng nội vụ khi đó là Tun Ghazali Shafie nói rằng, Siddiq là gián điệp cho KGB của Liên Xô. Tôi không phải là Phó Thủ tướng con nhà dòng dõi, lại là người có Thư ký chính trị là “gián điệp” và là người có nhiều bạn “thân cộng sản”. Con đường thăng tiến của tôi trong đảng gần như chấm hết. Tuy nhiên, không chỉ mình tôi bị phản đối như vậy. Tun Hussein cũng bị công kích khi Thủ tướng Tun Razak bổ nhiệm ông làm Phó Thủ tướng. Một số lãnh đạo của Đảng UMNO coi ông là người ngoại đảng vì mãi đến năm 1964 ông mới tái gia nhập Đảng UMNO sau 17 năm ông và cha ông, Dato’ Onn Jaafar, người sáng lập Đảng UMNO, rời khỏi đảng này để thành lập Đảng độc lập Mã Lai. Chính Thủ tướng Tun Razak là người đưa Tun Hussein trở lại với Đảng UMNO. Hai người lấy hai chị em ruột, vì vậy, họ có mối liên hệ rất thân thiết với nhau. Tun Hussein trở thành Bộ trưởng Giáo dục và con đường thăng tiến của ông rất rộng mở. Sau này, việc ông chọn tôi làm Phó Thủ tướng được coi là quyết định khờ dại, phần vì tôi có liên quan tới một số người bị coi là cộng sản. Nhưng Thủ tướng Tun Hussein là người cương trực, ông đã từng làm việc với người Anh. Không ai có thể tin rằng, ông có thể có bất kỳ sự dính líu nào với chủ nghĩa cộng sản. Hơn nữa, Tun Hussein dần dần đã khống chế được những người mà ông nghi ngờ có khuynh hướng theo phe cánh tả, bất chấp họ có chỗ đứng trong Đảng UMNO và thân cận với Thủ tướng tiền nhiệm Tun Razak. Tôi vẫn băn khoăn không hiểu tại sao ông lại chọn tôi làm phó cho ông. Bản thân ông biết rất ít về tôi. Có lẽ vì ông biết về Tun Ghafar Baba, người cùng tranh cử với tôi trong cuộc bầu cử của Đảng UMNO và giành được số phiếu bầu cao nhất trong 3 vị trí phó chủ tịch Đảng, còn ít hơn tôi. Về thái độ của Thủ tướng Tun Hussein đối với phó Chủ tịch Đảng UMNO, ông Tengku Razaleigh Hamzah, thì tôi chỉ có thể đoán. Có lẽ, sự vụ xảy ra khi Tun Hussein còn là Bộ trưởng Tài chính kiêm Phó Thủ tướng đã khiến Tengku Razaleigh Hamzah mất điểm. Tengku Razaleigh khi còn là Giám đốc Công ty Dầu khí Quốc gia PETRONAS và Giám đốc Tập đoàn Pernas, tập đoàn thương mại quốc gia (nay là Tradewinds Corporation) đã đề nghị cấp 100 triệu Ringgit cho mỗi công ty, nhưng ông báo cáo trực tiếp lên Thủ tướng Tun Razak mà không thông qua Bộ trưởng Tài chính Tun Hussein. Có lẽ Tun Hussein không thể quên được sự vụ này. Tôi cho rằng, ông không có nhiều lựa chọn khi ông chọn phó cho mình và có lẽ cách nhìn nhận của cựu Thủ tướng Tun Razak đối với tôi vẫn còn ảnh hưởng đối với ông. Đã có lần ông nói với tôi, cựu Thủ tướng Tun Razak đã khuyên ông chọn tôi nếu cần sự trợ giúp. Số phận đã mỉm cười đối với tôi. Khi Tun Dr Ismail Abdul Rahman, người mà Thủ tướng Tun Razak bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng cho ông, qua đời, Tun Hussein trở thành Phó Thủ tướng. Không lâu sau, Tun Razak cũng qua đời và Tun Hussein trở thành Thủ tướng. Sức khỏe ốm yếu đã khiến Tun Hussein không thể làm Thủ tướng được nữa. Ông đã từ chức vào tháng 7 năm 1981. Con đường thăng tiến của tôi được coi là nhanh, nhưng tôi phải mất 18 năm để trở thành nghị sĩ và mất 28 năm để trở thành Bộ trưởng. Những ngày đầu tiên đó, tôi không hề biết đến những phi vụ chính trị được vận động bằng tiền bạc và tôi cũng không sử dụng tiền để giành được vị trí mà tôi có. Ngay cả khi tiền bạc được sử dụng trong các chiến dịch chống lại tôi, tôi vẫn cố chiến thắng mà không hề nhận hối lộ. Tôi biết ơn sự dân chủ trong Đảng UMNO, điều đi ngược với bản chất phong kiến của người Mã Lai. Năm 1969, tôi dám đương đầu với Thủ tướng Tunku bởi tôi cảm thấy mình nhận được sự ủng hộ của người dân. Dù bị khai trừ, tôi vẫn có thể tái gia nhập Đảng UMNO cũng nhờ sự ủng hộ này. Tuy nhiên, tôi được chọn làm Phó Thủ tướng bởi một nhà lãnh đạo không nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong đảng. Hiển nhiên là tôi đã có khoảng thời gian không hề dễ dàng và Tun Hussein có thể không bảo vệ tôi nhiều. Tun Hussein cần Tun Razak ủng hộ khi ông được chọn làm Phó Thủ tướng. Khi Tun Razak chết, Tun Hussein không còn nền tảng vững chắc của người dân. Việc bắt giữ những người bị coi là thân cộng sản trong đảng như một dấu hiệu cho thấy vị trí của ông sẽ bị ảnh hưởng bởi những người cộng sản. Ông đồng ý gây áp lực với những người bị bắt giữ có thể là biện pháp tốt giúp vực dậy vị thế chính trị yếu kém của chính ông. Chính quyền của ông đã bị ám ảnh bởi những hồn ma cộng sản do những kẻ hay nói xấu ông tung ra với hy vọng ông sẽ bị hạ bệ hoặc phải từ chức sớm, gây ra cuộc chiến trong giới lãnh đạo Đảng UMNO. Ngoài việc không thể kiểm soát được những toan tính nhằm hạ bệ mình trong nội bộ Đảng UMNO, Thủ tướng Tun Hussein cũng phải đối mặt với những thách thức từ phía những người Hoa. Dưới Chính sách kinh tế mới (NEP), Luật hợp tác công nghiệp (ICA) năm 1975 quy định rằng, các công ty phải chia 30% cổ phần của họ cho người Bumiputera. Hầu hết các công ty của người Hoa thời đó là công ty tư nhân, họ phản đối chia cổ phần cho người Bumiputera, những người hoàn toàn xa lạ đối với họ. Nhưng luật là bất di bất dịch và những doanh nhân người Hoa vận động chống đối chính phủ. Họ cũng đòi thành lập một trường đại học dạy bằng tiếng Hoa. Để thực hiện được Chính sách kinh tế mới, chỉ tiêu dành cho người Bumiputera trong các trường đại học của chính phủ được nâng lên. Điều này khiến những học sinh người Hoa và người Ấn Độ càng có ít cơ hội được vào đại học. Đối với những người giàu, điều này sẽ không gây ra vấn đề gì khi họ có thể ra nước ngoài học. Nhưng cơ hội để đạt được kiến thức cao hơn đối với những người nghèo không phải là người Mã Lai bị giảm rất nhiều do hệ thống chỉ tiêu này. Hồi đó chúng tôi vẫn chưa có những trường đại học tư hoặc các viện giáo dục không thuộc hệ thống đại học. Nhiều người Hoa hoàn thành trung học phổ thông bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ nên nhu cầu cần có trường đại học dạy bằng tiếng Hoa tăng lên nhanh chóng. Được nhóm Dong Jiao Zong (Hiệp hội giáo viên trung học người Hoa thống nhất ở Mã Lai) lãnh đạo, cộng đồng người Hoa đứng lên chống đối. Cả Thủ tướng Tun Hussein và tôi đều lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tôi khi đó là Bộ trưởng Giáo dục và vấn đề này tôi phải quyết định. Nếu tôi đồng ý với những yêu sách của cộng đồng người Hoa, tôi sẽ làm mất lòng những người Mã Lai ủng hộ tôi, nhưng nếu từ chối họ, tôi sẽ khiến Đảng người Mã gốc Hoa (MCA) và đảng Phong trào nhân dân Malaysia (Gerakan) – các đảng đối tác người Hoa của UMNO trong Mặt trận quốc gia cầm quyền – yếu đi. Không giống như người Mã Lai, hầu hết người Hoa bỏ phiếu vì những vấn đề cụ thể hơn là vì mối quan chính trị của họ. Về vấn đề thành lập trường đại học dạy bằng tiếng Hoa, kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, những người ủng hộ Đảng MCA và Đảng Gerakan sẽ ủng hộ Đảng Dân chủ hành động (DAP) đối lập. Họ trung thành với dòng dõi hơn là với đảng. Ví như, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1969, những cử tri người Hoa trong khu vực bầu cử của tôi đã bỏ phiếu cho Đảng Hồi giáo Liên Malaysia (PAS) chỉ đơn giản vì họ muốn đảm bảo rằng, một nhân vật bị coi là “người Mã Lai cực đoan” như tôi sẽ không chiến thắng. Đôi khi, sự lựa chọn của các cử tri thiểu số ở Malaysia lại có vai trò quyết định mà không ai dám mạo hiểm bỏ qua. Trong hoàn cảnh bất ổn này, một số người Hồi giáo cực đoan Mã Lai cũng gây ra nhiều vấn đề. Ngày 26 tháng 5 năm 1979, một nhóm vài người Hồi giáo cực đoan đã báng bổ các thánh đường của những người theo đạo Hindu, phá một thánh đường ở Selangor để bố trí các lính bảo vệ có vũ trang. Khi những kẻ gây rối này đến, họ bị đánh trả và bốn người bị chết. Điều này đã kích động sự phản ứng mạnh mẽ trong cộng đồng người Mã Lai và kích động tinh thần chống Ấn lan toả mạnh mẽ ngay cả khi chính phủ đã bắt và xử lý những người liên quan. Điều đáng lo ngại và là dấu hiệu cho thấy sự việc còn tiếp diễn trong tương lai là những thanh niên Mã Lai đã từng kích động phản ứng của người Ấn Độ không phải là những thanh niên nghèo ở nông thôn, phẫn uất vì bị chặn đứng mọi cơ hội, mà là những sinh viên trẻ từng được đào tạo ở nước ngoài. Ngày 16 tháng 10 năm 1980, tại Batu Pahat, bang Johor, một nhóm người Hồi giáo Mã Lai lầm đường lạc lối khác đã tấn công một đồn cảnh sát. Họ đã bị dẹp lui và 8 người trong số họ thiệt mạng. Tuy nhiên, vụ việc này đã đánh dấu vấn đề đang nổi lên trong những lời giáo huấn sai lệch của những người Hồi giáo ở Malaysia. Một sự vụ tương tự nhưng nghiêm trọng hơn xảy ra vào cuối năm 1985 khi một người đàn ông tự xưng là Ibrahim Libya và những người dị giáo theo anh ta đã tổ chức một cuộc nổi dậy ở Memali, bang Kedah. Trên cương vị Thủ tướng, Tun Hussein phải đối mặt với vấn đề khó khăn nhất là giải quyết vụ tham nhũng liên quan đến Harun Idris. Harun Idris là Thủ hiến bang Selangor cũng là nhà lãnh đạo Tổ chức thanh niên của Đảng UMNO. Ông rất nổi tiếng với tính cách thẳng thắn, bộc trực của người Mã Lai. Không nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ trong đảng và có những đối thủ nhiều quyền lực trong Đảng UMNO, Tun Hussein sẽ phải thận trọng khi đối phó với Harun. Nhưng Tun Hussein đã thẳng thắn điều tra vụ việc. Tầng lớp thanh niên theo Đảng UMNO phản đối ông mạnh mẽ. Tôi không còn sự lựa chọn nào khác ngoài ủng hộ ông, dù tôi biết rằng, nếu ông mất chức, tôi có thể cũng mất chức theo ông. Tuy nhiên, Thủ tướng Tun Hussein là người quyết đoán. Ông không hề để ý đến sự phản ứng của những thanh niên theo Đảng UMNO, thậm chí ông còn sẵn sàng chuẩn bị điều động lực lượng cảnh sát khi Harun từ chối đầu hàng. Làn sóng phản đối Tun Hussein tiếp tục tăng, nhưng chiến thắng của Mặt trận quốc gia cầm quyền trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1978 đã giúp ông bảo vệ được vị trí của mình. Phấn khích do chiến thắng này, Hussein quyết định tổ chức bầu cử trong Đảng UMNO để củng cố vị trí Chủ tịch đảng của mình. Ông phải tranh cử cùng một thành viên Đảng UMNO là Haji Sulaiman Palestine, một nhân vật thông minh, năng động. Sulaiman đã từng sống ở Palestine trong những năm tháng tuổi trẻ, cái tên Palestine của ông cũng bắt nguồn từ đó. Ông khiến người ta kinh ngạc khi có thể nói tiếng Do Thái cổ thành thạo. Con người theo chủ nghĩa dân tuý này có khả năng hùng biện lôi cuốn, nhưng Tun Hussein đã chiến thắng với cách biệt rõ rệt. Tôi không phải tranh cử với ai nên vẫn giữ vị trí Phó Chủ tịch đảng. Mối đe doạ đối với Tun Hussein và tôi được đẩy xa dần. Tuy nhiên, quan hệ của tôi với Tun Hussein đôi lúc cũng căng thẳng. Ông từ chối một số đề nghị của tôi và không hài lòng khi tôi dám mạo hiểm đưa ra những đề nghị đó. Càng ngày càng thất vọng, cuối cùng tôi không đưa ra ý kiến của mình nữa. Tôi không muốn làm ông bực tức và không muốn làm mất đi cơ hội trở thành Thủ tướng của mình. Sau đó, vào năm 1981, Thủ tướng Tun Hussein bất ngờ thông báo cho Nội các rằng, ông chuẩn bị tới Anh để chữa trị bệnh tim. Chúng tôi đều biết ông không được khỏe, nhưng chúng tôi không nghĩ rằng bệnh tim của ông nghiêm trọng đến mức phải phẫu thuật (ngày đó người ta coi phẫu thuật là nghiêm trọng hơn bây giờ nhiều). Ca phẫu thuật đã thành công, nhưng Tun Hussein vẫn không được khỏe sau khi về nước. Ông phải tạm nghỉ và tôi xung phong đảm nhiệm thêm những công việc của ông. Một ngày giữa năm 1981, sau cuộc họp tại dinh thự của ông, ông đề nghị tôi ở lại. Ông nói với tôi rằng, ông không thể tiếp tục đảm đương công việc được nữa và muốn từ chức. Tôi một lần nữa đề nghị làm phần việc của ông trong thời gian ông nghỉ ngơi, nhưng ông rất kiên quyết khi nói rằng ông đã quyết định tôi sẽ là người thay thế ông. Tôi giữ kín thông tin này và đợi Thủ tướng Tun Hussein chính thức thông báo trước mọi người. Ngày 15 tháng 5 năm 1981, Tun Hussein tuyên bố quyết định của ông trước tổ chức Đảng UMNO ở thành phố Johor Baru. Hàng nghìn đảng viên tham dự cuộc họp thường niên đã bị sốc khi ông tuyên bố sẽ không tham gia tái tranh cử chức vụ Chủ tịch đảng và sẽ từ chức Thủ tướng. Ngay sau đó, ông thông báo trước Nội các và công bố trước công chúng rằng, ông có ý định từ chức Thủ tướng. Đảng UMNO kế hoạch tổ chức bầu cử Đảng tại Hội nghị toàn thể thường niên vào ngày 28 tháng 6 năm đó. Tôi chấp thuận sự chỉ định vào chức vụ Chủ tịch đảng chỉ khi biết rõ Tun Hussein sẽ không tham gia tranh cử. Vì không có ứng viên nào nổi bật nên tôi sẽ trở thành Chủ tịch đảng vào ngày 28 tháng 6, ngày Tun Hussein sẽ chính thức từ chức. Tâm điểm của sự quan tâm là cuộc tranh đua vào chức vụ Phó Chủ tịch thường trực của đảng. Có 2 ứng viên, Tengku Razaleigh và Tun Musa Hitam, người từng là Phó Thủ tướng nhiệm kỳ 1981 – 1986, cả hai đều là Phó Chủ tịch của UMNO. Hội nghị toàn thể thường niên của UMNO năm đó được tổ chức tại hội trường Nirwana của khách sạn Hilton, vì toà nhà trụ sở của Đảng UMNO vẫn chưa được xây dựng xong. Hội trường chật kín đại biểu cùng các quan sát viên và các vị khách mời. Sau phần công tác tổ chức, Thủ tướng Tun Hussein bước lên diễn đàn, trình bày bài phát biểu ngắn mà theo thông lệ của Đảng UMNO thì đó cũng là bài phát biểu khai mạc Hội nghị. Phát biểu trước đám đông đang rất trật tự, ông tuyên bố rằng, sau khi tham khảo ý kiến của tôi, ông đã quyết định từ chức Thủ tướng vào ngày 16 tháng 7. Điều này có nghĩa là trong vòng 17 ngày, Thủ tướng sẽ không còn là Chủ tịch Đảng UMNO hoặc ngược lại Chủ tịch Đảng UMNO sẽ không còn là Thủ tướng nữa. Mặc dù điều này trái với truyền thống, nhưng nó không phải là vấn đề trọng đại nên không ai phát biểu phản đối cả. Mọi cặp mặt hướng về Tun Hussein khi ông bước xuống diễn đàn sau bài phát biểu. Tiếng vỗ tay vang lên và ông bắt tay các thành viên của Hội đồng tối cao trước khi bước về chỗ của mình. Hội nghị tạm dừng. Tất cả các thành viên của Hội đồng tối cao trở về phòng VIP để nghỉ ngơi và dùng cà phê. Tun Hussein không ở lại lâu. Các đảng viên Đảng UMNO xúm quanh ông khi ông bước tới cổng vào phía dưới của khách sạn, từ đó Hội đồng tối cao đứng tiễn ông. Sau đó, các đảng viên vây quanh tôi để chúc mừng. Đây là cơ hội tốt để họ thể hiện sự ủng hộ đối với tôi mặc dù tôi không chắc rằng bao nhiêu người trong số họ thực sự chân thành. Hội nghị tiếp tục với phần bầu Phó Chủ tịch thường trực, các Phó Chủ tịch và các vị trí khác. Ở Đảng UMNO, bất kỳ ai trở thành Phó Chủ tịch thường trực của đảng cũng đều trở thành Phó Thủ tướng. Vì vậy, đương nhiên cuộc tranh cử giữa Tengku Razaleigh và Tun Musa sẽ thu hút được sự chú ý nhất. Tôi quyết định sẽ làm việc với bất kỳ ai giành thắng lợi. Tôi không thể nỗ lực ủng hộ một trong hai người vì nếu ứng viên tôi ủng hộ thất bại, tôi sẽ phải ở lại cùng cấp phó đối lập. Giữ công bằng, không ra mặt ủng hộ ai là rất quan trọng đối với tôi, bởi vì tôi muốn hòa hợp với cấp phó của tôi. Tôi không giữ được mối quan hệ tốt với Tun Hussein và tôi cảm giác rằng, điều này lý giải tại sao một số đề xuất tôi đưa ra đều bị từ chối. Tuy vậy, thái độ trung lập thận trọng của tôi cuối cùng cũng không giúp tôi có được sự ủng hộ lâu dài của cấp phó. Chỉ sau 5 năm, Tengku Razaleigh và Tun Musa đã liên minh với nhau để tranh cử chức Chủ tịch Đảng UMNO với tôi. Mặc dù Harun vẫn ở trong tù khi Tun Hussein từ chức Thủ tướng, nhưng ông cũng được đề nghị bổ nhiệm vào chức Phó Chủ tịch đảng tại Hội nghị năm đó. Tun Hussein không đưa ra ý kiến phản đối gì về điều này. Hơn nữa, không ai trong tổ chức đảng phản đối việc bổ nhiệm đó. Tuy nhiên, theo luật, Harun sẽ không được giữ chức vụ thực sự trong chính trị trong vòng 5 năm kể từ khi ra tù. Phía Tổ chức thanh niên của Đảng UMNO tuyên bố rằng, họ muốn Harun nhận được lệnh ân xá chính thức từ Quốc vương. Tôi không chắc chắn liệu có lệnh chính thức thì Harun có được trở lại hoạt động chính trị hay không, nhưng cuộc bầu cử Đảng UMNO lần này lại có tính chất quyết định. Nó quyết định ai là người làm phó cho tôi và cho thấy cảm giác của các đảng viên UMNO về thời gian ngồi tù của Harun. Tôi biết cảm giác của Tun Hussein về vấn đề này. Ông đã ném mạnh tập hồ sơ về trường hợp của Harun trước mặt tôi khi trước đó tôi cố gắng tranh luận rằng, sẽ có những rắc rối chính trị nếu tiếp tục kiện Harun. Bây giờ tôi mới nhận thấy rằng, ông sẽ rất bực mình nếu tôi làm điều gì đó cho Harun. Mặt khác, tôi không thể mạo hiểm bỏ qua tình cảm của các đảng viên và nguyện vọng của người dân ngay sau khi trở thành Chủ tịch đảng. Không khí thật sôi nổi khi phiếu bầu được kiểm. Tại cuộc họp thường lệ của Hội đồng tối cao đêm trước hội nghị, tất cả các ứng viên đều cam kết rằng, dù chiến thắng hay thua cuộc, họ vẫn sẽ tiếp tục phục vụ Đảng UMNO và chính phủ. Tôi cảm thấy có lý khi khẳng định rằng, đảng sẽ không bị chia rẽ giữa những người ủng hộ Tengku Razaleigh và những người ủng hộ Tun Musa. Tun Musa chiến thắng Tengku Razaleigh với số phiếu áp đảo 722/512. Mọi người hô to chúc mừng khi kết quả bầu cử được công bố. Các đại biểu đến dự dường như không để ý đến lời yêu cầu khẩn khoản của tôi là đừng quá thể hiện cảm xúc trước kết quả bầu cử. Tiếp theo là kết quả bầu cử các Phó Chủ tịch còn lại. Tôi nín thở chờ đợi số phiếu bầu cho Harun. Có bảy ứng viên, trong số đó chỉ có Tun Ghafar là đương nhiệm. Hai người khác là Tengku Razaleigh và Musa Hitam không ra tranh cử. Họ đã nghĩ tiêu cực, hoặc là chỉ tranh cử chức vụ Phó Chủ tịch thường trực hoặc không tranh cử chức vụ nào khác. Ngoài Tun Ghafar và Harun, các ứng viên còn lại là Tengku Tan Sri Ahmad Rithaudeen, Tengku Ismail, Tun Ghazali Shafie, Tan Sri Senu Abdul Rahman và Datuk Seri Dr Rais Yatim. Đúng như dự kiến, Tun Ghafar đứng đầu với 869 phiếu bầu. Đứng thứ hai là Harun với 757 phiếu và Tengku Ahmad Rithaudeen về thứ ba với 711 phiếu bầu. Những điều tôi lo sợ nhất đã xảy ra. Kết quả cuộc bầu cử đã đưa ra hai vấn đề lớn đối với tôi khi tôi bắt đầu đảm nhiệm công việc Chủ tịch Đảng UMNO và Thủ tướng. Thứ nhất, có thể có sự chia rẽ trong Đảng giữa những người ủng hộ Tun Musa và những người ủng hộ Razaleigh. Thứ hai, giờ tôi đang có một Phó Chủ tịch trong tù. Ngày 15 tháng 7, Tun Hussein chủ trì cuộc họp Nội các cuối cùng trên cương vị Thủ tướng của ông. Ngày hôm sau, ông gửi thư từ chức chính thức lên Quốc vương Yang di-Pertuan Agong, sau đó lên Tiểu vương bang Pahang, Ahmad Shah. Đến 11 giờ trưa cùng ngày, một buổi lễ ngắn gọn được tổ chức tại Hội trường trang trọng trong Cung điện. Tới dự buổi lễ có tất cả các Bộ trưởng, cùng với Tổng thanh tra cảnh sát, Tư lệnh các lực lượng vũ trang và Bộ trưởng Tư pháp. Toh Puan Suhaila Mohd Noah, phu nhân Thủ tướng Tun Hussein và phu nhân của tôi, Siti Hasmah Mohd Ali cũng tới dự. Tại một bàn khác có quyền Chánh án Toà án Tối cao Tan Sri Raja Azlan Shah, người sau này trở thành Tiểu vương bang Perak – một bang vùng tây bắc Malaysia – và Tổng Thư ký Chính phủ Tan Sri Hashim Aman. Tun Hussein bước vào, còn tôi bước phía sau. Chúng tôi mặc lễ phục màu tối và đội mũ songkok, bởi vì các Bộ trưởng Malaysia phải mặc lễ phục truyền thống khi thôi giữ chức vụ. Khi đó Quốc vương Yang di-Pertuan Agong bước vào và ngồi xuống ngai vàng, xung quanh là 4 cận thần được tuyển dụng từ quân đội và cảnh sát. Trong lúc chờ quan thị thần, tôi bước tới chỗ Quốc vương. Ngài đưa cho tôi bản tuyên thệ chính thức. Sau khi đọc lời tuyên thệ, tôi giữ một bản, một bản để lưu trữ mật, tôi ký, sau đó quyền Chánh án Toà án Tối cao ký tiếp vào các bản tuyên thệ đó. Giờ phút đặt bút ký là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời tôi. Trong suốt nhiệm kỳ của mình, tôi thường tự hỏi làm sao một dân thường như tôi lại có thể nắm giữ chức vụ này. Nhìn lại chặng đường đó thì chức vụ thủ tướng hoàn toàn không phải dành cho một bác sĩ. Nhưng tôi đã trở thành Thủ tướng thứ tư của Malaysia như thế đấy. 2. Những giá trị gia đình Cha tôi, Mohamad bin Iskandar, là người có chí khí khác thường khi ông bắt đầu đi học. Ông chạy tới trường và ở luôn đó. Ông giấu cha mẹ để đi học. Chính điểm khác thường đó của cha đã dạy tôi yêu quý việc học hành và trân trọng kiến thức. Thời cha tôi còn trẻ, các bậc cha mẹ người Mã Lai không muốn gửi con cái đến các trường học giảng dạy bằng tiếng Anh, vì hầu hết các trường này đều do các cha và những nhà truyền giáo đạo Cơ-đốc giảng dạy. Họ dạy kinh Cơ đốc ở các tu viện nữ và các trường dòng khác. Tất cả các học sinh Mã Lai đều phải học môn kinh thánh Cơ-đốc như môn học bắt buộc. Người Mã Lai theo đạo Hồi. Họ sợ con em của họ sẽ đổi tôn giáo sang đạo Cơ-đốc nếu chúng đến học ở những trường này, mặc dù thực tế chưa ghi nhận được trường hợp đổi tôn giáo nào. Đương nhiên, cha tôi không cho ông bà nội biết khi ông quyết định vào học trường học Cơ-đốc giáo ở bang Penang, bang miền bắc bán đảo Malaysia, là thuộc địa của Anh. Ông bắt buộc phải học, bởi vì ông tin rằng học vấn sẽ giúp ông có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm hơn và đức tin vào đạo Hồi của ông đủ mạnh để giúp ông vượt qua mọi sự cám dỗ thay đổi tôn giáo nào. Sau khi học xong lớp 4, ông được chính quyền bang Penang tuyển dụng làm giáo viên tập sự. Ông trải qua khoá đào tạo “giờ học bình thường”, một khoá đào tạo tại chỗ dành cho giáo viên. Năm 1908, chính quyền bang Kedah mời ông đến dạy cho một trường phổ thông trung học dành cho con em hoàng gia và con em các quan chức chính quyền tại thủ phủ Alor Star. Trong số các học sinh của ông có Tunku Abdul Rahman, người sau này trở thành Thủ tướng đầu tiên của Liên bang Mã Lai độc lập và của nhà nước Malaysia. Cha tôi là người có kỷ luật nghiêm khắc và học sinh, trong đó có vị Thủ tướng tương lai, không mấy yêu quý ông. Điều này có thể là do Tiểu vương bang này cho phép cha tôi trừng phạt học sinh nếu chúng không học bài, ngay cả khi chúng là con của các gia đình hoàng tộc. Ông không do dự khi làm điều này. Thậm chí, đôi khi ông còn sử dụng cả roi mây nhỏ để đánh học sinh. Ở nhà, cha tôi cũng nghiêm khắc như vậy. Ông luôn bắt chúng tôi phải học hành chăm chỉ. Họ hàng chúng tôi gửi con cái đến ở với chúng tôi để chúng thấm nhuần những giá trị đó. Trong số họ có Tun Syed Ahmad Shahabuddin, người sau này giữ chức Thống đốc bang Malacca từ năm 1984 đến 2004. Khi còn là những đứa trẻ, chúng tôi sống trong nỗi sợ cha, dù rằng ông không bao giờ đánh chúng tôi. Ông không phải đánh bởi vì chỉ nghe tiếng đằng hắng khi ông về nhà đã đủ để khiến chúng tôi phải trở lại với sách vở và bài tập. Tất cả chúng tôi cùng học trên một chiếc bàn lớn kê ở phòng ngoài. Chúng tôi chỉ dừng học để ăn tối. Sau này, cha tôi chuyển từ bang Kedah tới bang Pahang, sau đó là bang Johor để dạy tại các trường học của Anh ở đó. Mỗi lần chuyển như vậy thường rất vất vả và phải mất vài ngày. Ông phải đi bằng tàu thuỷ, đưa mẹ tôi và chúng tôi đi cùng. Chị gái Habsah của tôi sinh ra ở Pahang còn anh trai Mahadi sinh ra ở bang Johor, nơi cha tôi dạy học ở một trường mà sau này trở thành trường trung học dạy bằng tiếng Anh rất nổi tiếng ở Johor. Cuối cùng, ông cũng mệt mỏi vì phải chuyển trường và phải sống quá xa quê hương nên đã xin thôi nghề giáo sau gần 8 năm công tác. Là người giỏi toán, cha tôi vào làm kiểm toán viên cao cấp tại Cục kiểm toán Kedah. Ở nhà, ông thường dạy anh trai Mashahor của tôi, học hơn tôi hai lớp, về ước số chung lớn nhất và bội số chung nhỏ nhất. Cha thường dạy bên chiếc bàn lớn nơi tôi đang học và tôi chăm chú lắng nghe lời ông giảng, do vậy tôi trở nên khá giỏi môn số học. Cha nghỉ hưu khi tôi đang học tại Trường Government English School (Trường Anh ngữ của chính phủ), gọi tắt là trường G.E.S, ở Alor Star, thủ phủ của bang Kedah. Tôi sinh ra tại một quận nghèo của thành phố Alor Star, được gọi là quận Seberang Perak. Ngày sinh nhật chính thức của tôi là 10 tháng 7 năm 1925, nhưng cha tôi đã đăng ký khai sinh cho tất cả các con trai của ông là sinh vào tháng 12. Do năm học mới ở Mã Lai bắt đầu vào tháng 1, nên cha tôi làm thế để tránh mọi hạch sách về tuổi khi ông đăng ký nhập học cho con. Đó là lý do tại sao theo giấy khai sinh, tôi sinh ngày 20 tháng 12, khiến tôi ít tuổi hơn tuổi thực tế của mình. Với các cống rãnh bằng đất và dòng nước đen ngòm hôi hám, xung quanh chỗ chúng tôi gần như biến thành khu ổ chuột. Vùng này rất lầy lội khi trời mưa. Khi thuỷ triều lên cao, nước sông sẽ đổ vào các cống rãnh và chảy vào vùng đất xung quanh, để lại những ụ rác lớn khi thuỷ triều rút. Nhưng điều này cũng có mặt tích cực của nó. Trong suốt mùa mưa ngập lụt này, mấy anh tôi được câu cá ikan temekong, một loại cá trê nhỏ. Loài cá đó không ăn được, nhưng chúng tôi thích đùa vui. Một số người dân địa phương thường đi qua nhà tôi – anh chàng ngớ ngẩn Che Din Ponen; người bán giá đỗ và bánh đậu nành; Encik Sutan Adam, một người hàng xóm giàu có và một phụ nữ bán bánh luôn mang 4 rổ bánh nướng cucur các loại trên tay. Thi thoảng, vào buổi tối, Pa’ Awang Ladeh, ông được gọi như thế vì bán ladeh (sữa đóng cục) cũng đi qua nhà tôi. Con trai của ông, Abdul Rahman Awang, sau này học nha khoa và là sinh viên cùng khoá học năm 1947 với tôi. Sau khi tốt nghiệp, anh ấy làm việc cho nhà nước và trở thành Giám đốc Cục nha khoa Malaysia. Câu chuyện của anh chứng minh rằng, bất kỳ ai cũng có thể thành đạt trên đất nước Malaysia nếu chăm chỉ. Còn có một người chở nước gốc Ấn Độ hay đi qua nhà tôi. Ông ta là người hơi kỳ cục. Ông có thói quen bất thình lình đặt các can 4 gallon của mình xuống và nhảy múa ầm ĩ. Không hiểu sao, ông sưu tập được tất cả các loại tiền xu và đeo vào áo sơ mi. Chúng kêu reng reng đến chói tai mỗi khi ông nhảy múa và la hét những âm thanh vô nghĩa. Cho đến hôm nay, mỗi lần tôi mặc bộ lễ phục và đeo huy chương, tôi lại cảm thấy buồn cười khi nhớ lại người đàn ông với những đồng xu đeo lủng lẳng. Tôi nghĩ mình trông giống ông ấy. Cha tôi là người Mã Lai ở bang Penang. Hầu hết những người Mã Lai ở đảo Penang đều mang dòng máu Ấn Độ. Dòng người nhập cư từ Ấn Độ lên đến đỉnh điểm khi Penang trở thành thuộc địa của Anh. Những người đàn ông nhập cư thường cưới vợ là người Mã Lai. Con cái họ thường được gọi là Jawi Peranakan, nghĩa đen là “người lai Gia-va”, có thể do hồi đó người dân không thể phân biệt được người Mã Lai mang dòng máu Gia-va. Ngày nay, người A-rập gọi người Mã Lai là người Jawi. Ở Malaysia cũng sử dụng từ này nhưng cũng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Về văn hoá và ngôn ngữ, người Mã Lai ở Penang cũng giống người Mã Lai. Cha tôi không thể nói tiếng Ấn Độ và không biết ai trong số ông bà tổ tiên và họ hàng của ông ở Ấn Độ. Mối liên hệ giữa ông và gốc gác Ấn Độ của ông hoàn toàn không còn. Mẹ tôi, Wan Tempawan, là một người Mã Lai ở bang Kedah. Tước hiệu “Wan” cho thấy rằng, bà xuất thân từ hàng ngũ những người Mã Lai Kedah làm việc trong hoàng gia hoặc làm việc cho nhà nước. Do họ hàng thân thuộc của cha tôi đều ở Penang và không biết gì về những gia đình Mã Lai ở Kedah, nên đám cưới của cha mẹ tôi là một đám cưới được dàn xếp. Một vài công chức Mã Lai lớn tuổi đóng vai những bà mối. Mẹ tôi là người có giáo dục. Bà hiểu truyền thống, tục lệ về nghi thức xã giao (adat) của người Mã Lai. Vì vậy, bà nuôi dạy chúng tôi trở thành những người Mã Lai tốt và phép tắc. Cha dạy chúng tôi những kiến thức cần thiết để vững bước trong cuộc sống. Nhưng tôi luôn cảm thấy rằng, trong số mấy anh em trai, tôi là người may mắn nhất vì cha tôi đã cho tôi một trình độ học vấn cao nhất. Đó là lý do tại sao tôi thành đạt hơn các anh chị mình. Trong khi cha tôi luôn chú ý đến những kiến thức chung thì mẹ tôi lại khăng khăng rằng, con bà phải học những lời giáo huấn của đạo Hồi ngay từ những năm đầu đời. Bà đọc kinh Coran rất tốt và tự dạy kinh Coran cho chúng tôi. Chị gái cả của tôi, chị Rafeah, có tên riêng là Putih (tiếng Mã Lai có nghĩa là “trắng”). Chị nổi tiếng vì giọng đọc kinh Coran hay. Tại trường học dạy bằng tiếng Mã Lai, chúng tôi được dạy những nguyên lý cơ bản của tôn giáo và chúng tôi đọc thuộc lòng từng đoạn kinh Coran được lựa chọn mà không được ai giải thích về nghĩa của những đoạn kinh này. Sau này, chúng tôi có một gia sư đến từ một trường dạy bằng tiếng Ả rập, thầy Encik Zakaria Mohamad Noor. Thầy dạy chúng tôi học thuộc lòng nhiều đoạn kinh hơn và dịch sang tiếng Mã Lai cho chúng tôi. Ngay cả bây giờ, tôi vẫn có thể đọc thuộc lòng những đoạn kinh này. Với những chú trọng về giáo dục kiến thức chung của cha tôi và sự kiên quyết của mẹ tôi là tôi phải hiểu về tôn giáo của mình, tôi bắt đầu say mê tìm hiểu nâng cao kiến thức và đọc tất cả các loại sách. Tôi gần gũi với mẹ hơn với cha và vì vậy, bà đã tác động đến sự hình thành nhân cách của tôi nhiều hơn là cha tôi. Bà dạy tôi những giá trị mà tôi luôn gìn giữ trong suốt cuộc đời, đặc biệt là phải khiêm tốn và không được ba hoa về những gì mình đã làm được. Khi tôi nói về bản thân mình (tất nhiên là với giọng khoe khoang), bà lại hạ thấp những thành tựu mà tôi đạt được. Bà tin rằng, tôi nên nhượng bộ trong bất kỳ cuộc tranh chấp hoặc cãi cọ nào. Tôi thấy điều này thật khó bởi vì tôi luôn tin rằng, tôi đã đúng. Nhưng như những gì tôi nhớ được, bà chưa bao giờ bênh vực tôi trong các cuộc tranh cãi. Mẹ cũng dạy tôi rất rõ ràng rằng, nếu tôi muốn được điều gì đó, tôi phải làm việc để có được. Khi tôi muốn mua một cái bút máy, mẹ bắt tôi phải xách nước cho bà tưới cây hoa nhài để đổi lấy tiền. Tôi đã học được từ mẹ rằng, đây là cách kiếm tiền chính đáng. Vì vậy, khi tiền trong ví của tôi giảm dần từ 4 xu xuống 2 xu sau khi cha tôi nghỉ hưu, tôi không hề phàn nàn gì. Thay vào đó, tôi có gắng kiếm thêm tiền bằng cách bán bóng bay cho đám bạn. Vào các ngày thứ Sáu, khi có thời gian, tôi sẽ mua 3 quả bóng bay với giá 2 xu ở một cửa hàng cạnh nhà tôi và bán chúng với giá 1 xu mỗi quả. Bạn có thể mua rất nhiều thứ với 1 xu lợi nhuận thời đó, như một đĩa cơm đầy với cà ri chẳng hạn. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng được sử dụng số tiền lời cho riêng mình. Đôi khi, kẻ hay ăn hiếp người khác trong lớp, người sống cạnh nơi tôi sống, đưa tôi đến cửa hàng bán bánh kẹo cho học sinh và bắt tôi dùng tiền của mình mua kẹo cho hắn ta. Nếu tôi từ chối, hắn sẽ đấm tôi và tất nhiên tôi không muốn ẩu đả với hắn. Hắn là một trong những gã hung bạo nhất và cha của hắn là một cựu sĩ quan cảnh sát. Tôi cũng kiếm được một ít tiền bằng việc làm thêm việc vặt trong nhà. Mẹ tôi nuôi gà và vịt dưới nhà, tôi giúp bà cho chúng ăn và buổi tối lùa chúng vào chuồng. Tôi cũng chặt củi bakau, một loại củi để đun bếp. Làm những việc này tôi sẽ có 1 xu tiền công. Mẹ tôi có một mảnh đất nhỏ chủ yếu để trồng hoa nhài và hoa hồng. Chúng tôi cắt hoa nhài rồi xâu chúng thành từng tràng hoa rất tinh tế. Sau đó, những người Ấn Độ sẽ thu mua những tràng hoa này và bán chúng cho phụ nữ cài xung quanh búi tóc. Mẹ tôi cũng nổi tiếng trong vùng với phấn celak, loại phấn đen đánh mi mắt mà bà tự làm. Đó là một công việc buồn tẻ. Bà sử dụng một cối giã và cái chày bằng sứ để giã phấn côn thành bột nhỏ mịn. Ngoài ra, bà còn làm kem bôi lạnh bằng cách đổ bột gạo nước qua một cái phễu bằng lá chuối vào một tấm vải mỏng màu trắng. Khi bột nước này khô, bà nặn thành viên và bảo quản chúng trong những chiếc lọ. Ngày đó, phụ nữ hòa tan bột được viên cứng này với nước và trát lên mặt để làm mịn làn da. Bà cũng làm minyak angin, một loại dầu dừa xoa bóp giúp giảm các cơn đau nhức cơ và bong gân. Tôi nghĩ rằng, chúng tôi bị coi là những người thuộc tầng lớp hạ lưu, nhưng cha mẹ tôi không phải là những người bần tiện. Nếu tiền tiêu ở trường của tôi bị giảm từ 4 xu xuống 2 xu thì đó là bởi vì lương hưu của cha tôi giờ chỉ còn bằng 1/3 mức lương nhận được cuối cùng là 270 Ringgit. Tôi biết rằng, cha mẹ tôi rất yêu tôi, mặc dù cha tôi không thân mật và không biết cách thể hiện tình yêu của mình. Tôi hiểu rằng, trên tất cả, mẹ tôi muốn tôi trở thành một người đàn ông tốt và chính trực. Chỉ có hai điều mẹ tôi không muốn tôi thực hiện đó là: Làm thanh tra cảnh sát hoặc bác sĩ. Thật trớ trêu. Điều đó sẽ làm mẹ mất ăn mất ngủ – bà nói. Nhưng khi tôi quyết định học y khoa, mẹ tôi đã không phản đối. Nhà chúng tôi chỉ có 2 chiếc giường bốn cọc bằng sắt. Một chiếc dành cho cha mẹ tôi và chiếc còn lại dành cho bất kỳ thành viên nào trong gia đình mới kết hôn. Những người còn lại ngủ trên những chiếc đệm mỏng trải dưới sàn nhà, dưới chiếc màn chống muỗi treo lơ lửng từ những chiếc đinh được đóng vào những chiếc cột gỗ. Buổi sáng, màn được gấp gọn và đệm được cuộn lại dựng vào tường cùng những chiếc gối. Khi tôi làm Thủ tướng, tôi thường đến thăm Nhật Bản, tôi rất buồn cười khi người Nhật giải thích cặn kẽ cho tôi thói quen ngủ trên sàn nhà của họ bởi nó cũng không khác với những gì tôi đã trải qua. Trong gia đình, chúng tôi luôn phải chú ý tới cách cư xử. Người Mã Lai ăn bốc, nhưng họ không chộp lấy thức ăn và không làm bẩn lòng bàn tay. Thức ăn chỉ được cầm ở tay phải. Những chiếc thìa giúp lấy thức uống được cầm ở tay trái nên việc họ cầm vẫn giữ được sạch sẽ. Nó có vẻ khó nhưng tôi trở nên rất thuần thục, ngay cả khi tôi xé thịt tôm hay cua chỉ bằng tay phải. Bây giờ, tôi cảm thấy rất khó chịu khi những đứa trẻ Mã Lai dùng cả hai tay để ăn. Trong gia đình tôi, gia đình mà tôi thường gọi là một gia đình Hồi giáo chính thống, tất cả phụ nữ, trừ mẹ tôi, thường ăn sau khi những người đàn ông ăn xong. Chúng tôi dọn bữa ăn lên sàn nhà và không nói chuyện khi ăn. Sau khi những người đàn ông, trong đó có cả những cậu bé như tôi ăn xong, thức ăn được đưa vào khu bếp bố trí thấp hơn khu nhà, các chị gái tôi ăn ở đó. Cha tôi là người dạy tôi ngồi trước bàn và sử dụng nĩa và thìa để ăn. Vì chúng tôi thường ngồi ăn ở sàn nhà, nên ông mua một chiếc bàn gỗ nhỏ để dạy tôi. Nhưng tôi không thích dùng nĩa và thìa cho đến khi bị thương ở tay phải năm tôi khoảng 8 tuổi. Tôi cố gắng chặn một chiếc ghế dài để nó khỏi bị đổ, nhưng nó rơi đúng ngón giữa tay phải tôi. Đầu ngón tay tôi nhức tấy. Sau vụ đó, hầu hết các lần ăn tôi phải dùng nĩa và thìa. Thực sự, giờ tôi dùng nĩa và thìa để gỡ tôm, cua còn thành thạo hơn những người khác dùng tay. Tôi thường lột mai cua cho Hasmah và tôi đã dạy các con tôi cách tốt nhất để lấy thịt cua ra. Tôi coi cách xử sự trên bàn ăn, dù là người Mã Lai hay người Anh như là một biện pháp để giáo dục ai đó, nên tôi rất sợ khi nhìn thấy những người Mã Lai, thậm chí có cả các nhà ngoại giao cầm nĩa bằng cả bàn tay của họ, cứ như họ muốn đâm ai đó. Các anh chị của tôi cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc giáo dục tôi. Tôi là con út trong sáu người con của mẹ (cha cưới mẹ tôi sau cái chết của người vợ cả) và đương nhiên tôi rất được nuông chiều. Ba chị gái của tôi, Rafeah, Habsah và Johara luôn uốn nắn tôi, họ sẽ vụt vào tay tôi nếu tôi cầm thức ăn không đúng và dạy tôi phải biết kính trọng người lớn và quý trọng những người thân trong gia đình, là các công chức cao cấp trong chính quyền bang Kedah. Ngoài các anh chị cùng cha cùng mẹ, tôi còn có 2 anh và 1 chị cùng cha khác mẹ. Chị Aishah, chị cùng cha khác mẹ của tôi cũng là người gần gũi với tôi mặc dù chị đã kết hôn khi tôi còn rất nhỏ và sống cùng chồng trong một ngôi nhà ở cuối đường Seberang Perak. Chị cả Rafeah sống với tôi lâu nhất. Chị chuyển từ Alor Star tới sống với tôi ở Kuala Lumpur. Tôi luôn rất vui và luyến tiếc khoảng thời gian chị sống bên tôi. Chị đã vĩnh viễn bỏ tôi ra đi vào ngày 1 tháng 9 năm 2009. Trong suốt quá trình dạy tôi trở thành người tử tế, mẹ tôi cũng truyền cho tôi những giá trị của lòng khoan dung và kính trọng. Khi tôi trở thành Phó Thủ tướng rồi Thủ tướng, tôi không bao giờ chuyển công tác của bất kỳ ai trong số các nhân viên của mình nếu họ làm việc không tốt như người khác. Thay vào đó, tôi cố gắng giúp họ hiểu rằng, phải làm như tôi mong muốn, bằng cách lôi kéo được lòng trung thành của họ. Họ luôn có khả năng phát triển và nâng cao kết quả làm việc như mong muốn. Một số người giờ vẫn còn làm việc với tôi sau hàng thập kỷ phục vụ. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, trách nhiệm của một “ông chủ” là phải hòa thuận với nhân viên và phát huy ở họ những khả năng tốt nhất. Không ai là không mắc sai lầm. Nhân viên mới chưa chắc sẽ tốt hơn. Tôi nhận thức sâu sắc rằng, không ai hoàn hảo cả. Nếu tôi tức tối với nhân viên, họ chắc chắn sẽ bực tức tôi. Tất cả những dạy bảo từ thuở còn thơ này của gia đình đã giúp tôi rất nhiều trong suốt nhiệm kỳ Phó Thủ tướng và Thủ tướng của mình. Dẫu rằng, tôi không đồng ý với một số chính sách và một số quan điểm của Thủ tướng Tun Hussein, nhưng ông là “ông chủ” của tôi và tôi luôn kính trọng ông. Những gì cha mẹ tôi làm khi nuôi dưỡng tôi khôn lớn cũng dạy cho tôi về giá trị của khái niệm gia đình. Cha mẹ tôi rất gần gũi. Buổi tối, cha tôi ngồi xuống sàn nhà, duỗi chân chống vào chiếc cột chính của nhà và nói chuyện với mẹ tôi. Chiếc cột đó là chỗ yêu thích của cha tôi và nó đã mòn nhẵn sau nhiều năm cha tôi chống chân vào quá thường xuyên. Cha tôi hút xì gà xén tày hai đầu, còn mẹ tôi nhai trầu không. Tôi không biết cha mẹ tôi nói với nhau những gì nhưng họ là một cặp vợ chồng tâm đầu ý hợp và dường như lúc nào cũng có chuyện để nói với nhau. Họ không thể hiện tình cảm của họ với nhau bởi họ thấy không thích hợp để làm vậy, nhưng tôi biết cha mẹ tôi rất yêu nhau. Khi cha tôi già, bệnh tim khiến ông trở nên yếu hơn. Ông từ chối đi bất cứ đâu. Tôi nghĩ, cha tôi sợ không được chết ở nhà. Lúc đó, tôi đã là một bác sĩ y khoa và sống trong khu tập thể công chức, nhưng ngày nào tôi cũng đến thăm cha mẹ tôi. Cuối cùng, cha tôi từ chối mọi thứ thuốc kê cho ông, rồi ông héo dần đi. Ông ra đi lặng lẽ vào năm 1962. Sau cái chết của cha, mẹ tôi không thiết sống nữa. Bà tránh xa sự quan tâm của chúng tôi, ăn ít, nói ít. Một thời gian sau, bà phờ phạc nằm bẹp trên chiếc đệm trải ở sàn nhà. Bà cố ghìm chân xuống và dường như không muốn dậy. Cuối cùng, chân của bà bị cứng lại đúng ở tư thế đó. Khi mẹ mất, chúng tôi không thể nào duỗi chân bà thẳng ra được. Tôi lúc đó đã có một phòng khám riêng. Hàng ngày, sau khi khám cho bệnh nhân cuối cùng, tôi lại về nhà điều trị cho mẹ. Tôi cố gắng làm cho bà vui nhưng điều đó là rất khó và không có kết quả. 3 năm sau khi cha mất, mẹ tôi cũng qua đời. Tôi không thể tưởng tượng nổi việc lớn lên trong một gia đình đa thê thì sẽ như thế nào. Chắc chắn, sự cay đắng sẽ làm héo mòn tất cả những người trong gia đình. Cuộc sống sẽ không thể bình yên đối với người chồng. Trong số những người anh của tôi chỉ có anh cả Murad, con của mẹ cả tôi, là có hai vợ. Được nuôi dưỡng trong gia đình mà hầu hết các thành viên đều chỉ có một vợ hoặc một chồng đã giúp tôi có được cách ứng xử khéo léo và hợp lý. Bố vợ Haji Mohd Ali của tôi cũng chỉ có một vợ. Hasmah và tôi cảm thấy may mắn khi chúng tôi xuất thân từ những gia đình như vậy. Mọi người thường phải dùng đến những lý lẽ của Hồi giáo cho phép một người đàn ông cùng lúc có đến 4 vợ, nhưng có một điều họ luôn bỏ qua, đó là kinh Coran dạy rằng, bạn có thể cưới 2, 3 hoặc 4 người phụ nữ, nhưng nếu bạn không thể đối xử với họ công bằng như nhau thì hãy chỉ nên cưới một người. Cũng trong chương đó kinh Coran còn dạy rằng, bạn sẽ không bao giờ có thể đối xử công bằng với tất cả những người vợ đó. Hàm ý của kinh Coran đã rõ ràng: Kinh Coran chỉ ủng hộ đàn ông có một vợ chứ không phải là 4 vợ. Rõ ràng, đã có những hoàn cảnh bất thường xảy ra (ví dụ như khi có chiến tranh), trong đó tỷ lệ phụ nữ lớn hơn tỷ lệ nam giới. Để đảm bảo có người chăm sóc những người đàn bà mất chồng trong chiến tranh, người đàn ông theo đạo Hồi được phép cưới nhiều hơn một vợ. Đạo Hồi không chỉ đơn thuần là một hệ thống tín ngưỡng và lễ nghi, mà đạo Hồi còn hướng dẫn cộng đồng giáo dân trong tất cả các hoạt động thường ngày của cuộc sống, thậm chí dạy cả thói quen đúng giờ, vệ sinh cá nhân và bảo vệ môi trường. Bằng cách hình thành cho chúng ta hướng đi trong cuộc sống, đạo Hồi duy trì sự cân bằng và duy trì một xã hội có tính trật tự cao. Nhưng trớ trêu thay, chính những người tuyên bố mình được giáo dục và sùng đạo lại là những người có xu hướng cưới nhiều hơn một vợ. Nhìn chung, các cộng đồng giáo dân được hình thành cơ bản là cân bằng tỷ lệ nam, nữ. Tôi thường tranh luận rằng, nếu một người đàn ông cưới nhiều hơn một vợ thì những người khác sẽ bị tước mất cơ hội có vợ, làm mất sự cân bằng xã hội. Dù thế nào đi nữa tôi vẫn nói rằng, hôn nhân một vợ một chồng là hoàn hảo. Trên thực tế, bất đồng là không thể tránh khỏi, nhưng đó không thể là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ trong mối quan hệ vợ chồng. Ví như tôi là một người rất khắt khe về thời gian, các câu chuyện tôi đã đọc khi còn bé đều viết rằng, tính đúng giờ là một đặc tính tốt nên có, nên tôi đã nhiễm thói quen đó. Tuy nhiên, Hasmah thì luôn luôn chậm trễ do thường có cái gì đó phải lựa chọn trước khi chúng tôi đi. Ban đầu, sự khác biệt này gây ra xích mích giữa chúng tôi. Nhưng qua nhiều năm, tôi học được cách điều chỉnh theo thói quen này của cô ấy, cũng như cô ấy đã phải điều chỉnh theo một số thói quen của tôi. Bây giờ, chúng tôi vẫn nói đùa về tính chậm trễ của cô ấy và thường cố gắng giúp cô ấy tìm những gì cô ấy cần. Tôi chọc cô ấy phát tức khi cứ đi theo cô ấy xung quanh phòng. Tôi nói dối cô ấy rằng, chúng tôi phải rời nhà lúc 8 giờ tối trong khi thực tế chúng tôi có thể rời nhà muộn hơn. Nhưng cô ấy vẫn chưa sửa được. Bây giờ tôi chỉ ngồi trong phòng ngủ cho đến khi cô ấy xong. Tôi hiểu ra rằng, sẽ rất khó nếu tôi đi xuống cầu thang trước, cô ấy sẽ không bao giờ xuất hiện đi cùng. Sự tôn trọng lẫn nhau và tính hài hước (như ví dụ tôi vừa kể ở trên) có thể giữ gìn hôn nhân. Tôi không bao giờ có ý nghĩ sẽ lấy một người vợ khác để Hasmah và những đứa con của tôi phải đau khổ. Để có được hạnh phúc, bạn phải học cách dàn xếp hài hòa. Tôi cũng học được từ mẹ tôi ý nghĩa quan trọng của một gia đình mở rộng. Chúng tôi rất gắn bó với những bà con họ hàng, thậm chí với những người họ hàng bên vợ, hoặc bên chồng. Bà ngoại tôi sống cùng chúng tôi cho đến khi mất. Tên bà là Hawa. Lúc tôi sinh ra, tóc bà đã muối tiêu. Những gì tôi nhớ nhất về bà là bà cất tiền trong một điếu thuốc lá hình tròn, buổi đêm ngủ, bà dùng một chiếc hộp thiếc làm gối. Gần đây, tôi xem một chương trình ti vi, trong đó có một đôi vợ chồng người Mã Lai quyết định gửi người cha đã già yếu đang mắc bệnh đột quỵ của họ vào trại dưỡng lão. Tôi căm ghét quyết định đó. Trong văn hoá Mã Lai, bạn phải yêu thương và kính trọng những người họ hàng lớn tuổi của mình. Bạn không được để họ chết cô đơn giữa những người xa lạ. Tôi ghê sợ những thay đổi trong hệ thống giá trị của người Mã Lai và tôi tiếc nuối những giá trị văn hoá tốt mà cha mẹ tôi để lại. Tuy nhiên, mối quan hệ gia đình và chức vụ cao lại luôn không phối hợp hài hòa được với nhau. Khi tôi làm Thủ tướng, nhiều thành viên trong gia đình mở rộng của tôi không hiểu rằng, tôi không thể sử dụng quyền lực của mình để đạt được bất kỳ thứ gì tôi hoặc họ muốn. Nhiều người hy vọng tôi giúp họ có được những hợp đồng, giấy phép và những thứ đại loại như thế. Họ đến nhà tôi mang theo những phong bì màu nâu trong đó chứa tất cả các loại đề nghị, nhưng điều duy nhất tôi có thể làm được là đóng vai người đưa thư và chuyển các phong bì đó tới các quan chức có liên quan. Đôi khi tôi cũng viết lên phong bì “Làm ơn xem giúp”. Nhiều người nói rằng, chỉ cần thế thôi cũng đủ để các quan chức quan tâm giúp những gì họ yêu cầu, nhưng tôi cũng biết rằng, hầu hết họ hàng và bạn bè của tôi không đạt được gì cả. Nếu họ nhận được câu trả lời thiện chí, thì đó là bởi vì các quan chức cho rằng đề nghị của họ là hợp lý. Nhiều người họ hàng của tôi không được toại nguyện và giờ họ vẫn không nói chuyện với tôi. Ví như, cháu trai tôi là Ahmad Mustapha, một nhà báo thử lao vào con đường kinh doanh. Cậu ta cố thuyết phục tôi mua máy bay Sukhoi 35. Tôi đã nói cho cậu biết việc mua hay không phụ thuộc vào chất lượng loại máy bay đó. Khi tôi tìm hiểu thông tin từ phía Nga, tôi được biết rằng, vẫn chưa có Sukhoi 35, chỉ có Sukhoi 30 mà Ấn Độ đang sở hữu. Phiên bản Sukhoi 35 vẫn chưa được sản xuất. Tôi thậm chí còn hỏi Tổng thống Nga về điều này bởi vì tôi muốn trang bị cho Không quân Malaysia loại máy bay tốt nhất. Nhưng ông ấy khẳng định Nga vẫn chưa có máy bay Sukhoi 35, nên Chính phủ Malaysia quyết định mua Sukhoi 30. Mustapha nghĩ rằng, tôi đã làm cậu ta thất bại và đến tận bây giờ, cậu ta vẫn chưa nói chuyện với tôi. Đó là những rủi ro trong công việc và những người họ hàng của tôi chắc chắn sẽ bực mình. Các con tôi hiểu quan điểm của tôi và chúng không làm phiền tôi. Thậm chí tôi cũng không cho phép chúng tham gia tranh cử vào các vị trí cấp cao trong Đảng UMNO hoặc trở thành ứng viên cho các cuộc bầu cử. Tôi luôn cho rằng, gia đình tôi không có vai trò gì trong chính quyền. Tôi là Thủ tướng của nhân dân chứ không phải trong gia đình mình. Có những lần các con trai tôi nhận được cổ phần của công ty và giấy phép nhập khẩu xe ô tô. Mirzan, con trai cả của tôi đã nhận được cổ phần với tư cách là giám đốc công ty, thì đó là quyền của nó. Mokhzani, con trai thứ hai của tôi nhận được giấy phép bởi vì nó đang theo đuổi quyền nhập khẩu và bán xe hơi hợp pháp. Tuy nhiên, cũng có nhiều người được nhận giấy phép bán xe hơi nhưng đã không đưa xe hơi vào kinh doanh thực sự. Sau khi nghỉ hưu, tôi cảm thấy sẽ là không công bằng nếu tôi lấy đi quyền được đóng góp cho hoạt động chính trị của các con nếu chúng muốn. Chúng không lợi dụng để kiếm lời trong suốt những năm tôi làm Thủ tướng. Dù mọi người gắn các con tôi với cái tên của tôi thì cũng không giúp gì được chúng. Các con tôi phải tự xây dựng cuộc sống và sự nghiệp của chúng. Tôi nhận được sự dạy dỗ về đạo đức từ cha mẹ tôi và các con tôi cũng nhận được từ tôi (tôi hy vọng thế). Trong số tất cả các bài học mà tôi hy vọng chúng tiếp thu được, bài học quan trọng nhất không phải là lạm dụng quyền lực. Trong gia đình tôi, hầu hết sự chú ý của công chúng đều tập trung vào Mirzan, bởi vì nó đã bán công ty cho MISC, thuộc tập đoàn PETRONAS chịu sự kiểm soát của chính phủ. Nhưng các con tôi không dựa vào tôi để giải quyết các vấn đề của chúng. Mirzan tự giải quyết vấn đề, điều này tôi sẽ trình bày ở chương sau. Sự nhạy bén về chính trị của tôi là vì đất nước Malaysia. Những chính sách mà chính quyền thời tôi ban hành là vì mọi người, chứ không dành riêng cho các nhân vật quyền quý liên quan đến chính trị hoặc cho một số nhỏ những người thân và bạn bè của tôi. Tôi thậm chí không bao giờ cho các con tôi một đồng xu vốn nào. Tất cả những gì tôi cho chúng là một trình độ học vấn tốt, một cơ hội để phát triển và làm điều gì đó cho chính bản thân chúng trong cuộc sống. Chúng không bao giờ đòi hỏi ở tôi bất cứ điều gì, thậm chí còn không kể cho tôi biết về công việc chúng đã làm. Chúng tôi không bàn chuyện kinh doanh hay chính trị với nhau. Chính trị và chính sách công không phải là chuyện để chúng biết. Có một điều mà tất cả chúng tôi đều hiểu rõ, đó là tôi rất bận rộn với đất nước còn các vấn đề của các con tôi sẽ do chính chúng tự giải quyết. Có một sự thật rằng, từ giây phút tôi trở thành Thủ tướng, tôi không thuộc về gia đình tôi. Các con tôi chấp nhận rằng, là Thủ tướng, tôi không thể dành thời gian cho chúng hoặc để các vấn đề của chúng chi phối. Điều này tương tự đối với mẹ của chúng. Hasmah không bao giờ phàn nàn nếu tôi không về nhà, về nhà muộn hoặc không dành sự quan tâm cần thiết cho gia đình, cho ngôi nhà; vợ tôi phải gánh vác hết mọi việc. Cô ấy và các con tôi hiểu rằng, nếu chúng có vấn đề gì, chúng có thể đến nhờ mẹ, chứ không phải tôi. Tôi không lạm dụng quyền lực mà tôi có, cũng không muốn các con tôi lạm dụng các mối quan hệ của tôi. Tôi thường nói với chúng như vậy và chúng hiểu những gì tôi muốn nói. Các con tôi lớn lên và trưởng thành trong suốt thời gian tôi làm Thủ tướng. Ngay cả khi chúng bước vào trường đại học, tôi cũng không bao giờ đề nghị chính phủ cấp học bổng cho chúng. Mirzan được nhận học bổng khi tôi vẫn chưa có chân trong chính phủ, khi tôi bị khai trừ khỏi Đảng UMNO và trước khi tôi trở thành Thủ tướng rất lâu. Con trai tôi được nhận học bổng của Hội đồng tín thác MARA nhờ sự xuất sắc của chính nó. Nó là một trong số ít sinh viên lựa chọn học ở các trường tư ở Anh để giới thiệu với họ về nền văn hoá Mã Lai. Ngoài các giá trị khác như tính kiên định, tính đúng giờ và sự tin cậy, tôi sẽ nói với các con tôi rằng, chúng không nên xử sự như con cái của các bậc cha mẹ giàu có. Khi tôi nói chuyện với chúng về những ngày đi học của mình, về việc tôi đi bộ đến trường và những chuyện tương tự như thế, chúng cảm thấy buồn. Có lẽ chúng sẽ đọc những trang hồi ký này, đặc biệt là những trang hồi ức về cha mẹ tôi và về thời thơ ấu của tôi, chúng sẽ tìm thấy điều gì đó mà chúng quan tâm. Có lẽ chúng sẽ hiểu được điều gì đó giúp chúng giải thích về người cha của chúng hoặc về một số nét tính cách của cha chúng, một chút gì đó giúp chúng hiểu hơn, hoặc có lẽ chúng sẽ hiểu biết sâu sắc rằng, đến lượt chúng phải truyền những giá trị đó cho con cái chúng. Trong cuộc sống luôn có những bài học đáng để học nếu chúng ta đủ sáng suốt để nhìn thấy được điều đó. 3. Tôi là người Mã Lai Tôi nhận thức rõ ràng rằng, nguồn gốc chủng tộc của tôi là một đề tài gây nhiều tranh luận. Nhiều người tuyên bố rằng, cha tôi là người Malayalee và ông mang hai dòng máu là dòng máu Tamil và dòng máu Malayalam. Có người thậm chí còn viết rằng, cha tôi là người theo đạo Ấn và đã chuyển sang đạo Hồi để cưới mẹ tôi. Những người khác lại cho rằng, họ đã đọc được các tài liệu viết rõ ràng về nguồn gốc chủng tộc của tôi. Tôi thừa nhận mình có dòng máu Ấn Độ, hay nói chính xác hơn là dòng máu Nam Á đang chảy trong huyết mạch của tôi, nhưng ông bà tổ tiên của tôi sinh ra ở vùng nào trên tiểu lục địa Ấn Độ thì tôi không biết. Người Mã Lai trong quá khứ không theo dõi dòng dõi của họ, nhưng hầu hết những người Mã Lai mang dòng máu Ả rập lại có thể tìm ra nguồn gốc của họ ở Yemen và biết được họ thuộc gia đình nào. Có thể có bạn đọc coi chương này tôi viết là thể hiện sự phân biệt chủng tộc, nhưng sẽ có người coi chương này là sự thể hiện một vẻ đẹp dòng dõi, nhưng tôi thì không có những ý định đó. Tôi là một người Mã Lai và tôi tự hào về điều đó. Có nhiều lý do để tôi tuyên bố mạnh mẽ và táo bạo như thế. Ai đó tuyên bố rằng, sắc tộc và dòng dõi của một nhà lãnh đạo không có ý nghĩa quan trọng đối với người dân là họ đang tự lừa gạt chính mình. Mãi đến cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2008, nước Mỹ mới có một người phụ nữ và một người Mỹ gốc Phi là những ứng viên nặng ký cho chức vụ Tổng thống. Cho đến giờ, nước Mỹ chỉ có một Tổng thống là tín đồ Thiên Chúa giáo La Mã, Tổng thống John F. Kennedy. Nước Anh cũng vậy. Người đàn bà thép Margaret Thatcher xuất thân từ một gia đình mang đậm chất Anh. Trừ Thủ tướng Benjamin Disraeli, người không thừa nhận mình theo đạo Do Thái, nước Anh không có một Thủ tướng nào không phải là người da trắng hoặc là người theo đạo Cơ-đốc. Xã hội dân chủ đa chủng tộc có những sắc thái mà các nước thuần nhất một chủng tộc không thể tưởng tượng được. Mác chủng tộc thường được gắn với một nét xấu của chủng tộc đó. Ở Malaysia, người Hoa thường được coi là những kẻ hám tiền, còn người Ấn Độ được coi là những người nghiện rượu. Người Mã Lai, chủng tộc chiếm đa số ở Malaysia, bị coi là những người lười biếng và không có khả năng trí tuệ. Họ luôn rập theo những khuôn mẫu, thậm chí ở cả những tầng lớp tiến bộ và được học hành tử tế. Nhưng một nhà lãnh đạo giỏi không để cho họ có tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Khi tôi là Thủ tướng, mỗi khi tôi đưa ra một quyết định không hợp lòng dân hoặc mắc một lỗi nào đó, người dân tới tấp chửi rủa tôi là “người Mã Lai đần độn”. Nhưng khi tôi đưa ra những quyết định đúng đắn đem lại sự tiến bộ và thịnh vượng cho dân tộc thì họ cho đó là bởi tôi mang dòng máu Ấn Độ. Tôi muốn chứng minh một điều khác, đó là những người Mã Lai là những người còn có khả năng tư duy, khả năng phát triển và khả năng lãnh đạo hơn các tộc người khác. Gần như tất cả những người Mã Lai ở Malaysia đều ít nhiều mang một dòng máu không phải Mã Lai. Nhưng sự thật đó không làm giảm bản sắc Mã Lai của họ. Dường như chúng tôi đang đưa chính chúng tôi vào các hướng khó giải quyết, khiến cho việc điều hành đất nước đa chủng tộc của chúng tôi trở nên cực kỳ khó khăn. Các tộc người khác nhau sẽ có những phản ứng rất khác nhau trước Thủ tướng của họ và có những quyết định rất khác nhau. Người Mã Lai ở bán đảo từ lâu đã sống ở biên giới giữa bờ Đông và bờ Tây, nên họ kết hôn với những người khác chủng tộc và tộc người này trở thành tộc người mang dòng máu pha trộn sớm hơn hầu hết các tộc người khác. Hầu hết họ kết hôn khác chủng tộc với người Ấn Độ và người Ả rập. Trước kia, những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình này thường bị phân biệt một cách xúc phạm, hoặc bị gọi là DKK (Darah Keturunan Keling – người Mã Lai lai Ấn Độ), hoặc là DKA (Darah Keturunan Ả rập – người Mã Lai lai Ả rập). Ngày nay, những biệt danh đó không còn được sử dụng nữa. Sự phân cấp đó đã tạo ra những khuôn mẫu riêng biệt của chính những lớp người đó, nhưng một số khuôn mẫu đó là mang tính tiêu cực. Ngày nay ở Malaysia, là một người Mã Lai hay không không phải là vấn đề về nguồn gốc, về lịch sử của một gia đình có hôn nhân khác chủng tộc nữa và vì thế cách nói thông dụng “dòng máu” cũng không còn. “Bản sắc Mã Lai” là vấn đề đã được quy định trong luật pháp. Một người được coi là người Mã Lai nếu người đó hội đủ các điều kiện luật pháp quy định. Căn cứ theo Hiến pháp Malaysia, một người được coi là người Mã Lai nếu người đó thường xuyên nói tiếng Mã Lai, thực hành theo các tập quán, phong tục của người Mã Lai và là một tín đồ Hồi giáo. Ai đáp ứng được những yêu cầu này thì là người Mã Lai và được hưởng các quyền công dân ở đất nước này. Các công dân có nguồn gốc Mã Lai được hưởng các quyền nhất định đi kèm với quốc tịch hợp pháp này. Những người khác cũng trở thành công dân của Malaysia bằng cách vận dụng Hiến pháp và luật pháp, nhưng cơ sở luật pháp về tư cách công dân của họ có điểm khác, ít nhất là vào thời điểm này. Về cơ bản, tất cả những người sinh ra ở Malaysia và có nghĩa vụ thực hiện bổn phận đối với đất nước sẽ trở thành các thành viên của quốc gia và dân tộc Malaysia, chúng tôi hy vọng và đang lập kế hoạch cho chính sách “Bangsa Malaysia”. Khi chúng tôi chưa thực hiện được chính sách đó, mối quan hệ về chủng tộc ở Malaysia vẫn sẽ là một đề tài thu hút sự quan tâm và gây tranh luận kéo dài. Chúng tôi thường bị cáo buộc là những người có tính chất sô-vanh và điều khoản Hiến pháp quy định về “người Mã Lai” đôi khi bị coi là gây ra sự chia rẽ trong dân chúng và cũng là cái bẫy lôi kéo mọi người tham gia vào chủng tộc của chúng tôi. Trên thực tế, điều đó có nghĩa là hiểu chệch hướng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bằng cách đặt tất cả những người Mã Lai bình đẳng như nhau, bất kể dòng dõi tộc người của họ. Theo quan điểm của tôi, hướng đó cần phải được nghiên cứu, mặc dù Johor đã quyết định rất kỳ quặc khi không mở rộng quyền sở hữu đất đai của người Mã Lai cho những người có nguồn gốc Ả rập. Khái niệm luật pháp về người Mã Lai trở nên cần thiết khi những người không có bất kỳ đặc điểm nào hoặc mối liên hệ nào với người Mã Lai bắt đầu tuyên bố là người Mã Lai để hưởng một số quyền nhất định của người Mã Lai như sở hữu đất đai. Điều đó xảy ra khi các bang của người Mã Lai là thuộc địa của Anh. Nhưng khi Liên minh Mã Lai được thành lập năm 1946, người Anh muốn ban cho con cháu của những người Ấn Độ và người Hoa nhập cư địa vị công dân giống như những người Mã Lai bản xứ. Hậu quả là, vấn đề khái niệm về người Mã Lai trở nên khó hơn rất nhiều. Gia đình tôi và tôi luôn thực hiện tiêu chuẩn chính thức này. Nhưng tôi là một người Mã Lai không chỉ trên sách vở mà là một người Mã Lai với tất cả tình cảm và tâm hồn mình. Tôi đồng cảm hoàn toàn với người Mã Lai và các vấn đề của họ, với quá khứ và hiện tại, với thành công và thất bại của họ. Tôi không cư xử quá đa cảm và không phải không phê bình ai, nhưng luôn thấu đáo và chín chắn. Trong nhiều dịp, tôi đã chỉ trích người Mã Lai vì họ đưa ra các hướng giải quyết quá đơn giản, vì họ không muốn tự phát triển bản thân và vì họ có xu hướng phụ thuộc vào người khác. Tôi cũng bị đánh lừa bởi những ảo tưởng an ủi rằng, họ sổng ẩn dật khi họ sợ những thách thức mà họ phải đối mặt với tư cách là một cá nhân và với tư cách là quần chúng. Tôi thậm chí đã viết các cuốn sách về chủ đề này. Tôi luôn có lý do để thường xuyên thể hiện sự thất vọng này. Họ thường giận dữ trước tâm trạng thất vọng của tôi, nhưng họ cũng rất chiến lược. Họ dự định khuyến khích những người Mã Lai trung bình chủ nghĩa phát triển bản thân, tự chủ, tự tin và có khả năng, thay vì nghiêng theo người khác như một hành động đồng ý. Tôi vẫn tin như tôi vẫn đã tin khi tôi đưa ra một nhiệm vụ khó khăn là cần thay đổi hệ thống giá trị của người Mã Lai. Không ai có thể phủ nhận người Mã Lai là phương tiện để lập lên nhà nước Malaysia ngày nay nhờ chí khí của họ. Cho dù họ thiếu kỹ năng và thiếu sự thông thái, nhưng theo tôi, sức mạnh vĩ đại của họ là mong muốn và khả năng làm việc với người khác. Trước đây, khả năng chấp nhận của họ là quá lớn. Cuối những năm 1920, đầu những năm 1930, họ đã trở thành hoặc gần trở thành tộc người thiểu số trên chính đất nước của mình. Nếu không xảy ra biến cố lịch sử (cuộc khủng hoảng tài chính thế giới trong những năm 1930 không những ngăn được dòng người nhập cư vào Mã Lai mà còn khiến nhiều người đã sinh sống lâu năm ở đất nước này trở về Ấn Độ và Trung Quốc) thì người Mã Lai đã hoàn toàn đánh mất Mã Lai. Nhưng mãi đến cuối những năm 1940, nhờ kết quả của những sự kiện mà tôi sẽ đề cập đến trong cuốn sách này, tình thế đã thay đổi hoàn toàn. Cuộc chiến tranh đã làm người dân mất niềm tin vào người Anh và vào quyền cai trị của họ. Điều này đã thắp lên một tia sáng cho quyết định của người Mã Lai. Khi người Anh trở lại sau Thế chiến thứ Hai, họ cố thống trị Liên minh Mã Lai, liên minh mà các điều khoản công nhận tư cách công dân của mình không còn công nhận người Mã Lai là những con người lịch sử trên chính mảnh đất Mã Lai, khiến trên vũ đài chính trị xuất hiện một lực lượng mới không thể phủ nhận – một lực lượng khổng lồ, chủ nghĩa dân tộc Mã Lai đã vùng lên như một Tổ chức dân tộc thống nhất Mã Lai (UMNO). Trong một thời gian dài, người Mã Lai trên bán đảo Mã Lai đã chấp nhận một cách rất hiếu khách việc những người không phải là người Mã Lai đến nhập cư và đòi các quyền công dân. Đến nay, sau khoảng 450 năm thuộc địa, người Mã Lai đứng trên lập trường của họ, nhưng vẫn không hề ích kỷ. Đúng hơn, khi vị trí lịch sử của họ được công nhận, họ đã chứng tỏ được khả năng làm việc với người khác để xây dựng một quốc gia thịnh vượng và phồn vinh trong vòng chưa đến 50 năm. Các dân tộc khác có thể có tài năng đặc biệt trong các hoạt động thương mại và kinh doanh. Những người Mã Lai chúng tôi đã chứng tỏ được khả năng hài hòa xã hội và quản lý công đặc biệt của chính mình. Đó chính là cơ sở cho thành công của đất nước tôi. Một số vùng đất khác bị người châu Âu chiếm làm thuộc địa đã phải trải qua một cuộc đấu tranh bạo lực kéo dài để giành tự do. Nhưng người Mã Lai lại chấp nhận bị chiếm làm thuộc địa và chịu sự thống trị của nước ngoài một cách bình thản. Đã có một số kháng cự và một vài cuộc nổi dậy, tiêu biểu là ở Perak, công dân Anh có tên là J.W.W Birch đã bị ám sát tại Perak Salak bên bờ sông Perak. Ở Malacca (bang miền trung Malaysia), Quận trưởng Datuk Naning (tên thật là Datuk Abdul Said, quận trưởng thứ 9 của quận Naning, bang Malacca) đã đấu tranh chống lại người Anh vì họ đã áp đặt thuế đối với quận của ông. Ở Pahang và Terengganu (bang ở bờ biển phía đông của bán đảo Malaysia), có vài cuộc nổi dậy nhỏ do các quận trưởng lãnh đạo và ở bang Kelantan (bang phía bắc Malaysia), Tok Janggut, trưởng thôn Pasir Puteh, đã lãnh đạo cuộc nổi dậy chống lại người Anh năm 1915. Ít ngày sau họ đã chiếm quyền kiểm soát bang Kelantan và hệ thống tài chính của bang này. Trong tất cả các trường hợp này, người Anh đều lùng bắt các nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy, một số người bị giết. Ở Sarawak (bang phía đông Malaysia), những người Mã Lai trung thành với Brooke đã ám sát một người Anh. Những cuộc nổi dậy này thường rời rạc và mang tính cục bộ. Người Mã Lai không hợp sức lại, tạo thành một lực lượng hùng mạnh để đấu tranh giành lại độc lập từ tay đế quốc. Thay vào đó, trước khi những người Anh muốn chiếm đoạt tổ quốc Mã Lai của họ thông qua đề nghị thành lập Liên minh Mã Lai, dường như họ luôn sẵn sàng hợp tác với những ông chủ thực dân. Trước đó, người Mã Lai đã thề trung thành với chính quyền các bang của họ. Tuy vậy, ở một mức nào đó, họ đều nhận thức được rằng, tất cả họ đều cùng thành phần xuất thân hoặc cùng chủng tộc, nhưng những người Mã Lai trên toàn bán đảo không bao giờ tập hợp lại để cùng hành động. Lòng trung thành của họ dừng lại ở biên giới các bang. Vì vậy, từng bang một của Mã Lai đã rơi vào tay thực dân Anh. Ngày này, chúng tôi nói đến từ các dân tộc, cứ như là các dân tộc này đã tồn tại tự nhiên từ xa xưa. Tuy nhiên, một số dân tộc lớn đã bắt đầu chia thành nhiều lãnh địa nhỏ, gọi là Malay negeri, hay bang. Các nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Italy và Đức đều đã từng bị chia thành các bang nhỏ đứng đầu là các Hoàng tử hay các Tư lệnh. Ở mỗi nước này, một nhà lãnh đạo uy quyền xuất hiện và sử dụng lực lượng để hợp nhất các bang thành một quốc gia. Giuseppe Garibaldi, người thành lập nên nhà nước Italy thống nhất, được nhiều người coi là một tấm gương nổi tiếng. Tính kiên cường và khả năng thích nghi đã cho phép người Mã Lai phát triển mạnh trong một thế giới phải chứng kiến sự mất dần của vô số những người bản địa khác một cách đáng tiếc. Những người dân bản địa ở Mỹ và Caribe, những thổ dân Australia và người Maori ở New Zealand cũng mất dần bởi sự tấn công dữ dội của những tộc người châu Âu. Đất đai của họ bị cướp dần và những mảnh đất này giờ đây đã trở thành đất của các nước châu Âu. Nhưng người Mã Lai, những người bị cho là yếu kém, lười biếng và không có khả năng thích nghi, đã tồn tại được trước nạn thực dân hoá của người châu Âu, trước các cuộc tấn công và các mối đe doạ xâm lược của các nước láng giềng và họ vượt qua sự quy phục lâu dài như một chư hầu của các nước lớn châu Á. Do tồn tại qua một thời kỳ lịch sử lâu dài phải đối phó với các thế lực lớn hơn rất nhiều, chúng tôi, những người Mã Lai có khả năng trỗi dậy đúng lúc như những người có thể kiểm soát được số phận trong tay. Vì thế, chúng tôi được những quốc gia mới giành được độc lập khác ngưỡng mộ thực sự. Người Bosnia ở châu Âu và người Ả rập ngày nay cũng ngưỡng mộ người Mã Lai. Họ thường mong chúng tôi hướng dẫn họ cách quản lý những thay đổi và phát triển trong đất nước họ. Trong số tất cả những người Mã Lai trong khu vực, người Mã Lai trên đất nước Malaysia ngày nay được nhìn nhận như những người thành công nhất. Họ có khả năng cai trị và phát triển đất nước đa chủng tộc của mình với một loạt những vấn đề cố hữu và với nhiều thách thức. Các tộc người ở Malaysia được phân chia theo tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ, nhưng quan trọng hơn cả là được chia theo sự khác biệt trong sự phát triển và giàu có của họ. Tuy nhiên, người Mã Lai đã phát triển tiến bộ và đạt được những thành tựu đáng kể. Sau 50 năm giành được độc lập, từ một nước có đa số người dân thuộc tầng lớp nghèo nhất trong xã hội, nay Malaysia đã có những tiến bộ vĩ đại. Malaysia ngày nay có ít người nghèo hơn trước đây và những người sống trong nghèo đói được cung cấp các phương tiện và được tạo các cơ hội để sống tốt hơn. Một số người Mã Lai đã trở thành những chủ doanh nghiệp hoặc giám đốc những tập đoàn nổi tiếng, không phải bằng cách cho phép mình giành sự thịnh vượng của người khác để làm giàu cho chính mình. Malaysia đạt được sự phát triển kinh tế theo đúng luân thường đạo lý và đúng với pháp luật, không nhẫn tâm, độc ác. Sự phát triển kinh tế chỉ có thể đạt được nhờ xã hội ổn định và nhân dân được bình yên. Khả năng quản lý và năng lực chính trị của người Mã Lai đã giữ cho đất nước được hòa bình, ổn định và theo kịp với sự phát triển. Mọi người ít khi quan tâm đến khởi nguồn tài năng phục vụ các ngành dân chính mà người Mã Lai đã thể hiện quá rõ. Một số người không đồng ý với nhận định trên đã cho rằng, đó là nhờ hệ thống luật pháp của Anh – kết quả của những bài học và ví dụ về quản lý hành chính mà các thế lực thực dân đã dạy chúng tôi. Tôi tin rằng, có một nguyên nhân sâu xa hơn: Đó là truyền thống chính trị đã tồn tại từ thời các tiểu quốc Hồi giáo Mã Lai trước khi bị thực dân hoá. Ngày nay, người Mã Lai có mặt ở khắp nơi trên thế giới và gần đây nhất đã có mặt trên vũ trụ. Năng lực của họ ngày càng phát triển. Người Mã Lai hiện nay biết khoan thăm dò và khai thác dầu khí, biết xây dựng đường phố và các nhà máy điện, biết điều hành các tập đoàn và các ngành nghề kinh doanh đa quốc gia, trong đó có những tập đoàn sở hữu những kỹ thuật tinh vi và công nghệ hiện đại trên khắp thế giới. Họ đã ra nước ngoài và được coi là những nhà thầu, các nhà xây dựng và các doanh nhân có năng lực. Các công ty nước ngoài bây giờ đã thuê người Mã Lai giữ các chức vụ cao nhất. Người Mã Lai đã chinh phục đỉnh Everest, đã chèo thuyền buồm vòng quanh thế giới, bơi qua kênh đào của Anh, đi bộ một mình qua Nam cực và du hành vũ trụ. Malaysia là một nước có thời tiết nóng bức và độ ẩm cao, vì vậy, những thành tích trên đáng được trân trọng gấp đôi. Được tạo cơ hội và có quan điểm đúng đắn, người Mã Lai đã chứng tỏ được bản thân mình hết lần này đến lần khác. Các chính sách của nhà nước liên bang được áp dụng từ năm 1971 đã là cơ sở cho những thành tựu này và đem lại cảm giác tự tin cho các thế hệ trẻ tuổi Mã Lai. Các chính sách này luôn bị nhiều người châu Âu chỉ trích, cả các chính khách và các nhà báo. Thậm chí sau nhiều năm nghỉ hưu, tôi vẫn bị lăng mạ vì đã đẩy mạnh các chính sách đó. Thế cũng không sao. Những thành tựu của người Mã Lai là không thể phủ nhận được đối với những người công bằng và có suy nghĩ trong sáng. Dường như lịch sử dễ bị lãng quên. Ngoài việc để những người Mã Lai cho số đông người Hoa và người Ấn Độ nhập cư quản lý, người Anh cũng để đất nước Mã Lai chìm trong nghèo đói. Thu nhập tính theo đầu người của đất nước này năm 1957, năm giành được độc lập, là dưới 350 đô-la. Dưới chế độ thực dân Anh, hơn 70% dân số Mã Lai sống dưới mức nghèo đói. Tỷ lệ người biết chữ rất thấp và chỉ có khoảng 100 sinh viên tốt nghiệp đại học trên cả nước. Đường sá được xây dựng chỉ để phục vụ những vùng đất cao su và những vùng mỏ thiếc do ông chủ người Anh quản lý. Các cảng của Mã Lai bị cố tình kìm hãm sự phát triển nhằm bảo vệ cảng của thực dân Anh ở Singapore. Malacca bị phá huỷ và Penang không được phát triển nhằm tăng cường phát triển kinh tế Singapore. Sự thật, Singapore nằm tại vị trí chiến lược ở đầu bán đảo, giữa 13 nghìn đảo giàu tài nguyên, nhưng sự phát triển các cảng của bán đảo sau độc lập cho thấy, việc tập trung phát triển cảng Singapore không phải là việc thiết yếu. Các cảng của Mã Lai có thể phục vụ thương mại trong thời kỳ thuộc địa, nhưng Mã Lai lại hoàn toàn phụ thuộc vào việc xuất khẩu cao su và thiếc thông qua Singapore. Số lượng ngoại hối mà các ngành công nghiệp này thu được đều được chuyển về Anh. Sự thật quá đau buồn này không bao giờ được đề cập đến trên cái được gọi là “báo chí tự do” của châu Âu. Trái ngược hoàn toàn với trước đây, thu nhập đầu người của Malaysia hiện nay là hơn 7000 đô-la. Tỷ lệ người sống dưới mức nghèo là chưa tới 5% và chỉ có 1% là nghèo đói hoàn toàn. Tỷ lệ người biết chữ là hơn 90% và có hàng trăm nghìn người tốt nghiệp đại học. Mạng lưới các đường cao tốc hiện đại và các con đường trải nhựa đến các làng bản xa xôi nhất đã nối liền tất cả các phần của đất nước Malaysia với nhau. Nguyên nhân thành công của chúng tôi đã được thừa nhận. Sự hiểu biết kinh doanh của người dân và khả năng chịu đựng đã khiến bán đảo Mã Lai trở thành một nơi buôn bán thường xuyên và thành công hàng trăm năm trước. Bán đảo Mã Lai nằm ở nút giao giữa Trung Quốc, Nhật Bản ở phía đông và giữa Ấn Độ, Ả rập và châu Âu ở phía tây. Trong nhiều thế kỷ, các thương gia từ tất cả các nước và khu vực này đã bơi thuyền qua bán đảo Mã Lai để buôn bán với nhau. Nhiều người đã dừng lại và một số người đã định cư ở Malacca, kết hôn với những người dân ở đây. Ngày đó, phụ nữ không đi từ nơi này đến nơi khác để buôn bán cùng với các thương gia. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết người Mã Lai đều mang trong mình dòng máu pha trộn với người Hoa, người Ấn Độ, người Ả rập hoặc thậm chí người châu Âu. Nhưng những giá trị văn hoá, truyền thống và tôn giáo của họ mang đậm chất Mã Lai. Không phải người Mã Lai mà chính các dân tộc châu Âu đã bộc lộ nỗi ám ảnh về sự thuần khiết trong dòng dõi huyết thống. Họ thể hiện nỗi ám ảnh đó trong việc phân biệt chủng tộc mà họ áp đặt với các xã hội thuộc địa và trên chính đất nước họ ở châu Âu. Nhưng không ai có thể xây dựng được một chủng tộc hoặc một dân tộc trên một cơ sở nào khác ngoài dòng máu. Như người Mã Lai xác định, chủng tộc hoặc dân tộc có thể được xây dựng dựa vào văn hoá và lịch sử, cũng có thể xây dựng trên cơ sở nguồn gốc tôn giáo, sử dụng dòng dõi huyết thống như một tiêu chí. Nhưng ngày nay, con người có thể thay đổi giai cấp, nghề nghiệp hoặc nơi ở dễ dàng, rất khó có thể coi sắc tộc là tiêu chí duy nhất của chủng tộc. Ngay cả những người Anh sống ở đảo hiện nay cũng mang dòng máu Do Thái hoặc dòng máu châu Âu đại lục như được thể hiện qua chính cái tên của họ. Sự pha trộn dòng máu này ngày càng tăng lên, nên tính sắc tộc hay nhận dạng của một người sẽ không còn là một dấu hiệu chính xác về chủng tộc của người đó. Ví dụ, những công dân Anh gốc Ấn ngày nay được gọi là British chứ không phải là English. Nhưng cách gọi đó còn giữ được bao lâu nữa khi những người đàn ông Anh có con cái với những phụ nữ Ấn Độ, phụ nữ châu Phi và ngược lại? Một ngày nào đó, cần phải có một khái niệm luật để xác định người Anh. Đến lúc đó, người Anh có thể không được coi là người Anh nữa, cũng như người Mã Lai ngày nay không có một diện mạo về nhân loại học của người Mã Lai. Dòng máu pha trộn hay dòng dõi không làm cho một người bớt đi chất Anh hoặc chất Mã Lai. Người Mã Lai thuộc chủng tộc người da nâu, chủ yếu sinh sống ở Đông Nam Á, nơi có quần đảo rộng lớn đã từng được gọi là quần đảo Mã Lai. Ngày nay, người Mã Lai được chia thành 3 nhánh lớn: Người Indonesia; người Philippines; người Mã Lai ở bán đảo và người Mã Lai ở các bang Sabah và Sarawak bắc Borneo, được gọi là người Brunei. Sự phân chia này đơn thuần là mang tính chính trị, xuất phát từ lịch sử vùng đất này bị châu Âu chiếm làm thuộc địa, chứ không dựa trên bất kỳ một đặc điểm tôn giáo vốn có nào. Ví dụ, người Philippines tuyên bố công khai rằng, người hùng của nước họ là Jose Rizal, là một người gốc Mã Lai. Người Mã Lai ở Malaysia có nước da nâu tiêu biểu, chiều cao trung bình và dáng người cân đối. Họ thường có cánh mũi dẹt, đôi mắt đen mở to, mái tóc màu đen thẳng hoặc quăn gợn sóng và thường không có lông rậm. Những người phụ nữ Mã Lai thường có màu da sáng hơn và các cô gái có thể có nước da đẹp ấn tượng (tất nhiên một người Mã Lai giống tôi) mà ai đó đều cảm nhận được vẻ đẹp thầm kín ngay từ khi gặp họ. Không chỉ duyên dáng bề ngoài, người Mã Lai còn là những người có văn hoá, thường nhã nhặn, nghi thức và có năng khiếu nghệ thuật. Họ tôn trọng triệt để truyền thống, mặc dù điều này không được viết rộng rãi. Quan trọng hơn tất cả, họ sống theo những câu tục ngữ và châm ngôn mà mỗi đứa trẻ Mã Lai đều đã được học. Những câu tục ngữ và châm ngôn đó luôn đồng hành cùng họ, hướng dẫn họ đến với những nghi thức xã giao trong xã hội và là một nền tảng vững chắc đối với trí tuệ và nhận thức chính trị của họ. Tôn trọng các truyền thống được giữ gìn trong các câu tục ngữ và châm ngôn này là một mục tiêu giáo dục hiệu quả. Ở Mã Lai có hàng nghìn câu tục ngữ và châm ngôn, có lẽ là nhiều hơn bất kỳ nước nào khác. Đến nay, những câu tục ngữ và châm ngôn này thực sự ảnh hưởng đến thái độ và hình thành hành vi của người Mã Lai. Thật đáng tiếc, những câu châm ngôn này thường câu nọ mâu thuẫn với câu kia. Trong tình huống này, người Mã Lai có thể tìm được một câu châm ngôn chỉ dẫn cho hành động của anh ta hoặc thanh minh cho những gì định làm, nhưng anh ta cũng có thể vận dụng một câu châm ngôn khác để cho phép anh ta làm một điều hoàn toàn trái ngược. Người Mã Lai phải trung thành với Tiểu vương hay người cai trị họ theo câu châm ngôn Melayu tak akan derhaka kepada raja (Người Malay sẽ không phản bội Tiểu vương của mình). Nhưng một câu châm ngôn khác lại cho phép người Mã Lai đấu tranh với người cai trị mình nếu người cai trị mình không đúng như, Raja adil rajf disembah, raja zalim raja di sanggah (Tuân theo người cai trị đúng, phản đối người cai trị sai). Người Mã Lai hay phải chịu đựng những điều bất công và những việc làm sai trái của Tiểu vương hơn bất kỳ tộc người nào khác. Các cuộc nổi dậy và các cuộc cách mạng không được nhắc đến nhiều trong lịch sử Malaysia. Trong khi nhiều hoàng gia thường bị xoá sổ khi đất nước giành độc lập, như ở Ấn Độ và Indonesia, đặc biệt là ở Sumatra, nhưng ở bán đảo Mã Lai, tất cả 9 hoàng gia đều tồn tại qua thời kỳ này. Người ta nói rằng, 9 hoàng gia này đã chiếm một nửa số triều đại hoàng gia còn lại trên thế giới. Hệ thống giá trị của người Mã Lai trên bán đảo Mã Lai thường khác đáng kể so với hệ thống giá trị của các tộc người khác ở Mã Lai. Người Mã Lai thường thoải mái và dễ chịu hơn. Họ không hung tợn, ghét những việc làm thô bạo và đương nhiên là không bị cuốn vào các cuộc ganh đua. Ngược lại, những tộc người khác sống trên quần đảo Mã Lai vốn làm việc tích cực và chu đáo, đôi khi có thể tương đối hung bạo và có tính ganh đua mạnh mẽ. Nghi thức của Mã Lai khá phức tạp và là một bộ quy tắc ứng xử khá tinh tế. Tôi được giáo dục để trở thành một người lịch sự, kín đáo và phải tuân theo người lớn và bề trên của mình. Việc tôn trọng người lớn và bề trên phải được thể hiện triệt để bằng nhiều cách và trong cả lời nói. Lời nói của người Mã Lai thể hiện sự kính cẩn. Tất cả những lời nói kính cẩn này đến với tôi rất tự nhiên. Thực sự, tôi không thể gọi tên một người nào đó, đặc biệt là những người trong gia đình hoàng tộc Mã Lai mà không sử dụng các từ kính cẩn đó. Tôi thường phải sử dụng đến tiếng Anh để trốn chạy khỏi gánh nặng phải sử dụng những từ tôn kính, thậm chí là xun xoe đó trong ngôn ngữ Mã Lai. Ngôn ngữ Mã Lai cũng có một kho từ vựng rộng lớn và đa dạng để gọi những người khác nhau. Ngôn ngữ thể hiện sự thân mật giữa những người bạn được diễn đạt rất khác so với thể hiện sự thân mật giữa cha mẹ và con cái hoặc với cô dì, chú bác. Ngôn ngữ cử chỉ còn tinh tế hơn cả ngôn ngữ lời nói. Đây là sự thể hiện rất đặc sắc bộ quy tắc ứng xử lịch sự của người Mã Lai. Khi đi qua những người già hoặc người lớn tuổi hơn mình, bạn phải cúi nhẹ về phía trước và phải hạ thấp cánh tay phải, cứ như là ngăn cho chân không vô tình chạm phải người mà mình vừa bước qua. Đá chân hoặc chạm chân vào một ai đó được coi là một hành động rất khiếm nhã. Chỉ chân vào bất kỳ cái gì để nói với bất kỳ ai là điều cấm kỵ. Người nước ngoài thường không thể hiểu được các cử chỉ tinh tế biểu thị thái độ cư xử này. Năm 1985, Tạp chí Kinh tế Viễn Đông đã đưa tin rằng, Thủ tướng Tunku Abdul Rahman đã từ chối khi tôi cố hôn tay ông. Sự việc đó được hiểu theo nghĩa là Thủ tướng Tunku đã thẳng thừng từ chối tôi. Trong nghi thức của người Mã Lai, một người chức vụ thấp hơn phải hôn tay cấp trên của mình, đặc biệt nếu cấp trên thuộc tầng lớp quý tộc như Thủ tướng Tunku. Tuy nhiên, nếu cấp trên thuộc tầng lớp quý tộc đó cảm thấy rằng, người định hôn tay mình cũng có địa vị cao, ông sẽ rút tay về trước khi được hôn. Điều này cho thấy người được hôn đó được giáo dục tử tế và hiểu được địa vị của người khác. Khi Thủ tướng Tunku rút tay về trước khi tôi có thể hôn tay ông, có thể hiểu là tôi không phải là người có địa vị thấp hơn ông. Ông không khiếm nhã, cũng không gạt tôi ra, mà theo nghi lễ của người Mã Lai, ông rất lịch sự. Chỉ những người không có khả năng thể hiện nghi thức hoặc những người ngu dốt mới không hiểu được sự tinh tế này. Mặc dù đã quá quen thuộc với những cử chỉ đó, nhưng tôi đã sớm hiểu ra rằng, không nên đối xử với người nước ngoài, những người không phải là người Mã Lai và đặc biệt là những người châu Âu theo cách như với người Mã Lai, bởi vì họ có thể không hiểu được những sắc thái trong phép xã giao của người Mã Lai. Tác giả Joseph Conrad đã nghĩ rằng, khi người Mã Lai gọi một người châu Âu là tuan (hiểu theo nghĩa đen là “chủ”), thì hiểu theo cách của người Mã Lai có nghĩa là người châu Âu là bậc trên. Như thế tác giả Conrad đã dịch từ tuan tiếng Mã Lai sang từ “Lord – Vua chúa” tiếng Anh, vì thế ông đã sử dụng từ “Lord Jim” trong cuốn sách cùng tên. “Lord Jim” không phải là một Vua chúa của Anh bởi vì tôi đã tìm hiểu trước khi tôi đọc cuốn sách. Jim đơn thuần chỉ là tuan Jim hoặc Marster Jim, đó mới là cách mà những người Mã Lai tác giả gặp gọi. Trong một thời gian dài, người Mã Lai hy vọng mọi người hiểu rằng, những tước vị này khi được gọi ra là thể hiện sự lịch sự, chứ không phải là một dấu hiệu biểu thị địa vị thực sự. Vì vậy, tất cả những người Hoa được người Mã Lai gọi là towkay, tất cả những người Ấn Độ đều được gọi là aya và tất cả những người Ả rập và những người châu Âu đều được gọi là tuan, bất kể địa vị và chỗ đứng của họ trong xã hội. Vì thế, tôi quyết định thể hiện những cử chỉ lịch sự của người Mã Lai đối với những người được giáo dục cẩn thận về nghi lễ của Mã Lai, còn thể hiện bộc trực hơn đối với người nước ngoài, đặc biệt là người châu Âu khi tôi giao thiệp với họ. Người châu Âu thẳng thắn và bộc trực. Trong phong cách diễn thuyết của họ, họ chê rất tự nhiên và bôi nhọ thẳng thừng. Trong thế giới của người Mã Lai, điều đó là vi phạm ranh giới ứng xử đẹp. Thật đáng tiếc, nhiều người châu Âu đã cư xử cứ như họ là bề trên và là người hiểu biết hơn những người châu Á. Hàng nghìn lời bình luận về Malaysia được đăng tải trên các tập san và báo chí nước ngoài dường như hé lộ một sự bảo đảm chắc chắn rằng họ có thể lãnh đạo Malaysia hơn bất kỳ người Mã Lai nào. Họ đề nghị tình nguyện làm cố vấn mãi mãi cho Malaysia, nhưng thật xấu hổ khi họ để lại cho người Mã Lai, vào năm 1957, một đất nước nghèo nàn và kém phát triển. Riêng bản thân tôi cảm thấy như bị lôi ra để bôi nhọ thường xuyên. Tôi thường mất thời gian để nhắc cho họ thấy về chính hành động dở dang và hành vi nghèo nàn của họ, về quá khứ và hiện tại. Tuy nhiên, họ dường như mù và điếc khi hỏi tại sao tôi không nghe theo lời khuyên của họ. Nhiều người trong số họ nghĩ rằng, chúng tôi nên duy trì chế độ dân chủ tự do, mô hình thực tiễn của chính nước họ mà quên rằng thành phần kinh tế, chủng tộc, tôn giáo, văn hoá và xã hội của chúng tôi khác hoàn toàn so với nước họ. Theo họ, chúng tôi thích giữ vững truyền thống văn hoá và tập hợp các chuẩn mực đạo đức một cách ngoan cố và thích theo đuổi một nền dân chủ tự do thoải mái, dưới hình thức mà chúng tôi cho là phù hợp với đất nước đa sắc tộc còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn của chúng tôi. Mặc dù họ liên tục yêu cầu rằng, chúng tôi nên cởi mở hơn trước những lời chỉ trích, họ vẫn không thể khiến người ta quên được tội diệt chủng mà họ phạm phải để thành lập các nước châu Âu mới bên ngoài châu Âu. Khi tôi đưa vấn đề này ra, sự chỉ trích của họ đối với tôi tăng lên gấp đôi. Ví như, họ bình luận chê bai chương trình hành động kiên quyết của Malaysia và thể hiện sự căm phẫn của họ trước chính sách phân biệt đối xử, ủng hộ người Mã Lai và những tộc người bản xứ khác hơn người Hoa và người Ấn Độ. Dường như họ không nhận thấy sự nông cạn của mình khi bình luận chê bai như vậy, hoặc họ có học vấn thật kém khi đưa ra những lời chỉ trích như vậy. Khi người Anh cai trị Mã Lai, họ luôn giữ độc quyền đối với những công việc trong chính quyền và ra lệnh phá một diện tích lớn đất rừng để xây dựng vùng rừng cao su và khai thác mỏ thiếc. Họ đã quên mất rằng, ngay cả Tiểu vương của các bang ở Mã Lai mà họ cai trị cũng không được phép tham gia các câu lạc bộ dành riêng cho họ. Đối với họ, chỉ có một cơ sở duy nhất cho tất cả sự phân biệt đối xử tàn nhẫn của họ: Quan điểm sai lầm của họ về sự vượt trội vốn có của chủng tộc họ. Vì thế, họ không thay đổi nhiều. Họ có thể rút khỏi Malaysia nhưng họ tiếp tục đưa ra những lời khuyên không ai mong muốn và truyền bá những quan điểm, tư tưởng và các hệ thống của họ bằng vũ lực. Lịch sử là một tập hợp các sự kiện để nhớ, mà sự kiện để nhớ lại được lựa chọn. Những người vội vàng lên án chúng tôi ngày hôm nay quên rằng, những vấn đề về chủng tộc của Malaysia là xuất phát từ lòng tham của họ. Họ muốn bòn rút của cải của nước chúng tôi mà không hề có một chút trách nhiệm nào đối với sự phát triển kinh tế hoặc đối với hạnh phúc của người dân nước tôi. Họ cho phép người Hoa và người Ấn Độ nhập cư không hạn chế vào các bang của Mã Lai cho đến khi số người nhập cư còn đông hơn số người Mã Lai. Nếu nước Anh cho phép người Hoa và người Ấn Độ nhập cư cho tới khi người nhập cư chiếm 40% dân số của họ thì điều gì sẽ xảy ra đối với các công nhân Anh và các hiệp hội của họ? Nước Anh sẽ không còn là vùng đất của người Anh, người Scotland và người xứ Wales. Nếu không có sự phân biệt đối xử, người Hoa và người Ấn Độ cần cù, tài giỏi sẽ chiếm hết các vị trí cao cấp trong chính quyền, điều hành tất cả các doanh nghiệp và các cửa hàng. Còn những người dân bản địa sẽ làm lái xe và người làm vườn cho những người nhập cư đó. Người Anh chắc chắn sẽ không cho phép dòng người nhập cư vào nước Anh lớn như họ đã cho phép nhập cư vào Mã Lai thời họ còn cai trị Mã Lai. Thậm chí đến nay, trong dân số của họ chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ người Ấn Độ, người Hoa và các tộc người không phải người châu Âu khác, nhưng cũng đủ để làm họ cảm thấy khó chịu. Họ có nhiều cuộc nổi loạn sắc tộc đáng sợ hơn cuộc nổi loạn của chúng tôi. Chính phủ Anh làm ra vẻ là một chính phủ tự do và không phân biệt chủng tộc. Đâu đó trên đất nước Anh, bạn có thể thấy một nhân viên hải quan, một nghị sĩ hoặc một thị trưởng người châu Á lạc lõng. Nhưng rõ ràng, họ đang hạn chế số người nhập cư châu Á. Người Do Thái và người châu Âu được người Anh chào đón, nhưng người châu Á và người châu Phi phải tuân thủ theo một quy định ngầm. Người châu Âu sẽ có quyền chỉ trích Malaysia, người Mã Lai và những chính sách hành động kiên quyết của chúng tôi nếu họ cho phép vài trăm triệu người Hoa, người Ấn Độ và người châu Phi nhập cư vào đất nước của họ. Chỉ cần số người nhập cư này đông gần bằng họ, chúng ta sẽ thấy họ hát bằng giọng điệu như thế nào: Liệu họ có tiếp tục chỉ trích chúng tôi vì những gì chúng tôi đã làm hay họ sẽ hành động giống như chúng tôi? Người Anh khuyến khích người Hoa nhập cư và chuyển sang Singapore để đảm bảo nền tảng kinh tế và nhân lực cho các hoạt động thương mại và mậu dịch của Anh. Đến năm 1963, 3/4 trong số 3,5 triệu người sống ở Singapore là người Hoa. Tuy nhiên, về mặt lịch sử và địa lý, Singapore là một phần của Mã Lai. Ở các khu vực khác của thế giới, khi đất của người bản địa bị những người đến sau và những người nhập cư lấy đi thì người bản địa sẽ gây nên một cuộc chiến đẫm máu, kéo dài để giành lại quyền của họ, như ở Bắc Ireland, Palestine và một số nước thuộc địa ở châu Phi. Nhưng trong trường hợp Singapore, cuộc chiến đó đã không xảy ra. Những người Hoa nhập cư đã lấn át người Mã Lai bản địa. Người Mã Lai bản địa trở thành một tộc người thiểu số tầm thường trong một đất nước có đại đa số người Hoa. Singapore chấp nhận gia nhập Malaysia càng làm tăng thêm khả năng rằng, một Singapore với đại đa số là người không phải gốc Mã Lai có thể đang cố gắng thống trị Malaysia. Trong giai đoạn ngắn Singapore thuộc Malaysia (1963 – 1965), nhà lãnh đạo Singapore Lý Quang Diệu đã cố gắng thực hiện kế hoạch đó. Cuối cùng, Singapore đã bị tách khỏi Malaysia. Đây là cách mà người Mã Lai thực hiện. Thay vì đối xử gay gắt, người Mã Lai chỉ yêu cầu người Singapore rời khỏi đất nước mình trong hòa bình. Người châu Âu không để ý đến cách xử sự hòa nhã của người Mã Lai với các tộc người khác. Tuy nhiên, người châu Âu chắc chắn không thể quên được họ đã đối xử với những người Da đỏ bản địa, người Caribe ở Caribe, thổ dân Australia và người Ấn Độ như thế nào. Chắc họ cũng nhớ rằng, để đạt được những khái niệm về bình đẳng trong quá khứ, hàng trăm nghìn người đã phải chết trong các cuộc Cách mạng Pháp và Cách mạng Nga. Những hành động chém giết và hung bạo vẫn chưa dừng lại khi các cuộc cách mạng kết thúc. Cách mà người Malaysia thực hiện có thể có vẻ không công bằng đối với một số người, nhưng cần phải ghi nhận rằng, trong quá trình chúng tôi lớn mạnh và phát triển, không người nào phải hy sinh, cũng không ai bị tước đoạt của cải vật chất. Thay vào đó, chúng tôi đã mở rộng “chiếc bánh kinh tế” để tất cả đều được hưởng phần chia lớn hơn trước đây, để những người kém may mắn nhất có thể được hưởng phần chia lớn nhất và để họ sẵn sàng làm việc nhằm kiếm được phần bánh chia đó. Kết quả như mọi người đều thấy, đất nước chúng tôi ổn định và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Ngay cả trong thời gian khủng hoảng kinh tế châu Á, Malaysia vẫn không hề xảy ra xung đột sắc tộc như ở các nước láng giềng. Vì điều này, Malaysia nhận được ít niềm tin của các nhà phê bình châu Âu. Khi họ ra sức thuyết phục tôi chấp nhận các học thuyết công bằng và bình đẳng của họ, tôi đã nhắc nhở họ rằng, họ chưa bao giờ đối xử bình đẳng và hiếm khi đối xử công bằng với người dân trong các thuộc địa của họ. Vì vậy, người châu Âu càng ghét tôi hơn. Tôi bị gắn cái mác là một kẻ độc tài. Nếu tên tôi được nhắc đến thì sau đó là nhắc đến chuyện tôi đã bỏ tù một trong những cấp phó của mình. Họ thường nhìn thấy và hình dung những mặt tiêu cực, chứ không thấy được những thành tựu tích cực của chúng tôi. Những thay đổi vĩ đại, sự chuyển đổi xã hội to lớn và tiến bộ từ một nước thuộc địa nghèo đói sang một nước Malaysia ngày nay không được đề cập đến một cách lịch sự. Các nhà văn, nhà báo và các quan chức châu Âu hiếm khi nói một lời về khả năng rõ ràng của người Mã Lai. Người Mã Lai có thể trở thành những chính trị gia, những nhà quản lý có khả năng phát triển đất nước họ. Nếu có hiếm hoi đề cập đến những thành tựu này thì họ cũng mở đầu bằng những lời nhận xét làm mất uy tín của chúng tôi như chúng tôi kiểm soát báo chí, cai trị độc tài và can thiệp chính trị vào bộ máy tư pháp. Hầu hết người Mã Lai đều không bao giờ muốn xúc phạm người khác. Họ giấu sự thất vọng và giận dữ của họ trước những lời bôi nhọ của người nước ngoài. Tôi không giấu như thế. Ở khía cạnh này, tôi có thể không phải là một người Mã Lai hoàn toàn. Tôi đã học được tính thẳng thắn của người nước ngoài và thể hiện khi đối phó với họ. Không giống như nhiều người Mã Lai khác, tôi không còn quá ngượng ngùng khi bảo vệ mình và lợi ích của chính mình hoặc quá lịch sự khi bảo vệ phẩm giá của mình trước những lời nói và hành động thô bỉ. Tôi đã học được cách của họ và họ phải trả giá vì những bài học mà họ đã dạy tôi. Những khái niệm của người Anh về sự ưu việt của chủng tộc của mình dường như đều để lại dấu ấn trong những vùng lãnh thổ mà họ đã từng chiếm đóng. Khi tôi bay từ Australia tới Fiji, tôi được xếp ngồi phía đuôi chiếc Boeing 747 cùng với những người gốc Australia sống trên các đảo ở Tây Thái Bình Dương và những người Australia gốc Ấn. Không có một hành khách da trắng nào ngồi ở phía cuối máy bay. Không thể là ngẫu nhiên mà tất cả người da trắng đều ngồi ở phía trước. Khi tôi bay trở về, việc sắp xếp chỗ ngồi lại rất khác. Tôi ngồi cùng với các thành viên của Uỷ ban Khối thịnh vượng chung, trong đó có một số người da trắng. Thật khó tin rằng, việc xếp chỗ ngồi cho chúng tôi chỉ là ngẫu nhiên, bởi ở đó không có ai là người gốc Australia sống trên các đảo ở Tây Thái Bình Dương. Chính sách “Australia da trắng” đã chính thức được bãi bỏ, nhưng dư âm của chính sách này vẫn còn thể hiện trong sự vụ bạo động ở Cronulla tháng 12 năm 2005, khi những thanh niên da trắng tấn công những người có nguồn gốc Ả rập tại bãi biển Cronulla ở Sydney. Một lần, tôi bị một nhà văn Australia chỉ trích vì đã phê bình chủng tộc của chính tôi và làm họ giận. Ông khẳng định, một người Mã Lai sẽ không làm thế. Nói chung, ông ấy đã đúng. Nhưng tôi đã hiểu được rằng, để được lắng nghe trên vũ đài thế giới, bạn phải áp dụng nhiều nguyên tắc khác nhau và phải thể hiện những nguyên tắc đó. Nguyên tắc của cuộc chơi đòi hỏi tôi phải dũng cảm nói ra và không bận tâm nhiều đến việc làm mọi người hài lòng, thậm chí là cả những người thuộc chủng tộc của mình. Tôi phát biểu quan điểm của mình và nói những gì phải nói. Đôi khi, người ta cần phải trao đổi thẳng thắn, mà không cần tế nhị ngay cả với những người Mã Lai đồng chí. Đôi khi người ta phải thể hiện buồn một chút, chỉ để gây được sự chú ý của họ. Tôi không bao giờ ru ngủ người Mã Lai để họ thỏa mãn với chính mình. Nếu ai đó ôm hôn mọi người và nói rằng họ là những người tài giỏi và có khả năng, trong khi thực tế không phải vậy, thì những người được ôm hôn đó sẽ không cần phải cố gắng để phát triển bản thân và vươn lên để vượt qua những thách thức. Họ sẽ không có động cơ hoặc sự khích lệ để vươn lên. Còn lời quở trách nghiêm khắc nhưng quan tâm có thể giúp họ có được những động cơ đó. Không thể nói rằng tất cả đều tốt đẹp trong thực tế không phải vậy, khi mọi điều còn xa mới đạt đến sự hoàn hảo. Chính sách kinh tế mới được phần lớn mọi người coi là một chính sách thành công và ấn tượng. Ngày nay, nhiều người Mã Lai đã thành công trong kinh doanh và trong các ngành nghề khác. Tầng lớp trung lưu Mã Lai đã tăng lên đáng kể. Điều đó nói lên rằng, nếu người Mã Lai coi trọng những cơ hội dành cho họ thì số người Mã Lai thành công trong xã hội của chúng tôi đến giờ sẽ lớn hơn. Nếu có cơ hội, họ sẽ sẵn sàng làm việc vất vả hơn. Cá nhân tôi cảm thấy xấu hổ khi nghe thấy những vụ việc như người Mã Lai không thể trả nợ khi họ lạm dụng niềm tin của mọi người, khi họ bán giấy phép, giấy môn bài, hợp đồng mà chính phủ ưu tiên cho họ theo Chính sách kinh tế mới. Thật buồn, trong khi Chính sách kinh tế mới đã mang lại rất nhiều lợi ích cho những người sẵn sàng cố gắng tìm kiếm những khả năng mà nó mang lại thì Chính sách này cũng đã tạo ra một văn hoá thừa nhận quyền được ưu tiên trong số những người Mã Lai có ít động cơ hơn. Vì vậy, trong khi Chính sách kinh tế mới đã sinh ra một số người Mã Lai có đạo đức tốt, thì nhiều người trở nên kém cỏi hơn bởi những đặc quyền mà chính sách này ban cho họ. Tôi lo cho các thế hệ sau. Tôi sợ rằng con cái của những người cho rằng họ có đặc quyền sẽ coi chính sách đó là đương nhiên và không bao giờ chịu học hỏi để có thể độc lập về kinh tế và tri thức. Chấp nhận có thể mất đi sự yêu quý của mọi người, tôi sẽ tiếp tục thúc giục họ, khiêu khích, động viên họ với suy nghĩ giúp họ vươn lên. Tôi tin tưởng chắc chắn vào sự lãnh đạo bằng cách làm gương. Trong hành động của chính mình, tôi từ chối những khuôn mẫu sẵn có của người Mã Lai và thực hành những giá trị mà tôi muốn người Mã Lai phải chấp nhận. Ví dụ, mọi người thường hỏi tôi lấy nghị lực ở đâu. Họ thường có khái niệm chung là người Mã Lai không có khả năng làm việc chăm chỉ. Để mọi người thay đổi cách đánh giá này, trong suốt 22 năm làm Thủ tướng, tôi không bao giờ cho phép mình nghỉ ngơi hoàn toàn. Trở về sau những chuyến công du nước ngoài, tôi quay trở lại văn phòng ngay trong ngày hôm đó. Giờ làm việc của tôi dài hơn giờ làm việc của hầu hết những công chức chính phủ và các Bộ trưởng. Tôi không chơi golf, hiếm khi xem những trận đấu như bóng đá hoặc cầu lông và chỉ cưỡi ngựa một tuần một lần. Tôi lấy nghị lực từ một điều đơn giản là tôi thích làm việc. Khi tôi là Bộ trưởng, Phó Thủ tướng và sau này là Thủ tướng, những gì tôi mong chờ nhất là được nhìn thấy kết quả của những ý kiến, chính sách và chỉ đạo của tôi, được nhìn thấy những điều tôi mường tượng trong tâm trí trở thành hiện thực. Khi tôi thấy những người được lựa chọn đào tạo theo các chương trình của Chính sách Hướng Đông, tôi rất hài lòng. Tôi thấy rằng, thế hệ những người Malaysia mới này đã không bộc lộ sự thiếu tự tin như những người Malaysia khác. Tôi thấy họ được đánh giá cao khi ở nước ngoài. Bản thân tôi phải làm việc chăm chỉ để gây ấn tượng đối với mọi người, đặc biệt là người Mã Lai, về ưu điểm của sự làm việc chăm chỉ. Tôi phải để họ hiểu rằng, đây là con đường duy nhất mang lại thành công trong cuộc sống và phát triển đất nước. Tôi luôn sốt ruột muốn nhìn thấy kết quả. Đây là một điểm khác thường đối với một người Mã Lai. Nếu như cả cộng đồng làm việc chăm chỉ thì thành công sẽ là kết quả đương nhiên. Và càng làm việc chăm chỉ, bạn càng sớm nhìn thấy kết quả. Tất nhiên, có nhiều lý do để tôi cố gắng hết mình. Sau khi nghiên cứu kỹ lịch sử của Mã Lai, tôi đã nhận ra rằng sự chăm chỉ của người Hoa và người Ấn Độ đã đóng góp lớn cho thành công của Malaysia. Trong thương mại, sự nhạy bén và đạo đức làm việc của người Mã Lai còn nhiều điều phải bàn đến. Họ dường như không nhận thấy rằng, việc trả nợ nhanh chóng và sự tin cậy về khả năng trả nợ là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh doanh. Nhiều người mượn tiền để kinh doanh, nhưng họ chỉ sử dụng một nửa số tiền vay được cho các hoạt động kinh doanh thực sự, đồng nghĩa với việc họ phải trả lãi suất gấp đôi. Với một nửa số vốn, họ khó có thể kiếm đủ để trả nợ cho toàn bộ khoản vay. Khi không trả được nợ, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đi tắt và chuyển giao sản phẩm kém chất lượng. Họ đánh mất niềm tin của khách hàng, của ngân hàng và những người thực hiện hợp đồng phụ. Họ bị ghi vào danh sách đen và tất cả người Mã Lai khác đều bị đánh đồng là có những khuyết điểm như họ. Tôi từng biết một người kinh doanh xăng dầu đã đầu tư tiền lãi vào lĩnh vực kinh doanh khác. Khi lĩnh vực kinh doanh này bị phá sản, anh ta không có khả năng thanh toán cho kho dầu đã mua chịu. Sau vài lần không trả được nợ, nhà cung cấp bắt đầu yêu cầu anh ta phải mua hàng trả trước. Anh ta không còn tiền để mua và cũng không thể vay thêm từ ngân hàng. Cuối cùng, anh ta đã để mất cây xăng. Tôi biết vụ việc này vì chính anh ta đã khẩn khoản đề nghị tôi trực tiếp chỉ đạo công ty dầu khí để được tiếp tục điều hành cây xăng. Khi tôi tìm hiểu kỹ hơn về vụ việc này, tôi được biết anh ta không thanh toán được tiền xăng đã mua. Rõ ràng, anh ta không phải là người duy nhất làm vậy. Con sâu bỏ rầu nồi canh, vì một số ít người như vậy mà hiện nay những người Mã Lai kinh doanh xăng dầu chân chính phải mua xăng trả trước. Uy tín của một số ít nhà thầu người Mã Lai đã bị ảnh hưởng xấu do vụ việc liên quan đến việc xây dựng các phòng thí nghiệm có trang bị máy tính ở trường học. Chúng chỉ đơn giản là các toà nhà được trang bị máy tính, nhưng thay vì tự mình xây dựng, các nhà thầu đã bán hợp đồng của họ cho các nhà thầu khác. Các nhà thầu khác lại bán các hợp đồng đó để kiếm tiền trả trước cho một nhóm các nhà thầu. Quá trình này diễn ra cho tới khi mức lợi nhuận là âm và hợp đồng không thể thực hiện được. Nhà thầu cuối cùng khi đó sẽ cố gắng xây dựng các phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng các vật liệu kém chất lượng và trong nhiều trường hợp, họ còn không thể thanh toán cho các nhà cung cấp và các nhà thầu phụ. Kết quả là, hoặc họ không hoàn thành dự án hoặc toà nhà bị đổ trước khi được đưa vào sử dụng. Vấn đề này thường xuyên được nêu bật trên các báo và các nhà thầu người Mã Lai mang tiếng là tắc trách. Nguyên nhân để xảy ra những điều này có thể được giải thích ngắn gọn bằng một từ: Lòng tham. Đó là lòng tham muốn làm giàu nhanh chóng mà không làm điều gì để xứng đáng với số của cải kiếm được. Lịch sử là người thầy trung thực nhất trong trường hợp này nhưng các học sinh của họ lại không tập trung chú ý. Đầu thế kỷ XX, các Tiểu vương Mã Lai đã không thu được thuế, bởi những nhân viên thu thuế người Mã Lai của họ đã biển thủ rất nhiều tiền trong số thuế mà họ thu. Đúng lúc đó, một ông chủ người Hoa đã đến đề nghị bảo đảm thu được nhiều thuế hơn cho Tiểu vương nếu ông ta được trao quyền thu thuế cho hoàng gia. Đó là thực tế chung trong những ngày đó. Dần dần, độc quyền thuốc phiện, độc quyền hương liệu, độc quyền thu thuế, v.v... đều được trao cho những ông chủ người Hoa vì họ bảo đảm sẽ đem đến lợi nhuận cao hơn cho các Tiểu vương. Qua thời gian, nhu cầu tuyển dụng những nhà quản lý người Mã Lai giảm dần và người Mã Lai trở nên kém hơn trong kỹ năng quản lý, ít quyền lực và nghèo hơn, trong khi người Hoa trở nên giàu hơn và có ảnh hưởng hơn. Những bài học này vẫn phải được xem xét cho đến tận ngày nay. Nếu người Mã Lai không làm việc chăm chỉ, có thể một ngày nào đó khi thức dậy họ sẽ nhận thấy rằng đất nước này không còn là của mình, và đánh mất quyền sở hữu trên chính mảnh đất của mình. Viễn cảnh này có thể xảy ra. Nếu người Mã Lai nhận đút lót, họ có thể bị đồng tiền xoay chuyển để bầu các chính phủ sẵn sàng bán quyền thừa kế của họ cho những người trả giá cao nhất, những người có thể không phải là người Mã Lai. Đưa ra những lời nhận xét chê bai và những phân tích phê phán người Mã Lai, không phải tôi muốn sỉ nhục họ mà muốn khuyến khích thói quen tự xét mình, một thói quen mà tôi hy vọng có thể giúp họ tự phát triển. Người Mã Lai có những yếu kém và nhược điểm đáng kể. Nhưng họ cũng thể hiện nhiều đặc tính mà họ có thể tự hào. Thực vậy, đất nước Malaysia được như ngày nay là nhờ sự giúp đỡ hào phóng và tốt bụng của những người Mã Lai đối với những người muốn coi đất nước này là quê hương. Nhiều công dân Malaysia không phải gốc Mã Lai đã nhập cư đến Malaysia, nhưng đất nước Malaysia không có sự thù oán giữa các tộc người. Những người nhập cư đó vẫn được coi là những công dân trung thành. Khi tôi trở thành Thủ tướng năm 1981, Malaysia có dân số là 13 triệu người, trong số đó có 7 triệu là người Mã Lai. Ngày nay, dân số của Malaysia là 25 triệu, gần gấp đôi năm 1981. Tỷ lệ người Mã Lai có phần tăng lên, nhưng những đóng góp của họ chưa tương xứng với tỷ lệ dân số. Họ đã hưởng ứng lời kêu gọi của tôi và có đóng góp lớn hơn đối với sự phát triển của đất nước nhưng cần phải làm nhiều hơn thế. Người dân ở các nước đang phát triển trên khắp thế giới đánh giá cao tốc độ phát triển của Malaysia. Tôi tự hào, nhưng trong tôi vẫn phảng phất nỗi buồn. Chúng tôi có thể làm tốt hơn. Người Mã Lai có thể làm tốt hơn. Tôi biết họ có thể. Khi đã về hưu, tôi không thể làm được gì hơn ngoài việc kêu gọi họ. Tôi cầu nguyện, nhưng tôi biết, Thánh Allah sẽ không thay đổi số phận của bất kỳ người nào nếu người đó không nỗ lực thực sự để thay đổi bản thân. Tôi lo lắng cho người Mã Lai và lo sợ cho tương lai của họ, nhưng điều đó không thay đổi được thực tế rằng tôi tự hào vì mình là một người Mã Lai. Tôi sẽ không muốn là người của một chủng tộc khác. Như trước đó, một người La Mã đi bất kỳ đâu trên thế giới cũng luôn tự hào tuyên bố mình là công dân La Mã. Về phần mình, tôi muốn mình có thể đi bất kỳ nơi nào trên thế giới và nói đầy tự hào: “Tôi là người Mã Lai”. 4. Câu chuyện của người Mã Lai Để hiểu được người Mã Lai, trước tiên chúng ta cần xem xét nguồn gốc và hành trình đến nơi mà hiện nay họ đang sinh sống. Tôi bắt đầu nghiên cứu này từ rất sớm và biết rằng nếu định đấu tranh cho sự nghiệp và tương lai của người Malaysia, tôi cần phải biết về họ tường tận hơn. Những gì tôi được dạy ở trường còn rất sơ sài. Ngoài những cuốn sách giáo khoa, tôi còn đọc thêm những cuốn sách về lịch sử Mã Lai do các tác giả người Anh như Richard Winstedt, Frank Swettenham và nhiều tác giả khác viết. Tôi cũng đọc cuốn Sejarah Melau (Mã Lai biên niên sử), Hikayat Hang Tuah (Tuyển tập các câu chuyện về chiến binh Hang Tuah) và Hikayat Merong Mahawangsa (Kedah biên niên sử). Trong lịch sử thế giới, người Mã Lai được đề cập đến trong các tài liệu từ thời Alexander Đại đế. Ptolemy, nhà thiên văn học đồng thời là nhà toán học Hy Lạp của thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, đã coi bán đảo Malaysia là “Bán đảo vàng”. Đối với người Ấn Độ, bán đảo này được gọi là Suvarnadvipa, nghĩa là “Bán đảo vàng”. Tomé Pires, thầy thuốc người Bồ Đào Nha đã viết rằng, Malacca là nơi quan trọng và đem lại lợi nhuận lớn mà không nơi nào trên thế giới sánh bằng. Bán đảo Mã Lai cũng nổi tiếng giàu tài nguyên vàng. Đọc được những điều đó, tôi phát hiện ra rằng, từ xa xưa, người dân Mã Lai trên bán đảo được coi là từ phía nam Trung Quốc đến định cư. Ngày nay, ở Vân Nam, Trung Quốc vẫn còn những người có diện mạo giống người Mã Lai. Rõ ràng họ di cư xuống bán đảo Mã Lai, điểm cực nam của châu Á đại lục. Một số người thậm chí còn vượt biển tới các quần đảo rộng lớn mà ngày nay trở thành nước Cộng hòa Indonesia và Cộng hòa Philippines. Những người khác có lẽ đã vượt đại dương để đến định cư ở Đảo Phục sinh (Easter Islands), Hawaii và Madagascar. Cuối cùng, người Mã Lai đã phát triển một nền văn minh phức tạp và riêng biệt dựa trên thể chế của các Tiểu vương cha truyền con nối. Họ đã thành lập các công quốc. Ngoài thuyết vật linh của những người bản địa, những người dân ở đây cũng chịu ảnh hưởng của đạo Hindu, đạo Phật và văn hoá Ấn Độ. Các thương gia Ấn Độ đã vượt biển tới bán đảo này từ 1700 năm trước và mang theo những lời giáo huấn của đạo Phật và đạo Hindu. Những lời giáo huấn đó đã nâng các Tiểu vương lên như thần thánh, người cai trị một khu vực bao gồm các thần dân của họ. Cuộc sống tập trung quanh các buổi chầu. Địa vị thần thánh của Tiểu vương càng được nâng cao bởi các nghi lễ phức tạp. Các thần dân của các họ, thậm chí cả quan lại của triều đình, cũng phải quỳ mọp xuống theo đúng nghĩa đen của từ này để tỏ lòng tôn kính với họ. Tình trạng đó vẫn được duy trì cho đến khi đạo Hồi xâm nhập vùng đất này. Đạo Hồi không thay thế được thế giới văn hoá Ấn Độ giáo và Phật giáo. Nhưng nó cũng mang đến những thay đổi. Đã trở thành thông lệ, đạo Hồi không ủng hộ chế độ đẳng cấp mà quy định các tín đồ được bình đẳng trước Đấng tối cao. Thật khó để các Tiểu vương chấp nhận nguyên tắc bình quân này, nhưng các thương gia Hồi giáo từ bán đảo Ả rập và Ấn Độ, những người truyền bá đạo Hồi đến vùng đất này lại rất giàu có, thành công và thông minh, vì vậy họ có sức ảnh hưởng rất lớn. Các Tiểu vương không thể làm gì khác ngoài việc cảm kích họ, đặc biệt do hàng hoá mà họ mang đến được người Mã Lai rất ưa chuộng. Trừ một số ít trường hợp ngoại lệ, người Mã Lai đều mong muốn chấp nhận chủ nghĩa quân bình của Hồi giáo ngay cả khi vẫn duy trì rất nhiều điều trong tục lệ cũ. Các Tiểu vương đổi các sản phẩm từ rừng mà các thần dân của họ thu thập được để lấy tơ lụa, sơn mài, đồng thau, vàng, v.v... do những thương gia mang đến. Mối quan hệ cá nhân giữa các thương gia giàu có với các Tiểu vương của Mã Lai chắc chắn đã phát triển (ngày nay cũng vậy). Cuối cùng, hầu hết các Tiểu vương đã cải đạo sang Hồi giáo, nhưng vẫn giữ chức vị cao và duy trì phần lớn các thông lệ của triều đình cũ. Tuy nhiên, họ không tuyên bố mình là Chúa nữa và chấp nhận giống như mọi người. Họ là “hamba Allah” – “môn đồ của thánh Allah”. Thông qua giao thương, các tiểu quốc của Mã Lai phát triển thịnh vượng. Nằm ở tuyến đường biển giữa phương Đông và phương Tây, các tiểu quốc này thu lợi từ các thuyền buôn ghé vào cảng để tiếp lương thực và nước uống. Khu vực này sản xuất gỗ ướp hương thơm và nhiều loại gôm từ các cây trong rừng, các loại hàng hoá mà người nước ngoài rất ưa chuộng. Việc buôn bán với các thương gia của Trung Quốc, Ấn Độ và Ả rập phát triển, mang lại sự phồn vinh cho nhiều tiểu quốc bên bờ biển. Cảng xuất nhập khẩu đầu tiên là cảng Fu-nan ở Vịnh Xiêm (nay là Vịnh Thái Lan). Nhờ vị trí chiến lược, nơi đây đã trở thành một trung tâm buôn bán phát triển phồn vinh ở thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Cảng là nơi nối giữa đất liền tới các cảng nằm ở bờ tây eo đất Kra, nơi hàng hoá của các nước Ấn Độ, Ả rập và thậm chí của các nước ven vùng Địa Trung Hải được đưa đến. Tuyến đường bộ tới cảng Fu-nan cũng được ưa thích hơn bởi hành trình xuống bờ bán đảo Mã Lai rất dài và các tàu thuyền qua lại vùng biển này hay bị cướp biển tấn công. Vì thế, việc trao đổi và buôn bán hàng hoá từ Trung Quốc, Ấn Độ, bán đảo Ả rập và các đảo ở Đông Nam Á thường diễn ra ở cảng Fu-nan. Từ đây, các tàu của Trung Quốc có thể chở hàng hoá ngược về nước, trong khi các tàu của Mã Lai chở hàng hoá của mình tới kho cảng ở Đông Nam Á. Sau này, các thương gia Mã Lai đã từ quần đảo Mã Lai đi qua cảng Fu-nan và tới thẳng Trung Quốc. Theo tài liệu ghi chép của người châu Âu, các tàu của họ nặng hơn 200 tấn, chắc chắn là do các hãng tàu nổi tiếng đóng. Các thương gia Trung Quốc cũng đóng các tàu trọng tải lớn và thực hiện hành trình tới các cảng ở Đông Nam Á. Cảng Fu-nan đã bị tàn phá theo thời gian và tại vùng cảng đó các cảng lớn của Java, Sumatra và của bán đảo Mã Lai đã phát triển. Tất cả các tàu buôn này và sau này là các tàu đến Đông Nam Á từ châu Âu, đã thực hiện các chuyến hành trình trên biển nhờ gió màu hay còn gọi là gió “mậu dịch”. Các tàu phải phụ thuộc vào kiểu gió xảy ra một năm 2 lần này vì kiến trúc hàng hải hồi đó chưa cho phép các thương gia đóng các tàu có khả năng “trở buồm chạy chữ chi” hoặc chạy ngược chiều gió. Vì thế các tàu từ Trung Quốc, Ấn Độ, Ả rập và các đảo xa của Đông Nam Á phải ở lại cảng đến gần nửa năm, chờ cho đến khi gió đổi chiều và thổi ngược về phía nước họ. Việc các thương gia của nhiều nước phải ở lại các cảng này khiến những nơi này mang hương vị của toàn thế giới. Sự đa dạng về con người đã làm giàu nền văn hoá của các tiểu quốc và các thành phố trong khu vực. Trong thời kỳ hoàng kim, Malacca có dân số 100 nghìn người (thời điểm đó dân số của London là khoảng 200 nghìn người). Đôi khi các Tiểu vương ở các thành phố cảng này cũng tham gia vào các hoạt động buôn bán, đương nhiên họ được hưởng đặc quyền đặc lợi hơn những thần dân của mình. Thời đó, không có gì là lạ khi hoàng tộc châu Âu cũng đầu tư cho các đội tàu viễn dương của các thương gia nước họ. Sở thích buôn bán hoặc hoạt động có tính chất buôn bán là đặc điểm của một số gia tộc cầm quyền trong khu vực. Ví như, ở đất nước Malaysia hiện đại, Hoàng gia bang Negeri Sembilan đã trở thành một trong những tập đoàn chứng khoán lớn của đất nước. Hoạt động thương mại và thành công của các cảng biển thương mại này đòi hỏi giới cầm quyền ở địa phương phải có khả năng đàm phán và khả năng quản lý giỏi. Khi các cảng mới được xây dựng, sự cạnh tranh càng quyết liệt. Các cảng này luôn thu hút các thương gia thận trọng bằng một nền an ninh tốt hơn, hiệu quả hơn và bằng sự công bằng, vô tư của những Tiểu vương. Trong việc quản lý các cảng, một số người nước ngoài đã đóng vai trò thiết thực trong việc cai trị cộng đồng thương gia nước ngoài và giám sát các hoạt động ở cảng. Nhưng nhìn chung cuộc sống ở thành phố cảng vẫn thuộc quyền kiểm soát của Tiểu vương địa phương cùng với gia đình và cộng sự gần gũi của họ. Họ phải giữ thành phố như một trung tâm thương mại, nếu không các Tiểu vương khác sẽ chộp lấy cơ hội này để xây dựng các cảng của chính họ. Thuế hàng hoá và thuế bến do cơ quan quản lý của Tiểu vương thu, nhưng họ rất thận trọng để không thu quá mức khiến cho các thương gia bỏ đi. Nước Malaysia ngày nay cũng áp dụng cách làm tương tự. Không những không mới mà thái độ thân thiện trong thương mại của Chính phủ Malaysia bắt nguồn từ truyền thống văn hoá xa xưa và những tiền lệ trong lịch sử. Các cảng biển có tính cạnh tranh ở Đông Nam Á bắt đầu trở thành những địa điểm hấp dẫn đối với người nước ngoài từ rất lâu trước khi nước Malaysia hiện đại hình dung được. Đầu thế kỷ XV, cảng Malacca mới được xây dựng trên bờ tây của bán đảo Mã Lai. Nơi đó đã có các cảng thuộc các Tiểu quốc Kedah và Perak, có cảng ở tiểu quốc Terenggaru trên bờ đông của bán đảo. Nhưng đây là những cảng nhỏ và không được quản lý tốt, do đó không thành công như ở Malacca. Tiểu vương Hồi giáo Parameswara, người thành lập Tiểu quốc Malacca và những người kế tục ông đã khôn khéo hơn rất nhiều khi cho xây dựng một cảng ở cửa sông Malacca. Đến từ Palembang, một phần của đế chế hùng mạnh Sri Vijaya, ông đã chứng kiến sự thịnh vượng của đế chế này nhờ các hải cảng và việc trao đổi hàng hoá tại các cảng. Người Mã Lai ở Malacca dễ dàng thích nghi bởi họ là dân thành thị. Thành phố của họ được bao bọc bởi rừng và ở đó có rất ít đất trồng trọt. Rõ ràng, người Mã Lai ngày đó phát triển mạnh kinh tế đô thị nhờ thương mại. Chỉ sau này họ mới phải về nông thôn để làm nông nghiệp. Bắt đầu từ Tiểu vương Parameswara, người thành lập Tiểu quốc Malacca năm 1400, các Tiểu vương của Malacca đã xây dựng một chính quyền vững mạnh, đảm bảo luật pháp trên đất liền và trên biển. Tiểu vương giải quyết các vấn đề của thành phố thông qua các quan triều cao cấp đứng đầu là một bendahara (chức quan coi giữ tài chính của tiểu quốc), tiếp đến là shahbandar (cảng trưởng), nhiều panglima (tướng lĩnh) và laksamana (đô đốc). Malacca cũng như Sri Vijaya đạt được thành công là nhờ kỹ năng đi biển và khả năng tổ chức. Vị trí cảng cũng đóng một vai trò quan trọng, như ở Singapore, nhưng nếu không có tài năng và khả năng của con người (như bây giờ chúng ta nói là thành phần của xã hội) thì chỉ vị trí cảng không không đảm bảo cho giao thương thành công. Trong số những thương gia nước ngoài, thương gia người Hoa là đông nhất. Họ có mặt ở khắp nơi, từ Manila ở Philippines tới Aceh ở bắc Sumatra. Giống như tất cả các thương gia khác, họ không mang phụ nữ đi cùng, vì vậy, nhiều người đã kết hôn với những phụ nữ địa phương. Khi số lượng người Hoa còn ít, họ bị đồng hoá, chấp nhận ngôn ngữ, văn hoá và tôn giáo của các địa phương này. Cộng đồng người Hoa hòa nhập với địa phương này được các thương gia của Trung Quốc đại lục giúp đỡ khi họ đến buôn bán ở khu vực. Nhiều người Hoa là con lai và người Hoa đồng hoá ở địa phương này bắt đầu tham gia trồng trọt để thu hoa lợi. Ở Philippines, Java và những nơi khác, khi số người Hoa tăng lên, họ có xu hướng giữ gìn bản sắc của người Hoa hơn. Họ dần trở thành một thành phần riêng biệt trong xã hội, khác biệt hẳn với người dân địa phương. Vào thế kỷ XVI, người châu Âu đến Đông Nam Á nhiều hơn. Họ mang theo văn hoá thương mại độc quyền. Các thương gia và những người khai hoang trồng trọt người Hoa có vai trò lớn hơn, vì chính họ là những người thu mua nhiều loại hàng hoá của người dân địa phương và bán cho các thương gia châu Âu. Các mối quan hệ gần gũi và gắn kết mạnh mẽ cũng được hình thành từ những cuộc hôn nhân khác chủng tộc giữa thương gia Tây Ban Nha và phụ nữ người Hoa. Một cộng đồng người Tây Ban Nha lai người Hoa sớm được hình thành và đương nhiên người Tây Ban Nha và người Hoa đổ dồn về cộng đồng này. Dần dần, khi các cộng đồng người Hoa và cộng đồng người Hoa lai Tây Ban Nha ở Đông Nam Á bắt đầu chiếm dần công việc kinh doanh của người địa phương, căng thẳng giữa hai bên tăng lên. Ở Philippines và Java, các cuộc xung đột đã nổ ra và nhiều người Hoa bị giết. Xung đột thi thoảng lại xảy ra, nhưng tiềm lực kinh doanh của các cảng ở Đông Nam Á và ở đất cảng lớn đến nỗi ngay sau khi tình hình ổn định trở lại, người Hoa trở lại kinh doanh tại đây. Công việc kinh doanh của người Hoa ở Đông Nam Á được mở rộng. Họ đã đóng tàu buôn từ rất sớm để buôn bán xuyên các đảo và buôn bán với Trung Quốc. Do vậy, người dân Đông Nam Á đánh mất vai trò kinh doanh của họ do các tàu của người Hoa đã đến thế chỗ các tàu của người Mã Lai. Ảnh hưởng của người Hoa cũng mạnh hơn khi họ có thể đề nghị giúp đỡ cho các Tiểu vương địa phương. Theo gợi ý của họ, các Tiểu vương chuyển giao nhiệm vụ thu thuế cho họ để tận dụng khả năng của họ, bởi họ có thể thu được nhiều thuế hơn. Tiếp theo, họ được phép quản lý thuốc phiện, hạt nhục đậu khấu, hạt tiêu và các mặt hàng độc quyền khác. Khi người Hoa mở rộng công việc kinh doanh, họ cũng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động quản lý và những người dân địa phương lại phải rút ra xa hơn. Trong khi đó, người Hoa có kỹ năng giỏi hơn trong nhiều ngành nghề thủ công, nên các thợ thủ công địa phương cũng dần mất chỗ. Khi người Hoa ở Philippines bị trục xuất, thực dân Tây Ban Nha, những người Hoa lai Tây Ban Nha và các quan chức địa phương thấy mình khó mua giầy và các hàng hoá thiết yếu khác. Đến lúc không thể thiếu được những thứ đó, người Hoa được trở lại. Điều tương tự cũng diễn ra ở Dutch East Indies, Xiêm, Miến Điện, Mã Lai và Đông Dương. Khắp nơi, người châu Âu đều thiết lập thuộc địa của họ, người Hoa đến như những người trung gian trong kinh doanh và đảm bảo cho người châu Âu những thợ thủ công lành nghề có khả năng đáp ứng các yêu cầu của các cộng đồng người châu Âu và người dân địa phương. Cuối cùng, số lượng người Hoa tăng cao đến độ không thể đồng hoá với người địa phương. Khi họ mang vợ theo cùng, không còn các cuộc hôn nhân khác chủng tộc giữa người Hoa với những người địa phương. Các thị trấn của người Hoa đã bắt đầu trở thành đặc điểm của hầu hết các khu vực thành thị ở Đông Nam Á. Năng lực của người Hoa đã giúp họ được các thế lực thực dân châu Âu và các Tiểu vương bảo vệ. Tuy nhiên, người Ấn Độ và người Ả rập lại cư xử khác. Các cộng đồng của họ không bao giờ lớn. Họ cũng không xâm lấn vào các hoạt động buôn bán của người dân địa phương. Họ thường hòa nhập và kết hôn khác chủng tộc với người dân địa phương khi họ muốn định cư. Cuối cùng, họ quên hoàn toàn tiếng mẹ đẻ và đồng hoá với người dân địa phương cho dù người dân địa phương là người Mã Lai, người Sumatra, người Java hay nhiều bộ lạc chỉ thấy ở các đảo phía đông của quần đảo Mã Lai. Khi người Ả rập và những người Hồi giáo Ấn Độ truyền bá đạo Hồi, không ai cảm thấy oán hận, bởi người dân bản địa không bị buộc cải đạo. Hầu hết công tác truyền giáo do những người cải đạo địa phương thực hiện. Người châu Âu cũng cư xử khác, họ đến không phải trên những chiếc tàu buôn thông thường, mà trên những tàu buôn vũ trang. Họ cũng không tin có việc buôn bán tự do ở đây. Một trong các Tiểu vương của Macassar, nay là thành phố Ujung Pandang của Indonesia, đã nhấn mạnh với người Hà Lan rằng “Chúa đã tạo ra phần đất liền và phần biển; phần đất liền được chia cho các cộng đồng khác nhau, còn phần biển Người để sử dụng chung. Tôi chưa nghe thấy có ai đó bị cấm tiến vào khu vực biển này”. Các quốc gia châu Âu muốn kiểm soát độc quyền và họ đã bắt đầu ý định đó bằng cách xây dựng các trung tâm buôn bán vững chắc. Cuối cùng, họ đã chế ngự được các đối tác thương mại để đảm bảo nguồn cung và sự độc quyền kiểm soát. Trong số những người châu Âu, người Tây Ban Nha và một số ít người Bồ Đào Nha tin rằng, Chúa đã giao cho họ nhiệm vụ truyền bá đạo Cơ Đốc tới các địa phương này. Ở Tây Ban Nha, sau khi Cơ Đốc giáo tái thống trị, những tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo buộc phải cải đạo. Họ đã chứng tỏ sự cải đạo thực sự của mình bằng cách ăn thịt lợn. Điều này cũng đã xảy ra ở Đông Nam Á. Tại Philippines, những tín đồ Cơ Đốc giáo là từ những tín đồ đạo Hồi cải đạo sang. Mãi đến gần đây, người Philippines mới học cách tuân theo điều mà tín đồ đạo Hồi ghét đó là ăn thịt lợn, nhưng sự ly giáo giữa những người Hồi giáo và Cơ Đốc giáo vẫn diễn ra sâu sắc và trở thành nguyên nhân xảy ra xung đột và chiến tranh giữa những người Philippines. Do những người Hoa sẵn sàng cải đạo sang đạo Cơ Đốc nên họ có quan hệ tốt hơn với người châu Âu ở các thuộc địa này. Thay đổi tín ngưỡng vẫn không gây ra sự chia rẽ trong cộng đồng người Hoa, người Hoa cũng không tích cực truyền bá tôn giáo của họ. Những người địa phương, dù là người theo đạo Hồi hay theo đạo Cơ Đốc, đều sẵn lòng truyền bá cho người Hoa hơn là chính họ truyền bá cho nhau. Tình trạng cải đạo này cũng diễn ra ở nhiều Tiểu quốc của bán đảo Mã Lai và các thuộc địa của Anh như Singapore, Malacca và Penag. Ngoài Singapore, bán đảo Mã Lai có lượng người nhập cư đông nhất ở Đông Nam Á. Người Anh khuyến khích dòng người Hoa nhập cư vào bán đảo này và hậu quả về nhân khẩu học, thực vật học và dân tộc học vẫn còn đeo đẳng đến ngày nay. Khi người Anh chiếm Mã Lai làm thuộc địa, nhân khẩu học của bán đảo Mã Lai thay đổi nhanh chóng. Ở những nơi người Anh định cư, cộng đồng người Hoa chiếm đa số, lên tới 1/4 số dân ở đây vào thế kỷ XII, còn Singapore thực tế đã trở thành một vùng đất của người Hoa. Chỉ khoảng 15% dân số ở đây là người Mã Lai. Nếu người Mã Lai chiếm đa số, chắc rằng Singapore đã trở thành một phần của Mã Lai và Malaysia ngày nay. Trước khi người Hoa đến, các thương gia trong khu vực này là người Mã Lai. Người dân ở Đông Nam Á, trong đó có người Mã Lai, trước đây đã thu gom đồ gia vị và các sản phẩm lâm nghiệp để đóng hàng lên tàu ở cảng Sri Vijaya. Họ trao đổi hàng hoá với Trung Quốc, Ấn Độ, Ả rập và châu Âu. Nhưng về sau, tất cả các hoạt động thương mại này đều nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của các thương gia người Hoa. Họ bắt đầu trồng các vườn gia vị, nơi họ đã giành được từ những nông dân Mã Lai. Tuy nhiên, khi người châu Âu đến, người Hoa ở vào vị trí thuận lợi, đóng vai trò như những người trung gian. Ngày càng có nhiều người Hoa nhập cư vào Đông Nam Á để đảm bảo tất cả các dịch vụ mà các thương gia và thực dân châu Âu cần và cuối cùng, ngay cả người Mã Lai cũng bắt đầu phụ thuộc vào các nguồn cung và các dịch vụ của người Hoa. Trước khi Mã Lai bị các cường quốc châu Âu chiếm làm thuộc địa, người Mã Lai không những là người dân bản xứ mà còn chiếm phần đông dân số. Họ vẫn thiết lập được trật tự chính trị và xã hội, ở đó các hoạt động buôn bán vẫn diễn ra. Nhưng tất cả đã thay đổi. Dưới sự thống trị của người châu Âu, người Mã Lai đã đánh mất vị trí trung tâm của họ trong đời sống thương mại và chính trị xã hội mới. Người Mã Lai lẽ ra có thể ngăn chặn tình trạng người nước ngoài tràn ngập đất đai của mình nếu họ chuyển sang các ngành nghề mới đáp ứng cho các ngành công nghiệp thiếc và công nghiệp cao su được thành lập dưới chế độ thực dân. Nhưng, khi đó họ lại tập trung vào vùng nông thôn mà không chú trọng vào các thành phố cảng hoặc các trung tâm hành chính, thương mại. Họ thích làm nông dân và ngư dân hơn. Vì vậy, người Anh đã đưa người Ấn Độ đến và khuyến khích người Hoa nắm lấy các cơ hội do các ngành công nghiệp mới tạo ra. Người Mã Lai rút xa dần khỏi các hoạt động kinh doanh ở đô thị mà một thời họ đã tham gia. Khi ít tham gia vào các hoạt động kinh doanh, khả năng buôn bán của họ cũng giảm dần. Nếu họ kiên trì tham gia vào các hoạt động đó thì đã không bị cách ly khỏi nhịp điệu phát triển của xã hội khi người châu Âu nắm quyền kiểm soát vùng đất của mình. Trước khi xảy ra Thế chiến thứ Hai, nhiều người Đông Nam Á bản địa (hay tộc người Mã Lai) đã bị loại khỏi các hoạt động và trở thành những người nghèo nhất trên chính đất nước họ. Ở hầu hết các khu vực của Đông Nam Á bị châu Âu chiếm làm thuộc địa, trật tự kinh tế – xã hội đều giống nhau: Người châu Âu chiếm địa vị cao nhất, tiếp theo là người Âu - Á, sau nữa là người Hoa, người đến từ các nước khác và người bản địa trượt xuống dưới đáy. Ở bán đảo Mã Lai, các thuộc địa của Anh như Singapore, Penang và Malacca là những ví dụ điển hình nhất về trật tự kinh tế xã hội này. Người Mã Lai chắc chắn không thích cảnh trở thành một tộc người thiểu số nghèo khổ ở bán đảo như họ đã phải chịu ở Singapore. Hiểu sâu sắc lịch sử và nhận thức được những gì đã xảy ra ở Singapore khiến người Mã Lai lo lắng về địa vị của họ trên thế giới, nơi những tộc người khác kiểm soát kinh tế và sau nữa là kiểm soát chính trị đối với họ. Nhiều người bày tỏ rằng, họ rất bi quan về tương lai của mình ở Liên minh Mã Lai do Anh kiểm soát, nhưng bất kỳ ai nhìn vào Singapore ngày nay đều phải thấy rằng, họ (người Mã Lai) không cẩn trọng quá mức. Mặc dù người Mã Lai chiếm 15% dân số ở Singapore, nhưng họ gần như không xuất hiện và là bộ phận dân số nghèo nhất, chủ yếu là những người lao động chân tay ở đó. Ngược lại, Malaysia cởi mở hơn. Người Hoa nắm giữ các vị trí cao trong cả chính quyền liên bang và chính quyền các bang. Mặc dù họ có những hành động ủng hộ người Mã Lai, nhưng cộng đồng người Hoa vẫn kiểm soát các hoạt động kinh doanh. Họ chiếm 90% trong số các triệu phú của Malaysia và rất nhiều người là tỷ phú. Mặc dù người Mã Lai vẫn được cho là những người được hưởng đặc quyền, nhưng người Hoa ở Malaysia không bị tước đoạt những đặc quyền như người Mã Lai ở Singapore. Việc vạch ra và thực thi kế hoạch hành động của chính phủ nhằm cứu vãn địa vị bất lợi của người dân Mã Lai là một vấn đề không chỉ của riêng người Mã Lai mà là vấn đề cấp bách và sống còn của xã hội. Kế hoạch này là cần thiết, bởi nó tháo gỡ được sự ràng buộc chặt chẽ giữa chủng tộc hoặc tính sắc tộc với các hoạt động và tình trạng kinh tế như ở khu vực được tổ chức theo chủng tộc do chế độ quản lý thuộc địa của Anh lập nên. Kế hoạch cũng rất quan trọng trong bối cảnh giảm và tiến tới xoá hoàn toàn tình trạng nghèo đói trong xã hội Malaysia. Bởi vậy, Malaysia đã ban hành Chính sách kinh tế mới (NEP), một chương trình hành động kiên quyết nhằm khôi phục lại vị thế của người Mã Lai và bảo đảm tương lai kinh tế – xã hội cho họ. Trường hợp phân biệt đối xử mang tính tích cực này là hợp lý. Giờ đây, mọi người đều nhất trí rằng, trong việc đánh thuế, người giàu phải bị đánh thuế cao hơn người nghèo. Tuy nhiên, nếu tổng thu nhập của một nước chỉ được tiêu dùng cho những người trả thuế cao, thì các nhóm người có thu nhập thấp hơn ở các làng quê và những khu ổ chuột ở thành phố sẽ trở thành những người bị lãng quên, sẽ không có các hệ thống bảo vệ sức khỏe, sẽ có ít trường học hơn và sẽ không có các cơ sở y tế dành cho họ. Do có sự đóng góp tài chính cao hơn đối với chính quyền, người giàu sẽ được hưởng môi trường sạch sẽ, an toàn, trong khi người nghèo phải sử dụng những nơi bừa bãi, bẩn thỉu. Để ngăn chặn tình trạng người giàu bóc lột người nghèo, Malaysia đã ban hành luật công đoàn và luật lao động. Nếu không có các điều luật đúng đắn này và nếu không có thuế đánh vào người giàu để bảo vệ người lao động, thì các ngành công nghiệp và ngành nghề kinh doanh sẽ chỉ đem lại sự giàu sang cho các nhà tư bản và các chủ doanh nghiệp. Malaysia sẽ không thể là một nước giàu có và phát triển thịnh vượng như ngày nay nếu không có chính sách phân biệt rõ người giàu và người nghèo này. Người Mã Lai cần phải trải qua giai đoạn lịch sử tiếp theo và tương lai phụ thuộc vào chính họ. Họ phải nắm vững những kiến thức giúp họ làm việc hiệu quả. Họ phải đạt được những kỹ năng quan trọng cho phép họ có quyền được hành động. Nhưng chỉ riêng những điều này thôi chưa đủ. Người Mã Lai cần phải nhìn lại quá khứ và tiếp thu những bài học từ thử thách của lịch sử để bảo vệ được vị trí của mình trên thế giới. 5. Từ đam mê đến tan vỡ ảo tưởng Năm 1933, tôi là một trong số ít người may mắn ở Kedah được nhận vào học ở Trường G.E.S. Thật đáng tiếc, hàng nghìn người khác đã không có cơ hội này. Nếu tất cả đều trang bị cho mình một lượng kiến thức tốt, họ đã cải thiện được đời sống của chính mình và góp phần xây dựng xã hội phát triển vững chắc. Không giống như hầu hết các cậu bé Mã Lai, tôi không được nhận vào Trường G.E.S qua một lớp năng khiếu của Mã Lai. Trước Thế chiến thứ Hai, các học sinh Mã Lai kết thúc lớp 4 tại các trường dạy bằng tiếng Mã Lai sẽ được tuyển vào các lớp năng khiếu dành cho học sinh Mã Lai tại các trường dạy bằng tiếng Anh trong 2 năm. Tại đây, họ được học tiếng Anh và các môn học khác bằng tiếng Anh. Nhưng khi tôi 8 tuổi, mới học lớp 2, cha tôi rút tôi khỏi danh sách học sinh của một trường dạy bằng tiếng Mã Lai ở Seberang Perak và xin cho tôi vào học tiểu học ở Trường G.E.S. Bản thân là giáo viên dạy ở trường G.E.S, ông tin những đứa con của mình sẽ nhận được nền giáo dục tốt hơn ở đó. Tất cả các anh chị em tôi đều theo một lộ trình giống nhau, trừ một người anh của tôi đến học ở trường dạy bằng tiếng Ả rập trước khi vào học ở Trường G.E.S. Các bạn cùng lớp của tôi hầu hết không phải là người Mã Lai. Tôi kết bạn với một số người, trong đó có Munusamy, Ooi Eng Ban, anh trai của Ooi Eng Ban là Ooi Eng Hooi và Tan Kiat Seng. Cha của Kiat Seng là một người buôn gạo và sống tương đối phong lưu. Gia đình Eng Ban cho thuê xe kéo. Tôi luôn ganh đua lành mạnh với cậu bởi vì tôi và cậu luôn thay nhau xếp thứ nhất trong lớp. Hều hết các bạn cùng lớp tôi đều chỉ có thể nói tiếng Mã Lai thông tục nên tôi buộc phải nói tiếng Anh với họ. Điều này thật không dễ nhưng tôi khá cố gắng và đã nắm vững tiếng Anh nhanh hơn các bạn trong các lớp năng khiếu. Vì tôi bắt đầu đọc bằng tiếng Anh khá sớm, nên lượng từ vựng của tôi nhiều hơn các bạn khác trong lớp. Đến khi tôi học lớp 7, tôi nhận thấy mình có thể diễn đạt bằng tiếng Anh như diễn đạt bằng tiếng Mã Lai. Tôi là học sinh đứng đầu lớp 4 và cả 4 chúng tôi, gồm cả Eng Ban, được đặc cách tuyển thẳng lên lớp 6. Tất cả giáo viên và học sinh (học sinh người Mã Lai, Ấn Độ và người Hoa) đều rất hòa nhập. Tôi không nghĩ lúc đó chúng tôi để ý đến những điểm khác biệt về tộc người. Chúng tôi coi đó là việc bình thường. Đến tuổi thiếu niên, tôi luôn tự hỏi tại sao không có nhiều người được tiếp cận với nền giáo dục hơn nữa. Ý nghĩ này càng lớn dần khi tôi bước chân vào đại học. Chỉ có 7 sinh viên Mã Lai trên tổng số hơn 70 sinh viên y khoa và nha khoa khoá tôi. Điều đó khiến tôi luôn để ý xem số lượng học sinh Mã Lai vào được đại học có tăng lên không. Tất cả những gì cần là tạo cho họ thêm cơ hội. Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi dành ưu tiên lớn nhất cho sự nghiệp giáo dục và làm tất cả để càng nhiều người vào được đại học càng tốt, đặc biệt là người Mã Lai. Kiến thức của tôi được bổ sung nhờ những quyển sách và tạp chí mà tôi đọc. Trước chiến tranh, tôi là thủ thư cho lớp 4. Thứ Năm hàng tuần tôi có nhiệm vụ đi mua những cuốn tạp chí như Rover, Champion và Film Fun cho thư viện. Kỳ nghỉ cuối tuần ở Kedah là từ thứ Năm đến thứ Bảy nên tôi có hai ngày rưỡi để đọc tất cả các câu chuyện, thậm chí cả những lời chú thích và các mục quảng cáo, trước khi đưa các số báo vào thư viện của lớp. Tôi thích các câu chuyện về các anh hùng hư cấu của người Anh như Rockfist Rogan và Mad Carew, những phi công đã chiến đấu xuất sắc và dễ dàng bắn hạ máy bay Đức, sau đó là các câu chuyện về Jack Keen Tec, một thám tử, người không bao giờ thất bại trong việc theo dõi đối tượng. Tôi coi những nhân vật này là tiêu biểu cho người da trắng và muốn ghen tỵ với họ, đặc biệt là lòng dũng cảm của họ, với con đường mà họ vạch ra để thực hiện, động cơ của họ và cả sự bình tĩnh của họ khi đối mặt với hiểm nguy. Họ là những con người có kỷ luật và luôn giữ lời. Họ không bao giờ bỏ cuộc, ngay cả khi phải đối mặt với những hiểm nguy khủng khiếp. Tôi tin rằng, nếu trở thành người như họ, tôi có thể đứng vững trước mọi thách thức. Tôi cũng muốn bình tĩnh đánh giá bản thân, muốn cân đo sự yếu kém và sức mạnh của mình trước các đối thủ và muốn lập các kế hoạch chiến lược thận trọng trước khi đi vào thực hiện. Tôi lớn lên mà không bao giờ nghĩ rằng, mình bị người Anh cai trị. Học về lịch sử Đế chế Anh ở trường, tôi còn quá ngây thơ khi cảm thấy tự hào vì mình là một phần của Đế chế này. Tôi thậm chí còn ủng hộ tiền cho Quỹ những người yêu nước Mã Lai, quỹ mà chính quyền thực dân Anh lập ra để ủng hộ cho Thế chiến thứ Hai. Cứ đến ngày 11 tháng 11, là Ngày đình chiến, ngày Thế chiến thứ Nhất kết thúc năm 1918, tôi lại mua một bông hoa hồng đỏ giả đính lên áo mình để ủng hộ cho những cựu chiến binh. Vào ngày đó, vợ của những người Anh xa xứ sẽ tới trường với những khay hoa giấy và những chiếc hộp thiếc được xẻ rãnh để người ta bỏ đồ biếu tặng vào. Trước con mắt của một thanh niên mới lớn như tôi, các quý bà đó đẹp lộng lẫy. Tôi thực sự là một người thân Anh trẻ tuổi, nhưng tôi tin hầu hết mọi người ở Mã Lai hồi đó đều là những người thân Anh. Tôi tin vào những bản tin của người Anh đưa, bởi vì hồi đó không có nguồn thông tin nào khác để có thể tin cậy. Bán đảo Mã Lai rất bình yên, các tộc người khác nhau của Mã Lai cùng chung sống mà không hề có sự đố kỵ, thù hận hay xung đột sắc tộc – đó là lời mà các thầy cô của chúng tôi nói với chúng tôi ngay từ những ngày đầu đi học. Các thầy cô nói rằng, đất nước chúng tôi không có lịch sử. Cùng với một câu nói ngắn gọn, thiếu thông tin đó, toàn bộ lịch sử của đất nước chúng tôi bị bỏ qua, cứ như là từ trước đến nay không có Đế chế Malacca, không có sự xâm lược của người Bồ Đào Nha và không có quá trình thực dân hoá của người châu Âu. Lịch sử của chúng tôi bắt đầu và chấm dứt một cách khó hiểu khi bán đảo này trở thành đất nước Mã Lai của người Anh. Do không có quá khứ của chính mình, nên chúng tôi chỉ học lịch sử của Đế chế Anh. Chúng tôi hiểu khá rõ về Chiến tranh Hoa Hồng, về các vị Vua và Hoàng hậu của Anh, về Oliver Cromwell, về cuộc chinh phạt nước Anh của người Norman, về Cuộc chiến Trăm năm ở châu Âu. Chúng tôi học về Đế chế La Mã và các cuộc chiến tranh của Napoleon. Tuy nhiên, các bài học này không hề đề cập đến 800 năm người Tây Ban Nha bị đặt dưới ách cai trị của người Hồi giáo ngoại trừ một vài thông tin sơ sài về người Ma-rốc, cũng không đề cập đến việc người Đông Âu bị đặt dưới ách cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng tôi đọc về những hành động man rợ của người da đỏ Bắc Mỹ, lột da đầu của kẻ thù để làm chiến tích, về Đế chế Tây Ban Nha và về những nơi còn lại của Đế chế mặt trời không bao giờ lặn. Mỗi lớp học đều có một bản đồ thế giới với các vùng lãnh thổ của Đế chế Anh được đánh dấu bằng màu đỏ tươi bao quanh trái đất. Thật lạ, khi người Mã Lai nói ra tiếng “người da trắng”, họ dường như chỉ đề cập tới người Anh. Họ có thể nói về người da trắng chiến đấu với người Đức cứ như người Đức không phải là người da trắng. Chúng tôi luôn đứng về phía người Anh. Tôi còn nhớ khi đọc câu chuyện về các thầy tu đạo Hồi chiến đấu chống lại Tướng Gordon ở Khartoum, Sudan, tôi rất vui khi thấy họ đã bị súng máy Gatling bắn chết trong lúc tấn công các lực lượng của Anh. Sudan là của người Sudan và việc họ đấu tranh để giải phóng đất nước mình khỏi thực dân Anh không làm cho họ đúng hoặc người Anh sai vì khi đó, rất tự nhiên, tôi cho rằng người Anh là những anh hùng khi họ chiến đấu và giết người dân bản địa. Tôi đã quên rằng, chính tôi cũng là một trong những người dân địa phương đang bị Anh cai trị. Francis Drake, công tước xứ Wellington, Horatio Nelson và các chiến binh người Anh khác cũng là những người hùng của tôi. Ngày ấy, tôi biết và lấy làm tự hào về các trận đánh vĩ đại của họ, trận đánh Waterloo và trận đánh Trafalgar. Họ đã giành thắng lợi trước những kẻ thù châu Âu của họ. Giờ nhìn lại, tôi thấy thật kỳ quặc khi từng coi việc ủng hộ Đế quốc Anh, nước chiếm đóng chính tổ quốc mình là thể hiện tinh thần yêu nước. Tuy nhiên, không hiểu bằng cách nào họ đã khiến chúng tôi tin rằng, chúng tôi thuộc về Đế chế của họ. Ở Alor Star không có nhiều người da trắng. Tất cả những người da trắng sống ở đây đều là người Anh và họ sống tách biệt ở một khu đặc biệt dọc Jalan Maxwell, phía bắc Alor Star. Vùng đất này thuộc sở hữu của chính phủ và dễ dàng trở thành một khu vực dân cư tốt nhất của bang Kedah. Không có người dân địa phương nào sống ở đó. Các ngôi nhà được xây dựng trên những mảnh đất rộng với những thảm cỏ được chăm sóc cẩn thận, những luống hoa và nhiều cây bóng mát. Đây là một thế giới hoàn toàn khác, rất sạch sẽ và yên bình, khác xa nơi tôi sống. Xung quanh nhà chúng tôi là những túp lều của những người đi khai hoang và những ngôi nhà gỗ lợp mái rạ. Cuộc sống bình dị xung quanh không gây được ấn tượng với tôi, bởi tôi nghĩ chúng rất bình thường và mọi người đều sống như thế. Đến khi học lớp 6, tôi không được phép đi xe đạp trên các con đường chính vì cha sợ tôi bị ô tô đâm. Thế giới của tôi được rộng mở khi cha tôi cuối cùng cũng cho phép tôi đi xe đạp tới trường. Vào các buổi tối, cùng với các bạn học trong lớp, tôi đạp xe tới nơi những người nước ngoài sống. Những người châu Âu chơi golf, sau họ là những đứa trẻ đi theo vác gậy và nhặt bóng trong những chiếc túi da. Đây là sân golf duy nhất ở Kedah. Thi thoảng, chúng tôi nhìn thấy vài người châu Âu và một vài thành viên trong Hoàng gia Kedah cưỡi ngựa ở đó. Câu lạc bộ thể thao Kedah có một trường đua ngựa, nơi tổ cuộc chức đua mỗi năm một lần. Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ sống ở khu vực này, nhưng nhiều năm sau, tôi đã sống ở đây khi tôi trở thành bác sĩ trong biên chế nhà nước. Câu lạc bộ Kedah là nơi những người châu Âu tụ tập vào các buổi tối. Họ uống rượu và tổ chức các bữa tiệc khiêu vũ. Đây là nơi dành riêng cho họ, nhưng cũng không hoàn toàn tuyệt đối như Câu lạc bộ hồ Hoàng gia ở Kuala Lumpur, nơi thậm chí Tiểu vương Selangor cũng không được phép bước vào. Một vài giới chức cấp cao của Mã Lai là thành viên Câu lạc bộ Kedah. Khi Tunku Badlishah ibni Sultan Abdul Hamid là Nhiếp chính của Kedah, ông đã chơi tennis ở đó. Nhiều giới chức Mã Lai của cơ quan dân chính Kedah có câu lạc bộ của riêng họ ở phía nam Alor Star, trong khi các nhân viên cấp dưới cũng có những câu lạc bộ của họ ở trước trường tôi. Các câu lạc bộ bảo đảm một loại hình vui chơi cho các tầng lớp quý tộc và giới chức thời đó. Cầu lông lúc đó là phổ biến, nhưng tennis được coi là một môn thể thao dành cho giới quý tộc. Một số công chức rất cao cấp thì hút thuốc phiện. Để ganh đua với người châu Âu, một vài người thậm chí còn uống rượu. Chỉ đến khi chúng tôi bắt đầu cuộc phản đối chống lại đề nghị thành lập Liên minh Mã Lai của Anh, tôi mới nhận ra đầy đủ sự khôn ranh và tinh xảo của thực dân Anh. Họ không phải chiến đấu để chiếm các bang của Mã Lai làm thuộc địa. Họ chỉ cần cấp cho các Tiểu vương và gia đình của họ những khoản trợ cấp chính trị thường xuyên, nhiều hơn những gì mà các Tiểu vương và gia đình của họ đã từng thu được từ thuế. Tất cả những khoản trợ cấp đó cũng được lấy từ thuế mà người Anh thu được. Các hiệp ước mà người Anh đã áp đặt đối với các bang của Mã Lai và sự nhân nhượng mà họ có được từ các Tiểu vương Mã Lai đã bắt đầu khiến những người Mã Lai thông minh phải khó chịu, không chỉ bởi những hiệp ước đó mang tính vĩnh cửu mà còn vì chúng thể hiện sự mập mờ. Các hiệp ước này gọi các Tiểu vương Mã Lai là “người cai trị”, trong khi đó hầu hết các giới chức Anh được gọi là “nhà cố vấn”. Nhưng hiệp ước đó bảo đảm rằng, khi các cố vấn người Anh đưa ra lời khuyên, Tiểu vương Mã Lai phải tuân theo. Rõ ràng, ông ta không chỉ cố vấn mà còn chỉ đạo chính quyền các bang. Tiểu vương có thể trị vì nhưng rõ ràng ông không có quyền cai trị. Ông chỉ đơn thuần là một bù nhìn. Sự mập mờ này thể hiện cả trong ngôn ngữ và nghi thức xã giao của Anh. Trong Hội nghị Nguyên thủ các nước thuộc Khối thịnh vượng chung ở Harare, Zimbabwe năm 1991, với tư cách là Chủ nhà của Hội nghị trước, tôi được yêu cầu phát biểu tại bữa tiệc tối chính thức dành cho Nữ hoàng. Khi đó, tôi đã nổi tiếng là một người có những phát ngôn thẳng thắn và chua cay, nên các quan chức Anh rất lo tôi sẽ nói gì đó xúc phạm Nữ hoàng. Để an toàn, các quan chức trong Hoàng cung cũng như quan chức của Văn phòng Khối thịnh vượng chung đã cố gắng thông báo cho tôi biết rằng, Nữ hoàng Elizabeth II sẽ chỉ phát biểu rất ngắn gọn và vì thế tôi cũng chỉ phát biểu ngắn thôi. Đây không phải là truyền thống. Trong các Hội nghị của Khối thịnh vượng chung trước đó, các bài phát biểu thường rất dài và tràn ngập những lời ca ngợi Nữ hoàng và Khối thịnh vượng chung của Anh. Rõ ràng, không ai nói với các nhà lãnh đạo các nước khác chỉ nên phát biểu ngắn. Nữ hoàng cũng đã trình bày các bài phát biểu dài hơn ở các Hội nghị trước. Nhưng tôi không khó chịu vì hành động cố bịt miệng tôi này. Tôi đã dần quen với điều đó và đã chuẩn bị một bài phát biểu tương đối ngắn phù hợp trong buổi tiệc tối. Tuy nhiên, tôi đã cắt bớt, chỉ giữ nguyên những gì tôi thực sự muốn nói. Điều tôi muốn nói là minh hoạ những từ tiếng Anh có nghĩa này nhưng lại thường được sử dụng không phải như nghĩa của nó. Tôi nói rằng, trong khi người đứng đầu Hạ viện được gọi là “người phát ngôn” thì ông ấy không thể nói. Cố vấn Anh không chỉ là cố vấn còn “người cai trị Mã Lai” lại không cai trị. Cả hai vai trò hoàn toàn đối lập nhau. Trong Khối thịnh vượng chung, sự thịnh vượng cũng không phải là điểm chung. Nữ hoàng rõ ràng là rất thích thú và đài BBC đã ghi lại được hình ảnh bà cười rất vui. Sau này, khi người Anh kỷ niệm lần thứ 50 ngày Nữ hoàng lên ngôi, đoạn video clip bài phát biểu của tôi và điệu cười của Nữ hoàng được đài BBC phát đi phát lại nhiều lần. Chính quyền thực dân Anh không phải hoàn toàn xấu. Trừ thái độ vô cùng kiêu ngạo và địa vị cao hơn hẳn mà họ tự nhận trong xã hội, họ làm việc khá tốt. Biên giới giữa các bang đã được xác định, việc cho thuê mướn đất đai được nghiên cứu hợp lý, các tài liệu hoặc văn kiện pháp lý được ban hành. Tuy nhiên, cho đến khi nhà nước Malaysia giành được độc lập, biên giới quốc tế giữa Malaysia và các nước láng giềng Thái Lan và Indonesia vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa. Malaysia vẫn còn tranh chấp biên giới trên sông và trên biển với hai quốc gia này và với Singapore. Người Anh đã thực hiện các phương pháp quản lý hiện đại và giao nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể cho nhiều cơ quan quản lý. Công chức Mã Lai làm việc dưới thời thuộc địa Anh có thể thay thế các công chức người Anh và có khả năng tiếp quản công việc không mấy khó khăn khi nhà nước Malaysia giành được độc lập. Các kho bạc nhà nước được thành lập để thu và quản lý thu nhập từ thuế. Khoản thu này không còn rơi vào tay các Tiểu vương nữa. Các ông chủ người Hoa cũng không được thu thuế nông nghiệp và thuế dịch vụ nữa. Những năm tháng nằm dưới sự cai trị của Anh còn nhiều điều nữa khiến chúng tôi phẫn nộ. Tuy nhiên, chúng tôi đã bị tẩy não để phải chấp nhận người da trắng giỏi hơn. Vì vậy, trong Liên hiệp các quốc gia Mã Lai, các chức vị cao trong cơ quan chính quyền do các công chức của Anh nắm giữ nhiều hơn các công chức Mã Lai. Cứ 3 năm một lần, họ được nghỉ phép về nước và được chính phủ thanh toán phép. Việc bổ nhiệm chức vụ của họ cũng khác nhau. Trong ngành công trình công cộng, người châu Âu là kỹ sư, trong khi người châu Á chỉ là trợ lý kỹ thuật. Trong ngành y, các bác sĩ người Anh được chọn làm bác sĩ phẫu thuật, còn các bác sĩ châu Á chỉ được là y tá phẫu thuật. Trong một trung đoàn Mã Lai, các sĩ quan người Anh không phải chào các sĩ quan Mã Lai bởi vì các sĩ quan Mã Lai do Cao uỷ ở Mã Lai bổ nhiệm, còn các sĩ quan của Anh do Quốc vương bổ nhiệm. Trong kinh doanh, các công ty của Anh kiểm soát tất cả các mối làm ăn và được nhận tất cả các hợp đồng của chính phủ. Toàn bộ nguồn cung cấp cho các chính phủ (Chính phủ Khu định cư Eo biển, Chính phủ nhà nước Liên hiệp các quốc gia Mã Lai và nhà nước không tham gia Liên hiệp) đều phải thông qua các đại lý của Quốc vương Anh. Một diện tích lớn đất trồng và mỏ thiếc được cấp phép cho các công ty của Anh khai thác với mức giá không đáng kể. Perak (nay là bang vùng tây bắc bán đảo Malaysia), Selagor, Negeri Sembilan (nay là bang ở bờ biển phía tây bán đảo Malaysia) và Pahang đều tham gia các hiệp ước trở thành nước bị Anh bảo hộ, nhưng đến năm 1895, người Anh thuyết phục các tiểu quốc này thành lập Liên hiệp. Chính quyền của Liên hiệp các quốc gia Mã Lai thuộc quyền kiểm soát của các công chức người Anh làm việc trong Cơ quan hành chính sự nghiệp Mã Lai. Vì vậy, ở Liên hiệp các quốc gia Mã Lai, sự cai trị của Anh là trực tiếp và toàn diện. Hội đồng lập pháp Liên hiệp được thành lập gồm phần lớn các thành viên đương nhiên của Anh, đại diện các doanh nghiệp còn các cộng đồng người Mã Lai, người Hoa và người Ấn Độ, mỗi cộng đồng có một đại diện. Nhưng Cao uỷ có thể bác bỏ các quyết định của họ. Cao uỷ chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng thuộc địa ở London. Ý kiến của nước bị bảo hộ không bảo vệ được đất nước đó khỏi sự xâm lược của nước ngoài, nhưng “sự bảo trợ của người Anh” có nghĩa là họ kiểm soát tất cả các lĩnh vực, ngoại trừ các lĩnh vực liên quan đến phong tục của người Mã Lai và tín ngưỡng Hồi giáo. Các quốc gia Mã Lai và người dân của họ phải bảo vệ trước chính họ, trước tính cách nghèo nàn và sự đồi bại của chính họ (bởi người Anh coi đây là một vấn nạn) và trước hậu quả của việc quản lý các sự vụ của họ. Cơ cấu chính quyền và vị thế của Liên hiệp các quốc gia Mã Lai không khác so với cơ cấu chính quyền ở Khu định cư Eo biển, cai trị trực tiếp các thuộc địa. Bang Kedah của tôi là một trong các bang thuộc Liên hiệp các quốc gia Mã Lai, chịu sự kiểm soát của người Anh và nằm ngoài cơ cấu chính quyền trung ương của mình. Các bang thuộc Liên hiệp khác là Johor, Terengguru, Kelantan và Perlis. Khi các Tiểu vương Mã Lai của các bang thuộc Liên hiệp bị mất quyền kiểm soát các bang của họ, các Tiểu vương của bang Kedah và bang Johor đã bác bỏ lời mời gia nhập Liên hiệp. Họ thậm chí còn từ chối có một liên minh hải quan và liên minh bưu điện. Kedah vẫn phát triển và dựa vào lực lượng cảnh sát của họ. Lực lượng này một thời do Tư lệnh cảnh sát người Mã Lai, Tunku Yahya Sultan Abdul Hamid lãnh đạo. Tất cả các Cảnh sát trưởng của các quận ở Kedah cũng đều là người Mã Lai được tuyển chọn từ các công chức ở Kedah. Chính quyền bang Kedah muốn bổ nhiệm nhiều người địa phương hơn nữa vào các vị trí lãnh đạo trong chính quyền. Vì vậy, những sinh viên Mã Lai học giỏi sẽ được gửi sang Anh để học kỹ thuật, luật pháp và kiến thức y học. Các sinh viên cũng được gửi tới Singapore và Hồng Kông để theo học ngành y. Các sĩ quan cảnh sát sẽ được đào tạo ở Trung tâm huấn luyện cảnh sát ở chính bang Kedah. Đó là lý do tại sao khi Mã Lai giành được độc lập, hầu hết các cơ quan này đều do những người Mã Lai ở Kedah lãnh đạo. Sau khi cha tôi thôi giữ chức hiệu trưởng Trường G.E.S ở Alor Star, hai người Mã Lai khác cũng đến từ Penang là Abdul Manaf và Ismail Merican là những người kế nhiệm ông. Nhưng sau họ, tất cả các hiệu trưởng ở Trường G.E.S ở Alor Star đều là người châu Âu. Các cơ quan chuyên nghiệp và cơ quan kỹ thuật của chính phủ cũng đều do các công chức của Anh lãnh đạo. Cha tôi không bao giờ nói với tôi những gì ông nghĩ về sự cai trị của thực dân, nhưng tôi nghĩ, giống như tất cả những người khác, ông chấp nhận đó là điều đương nhiên. Tiếng Mã Lai, được viết bằng hệ thống chữ viết Jawi, là ngôn ngữ chính thức trong chính quyền Liên hiệp các quốc gia Mã Lai. Trong các trường học dạy bằng tiếng Mã Lai, chúng tôi được học cả hệ thống chữ viết Jawi và hệ thống chữ viết Rumi (La Mã). Dần dần, người Anh đẩy mạnh việc học hệ thống chữ viết La Mã và các học sinh học chữ Jawi chỉ để đọc kinh Coran. Trong các trường dạy bằng tiếng Anh, kinh Coran không phải là môn học bắt buộc, mặc dù tại Trường G.E.S, nơi tôi học, vẫn có các lớp học tôn giáo buổi tối. Tôi tiếp tục học kinh Coran ở nhà, ban đầu được mẹ hướng dẫn, sau đó tôi được một học sinh lớn tuổi hơn ở Trường Mahmood dạy bằng tiếng Ả rập hướng dẫn. Mặc dù các Tiểu vương của các bang trong Liên hiệp được hưởng lương cao hơn và có cuộc sống sung túc hơn, nhưng tất cả các Tiểu vương đều phẫn nộ bởi thực tế rằng, người Anh đã kiểm soát trực tiếp và trên quy mô rộng ở tất cả các bang trong Liên hiệp. Ngôn ngữ hành chính trong các bang đó phần lớn là tiếng Anh. Do có rất ít người Mã Lai được đào tạo trong nền giáo dục của Anh, nên những người Ấn Độ và những người Tamil Sri Lanka do người Anh đào tạo đã được bổ nhiệm vào các chức vụ cao. Khi phụ trách việc tuyển dụng, các quan chức này lại tuyển họ hàng của họ ở Ấn Độ và Sri Lanka vào các chức vụ mới. Đến đầu thế kỷ XX, ở Khu định cư Eo biển và ở Liên hiệp các quốc gia Mã Lai, sự phân tầng xã hội giữa các tộc người đã thể hiện rõ nét. Các công chức da trắng thuộc tầng lớp cao nhất, tiếp đến là các công chức Âu Á, người Tamil Sri Lanka, người Ấn Độ và người Hoa. Đứng cuối cùng trong nấc thang phân cấp này là người Mã Lai. Đó là cái giá mà họ phải chịu khi không có trình độ học vấn tốt và đó là điều tôi không bao giờ quên. Khi người Anh ký kết các hiệp ước với các Tiểu vương Mã Lai, các khu vực mà các Tiểu vương này được kiểm soát vẫn chưa được phân định rõ ràng. Vì vậy, người Anh có thể xâm phạm ranh giới này nếu họ muốn. Tỉnh Wellesley (một phần của bang Penang nằm ở phần lục địa đối diện với đảo Penang) được mở rộng khi biên giới phía nam của tỉnh mở rộng bao gồm cả lãnh thổ của Perak. Xuống phía nam, khi Singapore bị nhượng lại cho Anh, người Anh đã thiết lập biên giới của nước này bao gồm cả các đảo ở eo biển Johor. Ở phía bắc, nhiều vùng lãnh thổ của Kedah bị nhượng lại cho Anh và trở thành lãnh thổ của Xiêm theo Hiệp ước Băng-cốc giữa Anh và Vương quốc Xiêm năm 1909. Người Anh được hưởng nhiều lợi nhuận kinh tế và thuận tiện trong quản lý. Trong khi đó, Nhật Bản và Xiêm lại chấp nhận hệ thống chính quyền châu Âu. Kedah và Johor cũng đã cố gắng chấp nhận như vậy trước khi chấp nhận sự bảo trợ của Anh. Penang là một mô hình đối với Kedah, và Singapore là một mô hình đối với Johor. Nhưng việc tái tổ chức này không được thực hiện tốt, bởi quá nhiều bên được quyền can thiệp. Dưới chế độ cai trị của Anh, phần lớn đất rừng đã được giao cho các công ty của Anh để trồng cao su và khai thác mỏ thiếc. Họ chỉ trả vài đô-la trên một hecta. Các công ty của Anh thu lợi nhuận lớn từ việc trồng cao su và từ các mỏ thiếc lớn mà họ khai thác. Họ lên Sàn chứng khoán London và cổ đông của họ phần lớn là người Anh. Các công nhân mỏ người Hoa khai thác các mỏ lộ thiên và các bãi cát. Cũng có các đồn điền do người Mỹ làm chủ, nhưng cần phải nói rằng, phần lớn tiền lợi nhuận đổ về Anh. Mã Lai không thu thuế từ các lợi nhuận này, bởi vì luật thuế chỉ được áp dụng sau Thế chiến thứ Hai. Phát triển tiện nghi và cơ sở hạ tầng công cộng không phải là mục tiêu của chế độ bảo hộ thực dân. Lợi nhuận thu được để phục vụ các mục đích khác và phục vụ cho người Anh. Ban đầu, các bang của Mã Lai đã có đồng tiền riêng, dạng đồng xu bằng vàng, bạc và đồng. Khi việc buôn bán với người châu Âu phát triển, đô-la bạc của Tây Ban Nha cũng được chấp nhận thanh toán. Đến khi Penang bị nhượng cho Anh, Anh chỉ phải trả khoảng 6 nghìn đô-la bạc của Tây Ban Nha trong một năm. Sau đó, phần lục địa đối diện Penang bị nhượng cho Anh với giá chỉ 4 nghìn đô-la Tây Ban Nha. Do các hoạt động chính trị ngày ấy là độc quyền của Vua, nên không ai chất vấn về thỏa thuận nhượng lại Penang cho Anh đó. Người Anh lên kế hoạch lợi dụng lòng trung thành mang nặng tư tưởng phong kiến của người dân Mã Lai đối với các Tiểu vương của họ, và 10 nghìn đô-la bạc Tây Ban Nha khi đó là số tiền rất lớn đối với họ. Sau khi đồng đô-la bạc được thay thế bằng tiền giấy do Chính phủ Khu định cư Eo biển phát hành, việc chi trả cho Kedah được thanh toán bằng đô-la Khu định cư Eo biển. Giá trị của đồng tiền này được bảo đảm bằng vàng, nhưng trên thực tế, chưa có trường hợp nào thanh toán tiền này có giá trị tương đương như vàng. Đồng đô-la của Khu định cư Eo biển không có giá trị bằng đồng đô-la bạc Tây Ban Nha và dần mất giá. Nhưng do các bang Mã Lai không phát hành loại tiền giấy nào khác, nên tiền giấy do Chính phủ Khu định cư Eo biển phát hành trở thành đồng tiền thanh toán hợp pháp trong tất cả các bang của Mã Lai. Trước khi có đồng tiền này, các ngân hàng lớn của Anh đã thu được lợi nhuận khổng lồ nhờ việc phát hành tiền giấy. Khi Chính phủ Khu định cư Eo biển được phát hành tiền, họ cũng kiếm được lợi nhuận lớn nhờ việc in tiền giấy. Không ai biết được ngày ấy liệu có dự trữ nào bằng vàng để bảo đảm cho đồng đô-la của Khu định cư Eo biển hay không, nhưng không ai quan tâm hoặc cố mua lại tiền giấy bằng vàng. Khi Mã Lai được độc lập năm 1957, 1 đồng bảng Anh bằng 8,3 đồng đô-la Khu định cư Eo biển và 1 đô-la Mỹ bằng 3 đô-la Khu định cư Eo biển. Mã Lai thuộc khối đồng bảng Anh và dự trữ của nước này đều bằng đồng bảng. Chính phủ Anh cho rằng, đồng đô-la Eo biển (sau này trở thành đô-la Mã Lai sau độc lập) sẽ bị mất giá. Vì vậy, trong hiệp ước độc lập, người Anh nhất quyết yêu cầu, những người được hưởng lương hưu của họ phải được hưởng bằng đồng bảng. Tuy nhiên, tại thời điểm Mã Lai giành được độc lập, chính đồng bảng lại bị mất giá và việc chi trả lương hưu cho những người hưu trí Anh bằng đồng bảng Anh giúp Chính phủ Mã Lai ít tốn kém hơn khi trả bằng đồng đô-la Mã Lai. Nhưng năm 1967, Malaysia bị mất khá nhiều tiền sau sự kiện đồng bảng Anh giảm giá đột ngột bởi Malaysia dự trữ tiền bằng đồng bảng. Hệ thống quản lý sử dụng đồng tiền thích hợp và quản lý các hệ thống tài chính đã giúp chính quyền các bang của Mã Lai nói riêng và toàn Mã Lai nói chung phát triển. Ngay cả các đồn điền cao su và các mỏ thiếc cho nước ngoài sở hữu cũng giúp Mã Lai giàu lên. Tại thời điểm Mã Lai giành được độc lập, quản lý và tài chính của Mã Lai cũng có nền tảng tốt hơn nhiều so với các thuộc địa khác giành được độc lập sau Thế chiến thứ Hai. Nhưng thu nhập bình quân theo đầu người của 5 triệu người dân sống ở bán đảo vẫn dưới 350 đô-la. Tỷ lệ thất nghiệp cao và nạn nghèo đói diễn ra tràn lan. Người Anh ca ngợi khái niệm Quân chủ lập hiến theo kiểu mà họ coi là một mô hình chính phủ lý tưởng. Nhưng họ không bao giờ đề cập đến rằng, dân chủ hoặc bầu cử không bao giờ được tiến hành hoặc được tổ chức ở nhà nước Mã Lai do người Anh quản lý. Chế độ cai trị thực dân của Anh là chế độ chuyên quyền, độc đoán và phân biệt đối xử đối với những người dân bản địa, đặc biệt là đối với những người Mã Lai. Ngày nay, người Anh, giống như những người theo chủ nghĩa đế quốc ở châu Âu khác, đòi hỏi rằng các thuộc địa trước đây của họ phải được dân chủ. Họ thực sự không có bất kỳ quyền nào để đòi hỏi như vậy, chính họ phải thấy xấu hổ vì quá khứ của dân tộc mình. Tuy vậy, nhiều người Mã Lai đã ca ngợi chế độ dân chủ nghị viện và quân chủ lập hiến của Anh. Khi Đảng UMNO bắt đầu tìm kiếm một chính phủ tự quyết và độc lập, họ không hề bàn đến chủ nghĩa cộng hòa. Thay vào đó, mọi thảo luận tập trung vào vấn đề làm thế nào để sáp nhập 9 tiểu quốc Mã Lai với các Tiểu vương của họ vào một nhà nước duy nhất được gọi là Liên bang Mã Lai thay thế cho Liên hiệp các quốc gia Mã Lai. Các Tiểu vương đồng ý sáp nhập những nét văn hoá riêng biệt và chủ quyền lãnh thổ của họ vào một cơ cấu trung ương mới dựa trên cơ sở nào? Một số nhà lãnh đạo Mã Lai đề xuất các Tiểu vương Mã Lai luân phiên giữ vị trí Quốc vương, nhiệm kỳ 5 năm. Các Tiểu vương vui vẻ chấp nhận tình trạng lập hiến mới này. Sửa đổi mới này còn tốt hơn rất nhiều Hiệp ước MacMichael, hiệp ước đảm bảo cho việc thành lập Liên hiệp Mã Lai năm 1946. Những thỏa thuận trong hiệp ước chỉ coi các Tiểu vương là nhà lãnh đạo Hồi giáo và là những người coi giữ các phong tục và tập quán của người Mã Lai và cuối cùng là đặt họ vào địa vị những ông hoàng lỗi thời giống như những ông hoàng bị loại bỏ rất dễ dàng ở Ấn Độ. Ở một khía cạnh nào đó, người Anh vẫn có thể tuyên bố rằng họ đã giải quyết được vấn đề duy trì hệ thống các nhà nước Mã Lai và các Tiểu vương khi hợp nhất các nhà nước này thành một thực thể và một quốc gia. Hệ thống này vẫn hoạt động tốt ngay cả sau khi Sabah và Sarawak được chấp nhận vào Malaysia. Chế độ dân chủ nghị viện và quân chủ lập hiến của Mã Lai đã đem lại nhiều ý nghĩa cho người dân của chúng tôi nói chung và người Mã Lai nói riêng. Người Mã Lai đã học được rất nhiều từ người Anh và Chính quyền thực dân Anh. Ban đầu, không hề có sự phản đối nào đối với người Anh. Những người Mã Lai chúng tôi từ trước vẫn từng là chư hầu của các quốc gia lớn hơn. Quyền bá chủ của người Anh không phải là điều lạ. Khi phe cộng sản người Hoa phải sử dụng đến cuộc chiến vũ trang để chống lại chính quyền thực dân Anh ở Liên bang Mã Lai, nhiều người Mã Lai đã tham gia cùng họ, nhưng ngược lại họ sẵn sàng gia nhập lực lượng an ninh để kề vai chiến đấu cùng người Anh. Chính người Hoa gây ra các vấn đề đối với các nhà quản lý người Anh. Các nhóm xã hội hoạt động bí mật của họ đã tích cực tống tiền những người giàu. Họ kinh doanh nhà thổ, buôn bán thuốc phiện và tổ chức các hoạt động đánh bạc bất hợp pháp. Họ thành lập các tổ chức xã hội đen cố gắng kiểm soát các mặt hàng độc quyền và chi phối các khu vực kinh tế trọng điểm và chính họ lại xung đột với nhau. Do tác động của các sự kiện ở Trung Quốc, họ bắt đầu truyền bá chủ nghĩa cộng sản. Họ tổ chức cuộc tổng đình công giống như các cuộc đình công do Gandhi sắp đặt và tẩy chay hàng hoá của Nhật Bản. Bất chấp những vấn đề này, Chính quyền thực dân Anh dường như đánh giá cao những đóng góp của người Hoa đối với nền kinh tế thuộc địa. Vì vậy, người Anh đã bổ nhiệm một Quan bảo hộ cho người Hoa. Trong suốt cuộc tranh chấp ở Liên hiệp Mã Lai, Victor Purcell, người nắm giữ chức vụ Quan bảo hộ nổi tiếng nhất đã bảo vệ mạnh mẽ quyền của người Hoa. Người Anh muốn 3 tộc người tách rời hẳn nhau. Trong khi người Mã Lai chôn mình vào cuộc sống của người nông dân ở các vùng nông thôn thì người Hoa lại tập trung ở các trung tâm đô thị, còn người Ấn Độ ở các đồn điền cao su. Người nông dân Mã Lai bất đắc dĩ phải rời làng mạc thân yêu của họ để làm lao động hưởng lương trong các điều kiện làm việc khó khăn và không được khích lệ mà những người lao động nhập cư nghèo khổ Ấn Độ phải chấp nhận. Chính vì vậy, họ thích tiếp tục cuộc sống của họ ở nông thôn, kiếm tiền từ việc trồng cao su khi họ có thể, nếu không thì họ lớn lên và sống dựa vào việc trồng lúa hoặc đánh bắt cá. Đây là hướng lựa chọn nhất thời của mỗi người nông dân Mã Lai và mỗi gia đình Mã Lai. Nhưng trong thời gian dài, điều đó có nghĩa là xã hội Mã Lai trên bán đảo sẽ không phát triển được. Không chỉ xét về mặt kinh tế, thế giới văn hoá và xã hội của người nông dân Mã Lai cũng trở nên tù túng. Sớm hay muộn người Mã Lai sẽ trở thành những người không chỉ ít có khả năng tiến lên một xã hội hiện đại mà còn không kiếm được lợi nhuận cho mình và không nắm vững được những kỹ năng và kiến thức mới. “Các nhà bảo trợ” người Anh của họ rất vui khi để điều này xảy ra. Họ thích Mã Lai trở thành một thế giới đơn giản, bất di bất dịch. Tuy nhiên, chiến lược chia để trị của họ chỉ thành công trong những ngày Mã Lai là thuộc địa của người Anh bởi ngày đó hầu như không xảy ra các cuộc xung đột sắc tộc. Liên hiệp Mã Lai của Anh vẫn sẽ còn là một phần của Đế chế Anh nếu người Nhật không quyết định xâm lược nước này. Nhiều người cho rằng, tôi chỉ trích người Anh và các nước châu Âu khác vì tôi không được đào tạo ở Anh như ba vị Thủ tướng tiền nhiệm. Thực ra, sự căm ghét của tôi đối với người Anh và chủ nghĩa thực dân Anh là xuất phát từ quá khứ. Nếu họ không đề xuất thành lập Liên minh Mã Lai, không lấy đi đất của người Mã Lai trên bán đảo của họ, thì tôi vẫn sẽ tiếp tục là người ủng hộ nước Anh một cách mù quáng. Nhưng cuộc đấu tranh chống lại việc thành lập Liên hiệp Mã Lai đã khiến tôi phải nhìn lại giai đoạn Mã Lai là thuộc địa của Anh và tôi đã thấy được những điều tôi không hề muốn thấy. Đó chính là nguyên nhân tại sao trong tâm tôi luôn nổi loạn chống người Anh. Và từ đó, ý tưởng phi thực dân hoá bắt đầu hình thành trong tâm trí tôi. 6. Đi buôn trong thời chiến Vài ngày sau khi tôi dự kỳ thi lấy chứng chỉ Cambridge bậc trung học cơ sở dành cho lớp 8 năm 1941, Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 và tấn công các vùng lãnh thổ của Anh và Hà Lan ở Đông Nam Á ngày 8 tháng 12. Trước đó, người Đức cũng tăng cường đánh chiếm châu Âu, với việc Hitler xâm lược Nga vào tháng 6 sau khi Pháp đầu hàng Đức tháng 7 năm 1940. Là một người yêu Đế chế Anh lúc đó, tôi luôn nghĩ Anh và các đồng minh của họ sẽ chiến thắng. Các bài học lịch sử đã dạy tôi rằng, Napoleon đã cố xâm chiếm Nga, nhưng ông ta đã bị mùa đông khắc nghiệt ở Nga đánh bại. Tôi không hề có khái niệm mùa đông Nga là gì, nhưng tôi tin rằng, mùa đông đó sẽ lại đánh bại người Đức lần nữa. Được khích lệ bởi những chiến thắng của Đức ở châu Âu, người Nhật quyết định gây chiến và tấn công Mỹ bằng việc ném bom Trân Châu Cảng. Tôi vẫn nhớ lúc đó tôi nghĩ rằng, người Nhật thật liều lĩnh và dại dột khi tấn công Mỹ. Tôi không thể hình dung được một nước nhỏ như Nhật Bản lại tấn công và xâm lược một nước lớn mạnh như Mỹ. Cuối cùng, tất cả những gì người Nhật đạt được là buộc Mỹ phải đứng về phe Đồng minh tham chiến. Từ cuộc tấn công không thận trọng của Nhật Bản, tôi đã rút ra bài học quan trọng cho những năm sau này khi tôi tham gia các hoạt động chính trị, đó là không bao giờ được thêm thù. Nếu bạn phải bắt buộc phải có thêm một kẻ thù khác thì hãy chỉ chấp nhận vậy khi bạn đã ngăn chặn thành công kẻ thù trước. Tôi không bao giờ hình dung được người Nhật sẽ xâm lược Mã Lai, nhưng sự sụp đổ của Pháp đã tạo động lực cho họ đồn trú quân ở các nước Đông Dương là thuộc địa của Pháp. Mỹ đã áp đặt lệnh cấm xuất khẩu dầu sang Nhật, đất nước mà ngay cả khi đó vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào việc nhập khẩu dầu mỏ. Trước đó, người Anh đã lo lắng khi bố trí các máy bay ném bom hạng nhẹ Blenheim và Trung Đoàn kỵ binh phía Đông (một trung đoàn thuộc Lục quân Anh được thành lập năm 1881) ở Alor Star. Trong quân đội Anh cũng xuất hiện những binh sĩ Nepal (mà ban đầu tôi tưởng là binh sĩ Mã Lai bởi họ cũng đội mũ tròn nhỏ của cảnh sát Mã Lai). Chính phủ bắt đầu các chiến dịch dân quân dự bị và phòng ngừa các cuộc oanh tạc bằng máy bay (ARP) như che các cửa sổ bằng các tấm vải đen, tắt đèn đường và để còi báo động máy bay ném bom. Tôi gia nhập quân đội nước ngoài sang giúp đỡ và rất tự hào khi mặc bộ quân phục của binh sĩ Nepal trong quân đội Anh với một cái rìu được đeo ở thắt lưng. Tôi được huấn luyện để xử lý các ống vòi và sơ tán thương binh bằng dây qua cửa sổ, một công việc không kỳ công lắm bởi các ngôi nhà ở Alor Star chỉ cao hai tầng. Bom lửa cũng được chúng tôi sử dụng để chỉ thị mục tiêu. Một lần, chúng tôi ném một quả bom lửa từ một đài quan sát tạm thời được xây dựng trên mái của toà nhà chính phủ, nhưng quả bom không nổ. Khi có người chỉ, tôi nhặt quả bom lên và đưa trở về đài quan sát. Tôi làm vậy mà không hề ý thức được rằng quả bom có thể nổ trong tay tôi. Sau này, khi nhận thức được mối nguy hiểm đó thì mồ hôi trong tôi túa ra. Trong thời gian này, binh sĩ Anh bắt đầu xuất hiện nhiều ở Alor Star. Chưa bao giờ thành phố này lại nhiều người da trắng đến thế. Họ hay lui tới các quán cà phê ở địa phương, uống bia, nói cười ầm ĩ và nói xấu người Nhật. Sự tuyên truyền của người Anh ở Mã Lai rất mạnh và các tờ Straits Times (tờ báo bằng tiếng Anh), tờ Straits Echo (một tờ báo bằng tiếng Anh khác) và đài tiếng nói Mã Lai, tất cả đều tuyên bố khả năng Anh sẽ đánh bại Đức. Sự rút lui vội vã của Anh khỏi thành phố Dunkirk được coi là một cuộc rút lui quan trọng và là một chiến thắng vĩ đại. Trận chiến nước Anh, trong đó Không quân Hoàng gia Anh bắn rơi rất nhiều máy bay chiến đấu Messerschmitt và máy bay ném bom Junker của Đức, được đưa tin rất chi tiết. Trước khi Nhật gây chiến, mối quan hệ giữa Nhật và Mã Lai còn khá khiêm tốn. Ở Alor Star, có một số cửa hàng bán đồ chơi của người Nhật. Một trong số những cửa hàng đó là K.Shiba ở phố Jalan Raja. Là lãnh đạo của cộng đồng người Nhật ít ỏi ở Mã Lai, ông chủ cửa hàng Shiba thường được mời tới dự sinh nhật của Tiểu vương. Nhưng khi chiến tranh nổ ra, tất cả những công dân Nhật đều bị bắt giữ. Người ta cho rằng, một thợ chụp ảnh người Nhật ở Alor Star tên là Miyamoto đã chụp những bức ảnh về sân bay Alor Star, nơi các máy bay ném bom Blenheim đang đậu. Khi Nhật đổ bộ vào Songkhla, Thái Lan và Kota Baru, Kelantan ngày 8 tháng 12 năm 1941, không một chiếc máy bay chiến đấu nào của Anh cất cánh trên không. Dường như những chiếc máy bay ném bom này đã rút đi để chiến đấu trên một chiến trường khác. Một chiếc máy bay của câu lạc bộ bay được sử dụng để quan sát những di chuyển của binh sĩ Nhật đã bị bắn rơi ở bắc Kedah. Binh sĩ Nhật tiến lên rất nhanh và nhanh chóng vượt qua phòng tuyến Jitra, đào các hào phòng thủ gần các con đường phía bắc Alor Star. Từ thành phố này, người dân có thể nghe thấy tiếng súng ngay sau khi binh sĩ Nhật vượt qua biên giới Xiêm – Kedah. Nhưng khi tôi tới trung tâm thành phố Alor Star sau khi quân Nhật chiếm đóng, chỉ có vài cửa hàng bị phá huỷ bởi đạn trái phá. Việc rút lui nhanh chóng của binh sĩ Anh đã giúp bảo tồn thành phố Alor Star. Gia đình của cha tôi vẫn đang ở Seberang Perak khi tiếng súng của Nhật nổ. Chúng tôi quyết định sơ tán tới nhà của chị gái tôi ở Jalan Kota Tanah, cách đó khoảng 1 km. Nhìn lại, cái cách mà chúng tôi thực hiện để bảo vệ mình khá buồn cười. Chúng tôi cảm thấy rằng, việc sơ tán đi khoảng 1 km mọi việc sẽ khác và sẽ giúp chúng tôi an toàn. Trong khi đó, những người sống ở đó lại sơ tán đi 1 km nữa. Những biện pháp sơ tán đó là những hành động thể hiện sự hy vọng hơn là chiến lược. Khi nghe thấy tiếng nổ lớn, chúng tôi đoán rằng cây cầu Wan Mohamad Saman, một cây cầu đẹp, cổ kính bắc qua sông Kedah, đã bị nổ tung. Trước đó, chúng tôi đã nhìn thấy các binh sĩ Anh chằng dây điện quanh cây cầu để chuẩn bị cho nổ cầu. Điều đó xảy ra cách nơi chúng tôi đến chỉ 2 km và sau này chúng tôi thấy các mảnh bê tông rơi xuyên mái nhà hàng xóm của tôi ở Seberang Perak. Thật may mắn là hàng xóm của chúng tôi cũng đã sơ tán hết. Mưa trút xuống và con đường đất cạnh nhà chị gái tôi lầy lội bùn. Chúng tôi lo lắng và sợ hãi khi thấy những binh sĩ Anh mệt mỏi lê bước trong mưa trên lớp bùn đặc quánh để trốn chạy quân Nhật. Tôi bị sốc khi nhìn thấy người da trắng bị đánh bại, mà lại bị đánh bại bởi người châu Á. Chúng tôi thấy hai binh sĩ Anh không hiểu tại sao bị tụt lại phía sau. Một binh sĩ nấp ở Nhà hát Hoàng gia ở Alor Star, trong khi một người khác được tìm thấy cạnh toà án, gần nơi cây cầu Wan Mohamad Saman nổ. Quân Nhật không thèm bắt hai binh sĩ Anh này làm tù binh mà ngay lập tức đâm họ bằng lưỡi lê. Tôi thường nghĩ về hai binh sĩ người Anh này, đặc biệt là về binh sĩ được tìm thấy gần cây cầu cũ. Anh ta là Tommy, cách xa gia đình hàng nghìn cây số. Những suy nghĩ cuối cùng của anh ta là gì trước khi gục xuống đất sau khi một binh sĩ Nhật đâm thẳng vào anh ta? Cho đến nay, tôi vẫn có thể cảm nhận được nỗi sợ hãi và đau đớn của anh ta khi bị lưỡi lê đâm thẳng vào người. Sau này, mọi người nói rằng, họ nghe thấy anh ta hét lên trước khi tắt thở. Thi thể anh ta bị đẩy xuống sông và khi đến nơi, tôi vẫn nhìn thấy máu anh ta. Tôi khó có thể hình dung nổi cảnh một người bị giết ở quá xa nhà và gia đình mình như thế. Tôi nghĩ về bản thân nếu chết ở tuổi đó và về cảnh anh ta hãi hùng như thế nào trong giây phút trước cái chết đau đớn đó. Cuộc chiến tàn khốc mà tôi đã chứng kiến từ đó ám ảnh tôi, luôn đưa tôi về với cảnh người lính cô đơn sợ hãi và đó là lý do tôi căm ghét chiến tranh. Vài ngày sau khi quân Nhật đánh đuổi người Anh ra khỏi thành phố Alor Star, người dân ở đây bắt đầu xuất hiện từ những ngôi nhà và từ nơi ẩn náu của họ. Trung tâm thành phố bị bỏ không. Sợ bị trở thành mục tiêu của binh sĩ Nhật, các chủ cửa hàng người Hoa đã bỏ đi sơ tán và cảnh cướp phá bắt đầu xuất hiện. Người ta lấy rìu phá mặt trước cửa hàng và cướp đi hàng hoá. Một tuần sau khi người Anh rời khỏi thành phố, chúng tôi trở về ngôi nhà của mình ở Seberang Perak.Vì sơ tán vội vã, khi trở về chúng tôi thấy những thức ăn đã thối rữa trên các đĩa. Chúng tôi nghe nói về sự tàn bạo của binh sĩ Nhật. Họ tấn công người dân địa phương ở bất kỳ nơi nào. Nhiều người Mã Lai, đặc biệt là người Hoa đã bị giết. Chúng tôi sợ rằng, họ hãm hiếp phụ nữ và tàn sát nam giới. Nhiều cô gái trẻ đã vội cắt tóc thật ngắn và trốn trên những trần nhà mỏng của họ. Nhưng binh sĩ Nhật rõ ràng là quá bận với việc chiến đấu và hầu hết những điều hãi hùng chúng tôi sợ đều không xảy ra. Nhưng trong suốt thời gian quân Nhật chiếm đóng, chúng tôi sống trong nỗi sợ quân Nhật. Họ bắt giữ những người bị tình nghi là giúp kẻ thù của họ, nghi làm gián điệp hoặc nghi có tham gia vào phong trào du kích chống Nhật. Trước khi Nhật chiếm đóng, một số người bị bắt đã tham gia giúp Trung Quốc chống Nhật. Phương pháp tra tấn yêu thích của quân Nhật là tống nước vào mồm tù binh bằng một vòi nước áp lực cao. Bụng của tù binh sẽ phồng to và sau đó nước lại bị ép ra bằng cách giậm thật mạnh vào bụng tù binh. Sau vài lần như thế, nếu tù binh vẫn không chết, anh ta chắc chắn sẽ phải khai. Tuy nhiên, số người bị giết trong thời gian Nhật chiếm đóng Mã Lai tương đối nhỏ. Quân Nhật thậm chí còn tuyển người Mã Lai vào lực lượng bán quân sự của họ. Các binh sĩ Mã Lai trẻ tuổi kiêu hãnh khệnh khạng trong bộ quân phục với những thanh gươm cong giống như những thanh gươm của các sĩ quan Nhật. Tôi trở thành người bạn trung kiên của một trong số các binh sĩ này, Azahari Taib, người sau này trở thành uỷ viên Hội đồng bang Kedah và là nghị sĩ Quốc hội sau độc lập. Sau này tôi mới biết rằng Tan Sri Azahari (ông mới mất gần đây) không trở thành binh sĩ để chiến đấu cho quân Nhật. Ông là một người Mã Lai yêu nước và là một người theo chủ nghĩa dân tộc. Ông thuộc lớp người đầu tiên tham gia cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong thời gian quân Nhật chiếm đóng, rất khó để kiếm được một công việc, ông đã phải gia nhập lực lượng bán quân sự Nhật để có cái để ăn. Những người khác gia nhập lực lượng bán quân sự Nhật bởi họ mang tư tưởng chống Anh. Tôi rất ngạc nhiên khi có những người Mã Lai mang tư tưởng vậy, như Hiệp hội thanh niên Mã Lai do các giáo viên được đào tạo ở Trường cao đẳng sư phạm Mã Lai ở Tanjung Malim, Perak thành lập. Tôi được biết họ đã hỗ trợ cuộc tấn công của Nhật Bản bằng cách xếp các cột golf có hình mũi tên chĩa thẳng về phía các kho quân sự của Anh. Lực lượng bán vũ trang Indonesia (lực lượng nòng cốt của Quân giải phóng Indonesia) và lực lượng bán vũ trang Mã Lai cũng có sự phối hợp chặt chẽ. Cùng với các bạn bè của họ ở Java và Sumatra, những người có quan điểm cấp tiến của Hiệp hội thanh niên Mã Lai đã lên kế hoạch thành lập nhà nước Indonesia vĩ đại, trong đó bao gồm cả bán đảo Mã Lai. Sukarno, người sau này trở thành Tổng thống đầu tiên của Indonesia những năm 1945 – 1967, nhà hoạt động chính trị hàng đầu vì nền độc lập của Indonesia, đã đến thăm Mã Lai trong thời gian Nhật chiếm đóng để gặp gỡ các nhà lãnh đạo của Hiệp hội thanh niên Mã Lai. Nhưng đa số người Mã Lai lại thận trọng trước phong trào giành độc lập non trẻ này. Họ muốn quân Đồng minh chiến thắng trong cuộc chiến chống liên minh quân sự Đức, Italia và Nhật. Họ cũng hoan nghênh sự tham gia của Mỹ, coi người Mỹ như những người giải phóng cho họ. Hầu hết người Mã Lai đều rất ủng hộ Mỹ. Bản thân tôi lại rất sợ họ, những người tôi chỉ được nhìn thấy trên phim ảnh trước chiến tranh. Họ là những người to lớn, luôn đánh nhau và chiến thắng những người Da đỏ trong các bộ phim cao bồi. Khi những người Ấn Độ bắn ngựa của người Mỹ trong phim, ngựa đổ xuống như trò chơi ky chín con và chết, tôi reo hò phấn khởi. Ngày nay, những bộ phim như vậy không được chiếu nữa. Các vai diễn, cũng như quan điểm của các nhà làm phim và khán giả đã thay đổi. Các phim kể về cuộc sống của những người chăn bò ở miền tây nước Mỹ miêu tả thổ dân Mỹ và Mỹ phi là những anh hùng không phải là chuyện đáng chú ý đối với người phương Tây. Ngày ấy, chúng tôi cũng ít khi chúc mừng người Mỹ bởi họ tìm và bắt kẻ thù của họ trên khắp thế giới. Cùng với sự xâm lược của Nhật Bản, Chính quyền Kedah cũng ngừng hoạt động và tất cả các anh trai và anh rể của tôi, những người đang làm việc cho Chính quyền bang Kedah, bỗng nhiên thất nghiệp. Đồng đô-la Khu định cư Eo biển vẫn có giá trị nhưng không bao lâu sau, chúng tôi đã tiêu hết tất cả số tiền chúng tôi có. Phải làm gì đó ngay lập tức, nên các anh trai tôi quyết định đi bán chuối trên đường phố. Chúng tôi không có cửa hàng nên đã trải chiếu trên con phố ở Jalan Pekan và bày chuối ra bán. Lương thực khan hiếm dù chúng tôi đã cố gắng hết sức và bắt đầu phải ăn đứt bữa. Chúng tôi rơi vào cảnh nghèo đói rất nhanh. Chế độ ăn hàng ngày của chúng tôi gồm cơm và bột cà ri tôm, đậu dài. Chúng tôi sống gần bờ biển nên tôm rất nhiều và rẻ. Ngay cả vậy, đầu tiên tôi vẫn ăn cơm trộn cà ri và đậu, còn tôm chỉ để ăn ở miếng cuối cùng. Nhiều năm sau đó, tôi vẫn giữ được thói quen ăn món ngon nhất cuối cùng. Chúng tôi rất hiếm khi được ăn thịt lợn và thịt gà, không được uống cà phê hoặc trà và tồi tệ hơn cả là chúng tôi cũng không có đường để ăn. Thật may mắn, gạo ở Kedah rất nhiều. Trên thực tế, trong những ngày đầu Nhật chiếm đóng Mã Lai, ở Kedah còn thừa gạo, vì người ta không thể chuyển gạo tới các vùng khác của Mã Lai. Do chúng tôi được nuôi dưỡng thiếu thốn nên nhiều người bị mắc bệnh tê phù, toàn thân sưng lên. Những người khác thì bị lở loét, sưng mủ, trong khi một số người lại bị sốt và chết. Cha mẹ rất sợ chúng tôi bị sốt bởi lúc đó không có sẵn thuốc để điều trị. Phương pháp hạ sốt duy nhất là lau người bằng một tấm gạc lạnh, hoặc tắm nước thảo mộc nóng. Trong khi đó, người Nhật bắt đầu bắt các công chức ngành đường sắt Mã Lai và những thường dân khác tham gia vào lực lượng xây dựng “tuyến đường sắt tử thần” ở Miến Điện để vận chuyển binh lính, vũ khí và các vật chất khác phục vụ chiến tranh tới mặt trận Ấn Độ. Những người bị bắt buộc nhập ngũ này phải sống và làm việc trong các rừng nhiệt đới ngập muỗi, thiếu thốn lương thực, nước uống hoặc không có nơi tử tế để ngủ. Nhiều người Mã Lai đã chết khi làm việc trên công trường đường sắt đó. Khi chiến tranh kết thúc, những người sống sót đi bộ hết tuyến đường sắt từ Miến Điện trở về. Một số người họ hàng của tôi và bạn bè của họ làm việc trên công trường này đã nghỉ lại chỗ chúng tôi vài ngày trước khi tiếp tục cuốc bộ về nhà. Trông họ tiều tuỵ, những vết lở loét mưng mủ khắp người. Ơn trời, sau vài ngày được chăm sóc và nghỉ ngơi, họ bắt đầu hồi phục. Thời gian đầu Nhật chiếm đóng, ở Mã Lai không có trường học nên tôi phải ở nhà. Tôi lục khắp nhà và tìm được những quyển sách từ phòng đọc của cha tôi mà tôi đã đọc. Tôi đọc lại những quyển sách này một lần nữa vì không có việc gì để làm. Sau này, tôi tìm thấy một số tạp chí kinh doanh của Mỹ mà ai đó đã vứt đi, có thể là do sợ người Nhật sẽ cấm đọc chúng. Nghĩ rằng, các binh sĩ đang rất bận với những việc quan trọng hơn việc đi cấm đọc sách nhiều, tôi nhặt tất cả những quyển tạp chí đó về nhà và đọc kỹ từng trang. Tôi đọc tất cả các thứ mà tôi có trong tay, trừ một quyển sách dày mà tôi có tiêu đề The Wandering Jew (Người Do Thái lang thang). Tai họa sẽ rơi vào bất kỳ một cộng đồng nào nếu nhân vật ở tiêu đề cuốn sách đó đến thăm, nhưng thật buồn là mặc dù tôi quyết tâm, nhưng tôi không thể đọc hết được cuốn sách này. Đó là cuốn sách duy nhất tôi không thể đọc hết trong cuộc đời mình. Kedah sau đó do một người mà tôi nghĩ là một sĩ quan quân sự cao cấp của Nhật quản lý. Ông này có tước hiệu là Cho Kang Kakka. Cứ vào đầu tháng, người dân ở Alor Star phải tập trung ở toà án Padang, khu vực trước trụ sở toà án cũ, để nghe Cho Kang Kadda trình bày bài diễn thuyết dài bằng tiếng Nhật. Khi đó tôi cũng có thể hiểu được một chút tiếng Nhật, nhưng không thể hiểu được những gì ông ta đang nói, trừ từ Ei Bei Koku, có nghĩa là Mỹ và Anh. Tôi biết rằng, người Nhật muốn chúng tôi căm ghét người Mỹ và người Anh, nhưng tôi không nghĩ là người Nhật gây được ấn tượng gì đối với người dân chúng tôi. Mặc dù ban đầu chúng tôi sợ hãi và thiếu lương thực, nhưng cuộc sống dưới sự đô hộ của Nhật Bản cũng không quá khắc nghiệt đối với chúng tôi như đối với một số người khác. Tuy nhiên, cảm giác bị cắt rời khỏi phần còn lại của thế giới làm tôi thất vọng, không phải vì tôi thường đi lại nhiều, mà vì tôi không thể biết được những điều đang xảy ra ngoài nơi tôi đang sinh sống, không thể biết được những tin tức mà tôi đọc hàng ngày trên các tờ báo địa phương. Tôi thực sự nhớ những tờ tạp chí mà tôi rất thích trong thư viện của trường. Tôi cố gắng cập nhật tin tức về cuộc chiến tranh qua một tờ báo khổ nhỏ viết bằng tiếng Anh, tờ Syonan Shimbun được xuất bản ở Singapore. Ban đầu, binh sĩ Nhật tấn công khắp mọi nơi, dường như không gì có thể chặn được họ. Quân Nhật đã chiếm Papua New Guinea và sẵn sàng xâm lược Australia. Họ hành quân qua Miến Điện và cuối cùng tới thành phố Imphal, thủ phủ của bang Minipur. Tuyến đường đã được mở và Ấn Độ lúc đó đã ở trong tầm tay. Nhiều người Ấn Độ ở Mã Lai rất phấn khích vì có khả năng sẽ được chiến đấu cùng người Nhật để giải phóng đất nước. Lo sợ bị phản bội, Anh không tuyển người Ấn Độ vào lực lượng du kích chống Nhật nữa. Nhiều người Ấn Độ ở Mã Lai đã không tham gia vào Quân đội quốc gia Ấn Độ do Subhas Chandra Bose và Ras Behari Bose thành lập để giành độc lập cho Ấn Độ thông qua lực lượng vũ trang phối hợp với quân Nhật. Trước đó, hầu hết các đảo ở Thái Bình Dương cũng đã bị chiếm. Xiêm đã cho phép quân Nhật vào sau khi chính phủ quyết định hợp tác với người Nhật. Vì vậy, ở Xiêm hầu như không có cảnh chiến tranh tàn phá. Thời gian này, Xiêm quyết định đổi tên của mình thành Thái Lan, có nghĩa là Vùng đất tự do. Để đáp lại sự ủng hộ của Xiêm, người Nhật quyết định chuyển cho Xiêm 4 bang phía bắc Mã Lai là Kedah, Perlis, Kelantan và Terengganu. Tiểu vương bang Kedah, Tunku Badlishah, rất vui vì điều này. Ông đã được đào tạo ở Bangkok như một người được Quốc vương Xiêm bảo trợ. Khi việc chuyển giao hoàn tất, ông gọi điện cho Thủ tướng của Xiêm. Không ai biết chính xác hai người nói với nhau những gì trong cuộc điện đàm, nhưng không có một sự phản đối công khai nào chống lại người Thái khi họ đến tiếp quản bang này từ tay người Nhật. Người Mã Lai vẫn thản nhiên chấp nhận sự cai trị của người nước ngoài. Không bao lâu sau, tôi bắt đầu nhìn thấy những bộ quân phục Thái và đồng phục dân sự Thái ở Alor Star, lần đầu tiên trong đời. Những bộ đồng phục này được làm bằng lụa bởi lụa là loại vải dệt duy nhất sẵn có trong chiến tranh. Quân đội mặc quân phục xanh, trong khi các công chức mặc quần đen, áo trắng. Khi độc lập, Thủ tướng Tunku Abdul Rahman vẫn chấp nhận bộ quân phục giống như vậy. Các Thủ hiến bang và Thống đốc bang Penang đã bổ sung thêm vào trang phục của họ, đó là một cái mũ rộng vành có những chiếc lông đà điểu ở trên tương tự như loại mũ mà các Thống đốc bang ở Anh vẫn đội. Những chiếc mũ này khiến họ trông thật lố bịch. Vì vậy, chiếc mũ này sớm bị thay thế bằng mũ songkok. Tôi rất phẫn nộ với cách mà người Nhật đã chuyển giao quyền kiểm soát Kedah cho người Thái. Tôi cảm giác họ coi Kedah và các bang miền bắc khác của Mã Lai là những mảnh đất có thể kinh doanh giống như tài sản cá """