"
Học Viện Ác Mộng 1: Chiếc Vòng của Barakkas - Dean Lorey full prc pdf epub azw3 [Huyền Ảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Học Viện Ác Mộng 1: Chiếc Vòng của Barakkas - Dean Lorey full prc pdf epub azw3 [Huyền Ảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Học viện ác mộng 1
- Dean Lorey -
Original title:
Nightmare Academy
Copyright © 2007 by Dean Lorey
Xuất bản theo hợp đồng chuyển nhượng bản quyền giữa HarperCollins Childrens Books, 1325 Avenue of the Americas, New York, NY. 10019 USAvà Công ty TNHH Sách Phương Nam
Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty TNHH Sách Phương Nam, 2009
Mọi sao chép, trích dẫn phải có sự đồng ý của Công ty TNHH Sách Phương Nam
Dành tặng cho vợ tôi, Elizabeth,
và các con, Chris và Alex
Bố yêu mọi người
PHẦN MỘT - PHÂN VIÊN ÁC MỘNG
CHƯƠNG MỘT- QUÁI VẬT Ở NHÀ MẪU SỐ 3
Ngày nào cũng như ngày nào, Charlie Benjamin luôn tin chắc nó là đứa cô đơn nhất quả đất. Nó cứ phải thui thủi học một mình ở nhà, trên một con phố tĩnh mịch nằm trong một khu dân cư có cổng rào bao quanh. Nhìn bên ngoài nhà nào nhà nấy trông cũng từa tựa nhau, nhưng thật ra là có đủ các mẫu nhà khác nhau cho người mua lựa chọn.
Gia đình Benjamin sống trong ngôi nhà xây theo mẫu số 3.
Bố của Charlie là người ưa chính xác, có một cái tên nghe rõ chính xác là Barrington. Ông thường giải thích với Charlie rằng: “Mẫu số 3 là mẫu ưu việt nhất. Mẫu số 1 rõ ràng là mẫu cơ bản rồi - tốt nhất là ít nói về nó thôi. Mẫu số 2 thì lại là kết quả của việc khắc phục các khuyết điểm một cách quá ư vội vàng. Và thường thì phải lùi hai bước mới tiến tới được một bước. Chỉ có mẫu số 3 của ta là mẫu đơn giản, vững chãi và đáng tin cậy .”
Và cái mẫu số 3 ấy chính là nhà tù của Charlie Benjamin.
Mười ba tuổi mà nó thấp lủn chủn, tóc bù xù màu cát, cặp mắt nâu đen, cả mũi lẫn gò má đầy tàn nhang lấm tấm. Cùi chỏ và đầu gối không hề có chút sứt sẹo nào, trên người hầu như cũng chẳng có vết bầm tím nào, tất cả đều nhờ-ở-bà-mẹ-quá-lo-luôn-bắt-con-phải-ở trong-nhà của nó.
“Thế giới này bất ổn lắm con ơi,” bà thường bảo vậy. “Ở trong nhà mẹ còn bảo vệ được con, chứ một khi con bước chân ra ngoài thì...” Câu ca cẩm cứ đến đây là kèm theo một cái lắc đầu nghiêm trọng, như thể cuộc sống bên ngoài ngôi nhà mẫu 3 này đau đớn không cách gì xơi nổi.
“Con biết, lúc nào mà mẹ chẳng nói thế,” Charlie bảo với mẹ vào một sáng thứ Bảy nọ, sau một cái lắc đầu cực kỳ nghiêm trọng như mọi khi của bà. “Nhưng mẹ nói mãi thì điều đó cũng có biến thành sự thật được đâu. Con chán bị nhốt trong nhà lắm rồi. Con muốn đi học ở trường bình thường kìa.”
“Trường bình thường ấy hả?” mẹ nó đáp ngay. “Con yêu ơi, ngay ở nhà mình đây vẫn có đủ những thứ mà trường bình thường có đấy thôi: sách vở, máy vi tính, giấy bút, bài kiểm tra, điểm số...”
“Nhưng không có học sinh,” Charlie ngắt lời. “Không có đứa nào khác ngoài con cả.”
“Ừ, đúng là thế,” mẹ nó dịu dàng đồng ý. Mẹ nó là một phụ nữ dịu dàng, dịu dàng đến nỗi bị bà ngoại đặt cho cái tên là Olga mà cũng chẳng hề phàn nàn lấy một lời. “ Cám ơn trời , không có đứa học sinh nào khác tức là không có ai giỡn hớt, hiếp đáp hay chọc ghẹo con vì con hơi khác người một chút.”
Dù Charlie hơn ai hết phải thừa nhận rằng mình không phải chỉ ở mức khác người một chút , nhưng thử hỏi cứ nhốt nó trong nhà để khỏi bị những đứa khác bắt nạt thì có khác gì việc muốn lấy mảnh dằm khỏi ngón tay mà chặt phứt luôn cả bàn tay đi không? - việc thì xong rồi đó, nhưng với cái giá thế nào?
Một cái giá quá đắt. Charlie vừa nghĩ đến đấy thì nghe tiếng người đưa thư đẩy xấp thư sáng qua một cái khe trên cửa trước. Nó thở dài, bước đến lấy xấp hóa đơn và mấy cuốn ca-ta-lô như thường lệ - thường là dành cho bố, chứ chẳng bao giờ nó có phần trong ấy. Và đó là lúc Charlie sững sờ trông thấy một phong bì nhỏ màu xanh da trời có ghi hàng chữ “Gởi Charlie Benjamin”.
“Của con,” nó há hốc mồm.
Nó mở phong bì, gần như mê mụ đi và phát hiện trong đó có một thiệp mời dự tiệc - không phải là tiệc bình thường đâu nhé. Ấy là một bữa tiệc ở lại đêm tại nhà một đứa trong nhóm trẻ con sống gần cuối phố hẳn hoi. Dĩ nhiên, Charlie chẳng quen thân với đứa nào trong đó cả - nói cho đúng thì nó có quen đứa nhóc bằng tuổi nào đâu - nhưng rõ ràng có ai đó đã thấy tội nghiệp một thằng nhỏ khác người sống trong một ngôi nhà mẫu số 3 như nó.
Charlie đọc tấm thiệp mời đến hai lần để bảo đảm rằng trên đó đúng thật có viết cái điều mà nó nghĩ là nó vừa đọc thấy; rồi nó lại đọc thêm lần nữa cho chắc ăn. Khi đã hài lòng khẳng định không phải mình nằm mơ ra mọi thứ, nó mới đem thiệp cho bố mẹ xem.
“Tuyệt đối không được,” bố nói sau khi liếc nhìn tấm thiệp.
“Nhưng tại sao chứ?” Charlie hỏi ngay. “Con đã rất ngoan rồi còn gì! Con đã làm xong hết bài tập, rồi vừa học xong một chương địa lý tức thì nữa đấy thôi.”
“Charlie à, ý bố con là bố mẹ chắc chắn muốn con đấy chứ,” mẹ nói. “nhưng nhỡ con lại gặp ‘ác mộng’ thì sao?” Ác mộng của Charlie.
Mặc dù đã lâu lắm rồi kể từ hồi Charlie gặp cơn ác mộng thảm họa giữa chốn đông người, nhưng cứ nghĩ lại điều đã xảy ra là nó vẫn rủn cả người vì sợ. Tuy thế, đây thật sự là một cơ hội có thật mười mươi để kết bạn.
Nó không thể bỏ qua cơ hội này.
Thế là Charlie nài nỉ bố mẹ. Nó van xin. Nó tình nguyện rửa chén đĩa suốt cả năm, cả cắt cỏ, cả học tiếng Pháp. Nó lý luận rằng kể từ lần bị ác mộng ghê gớm kia đến nay đã lâu lắm rồi nên chắc chắn là bây giờ nó đã khỏi bệnh. Cuối cùng, Charlie nói với bố mẹ rằng đi dự bữa tiệc ở lại đêm ấy là món quà duy nhất mà nó muốn, cho cả Giáng sinh lẫn sinh nhật cộng lại .
Cho cả hai năm tới.
Thậm chí cả ba năm luôn, nếu cần.
Sau khi tranh luận hồi lâu sau cánh cửa đóng kín, bố mẹ Charlie cuối cùng cũng du di. Thế là đêm đó, Charlie thấy mình bước lên bậc tam cấp của một ngôi nhà xa lạ, trên vai đeo lủng lẳng một cái túi đựng đồ ở qua đêm.
“Con biết cách liên lạc với bố mẹ nếu có tai họa xảy ra rồi chứ?” mẹ Charlie lo lắng hỏi sau lưng nó.
“Có mà mẹ, con biết cách dùng điện thoại mà.”
“Ta dợt nhanh mấy món võ mà bố đã dạy đi, kungfu hay là món gì khác chẳng hạn?” bố nó đề nghị.
“Con đâu cần dùng kungfu đánh ai đâu bố. Không có gì đâu mà, tin con đi.”
“Mình đáng ra không bao giờ được đồng ý chuyện này mới phải,” mẹ nó rền rĩ. “Còn ngủ lại đêm nữa chứ! Lúc ấy mình nghĩ cái gì không biết nữa?”
“Không sao đâu mà mẹ,” Charlie háo hức nhìn mấy đứa nhóc trong nhà. Rõ là bọn chúng đang chơi đùa thật thỏa thích. “Tối nay con sẽ không bị ác mộng gì đâu. Bố mẹ tin con đi mà.”
“ Tất nhiên là bố mẹ tin con chứ,” ông Benjamin đáp lại và đưa cho Charlie một cái điện thoại di động. “Bố mẹ biết sẽ chẳng có gì xảy ra đâu, nhưng để đề phòng , bố đã lưu số điện thoại nhà vào chức năng quay số nhanh để con gọi được liền nếu có chuyện ghê gớm xảy ra.”
“Cám ơn bố,” Charlie miễn cưỡng nói và đành cầm lấy chiếc điện thoại.
“Trong ba lô của con có cái nút tai,” mẹ nó dặn dò thêm, “mẹ để trong cái túi nhỏ ấy. Nếu mấy đứa khác có chọc ghẹo hay gọi con thế này thế nọ thì cứ nút kín tai luôn đi nhé.”
“Vâng, mẹ,” Charlie chỉ mong bố mẹ mình mau mau về cho rồi, nhưng họ vẫn cứ đứng đó.
“Thôi,” cuối cùng, ông Benjamin nói. “Có lẽ bố mẹ phải về đây. Bố mẹ yêu con, con trai ạ, bố mẹ tin con, và cũng tin chắc bằng cả tim lẫn óc mình rằng tối nay sẽ không có tai họa gì xảy ra đâu.”
“Không sao đâu,” Charlie nói. “Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả thôi. Con hứa mà .”
Và đúng là mọi chuyện đều tốt đẹp... được một lát. Charlie chơi trò chơi điện tử trên máy vi tính, ăn bánh pizza, và xem phim kinh dị PG-13 [1] . Có một điều khó tin là Charlie đã xém nữa thì kết bạn với một thằng nhóc cao cao, tóc vàng mà lũ còn lại gọi là “T.C.”. Sau khi tìm hiểu, Charlie mới biết đó là chữ tắt của “T.C.C.”, viết tắt cho biệt hiệu “Thắng Chắc Cú” vì tài chơi điện tử siêu đẳng của thằng này.
Đó là khoảng thời gian vui nhất Charlie từng có trong đời.
Rồi thì đến giờ đi ngủ.
Những tình tiết diễn ra trong cái mà các báo giật tít là “Sự kiện hãi hùng tại tiệc ngủ đêm” đã được tường thuật theo nhiều cách khác nhau, nhưng có một số chi tiết thì không ai bàn cãi: Đâu đó vào khoảng ba giờ sáng, bỗng có tiếng thét, rồi có tiếng loảng xoảng trong căn phòng mà lũ trẻ đang ngủ. Khi những người lớn trong nhà cuối cùng cũng cạy được cửa thì tất cả bọn trẻ con đều đã bị treo lủng lẳng trên trần nhà, đứa nào đứa nấy bị bọc kín trong một cái kén bằng tơ nhện vô cùng chắc. Đứa duy nhất không bị bọc tơ, cũng không bị treo lên trần là Charlie, và nó đang đứng bàng hoàng nhìn trân trân cái cửa sổ phòng ngủ đã vỡ tan.
“Chúa ôi, chuyện gì thế này ?” ông bố nhà đó há hốc mồm khi nhìn đám con mình bị treo lên tòng teng tựa mấy món trang trí trên cây thông Giáng sinh.
“Một con nhện khổng lồ,” Charlie nói, và chỉ tay về khung cửa sổ vỡ. “Nó chạy qua đó. Không phải lỗi của cháu!”
Có ai đổ lỗi cho Charlie đâu, thật thế. Suy cho cùng, một thằng tí con mười ba tuổi sao mà làm được cái điều lạ thường đến vậy với quá nhiều đứa trẻ thế kia được chứ? Tuy nhiên, phóng viên báo địa phương cũng phải thắc mắc không hiểu tại sao Charlie lại là đứa duy nhất không bị “con nhện khổng lồ” đụng đến - và đó là điều mà chính Charlie cũng thấy hoang mang. Dù chẳng ai tỏ ra trách cứ nó, nhưng sau khi bọn trẻ được cắt kén và cứu tỉnh lại thì chẳng đứa nào thèm nói chuyện với nó nữa, thậm chí còn chẳng thèm nhìn mặt nó - kể cả thằng T.C.. Trước khi đi ngủ đêm đó, Charlie cứ nghĩ cuối cùng rồi mình cũng có bạn, thế mà lúc thức dậy thì lại chỉ thấy mình là đối tượng của sợ hãi và khiếp đảm.
Nhưng đó không phải là lần đầu.
Sự thật là ngay từ khi mới chào đời, Charlie Benjamin và giấc ngủ đã là một sự kết hợp kinh hoàng. Tai họa nơi đông người xảy ra lần đầu tiên trong giờ ngủ trưa tại trường Mầm non Vòng tay Chào đón.
Năm ấy Charlie ba tuổi.
Mặc dù không còn nhớ rõ những chi tiết cụ thể của cơn ác mộng mà nó gặp phải trong lúc cùng bọn trẻ khác nằm ngủ trên những tấm thảm trong lớp học tối om, nhưng Charlie vẫn nhớ rất rõ tiếng hú hét không phải của con người đã cuốn phăng nó khỏi giấc ngủ. Khi các cô bảo mẫu lao vào xem cái gì có thể gây ra một tiếng ồn khủng khiếp đến như thế thì bé Charlie cũng đã thức giấc và nhìn thấy
quang cảnh tan hoang tiêu điều chung quanh.
Lớp giấy dán tường sặc sỡ dành cho trẻ con bị tung ra, lòng thòng từng giải dài như bị móng vuốt cào rách. Cái kệ sách bị lật ngược, bên cạnh đó là hồ cá cảnh vỡ tan tành, con cá vẫn đang giãy điên cuồng, hớp lấy hớp để không khí. Một vạt kính cửa sổ vỡ, miểng lấp lánh bám trên cái giá vẽ gãy lăn lóc dưới sàn.
“Chuyện gì thế này?” cô giáo hỏi, mặt mũi tái dại.
“Con xin lỗi,” Charlie run rẩy đáp. “Con không cố ý mà.”
“ Mình con gây ra tất cả chuyện này sao?” Cô giáo ngờ vực.
Charlie gật đầu. “Thỉnh thoảng lại có chuyện xấu xảy ra mỗi khi con bị ác mộng.”
Chuyện vẫn vậy.
Thường thì Charlie ngủ ở nhà, trên chiếc giường mềm mại ấm áp và mọi chuyện tưởng chừng đều tốt đẹp - ít nhất thì cũng được một lát. Thế rồi, vào một lúc nào đó trong đêm, chợt có những tiếng hồng hộc, gầm gừ xé toang ngôi nhà. Đến khi cha mẹ nó chạy xộc vào phòng để xem chuyện gì xảy ra thì nơi ấy đã tanh bành - nệm thì tung tóe, thảm thì rách bươm, kính thì vỡ tan vỡ vụn. Và dù chẳng bao giờ bắt gặp lúc Charlie đang phá phách trong cơn ác mộng, nhưng họ đoán chính nó đã gây ra mọi chuyện chứ chẳng phải ai khác - đó là giải thích duy nhất nghe có vẻ hợp lý. Thật tình, Charlie thường cảm thấy hãi hùng mỗi khi đi ngủ vì cứ nơm nớp sợ những gì nó có thể phải thấy khi thức dậy .
Biến cố vào giờ ngủ trưa (sau đó được đặt tên là “Thảm họa giờ ngủ trưa”) nhanh chóng trở thành một huyền thoại; và không lâu sau đó, mỗi lần Charlie đi ngang qua là bọn trẻ lại đồng thanh rống lên “Charlie ác mộng!” Bố mẹ của Charlie cũng mau chóng được mời đến gặp thầy hiệu trưởng trường mầm non. Ông này thận trọng giải thích rằng trường Mầm non Vòng tay Chào đón không còn dám mở rộng vòng tay chào đón bé Charlie nữa.
“Ông bà thấy đấy, những đứa trẻ khác sợ nó,” ông hiệu trưởng nói với một thái độ cực kỳ nghiêm trọng. “Thực tế là chẳng đứa nào chịu ngủ trưa khi có thằng bé ở trong phòng. Đây là điều không sao chấp nhận được. Giờ ngủ trưa là nền tảng của giáo dục mầm non. Đó là chất keo kết dính những phần còn lại của giáo trình với nhau. Không có giờ ngủ trưa, nổi loạn tất xảy ra và dĩ nhiên, kéo theo đó là những thiệt hại nặng nề!”
“Tôi hiểu cảm xúc của thầy,” bố Charlie tỏ ra đồng tình bằng giọng nói bình tĩnh nhất. “Nhưng nếu thầy cho rằng Charlie là nguyên nhân làm bọn trẻ bất an thì...”
“Không phải như vậy,” mẹ Charlie chen ngang, đôi bàn tay mạnh mẽ và ấm áp vẫn dịu dàng xoa lưng con. “Lũ trẻ kia đã trêu chọc và hành hạ con tôi , chứ làm gì có chuyện ngược lại. Trời ạ, thầy có biết bọn chúng gọi nó là gì không? Là ‘Charlie ác mộng’ đấy!”
“Đúng thế,” ông Barrington nói tiếp. “Nhưng quan điểm của tôi là chỉ nên như thế này: đến lúc ngủ thì chuyển Charlie sang hẳn một khu khác của phòng học.”
Thầy hiệu trưởng khó chịu. “Chúng tôi không thể mạo hiểm như vậy được. Nếu tôi dành ngoại lệ cho một đứa, chẳng mấy chốc sẽ phải dành thêm hai ngoại lệ cho hai đứa khác, thế rồi chẳng mấy nữa mà tất cả đều trở thành ngoại lệ, và thế thì chẳng còn gì là ‘lệ’ nữa; ông bà hiểu ý tôi chứ.” Rồi ông buồn bã lắc đầu. “Không được đâu, Vòng tay Chào đón và ‘Charlie ác mộng’ - à, ý tôi nói là Charlie - giờ đành phải đường ai nấy đi thôi.”
Vòng tay Chào đón là trường mầm non đầu tiên tống cổ Charlie, và đó cũng không phải là trường cuối cùng - ngay sau đó lần lượt là trường Điểm Cân Bằng, trường Bé Ngoan, trường Bé Học, trường Bạn Chơi Hoàn Hảo. Nhưng đến đây thì loạt đuổi cổ khỏi trường mầm non của Charlie cũng phải chấm dứt, bởi vì, đến lúc đó nó đã quá lớn để mà tống cổ khỏi trường mầm non.
Lúc đó Charlie lên sáu.
“Tôi biết, ông bà khẳng định là thằng bé không có vấn đề gì,” ông hiệu trưởng trường Tiểu học Paul Revere rù rì, lào thào với bố mẹ Charlie qua cái móc kiềng răng dành cho người lớn. Đó là một cái ổ chuột của thức ăn phân hủy - một cái hốc khảo cổ chứa đủ mọi thứ ông ta đã ăn trong tuần trước đó. “Nhưng giáo viên tâm lý của trường lại tin chắc thằng bé đang gặp phải nhiều vấn đề rất nghiêm trọng. Rất nghiêm trọng. Thật ra thì, thầy ấy đã chẩn đoán rằng Charlie bị... ừm, để xem nào...” Ông Krup đọc từ hồ sơ. “Vâng, đây rồi. ROLOSUSUTITUTINATATUTUKY.”
“Quá nhiều chữ cho một đứa bé nhỏ như vầy đấy, thưa thầy,” ông Benjamin nói và choàng tay qua đôi vai nhỏ bé của Charlie như muốn bảo vệ con.
“Không thừa chữ nào hết đâu, tin tôi đi! Đó là viết tắt của chứng Rối loạn Suy sụp Trí tuệ Thiểu năng Tập trung Tự kỷ.” Ông Krup đặt xấp hồ sơ xuống, trừng mắt ngó Charlie và lấy lưỡi đẩy đẩy cái mẩu bắp bị mắc trong kẽ răng mình từ đời nảo đời nào. “Là trường công nên luật pháp đòi hỏi chúng tôi phải cho cháu một nền giáo dục hoàn hảo. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, vì lợi ích tốt nhất của ‘Charlie ác mộng’ - ý tôi là của Charlie - chúng ta cần phải tách nó khỏi cộng đồng dân chúng nói chung, cô lập nó trong một thùng xe cách xa khu vực trường, và chỉ tiếp xúc với những đứa trẻ khác cũng được chẩn đoán là có những bệnh nhiều mẫu tự y như nó mà thôi. Xin ông bà ký vào đây cho.”
Ông hiệu trưởng đẩy một tờ giấy cho bố mẹ Charlie.
Mẹ nó đẩy lại.
“Không,” bà nói.
“Sao cơ?”
“Thầy Krup ạ, thầy và bọn trẻ khác có thể không ưa Charlie. Mọi người có thể không hiểu cháu nó. Nhưng Charlie là một cháu bé tuyệt vời. Nếu như thầy không nhận ra điều đó thì thầy không xứng với cháu nó rồi. Hôm nay cháu nó ra về với chúng tôi và sẽ không bao giờ quay lại đây nữa.” Bà Olga đứng phắt dậy, miệng nở một nụ cười chiến thắng. “Cho đến khi tìm được một ngôi trường thích hợp, tự tôi sẽ dạy con tôi.”
Và bà đã làm đúng như thế.
Suốt bảy năm sau đó Charlie học tập bên trong cái bong bóng bảo vệ của ngôi nhà mẫu số 3 - cho đến khi bong bóng vỡ tan tành vào cái lần Ngủ lại đêm Tai họa ấy.
Sao mình lại là đứa quái dị thế này? Charlie ngồi trên ghế xa-lông, ngó qua ô cửa sổ rộng trước nhà, hy vọng được trông thấy bóng lũ nhóc hàng xóm tan học về. Dù không được chơi cùng, nhưng ít nhất cũng được nhìn tụi nó. Đã năm ngày trôi qua kể từ vụ Ngủ lại đêm Tai họa nhưng Charlie vẫn còn cảm thấy choáng váng.
Chiếc xe buýt của trường Trung học Tướng MacArthur đến cuối khu phố thì rùng mình, thắng kít một cái, rồi dừng lại. Cửa xe xịch mở và đám học trò tuôn ra, miệng nhai kẹo cao su nhóc nhách, trên lưng quảy những chiếc ba-lô căng phồng, cười đùa xô đẩy nhau. Charlie nhận ra thằng T.C. ngay. Thằng này móc một cái đĩa bay ra khỏi cặp sách rồi quăng đánh vù về phía đám bạn của nó.
Charlie đưa tay vẫy. Thằng T.C. trông thấy Charlie sau ô cửa sổ, nhưng chỉ trừng mắt nhìn nó lạnh lùng, rồi quay ngay lại với bọn trẻ kia, không thèm đoái hoài gì tới Charlie nữa.
“Theo mẹ thì có bao giờ bọn nó sẽ thôi không đổ lỗi cho con nữa không?” Charlie hỏi mẹ. “Ý con là, về vụ bọn nó bị đóng kén, rồi bị treo lên trần ấy.”
Nó biết câu trả lời của mẹ sẽ là “không”, nhưng ngạc nhiên làm sao, mẹ nó chỉ nhún vai, mắt vẫn không rời bộ phim nhiều kỳ đang chiếu trên TV vào buổi chiều. Mấy ngày nay mẹ thay đổi nhiều đến nỗi nó không còn nhận ra nữa. Hình như mẹ chẳng còn thiết tha gì tới nó, mà mẹ đâu phải như vậy. Charlie hy vọng đó chỉ là do mẹ mệt vì bị cảm, bởi vì nó không thể chịu nổi ý nghĩ rằng cái tai họa vừa qua có thể đã khiến cho mẹ nó, rốt cuộc, sau bao nhiêu năm tin tưởng nó, buông xuôi .
“Năm sau con muốn được đi học. Học trường bình thường ,” trong bữa tối hôm đó, Charlie nói với bố mẹ.
“Charlie, chúng ta đã nói chuyện này suốt, nói đi nói lại rồi,” ông Barrington nói. “Bố còn cần phải nhắc con về vụ Tai họa ngủ qua đêm nữa hay sao đây?”
“Nhưng con có lỗi gì đâu!” Charlie hét lên. “Sao ai cũng đổ tại con hết vậy! Con đã nói là con không làm gì tụi nhóc ấy, đó là do một con nhện khổng lồ! Lần này chính mắt con nhìn thấy mà!”
“Con thôi đi có được không, Charlie?” Ông Barrington đưa ngón tay miết miết hai bên thái dương. “Không nói chuyện này nữa.”
“Phải nói nữa chứ! Làm sao con bị ác mộng ở trường được, con đi học ban ngày cơ mà, thế thì tại sao con lại không được đi học như mọi đứa khác chứ?”
“Vì bọn nó sẽ làm con khổ sở mất thôi!” ông Benjamin trả lời. Liền sau đó, ông trông có vẻ hối hận ghê lắm. “Có thể con sẽ không bị ác mộng, nhưng đó không phải là vấn đề. Charlie à, người ta đã gán biệt danh cho con. Con khác với người ta... và người ta sẽ hành hạ con vì chuyện ấy. Người đời lúc nào cũng thế. Nào, bố xin con, chuẩn bị đi ngủ đi, con trai.”
“Con không muốn. Con...”
“ Charlie! ” Giọng ông Barrington như một cánh cửa bằng đá tảng đóng sầm lại.
Charlie rời khỏi bàn ăn, chạy vụt đi.
Ông Barrington thở dài thườn thượt rồi quay sang bà vợ nãy giờ vẫn ngồi im. “Càng lớn càng khó giữ cho nó ở yên được nơi đây. Tôi biết mình làm vậy cũng chỉ để bảo vệ nó, nhưng dù đau lắm thì tôi cũng phải nói, rồi cũng sẽ tới ngày ta phải để nó một mình đối mặt với cuộc đời thôi.”
Bà Olga quay mặt đi không nói một lời.
“Mình có sao không? Mình không ốm đấy chứ?”
Bà lắc đầu. Ông Barrington dịu dàng nắm tay bà.
“Tôi hiểu mà, tôi cũng đâu có muốn để nó đi. Cái thế giới bên ngoài ngôi nhà mẫu số 3 này tàn nhẫn lắm, và một đứa như Charlie, một thằng bé tuyệt vời, khác thường , ôi...” ông buồn bã lắc đầu. “Thằng bé rồi sẽ bị bầm dập lắm cho mà xem.”
Những ngôi sao dạ quang dán trên trần bên trên giường ngủ của Charlie đã mờ đi. Tất cả tường trong phòng nó đều phủ xốp mềm. Trong này không có kính, cũng không có bất cứ thứ gì bén nhọn có khả năng làm đau Charlie nếu rủi chúng có bị gãy vỡ trong một cơn ác mộng vô cùng khốc liệt. Trong đây chỉ có những cái góc đã được bo tròn, những miếng đệm bọc dày cộm, và cửa sổ làm bằng kính an toàn. Với Charlie, đôi khi căn phòng này cũng giống như một viện tâm thần được thiết kế để bảo vệ nó khỏi chính nó, và khỏi những điều hãi hùng thường xảy ra khi nó ngủ.
Và giấc ngủ, như thường lệ, phải rất lâu mới đến với nó.
Charlie cố trút sạch mọi suy nghĩ vẩn vơ đang gào rú ra khỏi đầu mình bằng cách viết thêm hai mục nữa vào cuốn “Sổ tay dụng cụ cực độc” mà nó luôn để bên giường. Món đầu tiên (dụng cụ đánh số 47), là ý tưởng về “Đồng hồ la-ze cực độc”, phóng ra tia sáng mạnh đến nỗi tạm thời làm mù mắt bọn xấu để mình có thời gian chạy thoát. Món thứ hai (dụng cụ mang số 48), là một thiết bị cầm tay dùng một con chip máy tính phức tạp để xác định mùi - món này dành cho những người bị mất mũi trong những tai nạn khủng khiếp. Nó gọi món này là “Hương kế cực độc.”
Charlie chưa biết sẽ chế tạo những món mà nó mơ tưởng thành sự thật bằng cách nào. Nhưng thôi, cũng chẳng sao - quan trọng là có ý tưởng cái đã.
Có chú sóc đang nhấm nháp một hạt gì đó trên bệ cửa sổ. Thực ra Charlie còn nghe thấy nhiều con nữa đang chạy lột rột trên gác mái. Âm thanh ấy, kỳ lạ thay, nghe ra lại rất bình an.
Rồi cuối cùng nó cũng thiếp đi lúc nào không biết.
Thoạt đầu đó là một giấc mơ đẹp. Charlie đang chơi trò ném đĩa với một bọn nhóc trong sân trường - chính là mấy đứa trong vụ Tai họa Ngủ qua đêm, nhưng giờ đây bọn chúng hình như không còn khiếp sợ nó nữa. Thằng T.C. ném đĩa cho Charlie, nhưng một cơn gió bất ngờ giật mạnh, thổi cái đĩa bay thẳng về phía cuối cánh đồng. Charlie phóng qua đám cỏ mới cắt với tốc độ kinh người. Nó vọt qua khỏi khung thành, xoay tít người giữa không trung, rồi vươn tay tóm lấy cái đĩa một cách điệu nghệ.
“Ái chà, một cú bắt siêu chưa từng thấy!” thằng T.C. nói.
“Cũng bình thường thôi,” Charlie đáp, cố làm ra vẻ hững hờ.
“Mày ăn Slurpee với bọn tao không?” một thằng nhóc khác hỏi, và chỉ vào cái máy làm kem đá Slurpee sáng loáng nằm ở rìa cánh đồng. “Trong một ngày nóng nực thì còn gì khoái bằng một ly kem Slurpee mát lạnh với đám bạn cơ chứ.”
“Nghe hay đấy,” Charlie đáp rồi đi theo bọn trẻ.
Cái máy Slurpee tự nhiên sáng rực cả lên. Thằng T.C. xoay cần, rót một thứ nước mát lạnh màu đỏ vào một cái ly nhựa. “Cái này của tao,” T.C. nói. “Tới phiên mày đó. Đỏ hay xanh?”
“Đỏ,” Charlie đáp. “Giống mày.”
T.C. đặt một cái ly mới dưới vòi, rồi xoay cần. Chẳng có gì chảy ra. “Kỳ quá,” nó nói. “Chắc bị kẹt rồi.” Nói rồi nó thò tay vào trong tìm xem bị mắc kẹt ở đâu.
“Thấy gì không?” Charlie hỏi.
“Vẫn chưa,” T.C. đáp. “Chờ chút... Tay tao bị kẹt rồi.”
T.C. cố kéo ngón tay ra, nhưng không nhúc nhích được. Trong lúc nó đang vật lộn với cái vòi nước thì một cơn gió lạnh lẽo, từ trên bầu trời đang đen kịt lại, thổi quất xuống. Tiếng sấm dồn lên.
“Chắc phải cử đứa nào đi cầu cứu thôi,” Charlie nói và quay lại phía đám nhóc. Nó ngạc nhiên thấy bọn chúng đã biến đâu mất sạch. Thực tế là tất cả mọi người đều đã biến mất - tất cả, ngoại trừ Charlie và thằng T.C. đang bị kẹt tay ở đây.
Kỳ cục quá, Charlie thầm nghĩ.
Bỗng nhiên cái vòi trên chiếc máy Slurpee chợt thông suốt và hoạt động trở lại. Dòng nước đỏ từ cái máy chảy ra, luồn vào ngón tay T.C., vào thằng người thằng bé, làm nó phồng lên như quả bóng.
“Làm gì đi chứ!” T.C. hét um lên. “Đau quá!”
Charlie cố xoay cái cần, nhưng chẳng ăn thua. Mặt T.C. sưng to lên và đổi màu... hồng, rồi đỏ...
“ Lạnh quá ,” T.C. rên rỉ và rùng mình. “Cứu tao với!”
“Tao đang cố đây!” Charlie hét to, nhưng có vẻ như nó chẳng thể làm được gì hơn. Mặt T.C. phình to lên quái dị, căng phồng như một con thú bong bóng, còn da thì chuyển từ màu đỏ sẫm qua màu tím tái của quả mận thối. Gió thổi thốc xuống mỗi lúc một buốt giá, Charlie thấy cả khói trong hơi thở của mình.
Trời đã về đêm từ lúc nào không biết.
Charlie nhìn lên, thấy những vì sao... nhưng trông chúng quá hoàn hảo. Chúng đều có năm cánh rõ ràng và tỏa sáng yếu ớt. Đột nhiên Charlie nhận ra đó chính là những ngôi sao dạ quang dán trên trần phòng ngủ của mình. Khi ngó xuống, nó bàng hoàng thấy mình đã trở về bên trong phòng ngủ của chính nó, cùng với cái thứ mà thằng T.C. đã biến thành.
Cái thứ đó giống như một con bọ cạp, với lớp da đen tím bóng nhẫy, thân hình căng phồng như muốn bục tóe ra. Mấy cái vuốt ken két nằm ở cuối những cánh tay dài và mảnh đến dị thường; một cái đuôi xương xẩu có ngòi dài đến cả ba tấc, đong đưa đầy đe dọa trên đầu Charlie; một cái lưỡi rập rình như lưỡi rắn, thò ra thụt vào dưới cái mõm sừng ánh lên một màu kim loại xanh biếc.
Charlie cố hét to lên cầu cứu, hay làm bất cứ điều gì đó, nhưng miệng nó khô khốc như phấn viết, và tiếng tim nó đập trong lồng
ngực, dội ầm ầm trong tai như tiếng súng cối. Khi con quái vật tiến lại gần, Charlie liền với lấy cây viết chì trên bàn ngủ, kế bên cuốn sổ Dụng cụ, vận hết sức đâm mạnh vào tay mình và hét lên “Dậy!”
Charlie hét lên và choàng tỉnh khỏi cơn ác mộng. Mồ hôi nó dầm dề, cả mớ tóc dính bết vào trán, tim nó đập thình thịch trong lồng ngực - mạnh đến nỗi tưởng như đập gãy hết mấy dẻ xương sườn.
Vừa trườn người khỏi giường, Charlie vừa lẩm bẩm, “Mình không thèm ngủ nữa.” Nó mò mẫm đi qua căn phòng tối om, hướng về phía vạch sáng mỏng mảnh, dễ chịu ở bên dưới khe cửa dẫn ra hành lang.
Tay nó đụng phải cái gì đó.
Con quái vật trong ác mộng của nó vẫn còn đứng đó.
“Không,” nó há hốc mồm.
Con quái vật vẫn đứng sừng sững ở đó, cái đuôi dài cong vòng nhỏng lên chuẩn bị tung đòn. Một chất dịch đặc trông có vẻ rất độc đang trào ra khỏi đầu kim. Đầu gối Charlie khuỵu xuống, nó ngã xuống sàn.
“Đừng,” nó kêu.
Đuôi con quái vật rít lên, đánh véo xuống người Charlie với lực của một cây búa tạ.
Đúng ngay lúc ấy, cánh cửa sổ bên hông Charlie bật tung vào trong và một người cao lớn nhào vào phòng. Ông ấy phất tay nhanh đến nỗi như thể đã ăn gian mất vài tích tắc. Một tia sáng xanh biếc lóe lên trước mặt Charlie như một tia chớp. Ánh sáng xanh đó quấn quanh cái ngòi chích của con quái vật, uốn cong nó xuống, vừa đủ đổi hướng để cắm phập xuống sàn gỗ không hại gì được Charlie, chỉ làm cho những mảnh gỗ vụn bắn tung tóe như mưa vào người nó.
Người lạ đáp uỵch xuống sàn, túm lấy ngực áo Charlie rồi kéo nó dậy khỏi tầm với của con quái vật. Charlie thấy ông giống như một tay chăn bò, quần jeans xanh bụi bặm phủ qua đôi bốt da bóng, một cái nón cao bồi sờn cũ kéo sụp xuống đôi chân mày rộng, tay phải ông cầm một sợi thòng lọng sáng lên vì ngọn lửa xanh điện. Charlie chợt nhận ra sợi thừng đã quấn quanh cái ngòi chích của con quái kia.
“Chào chú nhóc,” ông cao bồi toét miệng cười. “Cuối cùng thì cũng gặp chú mày, rất vui. Có vẻ như ta tới vừa kịp lúc phải không?”
[1] Parental Guidance - 13: Một ký hiệu xếp loại phim, có nghĩa: “Lưu ý phụ huynh, phim có những cảnh không phù hợp cho trẻ em dưới 13 tuổi.”
CHƯƠNG HAI - CON LƯỠI BẠC HẠNG 5 CẤT TIẾNG
“Ông là ai?” Charlie hỏi, nó sững người nhìn chằm chằm ông người lạ đang ở trong phòng mình.
“Ta tên Rex,” ông cao bồi trả lời. “Chắc chắn chú mày có cả đống câu hỏi, cứ từ từ rồi ta sẽ trả lời cho... dĩ nhiên là nếu chúng ta sống qua được vụ này. Tình hình sắp xấu lắm đây.”
“Còn xấu hơn cả thứ này nữa sao?” Charlie vừa nói vừa huơ tay chỉ con quái vật trong phòng ngủ trong lúc con quái đang điên cuồng cố giật cái ngòi chích của nó ra khỏi lớp ván sàn.
Ông Rex cười. “Cứ chờ mà xem. Chú mày rồi sẽ luyến tiếc cái khoảnh khắc này lắm cho mà xem, một khi cái con Lưỡi Bạc già đó cất tiếng hát.”
“Hát?” Charlie bối rối lặp lại.
Đột ngột con quái kia làm đúng y như vậy. Nó há miệng, thè cái Lưỡi Bạc dài ngoẵng dị thường ra. Cái lưỡi xoắn lại và rung lên như một cây âm thoa [1] . Không có lời nào phát ra, chỉ có các nốt, nhưng những nốt nhạc ấy nghe thánh thót như sợi bạc và tinh tế một cách kỳ diệu.
“Ôi, không,” ông Rex rên lên, rồi quay ra cửa sổ mà hét. “Cái cổng của anh đâu rồi, Tabitha thân yêu?”
“Đang làm đây!” một giọng phụ nữ trả lời. Charlie quay lại thì thấy một phụ nữ xinh đẹp có mái tóc đỏ rực cắt ngắn đang trèo qua ô cửa sổ bể nát. Cô mặc quần dài xanh màu lục bảo y như đôi mắt của cô. Các ngón tay cùng cổ lấp lánh vô số đồ trang sức.
“Nữ hoàng tỏa sáng của ta đó,” ông Rex nói. “Được gặp em mới mừng làm sao, cưng à.”
“ Đừng có gọi ta là ‘cưng’,” cô vừa rảo bước lại vừa nạt.
“Chắc rồi, môi ngọt ạ,” ông Rex toe toét cười.
Tabitha trông rõ là bực bội, cô nghiến chặt răng và duỗi cánh tay phải ra. Những tia lửa tím bắt đầu nhảy múa quanh người cô, lửa nẹt ra cả không gian chung quanh. Charlie cảm thấy lông tay lông chân mình dựng đứng cả lên. Con quái vật vẫn tiếp tục hát - nhanh hơn, mãnh liệt hơn - khiến Charlie càng bàng hoàng hơn vì giọng hát hay lạ lùng của nó.
“Thật không sao tin nổi,” nó lầm bầm.
“Ừ, thế đấy, chừng nào nó đẩy tới cao trào thì biết,” ông Rex nói. “Tới chừng đó thì tệ lắm, nhanh lắm.” “Tới đó thì có chuyện gì ạ?”
“Ờ, thì đầu mình sẽ nổ tung ra.”
“Đầu mình sẽ nổ tung ra?” Charlie há hốc mồm.
“Đó thật ra là một hiện tượng khá thú vị,” một giọng nói khác chen vào. Charlie quay phắt người lại phía cửa sổ và thấy một ông lùn xủn, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, có hàm râu cắt tỉa rất kỹ lưỡng, đang cố trèo qua đống nhựa gãy nát. Ông mặc một bộ vest bằng len - quá nóng cho một đêm ấm áp như thế này. “Rồi ngươi xem,” ông ấy vừa quệt mồ hôi khỏi cái chóp mũi dài vừa cố cằn nhằn, “tần số chính xác nốt cuối của con Lưỡi Bạc - đồ cửa sổ ngu ngốc! - khiến cho khoảng không bên trong các xoang sọ của con người rung lên với tốc độ cao đến nỗi vỡ tung cả ra, ta nói theo đúng nghĩa đen đấy. Đó là một chiến lược tấn công cực kỳ hiệu quả.”
“Xời, ngươi nghĩ thế sao?” ông Rex nói.
“Đúng, ta nghĩ thế đấy, ta có nghĩ , chứ chẳng như ngươi,” ông râu ria đốp lại trong lúc vẫn hì hục leo qua cửa sổ. “Và cũng nhắc luôn là ngươi không được quyền có bất cứ hành động nào trước khi được ta cho phép. Ngươi biết luật rồi đấy.”
“Ơ kìa, ngươi vẫn còn nói đó sao, Pinch? Ta vừa mới ngủ gật xong.”
“Ta ghét ngươi gọi ta như thế,” ông tên Pinch rền rĩ.
“Ta cũng ghét phải phí thời gian tranh cãi với đồ chồn nhà ngươi, đặc biệt là khi còn đang phải bận lo về một con Lưỡi Bạc Hạng 5 đang cất giọng đây.”
“Hạng 4,” ông Pinch nói, ngã uỵch vào trong phòng.
“Hạng 5!” ông Rex cáu kỉnh. “Không đếm được trên đuôi nó có bao nhiêu ngạnh hả, biết đếm không?”
Charlie nhìn những cái ngạnh trên đuôi con quái. “Đúng rồi, năm cái ạ,” nó xác nhận.
“Thấy chưa ông Pinch, đến cả nhóc nó còn biết nữa cơ mà.”
Đột nhiên, bằng một tiếng rít như tiếng cây đinh sét rỉ bị rút ra khỏi thanh gỗ, con Lưỡi Bạc giằng được cái ngòi châm ra khỏi lớp ván sàn. Cái đuôi lấp lánh của nó tuột ra khỏi sợi thừng và đâm về phía Rex. Ông kịp nhảy vọt ra sau trước khi nó lướt sượt qua mặt.
“Cánh cổng sao rồi, công chúa ơi?” ông Rex gào lên.
“Đang tới,” Tabitha gào lên đáp trả.
“Nghe tốt đấy,” ông Rex nói, tránh thêm một cú vụt đuôi hiểm độc nữa với vẻ duyên dáng của một đấu sĩ. Ông rút ra một thanh kiếm ngắn (cũng ánh lửa xanh) từ thắt lưng và dùng nó để đỡ cái ngòi độc.
Tiếng hát của con quái vật giờ đã trở thành một vệt âm thanh dồn dập và nghe không còn rõ nốt nữa. Charlie cảm thấy đầu óc rung lên như cái máy trộn sơn. Mắt nó như sắp bật ra khỏi hốc sọ.
“Làm gì đi chứ!” ông Pinch khẩn khoản. “Nó đang tăng cường độ kìa!”
“Có chuyện gì trong đó vậy?” đột nhiên có tiếng người hét lên ngoài hành lang. “Charlie, con không sao chứ?” “Bố cháu đấy,” Charlie nhăn nhó. “Cháu nhẽ ra không được ra khỏi giường.”
Ngay lúc đó, toàn thân Tabitha ngập chìm trong một vùng lửa tím. Một làn khí nóng dồn tới và một cánh cổng lớn, giống như một ô cửa, mở bật ra ngay giữa phòng. Cánh cổng có hình tròn và rộng đủ để một chiếc xe con chạy qua. Rìa cổng cháy rừng rực lửa tím, giống như những tia lửa đang chạy rần rật qua người Tabitha.
“Cô gái của ta đó,” ông Rex mỉm cười.
Cửa phòng ngủ mở tung và ông Benjamin xông vào. “Charlie! Con lại bị ác...” Ông khựng lại và hốt hoảng nhìn. “Ơ, chuyện gì đây?” Con Lưỡi Bạc liếc mắt nhìn ông.
Rex chỉ cần chút lơ là đó. Ông tung người về phía con quái vật, dùng sức nặng cơ thể đẩy nó loạng choạng ra sau và cắt ngang nốt nhạc chết người cuối cùng của nó. Con Lưỡi Bạc loạng choạng lủi vào trong cổng và mất dạng. Charlie chạy tới xem con quái ấy đi đâu.
Thứ nó nhìn thấy làm nó choáng váng.
Cái cổng có vẻ như lơ lửng trong không trung, trên một khung cảnh lạ lùng quái dị. Tít bên dưới, một rừng tinh thể trắng đục lởm chởm xoắn vào nhau như dây kẽm gai. Con Lưỡi Bạc rơi sầm xuống đó, làm gãy một số thanh tinh thể và bị cạnh bén ngọt của một số thanh khác lạng vào. Trong thoáng chốc, nó đã khuất khỏi tầm mắt, mất tăm tích trong đám bụi tinh thể chết người.
“Ui!” Charlie thốt lên, mắt vẫn mở to sợ hãi.
Rex nhảy nhỏm dậy và dắt thanh đoản kiếm trở lại thắt lưng. “Và ta đã làm như thế đó ,” ông nở nụ cười vênh váo. “Đôi khi ta làm chính ta cũng phải kinh...”
Đột nhiên một tiếng rít rợn người phát lên, một con dơi khổng lồ màu đỏ thẫm vọt ra khỏi bầu trời đỏ rực lạ lùng và bay qua cánh cổng vẫn còn đang mở. Nó giương vuốt quắp lấy Rex và vỗ cánh dữ dội, lôi phắt ông qua cổng, sang cái thế giới kỳ dị bên kia.
“Rex!” Tabitha thét lên.
Gần như ngay tức khắc, thòng lọng của Rex bay vọt qua cổng, cách gò má của Charlie chỉ có vài li. Với một tiếng rắc rất đanh, sợi thừng đã quấn quanh nắm đấm cửa phòng ngủ và giật căng ra. Ông giữ chặt đầu dây kia và giãy giụa điên cuồng trong không trung như một cánh diều gặp bão, trong khi con dơi khổng lồ vật lộn để tha ông bay đi.
“Kéo đi!” ông Rex hét lớn. “Kéo đi và đừng có buông ra đấy !”
Tabitha và Charlie chụp lấy đầu dây và chơi trò kéo co với con dơi trong khi ông Pinch cáu kỉnh đi tới đi lui. “ Đã bảo hắn trước khi làm gì đều phải được sự đồng ý của ta rồi cơ mà,” ông lầm bầm. “Và giờ thì ta lại lâm vào hoàn cảnh thế này đây.”
“Kéo mạnh vào!” ông Rex thét lớn khi con dơi vọt lên rồi nhào xuống như một con cá kiếm bị mắc câu. “Còn lão Pinch kia, câm ngay !”
“Gậy và đá,” ông Pinch nói, rồi quay sang bố Charlie. “Ông Benjamin, trong nhà... trong nhà ông có bột không?” “Bông?”
“Không, thưa ông. Không phải bông như bông cúc hay bông dã yên thảo đâu. Bột cơ, như trong câu ‘Tôi cần bột để làm bánh’ ấy.” “À, tôi nghĩ là có.”
“Lấy ngay, làm ơn,” ông Pinch yêu cầu. “Làm ơn gấp gấp một chút, nếu không quá phiền ông.”
“Tôi lấy ngay đây,” ông Barrington đáp rồi tất tả chạy ra khỏi phòng.
Cái con quái giống dơi cứ thế mà vỗ cánh dữ dội. Đôi cánh của nó phát ra tiếng ầm ầm như tiếng tàu chở hàng, kéo Charlie và Tabitha lại gần cánh cổng đang mở.
“Giúp bọn ta với!” Tabitha gào lên với ông Pinch. “Nó đang kéo bọn ta xuống Âm Ti đây này!”
Charlie nhòm qua cổng và thấy những tinh thể sắc như dao cạo bên dưới đang chờ để xuyên qua cả hai nếu họ ngã xuống đó. “Nói cho đúng ra thì,” ông Pinch đáp, “ở đây ta là người duy nhất có tư cách quản lý và có ý kiến.”
“ Cứ giúp bọn này đi đã !” cả Charlie, Rex, và Tabitha cùng gào lên.
“Ồ, hay lắm,” Pinch nói, rồi túm lấy sợi thừng. Thêm sức mạnh của ông, họ bắt đầu kéo Rex vào lại phòng; cùng lúc đó, ông Benjamin Barrington ôm một túi bột chạy vào.
“Có bột rồi đây,” ông thở hổn hển.
“Tuyệt lắm,” ông Pinch đáp. “Nào, giờ thì ông ném vào con dơi Âm Ti đi.”
“Con gì cơ?”
“Con dơi Âm Ti!” ông Rex rống lên. “Cái con dơi quỷ quái khổng lồ duy nhất ở đây và đang cố giết tôi đây này!”
“À.” Vừa khi Charlie, Pinch, và Tabitha lôi con quái vật qua cánh cổng mở vào phòng ngủ, ông Benjamin liền xé toạc cái túi và hất tung đám bột vào nó. Đôi cánh của con dơi quần thảo đám bột thành một cơn bụi mù, và trong thoáng chốc mọi thứ trong phòng đều bị phủ một lớp phấn trắng mịn dày cộm. Gần như tức khắc, con dơi rơi độp xuống nền phòng và bước loạng choạng về phía trước như say rượu.
“Chuyện gì thế ạ?” Charlie hỏi.
“Dơi Âm Ti cũng giống như loài dơi bình thường, chúng dùng một hình thức siêu âm gọi là định vị bằng tiếng vang để nhìn . Dùng những hạt bột mịn chặn sóng truyền âm của chúng là khiến chúng bị mù ngay.”
“Cám ơn, ngài Khoa học,” ông Rex nói và thúc cho con quái một cú vào đầu. Nó buông ông cao bồi vẫn đang họ sặc sụa và hổn hển ra. Với một động tác lẹ làng và nhuần nhuyễn, ông gỡ cây roi khỏi nắm đấm cửa, quất chan chát như người huấn luyện sư tử, lùa con quái qua cánh cổng mở. Con dơi dọ dẫm qua cánh cổng rồi bổ nhào xuống cho đến khi bị một thanh thạch anh nhọn như mũi kim ở bên dưới xuyên qua mình.
“Đóng cổng lại đi,” ông Rex nói.
Tabitha vẫy tay và cái cổng viền lửa tím đóng sập lại. Sự im lặng bao trùm lên tất cả; rồi sau đó, khi mớ bột mịn rơi xuống, phủ một lớp trắng toát yên lành lên mọi vật cùng mọi người - thì kỳ cục làm sao - Charlie lại nghĩ tới Giáng sinh.
“Có chuyện quỷ quái gì đang xảy ra ở đây vậy?” sau rốt, ông Benjamin mới cất được tiếng. “Các người là ai ?” “Ta là Rex,” ông chăn bò vừa nói vừa chộp lấy tay của ông Benjamin mà lắc. “Rất vui được gặp ông. Ta là một Tay Đấm.” “Nói cho đúng ra thì là Chiến binh Trừ Tà,” ông Pinch khịt mũi.
“Đúng, nhưng cái tên ấy nghe điên quá đi. Ta kết cái tên là Kỵ mã khách hơn. Còn đây là Tabitha,” ông Rex chỉ sang phía người phụ nữ. “Nàng ấy là một Thần Canh Cửa.”
“Ta thích được gọi là Pháp sư Khai cổng Âm Ti hơn.”
“Ông cũng thấy rồi đó, nàng ấy mê ta điên cuồng.”
“Không hề nhé!”
“Ô, thật sao?” ông Rex đáp cùng một nụ cười toe. “Thời tiết ở Thành phố Chối Cãi ra sao hả nàng? Chắc nóng và khó chịu lắm hả?” “Ngươi thật không thể tin nổi,” Tabitha nói và lắc đầu.
“Thì ta vốn vẫn thế còn gì?” ông Rex đáp lại.
“Cứ mặc kệ bọn họ đi,” ông Pinch đáp và quay sang ông Benjamin. “Ta tên là Edward Pinch. Ta chính là người được gọi là ‘ Trợ thủ’ của nhóm, và ta chính là người chịu trách nhiệm ở đây.”
“Chịu trách nhiệm về chuyện gì ?” ông Rex hỏi.
“Về chuyện cứu mạng ngươi,” ông Pinch đáp ngay.
“A, có phải ngươi cứu mạng ta đâu. Ta đã định kêu ông Benjamin đây đi lấy một túi bột rồi đó chứ. Chỉ tại ngươi mau miệng hơn ta thôi.”
“Sự ngạo mạn của ngươi thật đúng là quá đáng kinh ngạc ,” ông Pinch nói. “Ta nào có trông mong ngươi phải nhảy lộn nhào lên vì ta - chỉ cần một lời cám ơn là đủ lắm rồi.”
“Được thôi,” ông Rex đáp. “Thế thì cám ơn ông, ông Pinch, vì đã sửa chữa sai lầm do công chúa gây ra.” “ Ta gây ra cái gì cơ chứ?” Tabitha bật lại ngay.
“Thì đó,” ông Rex quay sang cô và đáp. “Thì nàng đã mở cổng suốt tới tận vòng năm đó còn gì, không phải sao?”
“Đương nhiên rồi,” cô nói, “bởi vì chúng ta đang phải trục xuất một con Lưỡi Bạc Hạng 5. Lũ Hạng năm thì phải trục về tới vòng năm của Âm Ti - là nơi của chúng - chứ còn sao nữa.”
“Ờ, và nàng có biết còn thứ gì nữa cũng sống ở vòng năm không? Chính lũ Hạng 5 khác , như cái con quỷ Dơi Âm Ti muốn ngoạm đầu ta lúc nãy đó.”
“Tabitha đã làm hoàn toàn đúng,” ông Pinch nhanh chóng đứng ra bênh vực. “ Sách Hướng dẫn về Âm Ti của Phân viện Ác mộng nói rất rõ về vấn đề này - gì thì gì, luật vẫn là luật .”
“Ấy, ngươi biết rõ ta yêu mến luật biết chừng nào rồi đấy,” ông Rex nói. “Không có luật thì ta biết phá gì đây cơ chứ.” “Thôi đủ lắm rồi,” ông Benjamin nói. “Có ai trong các người có thể cho tôi một lý do chính đáng để không gọi cảnh sát không đây?”
“Ta sẽ cho ông một lý do,” Tabitha quay lại. “Là con trai ông, Charlie, có khả năng mạnh nhất mà ta từng được thấy. Nhưng nếu không học cách kiểm soát được thì... nó sẽ hủy diệt tất cả các người.”
[1] Dụng cụ nhỏ bằng thép, giống cái chĩa có hai mũi, khi đánh vào thì phát ra một âm thanh có độ cao cố định, thường là nốt LA.
CHƯƠNG BA - MÙI QUẾ
Vài phút sau, khi mọi người đều đã sạch sẽ gọn gàng, ông Barrington bảo vợ, “Mấy người này tuyên bố là họ biết Charlie bị gì. Tôi nghĩ ta nên nghe thử xem thế nào.”
“Con cũng nghĩ vậy,” Charlie, lúc này đang ngồi trên xa-lông, đồng ý ngay.
Bà Olga chỉ nhún vai.
“Nè, tôi biết đây không phải là lần đầu mấy chuyện như thế này xảy ra ở đây,” Tabitha, chễm chệ trên thành chiếc ghế bành in hoa kê cạnh chiếc xa-lông, lên tiếng. “Ông bà đang tìm kiếm câu trả lời chứ gì. Bọn tôi có thể cho ông bà câu trả lời đó.”
“Đúng là thế,” ông Rex đồng tình và bẻ ngón tay răng rắc làm Tabitha nhăn mặt. “Là thế này, trẻ con thì đứa nào mà chả nằm mơ, phải thế không? Đôi khi gặp được giấc mơ đẹp, đôi khi gặp phải giấc mơ kinh hoàng. Nhưng cái thứ ác mộng đó không phải tự nhiên mà xuất hiện đâu nhé, chúng có mục đích cả đấy. Chúng giống như cánh cửa mở vào vùng đất của ông kẹ vậy.”
“Nói một cách chính xác thì phải là Âm Ti ,” ông Pinch chỉnh ngay.
“Và ở cái xứ ông kẹ đó,” ông Rex trừng mắt nhìn ông bạn và tiếp tục nói, “có cả đống lũ quái vật nhỏ tí xấu xa muốn xông qua những cánh cửa này để vào thế giới của chúng ta.”
“Tại sao lại thế ạ?” Charlie hỏi.
“Thì chúng khoái gây rối mà,” ông Rex đáp. “Chủ yếu bọn ấy chỉ gây phiền toái thôi. Chúng lượn lờ trong mấy ngôi nhà hoang, hù dọa mấy bà già... đại khái là như vậy.”
“Ma!” Charlie nói.
“Đúng, đó cũng là một loại. Chẳng cần lo gì nhiều về bọn này đâu vì chúng căn bản là vô hại. Nhưng một số thì, Charlie à... chết người như chơi. Như lũ Hạng 5 mà bọn ta vừa quất cho một trận lúc nãy ấy.”
“Vậy... ý ông là... mấy con đó vẫn tới lui thế giới của chúng tôi sao?” ông Benjamin hỏi đầy ngờ vực.
“Đúng rồi đấy,” Tabitha trả lời. “Nhưng bọn chúng muốn lên đây thì cần phải có lũ nhóc, những đứa có cái thứ mà bọn tôi vẫn gọi là Khả năng ấy!”
“Khả năng ấy sinh là đã có, còn không sẽ chẳng bao giờ có được,” ông Rex nhún vai.
“Khả năng được nuôi bằng trí tưởng tượng,” Tabitha nói tiếp, “thứ mà, khi người ta lớn lên, thường bị thui chột và trở nên đáng chán. Khả năng càng mạnh thì cánh cổng được tạo ra càng lớn, càng có nhiều sức mạnh, và những con quái sổng được qua đó càng nguy hiểm hơn.” Cô mỉm cười với Charlie. “Con trai ông bà... nó mạnh ghê lắm.”
“Đúng là thế,” ông Pinch đồng ý. “Phải mấy chục năm rồi mới có một đứa nhỏ đủ quyền năng để mở cổng Hạng 5. Thật ra bấy lâu nay tôi đã để mắt đến chú nhóc này - từ khi xảy ra vụ Thảm họa Giờ ngủ trưa rồi kia.”
“Ông cũng có nghe vụ đó nữa sao?” Charlie há hốc mồm.
“Đương nhiên, nếu không theo dõi những chuyện như vậy thì làm sao ta giỏi việc được như thế này? Nhưng mãi đến khi có bài báo gần đây thì ta mới biết là cần phải nhanh chóng hành động.”
“Bài báo? Ý ông muốn nói bài ‘Sự kiện hãi hùng tại tiệc ngủ qua đêm’?” ông Barrington hỏi.
Ông Pinch gật đầu. “Trong chuyện ấy thì rõ là con trai của ông bà đã mở cổng cho một con Cà khêu Âm Ti - ít nhất cũng thuộc Hạng 3 - đi qua.”
“Cà khêu Âm Ti là con gì ạ?” Charlie hỏi.
“Nó là một con ttrông giống như con nhện khổng lồ,” Tabitha đáp.
“Đó!” Charlie quay sang bố mẹ và reo lên đắc thắng. “Con đã bảo mà!”
“Ta đã biết ngay là phải tới gặp con trai ông bà,” ông Pinch nói, “để ngăn cậu bé không trở thành một mối nguy hiểm cho chính bản thân nó hoặc cho người khác. Ông bà cũng thấy từ những chuyện tối nay rồi đấy. Thật may là bọn ta đã hành động như vậy.”
Ông Barrington lắc đầu kinh ngạc. “Vậy... trong lúc chúng tôi cứ tưởng Charlie đã phá phách khi gặp ác mộng thì hóa ra là cháu nó đã để cho quái vật chạy vào thế giới của chúng ta, và chính chúng mới là thủ phạm gây ra biết bao tàn phá khủng khiếp đó?”
“Đúng vậy,” ông Pinch đáp.
“Thật là kinh ngạc,” ông Barrington nói, và quay sang vợ. “Mình có thấy vậy không?”
Bà Olga chỉ nhún vai, chẳng có vẻ gì là quan tâm.
Ông Rex ngó bà đăm đăm với ánh mắt kỳ quái. “Tôi thấy từ nãy đến giờ bà không nói lời nào cả, thưa bà Benjamin. Không biết hỏi thế
này bà có phiền không, nhưng hôm nay bà có làm bánh quế đấy nhỉ?”
“Không,” bà đáp.
“Bánh quy có quế, bánh cuộn có quế, bánh mì nướng có quế? Hay bất cứ món gì khác có quế?”
“Không,”
“Vậy bà có ăn thứ gì có quế không? Hoặc có lẽ một người bạn nào đó của bà đã ăn?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Ta cũng nghĩ là không,” ông Rex nói. Rồi đột nhiên ông nhảy vọt qua bàn và túm ngay cổ bà Olga. “ Con quái này, mày đã làm gì mẹ Charlie rồi, hả?”
Ông Benjamin trợn mắt sững sờ nhìn Rex siết họng vợ mình. “Cái quái gì...” ông hổn hển. “Quá đáng! Quá đáng rồi đấy!” “Buông mẹ tôi ra!” Charlie cũng nhảy qua bàn và thét lên. Nó bấu lấy ông Rex và cố giật tay ông khỏi cổ họng mẹ mình.
“Đây không phải mẹ chú mày đâu, nhóc ạ,” ông Rex nói. “Chú mày ngửi thấy chứ? Mùi quế đó. Tất cả bọn quỷ Đội lốt đều sặc mùi quế.”
“Buông bà ấy ra ngay lập tức,” ông Pinch ra lệnh. “Có đầy người có mùi quế nhưng không phải từ dưới Âm Ti lên đâu.”
“Có thể, nhưng đây đích thực là một con quỷ, ta sẽ cho ngươi thấy,” ông Rex nói và lôi tuột bà Benjamin ra khỏi ghế trong khi ông chồng bà thét lên bất bình.
“Ông đang lôi cổ vợ tôi đấy, thưa ông! Thế là không thể chấp nhận được! Dừng tay lại ngay lập tức!”
Nhưng Rex vẫn phớt lờ và tiếp tục lôi bà Benjamin xuống nhà tắm dưới tầng. Bà vừa cắn vừa cào điên dại vào mặt Rex, đặc biệt khi ông mở tung cửa phòng tắm và thô bạo xô bà vào bên trong.
“Ông đang làm cái gì vậy?” Charlie gào lên.
“Rồi chú mày xem.”
“Đừng để hắn hại mẹ con ơi!” bà Olga khẩn nài. “Cứu mẹ với con ơi, mẹ luôn bảo vệ con mà!”
“Im đi, cái con quỷ Đội lốt này,” ông Rex nạt ngang và vặn vòi nước.
Vừa bị nước chạm vào người là bà Olga rú lên một tiếng man dại không phải của con người và quơ quào loạn xạ vào cửa kính phòng tắm. Da bà bắt đầu nổi bọt và tím đen lại, rồi bong tróc ra từng mảng to tướng, tan thành nước và chảy đi. Cuối cùng, con quái mạo hình bà Benjamin bò lổm ngổm quanh sàn phòng tắm. Nó có màu hồng nhũn nhão, hai con mắt to thô lố, không chân, và những cẳng tay dài ngoẵng đầy gân guốc.
Ông Benjamin và Charlie sững người, nhìn không chớp mắt.
“Cứ thỏa sức mà ngắm một con quỷ Đội lốt Hạng 4 đi, thưa các vị,” ông Rex nói với chút vênh váo ta-đã-bảo-mà. “Một con Hạng 4 đấy, cứ nhìn số ngón trên mỗi bàn tay của nó thì biết. Càng có nhiều ngón thì càng mạnh.”
“Đúng đấy,” ông Pinch xen vào. “Ví dụ một con Hạng 1 thì chỉ đủ mạnh để khống chế và mạo hình thứ gì đó bằng cỡ một đứa trẻ sơ sinh là cùng, phải một con Hạng 5 trưởng thành thì mới biến được một người lớn như ông thành con mồi của nó.”
“ Con mồi của nó ...,” ông Benjamin hốt hoảng.
“Đúng vậy, nhưng ông đừng lo,” Tabitha đặt tay lên vai ông trấn an. “Lũ Đội lốt muốn giữ vỏ bọc ngụy trang thì con mồi của chúng phải ở ngay gần bên, và còn sống thì mới được kia . Vợ ông không sao đâu. Chắc con quái này đã sổng ra từ cơn ác mộng gần đây nhất của Charlie, cuỗm bà nhà ra khỏi giường rồi giấu đâu đó quanh đây trước khi mạo hình bà đấy thôi.”
“Trên gác mái!” Charlie chợt nhớ. “Hồi đêm qua con nghe có tiếng rột rẹt trên đó. Con cứ tưởng đâu là bọn sóc.”
Tabitha quay sang ông Rex. “Ngươi đi cứu bà ấy đi. Ta sẽ xử lý cái thứ này.” Cô ra hiệu về phía con quỷ Đội lốt đang quơ quào mấy ngón tay dài và khỏe của nó trên cánh cửa phòng tắm một cách tuyệt vọng.
“Không phải ta có ý gì đâu, cưng ạ,” ông Rex đáp, “nhưng nàng chỉ là một Pháp sư Khai cổng mà thôi. Sao không để ta ở lại và giúp nàng một tay nhỉ?”
“Ngày ta cần giúp để trừ khử được một con Đội lốt tầm thường cũng là ngày ta nói yêu ngươi đấy.”
“Có nghĩa là?”
“Là không bao giờ,” cô nói và hua tay xua Rex đi.
Tầng gác tối om và sực mùi báo cũ với nệm ướt. Ông Benjamin leo lên đầu tiên, theo sau là Charlie.
“Mẹ ơi?” Charlie gọi to.
“Mình ơi, mình có trên này không?”
Trong khi hai cha con mải tìm kiếm, ông Pinch kéo ông Rex qua một bên. “Ngươi chớ bao giờ được làm liều như vậy nữa nghe chưa. Nếu ngươi sai về chuyện con Đội lốt đó thì tính sao?”
“Ta có sai đâu,” ông Rex đáp.
“Nhưng nếu ngươi sai rồi làm bà đó bị thương thì Phân viện mang tiếng biết bao nhiêu.”
“Thì có mang tiếng gì đâu?”
Pinch đảo mắt. “Những quyết định ảnh hưởng đến uy tín của Phân viện Ác mộng là thuộc lĩnh vực của mình ta. Ta là người diễn giải các luật lệ. Ta kêu gọi. Ngươi thi hành. Đơn giản là như vậy.”
“Không, đâu có đơn giản vậy,” ông Rex chồm người tới trước. “Thâm tâm ta cho ta biết con mụ đó có điều không ổn và ta cần phải tin ở thâm tâm của ta chớ. Ngươi thì làm sao hiểu được chuyện này? Ngươi làm gì có Khả năng. Ít nhất là cũng không còn nữa.”
Pinch rúm người lại.
“Xin lỗi nhé Pinch,” ông Rex nói tiếp.”Ý ta không phải vậy. Chỉ là ta phải làm những gì ta thấy đúng mà thôi.”
“Ta cũng vậy,” ông Pinch nói. “Nếu ngươi còn dám hành động mà không được sự đồng ý trước của ta thì ta sẽ báo cáo lên để Hội đồng quản chế ngươi.”
“Chắc chắn là ngươi sẽ làm vậy rồi.”
“Này mọi người ơi! Lại đây này!” Charlie gào lên. “Tìm thấy mẹ rồi, mẹ ở trong phi thuyền!”
Bà Olga Benjamin hai ngày qua bị nhốt trong cái hộp đựng tủ lạnh mà trước đây Charlie đã cùng bố sơn phết lại cho giống một chiếc phi thuyền. Tay chân bà bị quấn kín bằng băng keo và miệng thì bị nhét cứng bằng một nùi giẻ bụi bặm bẩn thỉu.
“Khổ thân mình,” ông Benjamin vừa nói vừa gỡ băng keo và lấy miếng gạc ra khỏi miệng vợ. “Mình có sao không?”
“Em tưởng đã chết mất rồi chứ,” bà Olga lào khào nói. “Có cái con... một con dễ sợ lắm, có mấy ngón tay dài ngoẵng phát khiếp... Nó bắt em đi... nhốt em vào phi thuyền...”
“Bố với con biết cả rồi mẹ ạ,” Charlie nói. “Kinh khủng thật! Nhưng giờ thì đã ổn rồi, Rex với Tabitha xử lý nó rồi.” “Rex và ai?” bà Olga rền rĩ.
“Có nhiều chuyện mà mình cần biết lắm,” ông Benjamin vừa đỡ bà đứng lên vừa đáp. “Để tôi đi pha cho mình một tách trà để mình bình tĩnh lại đã.”
Trà (có pha một tí rượu whiskey) quả đã làm bà Olga trấn tĩnh lại. Vừa nhấm nháp tách trà (thứ ba), bà vừa chăm chú nghe Rex thao thao kể câu chuyện về Pháp sư Khai cổng (“Pháp sư Âm Ti chứ,” Tabitha nhẹ nhàng chỉnh lại), Chiến binh Trừ Tà, những con Lưỡi Bạc Hạng 5 hát, mùi quế, và nước đã làm hiện nguyên hình con Đội lốt như thế nào.
“Nhưng tại sao bọn chúng lại muốn đội lốt tôi cơ chứ?” bà hỏi.
“Là vì mồ hôi đó mà, thưa bà,” ông Rex trả lời. “Con Đội lốt hạng xoàng này rất mê mồ hôi. Thật ra là loài ấy cần mồ hôi thì mới sống được. Nếu không lấy được ở người thì chúng lấy ở súc vật, nhưng nhất thiết là phải biến thành con gì đó có miệng để liếm mồ hôi - ông bà cũng thấy là tự chúng làm gì có miệng đâu.”
“Ờ, vậy chính xác thì con Đội lốt đó đã uống mồ hôi của ai?” ông Benjamin giật mình hỏi.
“Hẳn là của ông rồi,” ông Rex nhăn răng cười. “Nhiều khả năng là trong lúc ông ngủ ấy. Chẳng gì khiến loài Đội lốt khoái bằng liếm mồ hôi của một người đang ngủ cả.”
“Hiểu rồi,” mặt ông Benjamin tái nhợt.
“Vậy ta làm gì bây giờ?” bà Olga hỏi.
“Giờ,” ông Pinch trả lời, mắt sáng lên thích thú, “bọn ta phải đưa cậu bé đến Cao ủy của Phân viện Ác mộng để phúc trình.” “Đến cái gì?” ông Benjamin hỏi:
“Ta lấy làm mừng là ông không biết gì!” ông Pinch nói tiếp. “Phân viện Ác mộng là một tổ chức bí mật , có sứ mạng kiểm soát các loài ở Âm Ti. Ông cứ tưởng tượng, tất cả ác mộng trên thế gian này thì phải đẻ ra biết bao nhiêu loài quái vật Âm Ti cần phải đối phó và trừ khử chứ.”
“Rồi, rồi, nhưng bọn họ muốn gì ở Charlie ?” ông Benjamin ngắt lời.
Ông Pinch có vẻ thất kinh vì đã trả lời như thế rồi mà vẫn chưa đủ rõ ràng hay sao. “Bất kỳ ai có sức mạnh bất thường đủ để mở cổng cho một con quái vật Âm Ti Hạng 4 hoặc hạng cao hơn nữa thì đều phải được đưa đến trước Cao ủy để được nhận dạng, xử lý, và đánh giá. Bắt buộc phải thế. Luật đã nêu rõ như vậy.”
“Có thật vậy không cô?” bà Olga quay sang hỏi Tabitha.
“Tôi e rằng đúng là như thế,” Tabitha trả lời. “Nhưng bà chớ lo. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần làm để bảo vệ cậu bé.” “Và chính xác thì con tôi cần được bảo vệ khỏi cái gì cơ chứ?” bà Olga vẫn chưa thôi. “Người ta sẽ có thể làm gì cháu nó?”
“Ồ, cũng còn tùy,” ông Pinch nói rõ khoái trá. “Có khi họ sẽ quyết định là cậu nhóc này có thể dạy dỗ được, rồi cho nó gia nhập Phân viện Ác mộng, vài năm sau nó sẽ tốt nghiệp, rồi như bọn tôi đây, nó sẽ dành cả đời để trừ khử tà ma Âm Ti cho thế giới. Rất là vinh dự.”
“Ừ, cái đó gọi là giấc mơ trở thành hiện thực đấy,” ông Rex mỉa mai.
“Còn nếu họ quyết định là không thể dạy dỗ Charlie được thì sao?” ông Benjamin thắc mắc.
“Thì không thể để một đứa bé có quyền năng mở cổng Hạng 5 thoải mái thả các con quái vật lên thế giới của chúng ta được,” ông Pinch trả lời. “Ông cứ tưởng tượng xem, điều gì sẽ xảy ra nếu bọn ta không có mặt đúng lúc để tiêu diệt con Lưỡi Bạc kia? Các người thậm chí có tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra nếu thằng bé này đủ sức mở cổng đưa một Named lên không?” ông Pinch thốt ra cái tên Named ấy kèm theo một cái rùng mình ớn lạnh. Charlie tự hỏi, không hiểu loại quái vật nào có thể rùng rợn đến nỗi làm ông Pinch thậm chí còn khiếp hãi hơn cả những con quái vật khủng khiếp nhất mà họ từng đối phó. “Không đâu,” ông nói tiếp kèm với một nụ cười căng thẳng, “nếu Cao ủy quyết định không dạy được thì... Charlie cần phải bị... rút thôi.”
“Rút?” bà Olga hỏi.
“Đúng. Rút là một quy trình mà các chuyên gia phẫu thuật hàng đầu của bọn ta, sẽ bằng các kỹ thuật cắt bỏ tốt nhất, hầu như chẳng đau đớn gì đâu, rút bớt của thằng bé khả năng sáng tạo, và cũng là rút bớt khả năng mở bất cứ cánh cổng nào cao cấp hơn, xem nào, cổng Hạng 2.”
“Tôi hiểu rồi,” ông Benjamin nói. “Các ông sẽ phẫu thuật làm con tôi ngu đi.”
“Không, không hề, không ngu, không đâu... thưa ông,” ông Pinch phản bác. “Con trai ông có điểm IQ cao ngất ngưởng. Bọn ta chỉ rút đi một chút tẹo thôi mà.”
“Rút đi chút tẹo thôi sao?” ông Benjamin lặp lại.
“Chính xác. Thằng bé thông minh lắm, sẽ không ảnh hưởng gì đâu.”
“Tôi hiểu rồi,” ông Benjamin nói và quay sang vợ. “Mình thấy sao?”
“Em nghĩ rằng, nếu bọn họ cố bắt Charlie đi,” bà nói dịu dàng, “Thì chính em đây sẽ vặt đầu họ rồi trồng hoa vào họng họ cho mà xem.”
“Quá chuẩn,” ông Benjamin đáp.
Charlie nhỏm dậy. “Con không được có ý kiến gì sao? Dầu gì thì đây cũng là chuyện về con mà.”
“Con trai à, con không thể đi với mấy người này được,” ông Benjamin phản đối ngay. “Trong trường hợp tốt nhất, con cũng phải xa bố xa mẹ và bị biến thành một kẻ chuyên đi săn quỷ hay thế nào đó; còn trong trường hợp tệ nhất thì con sẽ bị hóa thành ngu si mất.”
“Chỉ thành bình thường thôi,” ông Pinch phản đối.
“Còn tệ hơn thế chứ!” ông Benjamin cắt ngang. “Các người không được đem con tôi đi.”
“Nhưng con muốn đi,” Charlie nói. “Đây là lần đầu tiên con mới hiểu được tại sao những chuyện này lại xảy ra với con. Con muốn tìm hiểu rõ hơn, con muốn làm những việc như họ.”
“Không bàn nữa,” ông Benjamin nói.
“Mẹ rất tiếc, Charlie à, nhưng bố mẹ đã quyết định rồi.”
“Giờ có nói cũng chẳng ích gì nữa đâu,” ông Pinch đứng dậy. “Luật đã nói rất rõ rồi. Bọn tôi sẽ đưa nó ra trước hội đồng - dù các người có thuận hay không - và bọn tôi sẽ dùng cả đến vũ lực, nếu cần.”
Ông Benjamin nhảy dựng lên. “Vậy thì các người sẽ phải dùng đến vũ lực đấy. Nếu ngài nghĩ mình mạnh hơn tình yêu của tôi dành cho con trai tôi, thì xin mời trổ tài đi, thưa ngài.” Ông vừa nói vừa xắn tay áo, để lộ ra hai cánh tay khẳng khiu.
Bà Benjamin quay sang Tabitha và Rex. “Các vị là những người tốt,” bà năn nỉ. “ Xin hãy làm gì đó đi chứ. ”
“Tôi rất ghét phải nói điều này, thưa bà,” ông Rex đáp. “Nhưng Pinch nói đúng. Vì Charlie mà mấy ngày qua bà đã bị trói gô trong một cái hộp còn gì - và đó chỉ mới là một con Đội lốt ngu xuẩn mà thôi. Nếu lại có thêm một con Hạng 5 khác sổng lên được đây, hay tệ hơn nữa, một Named... thì mọi chuyện coi như xong - với cả bà, ông nhà và cả Charlie. Nếu muốn bảo vệ con mình thì nên để nó đi với chúng tôi. Từ trước đến nay tôi chỉ mới gặp được một người duy nhất cũng có được sức mạnh như thế này thôi.”
“Rồi chuyện gì xảy ra cho người đó?” bà Olga hỏi.
“Hắn không còn được như trước nữa,” ông Rex đáp khẽ. “Nhưng lần này sẽ không thế. Tôi hứa. Lời hứa của người khác có thể chẳng mấy nghĩa lý, nhưng nếu đã hứa thì tôi coi trọng nó vô cùng.”
Bà Olga có vẻ vẫn chưa được thuyết phục. “Anh Barrington... mình nên làm sao đây?”
Ông Benjamin ngẫm nghĩ một lúc rồi quay sang Rex. “Nếu các người hại con tôi,” ông nói, “nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra cho nó - dù chỉ là xước ngón tay thôi - thì dù thế giới này có bao la đến mấy các người cũng không thoát khỏi cơn thịnh nộ của tôi được đâu. Ta hiểu nhau rồi chứ?”
“Hiểu rồi,” ông Rex nói.
Charlie choáng váng - nó chưa bao giờ thấy bố mình hùng hổ đến vậy. Nó cảm thấy nóng bừng cả lên vì hãnh diện.
Ông Barrington nắm chặt tay bà Olga. “Mình à, nghĩ đến chuyện phải để con đi thật khó khăn... nhưng tôi cho như vậy là tốt nhất. Có lẽ đã tới lúc để số phận của nó dẫn dắt nó rồi.”
“Nhưng nó còn nhỏ quá,” bà Olga phản đối.
“Con sẽ không sao đâu mà mẹ,” Charlie nói. “Hãy tin con.”
“Mẹ tin con, Charlie,” bà đáp. “Nhưng mẹ không chắc về những người kia.” Bà ra dấu về phía Rex, Tabitha và Pinch.
“Tôi hiểu tình cảm của bà, thưa bà,” ông Rex nói. “Tôi biết bọn tôi đã cãi vã, gây gổ nhau, và có thể trông chẳng được giống những gã đáng tin nhất trên thế giới này. Nếu ở hoàn cảnh bà thì tôi cũng thấy vậy thôi. Nhưng xin hứa với bà rằng bọn tôi sẽ không để cho bất cứ chuyện gì xảy ra cho Charlie.” Ông khẽ mỉm cười. “Bà biết không, tôi lớn lên ở một trang trại, nơi cha tôi thường nói, ‘Nếu sữa bắt đầu hư thì phải đưa đàn bò đi nơi khác’ - bấy lâu nay tình hình nơi này đã xấu và ngày càng xấu đi. Nếu bà yêu chú nhóc này... nếu bà muốn cứu nó... thì bà phải để nó đi thôi.”
Bà Olga đăm đăm nhìn vào mắt Rex để chắc chắn rằng ông nói thật.
“Vậy thì, hãy dẫn nó đi,” cuối cùng bà nói như vậy. Và bà bật khóc.
CHƯƠNG BỐN - XUỐNG ÂM TI
Không khí buổi đêm mơn man dễ chịu trên mặt Charlie. Nó và ba người lớn rảo bước khỏi chính ngôi nhà của nó. “Mẹ cứ làm như cháu còn bé lắm ấy,” Charlie vừa nói vừa xốc lại cái túi đựng đồ ngủ qua đêm đeo lủng lẳng trên vai. Nó đã nhét vội vào đó vài cái quần jeans, mấy cái áo sơ mi mà nó thích nhất, và quyển sổ tay Dụng cụ.
“Mẹ lo cho cháu quá đấy thôi,” Tabitha nói và vò vò mái tóc nó. “Cháu là con độc nhất của bà ấy mà.”
“Nhưng mẹ cứ nghĩ là cháu chẳng thể làm được gì hết. Cháu dũng cảm và kiên cường lắm đấy. Không phải là không làm được gì đâu!”
“Đúng là ngựa non thường háu đá,” ông Rex nói và toét miệng cười.
“Là sao ạ?”
“Là hãy liệu liệu với những điều mà chú mày mong ước. Chú mày rồi sẽ được phiêu lưu sớm thôi - chắc chắn là sớm hơn cả chú mày mong đợi ấy chứ. Ê, chỗ này ngon lành rồi này,” ông chỉ vào một khoảng tối phía sau một bụi cây lớn, khuất khỏi đường cái.
“Được rồi. Mọi người lùi lại,” Tabitha nói và bước ra sau bụi cây. Cô nhắm mắt lại và dang tay phải ra. Những ngọn lửa màu tía bắt đầu kêu tanh tách dọc người cô, trong khi đó, bầu không khí cũng bắt đầu có điện.
“Cô ấy làm gì thế?” Charlie hỏi.
“Đang mở cổng để chúng ta có thể nhanh chóng về Dinh Cao ủy,” ông Rex giải thích. “Lúc ở nhà chú mày là đã có thể mở cổng được rồi kia, nhưng ta thấy trước khi hai vị phụ huynh chú mày đổi ý thì nên biến khỏi đó cho nhanh. Họ có vẻ hơi lung lay khi lão Pinch này đưa cho họ mấy cái phong bì gởi đến địa chỉ ‘Phân viện Ác mộng’.”
“Đó là cách duy nhất để họ có thể liên lạc với Charlie,” ông Pinch nói. “Ta cứ nghĩ làm thế họ sẽ bớt lo sợ.” “Còn ta thì ta sẽ còn chưa bớt sợ được chừng nào chưa rời được khỏi nơi này. Đừng lo, nhóc. Nhảy cổng thì nhanh thôi ấy mà.” “Và cả liều mạng nữa,” ông Pinch thêm vào.
“Ôi lão Pinch ơi, lão loại hết liều lĩnh khỏi đời lão rồi, loại luôn cả mọi niềm vui.”
Bất ngờ, một cái cổng cao cỡ hai thước, uốn hình vòng cung lửa điện màu tím mở ra trước mặt họ. Qua đó, Charlie thấy được một vùng đất bằng sỏi đá cằn cỗi. Đó là một nơi hoang vu lô nhô những tảng đá lớn có hình dáng kỳ lạ, điểm lấm tấm những bụi rậm èo uột màu xanh phơn phớt. Trông rất khác với cảnh Âm Ti mà Charlie đã thấy trước đó.
“Nhảy qua đi,” Rex đẩy Charlie về phía cánh cổng đang để mở và nói:
Charlie quay sang ông lo lắng. “Những không phải bên đó đầy...”
“Đầy quái vật ấy hả?” ông Rex lại nhe răng cười. “Tin ta đi, an toàn tuyệt đối luôn. Đi đi.”
Charlie hít một hơi, nhắm mắt lại và bước vào thế giới Âm Ti.
Vụt nhẹ một cái, Charlie đã thấy mình đang đứng một mình trên mảnh đất đầy đá cứng. Nó ngoái lại thì thấy ông Pinch, ông Rex và Tabitha cũng đang bước qua. Vẫy nhanh tay một cái, Tabitha đóng cổng lại, Charlie suýt chút nữa kêu lên một tiếng thất thanh. Đột nhiên nó thấy sợ. Nó bị mắc kẹt trong một thế giới xa lạ, và như một tay thợ lặn đã lặn quá sâu và quên đường trồi lên lại, Charlie nhận ra nó hoàn toàn không biết cách nào để thoát khỏi nơi này.
“Thoải mái đi, nhóc,” ông Rex nhận thấy nỗi lo sợ mỗi lúc một tăng của Charlie bèn trấn an. “Hít sâu vào. Hãy nhìn xung quanh. Bình tâm lại nào.”
Charlie cố trấn tĩnh và làm theo lời ông Rex. Nó ngạc nhiên khám phá ra rằng tất cả những tảng đá quanh đó đều nghiêng về cùng một hướng như đang chỉ đường. Nó quay xem chúng chỉ cái gì thì thấy mình đang nhìn vào một cột lửa đỏ khổng lồ cuộn xoắn quằn quại phía xa xa.
“Vòng Trong đấy,” ông Rex bước đến bên cạnh nó nói. “Nhìn thì nhìn chứ đừng có dây dưa vào đó - rùng rợn lắm.” “Nó cách đây bao xa ạ?” Charlie kinh sợ hỏi.
“Tính bằng dặm ấy hả? Không biết, nhưng xa lắm. Rất xa. Hiện giờ, chúng ta đang ở vòng đầu tiên, vòng ngoài cùng của Âm Ti. Để cho dễ hiểu nhất thì cứ nghĩ Âm Ti như kiểu bia tập bắn nhé, trong vòng to lại có nhiều những vòng nhỏ. Ở ngoài vòng đầu này khá an toàn, chỉ có mấy con Gremlin và Wight đi lơ vơ - cùng lắm thì có thêm vài con quái vật Hạng Nhất nữa mà thôi. Nhưng càng tiến gần vào trung tâm thì những quái vật sống trong đó càng nguy hiểm.”
“Tại sao ạ?” Charlie hỏi.
“Bởi vì Vòng Trong thu hút mọi quái vật của Âm Ti,” ông Pinch nhảy vào trả lời. “Bọn quái vật ấy khởi đầu từ vòng thứ nhất này - mỏng manh và yếu xìu - là bọn Lưỡi Bạc, bọn Đội lốt, bọn Dơi Âm Ti còn non, vân vân. Nhưng đến khi trưởng thành thì chúng bắt đầu dắt díu nhau về phía trung tâm. Chúng được sinh ra đơn giản là với mục đích như thế.”
“Ừ,” Rex nói thêm. “Không phải tất cả bọn chúng đều tìm được đường vào Vòng Trong - dọc đường đi chúng cũng bị chết bớt một mớ. Nhưng những con nào đã đi qua được thì... là tệ nhất trong những thứ tệ nhất đấy, nhóc ạ. Chặng đường từ đây đến đó phải mất nhiều năm, và cuộc hành trình đó khắc nghiệt đến nỗi hoặc sẽ làm chúng mạnh hơn, hoặc là chết hẳn. Chú mày thấy gì bên kia vùng đất trống nào?”
Charlie đưa mắt nhìn, thấy ở cuối vùng đất bằng giống như trên mặt trăng nơi họ đang đứng là một khu rừng rậm tối tăm và dày kịt. “Là một khu rừng,” nó nói. “Hay ít nhất thì nhìn từ đây cháu thấy nó giống một khu rừng.”
Ông Rex gật đầu. “Chúng ta gọi đó là vòng thứ hai. Bất cứ con quái nào sống sót lọt vào đó đều được định nghĩa là quái vật Hạng 2. Và nếu nhìn quá khỏi khu rừng thì chú mày thấy gì?”
“Núi,” Charlie nói. Những ngọn núi mang màu xương trắng hếu đâm thẳng lên trời như những cái răng nhọn hoắt. “Đó là vòng thứ ba ạ?”
“ Yup ,” ông Rex trả lời. “Và đó là nơi chú mày sẽ tìm thấy bọn quái vật Hạng 3, trên đường chúng di chuyển vào Vòng Trong, càng lúc càng mạnh thêm và càng nguy hiểm hơn. Hiểu ra rồi chứ?”
Charlie gật đầu. “Thế qua khỏi núi thì đến gì ạ? Vòng thứ tư trông như thế nào?”
“Đó là một đại dương,” ông Rex nói. “Bao la, lạnh lẽo và sâu thẳm. Ta gọi nó là ‘Vực sâu Giá lạnh’.”
“Vực sâu Giá lạnh?” ông Pinch cáu kỉnh cất tiếng. “Tên gì mà lố bịch.”
“Vậy chứ ngươi gọi nó là gì?”
“Vòng thứ tư, dĩ nhiên rồi.”
“Nhưng nếu phải đặt tên riêng cho nó,” ông Rex hỏi tới, “thì ngươi đặt là gì?”
Ông Pinch suy nghĩ một lát. Cuối cùng ông nói, “Đại dương Khủng khiếp.”
“Đại dương Khủng khiếp?” ông Rex rống lên. “Kinh khủng! Còn đâu là cái đẹp? Còn đâu là chất thơ nữa hả?”
“Cháu có một câu hỏi,” Charlie nói. “Nếu đó chỉ là đại dương thì Hạng 4 của những con như con Lưỡi Bạc sống ở đâu? Chúng phải học cách thở dưới nước à?”
“Một thắc mắc rất hay,” ông Pinch trả lời, “nhưng mà không, không phải thế đâu. Bởi vì, Đại dương Khủng khiếp...” ông ném một cái nhìn thách thức sang ông Rex... “không phải chỉ toàn là đại dương. Ở đó còn có các đảo... nhưng không phải là thứ đảo mà ngươi đã biết đâu. Rất nhiều đảo vẫn chưa có trên bản đồ. Thật ra, chỉ mới có một phần rất nhỏ của Âm Ti là đã được khám phá mà thôi.”
“Đúng vậy đó,” ông Rex tiếp lời. “Và qua khỏi Vực sâu Giá lạnh...” ông liếc xéo ông Pinch, “là vòng thứ năm. Chú mày đã được nhìn qua nó rồi đó, qua cánh cổng mở trong phòng ngủ của chú mày ấy.”
“Chỗ có mấy cái thanh tinh thể màu vàng đó ạ?” Charlie hỏi.
Ông Rex gật đầu. “Đó là một nơi khủng khiếp. Lúc ấy đứng trên cao ngó xuống thì khó mà nói được gì, nhưng đứng dưới đất này là thấy ngay, nó chật chội, ngột ngạt và đầy nhóc những con quái vật trưởng thành nhất và nguy hiểm chết người nhất của Âm Ti.”
“Trừ những con ở Vòng Trong,” ông Pinch chỉnh lại ngay.
“Ờ, trừ những con đó,” ông Rex công nhận.
“Không thể tin là cháu lại mở cổng ở gần chỗ ấy,” Charlie nói khẽ và chỉ về cột lốc lửa đỏ ở phía xa.
“Mới gần thôi chứ chưa phải vào bên trong , tạ ơn Trời,” ông Pinch nói. “Ngươi sẽ không bao giờ muốn mở cổng bên trong Vòng Trong đâu. Đó là nơi ở của bọn Named đấy.”
Lại một lần nữa, ông Pinch rùng mình khi nhắc đến từ này.
“Chú mày để ý không, ông Pinch này mỗi khi đụng đến Named là lại hoảng lên,” ông Rex nói, nhưng Charlie chưa kịp hỏi gì thêm thì ông đã quay sang Tabitha. “Cánh cổng đó sao rồi?”
“Thì vẫn đang chờ các người lên lớp thằng bé cho xong đây thôi!” Cô nói, và duỗi tay phải ra. Những ngọn lửa màu tía bắt đầu kêu tanh tách.
“Cô ấy đang làm gì thế ạ?”
“Đang mở một cổng khác đến Học viện Ác mộng,” Rex giải thích. “Thế này này, chú mày chỉ có thể mở được cổng vào Âm Ti và ra khỏi Âm Ti thôi, nên nếu muốn đi nhanh từ nơi này sang nơi khác trên Mặt Đất thì phải mở cổng vào Âm Ti, bước qua đó, rồi mở một cổng khác dẫn đến nơi muốn đến trên Mặt Đất.”
“Vậy khi mở cổng vào Âm Ti, mình chắc chắn chỉ muốn mở cổng vào vòng thứ nhất thôi, nơi chúng ta đang đứng bây giờ, vì đó là nơi an toàn nhất phải không ạ?”
“Cậu nhóc này hiểu được hết rồi đó,” ông Rex toét miệng cười. Vừa lúc đó, Charlie để ý thấy cây kiếm ngắn và sợi thòng lọng móc ở
thắt lưng của ông Rex sáng lên ánh lửa xanh mờ mờ. Rex cũng đã thấy, và nhanh như chớp, ông quay người quất sợi thừng vào một nhóm quái vật nhỏ khẳng khiu có mắt to màu xám và đuôi dài. Ngay tức khắc chúng nhất loạt thét lên sợ hãi và chạy túa vào những tảng đá như lũ gián.
“Lũ Gremlin đấy,” ông Rex cài lại sợi thừng vào thắt lưng và nói. “Một lũ rác rưởi của Âm Ti. Chúng thậm chí còn chẳng có lấy một thứ hạng nào vì chúng không bao giờ phát triển hơn được nữa. Ở đây thì nói chung là chúng vô hại, nhưng khi lên Mặt Đất thì chúng thích gặm dây điện. Chúng có thể gây nên những rắc rối thật sự như làm xe hơi bị trục trặc, nhà máy điện ngưng hoạt động, đại loại những chuyện như thế.”
Bất ngờ, một tiếng bốp vang lên , cái cổng mới đã được Tabitha mở ra trước mặt họ. Charlie nhìn qua đó và hết hồn khi thấy một con sư tử đang nhìn lại mình chằm chằm, bờm nó là một vương miện lông lá huy hoàng, còn răng thì to cỡ bằng ngón tay người lớn và dài cũng gần bằng như thế. Con sư tử ngoác miệng, gầm lên. Âm thanh nghe chói tai và làm cho Charlie bủn rủn hết cả người. Nó ré lên và loạng choạng thối lui.
“Đừng lo,” ông Rex cười. “Nó không làm đau chú mày đâu. Cứ bước qua đi. Rồi sẽ thấy.”
Charlie vẫn đứng nguyên đó, chăm chăm nhìn Rex đầy hồ nghi.
“Cứ tin ở ta mà,” ông Rex mỉm cười.
Charlie rón rén bước qua cổng.
Sau một cái vụt nhẹ quen thuộc , Charlie nhận ra mình đang đứng cạnh một bức tường đá. Con sư tử bước về phía nó. Con sư tử càng tiến lại gần, Charlie càng phát hãi vì phát hiện thấy con vật to quá chừng. Nó chỉ đủ để làm món khai vị chứ không đủ làm món chính cho con vật này đâu.
Con sư tử tiến đến cách nó khoảng nửa thước và hít vào một hơi. Charlie điếng người. Tim nó đập loạn lên trong ngực và không tài nào thở được. Rồi con sư tử há miệng ra, chồm về phía trước... và liếm mặt nó .
Charlie hết hồn loạng choạng thối lui. “Sao nó lại liếm cháu?” nó cố sức hớp hớp. Đâu đó ở sau lưng, nó nghe tiếng Rex đang cười. “Chú mày ngửi thấy mùi gì?”
Charlie nhắm mắt, nhè nhẹ hít vào. “Mùi quế...”
“Có nghĩa là?”
“Con sư tử này thật ra là một con Đội lốt, phải không ạ?” Charlie đột nhiên tỉnh ra.
“Đúng rồi đấy,” ông Rex gật đầu. “Nó mà muốn xơi chú mày làm gì, nó chỉ muốn xơi mồ hôi của chú mày thôi. Những con sư tử thật thì đã được nhốt an toàn và cẩn thận trong chuồng ngay phía dưới chúng ta đây rồi.”
“Ta đang ở đâu đây ạ?”
“Chú mày tự nhìn xem.”
Ông Rex ra dấu cho Charlie đi vòng ra sau bức tường đá bên cạnh nó. Charlie ngập ngừng làm theo và thấy mình đứng giữa ba con sư tử khác. Chung quanh chúng là một cái hào nước. Bên kia hào nước là hàng rào, và qua khỏi hàng rào là... người, rất rất nhiều người.
Rex vỗ vai nó. “Chúng ta đang ở trong khu sư tử của Sở thú San Diego. Đây là một trong những cổng vào của Phân viện Ác mộng.” “Nhưng tại sao ?” Charlie hỏi.
“Để đảm bảo bí mật, chứ còn sao nữa,” ông Pinch nói, không giấu nổi vẻ mất kiên nhẫn. “Không ai khác biết những con sư tử này chỉ là một lũ Đội lốt Hạng 5. Và người ta sẽ không đời nào dám bén mảng lại gần cửa.”
“Cửa ạ?”
“Theo ta,” ông Pinch nói và sải bước đầy tự tin về một cái hang ở tận mút đầu kia của khu sư tử.
“Đi nào, nhóc,” ông Rex nháy mắt thân tình. “Cứ đi đi.”
Charlie theo ba người lớn đi băng qua đàn sư tử giả để vào hang. Ở tận đầu kia, khuất tầm nhìn của mọi người là một cánh cửa sắt lớn, không có bản lề hay núm cửa gì cả, mà chỉ có một tấm biển màu đen nhỏ nằm ngay chính giữa.
“Rồi, ai sẽ mở đây?” ông Rex hỏi.
“Không phải ta,” Tabitha trả lời. “Ta ghét việc này.”
“Lần trước ta đã làm rồi,” ông Pinch nhanh nhảu tiếp lời.
“Tuyệt lắm,” ông Rex thở dài. Ông chồm người tới cái bản nhỏ màu đen và thè lưỡi ra. Ngay tức khắc, một cái kẹp kim loại bật ra và kẹp chặt vào đầu lưỡi.
“Gì thế ạ?” Charlie hỏi.
“ Tiểm ta Ê E A ,” ông Rex ú ớ, cố trả lời.
“Kiểm tra DNA, hắn muốn nói là thế,” ông Pinch giải thích. “Các cửa của Phân viện Ác mộng đều được bảo vệ bằng thiết bị thử nước bọt. Nước bọt chứa toàn bộ cấu trúc di truyền, và thiết bị này nhận dạng bằng cách đó.”
“Rexford Henderson, đã nhận dạng xong ,” một giọng vi tính phát ra rất êm tai. Cây kẹp thả lưỡi của Rex ra và rút về lại nơi của nó ở phía sau tấm biển màu đen.
“Trời ạ, ta ghét cái trò này quá,” ông nói, quai hàm đưa qua đưa lại.
Rồi bất ngờ cánh cửa sắt nhẹ nhàng mở ra và Charlie lần đầu tiên nhìn thấy Phân viện Ác mộng.
Nơi đây là một tuyệt tác công nghệ, một sự kết hợp kỳ quái của thép và crôm. Từ những gì Charlie thấy được thì cơ sở này đúng là khổng lồ, lớn hơn nó tưởng nhiều và hoạt động hết sức nhộn nhịp. Những trạm máy tính được đặt thành hàng ở các hành lang và thiết bị kiểm tra nước bọt kiểm soát việc vào ra tại nhiều ô cửa giống hệt nhau nằm rải rác trên những bức tường của sảnh chính.
Các nhóm công nhân bận bịu qua lại khu vực rộng mênh mông đó. Hai người đàn ông mặc bộ áo liền quần màu tía kéo một cái thùng chứa một con quái vật giống như con mực ống khổng lồ đi ngang qua một phụ nữ mặc bộ áo liền quần màu vàng đang đẩy một chiếc xe đẩy, trên có một cái đĩa khổng lồ mì Ý với thịt viên. Ít nhất thì Charlie đã tưởng đó là thịt viên, cho đến khi chúng hấp háy. Nó đờ người khi nhận ra chúng thật ra là những con mắt, có nghĩa là, cái mà nó cho là mì Ý lại là... Nhưng nó chưa kịp nghiên cứu tiếp thì người phụ nữ mặc bộ áo liền quần màu vàng đã biến mất, lao xuống một trong nhiều hành lang tỏa ra từ đại sảnh.
“Phân viện có hơi dữ dội một chút,” ông Rex nói, như thể đọc được ý nghĩ của Charlie. “Nhưng nó cũng chỉ là một chỗ làm việc, giống như bất cứ chỗ nào khác vậy thôi. Theo sát bọn này nhé, đừng đụng vào bất cứ cái gì, chúng ta sẽ đến được Cao ủy ngay thôi.”
Họ đi nhanh qua một mê cung các hành lang, ngang qua những cái cửa có những tên gọi nghe rất kỳ cục như DỊCH VỤ LẤY DỊCH GNOME (HẠNG 3 TRỞ XUỐNG) và VIỆN LẤYNANH RẮN ĐỘC (TRỪ LOÀI KRAKENS!).
Chỉ là một chỗ làm việc, giống như bất cứ chỗ nào khác vậy thôi, Charlie nghĩ ngợi mà đầu óc quay cuồng.
Đột nhiên có hai công nhân mặc bộ áo liền quần màu đỏ đẩy một người đàn ông trên cáng chạy về phía họ. Toàn thân ông này đã biến thành màu trắng cẩm thạch sáng bóng. Mãi đến khi người đàn ông ấy được đẩy qua rồi Charlie mới nhận ra rằng ông không chỉ có màu cẩm thạch, mà quả thật ông được làm bằng cẩm thạch. Người ông rắn đanh và bất động như một pho tượng.
“Anh chàng tội nghiệp,” Tabitha nói.
“Nhìn Nữ Quỷ Tóc Rắn là dẫn tới hậu quả vậy đấy,” ông Rex lắc đầu, lẩm bẩm. “Gã này chắc chẳng còn dịp làm thế lần nữa đâu.” “Người ta có cứu sống được ông ấy không ạ?” Charlie hỏi.
“Có, nếu họ tìm ra được con Gorgon đã biến anh chàng này thành đá và chặt đầu nó đi... nói thì nói vậy thôi, khó lắm.” Họ thình lình dừng lại trước hai cánh cửa crôm to uỳnh. Trên cửa có một tấm biển ghi CAO ỦY- KHÔNG PHẬN SỰ miễn VÀO! “Ta đã tới nơi,” ông Rex nói, rồi dẫn đường vào bên trong.
CHƯƠNG NĂM - CAO ỦY
Trước giờ Charlie chưa từng thấy thứ gì như thứ này.
Dinh Cao ủy hẳn phải là cái phòng xử án rộng lớn và uy nghiêm nhất thế giới. Biểu tượng cầu kỳ rối rắm của Phân viện Ác mộng (bốn chữ P,V,A và M đan rít vào nhau) chiếm trọn cả bức tường ở cuối phòng. Bên dưới biểu tượng ấy là một cái bục nổi, mười hai thành viên Cao ủy trong những bộ vest màu sậm y hệt nhau đang ngồi đó. Chủ tọa là một người đàn ông tóc hoa râm, mũi cao và đôi mắt sắc lạnh. Một tấm bảng nhỏ trước chỗ ông ta ngồi ghi rõ: REGINALD DRAKE - GIÁM ĐỐC.
“Ta sẽ phải nói chuyện với cái lão ngồi ở giữa ấy đấy,” ông Rex thì thào, cố không làm gián đoạn một cuộc họp rõ ràng là đang diễn ra. “Giám đốc của Phân viện Ác mộng đấy.”
“Ông đó là người sẽ quyết định chuyện của cháu à?” Charlie hỏi.
“Lão quyết định chuyện của mọi người ấy chứ.”
Một anh thanh niên đang đứng trước giám đốc Drake, sôi nổi giải trình với một đống phương tiện nghe nhìn hỗ trợ. Anh có vẻ căng thẳng vì sự hiện diện của mười ba con người ngồi trên cao kia, nhất là khi tất cả đều đang nhìn anh chòng chọc.
“Số lượng quỷ Gremlin đã tăng mười hai phần trăm chỉ trong vòng có hai năm,” anh vừa nói vừa chỉ vào một biểu đồ thống kê. “Chúng ta cần phải có những biện pháp triệt để. Lũ Gremlin đã thâm nhập vào hệ thống đường dây điện của California và New York, đến mức tình trạng mất điện trên diện rộng là điều sẽ khó tránh khỏi trong năm nay.”
“Làm sao lại để xảy ra chuyện thế cơ chứ?” giám đốc Drake ngắt lời. “Chẳng phải các ngài có trách nhiệm làm giảm số lượng lũ Gremlin hay sao? Đó không phải là việc của ngài sao, thưa ngài?”
“Thưa, đúng là vậy,” anh thanh niên thừa nhận, “nhưng với tốc độ chúng lẻn vào thế giới như thế này, chúng tôi không thể nào kịp trục xuất chúng được. Cứ nhìn dân số loài người tăng lên như thế...” anh chỉ vào một biểu đồ khác, đề là Dân-Số-Loài-Người-Tăng-với-Tốc Độ-Chóng-Mặt, “hẳn ông cũng thấy số lượng trẻ con nhiều đến mức nào. Những đứa trẻ ấy đã mở cổng một cách dại dột trong những cơn ác mộng của chúng - mà chuyện ác mộng cũng đang ngày càng trở nên thường xuyên hơn do tác động bất ổn từ những biến cố trên thế giới hiện nay. Hệ thống đường điện không trụ nổi trước những cuộc tấn công liên tục. Ở đây tôi chỉ mới đề cập đến California và New York, nhưng thật ra bọn quỷ Gremlin đã tác động đến toàn cầu . Chi nhánh London của chúng tôi có báo cáo tình trạng mất điện trầm trọng ở Piccadically Circus. Mà ấy là tôi chưa nói gì đến những điều mà các đồng nghiệp của chúng tôi ở Tây Ban Nha, Ý và Hàn Quốc đã thuật lại cơ đấy! Chúng ta đang phải đối mặt với một đại dịch.”
“Ta hy vọng ngươi không đến đây gặp ta để than van về những thất bại của mình đấy chứ,” giám đốc Drake lên tiếng. “Làm ơn nói cho ta biết là ngươi cũng đã có một kế hoạch rồi đi .”
“Tất nhiên là chúng tôi có chứ ạ, thưa giám đốc,” anh thanh niên vội cam đoan. “Ngài có nghe đến thành công rực rỡ của Hệ thống Khách sạn Đội lốt của chúng tôi chưa ạ?”
“Phải ngươi muốn nói về những khách sạn giả hiệu xấu xí mà các ngươi đang cho xây khắp đất nước đó chăng?”
“Vâng, thưa giám đốc. Mỗi phòng ở đó có một bể chứa mồ hôi thu hút hàng đống bọn quỷ Đội lốt. Và một khi chúng đã ở đó thì chỉ cần vài Pháp sư Khai cổng cùng Chiến binh Trừ Tà là đã có thể dễ dàng bắt chúng về lại Âm Ti.”
“Rồi, chuyện đó ta có biết,” lão Drake nẹt ngang. “Cứ tiếp tục đi!”
Anh thanh niên nuốt nước bọt một cách khó khăn rồi nói tiếp. “Vâng, thưa giám đốc, chúng tôi đề xuất cũng làm như vậy với lũ quỷ Gremlin. Vì chúng ăn dây điện nên chúng tôi có thể nhử chúng đến một nhà máy điện giả do PVAM kiểm soát và trục xuất chúng ngay khi chúng mò đến. Làm vậy thì hiệu quả hơn là cứ phải chạy đuổi theo chúng lòng vòng khắp thế giới hoặc cho người thâm nhập vào các nhà máy điện tư nhân, để rồi chỉ giải quyết được vấn đề một cách cục bộ mà thôi.”
“Nghe có vẻ nguy hiểm,” ông Drake đáp, “nhưng ta sẽ chấp thuận, miễn là ngươi hiểu được là ta sẽ chỉ quy trách nhiệm về một mình ngươi thôi đấy. Ta muốn được nghe báo cáo sau hai tháng nữa. Nếu đến lúc ấy vấn đề vẫn không được cải thiện thì ngươi nên từ chức.”
“Tôi hiểu, thưa giám đốc,” anh thanh niên nói. “Tôi sẽ không làm ngài thất vọng đâu ạ.” Anh vội vã đi ra phía cửa. Trên đường ra ngoài, khi đi ngang qua Charlie, anh thì thầm. “Chúc may mắn nhé. Ông giám đốc đang khó chịu lắm đấy.”
“Hay để lúc khác mình hãy quay lại?” Charlie thì thào với Rex. Nhưng ông chưa kịp nói gì thì giám đốc đã gầm lên, dậy cả phòng. “Đứa nào đây?” lão hỏi và ngó Charlie chăm chăm.
Ông Pinch bước lên một bước. “Edward Pinch xin phục vụ ông, thưa giám đốc. Chúng tôi đã tìm thấy thằng nhóc, kẻ mà lâu nay ta vẫn để mắt đến đấy ạ.”
“Tìm thấy rồi sao?” Drake nói. “Tốt lắm. Lại đây, thằng bé kia. Tên mày là gì?”
“Cứ bước tới đi,” ông Rex thì thầm. “Bọn ta ở ngay sau chú mày đây.”
Charlie tiến về lối đi dài giữa phòng dẫn đến trước Cao ủy trong khi tim đập loạn cả lên. “Thưa ngài, tên cháu là Charlie. Charlie
Benjamin.”
“À, phải, ta nhớ rồi. Và ngươi cứ gọi ta là ‘giám đốc’. ‘Ngài’ là để gọi bọn bồi bàn , và ta muốn nghĩ rằng ta thành đạt hơn nhiều so với một tên bồi bàn quèn, ngươi đồng ý không?”
“Vâng, thưa ngài,” Charlie gật đầu. “Ý cháu là, vâng, thưa giám đốc ,” nó vội vàng sửa lại.
Drake khẽ làu bàu, rồi quay sang Pinch. “Ngươi xác nhận Khả năng của nó mạnh chứ hả?”
“Đúng vậy, thưa giám đốc. Chúng tôi đã tận mắt chứng kiến nó khai cổng cho một con Lưỡi Bạc Hạng 5.”
“Một con Hạng 5 sao?” giám đốc Drake nói, kèm một tiếng huýt gió. “Đúng là có khác thường. Ngoài ra nó còn lượt khai cổng nào đáng chú ý nữa không?”
“Dạ có, hôm trước nó kéo về một con Đội lốt Hạng 4 giả dạng mẹ nó, và chúng tôi tin chắc nó cũng chịu trách nhiệm đã khai cổng tiếp tay cho một con Cà khêu Hạng 3 đóng kén trói một lũ nhóc cách đây chưa đầy một tuần lễ.”
“Ý ngươi muốn nói là chỉ trong vòng một tuần mà nó đã từ chỗ khai cổng cho một con Hạng 3 tiến được đến khai cổng cho một con Hạng 5?” Drake hỏi.
“Chính là thế,” ông Pinch đáp. “Thật khó tin phải không ạ? Công lực của đứa nhỏ này đang tăng nhanh rõ rệt. Và không chỉ có thế, báo chí còn nói rằng khi nó khai cổng cho con quái Cà khêu thì con này chỉ đóng kén trói những đứa trẻ khác mà hoàn toàn không đụng gì tới nó.”
“Không thể tin được,” Drake nhận xét.
“Thật ra thì chính cháu cũng thắc mắc chuyện này,” Charlie chen vào. “Tại sao nó lại chừa cháu ra nhỉ?”
“Bởi vì,” ông Pinch đáp, “không giống với lũ quái vật đần độn hơn của Âm Ti - ví dụ như loài Gremlin và Ectobog - quái vật Cà khêu khá thông minh, và trừ trường hợp bất khả kháng còn thì chúng thường không tấn công những đối thủ mạnh hơn chúng nhiều; như thế rõ là ngươi mạnh hơn.”
“Ái chà,” Charlie nói.
“Đúng là ái chà,” ông Pinch đáp. “Và có lẽ bây giờ ngươi nên tỏ ra tôn kính giám đốc bằng cách chỉ được nói khi nào ông cho phép ngươi nói thôi.”
“Ồ, cháu xin lỗi ông giám đốc,” Charlie nói.
Giám đốc Drake lại hầm hừ với Charlie, rồi quay sang ông Rex và Tabitha. “Còn hai ngươi thì có gì để nói đây?” “Đứa trẻ này chắc chắn là có Khả năng rất lớn,” Tabitha đáo. “Có lẽ là lớn nhất, lớn chưa từng thấy.”
“Khả năng chẳng là gì cả nếu không kiểm soát được nó,” giám đốc Drake nói.
“Ồi, thằng bé này có thể học được điều đó,” ông Rex nói. “Hoàn toàn có thể.”
“Và ngươi nói vậy là dựa vào...”
“Thâm tâm tôi,” ông Rex nói. “Tôi cảm nhận được điều đó.”
“À, ta hiểu. Vậy, vì ngươi có thể dễ dàng đưa ra những quyết định hệ trọng chỉ dựa trên thâm tâm của mình, ta hy vọng ngươi cũng không phiền nếu ta không có cùng niềm tin như thế .”
“Với tất cả sự kính trọng, ông giám đốc, cứ để thằng bé học một năm ở Học viện Ác mộng, rồi ông sẽ thấy tôi nói đúng.” “Ồ, nó sẽ không vào Học viện đâu,” lão giám đốc thản nhiên.
“Cái gì?” ông Rex bất ngờ.
“Một thằng bé chưa được dạy dỗ gì mà đã có thể khai cổng cho một con quái vật Hạng 5! Ngươi có thể tưởng tượng nó sẽ còn làm được những gì nếu để nó đạt hết công lực của mình không? Mở cổng vào Vòng Trong có lẽ không vượt quá khả năng của nó đâu. Chuyện xảy ra lần trước đã để một tên Named lọt qua, và từ đó đến nay chúng ta vẫn đang phải nỗ lực hết sức để hồi lại sau những thiệt hại do vụ để sổng Verminion ấy.”
“Nhưng đứa bé này có thể là giải pháp cho vấn đề đó,” ông Rex nhấn mạnh. “Một đứa trẻ có sức mạnh như thế này nếu được huấn luyện chu đáo thì dư sức tống cổ Verminion về lại Âm Ti - hay giết hắn chết tươi. Charlie có thể là vũ khí tối hậu của chúng ta để chống lại bọn quái vật của Âm Ti.”
“Và nó cũng có thể dễ dàng là vũ khí tối hậu của bọn chúng để chống lại chúng ta ,” Drake ngắt lời. “Hay ngươi đã quên Verminion thoát lên mặt đất bằng cách nào rồi?”
“Ông nói chuyện cái kiểu chết nhát,” Rex nói. “Nếu còn định quyết định mọi chuyện dựa trên cái kiểu chết nhát ấy thì bỏ cuộc luôn đi cho xong.”
“Vậy tại sao chúng ta lại không được dựa vào sự sợ hãi của mình để quyết định chứ?” Drake đáp trả. “Chính sự tồn vong của chúng ta
đây cũng là dựa vào nỗi sợ hãi, không phải sao. Nếu không sợ thì người ta đã không bị ác mộng, và nếu không bị ác mộng thì không có cổng vào Âm Ti. Sự sợ hãi là cơ sở cho những gì chúng ta đang phải làm ở đây. Đó chính là nền móng của Phân viện này!” Lão lắc đầu. “Huấn luyện thằng bé này mang lại quá nhiều rủi ro. Nó phải bị Rút thôi.”
“Không!” Charlie há hốc miệng.
“Đừng lo, nhóc,” ông Rex nói rồi quay sang lão giám đốc. “Ông biết gì không, Arthur Goodnight chắc hẳn không bao giờ để một đứa bé như Charlie bị Rút .”
“Ta cũng tin chắc là như thế,” giám đốc Drake trả lời. “Và đó là lý do vì sao Cao ủy lại chọn ta làm giám đốc mới sau khi ông ta chết. Goodnight luôn quá nhân nhượng với những kẻ có Khả năng, vì bản thân ông ta có Khả năng - và điều đó đã giết ông ta.”
“Đó là một tai nạn, ông cũng biết rõ thế còn gì.”
“Dĩ nhiên, dĩ nhiên,” giám đốc Drake ngọt nhạt đồng tình. “Nhưng tập luyện lâu năm và công lực mạnh mẽ như vậy mà ông ta vẫn không ngăn được một cơn ác mộng để dại dột khai cổng cho một con Phun A-xít Hạng 5 thoát qua. Ông ta chết mà thậm chí còn không kịp tỉnh dậy nữa mà, ấy là chưa kể đến số Chiến binh Trừ Tà và Pháp sư Khai cổng Âm Ti phải hy sinh để cố cứu ông ta.” Drake chồm người về trước. “Mạnh đến như Goodnight mà vẫn bị Khả năng đe dọa thật sự . Ta thì không có Khả năng nên cũng không lâm vào hoàn cảnh như thế.”
“Khả năng không phải là một vấn đề ,” ông Rex phản đối; “nó là một giải pháp. Có thể ông không có Khả năng nhưng Phân viện này được thiết kế cho hầu hết những người khác ở đây sử dụng Khả năng của họ để làm việc.”
“Ngươi hiểu sai rồi, Rex ạ,” lão Drake nói. “Ta vô cùng tôn trọng những nhân viên có Khả năng của mình đấy chứ, nhưng những người có Khả năng thì cũng giống như những con ‘chó giỏi’ vậy - hữu ích và thường tử tế - nhưng “chó giỏi” nào cũng có lúc dở. Càng mạnh bao nhiêu thì cú đớp của chúng càng gây nguy hiểm bấy nhiêu. Và một thằng bé như thế này...” lão chỉ Charlie, “một cú đớp của nó có thể là chí mạng . Goodnight không bao giờ hiểu được điều đó... cho đến khi chết vì nó. Còn ta thì hiểu - nên ta sẽ hành động sao cho thích hợp.”
“Ông giám đốc, tôi chỉ yêu cầu ông cho thằng bé một cơ hội thôi,” ông Rex nói. “Charlie có thể dạy dỗ được. Nó đủ sức kiểm soát được Khả năng của mình. Hãy cho nó học một năm ở Học viện Ác mộng. Hãy để nó chứng minh cho ông thấy.”
“Tại sao lại phải đợi đến một năm?” lão Drake đáp. “Hãy để nó chứng minh cho ta thấy ngay bây giờ đi. Cho nó mở cổng luôn, ngay lúc này, để chứng minh cái sự kiểm soát được khi sử dụng Khả năng của nó đi. Nếu nó chứng minh được cho ta thấy là nó đặc biệt kiểm soát được năng lực của mình, chắc chắn ta sẽ xem xét lại phán quyết cuối cùng.”
Sự yên lặng bao trùm căn phòng. Cuối cùng Tabitha lên tiếng:
“Ông giám đốc,” cô nói. “Ngay những đứa trẻ mạnh nhất cũng cần có nhiều tuần tập luyện mới mở được cổng khi tỉnh táo.”
“À , ta hiểu,” giám đốc Drake nói. “Đó chẳng phải là nói kiểu chết nhát đó sao? Sợ thất bại chứ gì? Cộng sự của cô không tin thế đâu. Cứ hỏi y xem.”
“Thằng bé sẽ làm việc đó,” ông Rex đáp.
“Cái gì?” Tabitha quay sang ông Rex, ngắt lời. “Không, nó sẽ không làm được đâu.”
Ông Rex kéo Tabitha sang một bên và thì thầm vào tai cô. “Đây là cơ hội duy nhất của Chalie. Nàng biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó đánh mất cơ hội này mà.”
“Nhưng trước nay nó đã làm chuyện thế này đâu,” cô phản đối. “Còn cả áp lực nữa chứ. Trong những hoàn cảnh phi lý như thế này, ngay cả những người mở cổng chuyên nghiệp cũng phải vật lộn hết sức mới làm được. Nhìn nó mà xem. Nó đang phát hoảng lên kia kìa.”
“Vậy thì sao? Sử dụng nỗi sợ hãi của nó. Nếu làm cho nó đủ sợ thì sẽ đưa được nó vào ác mộng trong khi đang thức. Và thế là mở được cổng.”
“Nhưng rồi nó sẽ không kiểm soát được,” Tabitha vẫn chưa chịu thôi. Nó có mở được cổng đi chăng nữa thì ai mà biết được cánh cổng ấy sẽ mở đi đâu? Nếu lại có một con Hạng 5 khác nữa lọt qua thì sao? Hoặc vài con như thế lọt qua?”
“Thì đến lúc đó rồi tính,” ông Rex đáp. “Bây giờ chỉ cần giúp nó mở cổng mà thôi.”
“Ta đang đợi đây,” từ chỗ ngồi trên cao, giám đốc Drake nói. “Các ngươi có ba phút trước khi ta ra quyết định cuối cùng cho số phận thằng bé này.”
“Đi,” ông Rex nói với Tabitha. “Làm đi.”
“Nhắm mắt lại đi,” Tabitha thì thầm với Charlie, “và lắng nghe cô thật kỹ đây.”
“Được ạ,” Charlie nói và nhắm mắt lại.
“Tốt.” Giọng cô điềm tĩnh và rành rọt. Trấn an. Thôi miên. “Em đang đứng trên mái của một tòa nhà cao, Charlie à... toà nhà cao nhất mà em từng được thấy.”
Một bức tranh ngay tức khắc hình thành trong trí tưởng tượng của Charlie. Nó thấy mình đang đứng trên mái một tòa nhà cao đến tận mây. Cảm giác thật và sống động đến nỗi nó cảm nhận được cả cơn gió lạnh buốt như kim châm trên mặt, trong khi tòa nhà dưới chân nó đung đưa trong cơn gió.
“Em thấy nó rồi chứ?” cô hỏi. Charlie gật đầu. ‘Giờ thì... nhìn qua rìa tòa nhà đi.”
Trong tâm trí, Charlie tiến về phía trước và nhòm qua rìa của tòa nhà. Cảnh tượng hàng trăm tầng chạy thẳng tắp hun hút xuống dưới làm nó càng nhìn càng chóng mặt. Bao tử nó nhộn nhạo muốn nôn, miệng nó khô khốc. Nó khao khát muốn thoái lui.
“Đột nhiên em thấy một bàn tay đặt lên lưng mình,” Tabitha nói, và Charlie khó nhọc thẳng người lên. Nó cảm thấy bàn tay ấy thật. “Bàn tay đẩy em ngã xuống.”
“Cái gì?” Charlie hỏi lại.
“Em không thể làm gì được. Em rơi xuống.”
Và đúng như vậy, trong trí tưởng tượng của mình, Charlie rơi xuống.
Những ô cửa sổ của tòa nhà chọc trời vùn vụt lướt qua với một tốc độ lóa mắt khi Charlie lao thẳng xuống mặt đất tít bên dưới. Nó cố hét lên nhưng không khí đã làm phổi nó cứng lại, tim nó thì đập thình thịch trong lồng ngực như tiếng búa hơi khoan cọc.
“Mặt đất cũng đang lao về phía em,” Tabitha tiếp tục, dồn dập hơn. “Em nhìn về các cửa sổ của tòa nhà và thấy nhiều người quen. Bố mẹ em có trong số đó, họ có thể với tay ra kéo em vào chỗ an toàn, nếu muốn... nhưng họ để mặc em rơi xuống.”
“Tại sao?” Charlie hỏi, giọng vỡ ra.
“Vì nếu không có em thì cuộc sống của họ đã dễ chịu hơn nhiều.”
“Không...”
“Trong các cửa sổ khác, em trông thấy những đứa trẻ mà em đã biết,” cô tiếp. “Chúng cũng đều có thể cứu em, nếu muốn... nhưng chúng cũng không cứu.”
“Tại sao không?”
“Vì em không giống chúng, Charlie à, nên chúng sợ và coi thường em. Vì vậy chúng để em rơi luôn.”
“Sẽ không có ai cứu em sao?” nó hỏi.
“Không ai cả,” Tabitha nói. “Em chỉ có một mình. Bây giờ mặt đất đang lao về em rất nhanh, và em biết rằng khi đập vào nó thì em sẽ chết.”
“Làm nó dừng lại đi,” Charlie nói.
“Ta cũng không thể giúp em, Charlie à. Chỉ có em mới giúp được chính mình thôi.”
“Bằng cách nào?”
“Tìm một cái cửa. Một lối ra. Em có thấy cửa không ?”
“Không,” nó thét lên và cuống cuồng nhìn quanh. Chẳng có cánh cửa nào hết cả, nó chỉ thấy bóng những ô cửa sổ loang loáng lướt qua và cái vỉa hè cứng cũng đang vùn vụt lao vù vù về phía nó. Rồi thật bất ngờ... “Có!” nó kêu lên. “Em thấy rồi. Nó ở ngay trên mặt đất, bên dưới em. Nó màu tía. Em đang rơi vào đó, ngay vào đó .”
“Vậy mở nó ra đi, Charlie. Mở ra rồi rơi qua đó.”
“Em không biết mình có làm được không,” nó thét lên.
“Mở cửa ra!” giọng Tabitha thật đáng sợ. “Mở cánh cửa ấy ngay, nếu không là chết !”
Chỉ một nhịp tim trước khi chạm đất, Charlie mở cánh cửa ra.
Một cơn rung chuyển như trận động đất lan khắp dinh Cao ủy, rồi cùng với một tiếng nổ đinh tai, một cánh cổng khổng lồ mở ra trước mặt Charlie, lớn hơn bất cứ cổng nào mà nó từng nhìn thấy. Cánh cổng ấy lớn cỡ bằng một tòa nhà hai tầng, xẻ dọc gian phòng từ trên xuống dưới. Những tia lửa tím nhảy múa quanh rìa cổng.
“Ôi không,” ông Pinch thốt lên và thối lui.
“Ôi trời...” ông Rex lẩm bẩm, và cũng làm y như vậy.
Nhìn qua cổng, Charlie có thể thấy một gian phòng thiết triều lớn kinh khủng được tạc từ đá obsidian màu đen lóng lánh; lớn phải đến bằng vài sân bóng đá gộp lại, và hàng trăm con quái vật Âm Ti đang chạy qua chạy lại trong đó, cần mẫn làm các công việc ám muội của chúng. Ở đó có bọn Lưỡi bạc, và cả nhiều loài khác mà Charlie không nhận ra - những con Banshee và những con Vô danh đui mù hư ảo. Lần lượt từng con một, chúng dừng những chuyện đang làm lại và ngó cái cổng khổng lồ vừa mở ra phía trước.
“Đóng lại,” lão giám đốc Drake hốt hoảng. “Đóng cánh cổng lại ngay , thằng nhóc kia. Ngay tức khắc .”
Nhưng Charlie không nghe được lời lão nói. Nó đang mê mụ trố mắt kinh sợ nhìn cái cảnh mà nó vừa tạo ra. Rex phóng đến bên nó và lay thật mạnh.
“Bỏ nó đi, nhóc,” ông nói. “Điều này vượt quá sức chúng ta rồi, tin ta đi.”
Nhưng Charlie không hề để ý tới ông. Nó cảm thấy bản thân mình không còn dính với cơ thể mình nữa, như đã bị tách ra rồi vậy. Ông Rex, Tabitha, và Dinh Cao ủy dường như tồn tại ở một thế giới khác, ở xa lắm, một nơi nó hầu như không trông thấy. Rồi bất ngờ, với một tiếng hét đinh tai, lũ quái vật Âm Ti lao về phía cánh cổng để ngỏ, vuốt chộp tứ tung, mõm há rộng hoác.
“Ngươi!” Drake quay sang Tabitha và thét lên. “Đóng cổng lại! Đóng lại ngay đi !”
Tabitha tức thì dang tay phải ra, nhắm mắt lại, trong lúc đó Rex cũng rút sợi thòng lọng khỏi thắt lưng rồi đến bên cạnh cô. “Cố lên, em yêu,” ông nói. “Anh sẽ cố cầm chân chúng lâu hết mức có thể.”
Ánh lửa màu tím lách tách trên thân mình Tabitha, cô nhíu mày hết sức tập trung. Mồ hôi đọng thành giọt trên trán và hơi thở cô dồn dập. Cô chợt rùng mình.
“Tôi không thể,” cuối cùng cô nói và mở mắt ra. “Cổng chắc quá.”
“Vậy thì lùi lại đi,” ông Rex nói và đẩy cô ra sau lưng mình. Sợi thòng lọng của ông rực ánh lửa điện xanh, mỗi lúc một mạnh hơn, trong lúc hàng trăm con quái vật Âm Ti tiến lại gần.
Bỗng nhiên, ngay khi con đầu tiên của lũ quái vật Âm Ti - một con giống nhện - nhảy nhót về phía cánh cổng đang mở thì một tiếng gầm làm nhũn cả xương cốt phát ra từ một nơi sâu thẳm bên trong căn phòng có chiếc ngai ngự trị. Tiếng gầm lớn đến mức ngay cả sau khi đã dứt rồi, toàn bộ gian phòng vẫn còn rung chuyển vì tiếng dội thật lâu của nó. Bọn quái vật Âm Ti đang ùn ùn tiến lên chợt dừng phắt cả lại, sau đó chạy biến ra xa khỏi cổng, mất dạng trong những góc tối tăm của cung điện.
Những bước chân thình thịch, mỗi bước vang lên như tiếng gầm của đại bác, càng lúc càng gần hơn, và cuối cùng, từ đầu kia của gian phòng thiết triều, một quái vật có sừng, cao bằng ngôi nhà ba tầng xuất hiện. Người nó vạm vỡ gân guốc, hai con mắt màu cam rực sáng như than hồng, và hai cánh tay khổng lồ tận cùng có móng vuốt cong vút. Da nó màu xanh, sẫm và sâu thẳm như biển cả. Nó có đôi chân dềnh dàng, nhưng thay vào chỗ hai bàn chân là những chiếc móng guốc nẹt lửa khi nó dậm lên nền đá vỏ chai.
“Barakkas,” ông Pinch thốt lên.
“Mau triệu ngay các Pháp sư Khai cổng lại,” giám đốc Drake nói, gương mặt lão giờ đây tái mét. “Báo với họ là một trong các Named sắp thoát khỏi Âm Ti...”
CHƯƠNG SÁU - BARAKKAS – KẺ PHẪN NỘ
Barakkas chầm chậm bước về phía Charlie, những tia lửa tóe ra từ móng guốc của gã. “Kẻ nào dám tự tiện đến cung điện của ta?” Gã gầm gừ. “Nói nghe xem, nhóc con. Nói.”
“Charlie,” mãi Charlie mới thốt nên lời. “Tôi là Charlie Benjamin.”
“Charlie Benjamin,” Barakkas lặp lại. Tiếng của gã ầm rung cả cung điện đồ sộ. Mặc dù Barakkas vẫn còn ở tận đằng xa, nhưng âm thanh dội lại từ những bức tường đen làm Charlie tưởng như gã quái vật khổng lồ ấy đã ở sát bên cạnh mình. “Trước đến nay chỉ duy nhất một lần có một con người xâm nhập được vào Vòng Trong.”
“Tôi không định làm thế,” Charlie nói.
“Thế mà ngươi vẫn làm được,” Barakkas đáp. “Ngươi hẳn phải mạnh lắm.”
“Có lẽ thế ạ,” Charlie nói.
“Và rất dũng cảm nữa,” Barakkas tiến đến gần hơn. Bây giờ gã chỉ còn cách cổng một đoạn dài khoảng hai sân bóng. “Tôi chưa bao giờ nghĩ mình như thế cả.”
“Còn ai khác nữa dũng cảm hơn thằng nhóc dám đối mặt với ta đây? Chúng ta có nhiều điều để nói với nhau đấy, Charlie ạ, ngươi và ta.”
Khi Barakkas nói chuyện với Charlie thì trong dinh Cao ủy của Phân viện Ác mộng náo động hẳn lên. Các pháp sư Khai cổng ùa vào phòng và lặng người đi, sững sờ khi nhìn thấy một cái cổng khổng lồ, và bên kia cổng là một con Named quái vật.
“Nhìn gì nữa, đóng cổng lại đi, lũ ngu!” giám đốc Drake thét lên.
Sau phút sững sờ ban đầu, các pháp sư đã lấy lại bình tĩnh và bắt tay hành động; họ cố đóng sập cổng lại. Có cả thảy mười lăm người, cả đàn ông lẫn phụ nữ, nhưng sự hiệp lực của họ dường như cũng chẳng ăn thua gì hơn nỗ lực của một mình Tabitha.
“Cố nữa đi!” giám đốc Drake lại thét lên. “Barakkas đang lại gần cổng hơn rồi đó!”
Ánh lửa tím chạy thành hình vòng cung truyền từ người pháp sư này sang người pháp sư khác khi họ cố gắng đóng cánh cổng lại trong vô vọng. Tabitha cũng tham gia cùng họ, đôi mắt cô sáng rực quyết tâm, nhưng chẳng bao lâu sau cô nhận ra rằng sức mạnh của cả mười sáu pháp sư trưởng thành được đào tạo bài bản chẳng thấm vào đâu so với sức mạnh của một đứa nhóc còm nhom nhỏ xíu đang như bị thôi miên trước mặt họ .
“Ngươi muốn nói chuyện gì?” Charlie hỏi khi Barakkas tiếp tục lừ lừ tiến tới.
“Về tương lai của ngươi,” Barakkas trả lời với một nụ cười làm lộ ra đám răng nhọn hoắt. “Ta có nhiều kế hoạch tuyệt vời cho cả hai ta sau khi đi qua cánh cổng này. Ta cần một đứa học việc khỏe mạnh và tháo vát, một đứa mạnh mẽ và dũng cảm. Một đứa như ngươi. Cùng nhau, hai ta sẽ hủy diệt những kẻ đã hành hạ chúng ta.”
Trong khi Barakkas nói, ông Rex rón rén đến gần Charlie và thì thầm vào tai nó. “Này nhóc, ta biết trong thâm tâm chú mày vẫn nghe được những gì ta đang nói. Chú mày đang nói chuyện với Barakkas, kẻ Phẫn nộ đó. Bây giờ gã có vẻ bình thản và biết điều, nhưng tin ta đi, tính khí xấu xa của gã đã thành huyền thoại rồi, chú mày sẽ không bao giờ biết được điều gì sẽ làm gã sôi máu lên đâu. Gã sẽ giết chú mày ngay khi nhìn vào chú mày, và khi gã bước qua cổng thì Thần Chết cũng nối gót ngay sau gã đấy, chú mày có hiểu không? Đóng cổng lại đi, con trai. Chú mày là kẻ duy nhất làm được việc này.”
Đâu đó sâu thẳm trong tâm trí của Charlie, nó có nghe thấy Rex nói thật. Dường như Rex muốn nó làm điều gì đó, nhưng Charlie không biết chính xác là gì. Điều gì đó về tính khí xấu xa... và một cái cổng...
“Đừng nghe lời hắn, Charlie,” Barakkas nói, giờ gã chỉ còn cách cánh cổng đang mở khoảng một trăm mét. “Hắn ghen tỵ đó. Hắn biết ngươi mạnh hơn hắn ra sao, và hắn thèm muốn sức mạnh đó. Hắn không muốn chúng ta đi cùng nhau vì hắn biết khi đó hắn sẽ trở thành đồ bỏ đi. Hắn là thứ bạn bè giả dối.”
“Bạn bè giả dối,” Charlie lặp lại.
“Chú mày thừa biết điều đó là không đúng mà,” ông Rex nói. “Ta đã từng nói là sẽ bảo vệ cho chú mày, bất kể có chuyện gì xảy ra, và bây giờ ta sẽ lại nói lại điều đó. Ta hứa. Hãy đóng cánh cổng đó lại đi, nhóc ơi. Đóng ngay bây giờ đi .”
Một số pháp sư đã quỵ xuống vì kiệt sức; sự căng thẳng vì cố sức đóng lại cánh cổng do thằng bé mở ra đã vượt quá sức chịu đựng của họ.
“Gần đến rồi,” Barakkas nói với giọng vỗ về, giờ gã chỉ còn cách cánh cổng có vài thước. “Hãy dũng cảm và mạnh mẽ lên. Giữ cổng mở thêm một tích tắc nữa thôi.”
Barakkas cúi xuống chuẩn bị chen tấm thân khổng lồ của gã qua cổng. Gã dùng cánh tay phải mở lối, những móng vuốt siết lại thành một nắm đấm. Một nắm đấm to bằng cỡ một chiếc xe hơi. Quanh cổ tay gã, Charlie thấy một chiếc vòng kim loại khổng lồ đen tuyền lấp lánh. Có những khuôn mặt chạm trổ rất tinh vi trên đó - Charlie nhận ra một trong những khuôn mặt đó chính là của Barakkas.
“Ta chỉ muốn chú mày biết rằng, đây không phải là lỗi của chú mày,” ông Rex nói khi cái nắm tay khổng lồ kia đã thò ra ngoài cổng, làm cả bọn ở ngoài trở thành như tí hon. Những vệt đỏ phát ra từ những hình chạm khắc trên chiếc vòng nơi cổ tay Barakkas nhấp nháy quét qua mặt Charlie. “Chú mày là một đứa bé ngoan, Charlie ạ. Dù có chuyện gì xảy ra, ta cũng chỉ muốn chú mày biết điều đó.”
Ngay lúc đó Charlie quay sang Rex. Nó nói như thể mới gặp ông lần đầu. “Chú muốn cháu làm điều gì ấy nhỉ?” “Đóng cổng lại, nhóc ạ,” ông Rex nói với một nụ cười dịu dàng.
“Được ạ,” Charlie đáp, và ngay lập tức, cánh cổng đóng lại sầm một tiếng như sấm động, tiện lìa cánh tay phải của Barakkas. Cánh tay rớt thịch xuống đất bằng lực của một quả đạn trái phá, những ngón tay co giật loạn xạ, chiếc vòng to tướng ở cổ tay bắn tung tóe muôn ngàn tia sáng đỏ sậm đủ các hướng. Từ đâu đó thật xa, ầm ầm vang dội khắp mọi phương, Charlie có thể nghe tiếng rú của Barakkas.
Rồi cuối cùng, đến cả âm thanh ấy cũng tan đi.
Ông Rex ôm chặt Charlie trong khi các pháp sư lồm cồm đứng dậy, ngó Charlie trừng trừng, như thể nó sẽ nhào tới bất cứ lúc nào, tấn công họ như một con chó dại. “Cháu không định làm thế,” nó nói, trước những khuôn mặt vừa tức giận vừa sợ hãi kia. “Cháu chỉ vô tình thôi.”
“Không sao đâu, nhóc con,” ông Rex an ủi nó. “Bây giờ mọi thứ ổn rồi.”
“Mọi thứ chắc chắn là không ổn,” lão giám đốc Drake đến lúc này đã tìm lại được giọng nói của mình. “Hoàn toàn ngược lại với ổn. Thằng bé này suýt chút nữa đã khai cổng cho một tên Named vào ngay trung tâm của Phân viện Ác mộng. Đây chính là những gì ta lo ngại. Nó có thể đã tiêu diệt tất cả chúng ta!”
“Chính ông đã bắt thằng bé mở cổng kia mà,” Tabitha nói trong khi Rex kéo cô đứng lên. “Trong khi tôi đã bảo ông là nó chưa sẵn sàng.”
“Ồ, thế ra tất cả là lỗi ở ta phải không?” Lão giám đốc Drake nhếch mép, đoạn quay sang các pháp sư. “Đưa thằng nhỏ này đến Phòng Rút ngay lập tức. Ta muốn nó bị Rút đến mức không còn khả năng khai cổng nổi cho cả một con Sprite Hạng 1. Ta muốn nó thành đần độn như một cái que !”
“Chú Rex ơi?” Charlie hoảng sợ.
“Đừng có lo, nhóc,” ông Rex nói và rút thòng lọng ra. Với một tiếng chát rợn người, sợi dây roi vụt ngang qua phòng, thít ngay lấy cổ lão giám đốc.
“Ngươi đang làm cái quái gì vậy?” ông Pinch kinh hãi ré lên.
“Không thể để thằng bé bị Rút được. Ta đã hứa với nó rồi.”
“Thả ta ra,” giám đốc Drake hớp hớp, mặt lão đỏ bừng lên, “hoặc ta sẽ cho Rút ngươi luôn.”
“Chúc may mắn với việc đó.”
“Thả ông ấy ra,” ông Pinch van vỉ. “Thế này chỉ dẫn đến thảm họa mà thôi.”
“Tốt hơn là ông nên quyết định nhanh nhanh lên, ông Drake ạ,” ông Rex nói. “Mặt ông bắt đầu trông như quả mận rồi đấy.” Vừa lúc đó, từ phía cuối phòng, một giọng phụ nữ cất lên. “Lại giở trò cũ ra nữa hả, Rex?”
Charlie quay lại thì thấy một phụ nữ cao ráo, dáng quý phái đang đứng đó. Bà có đôi mắt xanh sáng lấp lánh, vô tình tương phản với làn da màu sô-cô-la sẫm. Chiếc váy bà đang mặc lả lơi tha thướt, lại đầy màu sắc sặc sỡ - màu vàng của bơ, màu cam của mặt trời hoàng hôn, xen lẫn với màu đỏ nồng nhiệt, ấm áp. Chiếc váy đem lại một cảm giác của miền Jamaica nhiệt đới, hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với khung cảnh khắc khổ của Phân viện Ác mộng này.
“Tình hình thế nào rồi, hiệu trưởng?” ông Rex nói.
“Nhìn thì thấy coi bộ ta khỏe hơn cậu rồi,” bà nói. “Không tránh khỏi phiền phức được sao Rex?”
“Thì cố tật của em mà. Em vẫn đang hy vọng bỏ được nó đây.”
“Mong là cậu không phiền, chứ ta không dám nín thở mà chờ mong chuyện ấy đâu,” bà mỉm cười. “Nhân tiện nhắc đến chuyện nín thở, cậu nên thả ông giám đốc ra đi, kẻo ông ta chết ngạt bây giờ.”
“Nhưng...”
“Đừng lo về thằng bé,” bà xua tay ngăn lại. “Ta sẽ tìm được cách giải quyết mà.”
Ông Rex ra chiều nghĩ ngợi. Rồi giật nhẹ cổ tay một cái rất thiện nghệ, ông tháo dây thòng lọng khỏi cổ lão giám đốc. Drake hớp lấy hớp để không khí, cái màu thâm tím trên mặt lão tan dần.
Người phụ nữ cao cao liếc nhìn cánh tay bị tiện đứt của Barakkas, rồi quay sang Charlie. “Trông như có đứa vừa gây ra chuyện không nên nhé,” bà nói, mắt thoáng long lanh. “Ta là hiệu trưởng Brazenhope.”
“Và em là...”
“Charlie Benjamin. Ừ, ta biết. Thi thoảng ta cũng có để mắt đến cậu.”
“Bà có biết...” giám đốc Drake cuối cùng cũng lấy lại được hơi thở để ráng nói thành lời, “cái thằng quỷ nhỏ này đã làm gì không?”
“Tất nhiên là biết chứ sao không,” hiệu trưởng trả lời. “Chứ ta còn đến đây làm gì nữa chứ? Đến thăm ngươi chắc?” Bà nhăn mặt khinh bỉ. “Ngay khi cảm thấy có chuyện náo động ở Âm Ti là ta mở cổng đến ngay.”
“Ông ta muốn Rút thằng bé đấy, thưa hiệu trưởng,” Tabitha nói.
“Ô, cũng chẳng có gì bất ngờ. Ồ, ta không hề nghi ngờ điều đó. Ông ta, rốt cuộc, cũng là một kẻ quan liêu - nhà vô địch môn giậm chân tại chỗ, bảo kê cho sự tầm thường và trần tục. Ông ta coi khinh những kẻ có Khả năng vì bản thân ông ta làm gì có cái đó. Chẳng may, đây lại là một thái độ quá sức phổ biến ở hạng người như ngài ta đây mà.”
“Tha cho ta mấy bài tâm lý trẻ con đấy đi, bà trưởng,” giám đốc Drake nói.
“Xin ngài gọi là hiệu trưởng ,” bà đốp ngay. “Đây là một chức danh, cũng như tiến sĩ vậy thôi.”
“Hôm nay tất cả chúng ta đều hơi bị nhạy cảm đấy nhỉ, đúng không bà?”
“Đây có phải là lời của một người không chịu được để người ta gọi bằng ‘ngài’, vì nó gợi cho gã nhớ đến những ngày chạy bàn ở nhà hàng Tôm Hùm Đỏ đó không?”
“ Đủ rồi!” lão Drake gầm lên, mặt đỏ ửng. “Thằng bé này sẽ bị Rút vì nó là mối đe dọa nghiêm trọng.”
“Reginald ơi, muôn đời ông vẫn thế, không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để hủy hoại những gì mà ông không với tới được. Ta thà để ông đốt tranh nàng Mona Lisa và san bằng Kim tự tháp Ai Cập còn hơn là để cho ông chạm đến một phân tử trong bộ não phi thường của đứa bé này.”
“Ta đã quyết.”
“Và ta cũng đã quyết,” hiệu trưởng đáp. “Thằng bé này sẽ cùng ta về Học viện Ác mộng. Nó sẽ được dạy dỗ ở đó.”
“Ta cấm,” giám đốc Drake đứng dậy và đi về phía bà hiệu trưởng. “Đừng có làm chuyện này phức tạp thêm, bà Brazenhope. Ta cấp cao hơn bà, bà cũng biết là như vậy.” Lão quay sang các pháp sư đang tụ tập xung quanh. “Đưa ngay thằng này về Phòng Rút.”
Các pháp sư nhìn nhau hoang mang, không biết phải phản ứng ra sao.
“Coogan,” hiệu trưởng quay sang một người trong đám pháp sư - một người cao lớn có mái tóc đỏ màu xe cứu hỏa. “Coogan, cậu tuân lệnh giám đốc mới... hay hiệu trưởng cũ của cậu? Đến lúc cậu phải lựa chọn rồi đấy, ta e là thế.”
Vị pháp sư này hết nhìn lão giám đốc đang tức tối van nài lại nhìn sang bà hiệu trưởng điềm đạm, đĩnh đạc. “Xin lỗi ông giám đốc,” cuối cùng anh nói. “Tôi biết mình là thuộc cấp của ông... nhưng tôi chịu ơn hiệu trưởng mọi bề.”
Coogan bỏ ra khỏi phòng.
“Susan? Grant? Ryder?” bà hiệu trưởng gọi hết pháp sư này đến pháp sư khác. Từng người một, không nói lời nào, đều bỏ đi. Chẳng mấy chốc, chỉ còn lại Tabitha trong phòng.
“Cô biết em đứng về phe nào rồi mà, thưa hiệu trưởng,” cô nói.
Bà hiệu trưởng quay sang lão Drake. “Có vẻ như ngươi là tướng mà không có quân rồi, Reginald ạ. Tất nhiên, đây là cái giá phải trả khi cố tạo ra lòng sợ hãi thay vì niềm tôn kính nơi cấp dưới của mình. Giám đốc Goodnight luôn hiểu điều đó.”
“Goodnight chết rồi.”
“Đúng vậy,” hiệu trưởng nói. “Và một ngày nào đó rồi cũng sẽ đến lượt ngươi thôi. Làm gì có gì là vĩnh cửu, Reginald à - kể cả cái chức giám đốc của ngươi ấy. Cuối cùng rồi ngươi cũng sẽ ra đi và Phân viện này sẽ phục hồi lại như thời huy hoàng xa xưa. Ta dự tính ở đây để chứng kiến điều đó xảy ra.” Bà găm vào lão một cái nhìn miệt thị. “Chú bé này sẽ đi với ta.”
Lão Drake điên lên. Hai đường gân đập dồn tức tối trên trán. “Cứ đưa nó đi đi,” cuối cùng lão nói, “nhưng một mình bà sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả đấy.”
“Ta chưa bao giờ đổ lỗi cho người khác.”
“Rồi bà sẽ hối tiếc về chuyện này cho coi,” Drake nói. “Cho dù bà có thể lập lờ tuyên bố là có quyền đối với lũ ranh con còn tuổi đi học, nhưng các pháp sư và Chiến binh Trừ Tà được đào tạo rõ ràng đều dưới quyền của ta . Thế nên, kể từ ngay khoảnh khắc này, hai kẻ kia...” lão chỉ về Rex và Tabitha, “đã bị tước bỏ nhiệm vụ.”
“Cái gì?” Tabitha kêu lên.
“Vậy là không công bằng,” ông Rex chất vấn. “Chuyện này đâu phải lỗi của chúng tôi. Hiệu trưởng?”
“Đừng có nhìn ta cầu cứu,” bà nói. “Ta đồng ý với ông giám đốc.”
“Cô đùa!” ông Rex hoảng hồn.
“Ồ, ta vô cùng nghiêm túc đấy chứ. Nếu các ngươi không rời nhiệm vụ hiện tại thì làm sao có thể rảnh rỗi mà đến Học viện để dạy đây?”
“Dạy?” ông Rex kêu lên. “Em là một nhân viên thừa hành chứ có dạy gì đâu chứ?”
“Thì bắt đầu từ bây giờ,” hiệu trưởng nói. “Cả hai. Và cả ông nữa, Pinch.”
“Cả tôi?” ông Pinch rên rỉ. “Tôi đã làm gì chứ?”
“Không làm gì cả,” hiệu trưởng ngắt lời. “Và đó là vấn đề của ông.” Nhẹ nhàng vẫy tay một cái, bà mở ra một cánh cổng. Charlie sững sờ khi thấy bà mở cổng nhanh và dễ dàng biết bao - thật vô cùng ngược hẳn với thời gian và nỗ lực mà Tabitha cần đến. “Đi thôi,” bà nói. “Học viện Ác Mộng đang đợi chúng ta đấy.”
Vài giây sau, sau một chặng dừng ngắn ở Âm Ti, nhóm năm người kỳ lạ này bước qua một cổng khác dẫn vào một gian buồng nhỏ bên trong Học viện Ác mộng. Tường và sàn làm bằng ván gỗ tếch lâu năm lên nước bóng loáng, phản chiếu ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu đặt trên một cái rương lớn cũ tróc sơn loang lỗ. Cạnh đèn là một ly sữa nóng, và gần đó nữa là một chiếc võng móc từ bên tường này qua tường kia. Võng may bằng vải cũ sặc sỡ - chủ yếu là màu đỏ và màu hổ phách - đu đưa nhẹ nhàng trong cơn gió nhiệt đới thổi qua một ô cửa sổ tròn nhỏ. Một ít ánh trăng cũng len lỏi được vào phòng.
“Đây là phòng cậu, cậu Benjamin,” bà hiệu trưởng nói với Charlie. “Tối nay cậu sẽ ngủ ở đây. Đến mai chúng ta sẽ bắt đầu việc học hành của cậu. Những người còn lại đi cùng ta. Chúng ta còn nhiều chuyện để thảo luận với nhau.”
Bà mở cửa và đưa ba người lớn ra ngoài.
“Thưa cô hiệu trưởng,” Charlie nói. “Liệu em có...”
“Mơ thấy ác mộng đêm nay?”
“Vâng...”
Bà mỉm cười ấm áp. “Không đâu. Cậu đã vất vả cả ngày rồi. Đêm nay cậu sẽ có một giấc ngủ ngon với những giấc mơ dễ chịu. Uống một chút sữa rồi ngủ đi, cậu Benjamin.”
Rồi bà đi ra.
Charlie nhìn qua ô cửa sổ tròn nhỏ, cố hình dung xem Học viện Ác mộng thực ra là ở đâu , nhưng không gian tối đen bên ngoài chỉ hé ra một chòm sao lấp lánh trên bầu trời đêm như tấm kính trang trí. Chỉ lát sau, cơn mệt lử của lúc ban ngày đã phủ chụp xuống nó như một tấm chăn nặng trịch. Nó uống một ngụm sữa, trườn vào cái võng mềm mại đón mời và cảm nhận được một điều mà trước đây nó chưa từng bao giờ thấy.
Nó thấy mình như vừa về lại chốn cũ .
Chẳng bao lâu sau, ngọn gió nhiệt đới ấm áp đã nhẹ nhàng ru nó thiếp đi . Nó nghe thấy đâu đó có tiếng sóng vỗ.
Ở một nơi khác trong Học viện Ác mộng, những người lớn ngồi trong phòng làm việc của bà hiệu trưởng. Căn phòng ám khói, tù mù, có những cầu thang và những lối đi hẹp dẫn đến vô số những bục bệ và những chiếu nghỉ mờ sương bên trên. Ở đây giống hệt như trong lòng một con tàu, trong khi Phân viện Ác mộng trống trải và ngăn nắp bao nhiêu thì nơi này lại ngổn ngang và bừa bộn bấy nhiêu.
“Thằng bé này đã chuốc oán với một kẻ thù cực kinh khủng,” bà hiệu trưởng nhấm nháp một chút nước màu đỏ sậm đến gần như đen trong một chiếc ly pha lê. “Barakkas sẽ khó mà quên được kẻ đã lấy đi cánh tay của gã.”
“Đáng kiếp gã,” ông Rex lẩm bẩm.
“Đúng,” hiệu trưởng đồng ý. “Nhưng gã sẽ săn lùng thằng bé để trút hận.”
“Nhưng gã đâu thể nào qua khỏi cánh cổng ấy được,” Tabitha cả quyết. “Chỉ có cô và Charlie là đủ sức mở cổng vào Vòng Trong, mà cô thì đương nhiên không làm thế rồi.”
“Ta thì không,” hiệu trưởng đáp, “nhưng còn thằng bé... khó lòng biết trước .”
“Cô nói chí phải,” ông Pinch lầm bầm.
“Ông còn muốn nói thêm điều gì phải không, Pinch?” bà hiệu trưởng quay sang. “Nói đi.”
Pinch thu hết can đảm. “Chuyện này là một sai lầm. Đứa nhỏ đó nên bị Rút phép. Vì lợi ích của tất cả chúng ta.” “Ta ngạc nhiên khi chính ngươi, chứ không phải ai khác, lại tán thành việc ấy đấy.”
“Tôi chỉ thực tế thôi. Cô đã thấy khả năng của nó! Không Rút phép của nó tức là chúng ta đã đặt mọi người vào tình thế nguy hiểm. Biết đâu được, có thể nó đang mở thêm một cổng khác đến cung điện của Barakkas, ngay khi chúng ta đang nói chuyện ở đây cũng nên.”
“Khó có chuyện đó được,” hiệu trưởng nói. “Trong sữa nó uống có hòa linh dược Ngủ Ngon. Tối nay không có ác mộng nào đâu.” “Cô đã phí phạm linh dược cho nó sao?” ông Pinch hồ nghi. “Cho nó uống vàng ròng còn rẻ hơn đó!”
“Sau tất cả những gì đã phải trải qua, thằng bé xứng đáng có được ít nhất là một đêm yên bình,” hiệu trưởng đáp. Ông Pinch khịt mũi và bất bình quay đi. “Nếu được dạy dỗ đàng hoàng, ta tin nó sẽ học được cách kiểm soát khả năng khai cổng. Nếu thận trọng và thêm một chút may mắn nữa thì ta sẽ giữ được Barakkas ở dưới Âm Ti, tránh xa cậu thiếu niên Benjamin đây - nhưng Barakkas không phải là mối đe dọa duy nhất. Còn có một kẻ khác, một kẻ ở gần hơn.”
“Cô đang nói về Verminion?” ông Rex hỏi.
Bà hiệu trưởng gật đầu. “Tên Named bẩn thỉu đó khi thoát được lên Mặt Đất đã nhanh chóng biến mất tăm. Ta biết, suốt hai mươi năm qua gã đã tập hợp một đội âm binh sổng qua cổng, thu phục chúng về với gã, chỉ có điều lại không biết là ở đâu . Việc gã phái sát thủ đuổi theo thằng bé... hay cũng có thể đích thân gã sẽ đến, là hoàn toàn có thể xảy ra.”
“Điều đó chỉ xảy ra nếu gã biết về Charlie,” ông Rex nói.
“Ồ, gã biết chứ. Gã và tất cả bọn Named hẳn đều đã cảm nhận được một sự xâm nhập sâu đến như vậy vào Vòng Trong. Ngay cả ta còn cảm nhận được nữa là.”
“Đúng, nhưng điều đó không có nghĩa là Verminion sẽ săn đuổi thằng nhóc đã xẻo tay Barakkas,” ông Rex khăng khăng. “Mấy thằng to đầu này chỉ quan tâm duy nhất tới bản thân chúng mà thôi.”
“Đúng là Barakkas và Verminion đều là Named, và không hề có tình cảm đặc biệt cho nhau,” hiệu trưởng nói. “Nhưng Verminion thừa biết rằng bất cứ ai đủ sức làm Barakkas bị thương nghiêm trọng đến vậy thì cũng có thể dùng sức mạnh đó chống lại gã. Sự thật đơn giản là: hiện tại Barakkkas chưa thể tiếp cận được Charlie, nhưng Verminion thì có thể , và gã sẽ sử dụng mọi cách trong khả năng của mình để tiêu diệt thằng bé.”
Bà hiệu trưởng nhấp một ngụm từ ly nước đã đặc sánh lại. Rồi, bà nói, “Tuy nhiên cũng có điểm tích cực là nếu Verminion muốn tìm đến thằng bé thì gã sẽ phải xuất đầu lộ diện. Đó là cơ hội chúng ta đang mong đợi.”
“Cô muốn dùng Charlie làm mồi nhử sao?” ông Rex bật dậy giận dữ.
“Không,” bà phản đối. “Ta không có ý dùng nó làm mồi nhử. Mà nó chính là mồi nhử, dù chúng ta có thích hay không. Chúng ta phải sử dụng điều đó làm lợi thế cho mình.”
Bà ra dấu cho Rex ngồi xuống. Ông miễn cưỡng nghe theo.
“Vậy tất cả chuyện này chỉ dựa trên giả thiết rằng Verminion đã biết chuyện Charlie gây ra cho Barakkas,” Tabitha nói. “Gã biết Charlie mạnh như thế nào, và là mối đe dọa lớn thế nào. Cách duy nhất để gã biết được chuyện là bọn Named có cách liên lạc với nhau. Cô nghĩ chúng có cách liên lạc với nhau chứ?”
“Ta nghĩ là chúng có đấy,” hiệu trưởng nghiêm nghị nói.
Dinh Cao ủy rực đỏ trong quầng sáng của chiếc vòng vẫn còn đeo quanh cổ tay bị tiện đứt của Barakkas. Nhiều công nhân trong bộ áo liền quần màu xanh chuẩn bị nhấc nó lên chiếc cáng có bánh xe đẩy đưa về phòng thí nghiệm để nghiên cứu và phân loại đàng hoàng.
“Đếm đến ba nhé,” trưởng nhóm nói. Ông là một người đàn ông to béo chưa từng từ chối một ổ bánh mì thịt nào trong đời. “Một, hai...” Tất cả đồng thời hì hụi nhấc lên. Sau một hồi vật lộn, họ cũng nâng cánh tay lên được chừng năm bộ. “Trời ơi,” nhóm trưởng quệt mồ hôi trán. “ Nặng phát khiếp.”
“Nặng là do cái vật trên cổ tay nó đó,” một anh công nhân nhận xét. “Cả tấn kim loại ấy chứ. Không hiểu là loại gì.” Nói rồi, anh với tay ra chạm...
Ngay tức khắc, ánh sáng đỏ lóa lên như một tia chớp từ chiếc vòng tỏa ra nuốt lấy anh. Ánh sáng dữ dội đến nỗi làm mù mắt mọi người trong tích tắc. Cuối cùng, khi những điểm sáng chói lọi biến khỏi tầm nhìn thì anh công nhân nọ chỉ là còn là một đống tro trên sàn.
“Chạy,” trưởng nhóm kêu lên và vụt chạy đi.
Những công nhân khác kinh hoàng lao theo, bóng của họ chấp chới lảo đảo trên các bức tường được chiếu lung linh bởi ánh sáng đỏ sẫm của chiếc vòng, cái ánh sáng ấy quét thành muôn ngàn hình ảnh phập phồng, tỏa ánh sáng chói lọi hơn bao giờ hết. Không ai hay rằng, hình ảnh của Barakkas chạm trên đó hình như có hơi biến đổi.
Hình như nó mỉm cười.
PHẦN HAI - HỌC VIỆN ÁC MỘNG
CHƯƠNG BẢY - NHỮNG CHIẾC THUYỀN TRÊN CÂY
Charlie thức giấc, thấy mình đang nhìn chằm chằm vào mặt một phụ nữ to lớn có cái đầu to tròn và hai cái má hồng cũng tròn xoe xoe. Mà thật ra thì, cái gì ở người phụ nữ này cũng tròn cả. Tóc bà búi lại thành một búi xám tròn. Bụng bà vồng lên tròn tròn bên dưới cái váy đầm ren. Thậm chí cả khuỷu tay và đầu gối bà cũng tròn nốt.
“Chào mừng về với thế giới, con sâu ngủ,” bà nói nặng giọng miền Nam.
“Gì ạ?” Charlie đáp, sửng sốt nhìn quanh. Nó vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn.
“Ta là Rose mama,” bà mỉm cười. “Nè, đừng có nghĩ là sáng nào ta cũng sẽ ở đây để phục vụ mọi nhu cầu của con đấy nhé, tại hôm nay là ngày đầu tiên của con nên ta nghĩ cũng nên giúp con hòa nhập vào cái xó nhỏ xíu của chúng ta trong thế giới này, một lần này thôi đấy . Con có đem theo quần áo chứ?”
“Có một ít ạ,” Charlie chỉ cái túi đựng đồ đi chơi qua đêm của mình. Khi cơn ngái ngủ đã qua, nó nhận ra có điều gì đó không ổn. Nó không biết chính xác đó là gì, có tiếng chuông cảnh báo vang lên tít sâu trong đầu nó nhưng nó vẫn chưa xác định được rõ ràng.
“Nè, nếu còn cần gì khác nữa,” mama nói, “như vớ, đồ lót, bất cứ cái gì thì con cứ nói nhe, chắc chắn chúng ta sẽ kiếm được cho con.”
“Cảm ơn bà,” Charlie nói, và thình lình, nó đã biết chính xác cái điều không ổn kia.
Quế.
Bà này có mùi quế.
Tiếng chuông cảnh báo trong đầu đã trở thành một tiếng cồng ngân vang khắp trong sọ nó.
Ôi không, Charlie nghĩ thầm . Chỉ có một mình mình với con quái này. Phải làm sao đây?
Trong khi con quái tự xưng là Rose mama và nói lảm nhảm về chuyện định hướng nghề nghiệp trong vòng một tiếng và chuyện phòng ăn chính xác là nằm ở chỗ nào, thì Charlie nhìn quanh tìm thứ gì đó để làm vũ khí. Cuối cùng ánh mắt nó dừng lại ở một con heo nhỏ bằng gang dùng làm vật chặn cửa.
Con quái tự xưng là Rose mama quay lưng về phía Charlie, lúi húi làm gì đó ở phía sau. Charlie chớp cơ hội phóng ra khỏi võng, lủi qua phòng, đến chỗ con heo. Nó cầm con heo chặn cửa lên và ngạc nhiên nhận thấy cái vật này còn nặng hơn cả nó tưởng. Đầu óc Charlie như chạy đua, cố vạch ra một kế hoạch.
Nó có thể đập cho con quái này một cú vào đầu rồi tẩu thoát. Nhưng nếu nó đập hụt thì sao? Hoặc nếu con quái này mạnh hơn nó thì sao? Hoặc nó có thể vùng chạy khỏi con Rose mama này để cầu cứu ai đó, nhưng rồi nhỡ hành lang bên ngoài lại chỉ dẫn đến một cánh cửa khóa kín thôi thì sao?
“Nào,” con quái quay lại phía Benjamin. Hết thời gian để cân nhắc rồi. Nó phải hành động, thật nhanh. Charlie giơ con heo bằng gang lên cao quá đầu và sẵn sàng đập xuống.
“Ối, chèn đét ơi!” Con Rose mama hét lên và loạng choạng lùi lại. Cái mâm bạc trong tay nó rơi xuống kêu loảng xoảng trên sàn, làm chồng bánh mì nướng và lọ mứt trên đó văng tung tóe.
Khi Charlie chuẩn bị ném con heo bằng gang nặng vào đầu con quái vật kia, chợt bộ não đang căng lên của nó ghi nhận được một chi tiết nhỏ.
Rơi tung tóe khắp sàn kia không chỉ là bánh mì.
Mà là bánh mì quế.
Trong cái tích tắc cuối cùng, ngay trước khi vung tay quăng con heo bằng gang, Charlie đã kịp xoay qua trái. Không nhiều, nhưng cũng vừa đủ. Cái chặn cửa lao sầm vào tường, cách đầu Rose mama chỉ chừng nửa thước.
“Con đang làm cái quỷ gì vậy hả?” bà hét lên và đưa hai tay che mặt. “Chút xíu nữa là lấy mất đầu ta rồi!” “Cháu xin lỗi!” Charlie vội chạy đến đỡ bà lên. “Chỉ là... vì cháu ngửi thấy có mùi quế.”
“Ừ, thì quế ở trong bánh mì đó chứ sao. Giờ bánh nát hết rồi,” bà vừa mắng vừa cài lại mớ tóc hoa râm bị xổ ra thành một búi tròn gọn ghẽ. “Không thích bánh mì nướng thì con cứ nói chứ sao lại làm vậy.”
“Không phải vậy, chỉ tại... quế ấy mà... ngửi thấy mùi quế nên cháu nghĩ bác là...”
“Một con Đội lốt,” bà nói, vẻ mặt đã hiểu chuyện.
Charlie gật đầu.
“Một đứa nhỏ thông minh,” bà cười. Bất ngờ căn phòng bắt đầu lắc lư, đung đưa tới lui theo đường vòng cung.
“Chuyện gì thế ạ?” Charlie nhìn quanh, sợ hãi. Tòa nhà rung chuyển dữ dội đến nỗi nó không biết có phải đang có động đất hay không... nhưng cảm giác thì không giống lắm. So với động đất thì rung chuyển thế này còn nhẹ quá.
“Yên tâm đi, con trai,” bà Rose nói. “Gió thôi mà.”
“ Gió mà làm cả căn phòng rung chuyển sao ạ?”
“Ôi chao,” bà Rose nói nhẹ nhàng. “Con không biết chúng ta đang ở đâu, phải không?”
“Không bác ạ. Khi cháu đến đây thì trời tối rồi và cháu đi ngủ ngay.”
Thế là bà cười. Miệng bà khi cười cũng to cũng tròn vo như chính người bà vậy. “Theo ta,” bà nói. “Có lẽ con sẽ thấy... thú vị.” Còn hơn cả thú vị nữa.
Phải gọi là ngoạn mục mới đúng.
Dựng lên bên trong và chung quanh một cây đa khổng lồ, Học viện Ác mộng là pháo đài cây công phu nhất thế giới. Những bậc thang và lối đi hẹp chạy ngoằn ngoèo xuyên qua những cành cây to, to đến nỗi chỉ riêng mỗi cành ấy thôi đã có thể bị nhầm là cả cây được rồi. Và trên đó lại có những chiếc thuyền buồm khổng lồ nối với nhau bằng những cây cầu cùng những tấm lưới đan phức tạp. Charlie để ý thấy chúng cũng không phải là thuyền nguyên vẹn . Hầu hết chỉ là những mảnh lớn: một cái thân thuyền buồm cũ, một cái đuôi tàu cướp biển, một cái boong tàu chiến xưa, tất cả được đặt trên những cành cây to chắc giống như những mảnh của trò chơi xếp hình vừa khít với nhau một cách hoàn hảo và bất ngờ.
Những lá cờ đủ màu bay phần phật trong gió trong khi nước đổ xuống như thác từ một nơi nào đó trên cao, bắn tung tóe vào những máng xối rồi ngoằn ngoèo chảy vào ra những cabin hay những căn phòng, nuôi dưỡng toàn bộ công trình. Và nuôi dưỡng , Charlie nghĩ, là một từ hoàn toàn chính xác, vì cái Học viện Ác mộng này chẳng khác gì một sinh vật . Cả cái cơ ngơi này được sắp xếp tứ tung hỗn loạn đến mức khó có thể tưởng tượng nổi nó được con người tỉnh táo dựng lên, tuy nhiên rõ ràng là như vậy . Người ta đã góp nhặt lại miếng này miếng kia như mất trí - chỗ này một cái mũi thuyền, chỗ kia một tấm ván, phía trên là một cánh buồm no gió. Giống như một món đồ chơi lắp ráp lộng lẫy nhưng điên khùng, đáng ra không nên ráp như thế, và cũng chẳng ai ráp được như thế. Ấy vậy mà, chẳng hiểu bằng cách nào, lại được - từ cái cột buồm tàu cướp biển ở tít trên cao đến một lô những chiếc xuồng treo lơ lửng ở dưới gốc cột bằng những sợi thừng to.
“Thật không thể tin nổi,” Charlie ngó quanh và toét miệng cười.
“Ta không phản đối gì đâu,” Rose mama đáp. “Ta ở đây lâu quá chừng lâu rồi mà vẫn cứ phải ngạc nhiên nữa là.”
Làn gió nhiệt đới ấm áp lay động tàn lá của những cây cọ rải rác trên bãi biển cát trắng phía trước Học viện. Nước ở ngoài xa trong vắt, đến nỗi Charlie nhìn vào mà tưởng như mình đang nhìn vào một cái bể nuôi. Lũ cá vui đùa nhao qua nhao lại trong rặng san hô xum xuê bên dưới, mặt trời phản chiếu lên lớp vảy của chúng thành đủ sắc cầu vồng.
“Chưa từng thấy đâu đẹp như thế này,” Charlie nói. “Chúng ta đang ở đâu thế ạ?”
“Ở nơi an toàn,” Rose mama đáp. “Lúc này con chỉ cần biết vậy thôi. Đảo tuy rộng và nhiều chỗ còn hoang vu, nhưng Học viện thì đã được bảo vệ an toàn. Đây là nơi chúng ta tránh khỏi bọn quái vật của Âm Ti đó con.” Bà liếc nhìn ra khu rừng âm u ở phía xa xa. “Nhưng phần còn lại của đảo thì không được vậy đâu, con hiểu chứ? Đừng có đi lang thang nghe chưa.”
“Không đâu bác. Ý cháu muốn nói là vâng, bác. Vâng, thưa Rose mama.”
Bà nở một nụ cười ấm áp với Charlie, rồi dẫn nó lên một chiếc xuồng nhỏ treo lơ lửng ở gốc đa. “Giữ cho chắc nghe,” bà nói. “Giờ phải đưa con tới chỗ định hướng nghề.”
Bà đè mạnh một cái đòn bẩy đóng chặt vào thân cây và chiếc xuồng nhỏ bất ngờ được kéo vọt lên cao với tốc độ chóng mặt nhờ một khối đối trọng đang lao xuống. Lá và cành cây quất qua mặt Charlie cho đến khi cái thang máy kỳ lạ nhất thế giới này cuối cùng đột ngột dừng lại.
“Tới tầng trên cùng rồi, ra đi nào,” Rose mama nói.
Bụng Charlie nhộn nhạo khi thấy họ đang ở cao đến thế nào. Phần còn lại của khu rừng trải dài xa tít dưới chân. Nếu có rơi xuống, nó nghĩ, thì cũng phải mất nhiều giây mới đụng tới được ngọn của mấy cái cây còn lại kia.
Nó nhắm mắt, hít vào một hơi cho vững thần kinh rồi bước lên boong tàu cướp biển ở trước mặt. Rất nhiều trẻ con khoảng tuổi nó đang ngồi trên mấy dãy ghế dài bằng gỗ đã mòn nhẵn, đứa nào cũng loay hoa loay hoay không thoải mái chút nào; tất cả đều có vẻ vô cùng lạc lõng.
“Đừng lo,” Rose mama mỉm cười. “Mấy đứa kia cũng chẳng biết chuyện gì sắp xảy ra đâu. Con có đồng minh rồi đó.” “Bác đi sao ạ?” Charlie lo lắng hỏi.
“Dĩ nhiên. Con không cần ta ở đây đâu. Đừng lo, sẽ ổn thôi mà.” Nói xong bà bước qua một xuồng nhỏ khác, ấn cái đòn bẩy rồi rớt khỏi tầm mắt nó.
Bất đắc dĩ, Charlie ngồi xuống một cái ghế dài.
Nó chong chong mắt hướng về phía trước, không nhìn vào mắt ai, cố hết sức tránh gây sự chú ý. Nhưng càng cố thu người trên ghế thì nó càng thấy ánh mắt của ai đó đang chõ vào mình. Nó bứt rứt ngọ nguậy, hy vọng kẻ nào đang giương mắt lên đó sẽ thôi đi, nhưng đôi mắt vô hình kia vẫn xoáy vào nó. Cuối cùng, Charlie quay sang và thấy một thằng bé kỳ lạ lóng ngóng trên chiếc ghế kế bên đang nhìn nó với một nụ cười hoang dại trên môi.
Thằng ấy khá cao so với tuổi, tay chân vừa gầy vừa dài, mấy cái răng cửa to tướng, và mớ tóc đen bù xù. Trông nó cứ như con rối bị đứt dây, và vẫn đang giương mắt nhìn.
“Gì?” Cuối cùng Charlie cất tiếng hỏi.
“Mày là thằng nhóc đó,” thằng lạ mặt nói. “Cái thằng không bình thường đó, phải không?”
“Tao không nghĩ vậy,” Charlie trả lời, ước gì hồi nãy đừng mở miệng.
“Đúng mà. Tao nghe nói tối hôm qua mày suýt chút nữa đã giết hết mọi người ở Phân viện Ác mộng mà.” “Mày đã nghe chuyện đó rồi sao?” Charlie nghi ngờ hỏi.
“Ừ, rồi .” Thằng nhóc nói, và nụ cười ngớ ngẩn của nó lại càng rộng hơn nữa. “Thật ghê gớm. Vô cùng ghê gớm. Siêu hủy diệt. Đẹp, đẹp. Nhân tiện, tên tao là Theodore. Không phải là Ted [1] , mà là Theodore. Họ của tao là Dagget. Không phải Dagger như cái dao găm, mà là Dagget, chữ t ở cuối. Hiểu chưa?”
“Hiểu rồi,” Charlie nói. Thằng kia không đưa tay ra bắt nên nó cũng không chìa tay ra làm gì. “Tao là Charlie,” nó nói. “Charlie Benjamin.”
“Tuyệt vời. Tao chẳng biết ai ở đây cả. Mày là đứa đầu tiên đó. Tao nghĩ bọn mình sẽ thành bạn thân. Mày thấy sao?” “Ừm. Chắc vậy,” Charlie nói. Nó chẳng biết phải nói sao. Trước đây chưa có ai tử tế một cách hung hăng với nó như thế này.
“Tốt rồi,” Theodore tuyên bố. “Vậy là xong được một chuyện. Thế mày nghĩ mày sẽ thành gì, Chiến binh Trừ Tà hay Pháp sư Khai cổng? Tao thì đương nhiên sẽ làm Chiến binh Trừ Tà rồi.”
“Sao mày biết được?” Charlie hỏi.
“Nào, nhìn tao đây này, ” Theodore nói và đứng dậy. “Tao là đàn ông! Tao sinh ra là để chiến đấu!”
Charlie nghĩ, thằng này chẳng giống sinh ra để chiến đấu chút nào. Thật lòng mà nói, trông nó giống như con bù nhìn cần nhồi thêm bông, chứ người nó chẳng thấy thịt đâu, xương xương xẩu xẩu.
“Sự thật là chỉ có đàn ông mới làm Chiến binh Trừ Tà giỏi được thôi,” Theodore nói tiếp. “Nhưng người ta không nói thẳng với mày như vậy đâu. Họ cố giữ cho thế giới này được BĐG - BĐG tức là bình đẳng giới ấy mà - nhưng Chiến binh Trừ Tà là phải đánh nhau, mà đánh nhau thì đã nằm trong ADN của con trai rồi - ADN là từ viết tắt của a-xit đê-ôxi-ribô nu-clê-ic, nghĩa là bộ nhiễm sắc thể ấy. Con gái là gà mái , bọn nó yếu đuối và ủy mị hơn. Nếu mày muốn nói chuyện cổng thì hỏi bọn con gái, còn muốn xua quái vật về lại Âm Ti, thì đó là nghề của tao. NĐO - nghề của đàn ông.”
“ Làm ơn đi, ” một giọng nói cất lên phía sau hai đứa.
Charlie và Theodore quay lại. Một đứa con gái xinh xắn cột tóc đuôi gà cỡ tuổi chúng đang vẽ nguệch ngoạc trong cuốn tập vẽ. Con bé ăn mặc bình thường, quần jeans và áo trắng, có một chút hình thêu màu hồng trên vai và cổ. Con bé để bút xuống và quay qua Theodore. “Sự thật ấy hả, trong Sách Hướng dẫn của Học viện Ác mộng về Âm Ti nói là Chiến binh Trừ Tà là nữ cũng nhiều không kém gì nam đâu nhá. Cả Pháp sư Âm Ti cũng thế.”
“Nói láo,” Theodore cãi. “Không đúng, thổi phồng, hoang tưởng. Xin lỗi nha. Thua rồi đằng ấy ơi.”
“Đây không thua đâu nhé,” con bé bắt đầu tức giận. “Sự thật là sự thật.”
“Cái sự thật đấy ấy hả, thật ra, không phải là sự thật đâu,” Theodore độp lại. “Mấy cái chuyện bằng với chả không bằng đó người ta nói sao mà chả được, thế nên là rất đáng ngờ và không đáng tin chút nào.”
“Cậu có biết cậu đang nói cái gì không đó?” con bé hỏi.
“Cậu không muốn cãi nhau với tôi đâu, cô nương ạ,” Theodore thách thức. “Tôi sẽ ăn linh hồn cậu rồi phì ra. Tôi sẽ tiêu diệt cậu hoàn toàn.”
“Ối, sợ quá đi,” con bé kia cười.
“Chỉ đối đáp được có vậy thôi sao!” Theodore nói. “Tất cả kho vũ khí ngôn từ của cậu chỉ có vậy thôi đó hả? Cá là cậu chẳng biết được đến một phần ba số từ mà tôi biết.”
“Trước giờ có ai thật lòng thích cậu không vậy?”
“Dĩ nhiên là có,” Theodore nạt. “Charlie thích tôi. Cậu ấy là bạn thân của tôi.” Nó quay sang Charlie. “Đúng không?”
“Ừm,” Charlie nói. “Thôi nào, bọn mình đều mới gặp nhau cả, tớ nghĩ cả ba đứa mình đều có thể là bạn nhau mà. Tớ là Charlie.” Nó chìa tay cho con bé. Con bé bắt tay nó.
“Rất vui được gặp cậu, Charlie. Tớ là Violet.”
“Tớ thấy cậu thích vẽ nhỉ,” Charlie chỉ cuốn vở.
Violet gật đầu. Chùm tóc đuôi gà của con bé nhún nhảy tinh nghịch. “Giờ tớ đang mê vẽ rồng.”
Charlie nhìn kỹ hơn, nó thấy một phác họa chi tiết tuyệt vời hình một con rồng có cái đuôi dài quấn quanh một đống châu báu. “Tuyệt thật,” nó nói. “Ước gì tớ cũng vẽ được như cậu.”
“Cậu học được mà,” Violet đáp. “Chỉ cần luyện tập nhiều thôi. Tớ đã dành rất nhiều thời gian để học từ những người vĩ đại, như là Maitz, Whelan, Hickman, Targete.”
“Ai cơ?” Theodore hỏi.
“Ồ, cuối cùng thì cũng tìm ra mấy thứ mà cậu mù tịt rồi. Don Maitz, Michael Whelan, Stephen Hickman, J.P.Targete, là những nhân vật vĩ đại trong lĩnh vực nghệ thuật kỳ ảo mà tớ lỡ mê.”
“Hay thật,” Theodore nói, “tất cả đều là đàn ông .”
“Đừng có bắt tớ phải kể về Rowena Morrill và Janny Wurts. Cậu sẽ phải chạy về nhà mà khóc bây giờ đấy.” “Ố, giờ thì tôi sợ rồi đây.”
Và đúng lúc đó, cả bọn nghe một tiếng bốp nho nhỏ.
Chúng quay lại thì thấy một cái cổng mở ra ở phía đuôi tàu. Hiệu trưởng bước qua cổng. Ánh nắng giữa trưa rực rỡ làm chiếc váy nhiệt đới sáng rỡ lên tương phản với làn da ngăm đẹp của bà. Bà phất nhẹ tay một cái và cánh cổng biến mất.
“Xin chào,” bà nói. “Ta là hiệu trưởng Brazenhope.”
“Không đời nào!” Theodore buột miệng kinh ngạc. “Hiệu trưởng là gà!”
Không nói một lời, hiệu trưởng vẫy tay và một cánh cổng mở ra trên boong tàu dưới chân Theodore. Nó rơi xuống Âm Ti không một tiếng động. Một cái vẫy tay nữa, cánh cổng đóng lại phía sau nó.
“Còn ai có ý kiến nữa không?” hiệu trưởng hỏi.
Tất thảy đều lắc đầu quầy quậy.
“Tốt. Hoan nghênh ngày đầu tiên của các cô cậu ở Học viện Ác mộng. Như các cô cậu đã thấy, đây là một nơi vô cùng khác thường, nhưng theo ta, lại là nơi hoàn toàn thích hợp. Ta luôn cảm thấy rằng nghề nghiệp bí mật và nguy hiểm sẽ được truyền thụ tốt nhất ở trong một môi trường tươi vui, mà hòn đảo này đúng thật là một nơi rất tươi vui. Các cô cậu đồng ý chứ?”
Các học sinh nhanh nhảu gật đầu.
“Nào, các cô cậu có thể vẫn còn đang tự hỏi tại sao chúng ta lại chọn dạy dỗ cho các cô cậu ở một môi trường khác thường thế này - những con thuyền hoang phế trên cây, những thang máy bằng xuồng cứu sinh, cộng với cả triệu lẻ một xó xỉnh và ngóc ngách kỳ quái mà các cô cậu vẫn còn chưa khám phá. Có hai lý do. Lý do thứ nhất, ta sẽ nói ngay bây giờ. Lý do thứ hai thì tự các cô cậu sẽ khám phá ra khi đã hiểu nơi này hơn.” Bà vừa bước đi quanh các học sinh vừa nói tiếp. “Học viện Ác mộng kỳ quái và khác thường, bởi vì chính sự kỳ quái và khác thường là những thứ kích thích trí óc. Không có gì độc hại cho trí tưởng tượng bằng sự đơn điệu và sáo mòn, mà chính óc tưởng tượng, trên tất thảy mọi thứ khác, là cái chúng ta kiếm tìm để nuôi dưỡng ở đây. Tại sao thế?”
Không có vẻ gì là hiệu trưởng đang đặt câu hỏi cả nên không ai dám trả lời, thế lại tốt, vì bà nói tiếp ngay mà không đợi ai đáp.
“Trí tưởng tượng cho phép chúng ta làm công việc của mình , thưa các cô các cậu, vì chính trí tưởng tượng cho phép chúng ta tiếp cận được với Khả năng . Không may, nhiều người trong số các cô cậu đây, ít nhất là một phần ba, sẽ mất đi cái sức mạnh đó trong thời gian ở đây. Sức mạnh đó sẽ hao mòn và phân rã; nó sẽ khô héo và tàn lụi. Điều này xảy ra với hầu hết mọi người khi đến tuổi, và chắc chắn là, tiếc thay, cũng sẽ xảy ra với một số các cô cậu ở đây. Nếu điều đó xảy ra, các cô cậu sẽ không còn tiếp cận được với Khả năng, cũng như không còn có thể sử dụng nó để bảo vệ con người khỏi các quái vật của Âm Ti nữa.”
Hiệu trưởng vỗ tay để nhấn mạnh. Đám học sinh nhảy nhổm cả lên.
“Tuy nhiên,” bà tiếp tục, “mất đi Khả năng không có nghĩa là các cô cậu sẽ không còn giá trị cho sự nghiệp của chúng ta. Sự học hành của các cô cậu vẫn sẽ được dùng đến. Các cô cậu sẽ trở thành Trợ thủ và sẽ giúp đỡ các chiến hữu có Khả năng của mình khi họ đang nỗ lực làm nhiệm vụ. Nhiệm vụ đó không hề dễ dàng đâu. Các cô cậu sẽ phải tổ chức các nhiệm vụ và đóng vai trò liên lạc giữa Phân viện Ác mộng với các đặc vụ đang hoạt động. Và trên hết, các cô cậu sẽ cung cấp một tiếng nói tỉnh táo và khách quan trong lúc lũ quái vật tiến lại, còn các Chiến binh Trừ Tà và Pháp sư Khai cổng đồng đội của các cô cậu thì bận rộn với nhiệm vụ của họ. Ở đây ai cũng quan trọng cả. Ở đây ai cũng thiết yếu cả.”
Đột nhiên, Charlie nhớ ra Pinch từng nói ông là một Trợ thủ. Cho dù hiệu trưởng có vẻ xem Trợ thủ bình đẳng với các thành viên khác của nhóm, nhưng Charlie tự hỏi không hiểu có khó khăn lắm không khi có được Khả năng rồi mà lại đánh mất nó đi. Điều đó dường như giải thích được rất nhiều về thái độ chua chát của Pinch và tại sao ông lại tán thành việc Rút khả năng của các học sinh triển vọng đến vậy - suy cho cùng, nếu Pinch không còn cách nào tiếp cận được Khả năng nữa thì tại sao kẻ khác lại tiếp cận được chứ?
“Các cô cậu hiện tại được gọi là Noob. Đó có nghĩa là ‘ma mới’. Sau khi rèn luyện một thời gian, các cô cậu sẽ lên cấp Addy, nghĩa là ‘tạm đủ’. Cuối cùng, khi thể hiện được một số kỹ năng đáng kể thì các cô cậu sẽ được thăng lên hàng Leet, nghĩa là ‘ưu tú’. Nhưng ở thời điểm hiện tại, các cô cậu đang là Noob, và sẽ là Noob một thời gian khá lâu đấy.”
Hiệu trưởng vẫy tay. Một cánh cổng mở ra giữa khoảng không và Theodore rơi qua đó, la lối om sòm, rồi rớt đánh sầm xuống cái ghế dài của nó. Bà lại phẩy tay làm cánh cổng biến mất và tiếp tục nói như chẳng có gì xảy ra. “Như các cô cậu có thể đã biết, các cô cậu sẽ được dạy dỗ thành Pháp sư Khai cổng hoặc Chiến binh Trừ Tà, tùy thuộc vào kỹ năng ở Khả năng của từng người.”
“Nè, bà ,” Theodore run rẩy, nhưng vẫn vọt miệng. “Bà có biết đã vừa bỏ tôi xuống Âm Ti không đó?”
“Có chứ,” hiệu trưởng nói, và lại vẫy tay.
Một cánh cổng khác lại mở ra dưới chân Theodore và nó lại gào thét rơi xuống Âm Ti lần nữa. Hiệu trưởng lại phất tay cất cổng đi rồi nói tiếp.
“Hôm nay, chúng ta sẽ xác định các cô cậu sẽ tập trung rèn luyện ở ngành nào. Một số các cô cậu sẽ rời khỏi đây, đi theo con đường đầy sỏi đá để trở thành Chiến binh Trừ Tà, số khác sẽ hướng về lối đi đầy gai góc đến với nghề Pháp sư. Cả hai nhiệm vụ đều cao quý cũng như khó mà tinh thông như nhau. Chúng ta sẽ bắt đầu với cô nhé, cô Sweet. Cô đã sẵn sàng chưa?”
Cây đa khổng lồ nhè nhẹ đung đưa trong gió. Đâu đó xa xa trong rừng có tiếng chim rít lên.
Đột nhiên, Violet nhảy nhổm dậy. “Cô bảo em ạ?”
“Tên cô là Violet Sweet, đúng không nào?”
“Vâng, thưa cô hiệu trưởng. Em chỉ không quen được gọi là cô Sweet, chỉ có vậy thôi ạ.”
“Nên làm quen dần đi,” hiệu trưởng nói. “Kể từ giờ trở đi ta sẽ gọi tất cả là Cô và Cậu. Một là vì ta nghĩ trong lòng các cô cậu cũng thích thế. Hai là tuy đây chỉ là một trường học, nhưng chúng ta thật ra đang thực hiện đến một công việc vô cùng nghiêm túc. Thưa các cô các cậu, các cô các cậu sẽ được đào tạo để chiến đấu. Một cuộc chiến có thể có thương vong. Nếu các cô các cậu đã đủ lớn để dành cuộc đời phục vụ cho một sự nghiệp lớn lao hơn cả bản thân mình, thì tức là cũng đã đủ lớn để được ta đối xử như người trưởng thành và mong đợi một thái độ của người trưởng thành ở các cô các cậu. Vì thế, một lần nữa, ta hỏi: sẵn sàng chưa, cô Sweet?”
“Rồi ạ, thưa hiệu trưởng,” con bé đáp.
“Tốt lắm. Bước tới nào.”
Khi Violet bước tới, hiệu trưởng vẫy tay mở ra một cánh cổng giữa không trung. Một lần nữa, Theodore lại rơi qua cổng rồi rớt đánh sầm xuống dãy ghế bên dưới, miệng kêu ăng ẳng vì đau.
“Mừng cậu trở lại, cậu Dagget. Cậu về vừa đúng lúc để chứng kiến cô Sweet xác định được hướng đi cho tương lai của cô ấy.” “Đau lắm đấy ạ,” Theodore nói.
“Thật đáng thương,” hiệu trưởng đáp. Rồi thêm một cái vẫy tay, một cánh cổng lớn bất ngờ mở ra bên cạnh bà. Theodore bất giác co rúm người lại. “Các cô, các cậu, vui lòng theo cô Sweet và ta xuống Âm Ti. Số phận của cô ấy, và của các cô cậu nữa, đang chờ.”
Vài tích tắc sau, sau khi bước qua cổng, Charlie thấy mình đang đứng trên một cánh đồng hoa vàng thơm ngát dẫn đến một cái hồ xanh thẳm, phẳng lặng và phản chiếu như gương. Hồ nước ẩn mình trong một thung lũng hẹp rậm rạp những cây thông thơm nồng, và chung quanh bao bọc là các vách núi vươn thật cao không thấy được bên kia là gì. Nơi này thật đẹp và an toàn, và trên hết, là kín đáo.
“ Wow, ” nó thì thầm.
“Thật vậy,” hiệu trưởng nói khi đứa học trò cuối cùng bước qua cổng. Bà vẫy tay nhanh một cái, cánh cổng biến mất. “Mặc dù phần lớn Âm Ti nguy hiểm và xấu xí, nhưng cũng có những hang hốc nhỏ, ví dụ như nơi này, thì ngoài cả sự mong đợi. Hiện giờ chúng ta đang ở vòng thứ Ba. Đây là một vùng núi đầy những quái vật không thể xem thường, nhưng thung lũng bí mật này thì hầu như bị bỏ không, như xưa nay lúc nào cũng vậy. Ở đây chẳng có sinh vật Âm Ti nào... trừ một. Một sinh vật rất quan trọng .”
Hiệu trưởng quay sang Violet.
“Cô Sweet, nếu nhìn kỹ, cô sẽ thấy có một loạt các hòn đá để cô bước lên và ra chính giữa hồ nước ấy.” Violet nhìn và thấy một hàng đá trắng dẫn ra một tảng đá nhỏ ở giữa hồ. “Em thấy rồi ạ,” con bé nói.
“Tốt lắm. Cô hãy đi ra giữa hồ và tự tuyên bố đi. Cô sẽ hét to ‘Ta là Chiến binh Trừ Tà!’ hoặc ‘Ta là Pháp sư Khai cổng!’” “Nhưng làm sao em chọn được?” con bé hỏi. “Em chẳng biết mình thuộc loại nào.”
“Cứ nói ra điều mà cô cảm thấy,” hiệu trưởng trả lời. “Hãy nói ra điều mà cô nghĩ là sự thật .”
“Được ạ. Nhưng sau đó thì sao?”
“Sau đó,” hiệu trưởng đáp với một tia long lanh trong mắt, “chúng ta sẽ biết cô nói có đúng hay không. Đi đi,” bà chỉ ra phía hồ. Hồi hộp liếc mắt một cái với đám học sinh còn lại, Violet đi đến bờ nước. Những hòn đá nằm trên mặt hồ nhỏ và không bằng phẳng
chút nào, cô bé phải giữ thăng bằng nhiều lần trong khi nhảy qua, hướng tới ngay trung tâm hồ nước. Sau khi đến được tảng đá trắng bạc phếch ở giữa hồ, Violet nhìn xuống làn nước tối xem có gì chuyển động hay bất cứ dấu hiệu của con gì sống ở dưới đó không, nhưng mặt nước vẫn phẳng lặng như gương, phản chiếu các vách núi thẳng đứng chung quanh, không sao nhìn xuyên xuống dưới được.
“Nào, cô Sweet,” hiệu trưởng kêu to. “Giới thiệu mình đi nào!”
Dù tranh cãi thật lực với Theodore rằng con gái cũng có thể làm Chiến binh Trừ Tà giỏi như con trai, nhưng thật ra trong lòng cô bé biết rằng số phận mình nằm ở một hướng khác.
“ Tôi là một Pháp sư Khai cổng!” cô bé hét lên.
Tiếng của Violet dội lên khỏi mặt hồ phẳng lặng và ngân vang trên các vách núi với âm lượng rất mạnh làm cô bé ngạc nhiên. Chẳng bao lâu tiếng dội nhỏ dần và không gian yên ắng trở lại. Violet đảo mắt liếc quanh làn nước tối một cách bứt rứt. Mặt nước vẫn phẳng lặng và phản chiếu như gương.
“Giờ thì sao ạ?” Violet hỏi.
Ngay lúc đó một con cá hồi khổng lồ từ dưới hồ vọt tung lên. Con cá to cỡ một chiếc xe buýt đưa đón học sinh, lớp da bóng loáng lốm đốm các vết đỏ, xám, và xanh lục. Nó uốn thân mình ngang qua tảng đá Violet đang đứng, há cái miệng rộng hoác nhớt nhợt táp gọn lấy cô bé, đâm xuống lại làn nước lạnh rồi lập tức biến mất. Hồ nước rung rinh và nổi sóng dữ dội trong khi bọn học trò bàng hoàng giương mắt nhìn.
Violet và con cá hồi khổng lồ nuốt chửng cô bé đã biến mất.
“Cá... cái gì vậy?” Theodore lào thào, mồm há hốc như cái cửa bị hỏng bản lề.
“Đó,” hiệu trưởng đáp, “là Cá Hồi Sự thật [2] .”
[1] Ted là cách gọi tắt, thân mật của Theodore.
[2] Nguyên gốc: Trout of Truth.
CHƯƠNG TÁM - CÁ HỒI SỰ THẬT
“Bạn ấy đâu rồi?” Charlie hốt hoảng. “Violet đâu rồi? Nó không ăn thịt bạn ấy chứ ạ? ”
Ngay lúc đó, con cá dưới nước vọt lên gần bờ hoa và há miệng ồng ộc phun ra Violet. Cô bé bay trong không trung, quay cuồng, nhào lộn như một con búp bê rách trước khi ngã oạch xuống, tay chân quều quào phủ phục dưới chân cô hiệu trưởng. Con cá trườn trở lại mặt hồ và nhanh chóng biến mất.
Charlie chạy đến đỡ bạn đứng dậy. “Cậu không sao chứ?” nó hỏi.
“Tớ... tớ không biết nữa,” Violet vừa chùi nhớt và tảo dính trên mặt vừa run run trả lời. Người con bé sũng sĩnh bùn sông nhớp nhúa. “Chúc mừng cô Sweet,” hiệu trưởng nói. “Cô là một Chiến binh Trừ Tà.”
“Sao cô biết được ạ?” Violet hỏi và vuốt cái thứ nhớt nhợt khỏi mái tóc dài của mình.
“Bởi vì, trong tất cả các quái vật ở Âm Ti, chỉ Cá Hồi [1] là có thể xác định chính xác người ta nói thật hay không. Và như các cô cậu vừa chứng kiến, Cá Hồi tuyệt đối không tha cho bất cứ một lời nói không thật thà nào trên hồ của nó. Nó sẽ loại bỏ cái nguồn không thật thà ấy ngay lập tức.”
“Nhưng em có nói dối đâu,” Violet phản đối.
“Có đấy, chỉ là cô không biết mà thôi,” hiệu trưởng nói. “Cô tuyên bố mình là một Pháp sư Khai cổng, và ta chắc cô thật lòng tin như thế, nhưng Cá Hồi Sự thật lại thấy không đúng như vậy. Do đó, chúng ta biết nếu cô không phải Pháp sư Khai cổng thì tất phải là Chiến binh Trừ Tà.”
“Nhưng cô chắc là Cá Hồi Sự thật luôn đúng chứ ạ?” Violet hỏi. “Em thấy em chẳng giống chiến binh chút nào.”
“Rồi cô sẽ giống thôi,” hiệu trưởng cam đoan. “Cá Hồi Sự thật chưa bao giờ sai cả.” Rồi bà quay sang một học sinh khác. “Cậu Ramirez, làm ơn bước ra giữa hồ. Hãy cùng xem tương lai của cậu như thế nào.”
Alejandro Ramirez, một thằng nhóc mười hai tuổi người chắc nịch lần theo mấy tảng đá đi ra giữa hồ. “Tôi là... một Pháp sư Khai cổng,” nó thỏ thẻ nói, mắt lo lắng liếc nhìn làn nước lặng thinh.
Cá Hồi Sự thật chẳng có phản ứng gì.
“Rất tốt, cậu Ramirez,” hiệu trưởng nói. “Cứ xem cậu không bị nuốt sống thì thấy điều cậu vừa nói hẳn là sự thật, mặc dù ta vẫn mong có thêm chút ít hùng dũng nữa trong lời tuyên bố của cậu. Chúc mừng, cậu là Pháp sư Khai cổng đầu tiên của chúng ta trong ngày hôm nay.”
Trong khi Alejandro nhào trở lại với nhóm, trông rõ là thở phào vì không bị Cá Hồi Sự thật nuốt chửng, hiệu trưởng đã quay sang một đứa khác. “Cậu Favrutti, mời bước ra.”
Cứ thế gần suốt một tiếng đồng hồ.
Gần hai mươi đứa nhóc đứng ra tuyên bố về mình cho con cá khổng lồ nghe và khoảng một nửa là nói đúng, còn nửa kia thì ngay tức khắc bị Cá Hồi nuốt chửng rồi phì lên bờ như nhổ bỏ một bã kẹo cao su. Charlie có phần ngạc nhiên khi nhận ra rằng Violet đã đúng khi nói nghề Chiến binh Trừ Tà chia đều cho cả trai lẫn gái, và Pháp sư Khai cổng cũng vậy - chẳng có công việc nào là dành riêng cho một giới.
Cuối cùng đến lượt Theodore phải đối diện con cá. “Có!” nó nói, và gần như mở hết tốc lực chạy về phía hiệu trưởng. “Bố cháu là Chiến binh Trừ Tà. Cô biết chứ?”
Bà gật đầu. “Ta còn nhớ cha cậu. Ycực kỳ sáng láng và cũng rất phiền hà. Cậu làm ta nhớ đến y đấy. Ykhỏe chứ?”
“Khỏe, em nghĩ vậy,” Theodore nói. “Bố hiện đang ở đâu đó chiến đấu với bọn quái vật Âm Ti. Bố không được phép cho bọn em biết bố đang ở đâu. Bố đang có một mật vụ. Vụ là viết tắt của nhiệm vụ, và mật vụ nghĩa là...”
“Ta hiểu nó nghĩa là gì,” hiệu trưởng ngắt lời. “Chúng ta tiếp tục chuyện chọn nghề đi, được chưa?”
“Tất nhiên rồi,” Theodore nói. “Em rất nóng lòng chờ bố hoàn thành mật vụ rồi về nhà để cho bố biết em sắp trở thành Chiến binh Trừ Tà, cũng như bố vậy.” Nói rồi nó nhanh nhảu nhảy qua mấy cục đá rồi đứng trên tảng đá chính giữa hồ. Nó hắng giọng và hét lên thật to và kiêu hãnh hết cỡ, “ Tôi là một Chiến binh Trừ Tà!”
Mắt nước vẫn lặng yên.
“Thấy chưa,” Theodore quay mặt vào bờ. “Đã nói rồi mà.”
Và đúng lúc đó, con cá hồi nhảy lên khỏi mặt hồ và nuốt trọn cả người Theodore. Giây lát sau, thằng nhóc đã bay trong không trung và rớt xuống thành một đống bèo nhèo trước mặt hiệu trưởng.
“Rất tiếc, cậu Dagget ạ,” bà nói trong khi Theodore lồm cồm bò dậy, lẩy bẩy như một con bê mới đẻ. “Cậu không phải là Chiến binh Trừ Tà. Cá Hồi Sự thật đã cho chúng ta thấy cậu là một Pháp sư Khai cổng.”
“Sai toét,” Theodore vừa nói vừa phun nhớt phì phì khỏi mồm.
“Gì cơ?” hiệu trưởng nhướng mày, hỏi lại.
“Không phải em xúc phạm gì đâu, nhưng con cá này sai rồi. Sai hoàn toàn rồi. Em không đời nào lại đi làm Pháp sư Khai cổng.” “Cá Sự thật không bao giờ sai,” hiệu trưởng phản bác. “Chính cậu mới sai đó, cậu Dagget ạ.”
“Cô ơi, em có nói con cá cố tình nói sai đâu. Em chỉ nói nó nhầm lẫn thôi. Ai mà chẳng có lần phạm sai lầm chứ. Nó đâu thể lúc nào cũng đúng được, phải không ạ? Nó chỉ là một con cá câm thôi mà.”
“Rồi, nếu cậu đã chắc chắn như thế,” hiệu trưởng trả lời, “thì thử lại một lần nữa đi.”
“Dứt khoát là thế rồi,” Theodore nói và huỳnh huỵch bước ra lại giữa hồ. Nó ưỡn ngực và hét lên trời, “Tôi là một Chiến binh Trừ Tà!”
Chưa đầy hai mươi giây sau, con cá đã nhảy khỏi mặt nước, đớp lấy Theodore, và lại phun nó lên trên bờ. Một lần nữa, thằng nhóc lại lồm cồm đứng lên.
“Con cá đó có vấn đề rồi,” Theodore nói. “Chắc nó bị ốm rồi.”
“Con cá không bị ốm,” hiệu trưởng trả lời.
“Vậy thì chắc nó già cả hay mệt mỏi hay gì gì rồi. Cho cô biết, em không đời nào lại là Pháp sư Khai cổng được. Đó là một CBKT - chuyện bất khả thi. Tất cả đàn ông trong nhà em đều là Chiến binh Trừ Tà!”
“Ta rất tiếc,” hiệu trưởng rõ ràng đã bắt đầu mất kiên nhẫn. “Ta biết cậu muốn làm Chiến binh Trừ Tà, nhưng sự thật thì cậu là một Pháp sư Khai cổng.”
“Không,” Theodore nói. “Con cá đó rõ ràng là sai bét. Con Cá Hồi Sự thật của cô bị hỏng rồi!”
“Nó đã nói đến hai lần rồi còn gì.”
“ Thế thì nó sai đến hai lần! Có lẽ nó cần thêm một cơ hội nữa mới nhận ra là em đúng.” Nói xong, Theodore lại quay đầu vụt chạy trở lại giữa hồ. Nó hét lên, tiếng vọng vang động qua vách núi, “Ta là Chiến binh Trừ Tà!”
Con cá từ lòng hồ nhảy lên và nuốt Theodore ngay tức khắc.
Charlie quay sang Violet. “Theo cậu thì cậu ấy sẽ còn làm bao nhiêu lần nữa rồi mới chịu thôi?”
“Bốn,” con bé nói không ngần ngừ.
“Tớ thì nghĩ là năm,” Charlie nói.
Thật không thể tin được, cả thảy phải đến bảy lần.
Theodore bị Cá Hồi Sự thật nuốt đến bảy lần, người sặc mùi cá và dính nhớt nhợt từ đầu đến chân rồi mới dằn dỗi chịu thôi. “Con cá ngu ngốc,” Theodore vừa nói vừa đá tới tấp mấy bông hoa trên bờ khi lồm cồm đứng lên một lần nữa.
“Cậu Dagget,” hiệu trưởng nói với một chút mệt mỏi, “hãy chấp nhận cậu là một Pháp sư Khai cổng. Đó là một nghề vô cùng vinh dự, chẳng hơn nhưng cũng chẳng kém gì Chiến binh Trừ Tà cả. Cậu nên bắt đầu làm quen với chuyện này thì hơn.”
“Em sẽ không bao giờ quen được chuyện này,” Theodore vừa giận dữ lê bước vừa làu bàu, nào là “con cá bất công”, “con cá câm” và “chỉ cần một cơ hội nữa thôi”.
Hiệu trưởng quay sang đám học sinh còn lại. “Buổi định hướng nghề nghiệp thế là xong,” bà nói. “Bây giờ chúng ta sẽ trở về Học viện Ác mộng, các cô các cậu sẽ đến gặp bà Rose để nhận thời khóa biểu và chương trình học.”
“Thưa cô hiệu trưởng,” Charlie giơ tay lên. “Em không định ngắt lời cô, nhưng vẫn chưa đến lượt em ạ.”
“À, cậu Benjamin. Ta tin rằng cuộc phiêu lưu của cậu đêm qua đã cho chúng ta thấy hướng đi của cậu rồi. Bất cứ kẻ nào tạo được cổng đến tận Vòng Trong của Âm Ti thì rõ ràng là Pháp sư Khai cổng rồi. Một Chiến binh Trừ Tà không có khả năng làm được những việc như vậy.”
“Vâng, cũng được ạ,” Charlie nói.
“Không,” Alejandro Ramirez gào lên. “Tất cả bọn em đều phải đối mặt với con cá. Tại sao cậu ấy lại thoát dễ dàng thế được ạ?” “Bởi vì, như ta đã nói, chúng ta đã biết con đường của Charlie rồi,” hiệu trưởng trả lời.
“Có lẽ vậy. Chỉ là em thấy thế là không công bằng thôi,” Alejandro than van.
“Cậu ấy nói đúng đấy ạ,” Charlie nói, nó không hề muốn bị tách ra khỏi nhóm. “Em cũng nên ra thử.”
Lát sau, Charlie đã đứng trên tảng đá giữa hồ. Nó cảm nhận được làn hơi giá rét tỏa lên từ hồ nước lạnh. Hồ có vẻ khá sâu, không như vậy thì làm sao chứa được một sinh vật to lớn như Cá Hồi Sự thật cơ chứ?
Charlie nhắm mắt, hít một hơi, rồi cuối cùng kêu lớn, “ Tôi là một Pháp sư Khai cổng!”
Đúng như dự đoán, không hề có động tĩnh gì từ con cá. Charlie đã nói đúng sự thật. Nó thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu đi lại vào bờ. “Cô nói đúng,” nó nói to với hiệu trưởng trong khi nhảy từ cục đá này sang cục đá khác. “Em không phải là Chiến binh Trừ Tà.”
Mới dứt câu thì con cá đã phóng lên khỏi mặt nước, kẹp cặp môi lạnh toát ướt át quanh người Charlie, bao kín nó trong bóng tối ẩm ướt hôi hám. Charlie bị quăng quật giữa mớ nhầy nhụa trong mình con cá cổ đại khi sinh vật này đâm trở lại xuống nước rồi bơi vào bờ. Giây lát sau, khi bị con cá phun ra, Charlie cũng bị ánh nắng ban ngày làm cho lóa cả mắt chẳng nhìn thấy gì. Nó quay tròn trên không trung trước khi rớt bịch xuống mặt đất cứng.
Đám học trò trố mắt ngạc nhiên.
“Cậu không sao chứ?” Violet chạy vội đến nó.
“Ừ,” Charlie vừa đứng lên vừa nói. “Tớ chỉ không ngờ có chuyện đó thôi.”
“Là vì nó không hợp lý đấy mà!” Theodore hét lên. “Thấy chưa, cháu đã bảo là con cá này bị điên rồi! Đầu tiên thì đồng ý với Charlie khi nó bảo nó là Pháp sư Khai cổng, nhưng lại kêu Charlie là thằng nói dối khi nó nói nó không phải là Chiến binh Trừ Tà! Như thế là sai hẳn đi rồi còn gì - làm sao vừa làm Pháp sư Khai cổng lại vừa làm Chiến binh Trừ Tà được chứ!”
“Đúng là thế,” hiệu trưởng khẽ nói. “Trừ khi Charlie là một Đe dọa Kép .”
Đám học trò nhìn nhau.
“Là gì ạ?” Violet hỏi.
“Là một người vừa có thể là Chiến binh Trừ Tà, vừa có thể là Pháp sư Khai cổng. Những người như thế rất hiếm, có lẽ tới hai mươi hay ba mươi năm mới sinh ra được một người như thế.” Rồi bà quay sang Charlie. “Con người cậu chứa đủ thứ ngạc nhiên, cậu Benjamin ạ.”
Charlie lặng cả người.
Phải hai mươi hay ba mươi năm mới sinh ra được một người như thế.
Đa số người ta khi được làm con người đặc biệt như vậy sẽ sướng tận mây xanh ấy chứ, nhưng đối với Charlie, nó có cảm giác chẳng khác nào đang nghe nói về một con bê hai đầu đột biến hay một con lươn quái dị biết đi trên mặt đất. Trước nay nó vẫn luôn thấy mình như một đứa bị xã hội ruồng bỏ. Nhưng giờ nó thấy mình như một đứa bị xã hội ruồng bỏ đến hai lần.
“Quá ghê!” Theodore kêu lên. “Charlie là một Đe dọa Kép! Charlie ĐDK!”
“Đừng gọi tao như thế,” Charlie lầm bầm. Nó dần nhận ra Theodore là đứa toàn hào hứng với những chuyện chẳng ra gì.
“Cô hiệu trưởng,” thằng Theodore tiếp tục. “Còn cô thì sao? Cô có phải là một trong số những tay Đe dọa Kép hiếm có không? Cô có phải là ĐDK không?”
“Đừng gọi ta như thế,” bà nói. “Và để trả lời câu hỏi của cậu thì, ừ, ta là Đe dọa Kép. Đe dọa Kép thật đấy, nhưng không được hay ho như tên gọi đâu. Đúng là ta vừa có thể làm Chiến binh Trừ Tà vừa có thể làm Pháp sư Khai cổng, nhưng không thể cùng một lúc. Hai kỹ năng này hoàn toàn khác nhau và đều đòi hỏi sự tập trung cao độ nên đơn giản là không thể cùng một lúc làm cả hai việc.”
“Ồi,” Theodore thất vọng. “Thế thì cũng giống như vừa có một chiếc xe thể thao Aston Martin vừa có một chiếc Ferrari - cả hai đều đẹp nhưng mỗi lần chỉ lái được một chiếc. Thế thì có gì hay chứ?”
“Cái hay của nó là,” hiệu trưởng nói, “có thêm gia vị cho cuộc sống, và ta thích cuộc sống của mình thật nhiều hương vị hơn.” Rồi bà mở cổng trở về ngay boong trên cùng của Học viện Ác mộng. “Hôm nay thế là xong. Cả lớp giải tán.”
Vài phút sau, khi đã trở lại Học viện, Charlie đi xuống một các đoạn dốc trong vô vàn đoạn dốc quấn quanh thân cây khổng lồ; thằng Theodore vừa nhảy nhót theo bên cạnh Charlie vừa lảm nhảm có vẻ rất phấn khích. “Có thể là chẳng được ích lợi gì ,” thằng ấy nói, “nhưng mà của hiếm . Thật tuyệt vời. Mày có nghe hiệu trưởng nói không? Phải hai mươi hay ba mươi năm mới sinh ra được một ĐDK đó. Tất cả bọn mình đều khác thường - chỉ có hai phần trăm dân số là có Khả năng thôi mà - nhưng mày thì, bạn của tao ạ, mày là một đột biến . Bạn thân của tao là một quái nhân!”
“Cậu thôi đi được không?” Violet bước lên chen giữa hai thằng. “Rõ ràng cậu đang làm Charlie khó chịu đó.”
“Không, làm gì có, con bé Lắm chuyện này. Mày có khó chịu không, Charlie? Tao có bằng cách nào đó, hay bằng kiểu nào đó, hay bằng trò nào đó làm mày khó chịu không?”
“Chắc là không,” Charlie nói, dù trong lòng cảm thấy khó chịu thật.
“Thấy chưa,” Theodore kêu lên đắc thắng, “bọn này là đàn ông . Bọn này không có mít ướt và ủy mị như bọn con gái các mụ đâu.” Violet quay sang Charlie. “Có thật là cậu sẽ không nói thẳng cho cậu ta biết cảm giác của cậu không?”
Charlie cũng muốn nói chứ, nó cũng muốn cho Theodore biết rằng cả đời nó đã cảm thấy như một đứa bị ruồng bỏ; và giờ đây, khi đã ở một nơi chỉ toàn một lũ nhóc giống như mình , nó lại càng không muốn nghe người ta bình luận nó khác thường như thế nào. Nhưng nó không thể làm như vậy. Vì Theodore, dù có hơi kỳ quặc, nhưng cũng đang trở thành một đứa bạn thật sự của nó, và Charlie không hề
muốn làm gì có thể phương hại đến điều đó.
“Nhưng tớ có thấy sao đâu,” Charlie nói với Violet. “Thật đấy.”
“ Hứ ! Rồi, nếu cậu không định tự bảo vệ mình thì tớ cũng chắc chắn không bảo vệ cậu làm gì nữa.” Nói rồi con bé lách qua hai đứa rồi đi xuống cầu thang.
“Tớ có tự bảo vệ mình đó chứ,” Charlie ngập ngừng gọi với theo nhưng cô bé đã đi mất hút.
“ Nó đây rồi, ” một giọng giận dữ cất lên sau lưng chúng. “Cái thằng tâm thần suýt chút nữa đã phá hủy Phân viện Ác mộng đây mà!” [1] Nguyên gốc: Trout.
CHƯƠNG CHÍN - Ý NGHĨA CỦA CTTN
Charlie và Theodore quay lại thì thấy một cô gái cao ráo, khoảng mười lăm tuổi đang đi xuống cầu thang về phía chúng. Cô nàng đẹp nín cả thở. Mái tóc vàng xõa dài và có vẻ được tạo kiểu rất cẩn thận. Mà thật ra thì cả người cô nàng chỗ nào cũng được chăm chút hết - cẩn thận từ son phấn trang điểm cho đến cách chọn lựa trang phục. Mà trang phục thì phải nói là trông mốt hơn nhiều so với bất kỳ bộ quần áo nào Charlie từng được thấy ở Học viện Ác mộng.
Theo sát phía sau, như một chú cún đang háo hức mà lại bị buộc xích, là một anh chàng ưa nhìn cũng trạc tuổi cô nàng. Anh chàng to vạm vỡ, tóc vàng, mắt xanh; điểm yếu duy nhất của chàng ta, như Charlie có thể nhận ra, là cố để râu nhưng không được thành công cho lắm.
“Mày là Charlie Benjamin phải không?” cô gái hỏi.
“Chắc vậy,” Charlie trả lời.
Những cảm xúc mâu thuẫn bỗng lộn lạo trong nó. Rõ ràng là cô ta đang chuẩn bị tấn công nó bằng cách nào đó và nó biết là phải lo mà chuẩn bị tự vệ đi, nhưng cô ta đẹp quá đến nỗi làm nó choáng cả váng. Trước giờ nó chưa bao giờ có bạn gái, chưa bao giờ hẹn hò, chưa bao giờ nắm tay một cô gái; vậy mà nó lại đang nhận được sự chú ý trọn vẹn của một trong những cô gái đẹp nhất mà nó từng gặp.
Nhưng thật không may, chẳng qua chỉ vì cô ta ghét nó ra mặt.
“Tao là Brooke Brighton,” cô ta nói, giọng khinh khỉnh làm như nó chắc chắn phải biết cô ta là ai rồi. “Tao là một Trợ thủ. Đây là bạn trai tao, Geoff Lench.” Cô ta ném một cái liếc nhanh về phía gã bạn trai. “Cũng là một Trợ thủ.”
Geoff vừa ngả người về phía Charlie vừa vuốt ve hàm râu mới nhú, như thể làm vậy sẽ tăng thêm cho hắn vài ba tuổi không bằng. Nhưng có ăn thua gì đâu chứ. “Ê, Noob, bọn tao nghe nói mày suýt cho một tên Named vào giữa dinh Cao ủy đêm qua.”
“Tôi không định thế,” Charlie trả lời yếu ớt.
“Không định thế?” Brooke bước tới, bắt bẻ. “Có phải đó là những gì mày đã nói với giám đốc Drake sau khi suýt giết sạch mọi người không? Rằng mày không định thế hả?”
Trận chiến tình cảm trong Charlie đã dần lộ rõ đâu là phe thắng. Đúng là Brook rất xinh - thật ra là đẹp - nhưng sức hấp dẫn của cô ta nhanh chóng nhường chỗ cho cơn giận của Charlie vì cái cách cô ta đối xử với nó.
“Nếu tao mà là Trợ thủ của mày ấy hả,” cô ta tiếp, “tao sẽ rất mong thấy mày phải chịu thời gian thử thách chờ điều tra theo Điều khoản 36, quy chế ngành của PVAM - phiên bản Drake. Mà nói cho đúng là tao rất mong mày bị Rút Khả năng. Mày nghĩ sao về chuyện đó?”
“Tớ nghĩ,” Charlie cố moi óc tìm cách đáp lại lời nói vô cùng độc ác kia, “cậu nổi điên lên với tớ chẳng qua chỉ vì tớ vẫn có Khả năng, còn cậu thì mất nó rồi. Chẳng phải đó là lý do cậu phải làm Trợ thủ sao?”
Charlie nghe tiếng thở hổn hển trong khi những đứa trẻ khác trên cầu thang dáo dác nhìn quanh lo lắng. Rõ ràng là nó vừa vượt qua giới hạn nào đó rồi.
“Mày mới nói tao cái gì?” Brooke hỏi, giọng hạ xuống thật thấp chỉ còn như tiếng thì thầm.
“Tớ vẫn đang tự hỏi sao cậu lại bị mất nó nhỉ,” Charlie cố nói tiếp. “Ý tớ là Khả năng ấy mà. Chắc không phải là lỗi do cậu rồi. Hay tại cậu quá quan tâm đến áo quần? Hay là TV? Hay bọn con trai?”
Bất ngờ, Geoff túm lấy ngực áo Charlie và lôi nó lại gần đến nỗi nó có thể ngửi thấy mùi kẹo cao su bạc hà thằng này đang nhai. “Cẩn thận cái cách nói chuyện với cô ấy, thằng Noob đáng thương, nếu không tao sẽ ném mày xuống khỏi Học viện để xem mày có bay được không đấy. Hiểu chưa?”
Nhưng trước khi Charlie kịp trả lời thì Theodore đã tháo kính xuống. “Cầm giùm đi,” Theodore nói.
“Làm gì?” Charlie cầm lấy kính và hỏi.
Không trả lời, Theodore quay người và đột nhiên tung một cú đấm vào Geoff. Nó dộng trúng ngay một bên khuôn mặt rám nắng của thằng này, làm hắn quỵ xuống mặt gỗ cứng của cầu thang. Miếng kẹo cao su văng ra khỏi miệng Geoff như một cái răng rụng.
“Không công bằng!” Brooke hét lên. “Chúng mày đánh anh ấy hả, đồ lũ oắt con lừa đảo!”
Giờ đây cơn hưng phấn đã xâm chiếm hết con người Theodore. Vẻ bù nhìn kỳ dị của nó bừng bừng vì kích động. “Tao sẽ còn làm như thế nữa đấy, nếu chúng mày dám gây sự với Charlie Benjamin! Tao sẽ tiêu diệt chúng mày! Cả hai đứa! Tao sẽ ăn linh hồn của chúng mày, nhai xương chúng mày! Tao sẽ...”
Nhưng Theodore chưa kịp thốt thêm được lời đe dọa ngớ ngẩn nào nữa thì Geoff đã lao tới thụi nó ngã dúi vào thân cây đa. Cho dù Theodore ra tay trước, nhưng Geoff cao hơn nó cả ba tấc và nặng gấp đôi, cả người đầy cơ bắp cuồn cuộn. Hắn thụi Theodore không thương xót bằng những đòn ác hiểm.
“Ngừng lại!” Charlie hét lên. “Các người làm cậu ấy đau lắm rồi đấy!”
“Câm đi, thằng Noob,” Geoff hằm hè. “Tiếp theo là tới mày đấy.”
“GEOFF LENCH, THÔI NGAYLẬP TỨC!” một giọng gầm lên từ cuối cầu thang.
Charlie quay lại và sửng sốt khi thấy đó là giọng của Rose mama. Bà lao về phía chúng như một quả tạ phá nhà, và đứa học trò nào không kịp tránh đường cho mau đều bị hất qua một bên như những chai ki trên đường lăn của quả bóng bowling.
“Nó gây sự trước,” Geoff lùi lại, phân trần. “Nó đánh trước.”
“Có thể nó đánh trước, nhưng ta đã thấy những gì xảy ra, và nó không hề gây sự trước,” Rose mama nói. “Đây không phải là chuyện phiền phức đầu tiên mà mi dính tới trong năm nay, Geoff Lench. Khỉ thật, thậm chí còn không phải là chuyện phiền phức đầu tiên mà mi dính tới trong tuần này ấy chứ.”
“Nhưng tôi phải được tự vệ chứ,” hắn phản đối.
“ Thôi đi,” Rose mama gạt đi. “Nhìn thằng bé này xem. Nó gầy như cây tăm. Mi có nhớ chuyện gì đã xảy ra hồi mi vi phạm nội quy lần vừa xong và bị lôi tới trước phòng hiệu trưởng không?”
“Bà ta tống tôi xuống Âm Ti,” Geoff ngượng ngùng.
“Vòng mấy ở Âm Ti?”
“Vòng hai.”
“Và chuyện gì xảy ra khi mi ở dưới đó?”
Geoff nhìn quanh, khó chịu. “Một con Cá hanh Âm Ti cắn đứt ngón chân cái của tôi.”
“ Cắn đứt ngón chân cái của mi, đúng không ?” Rose mama gầm lên. “Rồi cái ngón chân cái đó có mọc lại không, Geoff Lench?” “Không.”
“ Dĩ nhiên là không rồi , ngón chân con người ta đâu giống đuôi thằn lằn! Làm sao mà mọc lại được chứ! Bây giờ, trừ phi mi muốn xuống Âm Ti một chuyến nữa - lần này có lẽ là sẽ xuống vòng thứ ba, nơi lũ quái vật có thể thích thứ gì đó mềm hơn và dễ xơi hơn một cái ngón chân cái to đùng ấy - ta đề nghị mi ra khỏi đây và để cho mấy đứa Noob này được yên.”
“Vâng, thưa Rose mama,” Geoff xanh mặt khi nghĩ đến cái miếng mềm mềm dễ xơi mà bà vừa nói đến. Hắn phóng vội xuống cầu thang.
“Còn cô, Hoa khôi Ánh dương bé nhỏ,” Rose mama quay sang Brooke. “Ta rất, rất chân thành khuyên cô tránh xa Charlie Benjamin ra.”
“Tôi có làm gì đâu,” Brooke trả lời một cách ngây thơ. “Là Geoff đánh nó chứ đâu phải tôi.”
“Cô gái của tôi, cô nghĩ mình đang nói chuyện với ai vậy hả?” Rose mama nói. “Tên ngốc đó không hơn gì con rối bị cô giật dây bằng mấy chiêu ve vãn con con của cô. Hắn quá ngu ngốc nên không biết mình ngu ngốc đến mức nào. Giờ thì đi khỏi đây ngay .”
Brooke Brighton vùng vằng đi xuống ván cầu tàu trong khi Charlie đỡ Theodore đứng dậy. Mũi Theodore đầy máu và môi trên đã sưng vù cả lên.
“Các con biết trạm xá ở đâu rồi chứ hả?” Rose mama hỏi.
“Biết ạ,” Theodore nói líu nhíu. “Nhưng mà con không sao.”
“Không, sao lại không sao chứ. Con chỉ không sao cỡ một con heo bị lọt vào trong máy xén thôi chứ gì. Bây giờ ghé trạm xá rồi đi học buổi học đầu tiên đi - ba giờ nữa lớp Pháp thuật Nhập môn bắt đầu rồi. Và nghe ta nói cho kỹ nè, con trai,” Rose mama ghé sát vào mặt Theodore. “Lần sau có đấm thì dồn hết cả thân người theo nghe. Đấm gì mà như con gái ấy!”
Rồi bà sải bước bỏ đi, để lại sau lưng bọn học sinh đang ngây hết cả người.
Trạm xá là một cái lều lớn được dựng trên một cái bệ ở khoảng lưng chừng thân cây đa. Lều làm bằng vải thô màu ngà của những cánh buồm tàu biển, khẽ lay động trong gió. Ở bên trong, Theodore chườm một túi nước đá lên cái môi sưng vù của nó trong khi cô y tá bôi thuốc kháng sinh lên những vết thâm tím. Kỳ cục là, gương mặt hơi sưng lại làm nó có vẻ khỏe mạnh hơn, trông không còn quá xương xẩu nữa.
“Sao lại làm thế?” Charlie hỏi. “Hắn to gấp đôi mày.”
“Tại nó gây sự với mày,” Theodore nói líu nhíu, như thể trả lời như vậy là đã đủ lắm rồi.
“Lần sau cứ để tao tự đánh, nhé?” Charlie nói. “Tao không đến nỗi hoàn toàn không tự lo được đâu.”
Theodore nhún vai. “Không hứa được. Khi bạn thân của tao gặp nguy thì nắm đấm của tao cứ tự quyết định thôi. Chúng trở thành sức mạnh hủy diệt. Chúng trở thành vũ khí giết người.”
“Em đi được rồi đấy,” cô y tá vừa vặn chặt nắp đậy ống thuốc mỡ lại vừa nói. “Và cố giữ cho kỹ những vũ khí giết người đó cho đến khi vết thương hơi lành lại đã nhé,” cô nói thêm, với một nụ cười trêu chọc.
“Em sẽ cố,” Theodore vừa đưa trả lại túi nước đá vừa làu bàu. “Nhưng đôi khi chân em chưa kịp bước thì nắm đấm của em đã lên tiếng trước rồi kìa - tính em nó thế rồi.”
Charlie ngạc nhiên khi thấy Theodore có thể tự tin và chắc chắn về bản thân đến vậy. Trước kia, Charlie muốn thoát ra khỏi nhà và hòa cùng bọn trẻ đồng trang lứa bao nhiêu, thì nay nó lại cảm thấy hoang mang bấy nhiêu khi tự nhiên phải nhớ lại rằng trong đám trẻ kia có những đứa xấu tính biết bao. Bố mẹ nó có thể đã nâng niu bảo bọc nó thái quá, nhưng họ vô cùng thương yêu nó, và cả gia đình đã có những giờ phút vui thích thật sự. Charlie bất giác nở nụ cười khi nhớ lại chuyến đi chơi công viên giải trí mà cả nhà cùng tham gia vào sinh nhật vừa rồi của nó. Dĩ nhiên mẹ nó nhất quyết tránh xa những chiếc tàu lượn - bà gọi chúng là “máy buồn nôn” - nhưng nó và bố đã sướng mê tơi khi đi loại tàu này.
“Đàn ông gia đình Benjamin dám đối mặt với sợ hãi!” ông Barrington đã hét lên đắc thắng khi toa tàu từ từ bò lên cao trước khi lao xuống một cú ngọt xớt. “Đàn ông gia đình Benjamin không sợ gì hết!” Rồi hai cha con vung tay thật cao lên không trung khi chiếc tàu lượn lao xuống; cả hai cùng thét lên trong nỗi kinh hoàng thích thú.
Nỗi nhớ nhà bỗng làm Charlie nhói cả lòng.
“Mày có sao không đấy?” Theodore lo lắng nhìn nó chăm chăm.
“Tao không sao,” Charlie cố gượng đáp lại. “Chỉ nhớ lại vài chuyện thôi. Thôi, tao phải chạy đây. Mấy phút nữa bắt đầu lớp Trừ tà Vỡ lòng rồi.”
“Ước gì tao cũng được đi,” Theodore rên rỉ. “Nhưng tao còn phải chờ cái lớp Pháp sư ngu ngốc đó.”
“Thì tao cũng đến đó cơ mà, sau khi học xong lớp đầu tiên.”
“Đe Dọa Kép có nghĩa là công việc cũng kép luôn, há?” Theodore cười.
“Có vẻ vậy đó.”
“Thôi, chúc may mắn. Tao chắc chắn sẽ cùng học lớp Trừ Tà với mày sớm thôi - sau khi hiệu trưởng nhận ra sai lầm kinh hoàng của cô ấy, ý tao là thế.”
Charlie gật đầu ủng hộ. “Tao sẽ cố hết sức nhớ bài để chỉ lại cho mày lúc nào có dịp. Gặp lại sau nhé.”
Rồi nó thẳng tiến đến buổi học đầu tiên của mình ở Học viện Ác mộng.
Lớp Trừ tà Vỡ lòng được tổ chức trong một hang đá vôi ở gần bờ biển, nhưng cách Học viện khá xa. Ở giữa là một hố cát tròn, chung quanh là các khán đài bằng đá vươn cao như đấu trường La Mã để khán giả nhìn thấy rõ những gì xảy ra bên dưới. Nơi này có cảm giác cổ xưa đến nỗi Charlie tưởng tượng ra ngay hình ảnh những đấu sĩ La Mã thời xưa quần thảo nhau trong cái hốc đó.
“Cậu đây rồi,” một giọng nói quen thuộc cất lên. Charlie quay lại thì thấy Violet đang ngồi trên một băng ghế đá dài với khoảng mười lăm đứa khác. Cô bé đang hí hoáy vẽ vào cuốn tập vẽ. “Nghe bảo cậu mới đánh nhau.”
“Ừm, nói cho đúng thì chỉ có Theodore đánh thôi,” Charlie nói, và bước lại. “Ít nhất thì nó là đứa đấm và cũng bị đấm lại tơi tả.” “Cậu ấy thích mấy trò đó nhỉ?”
“Tớ không biết nó có thích không, nhưng bố nó là một Chiến binh Trừ Tà - có lẽ điều đó đã nằm trong máu nó rồi. Tớ muốn nói là cái khát vọng đánh nhau ấy, chứ không phải là Khả năng.”
Violet nghiêng người tới, thổ lộ. “Cấm cậu nói lại với Theodore, nhưng đúng ra thì cậu ấy nên đến đây chứ không phải tớ. Tớ chẳng ham đánh nhau, không một chút nào hết... Tớ chỉ thích vẽ thôi.”
“Cậu đang vẽ gì vậy?”
Violet giơ bức vẽ lên. Đó là phác thảo chi tiết một con rồng đang bay, vuốt của nó ôm chặt một quả trứng trong khi há miệng phun lửa vào một con rồng khác đang điên cuồng đuổi theo. “Tớ đặt tên bức này là Kẻ Cắp Trứng . Con rồng này ăn cắp trứng của con rồng mẹ đằng sau, và con rồng mẹ nổi điên lên. Cậu thấy sao?”
“Kinh hoàng. Thật quá đi mất - ý tớ là rồng không có thật mà tranh trông vẫn như thật.”
“Cảm ơn cậu, nhưng tớ còn phải học rất nhiều trước khi có thể cạnh tranh với những người chuyên nghiệp,” Violet nói và khoát tay ý bảo thôi đi, nhưng rõ ràng là cô bé vui vì được khen.
Đột nhiên, những cánh cửa gỗ lớn dẫn đến cái hố bên dưới mở tung và Rex sải bước qua, với chiếc nón cao bồi đội lệch nghênh ngang trên đầu, cuộn dây thừng và thanh kiếm ngắn lủng lẳng bên hông. “Rồi, bắt tay vào việc đi thôi,” ông nói với đám học sinh đang rải rác khắp các chỗ ngồi bằng đá. “Đứa nào xuống đây sau cùng sẽ ăn bốn mươi roi.”
Đám học sinh tranh nhau leo xuống những bậc đá và chạy vào hố cát; không ai muốn là đứa sau cùng trong ngày đầu tiên.
Ông Rex quan sát chúng với ánh mắt nghi ngờ. “Vậy ra đây là những Tay Đấm tương lai của Phân viện Ác mộng đấy ư?” Ông lắc đầu buồn bã. “Chúng ta gặp rắc rối to rồi.”
“Thưa thầy...” Violet hỏi.
“Gọi là Rex thôi. Sao?”
“Thầy gọi bọn em là ‘Tay Đấm’. Em tưởng bọn em là Chiến binh Trừ Tà chứ.”
“Tay Đấm, Chiến binh, gọi tên nào thì có quan trọng gì đâu. Này, cái chính là... ta không thích ở đây. Ta là một nhân viên đặc vụ, chứ không phải là người trông trẻ cho một lũ Noob thối tai, hiểu chưa?”
Tất cả đều gật đầu.
“Có nghĩa là,” ông Rex nói tiếp, “ta ở đây và sẽ còn phải ở đây cho tới khi một số chuyện chính trị xấu xa được giải quyết xong, vì vậy tất cả chúng ta cùng phải cố gắng thôi. Bắt đầu sớm chừng nào thì xong sớm chừng đó, nên thôi ta cứ vậy mà chơi. Có ai biết CTTN nghĩa là gì không?”
Đám học sinh im thin thít.
“Không đứa nào biết hả?” ông Rex ngao ngán. “Không có lấy một đứa biết nguyên tắc cơ bản nhất của Trừ tà sao? Chà. Thôi được rồi, CTTN nghĩa là ‘chỗ tối tăm nhất’. Phải chi có cái bảng phấn hay gì đó để viết mấy cái chữ này ra nhỉ. Gì thì gì, mấy chữ ấy là tên một con Dịch vật Âm Ti - à, nếu nói đúng thuật ngữ một trăm phần trăm thì là Quái vật Âm Ti nhé, cô Chỉ Được Gọi Bằng Một Tên Mà Thôi .”
Ông nhìn thẳng Violet. Cô bé đỏ bừng cả mặt.
“Gì thì gì,” ông Rex tiếp, “bất cứ tên ông kẹ nào của chúng bay, sau khi lọt qua cổng để lên thế giới của chúng ta, cũng luôn tìm kiếm một chỗ tối tăm nhất. Vì bọn chúng thường tới bằng đường ác mộng, và vì ác mộng hay xảy ra trên giường, nên có tới tám mươi phần trăm là sẽ tìm thấy con quái vật ở nơi tối tăm nhất trong phòng ngủ của một đứa nhóc. Ai nghĩ ra được mấy chỗ đó có thể là chỗ nào nào?”
Một thằng bé Da đỏ thấp người ngập ngừng giơ tay. “Ở đâu nào?” ông Rex hỏi.
“Dưới gầm giường ạ?” thằng bé hỏi dò.
“Dưới gầm giường, dĩ nhiên! Chú mày đã được một sao vàng! Nói vậy thôi, chú mày hiểu ta nói gì mà, há? Chúng ta đã nghe nói đến bao nhiêu lần về ‘quái vật dưới gầm giường’ rồi hả? Đó, đó là vì tới hơn năm mươi phần trăm đấy là chỗ bọn chúng ẩn trốn! Kể tên chỗ khác xem nào.”
Nhờ thành công của thằng đầu tiên khuyến khích, nhiều đứa khác cũng giơ tay. Ông Rex chỉ đứa nhỏ nhất, một con bé mặt tròn, tóc thắt bím.
“Nhóc... Tóc thắt bím. Nói đi.”
“Trong tủ ạ,” con bé nuốt khan.
“Trong cái tủ chết bầm, cám ơn!” ông Rex gầm lên. “Quái vật dưới gầm giường, lão ông Kẹ trong tủ, con ma trên gác mái - chúng ta nghe về ba cái chuyện này suốt vì chúng là có thật . Cho nên khi lần đầu tiên được gọi tới khám một cái nhà nghi đã mở cổng - ngay tức khắc tụi bay phải đi tìm cái gì ?”
“Chỗ tối tăm nhất,” cả lớp hét to.
“Trời ạ, vậy là vẫn còn hy vọng cho chúng mày rồi,” ông Rex nói, mặt hơi tươi lên một chút. “Nhưng trước khi bắt đầu tán thưởng lẫn nhau, hãy nói tới nghề Trừ Tà cái đã.”
Ông bước đến một cái bàn gỗ thô, trên bàn bày đủ loại vũ khí có vẻ như đã sử dụng qua - những thanh kiếm cong queo, những cái rìu sứt mẻ, những cây trượng gãy cán. Chẳng hứa hẹn gì mấy.
“Rồi, ta biết mấy món này giống như đồ tạp nhạp bỏ đi, mà đúng là thế thật, nhưng tụi bay chưa xứng đáng xài đồ tốt hơn, ít nhất là cho tới khi biết phải làm gì với vũ khí thật . Nhưng dù là đồ bỏ đi, chúng vẫn có ích hơn chán vạn các vũ khí bình thường, ít nhất là cho mục tiêu của chúng ta. Xem đây, tất cả mấy món này đều làm bằng nguyên liệu ở Âm Ti - quặng sắt, dây thừng, ba cái đồ như thế - vì vậy chúng sẽ đáp ứng với những người có Khả năng. Giờ thì tới mà lấy mỗi đứa một món đi.”
Đám học sinh lao tới bàn. Violet chọn một dao găm nhỏ vì đó có vẻ là lựa chọn ít dữ dằn nhất. Cán dao quấn đầy băng keo, có lẽ để giữ cho cán khỏi bị rớt ra. Con dao ánh lên màu xanh mờ mờ trong tay cô bé.
Charlie bị hấp dẫn trước một thanh kiếm mỏng và dài. Tuy thanh kiếm không có đủ sức nặng của một thanh trường kiếm, nhưng kém về trọng lượng thì bù lại tốc độ phải nhanh hơn. Charlie huơ kiếm múa loạn cả lên, để lại một màn sương bàng bạc xanh biếc trong không trung. Mấy đứa khác trong lớp thì vồ lấy những vũ khí còn lại - một cây trượng, vài thanh kiếm, thậm chí cả một cây giáo. Sau khi tất cả các Chiến binh Trừ Tà non trẻ đã chọn xong vũ khí thì trên bàn gỗ chỉ còn một đống đồ tạp nhạp lạ lùng - một sợi xích kim loại, một cái xà beng, một cây đèn pin, và một cái mở nút chai.
“Không đứa nào muốn cái mở nút chai hả?” ông Rex hỏi. “Chắc không đó? Chúng mày không biết khi nào lại cần đến một cái mở nút chai tốt đâu.”
Vẫn không đứa nào lấy. Bọn học sinh, biết ngay mà, rõ ràng là mê mẩn mấy món vũ khí giết chóc mà chúng đã chọn hơn. “En Grade! [1] ” Charlie nói, thích thú thách thức một thằng khác đấu tay đôi. Chúng bắt đầu chơi trò đánh nhau, và chẳng bao lâu những đứa khác
cũng tham gia. Kiếm choảng với trượng, búa đánh với rìu.
“Ê, ê, ê,” ông Rex quát lên. “Bỏ hết mấy thứ đó xuống kẻo hớt đứt mũi, chặt gãy chân nhau bây giờ. Đây không phải là nhà trẻ; đây là chuyện nghiêm túc.”
Bọn trẻ miễn cưỡng hạ vũ khí.
“Bây giờ thử xem chúng bay làm ăn thế nào với con Dịch vật Âm Ti đầu tiên của mình đây.”
Những cánh cửa gỗ lớn dẫn vào đấu trường bất ngờ mở ra và một con Cà khêu Âm Ti cỡ một chiếc xe tải nhỏ bò vào trên tám cái chân nhện khổng lồ của nó. Đám học sinh há hốc miệng thối lui, chẳng đứa nào chuẩn bị cho thứ gì thế này trong buổi học đầu tiên.
“Chúc may mắn,” Rex toét miệng cười, và bước ra sau đấu trường. Khi đi ngang qua Charlie, ông thì thầm, “Này, nhóc, đáp án là bốn nhé.”
“Đáp án gì cơ ạ?” Charlie hỏi, nhưng Rex đã đi qua mất rồi.
Khi con Cà khêu Âm Ti đến gần, cả lớp rụt rè chĩa mấy món vũ khí rẻ tiền của chúng ra trước, rọi một làn ánh sáng xanh lờ mờ vào con quái vật dữ tợn. Con Cà khêu Âm Ti trố đôi mắt nhện đen tuyền nhìn chúng... rồi ngửa đầu ra cười ngất.
“Các ngươi nghĩ mình đang làm gì vậy chứ?” nó hỏi thích chí.
[1] Tiếng Pháp, nghĩa là “Phòng thủ đi!”
CHƯƠNG MƯỜI - CON QUÁI VẬT BIẾN HÌNH
“Nó... nó nói gì thế ạ?” đứa con gái tóc thắt bím ngơ ngác hỏi.
“ Nó ...” con Cà khêu Âm Ti nhấn nhá trả lời, “nó nói là, ‘Và các ngươi nghĩ mình đang làm cái quái gì vậy?’ Chắc là nó buồn cười khi thấy cả một lớp Noob chĩa vũ khí về phía nó đó mà.”
Ông Rex bước trở ra.
“Nhân tiện, nó đây có tên đấy,” ông vừa nói vừa trìu mến vỗ vào một cái chân đầy lông của con vật. “Đây là giáo sư Xixclix, ông ấy từng là sư phụ quái vật của Học viện từ hồi ta còn là một Noob kia. Bác khỏe không, bác Xix?”
“Cũng không tệ lắm,” con Cà khêu nhe răng cười. “Có điều là dường như ta cứ ngày càng già đi mà bọn chúng thì không.”
“Ừ, tuổi tác thì có chừa ai đâu, ngay cả những người giỏi nhất trong chúng ta,” ông Rex nồng nhiệt đáp lại rồi quay sang cả lớp. “Bài học tiếp theo đây: sinh vật Âm Ti không phải tất cả đều là những con quái nhỏ dãi và ngu đần. Một vài trong số đó khá là tinh khôn. Và như trường hợp của lão già Xix đây, thì ít nhất cũng đã có một tên phía Âm Ti đổi phe về giúp chúng ta. Xix, nhờ kinh nghiệm khá đặc biệt của mình, đã hiểu rõ được tất cả các loài sinh vật Âm Ti mà chúng ta sẽ sử dụng trong khóa huấn luyện này.”
“Đúng rồi,” Xix nói và bò nhanh về phía trước. Bọn học sinh theo bản năng lùi lại ngay. “Giờ tất cả các ngươi đều đã biết ta là Cà khêu Âm Ti, nhưng ai có thể cho ta biết ta thuộc hạng mấy nào?”
Tất cả đều im lặng cho đến khi Charlie đột nhiên nhớ lại lời Rex từng nói với nó - đáp án là bốn .
“Bốn!” nó hét lên.
“Chính xác,” Xix nói. “Để biết Hạng của một Cà khêu Âm Ti, các ngươi chỉ cần đếm cuống mắt.” Charlie nhìn, đúng là lão Xix có bốn cuống mắt. “Còn một câu hỏi khác. Khi một sinh vật ở Âm Ti lớn lên, nó được lên hạng hay cứ ở mãi một hạng suốt đời?”
Violet ngập ngừng giơ tay.
“Ngươi, Chiến binh Trừ Tà trẻ tuổi,” Xix trỏ một cái chân lông lá về phía cô bé.
“Được lên hạng ạ?” cô bé đánh bạo nói.
“Đúng lắm,” lão Cà khêu gật đầu. “Và nhờ đâu mà ngươi có được kết luận như vậy?”
“Vì cháu để ý thấy ông có cuống mắt thứ năm mới nhú lên, nghĩa là ông đang lên Hạng 5.”
“Giỏi lắm!” Xix khen. “Ngươi rất biết quan sát. Khi mới tham gia Học viện Ác mộng, ta ở Hạng 3. Vài năm sau đó ta lên Hạng 4. Và chẳng bao lâu nữa ta sẽ lên Hạng 5. Ngươi có cặp mắt tinh đó, Chiến binh Trừ Tà trẻ tuổi ạ.”
“Cám ơn ông,” Violet nói, mặt hơi ửng hồng.
“Giờ thì ngồi yên đó, ta sẽ trở lại ngay với thách thức đầu tiên dành cho các ngươi.” Nói rồi lão bò vụt ra khỏi đấu trường qua những cánh cửa lớn bằng gỗ.
“Trong khi chờ,” ông Rex nói và bước lên phía trước, “ta muốn cả lớp gặp Kyoko, một Pháp sư Khai cổng cấp Leet. Hôm nay cô sẽ giúp chúng ta tạo cổng.”
Một cô gái châu Á mười bảy tuổi, cao ráo, từ trên khán đài bước xuống. Mái tóc đen dài xõa xuống làn da trắng như sứ. “Chào mọi người,” cô cười. “Giáo sư cần mở cổng bây giờ ạ?”
“Không, cô hãy mở cổng ngay khi lão Xix mang ra con quái mà bọn Noob này sẽ Trừ khử... Và cứ gọi ta là Rex.” “ Okay ,” Kyoko nói và khúc khích cười.
Chị này mê ông Rex rồi, Charlie thích thú nghĩ thầm.
Vừa lúc đó, lão Cà khêu quay trở lại, mang theo một túi tơ nhện đang nhúc nhích, trông không khác một cái kén là mấy. Xix đặt túi tơ xuống nền cát của đấu trường. “Xin giới thiệu một con Ectobog Hạng 1,” lão nói, rồi nhanh nhẹn rạch túi tơ để lộ con vật bên trong.
Một cục tròn tròn màu xanh lục cỡ một con chó to trườn ra. Cái thứ ấy đặc một khối như con sứa; và ở chính giữa thân con Ectobog, Charlie có thể thấy những gì còn lại của bữa ăn cuối cùng của con quái ấy. Trong đó có một ít xương nhỏ, một cái khóa thắt lưng, và thứ gì đó trông giống như một cái iPod.
“Charlie, đứng lên,” ông Rex hất ngón tay cái về phía Charlie.
“Cháu?” Charlie hốt hoảng. “Cháu phải làm gì ạ?”
“Thì tống nó qua cổng, dĩ nhiên là thế rồi,” ông Rex điềm nhiên trả lời, rồi quay sang Kyoko. “Phiền cô mở giùm một cái với.”
Kyoko nhắm mắt lại và gắng hết sức tập trung. Người cô sáng rực những tia lửa điện màu tím, và vài giây sau, một cái cổng nhỏ đã được cô mở ra ngay giữa đấu trường.
“Ừm,” Charlie ngập ngừng.
“Nào, nhóc, không đời nào nó tự tống mình qua cổng đâu,” ông Rex trêu.
Charlie rón rén đi về phía con Ectobog, thanh kiếm xỉa ra phía trước, thận trọng dò dẫm như người mù chống gậy. Khi đến gần con vật, ánh sáng xanh của thanh kiếm chợt rực hẳn lên.
“Thấy chưa, càng tới gần Dịch vật Âm Ti thì ánh sáng xanh càng rực rỡ hơn,” ông Rex thuyết minh. “Mà thật ra đôi khi còn có thể dùng nó để biết có đứa chơi xấu nào đang lén lút tấn công mình hay không nữa kìa.”
Cả lớp gật gù nhưng Charlie chẳng nghe thấy gì nữa; nó đang tập trung vào cái đống lờn nhờn trước mặt. Khi Charlie chỉ còn cách con Ectobog chừng một thước thì hình như con quái ấy cũng đã nhận ra. Con Ectobog chậm chạp trườn về phía nó, làn da lấp loáng như vệt dầu loang sau cơn giông.
“Giờ thì sao ạ?” Charlie hỏi.
“Sao mà ta biết được?” ông Rex nhe răng cười. “Chú mày là Chiến binh Trừ Tà kia mà.”
“Được rồi...” Charlie lầm bầm rồi quay lại với con Ectobog. Càng đến gần Charlie, con quái di chuyển càng nhanh. “Lui lại!” Charlie vừa thét lên vừa vụt kiếm xuống. Sửng sốt, nó nhận ra con Ectobog đã bị cắt gọn ghẽ làm đôi. “Tuyệt!” nó nói sau khi nhận ra mình đã làm được gì.
Cả lớp vỗ tay reo hò. Charlie cảm thấy một đợt sóng nóng bỏng của thành công và tán thưởng ập vào người. “Hay lắm, Charlie!” Violet la to.
Charlie quay lại và cúi chào như trên sân khấu.
Trong khi nó làm thế thì có chuyện lạ lùng xảy ra đằng sau lưng. Hai nửa của con Ectobog rung rung như hai miếng thạch đông, rồi từ từ lớn dần lên cho đến khi thành hai con Ectobog riêng rẽ, mỗi con to bằng đúng kích cỡ ban đầu.
Và cả hai cùng đang trườn về phía Charlie.
“Coi chừng!” Violet thét lên.
Charlie quay lại và thấy hai con quái đang trườn về phía mình. “Cháu phải làm gì bây giờ?” nó hét. “Chém thì lại biến thành hai con.” “Ôi, thật đúng là nan giải,” ông Rex đáp lại, có đôi chút thích thú.
Bất ngờ một con Ectobog đụng vào bàn chân Charlie và nhanh chóng trườn lên, Charlie có thể cảm thấy con quái ấy ở ngay trong quần jeans mình. Lạnh và ướt không khác gì một con hàu.
“Nó bắt được cháu rồi!’ Charlie hét lên, và phần lớn là do bản năng, lại cắt con quái kia ra làm đôi lần nữa. Con vật lại được tách gọn gàng làm hai. Và chỉ tích tắc sau, hai nửa lại rung rinh, rồi mỗi nửa lại nhanh chóng phình lớn lên như ban đầu. Ngay tức thì, cả hai con cùng trèo lên bụng Charlie, cùng lúc đó, con thứ ba cũng bắt kịp và nhập bọn.
Bây giờ trên người Charlie đã có tới ba con.
“Ố ồ,” ông Rex thản nhiên. “Ai đó nên làm gì đó đi thôi. Chậm là nguy đấy.”
Bọn trẻ trong lớp nhìn nhau run rẩy. Không đứa nào biết phải làm gì . Làm sao đánh bại được một con vật khi mà càng tấn công thì nó càng mạnh lên chứ?
“Đợi đã...” đột nhiên Violet nói.
Violet quăng dao găm xuống và chạy trở lại bàn để khí giới. Cô bé hấp tấp lục lọi trong đống đồ vứt đi, chộp lấy một cây đèn pin và bật lên. Ánh sáng trắng phát ra từ bóng đèn tụ lại thành một luồng, trong khi bản thân cây đèn cũng phát ra một màu xanh rực rỡ. Cô bé hướng cây đèn pin vào mấy con Ectobog lúc này đang bò lên ngực Charlie, hướng về phía mặt nó.
“Buông cậu ấy ra!” cô bé thét lên.
Bọn Ectobog phản ứng với ánh đèn như thể bị chích vậy. Chúng mau lẹ trượt khỏi người Charlie và rút lui. Violet chồm tới, sử dụng luồng sáng để dồn bọn chúng về phía cánh cổng đang mở.
“Đi!” Violet hét lớn. “Cút khỏi đây!”
Thêm một lượt quét đèn pin nữa, lũ Ectobog đã bị lùa hết qua cổng.
“Đóng lại nhé?” Kyoko hỏi, những ngọn lửa tím bập bùng quanh người cô.
“Vâng ạ,” Violet trả lời mà tim đập liên hồi trong lồng ngực.
Kyoko vẫy tay một cái, đóng cổng lại, nhốt bọn Ectobog dưới Âm Ti. Tất cả chìm trong yên lặng, cho đến khi sự im lặng bị phá vỡ bằng tiếng vỗ tay của ai đó. Violet quay lại thì thấy Rex đang chúc mừng mình bằng một tràng pháo tay.
“Cách làm là như vậy đó,” ông nói. “Điều gì làm cô nhỏ này nghĩ ra chuyện sử dụng đèn pin thế?”
“Vì lúc nãy thầy có nói về chỗ tối tăm nhất, rằng bọn quái vật ở Âm Ti không thích ánh sáng.”
“Chính xác,” ông Rex nói và nhảy vọt về phía Violet. “Thấy chưa, Trừ tà không phải chỉ có chiến đấu và dùng sức mạnh, mà chủ yếu là dùng đầu óc kìa . Hay như mẹ ta vẫn thường nói, ‘Dùng cái ở trên cổ của con ấy’. Tay Đấm nào biết giữ cái đầu và suy nghĩ của mình không bị đóng khung là kẻ sẽ sống sót để một ngày kia đi trừ tà. Chúc mừng cô nhóc.”
Ông thân mật nháy mắt với Violet.
Violet rời lớp học, trong lòng vô cùng phấn khởi. “Có lẽ tớ làm được việc này thật,” cô bé nói khi hai đứa đang đi dọc bên ngoài những hang động dẫn đến đấu trường Trừ tà. “Đó không phải chỉ là chuyện đánh nhau hay chuyện của con trai. Trừ tà cũng cần tới cả đầu óc.”
“Ừ, tuyệt,” Charlie lẩm bẩm.
“Cậu sao thế?”
“Lúc ấy trông tớ như một thằng ngốc ấy!”
“Không, không có đâu,” Violet cãi. “Nếu tớ bị bắt lên đầu tiên như cậu thì tớ cũng chẳng biết phải làm gì. Phải có người tấn công nó trước thì mới biết sẽ có chuyện gì xảy ra mà xử lý chứ.”
“Chắc vậy,” Charlie nói, rõ là chẳng được thuyết phục tẹo nào.
“Tay ĐDK kia rồi!” một giọng từ đâu đó dưới bãi biển hét vọng lên. Charlie và Violet quay lại. Theodore đang nhảy nhót về phía chúng, mặt vẫn còn đỏ và sưng húp vì những cú đấm của Geoff. Học viện Ác mộng hiện ra lờ mờ phía sau nó. “Lớp Trừ tà Vỡ lòng sao rồi?”
“Tuyệt vời!” Violet ríu rít, trong khi Charlie thì, “Thê thảm.”
“Hiểu rồi,” Theodore liếc nhìn hết đứa này đến đứa kia. “Thế này gọi là BĐNT - tức là Bất đồng nghiêm trọng đấy.”
“Kệ Charlie đi,” Violet nhoẻn miệng cười tinh nghịch. “Cậu ấy dỗi vì không có cơ hội cho thế giới biết cậu ấy là Chiến binh Trừ Tà cừ khôi nhất đời đó mà.”
“Không phải vậy,” Charlie cãi. “Tớ đâu cần phải là Chiến binh Trừ Tà cừ khôi nhất đời. Tớ chỉ không muốn làm đứa bầy hầy nhất đời thôi.”
“Rồi, mày sắp có cơ hội xoay chuyển tình thế rồi,” Theodore nói và vỗ lưng Charlie. “Lớp Pháp thuật Khai cổng Nhập môn bắt đầu bây giờ đấy.”
Trong lớp Pháp thuật Khai cổng lúc nào cũng là ban đêm.
Tối tăm và bí ẩn, phòng học nằm bên trong một khu vực được khoét sâu ngay giữa lòng cây đa, chỉ có thể đến được qua một cây cầu làm bằng dây rung rinh đến chóng mặt và xem chừng cần tu sửa lắm lắm rồi. Khi Theodore và Charlie bước vào thì trong lớp đã đầy học sinh đang huyên thuyên tán dóc. Vừa nhìn thấy hai đứa, tiếng huyên thuyên thưa dần rồi tắt hẳn như xe hết xăng.
“Ôi trời, tụi nó đang nói chuyện về mình đó,” Charlie thì thầm.
“Cứ để tụi nó nói,” Theodore đáp với một chút tự hào. “Đâu phải ngày nào cũng có cơ hội nhìn thấy một Đe Dọa Kép với một cỗ máy chiến đấu đứng cạnh nhau đâu chứ.”
“Mày tự tin thật đấy nhỉ?”
“Đương nhiên rồi,” Theodore nói. “Tao không tin thì ai tin bây giờ?”
Charlie cười. Sự tự tin của Theodore như một thứ phép màu vậy. “Có lẽ mày đúng,” nó nói, rồi liếc nhìn lên trần. Nó ngạc nhiên khi khám phá ra có đầy sao ở trên ấy. Không phải sao giả như ở trong phòng ngủ của nó, những ngôi sao này trông thật lắm kia. Một ngôi sao chổi vạch một đường cô độc ngang qua mái nhà, túa lửa ra trước khi đụng vào tường.
“Kỹ thuật ba chiều đó, chắc luôn,” Theodore vừa nói vừa chỉ cảnh tượng kinh ngạc trên đầu. “Chắc chắn là có máy chiếu phía sau. Hệ thống tuyệt vời. Quá đỉnh.”
“Ừ,” Charlie đồng ý, nhưng nó không chắc ăn lắm. Những ngôi sao và hành tinh lấp lánh trên đầu chúng trông thật vô cùng, có cảm tưởng người ta có thể du hành đến đó được vậy.
Đột nhiên, một tiếng bốp nhẹ, và một cánh cổng mở ra trên cây trụ to trước mặt đám học sinh đang chờ đợi. Tabitha bước qua rồi đóng cổng lại sau lưng.
“Chào cả lớp,” cô nói, và bồn chồn chỉnh lại mớ trang sức của mình. “Ta tên là Tabitha Greenstreet, nhưng do cô hiệu trường yêu cầu các em gọi ta là giáo sư Greenstreet nên ta nghĩ thôi thì chúng ta cứ làm theo lời cô ấy dặn. Đây là ngày đầu tiên các em học Pháp thuật Khai cổng Nhập môn và cũng là ngày đầu tiên ta dạy môn này, thế nên chúng ta cùng giúp nhau học hành cho thoải mái nhé, được chứ?”
Cả đám học sinh gật gù.
“Tốt,” cô nói tiếp. “Pháp thuật Khai cổng là nghệ thuật mở cổng vào và ra khỏi Âm Ti, và đó chính là một nghệ thuật. Nào, tất cả các em đều có khả năng mở cổng, nếu không thì đâu có ngồi đây hôm nay; nhưng các em không thể mở cổng theo đúng ý mình, hay mở sao cho chính xác . Thế giới có vô số trẻ em không biết mình đã mở cổng khi gặp ác mộng, nhưng ta tin rằng một số ít đã được chọn
đến đây có khả năng mở cổng ngay cả khi thức giấc, và mở đến một nơi cụ thể. Và cái gì cho phép các em làm được điều đó?” “Khả năng,” Alejandro Ramirez ngay tức khắc trả lời.
“Đúng,” Tabitha nói. “Và trí tưởng tượng cho phép chúng ta đến với Khả năng, nhưng cái gì đã khơi dậy nó? Chúng ta phải kết nối Khả năng của mình với loại cảm xúc nào?”
“Sự sợ hãi,” Charlie nói mà thậm chí còn không biết là mình đã mở miệng ra. Khi nhận ra mình đã nói to thế nào, nó chợt cảm thấy sượng sùng.
“Đúng đó, Charlie ạ,” Tabitha nói. “Nỗi sợ là vũ khí và cũng là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta cần nó để làm việc cho đúng, tuy nhiên, nếu không kiểm soát và định hướng được thì chính nỗi sợ hãi sẽ làm ta quay lưng bỏ chạy đúng vào lúc ta cần dùng nó nhất. Thế nên, câu hỏi đầu tiên mà chúng ta phải tự hỏi mình là, ‘Chúng ta tiếp cận với nỗi sợ như thế nào?’ Làm thế nào khiến mình đủ sợ để mở cổng khi cần đến? Mở vào ban đêm khi gặp ác mộng thì dễ rồi, nhưng làm thế nào chúng ta làm được điều đó vào ban ngày, và cho mục đích của mình đây?”
Đám học sinh im thin thít. Tabitha quay qua Charlie. “Em thì sao? Đêm qua em đã mở cổng, khá tốt. Ta đã giúp em. Lúc đó ta đã làm gì?”
“Cô bảo em rằng em đang ở trên nóc một tòa nhà cao.”
Tabitha gật đầu. “Đúng rồi. Nỗi sợ độ cao. Nói tiếp đi.”
“Cô nói em rơi xuống.”
“Sợ bị rơi. Tiếp đến chuyện gì xảy ra?”
“Ơ... Em không nhớ.”
“Ta nghĩ em có nhớ,” Tabitha thúc giục. “Trong lớp học này, chúng ta sẽ chia xẻ một vài cảm xúc rất riêng tư. Có thể không dễ chịu nhưng như thế là cần thiết. Thế nên, ta hỏi em lần nữa này... Tiếp đến chuyện gì xảy ra?”
Charlie nói tiếp, dù đó là việc rất khó khăn và đau đớn đối với nó. “Cô nói bố mẹ em có thể cứu được em nếu họ muốn... nhưng họ không muốn.”
“Đúng rồi, Charlie. Cám ơn em. Sợ bị bỏ rơi. Nói tiếp đi.”
“Cô nói ở đó có những đứa trẻ khác có thể giúp được em, nhưng chúng cũng không muốn giúp.”
“Sợ bạn bè đồng trang lứa chối bỏ. Rất kinh khủng. Và còn một điều nữa, phải không? Khi em rơi xuống đất, ta đã nói rằng em có thể bị làm sao?”
“Cô nói là em sẽ chết,” Charlie nói khẽ.
“Sợ chết,” Tabitha gật đầu đồng ý. “Vậy là, sợ độ cao, sợ ngã, sợ bị bỏ rơi, sợ bị chối bỏ, sợ chết. Một hoặc tất cả những nỗi sợ hãi đó đã khiến Charlie tiếp cận được với Khả năng và cho phép em ấy mở một cái cổng.”
“Đâu phải chỉ là một cái cổng,” Theodore kêu lên. “Mà là cái cổng to nhất, to chưa từng thấy!”
“Đúng vậy,” Tabitha trả lời. “Nhưng đó là bởi vì năng lực kiểm soát Khả năng của Charlie còn non nớt và chưa được tập trung. Trong lớp này, chúng ta sẽ học cách kiểm soát nó. Đấy, khi giúp Charlie mở cổng, ta đã sử dụng nhiều nỗi sợ hãi thường gặp, hy vọng trong số đó có đúng nỗi sợ giúp em ấy sử dụng được Khả năng của mình. Các em thấy đó, nỗi sợ hãi không giống nhau. Các em phải tìm cho được một nỗi sợ hãi của riêng mình, tức điều gì làm cho các em sợ; tìm bằng cả con tim lẫn trí óc, để cho phép các em mở được cổng. Chúng ta sẽ dành ra vài ngày tới cố phát hiện ra những nỗi sợ hãi ấy, để các em có thể tiếp cận được Khả năng khi cần thiết.”
“Nhưng không làm được đâu ạ,” Alejandro nói. “Làm sao tự mình làm cho mình sợ được chứ ạ?”
“Thế các diễn viên tự làm mình khóc như thế nào?” Tabitha phản bác. “Khi đạo diễn nói ‘Diễn’ thì họ đã làm cách nào để rơi nước mắt thật được? Họ đã nghĩ đến những chuyện làm họ đau buồn, chuyện riêng tư , để thúc đẩy cảm xúc.”
Charlie liếc quanh. Những đứa học sinh khác có vẻ băn khoăn lo lắng. Charlie biết chính xác bọn chúng cảm thấy thế nào.
“Ta không đùa với các em đâu,” Tabitha vừa bước về phía chúng vừa nói tiếp. “Các em được triệu tập đi theo một con đường gian nan và khắc nghiệt. Các em sẽ phải hàng ngày đối mặt với những nỗi sợ hãi sâu kín nhất. Hầu hết mọi người đã phải mất cả đời để cố nghĩ ra cách tránh bị sợ hãi, nhưng các em lại đi săn tìm nó. Quy trình này thoạt đầu sẽ không mấy dễ chịu, thậm chí còn ác nghiệt nữa, nhưng lại rất cần thiết.” Cô dừng lại trước mặt Theodore. “Điều gì làm em sợ, chàng trai trẻ?”
“Em chẳng sợ gì cả,” Theodore nói, ưỡn thẳng người trên ghế. “Thật ra em nên làm một Chiến binh Trừ Tà mới phải, vì chẳng có gì làm em sợ hết. Bố em là một Chiến binh Trừ Tà đấy,” nó hãnh diện nói thêm.
“Được rồi, vậy thì,” Tabitha nói. “Hãy bắt đầu với em nhé.”
Theodore ngồi trên chiếc ghế kê ở đầu lớp. “Không ăn thua gì đâu cô ạ,” nó nói và khoanh tay lại.
“Cứ thư giãn đi,” Tabitha dịu dàng nói với nó. “Ta muốn em gặp thứ này, đó là một sinh vật từ Âm Ti.”
Cô bước đến một cái lồng nhỏ đặt trên một cái bàn được tạc từ ruột của cây đa. Cái lồng phủ một tấm nhung đen. Tabitha lùa tay vào dưới miếng vải nhung và kéo ra một thứ.
“Đây là một con Snark,” cô nói.
Cả bọn chồm người tới trước để xem cái thứ cô cầm trong tay. Đó là một quả bóng lông tí hon, có vẻ mỏng mảnh, với đôi mắt tròn lớn và một cái miệng nhỏ giống như mỏ chim.
Nó kêu gù gù khe khẽ.
“Oài, yêu thế!” một đứa con gái trong lớp thốt lên.
“Con Snark này ăn nỗi sợ cũng giống như muỗi hút máu vậy,” Tabitha nói tiếp. “Khi muỗi hút máu thì cơ thể nó tròn đầy lên. Còn loài Snark đây khi ăn cũng thay hình đổi dạng.”
“Thành cái gì ạ?” Theodore hỏi.
“Em sẽ thấy ngay thôi,” Tabitha vừa nói vừa đặt con Snark lên vai thằng nhóc. Con Snark nhẹ như một cái lông, bám vào vai Theodore bằng đôi chân chim nhỏ khẳng khiu. “Giờ,” Tabitha nói, “hãy nhắm mắt lại nào.”
Theodore làm theo.
“Vậy là em không sợ bất cứ thứ gì, phải không?” cô hỏi.
“Không sợ. Luôn luôn là vậy. Em là một cỗ máy chiến đấu - vô cảm, sức mạnh hung tợn.”
“Như bố em phải không?”
“Chính xác. Ông là một trong những Chiến binh Trừ Tà mạnh mẽ nhất. Ngay bây giờ ông đang có mật vụ. Cô biết mật vụ là gì không?”
“Ta biết,” Tabitha nói. Con Snark kêu chiêm chiếp và gù gù nho nhỏ trên vai Theodore. “Hẳn ông phải rất tự hào khi biết em được nhận vào Học viện Ác mộng.”
“Hẳn rồi. Cha nào con nấy mà cô.”
“Nhưng không phải như vậy, có đúng không?” Tabitha nói tiếp. “Em nghĩ ông sẽ cảm thấy thế nào khi biết em không phải là Chiến binh Trừ Tà như ông?”
“Nhưng cô thấy đấy, em là một Chiến binh Trừ Tà thật mà. Chỉ vì có trục trặc với cái con cá hồi ngớ ngẩn kia thôi, em đã cố giải thích với cô hiệu trưởng rồi. Em nghĩ nó bị bệnh hay bị gì gì đó.”
“Bố em chưa bao giờ gặp phải vấn đề như thế cả, phải không?”
“Chắc là không ạ,” Theodore nói, nó ngọ nguậy một cách bứt rứt. “Nhưng vấn đề là, cả cuộc đời của chúng ta không thể được quyết định bởi một con cá ngu ngốc bị khuyết...”
“Sự thật là không phải là một Chiến binh Trừ Tà,” cô Tabitha ngắt lời Theodore khi tiến sát nó hơn. “Em muốn được như thế, bố em kỳ vọng em được như thế, nhưng em không làm được. Em không đủ mạnh mẽ, phải không?”
“Nhưng em mạnh mẽ,” Theodore nói nhanh.
Có chuyện xảy ra với Snark. Con này bắt đầu phình to lên, theo những góc cạnh kỳ quái. Bộ lông vàng nhạt tróc ra, chỉ còn lớp da trần đỏ hỏn. Một cái đuôi có ngạnh từ thớ thịt thò ra, một cái hàm cũng bắt đầu nhô ra - một cái hàm có những cái nanh nhỏ nhưng nhọn hoắt.
Thấy vậy Tabitha bèn ép thêm, mỗi lúc một căng thẳng hơn.
“Em là nỗi thất vọng của bố.”
“Không...”
“Ông chỉ muốn có một đứa con trai giống mình, một thanh niên mạnh mẽ, một cỗ máy chiến đấu có thể tiếp bước ông và cho ông lòng hãnh diện. Thay vào đó, ông lại có em - một Pháp sư Khai cổng nhỏ bé và yếu đuối.”
Bây giờ Theodore đã chực khóc, nhưng con Snark...
Con Snark đã to hơn nhiều lắm rồi, bằng cỡ con kền kền. Những đôi cánh dơi đen bung ra sau lưng nó, lởn vởn ngay sau lưng Theodore với một âm thanh rúng động quái dị. Bên dưới cặp mắt to không mí là một cái lưỡi giống như lưỡi rắn, thò ra thụt vào một cái mõm lởm chởm đầy răng, như thể nó cảm nhận được nỗi sợ hãi trong không khí.
“Có lẽ bố không quan tâm đâu...” Theodore nói nhỏ, và bắt đầu lắc lư. “Có lẽ dù thế nào thì bố cũng sẽ tự hào về em.”
“Nhưng em thật sự không tin như thế phải không? Em nghĩ ông sẽ quan tâm rất nhiều ấy chứ. Nếu ông không muốn em là con trai của ông nữa thì sao? Nếu ông thậm chí đến cả nhìn em cũng không chịu nổi nữa thì sao?”
“Nếu bố xấu hổ vì em thì sao!” Theodore đột nhiên gào lên, mắt mở to kinh hãi. “ Nếu bố không thương em nữa thì sao?”
Đến đây thì con Snark đã to bằng con linh cẩu, cái lưỡi chẻ nhánh của nó nếm hút không khí một cách tham lam như người sắp chết đuối nuốt lấy nuốt để ngụm dưỡng khí đầu tiên.
“Cô ngừng lại đi!” Charlie quát lên với Tabitha. Rồi nó quay sang Theodore. “Đừng tin cô ấy, mày biết không phải như thế mà.” Nhưng Theodore không còn nghe được lời Charlie nói nữa.
Nỗi sợ hãi của nó gia tăng nhanh chóng như một khối tuyết lăn xuống đồi. Đột nhiên, có một tiếng bốp nhẹ rồi một cái cổng nhỏ, không lớn hơn một cái bánh xe đạp là mấy, với những tia lửa tím nổ lốp bốp quanh vành xe, mở ra trước mặt Theodore. Nhìn qua đó, Charlie nhìn thấy được dải đất cằn cỗi của Âm Ti và một bầy quái vật mà nó nhận ra là lũ Gremlin. Hoảng hốt, chúng chạy nháo nhác khỏi cái cổng mở, biến vào những kẽ hở tối tăm giữa những tảng đá.
“Tốt,” Tabitha nói, giữ chặt khuôn mặt Theodore và bắt nó phải tập trung chú ý vào cô. “Em làm được rồi đấy.” “Gì ạ?” Theodore sửng sốt nói như thể vừa tỉnh dậy từ một giấc ngủ sâu.
“Em đã mở được cổng vào Âm Ti, ở vòng thứ nhất.”
Theodore kinh ngạc đăm đăm ngó cái cổng lập lòe trước mặt mình. “Em đã làm thế sao?”
Tabitha gật đầu và mỉm cười trìu mến. “Chúc mừng... Pháp sư Khai cổng.”
Hơi thở của Theodore chậm lại, một nụ cười phớt qua bộ mặt sưng vù của nó. Cái cổng chập chờn một khắc, như một ảo ảnh, rồi biến mất với một tiếng bốp nghe rất rõ.
Phía trên Theodore, con Snark bắt đầu co rút lại. Cái quai hàm đầy nanh nhọn thụt trở lại vào trong mặt, cái đuôi cùng những cánh dơi rút vào thớ thịt, và khi Snark đáp xuống thì bộ lông tơ vàng nhạt mọc ra cho đến khi một lần nữa nó biến thành một quả bóng vàng nhỏ phủ lông tơ đáng yêu đậu nhẹ nhàng trên vai Theodore.
Nó kêu chiêm chiếp rồi gù gù. Cả lớp nhìn chăm chăm kinh ngạc.
“ Wow ,” Alejandro lẩm bẩm.
“Có vẻ như chúng ta đã tìm được chìa khóa cho em rồi, Theodore ạ,” cô Tabitha nói. “Đó là nỗi sợ hãi riêng tư mà qua rèn luyện em có thể sử dụng để tạo cổng bất cứ khi nào cần thiết. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng Chiến binh Trừ Tà là những người dũng mãnh nhất, nhưng chúng ta ở đây biết rằng những thứ đáng sợ nhất không phải ở ngoài kia... mà là ở đây.” Cô vỗ nhẹ vào đầu mình rồi nói tiếp, “Và chúng ta đối mặt với những nỗi sợ hãi đó hàng ngày. Ta hãnh diện về em.”
“Cám ơn giáo sư Greenstreet,” Theodore nói khẽ và nhảy ra khỏi ghế.
“Vậy... ai tiếp theo đây?” Tabitha hỏi.
Chẳng có lấy một đứa học sinh nào giơ tay.
Cô mỉm cười rầu rĩ. “Lo sợ hả? Ta không trách các em. Như ta đã nói, công việc của chúng ta ở đây có vẻ khó khăn, thậm chí tàn ác nữa, nhưng lại rất cần thiết nếu các em muốn làm chủ quyền năng của mình. Ai cũng đến phiên phải lên cả. Chúng ta hãy bắt đầu với em nào.” Cô chỉ tay ra hiệu cho một cô bé mảnh khảnh tóc nâu. Cô bé ngại ngùng đứng lên và đi về phía trước.
Cứ như thế suốt gần hai tiếng đồng hồ.
Cả đám học sinh ngồi hết xuống ghế và mỗi đứa đều có một con Snark mới đậu trên vai. Tabitha đặt câu hỏi với chúng, ban đầu nhẹ nhàng, dùng con Snark cùng kinh nghiệm riêng của mình để dẫn dắt. Cô thăm dò nỗi sợ hãi của chúng như nha sĩ thăm dò cái răng sâu để tìm tủy thối.
Một vài học sinh đã có sự đột phá, tạo được một cái cổng nhỏ chập chờn trong không khí vài giây rồi biến mất. Một số đứa khác không tài nào làm được đến đó - nỗi sợ hãi của chúng chưa bộc lộ hoàn toàn hoặc chúng chưa đủ sức sử dụng Khả năng. Nhưng cuối cùng tất cả đều đã qua phiên của mình.
Tất cả, ngoại trừ Charlie.
“Em thấy chỉ còn mình em thôi,” nó nói.
“Ừ,” Tabitha miễn cưỡng đồng tình.
“Cô không muốn em lên, phải không ạ?” Charlie chợt hiểu ra. “Cô sợ em sẽ lại... làm chuyện không hay, phải không ạ?” Điều này là đúng, Tabitha nhận ra quả thật như vậy, nhưng còn cách nào khác để cho nó rèn luyện nữa chứ? “Chúng ta sẽ bắt đầu từ từ thôi nhé,” cô trấn an nó. “Lại đây nào.”
Charlie đi đến cái ghế cạnh Tabitha và ngồi xuống. Cô đưa tay vào lồng, kéo ra một con Snark và đặt lên vai nó. “Nhắm mắt lại,” cô nói.
Charlie làm theo. Bất giác những học sinh khác đều lùi lại, tránh xa nó, tránh xa điều nó có thể gây ra .
“Nào, lần này không phải là về kích cỡ cái cổng chúng ta sẽ mở được bao lớn, hay mở vào Âm Ti bao xa... Lần này là về khả năng kiểm soát . Hãy thử xem liệu chúng ta có thể thâm nhập được một nỗi sợ nho nhỏ thôi để mở một cánh cổng không xa quá vòng thứ nhất hay không.”
“Được ạ,” Charlie gật đầu. Con Snark rúc vào cổ làm nó thấy nhột.
“Bao nhiêu người trên thế giới này có Khả năng hả Charlie?”
“Hai phần trăm ạ.”
“Và trong số đó có bao nhiêu là Đe Dọa Kép?”
Charlie không trả lời ngay. Nó biết cô đang hướng nó đi đâu, nhưng nó không muốn theo.
“Charlie?”
“Hai mươi hay ba mươi năm mới có một người,” cuối cùng nó nói. Nó thấy được cảm giác ơn ớn đang dâng cao dần trong mình như ngọn thủy triều đen. Con Snark đột nhiên bắt đầu biến hình - lông rơi tuột xuống trong khi lớp da trần phồng lên và nổi bong bóng thật nhanh.
Tabitha rõ ràng choáng váng khi thấy sinh vật Âm Ti ấy biến đổi quá nhanh. “Ta nghĩ hôm nay chúng ta nên dừng ở đây thôi,” cô nói.
Nhưng Charlie không thể nghe cô nói nữa. “Mình là một thằng quái đản,” nó thì thầm, tâm trí nó phóng ào ào xuống một đường mòn mà nó không thể làm cho chệch hướng được. “Và mình sẽ mãi mãi là một thằng quái đản, ngay cả ở đây.”
“Không, Charlie,” Tabitha phản đối. “Em chỉ khác biệt thôi, thế thôi. Đặc biệt .”
“Đặc biệt chỉ là một cách gọi khác của đồ thua cuộc !” Charlie hét lên. Bụng nó bắt đầu nôn nao - lờm lợm và chua loét - và nó thấy khó thở. “Em tưởng đã tìm được một mái nhà, một nơi mà em thuộc về đó, một nơi có nhiều người giống như em , nhưng họ không giống, không hề giống. Em sẽ luôn đơn độc...”
“Không phải thế, Charlie!” Tabitha lo lắng liếc nhìn con Snark. Bây giờ nó đang biến hình với tốc độ chóng mặt, cặp mắt lồi lên, quai hàm dài ra...
“Em sẽ không bao giờ được như bình thường,” Charlie tiếp tục nói mà không thèm nghe cô. Cơn hoảng loạn của nó giờ đã bốc cao như ngọn lửa bị làn gió nóng thổi bùng lên.
“ Em sẽ chẳng bao giờ hòa nhập được .”
Đột nhiên, với tốc độ chóng mặt, con Snark biến hình thành một vật vô cùng quái dị.
Những cánh dơi khổng lồ bung ra sau lưng Snark. Nó vọt lên rồi bay chập chờn trên đầu Charlie như một con rồng nhỏ. Cái đuôi có ngạnh dài gần ba thước, cùng cỡ với sải cánh. Hàng trăm cái răng trắng nhởn, mỗi cái bằng cỡ cây đinh đóng đường ray, lởm chởm nhọn hoắt thò ra ngoài mõm.
Tabitha kinh hoàng trước tốc độ và kích thước biến hình ghê gớm của sinh vật ấy. Cô lùi lại. “Đủ rồi, Charlie à. Thôi đi!”
Nhưng Charlie không nghe được cô nói nữa. Đầu óc quay cuồng khiến nó muốn nôn thốc nôn tháo, nó phát hiện rằng Khả năng của mình quá sâu sắc và mãnh liệt. Chính thứ ấy đã ngăn cách nó với những đứa trẻ khác một cách chắc chắn, ngang với những chấn song sắt nhà tù.
Ngay cả trong đám quái đản, mình vẫn là đứa bị ruồng bỏ, nó nghĩ . Mình sẽ mãi mãi cô độc.
Bất ngờ, một tiếng ầm đinh tai và một cái cổng to lớn mở bật ra ngay trước mặt Charlie, lớn hơn cả cái cổng nó đã tạo ra ở Phân viện Ác mộng.
Những học sinh khác kinh hoảng loạng choạng lui lại.
“Không,” Tabitha há hốc mồm.
Một âm thanh như những phát súng đại bác vọng lại, từng tiếng một, càng lúc càng gần hơn. Charlie mơ hồ nhận ra âm thanh giống như tiếng móng guốc của Barakkas dậm xuống nền đá obsidian trong lâu đài của gã dưới Âm Ti. Cuối cùng, chính Barakkas đã lù lù xuất hiện, mỗi bước đi của gã làm bắn ra vô vàn tia lửa tung tóe trong không trung.
Gã giơ cao cánh tay phải đã bị tiện đứt lìa phía trên khuỷu và nhe răng cười.
“Chào lần nữa, Charlie Benjamin,” gã nói.
CHƯƠNG MƯỜI MỘT - BỮA TIỆC KHỦNG KHIẾP
Hơi thở của Charlie ngưng lại giữa lồng ngực, nó không làm sao dứt mắt khỏi cái mỏm cụt khủng khiếp đó. Barakkas làm ra vẻ vô tình ve vẩy trước mặt nó.
“Cũng không còn đau nhiều nữa,” gã nói. “Thật ra thì ta đã gần quen với cuộc sống không có nó rồi. Cũng lạ, sao lại mau đến thế.” Brakkas tiến tới gần đến nỗi Charlie ngộp thở vì cái mùi như mùi thịt dê ôi bốc ra từ lớp da bẩn thỉu của gã.
“Charlie, đóng cổng lại. Đóng lại ngay đi!” Tabitha thét lên, nhưng giọng cô chỉ còn như một lời thì thầm vẳng lại từ đỉnh núi rất xa. “Ta không có ý hại ngươi,” Charlie nói với Barakkas. “Đó là một sơ suất thôi.”
“Ồ, ta biết chứ ,” Barakkas nói, nhanh chóng trấn an nó. “Ngươi không hề cố ý làm chuyện đó. Nhưng dù gì thì... ngươi cũng đã làm rồi . Ngươi đã làm ta khá đau, phải công nhận là thế. Ta sẽ chẳng bao giờ hồi phục hoàn toàn được nữa.”
“Ta xin lỗi,” Charlie nói.
“ Dĩ nhiên là vậy rồi. Ai mà chẳng cảm thấy có lỗi sau khi làm một điều kinh khủng đến thế, dù cho có cố ý hay không? Tuy nhiên, nói xin lỗi là một chuyện và thể hiện điều đó là chuyện hoàn toàn khác.”
“Khác thế nào?”
“Ngươi không chỉ lấy đi bàn tay của ta,” Barakkas tiếp, và bước lại gần hơn cánh cổng để ngỏ. “Ngươi còn lấy đi một thứ quý báu hơn thế nữa. Chiếc vòng của ta . Ngươi nhớ chứ?”
Charlie cố lục lại trong trí nhớ. Đúng rồi, nó nhớ chiếc vòng kim loại khổng lồ trên cổ tay Barakkas, cái vòng đã bắn ra ánh sáng đỏ sẫm khắp dinh Cao ủy.
“Ta có nhớ,” nó nói.
“Ta muốn lấy lại,” Barakkas nói đơn giản. “Không phải là đòi hỏi quá nhiều đấy chứ?”
Lời gã nói quá dịu dàng... quá hợp lẽ ...
“Nhưng ta không giữ nó,” Charlie nói. “Nó vẫn còn trong Phân viện Ác mộng.”
“Vậy tại sao chúng ta không cùng đi lấy nó nhỉ,” Barakkas nói, và bước qua cánh cổng mở.
Hoặc ít nhất thì cũng cố bước qua.
Ngay khi Barakkas phạm đến cánh cổng, gã rú lên đau đớn và ngã huỵch xuống nền đất với lực của một cao ốc bị đổ sụp, làm bụi tung lên mù trời. Gã quỷ khổng lồ lảo đảo tựa người trên những đốt ngón tay xù xì của bàn tay còn lành lặn.
“Chuyện gì vậy?” Charlie hoảng hốt thét lên.
Barakkas nhìn quanh như điên dại. “Đây là đâu?” gã gầm lên.
“Ta đang ở Học viện Ác mộng,” Charlie hoảng sợ lùi lại. Ngay cả khi Barakkas đang bị cơn đau hành hạ thì cơn giận của gã vẫn tỏa ra như sức nóng của nhựa đường đang sôi. Giờ đây gã càng mang vẻ chết chóc hơn nữa, tựa một con thú bị dồn vào đường cùng phải giết chóc để sống còn.
“Ngươi làm sao vậy?” Charlie thì thầm, nó đột nhiên nhớ lại điều Rose mama từng nói, rằng Học viện là nơi an toàn, một nơi ẩn thân tránh khỏi các sinh vật Âm Ti.
Giờ nó đã hiểu vì sao.
Chính Học viện đã quật ngã Barakkas. Một hệ thống phòng thủ kỳ dị nào đó đã được bố trí khắp trên mọi cành cây kẽ lá ở nơi này. Đây có phải là điều mà cô hiệu trưởng từng ám chỉ khi nói rằng có hai lý do để huấn luyện học sinh ở đây? Kích thích trí tưởng tượng là lý do đầu tiên.
Còn đây liệu có phải là lý do thứ hai?
“Đóng lại ngay!” Tabitha hét lên. Cô chỉ vào tên Barakkas đang nửa trong nửa ngoài cánh cổng. “Đóng lại ngay là giết được gã đó! Làm đi! ”
“Em sao?” Charlie đờ người. “Cô muốn em giết gã sao?”
Nhưng Charlie chưa kịp nắm lấy cơ hội thì Barakkas đã dồn hết sức lực còn lại, tự kéo người lùi qua khung cửa mở để trở về nơi an toàn trong lâu đài của mình dưới Âm Ti. “Con mụ xảo trá,” Barakkas gầm gừ, dường như khi gã tránh xa được tác động của Học viện thì sức mạnh của gã cũng đã nhanh chóng quay lại.
Con quỷ khổng lồ vươn người lên cao hơn hẳn những con người ở phía bên kia cánh cổng, như một vị thần đền. “Chuyện này chưa xong đâu,” gã nói. “Ta có thể không đi qua được nơi này , nhưng rồi sẽ còn lúc khác, nơi khác.” Gã mỉm cười một cách rùng rợn với
Charlie. “Hãy tin ta, thằng bé kia, ta chẳng tức giận gì ngươi đâu, miễn là ngươi trả lại cho ta vật của ta - Lấy lại chiếc vòng cho ta .” “Ta không thể,” Charlie nói.
“Ngươi có thể ,” Barakkas đáp. “Nó sẽ tuân phục ngươi. Rất ít người có đủ sức mạnh để điều khiển nó. Nó là một cổ vật, ngươi biết rồi đó - một Tạo tác của Âm Ti . Chỉ khi nào ngươi hoàn trả nó lại chỗ ta thì ta mới xem như ngươi đã thanh toán hết nợ nần. Ta sẽ bảo đảm cho ngươi đi về an toàn.”
“Sao ta tin ngươi được?” Charlie hỏi.
“Vì ta vừa hứa với ngươi,” Barakkas đáp. “Ngươi không đồng ý rằng lẽ ra ta mới là kẻ có quyền hồ nghi sao? Xét cho cùng thì chính ta mới là kẻ đã chịu thiệt hại nghiêm trọng. Ta mới là kẻ không bao giờ toàn vẹn được nữa.” Gã chà ngón cái lên cái mỏm cụt. Vết thương đã bắt đầu lành, nhưng khi Barakkas cào móng tay lên phần da mới liền thì máu đen lại ọc ra.
Charlie nhăn mặt.
“Ta đâu phải kẻ sát nhân,” con quái vật khổng lồ trừng trừng nhìn Tabitha. “Ta có phải là kẻ vừa thét lên đòi giết người không? Không, ta là người biết điều , Charlie Benjamin ạ. Ta chỉ muốn làm cho mọi thứ được hợp lý mà thôi. Thế nên... ngươi sẽ vui lòng trả lại cho ta thứ mà ngươi đã lấy chứ?”
Charlie đắn đo.
“Không,” cuối cùng nó nói.
Barakkas nhìn nó trừng trừng, rồi đột nhiên cặp mắt màu cam của gã đỏ rực lên phẫn nộ. “KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC NÓI KHÔNG VỚI TA!” gã gầm, tiếng gầm lớn đến nỗi Charlie cảm thấy răng trong miệng mình cũng rung lên. Mọi cơ bắp trên người Barakkas căng lên bởi cơn cuồng nộ, những móng vuốt trên bàn tay trái lành lặn của gã găm sâu vào lòng bàn tay làm máu chảy ràn rụa. Charlie tái mặt nhớ tới những gì Rex đã cảnh báo nó, rằng ngoài mặt Barakkas có vẻ điềm tĩnh nhưng tính khí xấu xa của gã đã trở thành huyền thoại ai ai cũng biết.
“Ta xin lỗi...” Charlie hổn hển.
Ngay lúc đó, cũng nhanh như khi kéo đến, cơn thịnh nộ biến khỏi Barakkas như một cơn giông tố - vì quá dữ dội nên không kéo dài được hơn vài khoảnh khắc. Gã hít một hơi dài, mọi căng thẳng dường như biến mất khỏi cơ thể.
“Không cần phải xin lỗi,” Barakkas đáp lại bằng giọng điềm tĩnh nhất. “Hẳn ngươi vẫn chưa hiểu được món Tạo tác Âm Ti này quan trọng với ta biết chừng nào đâu, và món nợ của ngươi đối với ta mới sâu sắc làm sao.”
“Charlie hiểu,” một giọng nói cất lên cạnh Charlie. “Và cậu ấy đã nói rõ là không.” Charlie quay sang, hiệu trưởng Brazenhope đã ở cạnh nó rồi.
“Cô hiệu trưởng?” Charlie nói.
“Chào Charlie. Tạm biệt Barakkas.”
Nói rồi, bà vẫy tay. Cánh cổng khổng lồ mà Charlie tạo ra đóng sầm lại, cắt đứt tiếng gào thét thịnh nộ của Barakkas.
“Đây là một sự cố đáng ngại,” hiệu trưởng nói khi cùng ông Rex, ông Pinch, và Tabitha họp trong phòng làm việc của bà ngay đêm hôm đó. “Ta không ngờ thằng bé trở lại lâu đài của Barakkas nhanh đến vậy. Nếu không có hệ thống phòng thủ của học viện thì thảm họa đã xảy ra rồi. Ít nhất thì ta cũng biết Đấng Hộ Mệnh vẫn còn mạnh.”
“Chuyện xảy ra quá nhanh ,” Tabitha nói. “Em chưa bao giờ thấy ai thâm nhập nỗi sợ hãi sâu kín của mình nhanh đến thế. Cô có thấy con Snark không?”
Hiệu trưởng gật đầu. “Thằng bé cực kỳ mạnh.”
“Thì vậy,” ông Pinch nói, “vậy nên tôi mới tán thành là phải...”
“Thằng bé sẽ không bị Rút,” ông Rex nạt ngay. “Ít nhất khi ta còn ở quanh đây để ngăn việc đó lại.”
“Bây giờ thì không bàn tới chuyện đó được nữa rồi. Các thế lực đều đã bị đánh động, chúng ta chỉ còn cách đối phó mà thôi. Để điểm lại những gì ta đã biết nào. Barakkas muốn lấy lại chiếc vòng , điều chúng ta nghi ngờ đã được khẳng định: chiếc vòng vô cùng quan trọng đối với gã.”
“Gã nói là phải có sức mạnh vô cùng mới làm chủ được nó,” Tabitha nói. “Gã gọi nó là ‘Tạo tác của Âm Ti’.”
“Đúng, có tất cả bốn món Tạo tác,” hiệu trưởng đáp. “ Mỗi Named giữ một món , chúng ta không biết đích xác chúng có công dụng gì. Nhưng bất kể nó là thứ gì, Barakkas tha thiết với nó đến thế thì chúng ta nhất định không thể để gã lấy lại được.”
“Sao Barakkas lại bảo thằng nhóc mang đến cho gã chứ?” ông Rex hỏi.
“Vì Charlie là đứa duy nhất có thể làm việc đó,” Tabitha trả lời. “Barakkas nói rằng chiếc vòng sẽ chịu tuân phục Charlie, và ngoài cô hiệu trưởng ra thì Charlie là người duy nhất đủ sức mạnh mở cổng vào Vòng Trong để đem vòng đến cho gã. Thằng bé đã đến đó hai lần rồi. Càng mở cổng nhiều lần ở một khu vực thì trong tương lai càng dễ mở cổng đến đó. Khả năng cực kỳ cao là Charlie sẽ lại làm như thế mỗi khi gặp căng thẳng.”
“Đúng vậy,” hiệu trưởng đồng tình. “Và chúng ta sẽ phải để mắt sát sạt cậu Benjamin là vì vậy.”
“Điên quá đi,” ông Rex phản đối. “Tại sao Charlie lại cố tình đem chiếc vòng trả cho con quái đó được kia chứ?”
“Bởi vì,” ông Pinch nói, “dù có sức mạnh khôn tả nhưng nó vẫn chỉ là một đứa nhóc con , và là một đứa nhóc tâm thần bất ổn. Nó bị bọn học sinh lớp lớn hà hiếp và chế giễu, bị biến thành đứa ngốc trong lớp học của ngươi, và qua tai họa mới đây ở lớp Pháp thuật thì nó đã nhận ra một điều là cho dù có cố đến đâu đi nữa, nó cũng chẳng bao giờ hòa nhập được. Một đứa như thế dễ bị áp lực lắm.”
“Quả là thế,” hiệu trưởng nói, “tuy vậy... ta nghĩ thằng bé sẽ không bao giờ quay lại chống chúng ta đâu. Đúng, nó cảm thấy bấp bênh và cô độc, nhưng việc của chúng ta là đem lại cho Charlie lòng tự tin, trở thành gia đình của nó.”
“Đó là nếu nó muốn vậy thôi,” Tabitha dè dặt. “Xin hãy nhớ là nó đã có một gia đình rồi.”
Đôi mắt xanh của bà hiệu trưởng đột nhiên mở to. Bà đứng phắt dậy. “Đúng, nó có một gia đình,” bà nói. “Đi! Nguy to rồi!”
“Tớ là một đứa chuyên mang lại tai họa,” Charlie nói và nhìn bức tường ở phía đằng xa trong căn buồng của Violet bằng ánh mắt trống rỗng. Trên đó dán đầy những bức tranh kỳ ảo nổi tiếng. “Không thể tin được là tớ đã mở thêm một cổng nữa vào Vòng Trong.”
“Mày đang nói cái quái gì thế hả?” Theodore bật lại, thằng này đang cáu tiết cố làm một con Snark biến hình. Con vật đậu trên vai nó và chiếp chiếp khe khẽ. “Tao sẽ đổi bất cứ thứ gì để mở được một cái cổng như thế. Thậm chí tao còn không biến hình nổi cái con Snark ngu ngốc này nữa đây nè.”
“Không tin nổi là cậu lại ăn cắp,” Violet nói.
“Tớ không ăn cắp ,” Theodore cãi. “Tớ mượn.”
“Mượn mà không hỏi,” Violet nói, “thì chính là ăn cắp chứ còn gì.”
“Này, không luyện tập thì làm sao mà tớ khá lên được bây giờ?” Theodore rên rỉ. “Trông vậy chứ có dễ vậy đâu, dù ‘sư phụ khai cổng’ đằng kia làm được ngon ơ.” Nó trỏ ngón cái về phía Charlie, rồi mắt nhắm nghiền, răng nghiến chặt, mặt nhăn nhó và hét lên, “Sợ đi, Theodore, sợ đi! Sợ đi chứ! Sợ nhiều lên!”
Con Snark gù gù khe khẽ nhưng chẳng biến đổi một chút xíu nào.
“Tớ sẽ chẳng bao giờ làm được đâu,” Theodore than van.
“Bởi vì mày đang cố ép quá đó thôi,” Charlie nói. “Làm như lúc mày làm ở lớp Pháp thuật Khai cổng ấy. Cố tìm một nỗi sợ thật sự và tập trung vào đó.”
“Nỗi sợ lớn nhất của tao bây giờ là không thể tìm đâu ra được một nỗi sợ cả.”
“Thì dùng nỗi sợ ấy đi,” Charlie nói. “Điên thật, ước gì tao cũng bị như mày. Tao không những suýt nữa thì để Barakkas quét sạch bọn mình, mà đã có cơ hội mười mươi giết chết gã nữa, vậy mà lại đờ người ra.”
“Trước hết này,” Theodore nói, “không phải mày đờ người ra. Cái con quỷ thối tha đó đã kịp nhảy lui về Âm Ti trước khi mày có cơ hội thái nó ra thành miếng. Thứ hai là nó không đời nào tới gần được để quét sạch bọn mình. Nó vừa cố len qua thì đã ngã lăn qua như một thằng bé con dở òm... tao cũng chẳng hiểu là vì sao.”
“Theo tao thì là do nơi này,” Charlie nói. “Nơi này độc hại đối với bọn sinh vật Âm Ti.”
“Nếu độc hại vậy thì sao ông Xix hay lũ Ectobog lại chẳng bị sao?” Violet nói.
“Vì họ ở tuốt ngoài mấy hang Trừ tà, cách xa Học viện mà,” Charlie đáp. “Bọn mình có được bảo vệ bằng thứ gì thì tớ cũng không nghĩ cái thứ ấy vươn được tới tận đó đâu.”
“Nhưng nó vươn được tới đây ,” Violet phản đối, “mà con Snark của Theo vẫn bình thường đấy thôi.” Con bé chỉ vào con Snark trên vai Theodore. “Nó cũng là sinh vật Âm Ti chứ bộ.”
“Trước hết nhá,” Theodore nói, “ đừng bao giờ gọi tớ là Theo. Và thứ hai...” Nó ngập ngừng suy nghĩ một lát rồi quay sang Charlie. “Ờ, Violet nói đúng đấy. Sao con Snark lại không bị gì?”
“Có lẽ con Snark chưa đủ mạnh. Có lẽ quái vật càng mạnh thì Học viện ảnh hưởng đến chúng càng nhiều.” Charlie thở dài thất vọng. “Có quá nhiều điều mà tao không biết, thậm chí tao không biết là tao không biết bao nhiêu nữa.”
“Nói lại câu đó mười lần thật nhanh coi,” Theodore nhe răng cười.
Charlie cũng cười phá lên. Nó thấy vui hơn. Nó đưa mắt nhìn lên một bức tranh lớn trên mảng tường đằng xa. “Tớ nghĩ tớ thích bức đó nhất,” nó chỉ bức tranh và nói.
Bức tranh vẽ một tay cận vệ người nhỏ xíu đang ngồi trên lưng một con ngựa kéo xe còi cọc, trên tay cầm một cây giáo te tua. Cậu cận vệ này đang trừng mắt nhìn một con rồng đáng sợ lù lù hiện ra trên cao, cái miệng đầy răng to lởm chởm của con rồng gần như khuất sau đám khói màu vàng.
Trận đánh đúng là tuyệt vô hy vọng.
“Đó cũng là bức tớ thích nhất,” Violet bước lại. “Tên nó là Cần can đảm , của Don Maitz. Khá giống cảm giác của tớ vào ngày mẹ tớ mất - hoàn toàn bị lũ rồng xung quanh xúm lại áp đảo.”
Con bé im lặng một lúc. Charlie liếc sang Theodore, không biết phải nói gì. Theodore thì bối rối nhìn đi chỗ khác. “Xin lỗi Violet,” cuối cùng Charlie cất tiếng. “Chuyện đó hẳn là kinh khủng lắm.”
“Chuyện đó lâu lắm rồi,” Violet khẽ nói. “Có lẽ đó là lý do vì sao tớ thích vẽ rồng nhiều đến thế. Chúng là những con quái vật độc ác có thể tấn công bất thình lình, nhưng với cái này...” con bé giơ cây cọ lên, “tớ có thể điều khiển được chúng. Tớ bắt chúng làm những gì tớ muốn chứ không phải ngược lại.” Violet mỉm cười. “Tớ đã sợ hãi và cô độc quá lâu rồi.”
“Tớ hiểu ý cậu,” Charlie nói, và hai đứa cùng chia nhau một nụ cười.
“Tớ cũng thế,” Theodore lặng lẽ thêm.
Đột nhiên, Charlie nhận ra nó đã sai vô cùng. Nó cứ tưởng rằng Khả năng là mối liên hệ chung mà nó chia sẻ với những đứa trẻ khác ở Học viện Ác mộng này, nhưng hóa ra cuối cùng đó lại không phải là sợi dây ràng buộc liên kết chúng với nhau.
Mà đó là nỗi cô đơn.
“Bọn mình thỏa thuận nào,” cuối cùng Violet nói. “Bọn mình sẽ luôn giúp đỡ nhau, cả ba đứa mình. Bất kể là chuyện gì. Như vậy bọn mình sẽ không bao giờ đơn độc nữa.”
Con bé chìa tay ra, Charlie nắm lấy, sau một giây.
“Nhất trí,” nó nói.
“Nhất trí,” Theodore đặt tay lên trên cùng. “Và, để ghi nhớ, tớ nghĩ tớ có thể lấy con rồng đó,” nó chỉ bức tranh lớn. “Đố lấy được đấy,” Charlie cười.
Thình lình, một cánh cổng mở bật ra trong phòng và hiệu trưởng ào vào. “Charlie, cậu cần đi với ta ngay lập tức. Ta e đã có chuyện nghiêm trọng xảy ra. Cậu phải chuẩn bị tinh thần. Sẽ không dễ chịu đâu.”
Nhìn từ bên ngoài thì ngôi nhà làm theo mẫu số 3 trông vẫn còn nguyên vẹn.
Tuy nhiên, bên trong lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Giấy dán tường bị xé toạc thành những dải lòng thòng. Kính vỡ phủ đầy tấm thảm đã bị xé rách, và tấm thảm lại ùn lại làm lộ ra lớp ván ép bên dưới. Tủ lạnh nằm lật ngang và mọi thứ trước trong tủ lạnh nay vung vãi khắp bếp. Nước xốt cà và dưa chua trộn lẫn với trứng gà vỡ và cá làm thành một món hổ lốn độc hại.
Đây không chỉ là hiện trường tội ác; phải gọi là vùng chiến sự mới đúng.
“Bố mẹ cháu đâu rồi,” Charlie sợ hãi tìm quanh. “Họ đâu rồi?”
“Họ bị bắt rồi,” hiệu trưởng nói. “Cậu đi theo ta.” Bà dẫn Charlie lên lầu. Ông Rex, ông Pinch và Tabitha theo sau vài bước. Thanh vịn cầu thang rời ra, lắc lư như say rượu. Thủy tinh vỡ lạo xạo dưới chân.
Charlie thấy dòng tin nhắn ngay khi bước vào phòng ngủ cũ của mình. Vài từ đơn giản viết lên lớp bọt mềm trên tường: TRẢ LẠI TẠO TÁC
NẾU MUỐN BỐ MẸ NGƯƠI CÒN SỐNG
Những chữ to tướng được viết nguệch ngoạc bằng một thứ chất lỏng đỏ sậm. Charlie sợ rằng đó là máu. “Họ bị bắt làm con tin,” hiệu trưởng nói, “để ép cậu lấy chiếc vòng từ Phân viện Ác mộng và đem đến cho Barakkas.” “Vậy chúng ta phải làm gì?” Charlie hỏi. “Chúng ta phải làm gì đó chứ.”
“Dĩ nhiên chúng ta sẽ làm gì đó,” ông Rex nói. “Chúng ta sẽ đi tìm rồi giải cứu họ.”
“Bằng cách nào?” Charlie gặng hỏi. Nó cảm thấy nỗi sợ của mình đang dâng lên. “Nhỡ họ bị giết rồi thì sao?”
“Hãy kiềm chế nỗi sợ của mình,” hiệu trưởng nói. “Chúng ta không cần cậu mở thêm một cái cổng nữa vào trung tâm của Vòng Trong đâu. Ở đây chúng ta không được bảo vệ khỏi tay Barakkas.”
Charlie hít thật sâu và cố giữ bình tĩnh, nhưng việc đó chẳng khác nào cố thắng lại một con tàu chở khách. “Hứa với cháu đi,” nó nói. “Hãy hứa là họ sẽ không sao đi.”
“Ta hứa là chúng ta sẽ làm mọi điều có thể ,” hiệu trưởng trả lời.
“Nhưng hai việc đó đâu có giống nhau!” Charlie nói. “Nếu cô không thể hứa cứu được họ thì chúng ta sẽ phải trả lại chiếc vòng như Barakkas đòi!”
“Chắc chắn là không được,” ông Pinch chen vào. “Việc đó quá nguy hiểm. Dù trong hoàn cảnh nào cũng không được mang cái đó ra khỏi phạm vi Phân viện Ác mộng.”
“Ta ghét phải nói thế này... nhưng Pinch nói đúng,” ông Rex nói. “Để Barakkas có được thứ mà gã tha thiết đến vậy là chuyện vô cùng nguy hiểm.”
“Cái vòng đó thì có thể làm được gì cơ chứ?” Charlie hỏi.
“Ít nhất,” ông Pinch trả lời, “nó cũng sẽ cho phép các Named liên lạc với nhau, mà chúng ta tuyệt đối không cho phép điều này xảy ra - với bất cứ giá nào.”
Charlie quay đi chỗ khác, trong lòng hoang mang cùng cực. Những kỷ niệm ùa về khi nó đi qua đống đổ nát của ngôi nhà. Ở trên tường có bức tranh một con gà tây của Lễ Tạ Ơn mà nó đã vẽ bằng cách in tay hồi năm tuổi. Nó hầu như vẫn còn cảm nhận được lớp sơn ướt lạnh trên tay mình. Hôm đó mẹ phải đến trường để giúp nó. Mà thật ra, bà vẫn đến đó rất thường xuyên, chỉ để “chắc chắn là mọi thứ đều ổn cả.”
Nhưng giờ họ đang không ổn chút nào.
Một thứ quái quỷ nào đó đã càn quét qua nhà nó, cuốn đi những người nó thương yêu nhất, đem họ đến một nơi khắc nghiệt và rùng rợn, tất cả chỉ vì nó có một cái Khả năng mà nó không thể điều khiển được.
Đó không phải là khả năng mà là lời nguyền. Nó ghét Khả năng của mình quá đi mất.
Charlie thấy trên bàn bếp có một phong bì lớn màu nâu đề gửi cho Charlie Benjamin, chuyển về Phân viện Ác mộng - đó là một trong những phong bì có ghi trước địa chỉ mà ông Pinch đã đưa cha mẹ Charlie để họ có thể liên lạc với nó. Khi Charlie trút mọi thứ trong đó ra. Bên trong có một túi gói kín đựng bánh quy sô-cô-la mẹ tự làm, và dòng chữ, “Chúng ta rất hãnh diện về con và luôn yêu con. Mẹ.”
Ngoài ra còn có một thứ khác. Đó là tấm hình chụp trên con tàu lượn cao tốc mang tên Goliath . Trong hình, Charlie và bố đang vung hai tay lên trời, với nụ cười hưng phấn trên gương mặt và nín thở đợi chiếc tàu lao đâm xuống khúc sâu nhất.
“Đàn ông gia đình Benjamin dám đối mặt với nỗi sợ!” bố nó đã viết như thế bên dưới tấm ảnh bằng nét chữ đặc biệt của ông. Sau đó ông còn viết thêm: “Bố yêu con, con trai. An toàn con nhé.”
Charlie bật khóc. Nó không kìm được nữa.
“Này, nhóc,” ông Rex bước đến phía sau nó. Charlie lau những giọt nước mắt đang dâng trào. “Ta biết, đây là một tai họa, nhưng chúng ta sẽ giải quyết được, ta hứa.”
“Nhưng chú đâu thể hứa được điều đó,” nó nói. “Chúng ta có biết họ ở đâu đâu. Chúng ta không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho họ. Chúng ta không biết gì cả . Và tất cả là lỗi ở cháu.”
“Đúng vậy,” ông Rex đồng ý, trước sự ngạc nhiên của Charlie. “Nếu chú mày không có Khả năng thì những chuyện này đâu có xảy ra. Nào, hoặc là chúng ta cứ ngồi đây mà than khóc rằng cuộc đời bất công làm sao, hoặc là có thể sử dụng Khả năng của mình để cứu cha mẹ chú mày về.”
“Cháu không bao giờ muốn dùng lại nó nữa,” Charlie nói. “Ước gì cháu bị Rút như mọi người muốn đi cho xong.”
“Suy nghĩ hay đó,” ông Rex đáp. “Hãy cứ làm cho chú mày ngu si và bỏ đi mọi cơ hội chúng ta có được để cứu cha mẹ của chú mày về nhà an toàn. Giờ đi luôn đến Phân viện Ác mộng mà cắt béng cái thùy trán của chú mày đi. Cha mẹ chú mày sẽ chết, nhưng chú mày còn quan tâm quái gì nữa đâu chứ? Chú mày sẽ ngu ngốc đến chẳng còn biết gì nữa. Đó là điều chú mày muốn phải không?”
“Chú biết là cháu không muốn thế mà,” Charlie thừa nhận. Họ im lặng một lúc. “Buồn cười thật,” nó nói tiếp, mắt nhìn chăm chăm vào đống đổ nát của ngôi nhà nơi nó đã lớn lên. “Cháu đã luôn khao khát được đi khỏi nơi này, rời xa cha mẹ , vì cháu có cảm giác họ sẽ còn bao bọc cháu cho tới chết. Nhưng bây giờ... cháu chỉ muốn về lại với họ thôi.”
“Ta biết cảm giác đó,” ông Rex nói. “Cha mẹ của ta cũng vậy. Giờ hai cụ mất rồi, nhưng khi họ còn sống thì, trời ạ, không cách nào làm họ đừng lo lắng về ta được. Chuyện đó khiến ta chỉ muốn điên lên.”
“Chú yêu họ chứ?” Charlie hỏi.
“Hơn bất cứ gì khác. Đôi khi, trong những lúc khó khăn, ta thường nhớ lại khi mình còn là một đứa nhóc, bị sốt nóng hổi, và bàn tay mẹ mát rượi đặt lên trán ta thần diệu đến thế nào.”
“Vâng, cháu hiểu.”
“Cha mẹ ta mất rồi,” ông Rex chỉ nói vậy. “Và nơi họ đến thì vô phương về lại. Tất cả những gì ta có chỉ là ký ức. Nhưng cha mẹ của chú mày, nhóc ạ... chúng ta có thể cứu được họ. Chúng ta sẽ làm như thế. Chú mày phải tin ta.”
“Cháu tin,” cuối cùng Charlie nói. “Có kế hoạch chứ ạ?”
“Dĩ nhiên có chứ!” ông Rex gầm lên. “Chú mày nghĩ ta mà lại làm chuyện gì mà không có một kế hoạch tính toán cẩn thận hay sao?” “Chú muốn cháu trả lời thật chứ?”
Ông Rex mỉm cười. “Nghe này, việc này sẽ chẳng dễ dàng đâu. Chúng ta có thể phải làm một số việc... gay go đấy.” “Cháu không sợ.”
“Vì chú mày chưa từng nghe nói đến thôi,” ông Rex nói. “Khi đó có thể chú mày sẽ sợ đấy.”
“Cháu không sợ,” Charlie đáp.
Rex nhìn nó thật kỹ. “Có lẽ chú mày không sợ thật. Vậy đây là việc chúng ta sắp làm. Trước hết chúng ta về lại Học viện Ác mộng... rồi sau đó chúng ta tiến vào Âm Ti.”
“Để làm gì ạ?”
“Để tìm các Hag,” ông Rex đáp. “Các Hag của chốn Void.”
CHƯƠNG MƯỜI HAI - NỮ QUỶ HAG CỦA CHỐN VOID
“Ta cần phải chờ trong bao lâu?” lão Xix vừa đưa hai chân trước lên vệ sinh cái mấu mắt vừa hỏi.
“Ta cũng không chắc,” hiệu trưởng đáp. “Nếu ông không phiền thì cứ chờ ở đấu trường Trừ Tà này cho đến khi chúng ta quay lại.”
“Tôi không thể hiểu nổi tại sao lại có cả Cà khêu Âm Ti trong vụ này,” ông Pinch khịt mũi đi đi lại lại. “Nó có gì mà ta không có kia chứ?”
“Vì ông ấy không phải con người,” ông Rex đáp. “Việc ấy có thể có ích ở nơi chúng ta sắp tới.”
“Chúng ta bắt đầu lệ thuộc vào mấy sinh vật không phải người từ hồi nào vậy?”
“Từ hồi khám phá ra các sinh vật thuộc giống người kiểu như ngươi rất ư là khó ngửi và thiếu tin cậy,” ông Rex độp ngay. “Ta đi luôn được chứ ạ?” Charlie hỏi, nó nóng lòng đi tìm cha mẹ lắm rồi.
“Thằng bé nói đúng,” lão Xix nói. “Ta hiểu rõ mối quan ngại của ông Pinch về những đóng góp của ta cho Học viện Ác mộng, nhưng hãy bàn chuyện này sau đi nhé.”
“Còn hơn cả quan ngại ấy chứ!” ông Pinch cáu kỉnh. “Tôi vẫn không hiểu tại sao lại cho phép một tên kẻ thù tiếp cận được cơ sở huấn luyện quý giá nhất của chúng ta.”
“Bởi vì ta tin ông ấy,” hiệu trưởng vuốt lại áo cho thẳng. “Giáo sư Xix là một sự bổ sung rất trung thành và có năng lực cho chúng ta suốt bao nhiêu năm nay và ta mong sẽ còn như thế thêm nhiều năm sắp tới.”
“Thêm nữa, ta nghĩ ông ấy cũng đẹp trai đấy chứ,” Tabitha cười tiếp lời. “Ta luôn mê những người đàn ông ngăm ngăm và bí hiểm.” “Đúng là nịnh nọt có thể bốc người ta tới mây xanh thật,” Xix nói.
“Gớm quá đi,” ông Pinch rên lên.
“Dừng lại ở lời cảm thán hạnh phúc này thôi,” hiệu trưởng nói, “ta bắt đầu luôn đi, nhé?”
Bà vẫy tay tạo một cánh cổng trong cái hang to đùng của đấu trường Trừ Tà. “Vui lòng bước qua,” bà nói, “và nhớ cảnh giác. Chốn Void chẳng phải là chỗ để rong chơi đâu.”
Năm người thấy mình đang đứng ở một nơi giống như một cánh đồng lau tím cao ngất, cao đến nỗi Charlie không nhìn thấy gì ở trên nữa. Những cành lau phủ một lớp chất như pha lê lấp lánh, phản chiếu màu đỏ của cột lửa bao quanh Vòng Trong cách đó một quãng khá xa.
“Phải rất cẩn thận,” hiệu trưởng nói và lẹ làng bước qua những cành lau trên đôi chân dài thận trọng. “Mặc dù trông có vẻ như là cây cỏ, nhưng thật ra chúng là những sợi lông , và là lông rất tinh vi. Nếu có sợi nào bị đứt thì... khó chịu lắm đấy.”
“Nếu đứt thì có chuyện gì ạ?” Charlie hỏi và bước tới. Chân nó dẫm ngay lên gốc một sợi lông dày đang ve vẩy và đạp gãy luôn cả rễ. “Đi với đứng hay quá đấy, thiên tài ạ,” ông Pinch thở dài.
Đột nhiên tất cả những sợi lông trên cánh đồng đều đồng loạt lay động dữ dội rồi tung bụi pha lê mù trời. Bụi dày đến nỗi Charlie đưa tay ra cũng không thấy được ngón của mình.
“Nhắm mắt lại,” Tabitha quát to. “Cứ nhắm lại, không là mù đấy.”
Charlie nhắm mắt thật chặt ngay nhưng đã thấy như có vụn thủy tinh trong mắt, càng dụi chỉ càng thấy tệ hơn. Nó cố thét gọi mọi người chung quanh để hỏi cần phải làm gì nhưng tiếng nói tắt ngay từ trong cổ họng, màn bụi khủng khiếp kia đã phủ kín phổi nó khiến nói không được mà đến thở cũng chẳng xong.
“Lấy áo che mũi và miệng lại!” ông Rex quát lớn ở đâu đó bên phải nó. “Dùng áo làm mặt nạ!”
Charlie làm theo. Có đỡ đôi chút... nhưng chẳng được bao nhiêu.
Đột nhiên một tiếng rú rít động cả không gian. Đó là một âm thanh trước đây Charlie chưa hề nghe thấy - vừa như tiếng mèo đánh nhau vừa như tiếng móng tay cào trên mặt bảng đen.
“Đó là gì thế ạ?” cuối cùng Charlie cũng xoay xở hỏi được.
“Bọn Hag đấy,” hiệu trưởng đáp. “Bọn Hag đang đến đấy.”
“Cháu phải làm gì đây?” Charlie hoảng vía hét lên.
“Không làm gì hết,” bà nói. “Để họ đưa cậu đi. Đừng chống cự.”
Tiếng rú giờ đây gần đến nỗi Charlie thấy đầu mình như muốn nổ tung. Không gian bắt đầu rung lên bởi hàng trăm đôi cánh vỗ phần phật. Mùi thối rữa và buồn nôn vây lấy nó. Đột ngột, mấy cái vuốt bấu vào hai vai Charlie chặt đến nỗi tưởng chừng như da thịt nó đã bị
đâm thủng. Nó bị giật lên không một cách thô bạo và chỉ vài giây sau đã bị nhồi lên nhồi xuống trên trời, kinh hồn như đang ở trong một chiếc tàu lượn điên rồ nhất, bị giữ rịt trên cao bởi những con vật nào đó mà nó không sao nhìn thấy hoặc tưởng tượng ra nổi. Cuối cùng mấy móng vuốt cũng buông nó ra. Charlie ngã nhào xuống và đập người vào mặt đá cứng.
Charlie lồm cồm bò dậy, vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình đang khóc nức nở. Nước mắt nó tuôn ra như suối, không biết là do sợ hãi hay phẫn nộ; nhưng rồi nó nhận ra rằng không phải, đó chỉ là phản xạ của cơ thể để rửa sạch chất bụi kỳ quái kia khỏi mắt.
Và kỳ diệu thay, thế mà lại vô cùng hiệu quả. Thế giới quanh nó dập dờn một chốc rồi dần dần tỏ ra. Nó chùi nước mắt trên mặt và nhìn thấy ông Rex, ông Pinch, Tabitha, cả hiệu trưởng cũng đã đáp xuống kế bên nó và cũng đang làm điều tương tự. Cuối cùng thị lực của Charlie đã trở lại, đủ cho nó nhìn thấy được vài mét trước mặt.
Đó không phải một cảnh tượng thích mắt cho lắm.
Họ đang ở trong một tòa dinh thự hoang tàn đổ nát, nhan nhản những sinh vật mà cô hiệu trưởng gọi là “Hag”. Chúng nom cũng có vẻ là phái nữ - ít nhất là nếu những con quái vật da xanh nứt nẻ, có mái tóc dài lòng thòng màu tía, và cặp cánh đen đầy vảy trên lưng kia có thể gọi là phái nữ. Một rừng răng tua tủa chứa đầy trong miệng, tất cả đều bén như dao cạo, và những bộ trang phục dạ vũ chúng mặc trên người thật bẩn thỉu và rách rưới. Chúng trông như ở dưới địa ngục, mà mùi của chúng lại còn tệ hơn cả địa ngục.
“Đây...,” cuối cùng ông Rex cũng mở miệng nói, “Đây là lý do vì sao ta không được... làm gãy... mấy cái cây đó,”
Thanh kiếm Charlie lĩnh từ lúc nhập lớp Trừ Tà Vỡ lòng đeo bên sườn bắt đầu kêu o o và sáng lên ngọn lửa xanh biếc khi bọn Hag xáp lại gần.
“Đưa bọn ta tới chỗ Nữ chúa,” hiệu trưởng quay sang con quỷ gần nhất và ra lệnh.
“Tạo sao bọn ta lại phải làm thế?” con Hag the thé.
Việc xảy ra nhanh đến nỗi phải mất một giây Charlie mới chắc được là việc đó đã thật sự xảy ra: chỉ nửa giây sau, con Hag vừa mới cất tiếng chỉ còn lại là một đống thịt co giật. Chất dịch đen chảy ra quyện lại quanh nó.
Hiệu trưởng hạ thấp thanh kim loại dài đang cầm trong tay và chùi vào tấm áo dơ dáy mà con Hag vừa chết đang mặc trên người. Thân gậy có chạm khắc những mẫu tự ngoằn ngoèo và rực lên một màu xanh sáng chói đến sững sờ - sáng hơn thanh kiếm của Charlie nhiều. Bà vẫy cổ tay nhanh một cái, tức thì cây gậy rụt vào cán, tự thu ngắn lại cho đến khi chỉ còn chừng ba tấc.
“ Wow ,” Charlie trầm trồ.
Hiệu trưởng không để ý đến Charlie mà đút luôn cây gậy kim loại chạm trổ kia vào nếp áo, rồi quay sang con Hag tiếp theo. “Giờ,” bà nói, “thử xem ta có được may mắn hơn với ngươi hay không. Đưa bọn ta tới chỗ Nữ chúa.”
Con Hag ngập ngừng, giương mắt nhìn bà một lát, rồi đột ngột quay đi và lê bước vào một hành lang tối thui. Bọn Hag còn lại lui ra mở đường.
“Theo ta,” hiệu trưởng nói.
Cả bọn Charlie lục tục theo sau.
Nữ chúa quỷ Hag đúng là mụ quái vật khủng khiếp nhất mà Charlie từng thấy, ấy thế mà có vẻ mụ tưởng mình là xinh đẹp nhất trần đời. Đứng ở trên đầu chiếc cầu thang to lớn nhưng sụp nát trong gian phòng vũ hội khổng lồ, nơi mụ dành làm phòng riêng cho mình, chúa quỷ ngắm nhìn mấy cái móng tay đen kịt dài ngoằng và vặn vẹo của mụ, rồi ngửi ngửi dưới nách mụ, ra cái vẻ đang tận hưởng mùi hương ấy. Chiếc áo vũ hội mụ mặc dài hơn và bẩn thỉu hơn hẳn áo của bọn kia; và mụ cao hơn con quỷ cao nhất đang hầu hạ mụ gần cả một cái đầu.
“Nghe đồn các ngươi vừa giết một con hầu của ta,” mụ vừa bay từ trên đầu cầu thang xuống vừa khàn khàn rít lên.
“Đúng vậy,” ông Rex nói. “Thật là xấu hổ, nhưng nó không chịu đưa bọn ta đến gặp ngươi, mà bọn ta lại không thể cách xa vẻ đẹp kiều diễm của ngươi thêm một phút giây nào nữa.”
Nghe thế, mụ chúa quỷ Hag rú lên cười. Giọng mụ khàn khàn nhức óc, làm cho một vài miếng pha lê còn sót lại trên ngọn đèn chùm bể nát treo trên trần phải va vào nhau kêu lanh canh đầy đe dọa.
“Ngươi biết nịnh đầm đấy,” mụ nói.
“Không, làm gì có,” ông Rex nhăn nhở. “Ta chỉ là một kẻ biết thưởng thức vẻ... kỳ cục thôi mà.”
“Ngươi thật hư hỏng. Điều gì đã đưa các ngươi lại gần chỗ chết như thế này?”
“Bọn ta cần một cái Bóng, ” hiệu trưởng bước ra nói.
“Một cái Bóng ư?” mụ quỷ chúa kêu gù gù trong họng. “Đúng là một yêu cầu quá đáng. Cho ai?”
“Cho thằng bé này.”
Mụ quỷ Hag quay sang Charlie và liếc nó từ trên xuống dưới. Cặp mắt tăm tối của mụ nheo lại, “Thằng bé này rất đặc biệt, phải không?”
“Nó chỉ là một đứa bé thôi,” hiệu trưởng nhún vai.
“Vậy sao? Thật không may. Để lấy được cái Bóng thì nó nên đặc biệt mới xong. Ngươi tìm ai hở thằng nhóc kia?”
“Bố mẹ ta,” Charlie nói, giọng nghẹn đặc lại. Thậm chí ở xa như vậy nó vẫn ngửi thấy được hơi thở thối hoăng của mụ quỷ chúa. Cái mùi ấy làm nó phát buồn nôn.
“A, bố mẹ! Ngon. Ngon tuyệt,” mụ thè cái lưỡi dài khủng khiếp liếm đôi môi thâm sì rồi nói tiếp, “ Ai thanh toán đây ?” “Ta,” ông Rex và Tabitha nhất loạt bước tới.
“Cả hai ngươi xem chừng mau mắn dữ a,” chúa quỷ Hag đập cánh chầm chậm bay về phía Rex. “Nhưng ta thấy nên chọn phần thanh toán của gã đàn ông mạnh mẽ đây. Ngươi có gì ngon cho ta nào?”
“Đương nhiên là có,” ông Rex đáp và bất giác rùng mình. Thấy vậy, mụ chúa quỷ nhắm mắt lại và mỉm cười, thưởng thức sự ghê khiếp của Rex. “Để ta xem, nếu ngươi muốn có cái Bóng cho thằng nhỏ tìm được cha mẹ của nó , thì ta muốn ngươi trả cho ta cha mẹ của ngươi .”
Mụ lại thè lưỡi liếm đôi môi đen kịt.
“Cái gì?” Charlie bối rối. “Mụ không thể có họ được. Bố mẹ chú ấy đã mất rồi.”
“Thằng nhỏ này hình như chưa hiểu chúng ta muốn gì,” con chúa quỷ cười ngất. “Nó không hiểu chúng ta ăn gì.” “Mụ ta nói gì thế ạ?” Charlie quay sang Rex.
“Mụ ăn ký ức đó nhóc ạ,” ông Rex khẽ đáp. “Mụ hút ký ức ra khỏi óc ta, xơi nó, khi xong xuôi thì ta không còn ký ức đó nữa.” “Chú không được làm thế,” Charlie há hốc mồm. “Những gì còn lại về cha mẹ chú chỉ là chút ký ức đó thôi mà.” “Ta còn có ảnh chụp,” ông Rex đáp, “thêm vài lá thư nữa. Như thế cũng được rồi.”
“Nhưng đâu có giống nhau đâu. Mỗi khi gặp khó khăn, chú thường nhớ mẹ chú đã săn sóc khi chú bị bệnh bằng cách đặt bàn tay mát rượi lên trán chú còn gì. Ký ức đó sẽ mất tiêu!”
“Không sao đâu, nhóc à,” ông Rex mỉm cười. “Có gì là tồn tại mãi được đâu.”
“Không được!”
Rex bước ngang qua Charlie và tiến lại phía mụ quỷ chúa. “Làm cho xong đi cho rồi.”
Đôi cánh da khổng lồ trùm kín Rex, kéo ông lại sát vào ngực con quái sắp sửa tước đoạt những người thân trong gia đình ông. Nữ chúa quỷ Hag đứng cao hơn ông cả nửa thước. Rex cảm thấy được cái thân thể cứng đầy vảy của mụ áp sát vào lưng mình. Mùi thối của mụ khiến ông trào nước mắt.
“Ngon ngon!” Mụ nói. Cái lưỡi dài của mụ thè ra khỏi miệng như lưỡi của loài rắn. Mụ cúi xuống bên đầu Rex và liếm tai ông. Rex thấy bao tử mình nhộn nhạo.
“Chào tạm biệt bố mẹ yêu đi nào,” mụ cất tiếng khàn khàn nói rồi ngậm chặt vành tai của ông bằng đôi môi thối rữa, luồn cái lưỡi tuột vào bên trong như mỡ nóng chảy xuống bồn rửa chén. Rex cảm thấy cái lưỡi con quái ở trong đầu mình, luồn lách vào óc mình, nơi những ký ức được cất giữ. Mụ nốc lấy ký ức, bắt đầu bằng những ký ức gần đây nhất - phút lâm chung của cha ông.
Lời cuối cùng cha nói với Rex: “... con trai mạnh mẽ của ta.”
Mất.
“Ngon,” mụ quỷ chép miệng, và tiếp tục nốc thêm ở sâu hơn.
Rex chúc mừng cha mẹ nhân tiệc kỷ niệm lần thứ bốn mươi ngày cưới của họ - mất.
Chuyến đi của cả gia đình đến sông Kern, nơi họ đã chèo thuyền xuống dòng nước trắng xóa và Rex đã trêu mẹ mình vì bà đã kêu thét lên như một cô bé - mất .
Vô số những ngày Giáng sinh cùng sinh nhật đầy ắp quà tặng, bánh ngọt cùng những vật trang trí trên cành cây. Những tiếng reo hò cổ vũ trong những trận đấu bóng chiến thắng, những cái ôm an ủi sau những trận thất bại. Những giờ khắc cùng nhau lắp đường tàu, cùng cười khi xem phim, và khóc khi con chó Gus của họ bị chết.
Tất cả đều đã mất.
Thậm chí bàn tay mát rượi của mẹ đặt lên cái trán nóng hổi đang lên cơn sốt của Rex cũng bị mụ quỷ chúa uống cạn, trong cơn khát vô độ niềm vui, và cả những nỗi đau khổ của kẻ khác. Khi đã xong xuôi, mụ buông ông ra và liếm môi như kẻ chết đói vừa mới xơi xong một bữa ăn thịnh soạn.
“Tuyệt,” mụ nói. “Quá ngon, quá ngon. Miếng nào cũng ngon cả.”
Rex khụy xuống nền lát đá loang lổ của gian phòng vũ hội hoành tráng. Tabitha lao lại đỡ lấy ông.
“Xong chưa?” ông thều thào hỏi.
“Xong rồi,” Tabitha đáp.
“Mụ muốn gì ở ta vậy?”
“Bố mẹ ngươi.”
Ông nhìn cô bằng cái nhìn trống rỗng. “Ai cơ?”
Cô ôm chặt lấy ông Rex trong khi con quỷ chúa vỗ đôi cánh mạnh mẽ lượn tới phía hiệu trưởng.
“Ngươi hài lòng rồi chứ?” bà hỏi.
“Đúng là... đúng là một bữa đã đời,” con chúa quỷ rùng mình khoái trá. “Ngươi được tới chỗ cái Bóng rồi đó.”
“Ta muốn thấy thằng bé được bảo vệ,” hiệu trưởng nói. “Bọn ta đã trả một cái giá quá đắt rồi. Nếu trong chuyện này mà có mùi lừa đảo thì ta sẽ làm cỏ nơi này, bắt đầu từ ngươi đó.”
“Thế mà ta tưởng tất cả các ngươi đều cho ta là xinh đẹp kia chứ,” mụ quỷ chúa cất giọng khàn khàn nói cùng với một nụ cười quái dị.
“Nhà ngươi thối tha lắm,” hiệu trưởng nói. “Bây giờ thanh toán giao kèo đi.”
Chúa quỷ Hag quay qua Charlie - nãy giờ vẫn đứng đờ người kinh hãi trước chuyện xảy đến với Rex. “Nào, bé con,” mụ nói. “Ta sẽ dẫn ngươi đến Mê cung Gorgon.”
“Em làm gì đây hả cô?” Charlie hỏi bà hiệu trưởng.
“Cứ đi với mụ,” bà đáp. “Ở cuối Mê cung Gorgon là cái Bóng. Bây giờ lắng tai nghe ta dặn cho kỹ đây, Benjamin: đừng nhìn vào bất cứ con Gorgon nào hết. Nếu nhìn chúng trực tiếp là bị hóa đá ngay lập tức.”
Charlie sực nhớ lại con người khốn khổ mà nó đã nhìn thấy: được đẩy trên xe đi qua Phân viện Ác mộng, da cứng lại và tái như cẩm thạch. Có đúng là nó mới chỉ đặt chân đến Phân viện hôm qua thôi không? Sao nó thấy như đã ở trọn cả một đời rồi vậy?
“Em sẽ cẩn thận,” nó nói. “Nhưng tìm thấy cái Bóng rồi thì em làm gì nữa?”
“Cái Bóng sẽ nói chuyện với cậu,” hiệu trưởng nói. “Cứ há miệng ra và để nó tràn vào bên trong cậu. Nó sẽ tự làm phần việc còn lại.”
Charlie rùng mình. Cứ mở miệng ra để nó tràn vào bên trong cậu . Nó không nghĩ ra nổi còn có điều gì mình ít muốn làm hơn thế hay không.
“Và, Benjamin này,” hiệu trưởng nói tiếp, “hãy luôn ghi nhớ, nếu mọi chuyện có trở nên tuyệt vọng thì cậu cũng không đơn độc.” Bà nhìn nó đăm đăm bằng ánh mắt cương nghị.
Charlie gật đầu. “Vâng ạ.” Khi bước về phía mụ chúa quỷ, nó đi ngang qua Rex. Ông vẫn đang ngồi, dựa vào tay Tabitha. “Cháu xin lỗi,” Charlie nói. “Cháu không bao giờ muốn chú phải hy sinh nhiều như vậy.”
“Hy sinh cái gì cơ?” ông Rex hỏi.
Chuyện đã vượt quá sức chịu đựng của Charlie. Nó bước qua ông Rex rồi theo sau mụ chúa quỷ vào trong bóng tối.
Mê cung Gorgon sáng trưng. Pha lê phát sáng phủ kín các bức tường. Màu đỏ hồng ngọc bên cạnh màu xanh lam ngọc cùng màu xanh lục của rừng sâu. Những màu sắc quá mạnh khiến người ta lóa cả mắt.
“Chúc may mắn, thằng nhóc,” mụ chúa quỷ nói với Charlie, “dù may mắn không thôi thì vẫn chưa đủ đâu. Ta chắc ngươi rốt cuộc cũng sẽ nhập bọn với những ‘món trang trí’ trong Mê cung Gorgon của ta thôi.” Rồi mụ phá lên cười, tiếng cười xé cả tai.
Charlie dồn hết can đảm, hỏi, “Ta có thể tìm cái Bóng ở đâu đây?”
Mụ chúa quỷ Hag mỉm cười. “Ngươi thật láo xược. Mụ hiệu trưởng bảo ngươi không đặc biệt. Đúng là nói dối.” Mụ vỗ đôi cánh khổng lồ rồi vọt lên không trung. “Ngươi sẽ tìm thấy cái Bóng ở cuối màu xanh lục, thằng nhóc ạ, nhưng e rằng ngươi không đi được xa đến vậy đâu.” Nói xong, mụ bay đi, để lại đằng sau một đám bụi hôi hám sặc sụa.
Charlie quay về với cái mê cung sặc sỡ sắc cầu vồng. Nó cắm đầu đi vào đó. Những bức tường rất cao, trơn tuột và dốc thẳng đứng - không cách nào nhìn qua hay trèo lên để xác định phương hướng được. Nó thắc mắc không biết cái Bóng trông ra sao, và làm thế nào thứ ấy có thể giúp nó tìm lại được bố mẹ mình. Phải chăng cái Bóng ấy sẽ làm phép đưa mình đến chỗ bố mẹ, hay sẽ mang hai người đến với mình? Trí óc Charlie ngập đầy những khả năng trong khi nó len lỏi qua mê cung - trái, phải, chọn phương hướng một cách hú họa, cứ thấy nơi nào có nhiều màu xanh lục là dấn tới. Gì thì gì, đó chẳng phải là điều mà mụ chúa quỷ Hag đã nói đó sao? Mụ chẳng đã nói cái Bóng ở cuối màu xanh lục còn gì?
Charlie tới một ngã ba đường. Lối thẳng trước mặt hình như ngời lên chủ yếu một màu đỏ. Lối bên trái là màu xanh lam sáng lồng lộng như bầu trời mùa hè. Còn lối bên phải là một màu xanh lục - âm u huyền bí, giống như Thành phố Ngọc bích. Nó chọn lối bên phải mà rẽ, và thảng thốt kêu lên một tiếng.
Một người đàn ông đứng như trời trồng ở đó, kiếm đâm ra, lưng khom xuống, thủ thế, khuôn mặt đông cứng nỗi khiếp đảm. Ông được tạc từ đá - loại đá cẩm thạch trắng tinh khiết phản chiếu ánh sáng màu lục biếc. Khi trấn tĩnh lại, Charlie bèn quan sát kỹ hơn. Đây không phải tượng, chắc chắn. Mọi chi tiết đều thật một cách khó tin. Nó thậm chí còn thấy từng lỗ chân lông trên mặt ông ấy và từng sợi râu cằm tạc thành đá với sự chính xác tinh vi đến sửng sốt kia mà. Còn vẻ mặt khiếp đảm kia nữa - quá thật, quá sống động, khiến người khác nhìn vào không khỏi cảm thấy hãi hùng.
Tuy nhiên người đàn ông này không còn sống nữa. Ông đã bị biến thành đá sau khi liếc nhìn một con quỷ Gorgon, và giờ đây đã trở thành một “vật trang trí” trong mê cung của mụ chúa quỷ Hag.
Nhưng chống lại lũ quỷ Gorgon bằng cách nào đây nếu như không được nhìn chúng chứ, Charlie băn khoăn.
Chưa nghĩ ra câu trả lời thì nó chợt nghe tiếng rít vang dội trong mê cung. Khó mà đoán được cái tiếng ấy xuất phát từ đâu. Trước mặt hay sau lưng? Bên trái hay bên phải? Hoặc cũng có thể là từ khắp mọi hướng. Khi Charlie dấn bước tới, tiếng rít mỗi lúc một lớn dần và rõ hơn, và cuối cùng nó đã nhận ra thứ gì phát ra âm thanh ấy.
Rắn! Hàng trăm con rắn. Có lẽ là hàng ngàn.
Trí óc Charlie nhao lên hốt hoảng, suýt chút nữa nó đã vấp phải một pho tượng khác - lần này là một người đàn bà đang nằm ngửa mặt, nhìn cái gì đó bên trên bằng ánh mắt khiếp đảm. Giờ đây tiếng rít càng rõ hơn, lấp đầy cả hai lỗ tai của Charlie như tivi vặn nhầm sang một kênh không sóng mà lại để âm lượng quá cao. Mê cung đã biến thành một màu lục hoàn toàn. Cho dù cái Bóng có ở đâu chăng nữa thì Charlie cũng biết chắc mình đã đến gần thứ ấy lắm rồi.
Nó liếc nhìn sang phải, và choáng váng, nó đã trông thấy một con Gorgon!
Con quái ở phía bên kia của một bức tường pha lê trong suốt. Charlie đã không nhìn thẳng vào con quái - và điều đó đã cứu sống nó. Loài Gorgon cũng giống như các nữ quỷ Hag, là những sinh vật có dung mạo giống con người và có vóc dáng cao lớn; nhưng không giống như bọn quỷ Hag, chúng có những con rắn thay cho mái tóc - hàng trăm con rắn đang rít lên điên dại.
Theo sau con Gorgon này là một con khác.
Rồi lại thêm một con khác nữa.
“Thịt thằng trẻ con...” lũ Gorgon vừa hít hít không khí vừa rít lên. “Thịt thằng trẻ con rất mềm...”
Bây giờ bọn chúng đang tiến lại phía nó từ đủ các hướng, và Charlie bắt đầu hoảng loạn. Một mình nó làm sao qua được tình huống như thế này?
Và nó chợt nhớ lại lời hiệu trưởng đã nói với nó.
Cậu không đơn độc.
Charlie nhắm mắt lại thật chặt, duỗi cánh tay phải ra, và lần đầu tiên một mình cố mở cổng một cách có ý thức. Trong lúc tiếng rít của bọn Gorgon càng lúc càng lớn dần, Charlie tưởng tượng ra đấu trường Trừ Tà. Nơi ấy hiển hiện mồn một trong tâm trí nó. Bỗng nhiên Charlie nhận ra rằng tất cả những nơi mà trước đây nó đã mở cổng để ra vào đều sáng rực rỡ ngay trong đầu nó - dinh Cao ủy, lớp Pháp thuật Khai cổng, cung điện của Barakkas.
Nó tập trung vào đấu trường Trừ Tà.
Nó có thể nhìn thấy những chiếc ghế đá đã mòn và ngửi thấy nồng nồng của đất bụi. Khi đã có đích đến rồi, nó bắt đầu tập trung vào nỗi sợ hãi , nỗi sợ hãi đặc biệt riêng tư mà hình như dễ dàng khơi gợi khả năng Khai cổng của nó nhất.
Nếu mình làm thế này, Charlie nghĩ, nếu mình tìm ra cái Bóng và để cho thứ ấy làm cái nó cần làm, mình sẽ thành một đứa còn quái dị hơn nữa.
Dù chưa nhìn thấy bọn Gorgon, nhưng Charlie có thể nghe tiếng chúng, và thậm chí còn ghê rợn hơn nữa, nó ngửi thấy mùi của chúng. Chúng có mùi như mùi đất và lá mục - cảm giác như một cái hang sâu tối đen lạnh lẽo nơi lũ rắn trú ẩn khỏi cái nóng ban ngày.
Sự gần gũi với những con quái này khiến Charlie nôn nao trong bụng.
Từng viên gạch một, nó nghĩ, mình đang tự xây lên một bức tường ngăn mình với đám học sinh còn lại. Cuối cùng mình sẽ tự cô lập mình hoàn toàn khỏi bọn chúng. Mình sẽ thành đứa không ai đụng tới [1] . Mình sẽ chỉ còn lại một mình mà thôi.
Một mình.
Đó là điều nó cần.
Giống như chiếc chìa khóa vặn trong ổ khóa, Charlie kiểm soát và khơi dòng nỗi sợ hãi của mình để mở cổng trở về đấu trường Trừ Tà. Lúc này bọn Gorgon đã tiến tới chỉ cách nó một tầm tay. Giáo sư Xix đang nhẫn nại đứng đợi trên sáu cẳng chân khổng lồ.
“Ngươi đây rồi,” lão nói. “Ta đang thắc mắc không biết ngươi có đến chỗ ta hay không đây.”
“Ông giúp cháu với?” Charlie nói, mắt vẫn cứ nhắm nghiền.
“Tất nhiên rồi,” lão Xix đáp và nhanh chóng nắm tình hình. “Lũ Gorgon. Tuyệt rồi. Ta cũng đang có ý bổ sung cho nguồn dự trữ của ta đây. Cứ đến tiết học Phòng chống Gorgon thì thế nào cũng có một đứa học trò nào đó lén dòm cho được một con - cho dù ta đã cảnh
báo biết bao nhiêu lần - và rồi ta lại phải chặt đầu bọn Gorgon để hồi sinh cho mấy đứa học trò đó. Kết cuộc là kho dự trữ của ta cứ vơi dần đi. Charlie, cứ nhắm mắt lại cho tới khi ta bảo thì mới mở nhé.”
“Không vấn đề gì ạ,” Charlie đáp. Ngay lúc đó, nó không tưởng tượng được mình lại sẽ còn mở lại mắt ra lần nữa. Cho dù không nhìn thấy chuyện xảy ra, nhưng nó vẫn nghe được. Bên dưới tiếng gào rú của bọn Gorgon có âm thanh của dây câu rít lên vun vút, tiếp theo sau là một tiếng huỵch .
Charlie tỉnh ra với lòng hân hoan đen tối, Xix đang đóng kén chúng.
Chốc chốc, những sợi cưng cứng phớt qua mặt Charlie, nó biết đó là lông trên cẳng chân của Xix khi lão Cà khêu này nhảy nhót tiến hành công việc của mình. Và cuối cùng, tạ ơn trời đất , tiếng kêu gào của bọn Gorgon cũng dứt.
“Ngươi mở mắt ra được rồi đấy,” Xix nói.
Charlie thận trọng mở mắt ra. Chung quanh nó la liệt những cuộn tơ nhện đang giãy giụa. Bọn Gorgon đều đã bị nhốt kín. Hẳn phải có đến hai chục con đang nằm dưới đất.
“Hốt được một mẻ lớn rồi,” Xix hân hoan. “Thế là còn lâu nữa mới phải cần thêm. Đây là một lợi thế khi không phải làm con người - có nhìn bọn chúng bao nhiêu ta cũng chẳng hề hấn gì cả.”
“Cám ơn ông,” Charlie cố cất tiếng.
“Không có chi,” Xix nói và lùa đám Gorgon bị quấn kén qua cổng, vào đấu trường Trừ Tà. “Ta không còn ngửi thấy mùi chúng nữa nên ngươi sạch đường đến với cái Bóng rồi đấy. Đóng cổng lại đi.”
“Được ạ,” Charlie đáp. Charlie phải vận dụng hết ý chí mới có thể tự nhốt mình lại chốn Âm Ti bằng cách đóng cái ngõ ra vào duy nhất dẫn nó về nơi an toàn, nhưng nó đã nghiến răng, vẫy tay đóng sập cánh cổng lại.
Một lần nữa chỉ còn lại một mình, nó dấn bước tiến sâu vào mê cung.
Những bức tường pha lê xanh lục tỏa ánh sáng gay gắt đến nhức mắt. Bất thình lình Charlie nghe thấy tiếng mẹ. “Charlie...” bà đang gọi nó từ chỗ nào đó sâu trong mê cung. “Con ngoan của mẹ đâu rồi?”
“Mẹ ơi!” Charlie kêu to rồi bước dò theo tiếng nói. Cuối cùng nó quành qua một góc vách và thấy mẹ mình đang đứng dựa lưng vào một lối cụt.
“Con đây rồi,” bà nói. “Cuối cùng con cũng đã tìm ra mẹ.”
“Có phải là mẹ thật không?” Charlie há hốc mồm. Nó muốn chạy ào đến ôm lấy mẹ - nhưng không thể nào đó là mẹ nó được, đúng không? Mẹ nó làm gì ở tận cùng mê cung của bọn Gorgon thế này?
“Tất nhiên mà,” bà nói, thế rồi một chuyện lạ lùng xảy ra. Bóng hình bà chợt lay động, rồi tan ra như bị hút vào trong một cột khói đen. Cột khói giờ đây đang cuồn cuộn dâng lên ngay chỗ bà đứng trước bức tường xanh lục sáng rờn rợn. Rồi cột khói bỗng tụ lại và bây giờ là hình dáng bố nó đang đứng đó.
“Chào con trai,” cái thứ trông giống bố nó lên tiếng. “Bố thật vui mừng biết bao khi gia đình ta lại được đoàn tụ.”
Charlie từ từ tiến lại gần cái thứ kỳ dị ấy rồi đưa tay ra. Bàn tay nó đi xuyên qua khoảng không và cái hình thù giống như cha nó cũng chợt bị hút trở lại vào cột khói đen cuồn cuộn.
“Ngươi là cái Bóng đó sao?” Charlie hỏi.
Không có trả lời.
“Ngươi giúp ta tìm ra bố mẹ ta được không?”
Vẫn không có tiếng đáp lại từ cái vật vô hình dạng đang cuộn lên kia.
“Cứ há miệng ra để nó vào đầy cơ thể cậu. Tự nó sẽ làm phần việc còn lại,” cô hiệu trưởng đã dặn thế.
Charlie bèn há miệng ra.
Chầm chậm và cẩn thận, khối khói đen kia biến thành hình ống rồi chui tuột xuống cổ họng nó, lạnh lẽo. Charlie cảm thấy cái Bóng đang lan tỏa khắp cơ thể mình, những tua khói đen chui vào tận mọi ngóc ngách trong người Charlie - tim, phổi, rồi lan đến tận các đầu ngón tay và xuống tới tận gót chân.
Cuối cùng cảm giác lạnh giá qua đi tưởng như chưa từng tồn tại. Nhưng cái Bóng mới đây còn cuồn cuộn trước mặt nó thì giờ đây đã biến mất.
Và đã chui vào cơ thể nó.
[1] Nguyên gốc: Untouchable, còn có nghĩa là tầng lớp tiện dân (ở Ấn Độ).
CHƯƠNG MƯỜI BA - CÁI BÓNG BIẾT RÕ
Sau vài lần thất bại, cuối cùng Charlie cũng mở được cổng trở về đấu trường Trừ Tà và mừng rỡ khi thấy ông Rex, ông Pinch, Tabitha, và cô hiệu trưởng đang chờ mình.
“Em đã làm được rồi!” Tabitha ôm chầm lấy nó, nói mà gần như hét lên, “Em không sao chứ?”
“Vâng ạ. Nhưng giáo sư Xix đâu rồi? Em muốn cám ơn ông ấy.”
“Ôi, lão ta cứ như trẻ con vào sáng lễ Giáng sinh ấy,” ông Rex nói, “đi chơi với mẻ Gorgon mới thu hoạch rồi. Chắc còn lâu mới gặp lại được lão đấy.”
“Cậu đã tìm thấy cái Bóng rồi chứ?” hiệu trưởng hỏi Charlie.
Charlie gật đầu.
“Cậu đã nuốt cái Bóng rồi chứ?”
Nó lại gật đầu. “Cái Bóng ấy lạnh lắm ạ.”
“Ta cũng nghe nói như vậy, mặc dù bản thân ta thì chưa từng thử bao giờ. Món này cực kỳ hiếm và có sức mạnh vô cùng.” “Nhưng thật ra thì nó làm được gì ạ?” Charlie hỏi.
Hiệu trưởng mỉm cười, “Ra ngoài rồi ta chỉ cho.”
Ngọn gió nhiệt đới hiu hiu trên mặt Charlie thật dễ chịu, nhất là sau khi đã phải ở dưới Âm Ti lâu như thế. Nó hít thở và tắm người trong đó. Ngọn gió làm nó ấm lòng.
“Cậu nhìn thấy mặt trời đằng kia rồi chứ?” hiệu trưởng chỉ tay, hỏi. Charlie nhìn theo. Mặt trời đang xuống dần ở bầu trời đằng tây, phía sau lưng nó. “Bây giờ nhìn cái bóng của cậu xem.”
Charlie nhìn ra trước mặt, nơi nó yên chí có cái bóng của mình ở đó. Nhưng không có. “Ơ...” nó kêu lên. “Cứ tìm tiếp đi.”
Charlie quay lại thì thấy cái bóng của mình đang duỗi dài ngay sau lưng - hướng thẳng về phía mặt trời. “Nhưng sao vậy được,” nó kêu lên. “Bóng không thể nào đổ về hướng mặt trời được; phải ngược lại mới phải chứ.”
“Đúng là thế,” hiệu trưởng đáp. “Nhưng đây không phải là bóng thật của cậu đâu. Bóng thật đã biến mất rồi. Nó đã bị cái Bóng này thế chỗ, và cái Bóng này sẽ luôn hướng về thứ mà cậu tha thiết nhất - trong trường hợp này là cha mẹ cậu. Nó sẽ dẫn ta đến chỗ họ.”
“Tuyệt vời!” Charlie nói. “Thế thì mình đi thôi ạ. Hãy đi tìm họ trước khi trời tối.”
“Em chắc là đã sẵn sàng rồi chứ?” Tabitha hỏi. “Em vừa mới trải qua một thử thách ghê gớm.”
“Nhưng bố mẹ em lại đang phải trải qua gian khổ gấp bội phần,” nó nói. Nó không biết chính xác những gì họ đang phải chịu đựng, nhưng nó biết đó là điều vô cùng khủng khiếp.
“Được,” hiệu trưởng nói. “Cái Bóng của cậu đang chỉ hướng Tây. Ta sẽ đi theo hướng đó, vừa đi vừa điều chỉnh lại theo chỉ dẫn của cái Bóng tới khi tìm ra địa điểm chính xác của họ.” Rồi bà vẫy tay mở cổng, “Bắt đầu thôi!”
Sau khi ghé nhanh một nơi quạnh quẽ ở chốn Âm Ti, cô hiệu trưởng mở một cái cổng khác quay về Mặt Đất; cả đoàn rảo bước qua một hẻm núi bụi mù đầy xương rồng và lác đác những bụi ngải cứu. Giữa những đống đổ nát, nằm cách họ một quãng, là một tòa kim tự tháp hoang phế. Một số người ngồi trên lưng ngựa, đầu đội nón rộng vành để che bớt sức nóng thiêu đốt, đang lùa một bầy gia súc len lỏi qua những dinh thự điêu tàn.
“Chúng ta đang ở Mexico,” hiệu trưởng nói. “Phía trước mặt kia là di tích Cholula. Nó từng là một đô thị lớn trước khi bị Cortez tiêu diệt. Có lẽ ta sẽ gặp may và tìm thấy điều chúng ta cần tìm ở đây.” Bà liếc nhìn cái Bóng. Nó vẫn chỉ thẳng về hướng Tây, phía mặt trời.
“Hình như mình vẫn chưa tới nơi,” Charlie nói.
“Quả là vậy,” hiệu trưởng đồng tình. “Ta đi tiếp thôi.” Sau một lần tạt nhanh nữa qua Âm Ti, bà mở một cái cổng khác quay trở lại Mặt Đất và cả bọn đặt chân lên một bãi biển, nơi hàng ngàn người đang lướt sóng hoặc đang nằm nghỉ dưới bóng dù. Những khách sạn cao ngất chạy dọc theo bờ biển. Mùi dầu dừa, kem chống nắng, và bọt sóng ngập tràn trong không khí.
“Tình hình sao rồi?” ông Rex nói với một ông to béo cởi trần đang nằm ngay cạnh chỗ họ đứng; ông nọ đang hút một thứ nước màu hồng hồng trong một cái ly có cắm một cây dù nhỏ xíu.
“Ờ, cũng tốt,” ông nọ đáp mà mắt cứ tròn lên kinh ngạc.
“Chào mừng đến với quần đảo Hawaii,” hiệu trưởng nói. “Hay nói cho cụ thể hơn là đảo Oahu. Một nơi đông đúc quá thể, theo ta là thế, tuy nhiên đó chỉ là ý kiến riêng của ta thôi. Nào, xem cái Bóng cho chúng ta biết những gì đây.”
“Vẫn còn phải đi thêm về phía Tây ạ,” Charlie liếc nhìn.
“Thôi được. Cảm phiền cậu khai cổng đưa chúng ta tới Âm Ti nhé?”
“Em ấy á?” Charlie kêu lên thảng thốt.
“Cậu là Pháp sư Khai cổng mà, không phải sao?”
“Vâng... nhưng cô làm thì nhanh hơn nhiều...” Charlie ngại ngùng nhìn đám người mê mẩn ánh mặt trời đang lố nhố chung quanh. “Tất nhiên rồi,” hiệu trưởng đáp. “Và đó cũng chính xác là lý do vì sao ta không cần luyện tập nữa. Bắt đầu đi nào.”
“Cũng được ạ,” Charlie nhắm mắt lại. Nó đưa cánh tay phải lên và cố không để ý đến những tiếng la hét cười đùa của dân đi chơi biển, nhưng quả thật là khó.
“Thằng nhỏ đang làm cái gì thế?” ông cởi trần nọ nghiêng người qua bên như một con hải mã nằm trên bãi và cất tiếng hỏi.
“ Đang cố tập trung ,” Tabitha thì thào. “Mà ông cứ hỏi hoài thì nó tập trung làm sao được. Mở cổng nhìn thì dễ nhưng thật ra khó lắm đó.”
“Ồ,” ông nọ đáp. “Ừ.”
“Không biết em có làm được không,” sau một hồi, Charlie nói. “Mọi người đều nhìn em chằm chặp hay sao ấy.”
“Thì đúng vậy chứ sao,” Tabitha thì thầm vào tai nó. “Hãy tận dụng điều đó đi. Sử dụng sự bất ổn ấy để xâm nhập nỗi sợ hãi của mình.”
“Em đã sợ là thế nào rồi cô cũng nói vậy,” Charlie nói, nhưng nó vẫn làm theo. Nó tưởng tượng hàng ngàn cặp mắt đang nhìn mình; tất cả đang nhìn chòng chọc cái thằng nhỏ kỳ cục trên bãi biển này, tất cả đều nhìn và cầu mong nó thất bại ê chề...
Và kỳ cục thay, nỗi sợ bị thất bại lại giúp nó thành công. Tia lửa tím chập chờn chung quanh người nó, và đột ngột, một cánh cổng mở bật ra.
“Giỏi lắm,” hiệu trưởng thốt lên. “Cậu đang tiến bộ lên đấy.”
“Vui vẻ nhé!” ông Rex vui vẻ nói với ông cởi trần đang ngẩn người ra bên cạnh mình, rồi cùng cả nhóm quay về Âm Ti.
“Ôi, bọn Gremlin!” hiệu trưởng nhăn mặt kêu lên. Vây quanh họ là hàng trăm con quái vật nhỏ tí còm nhom, nhung nhúc chẳng kém gì người ở bãi biển Oahu cả. “Pinch, cậu có mang điện thoại di động theo đấy chứ?”
“Có đây,” ông Pinch đáp. “Nhưng ở đây nó không hoạt động được đâu.”
“Làm ơn cho ta mượn được chứ?”
“Thì đây,” ông Pinch đưa điện thoại cho hiệu trưởng. “Nhưng như tôi đã nói rồi đấy, nó sẽ không nhận được sóng, tới chừng nào ta về...”
Nhưng ông chưa kịp nói dứt câu thì hiệu trưởng đã quăng chiếc điện thoại di động ra xa hết mức. Lũ Gremlin nhao đến, chen lấn giành giật chút dây điện trong đó như một bầy cá mập tranh nhau một mẩu mồi nhử.
“Kìa!” ông Pinch gào lên.
“Bọn Gremlin giống như lũ nhặng ấy,” hiệu trưởng nói, “ta thấy bực bội quá. Thế này ít nhất cũng giúp ta tạm thời thoát khỏi chúng nó một lát.”
“Nhưng điện thoại của tôi,” ông Pinch rên rỉ.
Trong lúc ông dằn dỗi thì Tabitha quay sang Charlie, “chúng ta đang ở Vòng 1 Âm Ti. Sao em lại chọn chỗ này?” “Em có chọn đâu,” nó rùn vai. “Em chỉ cố để không tiến sâu quá vào... chỗ có mấy con quái kinh khủng thôi.” “Em bắt đầu biết điều khiển rồi đó,” Tabitha mỉm cười. “Thật kinh ngạc là em lại làm được chỉ trong khoảng thời gian ngắn như thế.” “Dà...” mặt Charlie ửng đỏ lên vì hãnh diện, “có gì to tát đâu ạ.”
“Này, xin thứ lỗi,” ông Pinch bước lại. “Ngươi làm ơn đưa bọn ta ra khỏi đây trước khi lũ Gremlin khám phá ra những món điện tử còn lại của ta chứ?”
“Nếu cậu muốn thế thì được thôi,” hiệu trưởng nói, và với một cái vẫy tay, bà tạo một cổng khác và tất cả bước qua.
Lần này cả nhóm thấy mình đang ở Trung Quốc, bùn trong ruộng lúa ngập lên tới đầu gối. Quanh họ, nông dân đang gom lúa và chẳng hề để ý đến sự hiện diện của những người lạ mặt.
“Eo,” Tabitha nói, “nhẽ ra cô nên báo trước với bọn em là mình sẽ bị ướt.”
“Ướt rồi thì sẽ khô thôi mà,” cô hiệu trưởng đáp. “Sao rồi cậu Benjamin?”
Charlie liếc nhìn quanh. “Cái Bóng đang chỉ về Nam. Em nghĩ mình đã đi lố rồi đấy ạ.”
“Tốt. Vậy là có tiến bộ rồi.” Vẫy tay một cái, bà mở cổng đưa tất cả trở về Âm Ti, rồi qua một cổng khác, bước vào một con phố đông đúc. Tiếng còi xe vang lên ầm ĩ.
“Tránh nhanh!” ông Rex la lớn, và tất cả cùng nhảy sang một bên, suýt chút nữa là bị một chiếc xe buýt nghiền nát.
“A! Thành phố Perth đây mà,” hiệu trưởng nói. “Ta luôn mê nước Úc. Có lẽ do hồi còn nhỏ ta thích nuôi một con kăng-gu-ru. Ta vẫn tưởng tượng được chui vào trong túi của nó trong khi nó nhảy khắp nơi, an toàn và yên ổn. Và ta sẽ đặt tên cho nó là bác Êm Ái.”
“Kể gì mà kể lắm thế chứ,” ông Rex lẩm bẩm.
“Đồ khó tính,” hiệu trưởng trêu.
“Xin lỗi,” Charlie kiểm tra cái Bóng đang chỉ về hướng Bắc. “Em không muốn xen vào, nhưng mình đi hơi quá xa rồi.” “Thú vị thật,” hiệu trưởng nói. “Vậy ta đang tìm một nơi ở phía Nam Trung Quốc và phía Bắc nước Úc. Có ai có ý kiến gì không?” “Làm gì có gì ở đó,” ông Rex nói. “Toàn biển với biển thôi mà, đúng không?”
“Đúng,” ông Pinch mỉa mai. “Đấy là nếu ngươi không muốn tính đến cả ngàn hòn đảo, cũng như trọn đất nước Indonesia và Philippines nữa.”
“Ôi chao ôi, xem hôm nay ai khoe mẽ kìa,” ông Rex nói. “Môn địa lý có khi nào là chuyên ngành của ta đâu chứ.” “Vậy thì môn nào chính xác là chuyên ngành của ngươi?” ông Pinch vặn ngay.
“Môn đập bọn Trợ thủ. Ta lúc nào cũng giỏi môn đó hết á!”
“Cái kiểu ăn nói bạo lực đó không hay ho gì đâu đấy nhé!” ông Pinch gằn giọng, nhưng ông chưa kịp nói thêm gì thì Charlie đã xen vào.
“Xin hai thầy tập trung vào chuyện giải cứu bố mẹ em được không ạ?” Charlie xen vào. “Em chắc chắn họ đang rất kinh hãi.” “Đúng đấy,” hiệu trưởng tán thành. “Chúng ta đang tìm một nơi xa xôi hẻo lánh, có lẽ là một nơi ngầm dưới đất, khuất tầm mắt.” “Đảo Borneo chăng?” Tabitha đề nghị. “Nơi đó rất hẻo lánh.”
“Đúng,” hiệu trưởng đáp, “nhưng chỗ ấy thiếu cái gọi là ấn tượng . Verminion lúc nào cũng khoái chuyện ấn tượng.”
“Krakatoa!” đột nhiên Charlie nói. Mọi người quay nhìn nó. “Krakatoa ở dưới ngọn núi lửa thì sao ạ? Mẹ em đã dạy về ngọn núi lửa này trong giờ địa lý. Nó hẻo lánh, kín đáo, và dứt khoát là đầy kịch tính.”
“Chính xác,” hiệu trưởng nói. “Nào, xem cậu nói đúng không nhé.”
Bà tạo ngay một cái cổng, và tất cả nhảy vào vừa kịp lúc một chiếc xe tải to đùng nhấn còi inh ỏi và lao qua nơi họ vừa mới đứng.
Không bỏ lỡ một nhịp, từ dưới Âm Ti, bà mở ngay một cổng khác và tất cả lại bước qua. Họ đang đứng trên miệng của ngọn núi lửa lừng danh thiên hạ, làm một đàn sơn dương hốt hoảng chạy tứ tán. Cái hố sâu hoắm trong lòng miệng núi hình như kéo dài tới vô tận. Hơi nước tuôn ngùn ngụt khỏi những kẽ nứt trên lớp đá núi lửa xám xịt.
“Krakatoa đây,” hiệu trưởng nói. “Đã nhiều năm nay nó không phun trào, nhưng vậy không có nghĩa là nó ngủ. Cái Bóng chỉ tới đâu rồi?”
“Thẳng xuống dưới ạ,” Charlie đáp và chỉ xuống trung tâm của núi lửa.
“Tốt rồi,” hiệu trưởng nói. “Chúng ta đã tìm ra chỗ. Bây giờ vì không biết địa điểm đích xác của cha mẹ cậu nên ta sẽ mở một loạt cổng nối tiếp nhau vào các hang động trong lòng Krakatoa. Mặc dù sẽ dùng các cổng này để lùng tìm cha mẹ cậu, nhưng chúng ta sẽ không thật sự bước qua nó cho tới khi nhìn thấy họ ở bên kia.”
“Rồi sau đó thì sao ạ?” Charlie hỏi.
“Rồi thì cuộc vui bắt đầu chớ sao nữa,” ông Rex nhe răng cười. “Đánh nhau chứ sao.”
“Hãy chuẩn bị sẵn sàng,” hiệu trưởng dặn dò. “Chúng ta bắt đầu.”
Cả nhóm trở lại Âm Ti. Hiệu trưởng mở cổng đầu tiên xuống các hang trong lòng núi Krakatoa. Qua cổng, cả bọn nhìn thấy một đường ống khổng lồ bằng cỡ đường hầm xe lửa tạc sâu vào lớp đá núi. Dung nham chảy xuống một đường rãnh bên phía tay phải, nhuộm bọn quái vật Âm Ti lúc nhúc dưới đó trong một màu đỏ hừng hực. Charlie thấy hàng chục con Lưỡi Bạc, tất cả đều thuộc Hạng 4 và 5, cũng như hàng tá những con Cà khêu Âm Ti đang tất tả chạy đi chạy lại dưới ánh sáng chập chờn.
“Ôi trời ơi,” Tabitha thốt lên. “Cả triệu con...”
“Chúng ta tìm đúng ổ rồi,” ông Rex nói. “Đây đúng là sào huyệt của Verminion. Gã dùng chỗ này để tập hợp quân đội bấy lâu nay đây mà.”
Bọn Quái vật Âm Ti, từng con một, đứng sững lại khi trông thấy cái cổng mở ra trước mắt chúng.
“ Bố mẹ cậu, ” hiệu trưởng hỏi. “Đã thấy họ chưa?”
Charlie lướt mắt nhanh qua, “Chưa ạ.”
“Thế thì ta đi tiếp.”
Trươc khi bọn quái vật Âm Ti ùa tới cái cổng mở, hiệu trưởng đã đóng sập lại và gần như ngay lập tức mở một cổng khác, vào một khu vực khác trong lòng ngọn Krakatoa. “Nhìn nhanh lên,” bà nói. “Bọn chúng biết có động rồi nên ta phải lướt qua thật mau mới được.”
Charlie nhìn và thấy một hồ dung nham khổng lồ đang cháy hừng hực, trên có những tảng đá trôi như vảy trên mặt vết thương. Hồ rộng mênh mông khiến những con quái vật Âm Ti bay phía trên trông như những con vật tí hon. Chúng đa số là bọn nữ quỷ Hag, nhưng cũng có các loài khác nữa - những quái vật mà Charlie trước đây chưa nhìn thấy bao giờ trong đó có những con như muỗi khổng lồ; có cái vòi dài quái đản được tạo ra rất hoàn hảo để đâm thủng thịt và hút chất dịch bên trong.
“Ôi chao, cái chỗ này to thật đấy,” Charlie nói.
Những con quái vật quay lại nhìn trân trối cái cổng... rồi đập cánh bay tới.
“Cậu Benjamin,” hiệu trưởng quát lên, dứt Charlie khỏi cơn ngơ ngẩn của nó. “ Có thấy họ không ?”
“Ơ... không ạ.”
“Vậy thì đi tiếp,” bà đóng cổng ấy rồi mở một cổng khác.
Lần này cổng mở vào một cái hang rộng phải bằng cỡ sân bóng chày. Dung nham sủi tăm trong những vũng trên sàn động và chảy dọc theo những bức tường gồ ghề thành những dòng cháy bỏng trông giống như những mạch máu ửng đỏ, khiến hang động giống như một vật sống, một bộ phận cơ thể đang phập phồng, như một trái tim thật sự của ngọn núi lửa. Không khí lờ mờ các đợt sóng làm nhòa đi bóng những con quái vật Âm Ti đang chạy hoặc bay tới lui trong những ngóc ngách tối tăm nhất.
“ Kia rồi! ” ông Rex chỉ tay thốt lên.
Cùng lúc đó Charlie cũng trông thấy họ. Bố mẹ nó đang bị giữ làm con tin ở phía trong cùng của cái hang khổng lồ. Họ bị treo lủng lẳng trên trần hang, bị trói trong hai chiếc kén làm bằng tơ của lũ Cà khêu Âm Ti, chỉ còn cái đầu lộ ra. Hình như họ đang hôn mê.
“Bố! Mẹ!” Charlie kêu to. Lũ quái vật Âm Ti quay lại phía nó.
“Lại hay nữa rồi,” ông Pinch khịt mũi.
“Đi theo ta!” hiệu trưởng quát lên. “Không còn nhiều thời gian đâu.” Bà vọt qua cổng, những người khác theo sau.
Sức nóng từ dung nham ập vào người Charlie với sức mạnh của một cú đập búa tạ, ngay lập tức làm khô hết mọi hơi ẩm trên da thịt Charlie và rút hết năng lượng của nó như một con ma cà rồng hút máu.
“Lối này!” ông Rex thét, ông vừa nhảy qua hang vừa tung sợi thòng lọng rực rỡ ra, phóng người trên những vũng dung nham nhỏ và né những vũng lớn hơn. Nhưng chính hiệu trưởng mới là người khiến Charlie kinh ngạc hơn cả. Bà phải năm mươi tuổi có hơn thì mới đào tạo được những học trò như Rex và Tabitha, vậy mà bà nhanh nhẹn không ngờ. Bà lao đi như một con báo đốm và nhảy vọt qua những suối dung nham, thanh thoát như loài linh dương, vừa chạy bà vừa rút trong nếp áo màu rực rỡ ra cây gậy mà trước đó đã dùng để biến một con quỷ Hag thành đống thịt nát nhừ. Với một cái vẫy cổ tay, cây gậy trồi dài ra cả hai đầu thành một thanh quyền trượng lớn, rực lên một làn ánh sáng xanh biếc, như một ngọn đèn pha xuyên thủng cả màn khói mờ ảo.
“Coi chừng!” ông Pinch la lớn.
Charlie quay lại và thấy một một toán quái vật Cà khêu rùn rùn chạy tới từ đủ mọi hướng. Nó nhanh mắt đếm số mấu mắt rung rẩy trên chóp đầu của chúng rồi hét lên, “Toàn Hạng 5 thôi!”
Rex quay người lại và bằng một động tác uyển chuyển như không phải của con người, tung sợi thòng lọng về phía con Cà khêu gần nhất. Sợi dây quấn lấy đôi chân của con quái thật chặt, khiến nó loạng choạng và ngã chổng kềnh, để lộ ra những mấu mắt dài mỏng mảnh.
“Chặt mấu mắt nó đi!” ông Rex la lên với Charlie, “Dùng kiếm ấy!”
Gần như không nghĩ ngợi, Charlie rút thanh kiếm ra và chém xuống đầu của con quái đang ngọ nguậy. Nó cắt đứt cả năm mấu mắt bằng một nhát kiếm thật gọn.
Con Cà khêu kêu rú lên rồi gượng đứng dậy, để rồi mù quáng loạng choạng ngã vào một vũng dung nham, bốc khói và cháy rụi. “Khá lắm, nhóc,” ông Rex nói. “Còn bây giờ thì giết triệu con còn lại thôi.”
Trong lúc đó hiệu trưởng cũng nhanh tay trừ khử bọn Cà khêu Âm Ti đang áp sát chỗ bà. Hiệu trưởng giờ chỉ còn là một bóng di chuyển mờ ảo, múa tít thanh trượng bằng thép giống như lưỡi dao trong máy xay trái cây, và hàng đống bọn Cà khêu Âm Ti nằm giẫy giụa theo bước chân dũng mãnh của bà. Các tia dịch đen phun thành vòi khắp mọi hướng, còn những sợi lông thô cứng từ cẳng chân của bọn quái vật tung mù mịt lên không.
“Wow,” Charlie kinh hãi lẩm bẩm.
“Ta biết,” ông Rex nói. “Bà ấy trông buồn cười quá nhỉ.”
“Coi kìa!” ông Pinch la lớn, mắt nhìn dòng thác lũ Cà khêu Âm Ti đang đổ ập lại. “Chúng đổ ra từ khắp mọi nơi.” “ Cứ để chúng tới!” ông Rex gầm lên.
Cho dù Rex ra vẻ tự tin nhưng Charlie bắt đầu thấy lo thật sự. Bọn họ có thể giết một số - có thể là vô số quái vật đi nữa - nhưng rõ ràng là không thể nào giết cho sạch hết được. Hàng trăm con quái vật nhào về phía họ từ mọi hướng như một quầng bụi đen ngòm. Số thì bay, số thì chạy, số thì trườn, nhưng tất cả đều quây lại với tốc độ nhanh khôn tả.
Hiệu trưởng vừa đập vỡ sọ một con Phun A-xít vừa thét lớn ra lệnh, “Tabitha, mở cổng ngay! Chúng đông quá. Phải rút lui thôi.” “Nhưng còn bố mẹ cháu?” Charlie kêu lên.
“Cô hiệu trưởng nói đúng đó, nhóc,” ông Rex nói. “Chúng ta mà chết thì chẳng còn ai cứu họ đâu.”
Và đột nhiên họ nghe thấy tiếng cười.
Thật trầm... thật sâu... thật kỳ lạ - đó là tiếng cười của một con quái đen tối và hung hãn, luôn nhìn thấy sự tàn sát là chuyện... thú vị.
Charlie quay người lại, thấy một con quái vật to lớn khủng khiếp đang tiến vào hang trên sáu cẳng chân dài chắc nịch. Giống như mọi sinh vật khác dưới Âm Ti, con vật này là một phiên bản quái quỷ tởm lợm của một loài quen thuộc - loài cua. Hai chiếc càng khổng lồ của nó mở ra khép lại, phát ra những tiếng côm cốp đinh tai. Đôi càng thò ra từ một thân thể màu xám hình cái đĩa có những vạch dài lộn xộn màu hổ phách trên thân. Nó to lớn đến nỗi có thể lấp đầy cả khu phát bóng chày. Một cái đầu thò ra khỏi khu vực tăm tối nhất trong cái vỏ của nó, trông giống như cái đầu tượng máng xối trên tường các lâu đài. Mắt nó đỏ ké và không hề chớp.
Con quái cười hềnh hệch, nhắp hai càng kêu đánh cốp một cái rồi nói, “Chào mừng bà hiệu trưởng.”
“Chào ngươi, Verminion,” hiệu trưởng đáp.
CHƯƠNG MƯỜI BỐN - VERMINION – KẺ LỪA DỐI
“Cút!” Verminion ra lệnh cho bọn yêu quái Âm Ti. Chúng nhanh chóng lui khỏi khu vực có ánh sáng phát ra từ dung nham và khuất dạng trong bóng tối mờ mịt phía sau.
“Vậy ra đây là nơi ngươi ẩn náu suốt hai mươi năm qua,” hiệu trưởng nói. “Ấm cúng đấy nhỉ.”
“Cũng tàm tạm, mặc dù không được tiện nghi giống như ta đã quen.”
“Vậy tại sao không quay về cung điện cũ dưới Âm Ti?” hiệu trưởng nở nụ cười. “Ta rất lấy làm vui được cho ngươi đi nhờ.”
“Ta biết ngươi sẽ vui,” Verminion nói. “Có điều không may là công việc của ta đòi hỏi ta phải lưu lại trên Mặt Đất. Ngươi có mang chiếc vòng đeo tay của Barakkas theo đấy chứ?”
Chiếc vòng.
Charlie đột nhiên nhận ra quanh cổ Verminion cũng có một cái kiềng chạm khắc hoa văn màu đỏ giống hệt như vòng của Barakkas. Hai món này có liên quan gì với nhau? Phải chăng đây là một trong những Tạo tác khác của Âm Ti mà Barakkas đã nhắc lúc trước?
“Ngươi nói chiếc vòng nào vậy?” hiệu trưởng vẫn giữ giọng ôn tồn.
“Ta hiểu rồi,” Verminion thở dài. “Chúng ta sẽ phải chơi cái trò ấy vậy. Tệ quá. Đem bố mẹ thằng nhóc này còn sống mà trả lại cho nó thì sẽ hay hơn.”
“Ngươi thật sự mong ta tin rằng nếu thằng bé mang tới vật ngươi yêu cầu thì ngươi sẽ để cho bố mẹ nó còn sống sao?” “Dĩ nhiên.”
“Ta cho rằng ngươi không xứng với sự tin cậy đó,” hiệu trưởng mỉm cười. “Mà ngươi muốn có chiếc vòng của Barakkas để làm gì kia chứ? Có lợi lộc gì cho ngươi đâu.”
“Ta chỉ muốn giữ giùm y thôi.”
“Ngươi hy vọng Barakkas tìm được đường lên Mặt Đất sao?”
“Đến khi thích hợp,” Verminion thản nhiên. “Khi y có thể, y sẽ nhập bọn với chúng ta ngay.”
“Ta rất muốn biết y sẽ lên bằng cách nào. Ybị cô lập ở Âm Ti và tuyệt đối không ai trong chúng ta muốn mở cổng cho y qua cả.”
“Như ta còn nhớ thì ngươi cũng có ý định mở cổng cho ta qua đâu,” Verminion nói. “Vậy mà, ta đã ở đây... nhờ công của Edward.” Con quái vặn cái đầu to tướng về phía Pinch, mặt ông tái nhợt. “Gặp ngươi ta mừng lắm, Edward à. Ngươi lớn hẳn lên rồi đấy.”
“Đã lâu lắm rồi,” ông Pinch lắp bắp trông như sắp xỉu đến nơi.
“Cái gì?” Charlie kinh hoảng. “Ông Pinch chính là người đã mở cổng đưa ngươi lên đây?”
“Ồ, đúng là như thế,” con quái chậm rãi lổm ngổm bò về phía họ trên sáu cái chân lỏng khỏng. “Hắn hồi đó cũng cỡ tuổi ngươi, nếu ta nhớ không lầm. Phải không Edward?”
“Phải,” ông Pinch đáp, bước lui vài bước.
“Vì có Khả năng nên hắn vô cùng dũng mãnh. Một tay ‘Đe Dọa Kép’, nghe đâu người ta gọi hắn như thế. Bọn ta, mà các ngươi gọi là ‘Named’ đó, từ dưới Âm Ti đã theo dõi hắn lớn lên với một mối quan tâm đặc biệt... Cũng như chúng ta đối với ngươi vậy, chú bé Pháp sư trẻ tuổi ạ.”
Charlie nuốt nước bọt khó nhọc.
“Bấy nhiêu là đủ lắm rồi đấy, Verminion,” ông Rex tháo thòng lọng và rút kiếm ra cảnh cáo. “Đừng bắt ta biến ngươi thành món gỏi hải sản.”
“Eo ơi, sợ quá thôi,” Verminion hất mạnh một cẳng chân ra vẻ bất cần - nhưng Charlie thấy gã cũng dừng lại thật. “Đó là sự thật,” hiệu trưởng thừa nhận, “khi còn nhỏ, Pinch đã phạm sai lầm, và cậu ta đã phải trả một cái giá vô cùng ghê gớm.” “Chuyện gì đã xảy ra ạ?” Charlie hỏi.
“Ta bị Rút,” ông Pinch nói, giọng nghe như tiếng thì thào. “Giám đốc Dyer - Giám đốc tiền nhiệm của ông Goodnight - đã gọi ta là ‘con quái vật ghê tởm cần phải được chế ngự’.”
Đột nhiên mọi chuyện trở nên sáng tỏ. Không phải Pinch đánh mất Khả năng, mà người ta đã tước đoạt nó khỏi ông. Ông từng là một trong những kẻ mạnh nhất, một tay Đe Dọa Kép giống như Charlie và cô hiệu trưởng, nhưng không như họ, người ta đã rút hết Khả năng của Pinch một cách tàn nhẫn khi ông mới chỉ là một đứa trẻ.
Chẳng trách mà Pinch luôn tức giận.
Ông ấy hẳn là thấy cô độc lắm, Charlie nghĩ. Hẳn ông phải rất đau đớn khi chung quanh mình đầy những kẻ có Khả năng trong khi mình có thời là một trong những kẻ có Khả năng mạnh nhất.
“Ôi trời ơi,” Verminion đãi giọng, ra cái vẻ đồng cảm vờ vịt và chế giễu. “Bọn chúng đã biến ngươi thành ra giống như lũ người còn lại, phải không Edward? Tầm thường và yếu ớt. Trời ơi, kẻ phi thường đã sa cơ đến thế sao.”
“Đó là vì ngươi lừa ta!” Đột nhiên ông Pinch hét lên. “Ta đã tin ngươi khi ngươi nói sẽ giúp ta trả thù những kẻ đã hành hạ ta.” “À, một chú nhóc và con cua của cậu ta,” ông Rex nói. “Ta thích chuyện này lắm đây.”
“Và nhắc đến những kẻ đã hành hạ ta,” ông Pinch quay về phía ông Rex, “thì ngươi chính là đứa tồi tệ nhất trong đám, Rexford. Từ thời chúng ta còn là một lũ Noob.”
“Vì ngươi rất đáng bị như vậy,” ông Rex đáp trả.
“Tại sao?” ông Pinch hỏi. “Ta đã làm gì khiến ngươi căm ghét ta đến thế? Điều gì đã khiến tất cả các ngươi căm ghét ta đến thế?” “Chúng ta chưa bao giờ căm ghét ngươi,” ông Rex đáp. “Chúng ta chỉ không ưa ngươi thôi. Hai chuyện đó khác nhau.” “Cấm ngươi nói thay ta đấy, Rex,” Tabitha nói. “Edward, ta không bao giờ đối xử tệ với ngươi. Ta luôn tử tế với ngươi kia mà.”
“Đó là tại làm vậy khiến ngươi cảm thấy ngươi cao cả hơn mà thôi,” ông Pinch ngắt lời. “Bố thí cho thằng Pinch kỳ dị tội nghiệp chút mẩu vụn lòng tốt để nó còn bò theo xin thêm. Như chó ấy mà.”
“Thôi đi!” ông Rex nói. “Ngươi đang cố viết lại lịch sử thì có. Ngươi hồi đó ngạo mạn và kênh kiệu. Ngươi không hề muốn dính dáng gì tới bọn ta vì ngươi cho rằng ngươi tài giỏi, hay ho hơn bọn ta.”
“Không,” ông Pinch nói khẽ. “Các ngươi tưởng ta nghĩ như vậy vì ta lúc nào cũng một mình - nhưng đó chỉ vì không một ai hiểu những gì ta phải trải qua.”
Cũng giống như mình vậy, Charlie thầm nghĩ .
“Ta thấy bị cô lập,” ông Pinch nói tiếp. “Ta chưa bao giờ đòi phải khác biệt hay quyền năng. Ta chỉ muốn giống như mọi người khác.” “Và giờ ngươi được vậy rồi đó,” Verminion rù rì.
Lời của gã như mũi tên đâm thẳng vào tim. Bầu không khí yên lặng bao trùm tất cả cho tới khi Pinch cất tiếng.
“Đúng, giờ đây ta thành như thế này,” ông nói. “Và ta chịu trách nhiệm về những việc mình đã làm. Ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. Lúc đó ta thấy quá lạc lõng và cô đơn nên mới chạy khỏi Học viện Ác mộng để mở cổng về ngôi nhà nơi mình đã lớn lên - và thế là chuyện xảy ra.”
“Chú đã mở cổng vào Vòng Trong Âm Ti ạ?” Charlie hỏi.
Ông Pinch gật đầu. “Vào cung điện của Verminion. Chỉ hoàn toàn là ngẫu nhiên thôi.”
“Ô, ta tin chắc là thằng nhóc Charlie biết đích xác chuyện đó xảy ra như thế nào rồi,” Verminion nói, và lại kẹp cái càng ghê gớm của gã kêu cốp lần nữa.
“Gã nói chuyện với ta,” ông Pinch nói. “Và hứa hẹn... những điều gã sẽ làm cho ta nếu ta đưa gã lên Mặt Đất.”
“Và ngươi đã làm theo, phải không nào?” Verminion nói, giọng trầm xuống nghe đầy cám dỗ. “Trời, lúc đó ngươi mới mạnh làm sao chứ.”
“Chuyện gì đã xảy ta sau khi gã lên Mặt Đất?” Charlie hỏi.
“Một vụ thảm sát,” ông Rex đáp, giọng hơi run run. “Verminion đã giết hết mọi người trong nhà, trong thị trấn, tất cả mọi người... trừ Pinch.”
“Tại sao ngươi không giết ta luôn đi chứ?” ông Pinch rên lên. “Ngươi giết bố mẹ ta ngay trước mắt ta. Lẽ ra ngươi nên giết phứt ta luôn đi mới phải.”
“Và tha cho ngươi khỏi nỗi đau khổ ngọt ngào này hay sao?”
“Câm họng lại, Verminion,” ông Rex gầm lên. “Ngươi đã làm đủ lắm rồi đấy.”
“Ta sao?” Verminion nói. “Thế còn ngươi ? Một quả bom đâu tự nó phát nổ được? Phải có người châm ngòi chứ. Ngươi đã châm ngòi quả bom khi hành hạ Edward thì nó mới nổ tung khi hắn đưa ta lên thế giới của các ngươi được chứ. Ngươi cũng phải chịu trách nhiệm trong chuyện này không kém gì hắn đâu.”
Rex trông như bị xì hơi. Ông loạng choạng bước lui mấy bước. Lần đầu tiên Charlie thấy ông bối rối như vậy. “Ngươi nói đúng,” cuối cùng ông nói, và quay sang Pinch. “Tôi xin lỗi, Edward. Tôi quả thật đã không biết cậu phải phải khổ sở thế nào. Hồi ấy tôi cũng chỉ là một thằng nhóc như cậu mà thôi. Tôi tưởng cậu không ưa tôi, nên tôi nghĩ mình phải tự vệ và đánh trả.” Ông nhìn thẳng vào mắt ông Pinch. “Tôi sai rồi, tôi xin lỗi. Thật đấy.”
“Tôi cũng thế,” Tabitha nói thêm.
Ông Pinch gật đầu. “Cám ơn hai người.”
“Ôi, cảm động làm sao...” Verminion nói. “Ta đến khóc mất thôi.”
“Đồ bẩn thỉu...” ông Rex gầm lên rồi sấn tới phía gã quái vật.
“Thôi đủ rồi!” hiệu trưởng quát lên. “Rexford, đánh trận nào mà ngươi có cơ thắng thì hẵng đánh.”
Đôi mắt lạnh băng của Rex chọi lại với cái nhìn kiên định của hiệu trưởng. Một lát sau ông đành phải lui. Cô hiệu trưởng quay sang Verminion. “Đúng là cách đây nhiều năm Pinch đã để cho ngươi thoát lên được thế giới của chúng ta. Tuy nhiên sau tai họa khủng khiếp đầu tiên gây ra khi lên tới nơi, thì ngươi lại im hơi lặng tiếng lạ lùng. Phải chăng ngươi không phải là mối đe dọa ghê gớm như chúng ta đã tưởng?”
“Sẽ đến lúc các ngươi nhìn thấy cơn cuồng nộ của ta bùng phát.”
“Nhưng chưa phải là bây giờ sao?”
“Sẽ sớm thôi,” Verminion trả lời và lổm ngổm bò về phía bố mẹ của Charlie đang bị treo lủng lẳng trong kén tơ bên trên những vũng dung nham sôi ùng ục. “Dậy đi, bọn bé tí này,” gã nói và đập cái càng to đùng vào họ.
Bà Olga và ông Barrington từ từ mở mắt ra.
“Charlie?” nhìn thấy nó, bà Olga lào thào gọi.
“Không sao đâu mẹ,” Charlie nói. “Chúng con tới cứu bố mẹ đây.”
“Đừng... chạy đi,” bố nó kêu lên. “Ở đây... khủng khiếp lắm.”
“Bố đừng lo. Chúng con sắp đưa bố mẹ về rồi.”
“Ngươi nói thật sao?” Verminion hỏi, rồi vươn càng kẹp quanh người bố mẹ Charlie.
“ Ngươi đang làm cái gì vậy ?” Charlie hổn hển. Nó dợm chạy về phía Verminion một cách vô thức.
“Đứng lại!” hiệu trưởng chặn đường nó.
“ Nhưng gã sẽ giết họ!”
“Không, không đâu,” bà đáp. “Gã phải giữ họ để gây sức ép với cậu, và gã rất cần cậu vì...”
Đột nhiên hiệu trưởng ngừng nói. Bà nhìn chằm chằm xuống chân Charlie.
Có chuyện không xong rồi.
Bà không biết rõ đó là cái gì. Nó liên quan đến tảng đá núi lửa mà Charlie đang đứng bên trên. Có một điều gì đó rất kỳ quái nơi tảng đá ấy, điều gì đó liên quan đến lý do vì sao Verminion lại cần tới Charlie....
“Chúng ta bị lừa rồi!” bà đột nhiên quát lớn.
“Chào vĩnh biệt bố mẹ yêu đi nào,” Verminion cười khùng khục, và bằng một nhát cắt gọn gàng của đôi càng khủng khiếp, gã cắt Olga và Barrington thành hai khúc.
“KHÔNGGGG!” Charlie rú lên khi nhìn thấy thân thể của bố mẹ mình đổ nhào xuống dòng dung nham bên dưới.
Lúc ấy cô hiệu trưởng đang quát to cái gì đó với nó, khẩn trương cố sức báo cho nó biết điều gì đó nhưng Charlie không còn nghe được tiếng nào. Nỗi khiếp đảm cùng cực phút giây ấy đã trùm kín nó. Nó loạng choạng bước lui, đầu óc quay cuồng rối loạn.
Chuyện đó đã xảy ra thật rồi sao? Nó nghĩ. Bố mẹ mình đã chết thật rồi sao?
“Không...” nó hổn hển và khuỵu xuống.
Bố mẹ nó đã bị sát hại tàn nhẫn ngay trước mắt nó.
Nó chỉ còn lại côi cút một mình.
Giờ đây có nhiều tiếng nói khác quanh nó. Tabitha và ông Rex - cả ông Pinch nữa - hình như đều đang nói, nhưng những tiếng nói ấy đều bị chìm khuất đi trong cơn sóng hoảng loạn quét qua người nó như một con sóng biển, nhận chìm nó xuống những tầng sâu lạnh giá. Nó bị cuốn đi mỗi lúc một xa trong gọng kìm của dòng chảy mạnh quá sức không thể nào bơi thoát ra được.
Côi cút... đơn độc vĩnh viễn...
Và đó là lúc nó mở cổng.
Nó không hề có ý định đó, chắc chắn là nó không cố làm như vậy, nhưng nỗi khiếp đảm của khoảnh khắc ấy đã khiến cho chuyện mở cổng trở thành không thể dừng lại. Cái cổng nó mở vô cùng lớn, lớn hơn hẳn cái cổng mà nó đã mở trong dinh Cao ủy, gần đụng tới những mũi thạch nhũ trên trần hang động cao bằng cả nhà thi đấu thể thao. Cổng được viền quanh bằng lửa tím sáng rực và mãnh liệt, tới mức những ngọn lửa trông giống những tia mặt trời giăng ngang qua bề mặt của một vầng thái dương xa lạ.
Tất cả mọi người ngưng thét gọi và sững sờ nhìn cái cổng.
Thế rồi... một thứ quái dị bước qua cổng.
Là Barakkas .
“Chào mừng lên Mặt Đất,” Verminion mỉm cười.
“Cũng tới lúc rồi mà,” Barakkas bước lại phía gã, những móng guốc đập xuống nền đá núi tóe ra muôn ngàn tia lửa. “Thật cám ơn kẻ bằng hữu vô cùng thân mến của ta là Charlie Benjamin.”
Yquay qua Charlie, cười nhăn nhở.
“Mình đã làm gì vậy?” Charlie thì thầm.
Rồi thế giới trở thành trắng xóa.
Charlie cảm thấy trên trán mình mát lạnh.
Nó mở mắt ra và thấy mình đang nằm trên giường trong trạm xá, còn Rose mama đang áp khăn lạnh vào mặt nó. Những ngọn đèn dầu tạo cho gian phòng một thứ ánh sáng ấm áp. Qua các cửa sổ tròn, Charlie nhìn thấy mặt trăng vành vạnh mọc trên bầu trời đêm nhiệt đới.
Nó đã trở lại Học viện Ác mộng.
“Nó tỉnh rồi,” Rose mama lẩm bẩm, rồi quay sang Charlie. “Đừng làm ta sợ thế nữa nghe con. Lúc họ đưa con vào, con trắng bệch như tờ giấy ấy. Uống cái này đi.”
Bà đưa cho Charlie một tách nước nóng bốc khói. Nó nhấp một hớp và ọe ra ngay lập tức.
“ Ghê quá,” Charlie nói, giọng nó khản đặc vì khói và sức nóng trong hang của Verminion.
“Ta có bảo con cho ý kiến về nó đâu,” Rose mama nạt. “Ta không tìm kiếm lời phê bình nhận xét gì hết nghe. Ta bảo uống, và con phải uống. Thuốc này sẽ làm mặt mũi con có màu có sắc lại đó. Chút nữa ta sẽ quay lại kiểm tra.”
Nói rồi bà đi ra cửa, ngang qua trước mặt Tabitha. Cô dịu dàng mỉm cười với nó.
“Em thấy thế nào rồi?”
“Không sao ạ,” Charlie để cái tách xuống. “Có chuyện gì thế ạ?”
“Ý chú mày muốn hỏi có chuyện gì sau khi chú mày bị ngất xỉu ấy hả?” ông Rex từ trong chỗ tối bước ra, toét miệng cười và hỏi. “Cháu bị xỉu sao?”
“Đổ uỵch xuống như cục đá ấy. Bình thường thì ta xem đó là hành vi của con gái, nhưng xét theo hoàn cảnh thì ta châm chước cho qua. Sự thật là cả bọn ta cũng chẳng có hành động gì dũng cảm hơn. Ngay sau khi Barakkas bước qua cổng thì hiệu trưởng đã mở ngay một cái cổng, bọn ta ẵm chú mày lên rồi chạy như một lũ gà. Ngàn cân treo sợi tóc, nhưng bọn ta cũng thoát được.”
“Không phải tất cả,” Charlie lặng lẽ nói. “Bố mẹ của cháu...”
“Vẫn còn sống ,” một giọng nói đột ngột chen vào.
Charlie quay lại. Cô hiệu trưởng đang bước vào phòng qua một cánh cổng. “Đó là điều ta đã muốn bảo cho cậu biết trước khi cậu đi quá xa không còn nghe được lời ta nói.”
“Họ vẫn còn sống sao? Làm sao được?” Charlie vụt ngồi dậy. “Làm sao họ sống được sau khi Verminion đã ra tay như vậy?” “Đúng là thế, nếu như hai vật mà gã hạ sát đúng là bố mẹ cậu.”
“Nhưng em nhìn thấy...”
“Cái mà gã muốn cậu nhìn thấy ,” bà nói. “Lúc ấy chính ta cũng tin trò lừa gạt của Verminion, cho đến khi để ý thấy cái Bóng ở dưới chân cậu. Nó không chỉ về phía mà cậu tưởng là bố mẹ mình, mà chỉ sang bên phải. Ta cũng mất một lúc mới ngộ ra ý nghĩa của điều đó.”
“Hai kẻ mà Verminion giết không phải là bố mẹ em,” Charlie chợt tỉnh ra. “Chúng là quỷ Đội lốt!”
“Chính thế. Bố mẹ thật của cậu đang bị giam ở đâu đó chứ không phải trong gian động chính.”
“Vậy là họ vẫn còn sống!” Charlie kêu lên.
“Đúng,” hiệu trưởng nói. ”Không may là chúng ta chưa cứu được họ.”
“Chết tiệt,” ông Rex nói. “Suýt chút nữa ta đã chẳng cứu được mạng của chính mình nữa là. Chỉ còn chút xíu nữa thôi.” Ông giơ ngón cái và ngón trỏ cho chúng cách nhau chỉ bằng sợi tóc.
“Nhưng nếu Verminion thật sự không muốn bố mẹ em chết thì tại sao lại giả vờ giết họ?”
“Vì gã biết rằng một chuyện ghê gớm đến thế sẽ khiến em hoảng loạn,” Tabitha dịu dàng nói, “và khai cổng ngay.” Charlie chết sững. “Vậy ra âm mưu là đưa Barakkas lên Mặt Đất?”
Hiệu trưởng gật đầu. “Chúng ta đã bị gạt ngay từ đầu. Đó là một cái bẫy bày ra để buộc cậu vào thế đành phải để Barakkas thoát qua. Verminion cần Barakkas vì một lý do gì đó ta chưa khám phá ra, và đây là cách duy nhất có thể bảo đảm đưa Barakkas lên Mặt Đất mà không bị thương tích gì.”
“Nhưng còn cái vòng đeo tay thì sao?” Charlie hỏi. “Chúng vẫn muốn nó chứ?”
“Gần như chắc chắn là thế,” cô hiệu trưởng bước lại gần giường bệnh. “Và ta cho rằng bọn chúng sẽ làm bất cứ điều gì để thu hồi nó. Vật này có vai trò thế nào đó trong kế hoạch của chúng mà chúng ta vẫn chưa nắm rõ hết.” Bà lắc đầu vẻ nghiêm trọng. “Benjamin, ta không muốn giấu cậu. Tình hình từ xấu nay đã biến thành tồi tệ. Bố mẹ cậu vẫn đang trong tình trạng nguy hiểm, và chúng ta bây giờ phải đương đầu với hiểm họa từ cả Verminion lẫn Barakkas. Phân viện Ác mộng sẽ không xem nhẹ chuyện này đâu.”
“Chắc vậy ạ,” Charlie nói.
“Tuy nhiên vẫn còn chút may mắn. Mặc dù đang ở trong tình trạng nguy cấp, nhưng ít nhất bố mẹ cậu vẫn còn sống . Ngoài ra Verminion cũng đã làm lộ vị trí hang ổ và ta cũng biết thêm đôi chút về những bước chuẩn bị của gã.”
“Chuẩn bị làm gì ạ?”
“Chiến tranh,” ông Rex móc ngón tay cái vào con đỉa quần và nói. “Chiến tranh giữa Quái vật Âm Ti với loài người. Bấy lâu nay Verminion đã tập hợp lực lượng... gã có ý đồ tấn công.”
“Tại sao lại thế ạ?”
“Vì gã căm thù chúng ta,” ông Rex đáp. “Tất cả bọn Named đều căm thù chúng ta. Thế này nhóc... Bọn chúng không muốn sống dưới Âm Ti. Chúng muốn sống ở đây, phá tan hoang những trung tâm mua sắm, hất đổ nhà cửa. Mặt Đất với chúng là một sân chơi, và chúng biết chúng là những kẻ to xác nhất trong sân chơi đó. Nhưng để lên được đây thì chúng cần chúng ta, và những cơn ác mộng của chúng ta, và chúng căm thù bọn ta chính là vì thế .”
“Nhưng nếu cần ta, tại sao chúng lại muốn giết ta?” Charlie hỏi.
“Một khi quái vật Âm Ti tấn công,” cô hiệu trưởng đáp, “thì nỗi kinh hoàng mà chúng gây ra trên toàn cầu sẽ kéo theo nhiều ác mộng hơn...”
“Và nhiều ác mộng hơn,” Charlie nói, nó đã hiểu ra, “sẽ mở nhiều cổng hơn, và sẽ có nhiều quái vật hơn thoát lên đây để tấn công chúng ta.”
“Đúng là như vậy đấy. Chúng ta gọi đó là ‘tác động dây chuyền’.”
“Vậy ta phải làm gì ạ?” Charlie hỏi nhỏ.
“Không gì hết,” Tabitha vén mấy sợi tóc trên trán nó. “Ít nhất là trong giờ phút này. Chiến tranh chưa xảy ra trong hôm nay hoặc ngày mai đâu. Chúng ta vẫn còn chút thời gian.”
“ Chúng ta đây thì có,” Charlie nói, “nhưng bố mẹ em thì không. Chúng ta phải quay lại cứu họ.”
“Nói ra điều này có lẽ cậu sẽ không dễ nghe,” hiệu trưởng ôn tồn nói, “nhưng chúng ta phải cân nhắc thật kỹ trước khi mù quáng lao đầu đuổi theo chúng lần nữa. Biết đâu chúng đã di tản đến nơi khác rồi.”
“Cô không định nói là cứ mặc kệ bố mẹ em như thế đấy chứ?
“Bây giờ e là phải vậy thôi.”
“Nhưng không thể như thế được!” Charlie nhảy ra khỏi giường và gào lên. “Họ chết trong đó thì sao?”
“Như ta đã nói từ trước, chúng ta đang trong thời chiến, và trong thời chiến thì phải có tổn thất. Ta rất mong có thể cứu được bố mẹ cậu, nhưng cậu phải chuẩn bị tinh thần cho khả năng là chúng ta có thể không thành công.”
“Chúng ta phải thử chứ!”
“Chúng ta sẽ thử khi có thể ,” bà ngừng một chốc rồi nói tiếp với giọng nghiêm nghị. “Cậu không phải là kẻ duy nhất chịu đau khổ ở đây, cậu Benjamin. Trong phòng này cũng đã có người hy sinh rất nhiều để cho bố mẹ cậu có một cơ hội rồi đó.”
Bà hất đầu về phía Rex.
“Em không bao giờ muốn chú ấy phải hy sinh nhiều như thế,” Charlie nói khẽ. “Em không bao giờ đòi như thế.”
“Đừng lo chuyện đó, nhóc,” ông Rex nói. “Khỉ thật, ta thậm chí còn chẳng thể nhớ là ta không còn gì nữa mà.” Dù là để an ủi Charlie, nhưng những lời của Rex như dao đâm vào tim nó.
“Chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể cho bố mẹ cậu, vào bất cứ lúc nào có thể,” cô hiệu trưởng nói tiếp. “Còn bây giờ thì hãy cứ
"""