"
Hoàng Đế Nội Kinh Quyển 1 - Chơn Nguyên PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hoàng Đế Nội Kinh Quyển 1 - Chơn Nguyên PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI TỰA
Trong giới y gia thời nay thường bàn luận và cho rằng bộ sách
Hoàng đế Nội kinh là kinh điển giá trị của nền y học Đông phương. Nhưng sự chứa đựng bên trong lại vô cùng bí hiểm như một kho tàng đã mất chìa khoá, chưa ai bước được vào trong - chỉ có để chiêm ngắm mà thôi. Có người đã thẳng thắn nói với tôi như thế.
Khi nghe nói thầy trò chúng tôi mở công trình dịch thuật, bình giảng qui mô và làm giáo án cho lớp Văn Hiến Y Đạo khởi từ năm 1971 tại chùa Hội Tông quận 6, cũng có người cười nhạo chúng tôi. Mặc kệ những kẻ nhắm mắt bịt tai, chúng tôi vẫn dần phát triển qua các lớp kế thừa, cho đến ngày nay hãy còn tiếp diễn…
Thể theo nguyện vọng của người chủ trì sáng lập – sư phụ chúng tôi: cố Hoà thượng Thích Minh Thiền, bút danh Siêu Thiền, mong có ngày quyển sách Nội kinh sẽ được lưu hành rộng rãi trên đất nước Việt Nam rồi tung cánh đi khắp muôn phương. Gửi đến tất cả những ai có tâm thao thức về một nền y học trở lại với cội nguồn trật tự thiên nhiên, hầu mong cùng nhau đóng góp cho nhân loại một lối thoát sau này. Vì thế đại diện cho lớp môn sinh kế thừa, tôi mạo muội đứng ra kết tập lại. Sau thời gian dài tìm kiếm phần thất lạc, chỉnh sửa khó khăn, nhờ sự động viên hỗ trợ cả công sức, tài lực, vật lực quí báu từ các môn sinh, bạn bè thân quen, quyển sách mới được hoàn thành đưa ra xuất bản.
Nguyên bản sách Nội kinh Tố vấn gồm 81 thiên chia thành 9 quyển, chúng tôi xuất bản quyển 1 lần này. Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do kiến thức còn nông cạn, chắc chắn sẽ xảy ra nhiều sơ sót, kính mong các bậc Tri Thức Cao Minh rộng lòng góp ý cho việc chỉnh sửa lần sau, chúng tôi xin vô cùng biết ơn.
Ngoài ra chúng con xin chí thành tưởng niệm công đức sâu dày của Thầy và tất cả những người hằng tâm, hằng sản, các môn sinh trước sau đã tận tụy đóng góp. Xin kính chúc tất cả quý vị dù đang ở nơi đâu đều được bình an, vạn phúc.
TP. HCM, mùa đông năm 2015 Người đại diện kết tập,
CHƠN NGUYÊN
Kính bút
HUỲNH ĐẾ NỘI KINH TỐ VẤN LINH KHU HIỆP SÁNG LỜI MỞ ĐẦU HIỆP CHÚ
của Trương Ẩn Am và Mã Nguyên Đài.
T
Ố VẤN nghĩa là một thứ sách do HUỲNH ĐẾ và KỲ BÁ, QUỶ DU KHU, BÁ CAO, THIẾU SƯ, THIẾU DU, LÔI CÔNG, vua tôi bình nhựt cùng nhau hỏi đáp mà lập thành, tức là ở trong sách
Bổn Kỷ nói: Do hỏi Kỳ Bá mà làm NỘI KINH vậy. Sách này phần nhiều xuất phát từ ý kiến của Kỳ Bá, cho nên trong bổn kỷ không đề cập đến các vị bề tôi kia, nhưng 81 thiên TỐ VẤN đây lại còn có 81 thiên LINH KHU, đại để tất cả những lời dẫn chứng trong TỐ VẤN đều rút từ trong LINH KHU. Thế thì LINH KHU có trước, còn TỐ VẤN có sau; trong sách chỉ dùng danh từ Thiên Sư, Phu Tử để gọi tôn Kỳ Bá và Quỷ Du Khu, còn các vị khác chưa hề nghe gọi như thế. Đến Lôi Công thì Lôi Công tự xưng mình nào là tiểu tử, tế tử, và Huỳnh Đế cũng có để lời dạy dỗ, ý chừng như sức hiểu biết chưa bằng các vị kia, và tuổi cũng rất nhỏ chăng. Còn về xưng hô thì nào Công nào Bá nào Sư, hình như đều là gọi theo phẩm tước cả. Ngay như thiên Bảo Mạng Toàn Hình Luận có nói: nào là Thiên Tử, nào là Quân Vương; còn trong thiên Di Tinh Biến Khí Luận, Ngũ Thường Chánh Đại Luận, Linh Khu Quan Năng Thiên, đều gọi là Thánh Vương; thiên Trước Chí Giáo Luận, Sơ Ngũ Quá Luận thì lại có phong nào Quân, Hầu, Vương; còn thiên Căn Kết ở LINH KHU thì thỉnh thoảng có gọi Vương Công, Đại Nhân, v.v. Như thế tức là gọi theo phẩm tước không còn gì nghi ngờ nữa. Đến như Quỷ Du Khu, Thiếu Du, Bá Cao đều là những tên của các vị bề tôi cả. Đời sau Trình Tử cho rằng NỘI KINH xuất phát từ các tay công tử nước Hàn, hoặc có kẻ cho rằng là tác phẩm của các nhà Nho đời tiên Tần, như thế đều là sự cố chấp theo tước hiệu văn tự, chớ chưa thấu suốt được toàn thơ, cho nên có nhắm chừng phỏng đoán như thế. Đến nay
khảo rõ những Thiên Lục Tiết Tạng Tượng Luận, Thiên Nguyên Kỷ Đại Luận, Ngũ Vận Hành Đại Luận, Lục Vi Chỉ Đại Luận, Khí Giao Biến Đại Luận, Ngũ Thường Chánh Đại Luận, Lục Nguyên Chánh Kỷ Đại Luận, Chí Chơn Yếu Đại Luận thì thấy luận về đạo vận hành của trời đất, về phép làm lịch, về sum la vạn tượng, về thân người, kinh lạc mạch thể, nhơn sự, phép trị, lời xưa lý nhiệm thì lại không phải là các sách của Bá gia chư tử có thể với tới được. Quả thật chỉ có thiên thần chí thánh mới có thể làm nổi. Theo ý ngu của tôi thì lòng trời nhân ái, lấy quần sanh làm tâm, mà tổn hại sinh mạng chỉ có bệnh tật đau khổ, muốn chữa lại bệnh tật đau khổ chỉ có sách, nhưng bao la vốn im lìm có nói gì đâu, cho nên từ trong đó mà vọt sanh ra thần thánh để thay thế mà dạy bảo, cho nên mới có sách này để cứu sanh linh muôn đời vậy. Huống chi Lạc Thơ chế từ đời Phục Hy, Y Dược khởi từ đời Thần Nông, từ Phục Hy đến Huỳnh Đế có trên một ngàn năm, về văn tự sáng tác đã rõ ràng lắm rồi. Trong sách Ngoại kỷ Bổn kỷ đều chép Huỳnh Đế đắc quan, cử tướng, làm lịch, chế âm nhạc, y phục, áo mão, xe cộ thuyền bè, cắt đất phân châu, đào kinh vét giếng, nghiên cứu trồng các loại ngũ cốc, chế thành quách, tất cả tước hiệu văn tự hồi đó đều đã đủ cả. Rồi trải qua đến các họ Kim Thiên, Cao Dương, Cao Tân lại phải trải qua hơn 340 năm mới đến đời Đường, thì tất cả những chế tác người ta biết đời Đường Ngu là hưng thạnh, mà không biết sự bắt nguồn có tự Phục Hy, có đến ngày nay nguồn gốc vốn sâu xa, đâu riêng gì sự sáng tác NỘI KINH, mà lại cho LINH KHU TỐ VẤN là không có thật được. Đến đời Xuân Thu có Tần Việt Nhơn phát lạm Nạn Kinh, lầm lạc về Tam tiêu dinh vệ quan cách, làm mờ tối NỘI KINH cũng bắt đầu từ đó. Đến đời nhà Tấn có Hoàng Phủ Bật làm ra Giáp Ất Kinh, phần nhiều rút từ trong LINH KHU nhưng nghĩa lý vẫn chưa lột được rõ. Đến đời Đường, năm Bảo Ứng có Khải Huyền Tử, Vương Băng làm chú, cứ theo câu mà giải thích, gặp chỗ nghi lại im lìm, chương tiết không phân, trước sau lộn xộn. Đến đời nhà Nguyên có Hượt Bá Nhơn nhân đọc lời sao TỐ VẤN có chỗ chưa thông đều bởi lời chú của Vương Băng mà ra. Chỉ đến đời Tống năm Gia hậu, nhà vua giao cho nhóm Cao Bảo Hành hiệu chánh, thật là rất có giúp ích cho họ Vương, nhưng vẫn phân làm 24 quyển, thật là làm mất ý nghĩa của thần thánh. Xét ra sách Ban Cố Nghệ Văn Chí có nói: NỘI KINH của Huỳnh Đế 18 quyển, 9
quyển Tố Vấn, 9 quyển Linh Khu, đó mới là đúng số thật. Lại xét trong thiên Ly Hợp Chơn Tà Luận của TỐ VẤN Huỳnh Đế nói: Vả chăng 9 loại kim, 9 thiên Phu Tử bèn nhân lên làm thành 81 thiên để khởi con số luật Huỳnh chung vậy. Đại để kinh điển của thần thánh đã lấy 9 làm số, mà lại nhân chồng lên thành ra mỗi bộ đều có 81 thiên. Ngày nay tách ra làm 9 quyển, thâu vào một bổn thiệt trái với ý của thần thánh vậy. Tôi trộm nghĩ – phàm thánh khác xa, xưa nay đời khác, nên không dám tự chuyên mà tiếm quyền giải thích, nhưng xót cho đời sau làm khuất lấp sách này; lấy ngao lường biển, nghĩ rằng may ra có lợi ích trong muôn một vậy. Người biết tôi hay kẻ lên án tôi, cả hai may ra tôi đều được tránh khỏi chăng.
Đời nhà Minh, viện Thái y Mã Nguyên Đài chú chứng.
BUỔI NÓI CHUYỆN ĐỂ DỌN ĐƯỜNG CHO CUỘC SAN ĐỊNH NỘI KINH
Thưa tất cả,
Trước khi đi vào chính kinh, tôi xin nói rõ những lý do khiến tôi chủ trương khai thác NỘI KINH.
Trước hết, nhìn thẳng vào cuộc sống ngày nay, dù chỉ đã sống có hơn nửa đời người, mà tôi tưởng chừng mình đã chứng kiến có hơn mấy trăm năm. Đất nước Việt Nam nhỏ bé này đã nhận lãnh ba nền văn minh: văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ và văn minh Tây phương, vậy mà ngày nay nó vẫn bị tàn phá các điều kiện môi sinh bởi con người thì thật là một điều hết sức chua xót. Nhưng còn đau lòng hơn khi biết rằng sự tàn hại của nó không chỉ xảy ra ở đất nước này, mà hầu như khắp cả thế giới đều cùng một thảm trạng.
Chứng kiến cái cảnh cực kỳ đau khổ đó của loài người, tôi tự hỏi vì sao mà có, và đó là lý do thứ nhất mà tôi lưu tâm đến NỘI KINH.
Thứ nữa, tôi nhận ra cái tâm lý mong cầu của người đời. Mong cầu là mong cầu cái lợi ích vật chất hiện tại cho mình. Chính vì vậy mà lòng ích kỷ càng ngày càng lan rộng, và không ai thấu triệt nguồn cội đau khổ. Đến khi đau khổ chán chê thì con người lại phủ nhận cái đã qua, hi sinh cái hiện tại, mong mỏi cái vị lai.
Nghĩa là tất cả đều coi hiện tại như một thời kỳ tranh đấu, giành giựt để tiến tới một giai đoạn đẹp đẽ hơn mai sau; chính vì vậy hiện tại ngày nay bị biến thành một bãi chiến trường vĩ đại như ta đang thấy.
Điều thứ ba, tôi thấy rằng tinh thần thánh hiền để lại đã bị hiểu lầm hoàn toàn. Người ta nghĩ rằng di sản tinh thần của thánh hiền là
nhằm đem lại những lợi ích cho cuộc sống. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh rất nhỏ. Thật ra cốt ý thánh hiền muốn chỉ rõ cho chúng ta thấy thấu suốt được sự việc hầu lòng chúng ta có thể lắng dịu. Mà khi lòng lắng dịu hết sạo sục thì cuộc sống chung mới có thể yên lành.
Điều thứ tư, tôi biết chắc rằng tất cả những gì thánh hiền để lại – cả Đông lẫn Tây, cả Âu lẫn Á, dù trong Kinh Thánh hay Kinh Phật – đều cùng nhắm một mục đích ấy. Nghĩa là nhắm làm sao cho hậu thế thấy rõ rằng tất cả đều là hiện tượng, và kêu gọi con người đừng tin lầm ở những hiện tượng đó mà ôm cái mâu thuẫn vào lòng khiến cuộc sống phải tàn hại đau thương. Nói một cách khác, thiên nhiên có hiện tượng tương đối – nếu không có hiện tượng tương đối thì không có sinh vật cũng như vũ trụ - mà có hiện tượng tương đối thì loài người lại lầm lấy đó làm sự thực ôm vào để thành một thứ mâu thuẫn. Mọi người mang cái mâu thuẫn riêng mình ấy hợp lại thành xã hội, biến xã hội thành một khối mâu thuẫn khổng lồ khiến phát sinh ra cái thảm trạng ngày nay.
Mà tất cả như vậy cũng chỉ vì di sản tinh thần của thánh hiền đã bị hiểu lầm.
Điều thứ năm, tôi nhận ra cái tình trạng mê tin của nhân loại. Tình trạng mê tin này có thể phân ra làm hai loại:
1- Mê tin tầng thấp: những giống dân bán khai, gặp gì cũng có thể tin là thần quyền được cả. Ví dụ: thờ thần đá, đốt giấy tiền vàng bạc, v.v.
2- Mê tin tầng cao: một loại mê tin thứ hai là mê tin khoa học; mê tin thực nghiệm; cốt ý mô tả sự vật mà không cần biết đến lý do tối hậu của nó; áp dụng mù quáng luật nhân quả mà bảo rằng: nghe tiếng kêu “Chét! Chét!”, không biết là con gì kêu nhưng quyết định phải có con kêu. Cũng vậy, thấy trật tự thiên nhiên không biết do ai sáng tạo, nhưng quyết định nếu không ai sáng tạo quyết không sao có trật tự.
Sự mê tin này đưa đến tình trạng trong đó con người tưởng mình là phát ngôn viên của chân lý. Cũng từ hai lối mê tin này nảy sanh một thứ mê tin mới: không tin gì cả.
Điều thứ sáu, từ thuở loài người sinh ra đến giờ, kiến thức càng ngày càng tích tụ, càng ngày càng to lớn. Nhà Phật diễn tả hiện tượng này bằng hòn núi Tu Di: Chân thì nhỏ mà ngọn thì lớn. Chân nhỏ vì cái kiến thức mê lầm buổi đầu của con người thật không có bao nhiêu, rồi từ đó càng ngày càng lên cao càng to rộng, càng ngày càng trở nên khổng lồ. Như thế càng ngày càng khó phá, mà tình trạng xã hội loài người ngày càng kém vững, càng gập ghềnh, càng dễ dàng đổ vỡ.
Nhưng cũng chính vì số lượng kiến thức to lớn đó mà con người ngày nay càng không dám dẹp bỏ nó mà nhìn thẳng vào sự thực. Họ lười biếng và sợ hãi khi nghĩ thâm sâu về chính mình. Họ quay ra mê tin, vì chính sự mê tin này giúp họ dung túng sự lười biếng, giúp họ khỏi phải nhìn thẳng để chạm mặt với sự thực, với chính mình.
Điều thứ bảy, sau hơn nửa đời người sống trong đau khổ, tôi tìm ra được một lối thoát. Lối thoát đó phát sinh từ nhận thức rằng người ta sở dĩ đau khổ là vì nhận lầm cái tương đối làm cái thực, ôm cái hiện tượng tương đối làm cái mâu thuẫn trong lòng. Từ đó kết thành một guồng máy tâm thức mâu thuẫn, tạo nên một xã hội xung chướng. Sự mê lầm đó làm cho cuộc sống trở nên trái chướng với thiên nhiên, với sự vận hành của thiên nhiên và không biết đâu là nguyên động lực của thiên nhiên, mà cũng không biết thiên nhiên có ai là chủ tể hay không. Do đó, xã hội càng ngày càng xung chướng, con người bị sa vào vòng đau khổ tạo nên tôn giáo như một chỗ tựa để mê tin, để cuối cùng đưa đến cuộc chiến giữa các tôn giáo, cũng như nảy sinh ra những căn bệnh quái ác mà y học hiện nay vẫn còn bó tay.
Cho nên nếu ta không biết gì hết về chính con người của mình thì theo bất cứ ai cũng là mê tin, theo bất cứ cái gì cũng là mê tin.
Điều thứ tám, tôi phát giác rằng NỘI KINH không phải là một bộ sách thuần túy y học như mọi người vẫn lầm tưởng (chính nhờ sự hiểu lầm này mà NỘI KINH may mắn còn tồn tại đến ngày nay. Vì ở đời Tần, tất cả sách thánh hiền đều bị thiêu hủy, trừ sách thuốc). Thật sự nó được soạn theo quan niệm y học của người xưa, mà theo quan niệm này thì chữa bệnh không có nghĩa là sửa chữa những lệch lạc vật chất trong thân thể con người mà thôi, mà còn có nghĩa là phải bài trừ mọi đau khổ bằng cách chỉnh đốn đời sống và cách sinh hoạt của con người sao cho hợp với trật tự toàn thể của thiên nhiên.
Từ những nhận định trình bày trên, tôi nghĩ rằng mình phải phát động một phong trào hướng về với chí thiện. Và điểm bắt đầu của công trình này chính là việc đọc lại NỘI KINH.
Nhìn trong một khuôn khổ không gian và thời gian thì quả công trình này với một số quá ít người quan tâm đến như hiện nay, thật là vô ích. Nhưng nếu ta vượt ra ngoài khuôn khổ không gian, thời gian thì hành động của chúng ta hôm nay nhất định phải đem lại một cái gì, ở một nơi nào đó dù có thể là rất xa, ở một lúc nào đó dù có thể là rất lâu.
Những điều nói trên đây có thể tóm tắt qua nhận định rằng không thể có một lối thoát nào khác hơn cho chúng ta ngoại trừ sự hiểu biết, chạm mặt với chính chúng ta để khám phá ra sự thực. Không một thứ tôn giáo, khoa học nào có thể tạo sẵn cho ta lối thoát đó.
Thứ nữa, cái cực nhỏ luôn luôn là hội tụ của cái cực lớn. Khám phá ra cái cực nhỏ là khám phá ra cái cực lớn. Con người khi so sánh với vũ trụ muôn loài dù rất nhỏ, nhưng chính cái rất nhỏ là con người chứa đựng cái vô cùng lớn là vũ trụ. Do đó, muốn khám phá bất cứ điều chi về vũ trụ chung quanh ta, ta đều bị bắt buộc phải khám phá chính con người của ta trước.
Theo đó tôi chủ trương khám phá NỘI KINH để học về một thứ trật tự thiên nhiên, để chốc nữa quay lại tìm hiểu mình, hoặc là tìm hiểu mình để nương theo đó mà khám phá thiên nhiên. Nếu biết được trật tự thiên nhiên, sống hòa hợp với trật tự đó thì chẳng
những cá nhân ta được an vui, mà xã hội cũng liền trở nên thanh bình.
Còn nếu chúng ta không biết gì hết về chính con người chúng ta, thì dù chúng ta có theo ai cũng là mê tin, học có hay đến đâu cũng là giả bộ, biết được tới đâu cũng chỉ là một phần nhỏ. Không thể phân biệt phải trái, giao dịch với kẻ khác thì hoặc là bị mê tin gạt mình, hoặc là mình gạt mình, hoặc là bị kẻ khác gạt gẫm.
Tại sao tôi lại giảng NỘI KINH kèm với KINH DỊCH?
Trước hết tôi phải xin thưa trước về những điểm mà người ta thường hiểu lầm về KINH DỊCH:
Thứ nhất, Kinh Dịch không phải là một quyển sách dạy bói toán. Kinh Dịch thật sự là để giảng dạy về nguyên lý sâu xa nhất của thiên nhiên.
Thứ hai, chữ “Cách mạng” mà Kinh Dịch nói đến không phải là đập phá cái cũ để thay bằng cái mới. Vũ trụ này mới từng giờ, từng phút, từng giây. Vậy mà con người lại ôm cái đóng cứng mà đúc khuôn muôn thuở. Do đó, Dịch đưa ra một cái học về hiện tượng để cho thấy trọn từ cái cực lớn đến cái cực nhỏ, để lòng người đừng vướng víu cái mới mỗi ngày, mỗi giờ (“vô sở trụ” của nhà Phật) để thấy vậy mà có một cuộc sống yên lành, lòng không sạo sục.
Thứ ba, về “tinh thần khoa học”. Đáng lẽ tinh thần đó phải được hiểu là “như như bất động” (Kinh Kim Cang) tức là cái chưa biết thì tự mình để đó, cái đã biết thì hãy thận trọng trở lại con người mới thật biết nó.
Có người thắc mắc về xuất xứ của Kinh Dịch, tôi tự nghĩ: Cần gì biết xuất xứ? - Mình học là học cái tinh thần Dịch, cái nguyên lý Dịch thì bận tâm chi đến việc ai viết nó, hồi đời nào? Ta chỉ cần biết nguyên lý Dịch được trình bày bằng những dấu hiệu nhằm tránh sự
trung gian của ngôn ngữ. Sử dụng ngôn ngữ càng nhiều, nguyên lý Dịch càng bị làm mờ tối.
Chúng ta học Kinh Dịch song song với NỘI KINH vì chính NỘI KINH đem cái nguyên lý được trình bày trong Kinh Dịch áp dụng vào y đạo, giáo dục, triết học, văn hóa, xã hội, v.v. thế cho nên một khi thấu triệt NỘI KINH là đã nắm trọn Kinh Dịch. Nhưng biết Kinh Dịch chưa hẳn là nắm được NỘI KINH.
Trong khi học NỘI KINH, chúng ta cần luôn luôn nhớ rằng học để khám phá, không mong cầu. Hơn nữa, chúng ta còn cần phải luôn luôn tự tra vấn.
- Tại sao mình học NỘI KINH?
- Mình đứng đâu, ở vị trí nào để học?
- Mình muốn cái gì đây?
- Mình học bằng cách nào?
Bởi vậy, khi học NỘI KINH chúng ta:
- Đừng quên trở vào mình hằng ngày.
- Không phải để tìm một nghề chuyên môn.
- Không chạy theo văn tự (không dựa sát vào văn tự NỘI KINH). - Đừng nghĩ nó đem lại lợi ích gì cho mình.
- Khi thấy cái bao la của NỘI KINH, đừng cho là chỉ có thánh hiền mới nghĩ ra được những điều đó.
Để kết thúc buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin nhắc thêm ba quan niệm then chốt mà tôi vẫn hằng chủ trương:
▪ DUY NHƯ
▪ DUY SINH và
▪ DUY Y
Duy Như là chỉ có sự thật tuyệt đối bình đẳng.
Duy Sinh là trên nền tảng ấy người và vật không phân biệt (chẳng phải là vật dưỡng nhơn); người và vật tất cả đều bình đẳng.
Duy Y là nếu tất cả mọi vật đều bình đẳng như vậy, thì chỉ có một việc làm duy nhất có ý nghĩa trên đời nầy là chỉnh đốn để cho nguồn tâm linh hiển hiện. Đạo Đại Học gọi đó là “Minh Minh Đức”, nghĩa là cốt sao lật đổ những cái cũ muôn thuở để con người luôn luôn mới. Việc làm đó gọi là Y.
Dám mong rằng toàn nhóm tối thiểu của chúng ta hãy nên thâm sâu ý thức.
SIÊU THIỀN
LỜI MỞ ĐẦU
B
ất cứ một sự vật gì cũng đều có chỗ tóm của nó. Thí dụ cây phải có cội, nước phải có nguồn, áo phải có bâu, quần phải có lưng, lưới đánh cá phải có giềng, nếu không có như thế thì
không sử dụng được. Nếu biết được chỗ tóm thì mới không bị lạc lối. Học thuật cũng vậy, tất cả kinh sách của thánh hiền xưa để lại, cách chọn chữ để đặt tên cũng là một chỗ tóm, y như là một trái cây có cái cuống. Nếu ta được hướng dẫn cho đúng cách, thấu suốt được tên sách thì có thể chúng ta đi sâu vào toàn bộ mà không bị lạc hướng. Do đó mà sự giải thích cho đầu đề tên kinh rất là cần thiết vậy.
Định nghĩa Nội kinh Tố vấn
(Định nghĩa sau đây không theo tự điển, chỉ căn cứ vào sự khảo sát toàn bộ NỘI KINH)
NỘI KINH:
NỘI:
1- Có ý nghĩa về triều đình, thuộc về nhà vua. Thí dụ như đồ sứ của triều đình sản xuất thì gọi là đồ sứ nội phủ.
2- Để ám chỉ cho sự chú trọng vào thân tâm của mỗi con người.
3- Để chỉ cho Đạo. Chữ “Đạo” ở đây là nghĩa sự thật, là nghĩa thiên nhiên, cũng như nói chân lý, chớ không phải ám chỉ cho tôn giáo tín ngưỡng.
KINH:
1- Là nghĩa lưu thông không ứ trệ.
2- Là nghĩa thấu suốt. Thí dụ đường vận tải lưu thông dưới nước, có những con kinh đào; hoặc như trong kỹ nghệ dệt tơ lụa có hệ thống chỉ xuôi mà người ta gọi trại ra là canh, thí dụ như nói canh tơ chỉ vải chẳng hạn.
NỘI KINH nghĩa là một tài liệu văn học, văn hóa, văn minh, xuất phát từ nhà vua. Trong đó bao gồm luận về thân tâm của con người với lý đạo và trật tự của thiên nhiên, tất cả đều có tương quan trật tự mà con người phải biết để cuộc sống được yên lành. Nó bắt nguồn từ Kinh Dịch, nó hùng dũng ở NỘI KINH và lần ra đến Khổng Mạnh, Lão Trang, Bách gia chư tử, địa lý, thiên văn, bói toán, y khoa, chánh trị, binh pháp đều là những sum sê cành lá.
TỐ VẤN:
TỐ:
1- Là nghĩa không có màu sắc, mà không màu sắc nghĩa là màu trắng.
2- Là nghĩa cái vốn có, cái không là gì.
3- Là nghĩa không bị hấp dẫn.
4- Là nghĩa bình thường giản dị.
VẤN: Là hỏi.
TỐ VẤN là một danh từ để chỉ cho một phần trong hai phần của NỘI KINH, mà trong đó vua tôi trong cuộc sống bình nhựt gạn hỏi lẫn nhau kết lại thành sách, và bên trong hàm chứa ý nghĩa đưa đường cho hậu học có cái nhìn thấu suốt bao la sự vật cũng như thân tâm, để khỏi bị vướng víu vào bệnh tật đau khổ và sự hấp dẫn của ngoại cảnh, hầu cho con người được một cuộc sống yên vui nhịp nhàng cùng thiên nhiên trật tự, cho nên gọi là TỐ VẤN.
Xưa và nay
Ở Âu châu sách vở càng mới càng hay, ngược lại ở Á Đông sách vở càng xưa chừng nào càng quý chừng nấy. Thế mới biết: tiến hóa sử của nhân loại viết theo lối Âu châu vẫn là một thứ đo lường theo trí óc. Nếu tôi không lưu ý điều này, thì làm sao tôi đọc được NỘI KINH.
C.N.
Thiên thứ nhứt
THƯỢNG CỔ THIÊN CHƠN LUẬN
Định nghĩa tên thiên
Căn cứ vào ý nghĩa toàn thiên, ta thấy đây là một thiên mở đầu của NỘI KINH TỐ VẤN, mà trong đó luận giả bắt từ chỗ đứng của thế hệ mình ngược về thế hệ xa xưa, để đàm luận về tinh thần cuộc sống thiên nhiên chơn thật thuần phác của người xưa, hầu mở màn cho một nền tảng siêu văn hóa, siêu giáo dục. Cho nên gọi là “Thượng Cổ Thiên Chơn Luận”
Đoạn 1
PHIÊN ÂM:
Tích tại Huỳnh Đế, sanh nhi thần linh, nhược nhi năng ngôn, ấu nhi tuần tề, trưởng nhi đôn mẩn, thành nhi đăng thiên.
DỊCH:
Truyền rằng Vua Huỳnh Đế(1) xưa, khi mới sanh có nhiều điềm lạ, còn nhỏ sớm biết nói, tuổi còn thơ đã sớm thông minh chững chạc, lớn lên vô cùng sáng suốt, về già thì quy thiên(2).
CHÚ THÍCH:
(1) Huỳnh Đế: Nguyên Vua Huỳnh Đế là con nhà họ Cơ, lúc mới sanh bà mẹ sanh ở đồi Hiên Viên; khi sanh ra có những đặc tánh thuộc Thổ, do đó mà đặt tên là Hiên Viên. Bởi vậy lớn lên khi ông làm vua mới nương nơi đó mà lấy hiệu là Huỳnh Đế. Vì chữ Huỳnh là màu vàng, màu vàng theo tinh thần Trung Hoa lại là thuộc Thổ, là điều hòa, là sanh sôi. Vả lại tinh thần của ông lại thích về che chở và giáo dưỡng muôn dân, cũng như quả địa cầu che chở cho vạn vật sanh sôi. Nên lấy hiệu như thế.
(2) Quy thiên: Hai chữ quy thiên ở đây nghĩa là trở về với thiên nhiên.
BÌNH:
Không cần nương theo chú thích của người Trung Hoa sau, ta chỉ cần buông tâm hồn nhập vào với cổ nhơn mà đọc lên câu thứ nhất giới thiệu đại lược về cuộc sống của Huỳnh Đế, mang máng ta thấy trước mắt ta một khí tượng tinh thần của cổ Trung Hoa về thánh hiền như sau: Con người từ trật tự thiên nhiên mà xuất hiện, rồi tham gia vào cuộc vận hành của trật tự thiên nhiên, để vừa giúp cho trật tự thiên nhiên được sáng tỏ, rồi cuối cùng trở về gia nhập vào với trật tự thiên nhiên đồng nhất không chướng ngại; tựa hồ như một cái nhân gắm xuống đất nứt lên thành cây, rồi cây phát triển sum sê, rồi đơm hoa kết quả, trái chín mùi đúng theo trật tự thiên nhiên mà rơi trở về với lòng đất.
Một cuộc sống mà chính mình là trật tự thiên nhiên để hiển dương nguyên lý trật tự thiên nhiên, như thế không phải là Đạo chứ gì. Chỗ đó có gọi là quy thiên, hay thăng thiên, hay đồng nhất với thiên nhiên, hay chính người đó là thiên nhiên cũng chả sao.
Nội tinh thần của câu thứ nhất trên đây cũng đủ cho chúng ta suy tư phản tỉnh…
Đoạn 2
PHIÊN ÂM:
Nải vấn vu thiên sư viết: dư văn thượng cổ chi nhơn, xuân thu giai độ bá tuế, nhi động tác bất suy; Kim thời chi nhơn, niên bán bá nhi động tác giai suy giả, thời thế dị da, nhơn tương thất chi da?
DỊCH:
Một hôm vua nhân hỏi Thiên Sư(1) rằng: Trẫm nghe người thời thượng cổ(2) đều sống quá trăm tuổi mà sinh hoạt vẫn còn mạnh mẽ như thường. Người nay tuổi mới 50 mà sức khỏe đều đã suy giảm; đó là lỗi ở thời thế hay ở người?
CHÚ THÍCH:
(1) Thiên Sư: Là danh từ tước hiệu của Huỳnh Đế gọi tôn Kỳ Bá cũng như danh Quốc sư sau nầy chẳng hạn. Trong đó có hàm chứa để ám chỉ cho một tinh thần sáng suốt có thể giúp cho việc tế thế an bang.
(2) Thượng cổ: Hai chữ thượng cổ ở đây là đứng ngay ở thế hệ của Huỳnh Đế mà ngược dòng trông về thời đại xa xưa.
BÌNH:
Ta cứ đứng ngay ở thế hệ của ta bây giờ, mà nhìn ngược dòng thời gian chỉ độ trong một thế kỷ thôi cũng đủ thấy rõ con người càng qua một giai đoạn lịch sử tuổi thọ càng giảm đi, điều nầy hiển nhiên ai cũng thấy. Vậy nên nhà vua đưa ra ý thắc mắc để hỏi Kỳ Bá là phải. Nhưng có một điều ta nên lưu ý, vậy nhà vua hỏi cho nhà vua, hay ông thay thế cho chúng ta bây giờ mà hỏi. Điều này phải theo dõi đến sau cùng không nên sơ hở.
Thêm nữa hiện tượng lịch sử con người càng lâu, tuổi thọ càng mất. Như vậy là lỗi ở thiên nhiên hay ở chính con người? Điểm này cũng không kém quan trọng. Nếu có xê dịch được thì không thể đổ
cho ai, hoặc một đấng chủ tể nào. Nếu có đấng chủ tể, có nơi để ta đổ thì không thể xê dịch. Vậy lí do từ đâu, ta hãy theo dõi.
Đoạn 3
PHIÊN ÂM:
Kỳ Bá đối viết: Thượng cổ chi nhơn, kỳ tri đạo giả, pháp vu âm dương, hòa vu thuật số, thực ẩm hữu tiết, khởi cư hữu thường, bất vọng tác lao, cố năng hình dữ thần câu nhi tận chung kỳ thiên niên, độ bá tuế nãi khứ.
DỊCH:
Kỳ Bá thưa: Ở thời thượng cổ, những người có biết đạo(1) đều căn cứ vào âm dương(2), hòa với thuật số(3), ăn uống điều độ, sinh hoạt có chừng mực, không phí sức vô cớ. Nên thân tâm đều đồng nhất điều hòa, do đó mà hưởng được hết tuổi trời, cho nên quá trăm tuổi mới già.
CHÚ THÍCH:
(1) Đạo: Với danh từ Đạo thật rất khó nói, vì sao thế? Vì không nói thì không ai biết, nhưng nói ra thì có thể người ta càng hiểu lầm ra một cái gì khác. Cho nên xưa nay danh từ này vẫn bị nằm tròn trong tình thế ậm ự. Có người cắt nghĩa: Đạo là cái mà ở đâu cũng có mặt nó hết, nó lớn không có cái gì lớn hơn, vật cực nhỏ cũng không có vật gì mà không phải nó. Thì rốt cuộc cũng chẳng qua là một thứ ra dấu. Vậy nên ta hãy tạm cắt nghĩa như sau đây:
a. Đạo là thiên nhiên và trật tự thiên nhiên. Điều này ta cứ tuần tự mà đi tới, rồi ta sẽ rõ, và trên kia cũng có nói qua đại lược.
b. Là nghệ thuật để thực hiện một cuộc sống ứng hợp với trật tự thiên nhiên. Nhưng thiên nhiên là gì, nguyên động lực của thiên
nhiên ở đâu, điều nầy sẽ có dịp nói rõ.
(2) Âm dương: Là một danh từ để chỉ cho hai hiện tượng hình như là trái ngược lẫn nhau trong trật tự thiên nhiên do cảm quan của con người thấy được mà đặt ra. Thí dụ như: sáng tối, động tĩnh, nóng lạnh, nam nữ, sống chết, v.v. Nhưng cái nào thuộc âm, cái nào thuộc dương ta đừng nên vội nóng mà muốn biết trước, cứ để tuần tự, rồi sau nầy sẽ thấy có cắt nghĩa rõ ràng. Chỗ nầy có người dùng danh từ hiện tượng tương đối mà nói.
(3) Thuật số: Là một danh từ để ám chỉ một môn học điều chỉnh cuộc sống cho được ứng hợp nhịp nhàng cùng trật tự thiên nhiên.
BÌNH:
Khi chưa có cái ta của mỗi người thì thiên nhiên hay trật tự thiên nhiên có hay không không thành vấn đề, đến khi cái ta của mỗi chúng ta có mặt thì tất cả vấn đề nó đều ùn ùn lũ lượt kéo đến, bởi vậy có người nói: “Ta sở dĩ có lo lớn là tại ta có thân ta. Nếu ta không có thân thì ta có lo gì”. Nhưng cái thân ta chưa đến nỗi nguy hại bằng ta đã tự biết ta có thân ta thì lại càng nguy hại hơn.
Nói rằng những người biết đạo họ đều căn cứ vào âm dương, họ có cách sống để cùng với trật tự thiên nhiên đồng nhất, vậy tại sao người biết đạo lại phải làm như thế?
Trong trật tự thiên nhiên mà linh hoạt nhất là bò, bay, máy, cựa; trong bò bay máy cựa linh hoạt nhất là con người. Nhưng hết thảy khi vừa nứt con mắt ra, vừa có cảm quan đều cũng vừa nhận thấy có hai hiện tượng hình như trái ngược lẫn nhau, ở đây gọi là hiện tượng âm dương hay gọi một cách khác là hiện tượng tương đối. Trong bất thần sảng sốt mê ly chỉ trong một cái thoáng tất cả đều lầm là hai tướng trái ngược lẫn nhau, thế rồi gom nhóm hai tướng ấy kết cùng với tâm lý lầm lạc để cấu tạo thành một guồng máy tâm thức mâu thuẫn. Cho nên trong hiện tượng thiên nhiên tuy có cái tướng tương đối, nhưng đã qua thì trôi qua, hiện tại vẫn không dừng, vị lai vẫn chưa đến, dù một cái thoáng cũng thế, cho nên thiên nhiên vẫn lưu
thông, còn trong loài người cũng như tất cả bò bay máy cựa thì lại ngược lại để tạo thành một cái thế nhóm chứa. Cho đến lạ lùng nhất là có người vẫn biết rằng: tất cả đều nằm trong cái thế quá trình biến hóa lưu động, mà họ vẫn lũ lượt lôi ra từng đoàn để xung động cho đánh giết lẫn nhau để mà chiếm đoạt.
Nói riêng về con người, mỗi một con người đã là một cái thùng nhóm chứa mâu thuẫn, tất nhiên nó phản ánh ra cuộc sống mâu thuẫn. Nhiều cái mâu thuẫn va chạm lẫn nhau, thế là trần gian này biến thành địa phủ. Vậy mà vẫn có kẻ mệnh danh là khoa học, đứng trong cái thế mâu thuẫn ấy mà nghĩ để phát triển phương tiện vật chất, hầu mong chế tạo một thứ thiên đàng, thì thật là một kẻ muốn hết khát nước mà đi tìm rượu để uống vậy, hay là kẻ trộm lục lạc mà nhét lỗ bít tai mình cũng nên. Đó là lý do làm cho người biết đạo phải nghĩ đến cách điều hòa âm dương, và họ phải có một cuộc sống đúng với sự thật của cái nghĩa trật tự thiên nhiên là phải. Thế là họ đã sớm biết để tìm lấy lại một cuộc sống bình thường; còn ai không phải thế đều là những kẻ sống bằng cách què quặt, bò lết, méo mó, xung chướng, tàn hại, đổ vỡ, ứ trệ mà thôi. Quả thật chỉ là cái thoáng mê lầm mà muôn thu hệ lụy. Mãi đến chúng ta ngày nay, chúng ta có một sự nghiệp kiến thức khổng lồ, nào kiếng hiển vi, nào cơ cấu khám phá nguyên tử, nào đài quan sát thiên nhiên, nào phi thuyền thám hiểm không gian, nào bộ óc điện tử, v.v. đến nỗi chúng ta có thể dùng con mắt thịt, dụng cụ vật chất thôi, chúng ta cũng có thể thấy được tất cả đều không có cái thế tách rời, và tất cả đều nằm trong thế tổ hợp. Còn thấy xa hơn nữa là thấy được trong cái cực nhỏ vẫn bao la y như cái cực lớn. Vậy mà hằng ngày chúng ta vẫn lăn lộn trong một cuộc sống vật chất điên cuồng tàn hại giết chóc. Như thế là tại sao…? Quả thật chúng ta đã tự biến mình trở thành một thứ khỉ thông thái có nhiều khả năng lạ lùng, chớ không còn là con người đích thực nữa.
Nhà Phật nói: “Hòn núi Tu Di đột nhiên từ giữa biển nổi lên, rồi càng ngày càng cao và càng ngày càng trên lớn dưới nhỏ”. Lại nói: “Có hòn núi Lăng Già bỗng dưng từ dưới biển nổi lên, càng lâu càng cao ngất. Nếu không gặp lúc bão tố thì không sao thấy được đỉnh. Vả lại đá trên núi ấy đều bén ngót như hình gươm dao, trên đó toàn ma
quỷ ở v.v.”. Huệ Năng nói: “Mâu thuẫn là núi Tu Di, luống dối là quỷ thần”, v.v.
Kitô giáo nói: “Bởi tổ tông loài người ăn vụng trái hiểu biết (trái cấm), cho nên bị Chúa đày xuống trần gian, để mãi đến chúng ta bây giờ càng ngày càng chịu thêm lao khổ, chỉ còn có cách đón chờ giờ phút ăn năn”.
Nếu chúng ta là những người biết nghe, được ý quên lời, trầm ngâm ngẫm nghĩ sâu xa về sự thể của cái thoáng mê lầm nguồn cội, mãi đến sự nghiệp kiến thức khổng lồ như ngày nay, và chịu khó lưu tâm đến cuộc sống địa phủ hiện tiền của thế giới hiện tại, thì chúng ta sẽ thấy mỗi chúng ta là những hòn núi Tu Di, Lăng Già và trong đó chấp chứa không biết bao nhiêu là ma quỷ. Ôi! Một cuộc sống đau khổ như thế chưa đủ thấm thía sao hỡi người! Vậy mà chúng ta hễ mở miệng ra là cứ thấy mình đầy đủ văn minh, còn cổ nhơn đều là hàng cổ lỗ ngu muội. Tôi trộm nghĩ rằng: biết đâu chúng ta ngày nay dẫm chưa hết dấu chân bước đi của người quá cố?! Một bằng chứng cụ thể đáng phì cười nhất là có kẻ bảo: lịch sử loài người mới chỉ độ mấy ngàn năm. Còn có kẻ quan sát không gian, thăm dò vũ trụ thì lại nói rằng: quả địa cầu chúng ta ở đây có lẽ đã trên 5 triệu tuổi, một quá trình 5 triệu năm như vậy mà bảo rằng loài người chỉ mới có mặt độ mấy ngàn năm thì thật là mâu thuẫn. Trời ơi! Chúng ta nên đề phòng kẻo lâm vào tình trạng kẻ mù lớn dẫn kẻ mù bé cùng nhau đưa đường xuống vực thẳm vậy.
***
Phiền não đau khổ sanh bệnh tật, bệnh tật đau khổ sanh phiền não. Như vậy thân với tâm là hai hay một? Nếu thân với tâm tuy hai mà một, tuy một mà hai thì việc chỉ vì thức ăn uống mà hóa ra hung hãn, hoặc vì thức ăn thức uống mà hóa ra đần độn u mê, hoặc vì thức ăn uống mà hóa ra muôn vàn bệnh tật là chuyện có thể xảy ra hằng ngày như cơm bữa.
Ai có ngờ đâu chỉ vì ăn uống mà phải hóa ra ăn trộm, chỉ vì ăn uống mà hóa ra đẻ con câm?!
Ai có ngờ đâu chỉ vì ăn uống mà ông cha hiếp dâm một đứa con ruột của mình mới 14 tuổi đầu để rồi phải bị tù tội?!
Ai có ngờ đâu chỉ vì ăn uống mà một bà lão quá 60 lại thèm khát dục tình với đứa con rể đôi mươi mười tám?! Như thế việc ăn uống có thể bỏ qua không cần biết đến được sao?
Cuộc sống của con người tuy rất bộn bề, nhưng thu lại chỉ có thân và tâm, và từ thân tâm ánh ra không ngoài ăn uống, sinh hoạt và tâm tư. Ai có khả năng điều hành cho sự ăn uống, sinh hoạt và tâm tư được quân bình là người đó được hưởng hết tuổi trời là lẽ dĩ nhiên, chớ phải đâu là chuyện cố tình tham sống sợ chết cũng như những kẻ tham chết sợ sống. Bởi vậy đoạn này luận giả đưa ra người biết đạo ngoài vấn đề tinh thần ra, họ không bao giờ vô ý thức với ngoại cảnh trật tự thiên nhiên, cũng như đối với điều hành ăn uống sinh hoạt là việc phải có vậy.
Thâm sâu vào tinh thần đoạn trên đây, nỡ nào chúng ta lại không đấm ngực bưng tai mà khóc ngất cho được! Ôi! Tất cả chúng ta đều đã bằng lòng làm một thứ khỉ thông thái mất cả rồi. Cuộc sống hằng ngày của chúng ta đã để cho sợi dây chuyền kinh tế và chính trị nó mắc vào sinh hoạt của chúng ta. Thế rồi nó xoay đến đâu chúng ta cũng phải quay mòng mòng theo đến đó. Dẫu ai có lưu tâm muốn giúp đỡ, chúng ta cũng vẫn tiếc rẻ cái không khí ngu dân mà sợ hãi không dám nhìn, gần nhất là ăn uống sinh hoạt cá nhân hằng ngày còn chẳng có giờ phút lưu tâm thay, có đâu chú ý đến trật tự thiên nhiên, hay trong con người của mình còn bao cái gì gì nữa, mà chỉ còn là hiện hữu của dục vọng, tham lam, bỉ ổi, tàn hại, mê tin, v.v. mà thôi. Có biết bao kẻ áp dụng vô số phương tiện tân kỳ, mân mê mò mẫm trong cõi thiên nhiên để rồi càng lâm vào tình trạng bơ ngơ báo ngáo, và khi trở về với cuộc sống bình thường lại vẫn y như què quặt, sứt mẻ, tạp loạn, tàn hại, mê tin, đổ vỡ mà thôi. Trong tình trạng không còn một ai dám nhìn thẳng vào mặt thật của cuộc sống chính mình hằng ngày, thì dẫu cho có một người rất có thiện chí muốn tìm kiếm lại một cuộc sống thật sự bình thường cũng không phải dễ. Đó là chuyện quan trọng nhất của thế hệ chúng ta bây giờ. Chuyện chung
của tất cả, chớ không còn là chuyện của riêng ai. Thế là có dịp để cho chúng ta khẩn cầu cổ nhơn sống lại.
Giá chi tự hồi nào đám con cháu của Huỳnh Đế không bị lầm lạc mà đẩy NỘI KINH vào trong cái xó y khoa. Cũng như tín đồ Phật giáo đừng vội thấy chỉ có kinh Phật mới là điều đáng biết, thì ngày nay đâu
ra nông nỗi! Quả thật là hột xoàn nằm sẵn trong túi mà lại mang vứt đi, để rồi gom nhóm cát sỏi ôm vào, thì thật là đáng tiếc.
Đoạn 4
PHIÊN ÂM:
Kim thời chi nhơn bất nhiên dã, dĩ tửu vi tương, dĩ vọng vi thường, túy dĩ nhập phòng, dĩ dục kiệt kỳ tinh, dĩ hao tán kỳ chơn, bất tri trì mãn, bất thời ngự thần, vụ khoái kỳ tâm, nghịch vu sanh lạc, khởi cư vô tiết, cố bán bá nhi suy dã.
DỊCH:
Người đời nay thì không phải thế, họ lấy rượu làm nước, lấy cuồng loạn làm thường, no say rồi dâm dục, vì dâm dục làm kiệt tinh, vì hao tổn mà làm mất chơn nguyên(1), chẳng biết gìn giữ khi sức khỏe đầy đủ, chẳng biết tùy thời tiết mà chế ngự tinh thần, họ cốt sao cho được cảm giác sướng khoái, trái với lẽ yên vui, ăn ở vô độ. Cho nên mới độ 50 tuổi mà đã suy rồi.
CHÚ THÍCH:
(1) Chơn nguyên:
“Chơn” nghĩa là thật, không thay đổi, vốn như vậy.
“Nguyên” là đầu mối, là bắt đầu.
“Chơn nguyên” tức là cái vốn có trong mỗi con người.
Nói về phần vật chất thì con người khi mới sanh ra, ai ai cũng đều thọ bẩm tinh khí của cha mẹ, mà tinh khí này thuộc về hệ tuần hoàn máu trắng do Thận điều động, mà thận thuộc về tạng Thủy.
Trong cõi thiên nhiên trên thượng tầng không khí, ra ngoài vòng khí quyện, nơi đó toàn là khí lạnh. Khi có mặt địa cầu, khí lạnh đó biến hóa ngưng đọng làm thành ra nước cho nên gọi là thiên nhất sanh Thủy. Tất cả chất nước do người ăn uống vào cộng vào hơi thở, khi vào cơ thể đều theo sự vận chuyển của Thận và tuần hoàn máu trắng mà biến hoá ra tinh khí. Do đó nên gọi là “Chơn nguyên”.
Nói về phần tinh thần thì tất cả vũ trụ muôn loài đều nằm tròn trong bầu linh không vô cực. Thế là linh không vô cực là nguồn sinh lực cho tất cả muôn loài. Nhưng nguồn sinh lực ấy ra sao làm sao biết chắc có, nếu không phải một phen khám phá cho tận cùng nguồn cội tâm hồn, thì nhất định không làm sao mà biết được. Phương chi đã lấy cảm giác sướng khoái làm sở thích, lấy dâm dục làm vui thì lại càng đui mù thêm, chớ làm sao mà biết được. Cho nên gọi là “hao tổn mà tan mất chơn nguyên” là vậy.
BÌNH:
Đứng ở thời Huỳnh Đế mà bảo là: người đời nay thì không phải thế, v.v. Trời ơi! Thế rồi chúng ta bây giờ mới là thế nào? Ta thử nghĩ hồi đó mà còn lấy rượu làm nước, lấy cuồng loạn làm thường. Thế thì chúng ta bây giờ lấy đến cái gì nữa? Hèn gì bây giờ người ta đặt rượu
mà cho thêm khí đá, thêm thuốc xịt sâu, hoặc thêm vôi Càn Long, hoặc có khi thêm dầu lửa nữa là phải. Cho đến con trai lại mặc đồ con gái, để tóc; còn con gái lại mặc đồ con trai và hớt tóc. Hoặc thầu thêm bao nhiêu thứ ma túy dị thường nữa cũng chẳng là phải lắm sao! Bởi vì đã trải qua 6-7 ngàn năm cơ mà!
Nói rằng: Người thời hồi đó no say rồi dâm dục. Vậy chẳng hay đến chúng ta bây giờ no say rồi họ sẽ làm gì?! Đến đây dẫu ta có đem hết sức tưởng tượng cũng không tưởng tượng hết được. Nhưng tại sao lại nêu lên vấn đề no say rồi dâm dục?
Tất cả cơ cấu trong con người nó đều có tác dụng riêng biệt. Trong khi ta ăn uống no say là lúc mà khí huyết phải tụ về để tận lực làm việc cho bộ tiêu hóa. Trong lúc chúng ta dâm dục thì toàn cả khí huyết cũng đều phải vận chuyển về bộ phận sanh dục để mà ứng hợp với tác dụng của nó. Vậy mà có thể vừa no say rồi lại vừa dâm dục, mà không bị bệnh chết mất là chuyện không có bao giờ. Đây là động cơ để tạo nên một thứ bệnh ôm lấy suốt đời, mà người đời gọi là bệnh phòng tích.
Bảo rằng vì dâm dục (quá độ) làm cạn kiệt hết tinh khí, tức là để bảo cho cái nguyên nhân tự hủy hoại. Vậy mà chúng ta ngày nay còn có những bậc bác học đại phát minh rằng thủ dâm không những không có hại, mà còn giúp ích thăng bằng cho những người sống độc thân nữa là khác. Thậm chí người ta còn chế ra đàn bà giả, đàn ông giả để tiện việc cần dùng thì thật là hết bực nghĩ bàn rồi vậy.
Lời tục nói “đói cơm khát nước tèm hem, no cơm ấm áo lại thèm nọ kia” quả thật là một thứ sản xuất thặng dư giá trị rồi phải chở hàng hóa đi đổ sông đổ biển, hoặc mang súng ống chen lấn đi tìm thị trường chẳng có khác chút nào. Như thế làm sao biết được cái đạo lý “như cầm ngọc, như bưng đầy” cho được! Đã không biết như cầm ngọc như bưng đầy, thì làm gì biết được chuyện tùy thời tiết mà chế ngự tinh thần!! Thế thì ngoài việc xung động là làm bừa ra, còn ngồi lại mà nghiên cứu muôn vàn cách thức nữa là khác. Thế là bên ngoài chúng ta càng rất người bao nhiêu là trong lòng chúng ta càng rất thú bấy nhiêu. Bởi vậy cả bộ Kinh Kim Cang của nhà Phật, khởi đầu chỉ là việc làm sao để mà chế ngự tinh thần thì thật là chí lý.
Đừng nói dân hồi thời Huỳnh Đế họ sống bằng cảm giác điên cuồng, mà chính cả cái thế giới chúng ta ngày nay cũng đều chỉ là một cuộc săn đuổi theo cảm giác điên cuồng của một đám lao nhao mà thôi. Thậm chí đánh giết khổ đau cũng là một thứ sướng khoái, như thế bảo sao không sớm già suy cho được. Chính những kẻ viết những dòng này nghĩ đến cái tuổi trẻ đã qua mà cũng đến không xiết xấu hổ. Thật là “gót danh lợi bùn pha sắc xám, mặt phong trần nắng nám màu dâu”…!
Đoạn 5
PHIÊN ÂM:
Phù thượng cổ thánh nhơn chi giáo hạ giả, giai vị chi hư tà tặc phong, tỵ chi hữu thời, điềm đạm hư vô, chơn khí tùng chi, tinh thần nội thủ, bệnh an tùng lai. Thị dĩ chí nhàn nhi thiểu dục, tâm an nhi bất cụ, hình lao nhi bất quyện, khí tùng dĩ thuận, các tùng kỳ dục giai đắc sở nguyện. Cố mỹ kỳ thực, nhậm kỳ phục, lạc kỳ tục, cao hạ bất tương mộ, kỳ dân cố viết phác. Thị dĩ thị dục bất năng lao kỳ mục, dâm tà bất năng hoặc kỳ tâm. Ngu trí hiền bất tiếu, bất cụ ư vật, cố hợp ư Đạo. Sở dĩ năng niên giai độ bá tuế, nhi động tác bất suy giả, dĩ kỳ đức toàn bất nguy dã.
DỊCH:
Vả chăng, thánh xưa dạy dân đều phải biết tránh những nơi gió cuồng khí độc, trong lòng phải rỗng rang điềm đạm thì chơn khí(1) mới thuận, và tinh thần giữ vững ở trong thì bệnh làm sao mà sanh. Cho nên tinh thần nhàn nhã ít ham muốn, lòng yên không sợ hãi, thân tuy có cực nhọc nhưng tâm không bị mệt mỏi, chơn khí nhờ đó mà được thuận, nên ai nấy đều được sở thích. Nhờ thế mà thỏa mãn với ăn mặc, yên vui với phong tục, trên dưới thuận hòa, nên dân hồi đó gọi là thuần phác(2). Bởi vậy sắc không làm loạn được mắt, dâm tà không làm loạn được tâm. Toàn dân đều không bị lo sợ, cho nên cuộc sống hoàn toàn hợp với Đạo. Nhờ thế mà sức sống đều vượt trăm tuổi, sinh hoạt vẫn khỏe mạnh như thường, có như thế là nhờ giữ trọn được đức.
CHÚ THÍCH:
(1) Chơn khí: tức là khí chơn nguyên, mà hai chữ chơn nguyên trên kia đã có nói qua.
(2) Thuần phác: “thuần” là thuần hậu, “phác” nghĩa là chất phác. Nhưng thuần phác thì lại không phải chỉ là nghĩa chất phác, vì chất phác được cái mộc mạc mà thiếu sự hiểu biết. Nhưng hiểu biết không đến nơi đến chốn thì lại sinh ra thiếu thuần hậu, tức là đểu giả. Cho nên phải có sự hiểu biết đến nơi đến chốn, để rồi tinh thần không xa lìa với chơn chất, thì mới được gọi là thuần phác.
BÌNH:
Bắt đầu đoạn này có hai chữ “Vả chăng” là ta biết ngay cả đoạn này đều để nối tiếp và chú thích cho đoạn 3 trên, và nối tiếp bằng: “thánh xưa dạy dân...”
Nhờ nhập tâm hồn vào trọn cả toàn bộ NỘI KINH, ta thấy được chữ “thánh” có những ý nghĩa như sau đây:
1- Là nhờ khám phá thấu suốt được chính con người của mình trước, để rồi cuộc sống hằng ngày không bị ứ trệ và cùng cái trật tự thiên nhiên đồng nhất.
2- Là nhờ ở khám phá thấu suốt chính con người của mình trước, nên sức minh mẫn đạt đến tuyệt đỉnh mức bình thường, để rồi đi đến thấu suốt trật tự thiên nhiên, và đem đạo lý ấy mà giúp đỡ giáo hóa muôn loài.
Gồm cả hai nghĩa nói trên, một người đạt được như thế tức gọi là thánh nhơn. Chỗ này Khổng Tử gọi là: “Học không nhàm, dạy người không mỏi” là vậy. Bởi tinh thần thánh nhơn lưu thông như thế, nên Lão Tử có nêu ra câu “Người học đạo tinh thần phải lỏng như nước.
Nếu ngăn lại thì có thể ở trên núi, tung tóe thì có thể vọt qua đầu, cho vào thùng lập tức vuông, cho vào bầu lập tức tròn, v.v. cho nên thật mềm mà không phải yếu, thật mạnh mà không phải cứng; tương tự như tánh nước vậy”. Sau đây cũng một câu chuyện tương tự, nói: “Ông Thuấn mới ngày hôm qua hãy còn cầm chuôi cày và nạt trâu thá, dí ngoài ruộng, đúng hệt như một người nông dân thuần túy. Thế mà hôm nay dân chúng tôn ông lên làm vua, khi lên ngai vàng, người ta nhìn thần khí của ông y hệt như một ông vua đã làm vua mấy đời.
Rồi một hôm nào ông không muốn làm vua nữa, trở về với nghề nông, thì người ta lại thấy ông vẫn y hệt là một người nông dân không khác”. Đây là để ám chỉ cho tinh thần lưu thông của thánh nhơn vậy. Nhưng thánh nhơn có bao giờ tự gọi mình là thánh đâu. Nếu tự cho mình là thánh, thì thiệt không có thánh chút nào. Vậy thì danh từ thánh nhơn đích thị là do người ngoài nhìn vào mà đặt vậy thôi. Thế mà còn có bực thánh nhơn giả bộ, bởi thế nên đến Lão Tử mới đưa ra vấn đề dứt thánh bỏ trí, kẻo dân chúng chen nhau làm thánh rồi đến đánh giết lẫn nhau.
Luận nói dạy dân tránh nơi gió cuồng khí độc. Vậy thế nào là gió cuồng, thế nào là khí độc? Điều này rồi sau sẽ rõ.
Bảo rằng: Trong lòng phải rỗng rang điềm đạm thì chơn khí thuận. Vậy rỗng rang điềm đạm có phải là một thứ ráng bậm môi để chế tạo ra không? Chắc chắn là không. Vì sao thế? Vì đã ráng bậm môi chế tạo ra tức là một thứ khổ chớ đâu được gọi là rỗng rang điềm đạm. Nếu thế muốn được rỗng rang điềm đạm ít ra phải có một hiểu biết như thế nào, một cách thức như thế nào. Vậy thực tế của nghĩa rỗng rang điềm đạm là sao? Nếu rỗng rang điềm đạm là nghĩa trong lòng thảnh thơi, không chứa dựa việc đã qua, lại cũng không phải là một kiểu mê muội ngủ gà; như thế tức là người đó đã được rơi vào trung tâm của cuộc sống, họ là hiện thân của thiên nhiên, của linh không vô cực rồi vậy. Trong lãnh vực thiền học ngày nay có câu rằng: “Rỗng rang rời rảnh, động dụng đừng mê” cũng chính là nghĩa này. Nhưng làm sao để mà được rơi vào trong trung tâm của cuộc sống như thế. Việc này không phải là việc ta có thể tập lần lần.
Một mảy bụi trần rơi vào con mắt cũng đủ để che khuất cả một bầu trời. Một mảy sự nghiệp lòng trần cũng đủ để che khuất tánh linh muôn thuở. Dẫu cho chỉ mang một mảy bụi trần này với bao nhiêu là
phương tiện tân kỳ đi thám hiểm bao la để tìm thấy sự thật đi nữa, rốt rồi cũng chỉ lạng quạng nhá nhem. Thế thì cái mảy bụi trần này là việc quan hệ nhất, không bao giờ có chuyện dồn ép hoặc gạt để qua một bên. Nếu mảy bụi trần này còn vướng víu, thì không những ta không biết gì hết về cái bụi trần ấy, mà cũng không biết gì hết về cái bao la vốn có nơi ta. Và nếu ta không biết gì hết về cái bao la vốn có
nơi ta trước đã, thì tất cả những cuộc khám phá không những vứt đi, mà chúng ta cũng không làm sao mà biết được cái thực tánh của linh không vô cực là gì nữa. Như thế rồi làm sao mà có được khả năng để mở toang cái guồng máy của thằng mình, hầu cho cuộc sống hằng
ngày khỏi bị rơi vào u mê xuẩn động cho được.
Thế là cổ nhơn quả có một phương pháp minh tâm kiến tánh, quyết định không còn gì nghi ngờ nữa. Phải chăng đây cũng là một thứ mà nhà Phật gọi là giải thoát kiên cố?! Hèn nào từ tinh thần ấy xuôi dòng đến Lão Trang thì lại là một nhịp cầu vĩ đại để cho văn minh Ấn Độ cùng với văn minh Trung Hoa đồng nhất, để biến thành một cao trào thiền học hùng dũng ba đào mà Lục Tổ Huệ Năng là tinh hoa kết đúc, rồi từ đó tẻ ra bao nhiêu là chi phái cho đến ngày nay. Thế mà cả nhân loại ngày nay kể cả cái gọi là Phật giáo cũng vẫn lơ là như không hay biết.
Nay ta hãy thử băng mình sâu vào tinh thần siêu tuyệt của pháp môn đốn giáo kiến tánh của Lục Tổ Huệ Năng, để một phen cùng cổ nhơn tri âm thử.
Có người đến cầu mong Lục Tổ khai thị cho cái thấy cội nguồn. - Lục Tổ bảo: Nếu người muốn cầu pháp thì hãy nên dứt hết các duyên đừng sanh một móng niệm, rồi giây lát tôi sẽ nói cho nghe. Giây lâu Tổ bảo: Ngay khi chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính trong hồi ấy cái gì là tánh linh của người? Thế rồi người nghe chợt bừng tỉnh. Lại hỏi: Còn có chi bí mật nữa không? - Tổ đáp: Tôi đã chỉ cho ông thì không còn gì là bí mật; nếu ông tự quan sát soi trở vào bên trong con người của ông, thì bí mật nằm tròn bên phía của ông vậy. Điều này chúng ta cũng phải càng ngẫm nghĩ, ngẫm nghĩ! Đến đây tôi sực nhớ trong tài liệu của Tổ Đạt Mạ có chép: Có người đến mong cầu chỉ cho thấy được cội nguồn. Đạt Mạ bèn bảo: Ngồi quay mặt vào vách, ngừng dứt hết các duyên đừng khởi sanh một niệm để nghiệm thử. Giây lâu Đạt Mạ hỏi: Vậy trong khi không mảy may móng niệm, hồi đó trong con người của ông có dứt mất không? - Người ấy đáp: Không. Hỏi: Lấy gì làm bằng chứng? - Đáp: Điều này khó nói quá! Ai làm nấy biết, cũng như ai uống nước nấy hay. Đạt Mạ bảo: Đúng rồi, đúng rồi! Hãy căn cứ vào đấy mà khám phá tất cả, đừng để dứt mất.
Cũng trong hệ thống Lục Tổ, một thiền sư hiện ở Trung Hoa là Huệ Quang. Một hôm có người đến hỏi: Làm sao tôi thấy được tận cội nguồn tâm linh của tôi? - Thiền sư đáp: Xin mời người đừng nghĩ thiện cũng đừng nghĩ ác, và cũng đừng cố tình làm ra cái không nghĩ, rồi quan sát thử xem cái đó là cái gì. Người ấy im lìm giây lâu. Thiền sư lại bảo: Cái đó cái gì! Người đó vẫn trong im lìm. Thiền sư lại đôn thêm một câu nữa: Trong đó ra sao? Người ấy vẫn còn đang trong thế ngồi thừ im lặng, thiền sư bỗng hét một tiếng. Người ấy liền nhận ra được cội nguồn, y hệt như quả bong bóng bơm thẳng rồi đập một gậy vỡ toang. Quả thật là đẩy một cái mạnh liền bị rơi vào trung tâm của cuộc sống. Hèn gì Kinh Dịch có nói: “Cơ mầu dấy động, họa phúc liền sanh. Chẳng động là to nhất” là phải lắm vậy.
Đến đây ta có thể ngược dòng thế hệ với tinh thần siêu tuyệt này mà nhìn về cổ nhơn, ta mang máng nhận ra được tinh thần thoát tục của hồi ấy ra sao rồi. Thế là nguồn thiền vốn có tự xa xưa. Thế mà không phải ai cũng có thể theo cách này để tiếp nhận. Cho nên lại có những vị đưa ra cho người học một nghi vấn nào đó, thí dụ: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, mầy là cái gì?”, để gây thành một cơn khủng hoảng trường lưu đi đến một biến cố vĩ đại trong con người ấy, rồi trở về với trời quang mây tạnh mà tất cả muôn triệu vấn đề đều được giải quyết ngay. Thế thì then máy của “rỗng rang điềm đạm” không phải là một cái huyệt tối yếu của NỘI KINH sao?! Hèn gì vừa mở quyển thiên thứ nhứt liền đề cập đến, là phải vậy.
Nếu không thấy được cái gì, thì Khổng Tử đứng bên bờ sông nhìn dòng nước chảy không buột miệng mà than rằng: “Cứ luân lưu và luân lưu mãi”. Cũng vậy, nếu ta không thấy được cái gì thì Trang Tử không thốt ra câu: “Làm chim ta bay chơi, làm cá ta lội chơi”, v.v.
Trong thiên nhiên có Thái dương hệ vận hành, có Xuân Hạ Thu Đông, có năm tháng ngày giờ, có sáng trưa chiều tối mà con người là cả một bầu bao la thu nhỏ lại. Và bộ máy ấy lại là trực thuộc với Thái dương hệ này, lẽ tất nhiên nó phải có cái cách thiên nhiên trật tự vận hành của nó.
Có con người tất có hiểu biết, có hiểu biết tất có cơ cấu trí não thần kinh. Cơ cấu trí não thần kinh là sản phẩm của tâm thức, mà tâm thức lại bắt nguồn tận cùng ở linh không vô cực, thể tánh bổn tâm. Thế thì thân tâm này phải có cách cùng với trật tự thiên nhiên đồng nhất. Chữ “chơn khí” ở đây là vậy. Nó vốn có nhịp điệu hòa thích thuận chiều, thế tất nó cũng có cách thế trái chướng đổ vỡ, chẳng khác nào một guồng máy có thế lưu thông và thế kẹt. Nay ta hãy nghiệm thử: trong lòng không rỗng rang điềm đạm, tức là chơn khí không thuận, tức là điện chạy nghịch chiều, mà không rỗng rang điềm đạm nghĩa là có. Tất cả những cái có không ngoài mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn, lo, sợ, v.v. Khi ta giận quá làm cho ta có thể ói máu; khi ta lo quá lồng ngực ta như dúm lại; khi ta buồn quá toàn thân ta như bị một sức lạnh đè nén bơ vơ, đó là những bằng cớ to nhất để cho ta thấy lòng không rỗng rang điềm đạm thì chơn khí vận chuyển trái chướng nghịch chiều, và cũng đồng thời để cho ta nhận ra cái giá trị của rỗng rang điềm đạm.
Một con người bên ngoài nhận ra được trật tự thiên nhiên, bên trong điềm đạm rỗng rang thảnh thơi sáng suốt thì việc tinh thần không bị rong ruổi, năng lực không bị hao tán là việc dĩ nhiên. Như thế khỏi cần nói cũng biết con người ấy bệnh tật khó xảy ra. Cho nên mới nói: Tâm yên nhà tranh cũng ổn, tánh định rau cỏ cũng ngon. Và lời tục thường nói: Lòng buồn ăn vàng cũng không thấy mập. Lại cũng có nói: “Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa” là nghĩa như thế.
Quả thật! Quả thật! Nếu một con người không biết gì hết về chính mình, về tận cội nguồn của chính thân tâm mình, thì làm sao mà lòng thảnh thơi nhàn nhã ít ham muốn cho được?! Dẫu cho có làm ra nhàn nhã ít ham muốn chăng nữa, cũng chẳng qua là một thứ giả bộ mà thôi, thì làm sao mà lòng được yên không sợ hãi?! Nào sợ sanh, sợ già, sợ bệnh, sợ chết, sợ thương không được gần, sợ ghét không được xa, sợ muốn không được, sợ được rồi mất, sợ nghèo, sợ đói, sợ thiếu thốn, sợ đủ thứ, nhưng vẫn chưa biết sợ cái sợ là gì. Dẫu cho có làm vua hay làm tổng thống chăng nữa cũng chẳng qua là một thứ biến tướng của sợ hãi mà thôi. Hèn nào một tổng thống bước chân ra đường là phải bao nhiêu khí giới tối tân đi theo ủng hộ, cũng như
muốn nói chuyện với muôn dân mà phải ở trong cái chuồng thủy tinh dầy cả tấc thì thiệt là mỉa mai hết chỗ nói. Như vậy dù cho bên ngoài hình hài có thấy sung sướng cao sang chăng nữa, thì bên trong chơn khí nó cũng đã chạy nghịch chiều, để chuẩn bị cho một cuộc chết yểu bằng những bệnh ghê gớm như bệnh ung thư nội tạng chẳng hạn, như thế cũng là việc dĩ nhiên. Quả thật là trời đất rất công bình, nếu không thế thì nhàn nhã ít ham muốn, lòng yên không sợ hãi, thân tuy có cực nhọc mà tinh thần không bị mệt mỏi đều trở nên vô lý cả sao? Và cuộc sống của chúng ta quyết định không đến nỗi trở nên địa phủ như ngày nay nữa.
Một xã hội mà những bậc lãnh đạo đều là hàng tiền giác, để rồi nghĩ ra cách thức giáo hóa cho muôn dân; trong thấu suốt được chính con người mình trước, ngoài rõ được trật tự thiên nhiên, tâm hồn được thênh thang điềm đạm, trên dưới đều thuận hòa, cùng nhau kiến thiết thuần phong mỹ tục để cùng yên vui. Trời ơi! Văn hóa như thế, giáo dục như thế, triết học như thế, đạo học như thế chúng ta ngày nay có thể nào cắm đầu nhắm mắt mà chê bừa được sao! Như thế không dùng hai chữ thuần phác chớ gọi chi bây giờ!
Một xã hội mà sắc không làm loạn được mắt, dâm tà không loạn được tâm, lòng thảnh thơi không khiếp sợ mà không hợp với Đạo là vô lý. Và cuộc sống như thế mà có yểu ương cũng là vô lý.
Cuối cùng đoạn này bằng một câu: trọn được đức. Chúng ta phải nên thâm trầm suy tư ngẫm nghĩ.
Nhà Phật nói: Cuối cùng kiếp giảm của con người, chừng đó kiếp người chỉ còn 10 tuổi, v.v. Chuyện đó có hay không ta cứ ngẫm nghĩ về núi Tu Di, và nhìn vào thực tế hiện nay cũng đủ rõ.
Ai có ngờ đâu một cô gái 16 tuổi mà tuyên bố quyết định đi làm đĩ!?
Ai có ngờ đâu hai cậu trai 13 tuổi và 11 tuổi dắt nhau đi hiếp dâm một em bé 6 tuổi!?
Ai có ngờ đâu thí dụ một quả bom hạch tâm hay khinh khí chi đó rơi xuống vùng Bắc cực, thì có thể trong một thời gian rất ngắn tất cả mặt địa cầu đều biến thành bão, lửa và nước lụt!?
Ai có ngờ đâu một em bé 13 tuổi rưỡi mà phải mở miệng than rằng: cuộc đời này không chen lấn rồi làm sao mà sống!?
Những chuyện như thế có thể xảy ra hằng ngày như ăn cơm bữa. Thế thì chuyện kiếp người còn 10 tuổi lại là chuyện xa vời được sao?
Đọc sách thánh hiền lời ít ý nhiều vốn tự ngàn xưa, vậy mà hôm nay chúng ta phải bàn tràng giang đại hải thì thật cũng là vạn bất đắc dĩ thế thôi. Ôi! Cũng là việc tổn thọ đến thánh hiền vậy.
Đoạn 6
PHIÊN ÂM:
Đế viết: Nhơn niên lão nhi vô tử giả, tài lực tận da, tương thiên số nhiên dã?
DỊCH:
Huỳnh Đế hỏi: Con người khi tuổi già không có con nữa là tại sức mình hết hay là tại số trời?
Đoạn 7
PHIÊN ÂM:
Kỳ Bá viết: Nữ tử thất tuế thận khí thạnh, xỉ cánh phát trường. Nhị thất nhi Thiên quý chí, Nhiệm mạch thông, Thái xung mạch thạnh, nguyệt sự dĩ thời hạ, cố hữu tử. Tam thất Thận khí bình quân, cố chơn nha sanh nhi trưởng cực. Tứ thất cân cốt kiên,
phát trường cực, thân thể thạnh tráng. Ngũ thất Dương minh mạch suy, diện thỉ tiêu, phát thỉ đọa. Lục thất tam dương mạch suy vu thượng, diện giai tiêu, phát thỉ bạch. Thất thất Nhiệm mạch hư, Thái xung mạch suy thiểu, Thiên quý kiệt, địa đạo bất thông, cố hình hoại nhi vô tử dã.
DỊCH:
Kỳ Bá thưa: Con gái khi đến 7 tuổi là khí(1) ở Thận(2) thạnh, lúc đó răng thay tóc dài. Đến 14 tuổi thì tuần hoàn máu trắng(3) sung túc, mạch Nhiệm(4) thông, mạch Thái xung(5) thạnh, kinh kỳ mỗi tháng nhân nơi đó mà có cho nên có thể có con. Đến 21 tuổi khí của Thận quân bình, nên răng cấm mọc và sức lớn căng thẳng. Đến 28 tuổi gân xương cứng cáp, tóc dài hết mức, thân thể mập mạnh. Đến 35 tuổi mạch Dương minh(6) suy, da mặt bắt đầu khô, tóc bắt đầu rụng. Đến 42 tuổi ba mạch dương(7) ở trên đều suy, nên sắc mặt đều già, tóc bắt đầu bạc. Đến 49 tuổi mạch Nhiệm suy, mạch Thái xung kém ít, phần tuần hoàn máu trắng cạn kiệt, vùng hạ bộ không thông, cho nên cơ thể già mà không có con vậy.
CHÚ THÍCH:
(1) Khí: Chữ khí ở đây có nghĩa là tác dụng thần kinh hệ.
(2) Thận: Chữ Thận phần đông đều hiểu theo kiểu trái cật heo bán ngoài chợ, điều nầy hết sức sai lầm. Chữ Thận ở đây lại không phải thế, đây là để chỉ chung cho cả Thận dương và Thận âm. Chữ Thận dương tôi nói ở đây tức là ngày nay gọi là mũ Thận (sẽ có hình
vẽ và chỉ dẫn riêng).
(3) Tuần hoàn máu trắng: tức là ngày nay theo tiếng Pháp gọi là Système Lymphatique mà người Tàu dịch là Lâm ba tuyến. Tuần hoàn này Hoa Nhật y khoa gọi là tuần hoàn Thận. Nó bắt đầu từ chỗ giao với nhau giữa hai đầu mối thần kinh âm và thần kinh dương, chỗ giao nhau ấy nó hiện lên chạy ngược chiều trở về trong thân, bắt đầu từ nhỏ rồi lần lớn, bên trong nối nhau bằng cái hom (Valvule) và
thỉnh thoảng mỗi chặng có một cái hạch tùy theo mạch nhỏ lớn, cho nên gọi là Kết tiết. Nó có mặt ở khắp mặt da bất cứ là da bên trong tạng phủ hay da ngoài. Tác dụng của nó rất là bao la rộng lớn. Nơi mặt da nó nương nơi sự hút vào của mặt da để tạo thành một cơ cấu thâu hút sự dinh dưỡng, cùng là bảo vệ cho tất cả mọi cuộc xâm lăng của các chất độc bên ngoài. Bên trong nó chạy ngược chiều trở về đến vùng Ruột non, nó tiếp giáp nối liền với cái Xây, bộ phận này có người gọi là họng xôi, mà tiếng Pháp gọi là bể Pecquet, đến đây thuộc về lãnh vực của mạch Thái xung. Trong tuần hoàn máu trắng hàm chứa chất máu trắng (hột máu trắng) và chất nhờn pha loãng với chất nước. Mạch của nó vận hành theo thể tĩnh, nó không tuyệt đối đi theo ống mạch, trong khi biến cố nó có thể có mặt ở bất cứ chỗ nào. Chính nó là mầm non nhựa sống trong sinh lực của con người. Về mặt tánh tình, nó đi theo sự rung cảm của tâm hồn (sẽ có hình vẽ cắt nghĩa rõ sau). Trong chánh văn sở dĩ gọi là “Thiên quý” là vì khi tuổi sinh lực còn thì các chất trong tuần hoàn này lên xuống theo chất nước của ngoại cảnh thiên nhiên. Chữ “quý” là nước, cho nên người xưa gọi là Thiên quý. Sở dĩ gọi là tuần hoàn Thận và người xưa đều quan niệm rằng: tuần hoàn này là thuộc về Thận, là vì nó có liên quan mật thiết với tác dụng của Thận, mà nhất là mũ Thận. Và người xưa quy tất cả chất nước đều về với Thận, cho nên gọi là Thận thuộc Thủy.
(4) Mạch Nhiệm: là một danh từ để chỉ cho đại động mạch và đại tĩnh mạch ngay chính giữa thân, phía trước xương sống, trực thuộc với Tim, thuộc về cốt cán của tuần hoàn máu đỏ.
(5) Mạch Thái xung: Chữ “thái” nghĩa là quá lớn, chữ “xung” nghĩa là ngược chiều đi lên mà trong đó có hàm ý nghĩa là khí. Mạch này bắt nguồn từ cái Xây nối tiếp với tuần hoàn máu trắng, để gom nhóm phần khí của khắp mặt da về đến cái Xây đặng làm động cơ thâu hút chất bổ, đem lên đổ vào tĩnh mạch máu đen của xương gánh đặng bồi bổ cho sự tiêu hao trong lượng huyết, và đào thải cho máu trở nên tươi nhuận để rồi lại đi nuôi khắp châu thân. Nó có chia ra hai mạch nổi để đi ngang qua nền vú, hầu giúp ích cho việc cho con bú trong lúc mới sanh. Vì nó quan hệ đến tất cả phần khí, cho nên tiên gia gọi là “khí mạch”.
(6) Mạch Dương minh: Theo sự hiểu biết của NỘI KINH thì mạch Dương minh là một trong ba kinh dương, điều này rồi sau chánh văn sẽ có dịp nói thật rõ. Đây ta chỉ cần biết đại khái: mạch này thuộc về tác dụng của Bao tử và Ruột già tức là Vị với Đại trường, khi đi lên đến đầu nó chiếm ở phần trước mặt.
(7) Ba mạch dương: tức là Thái dương, Thiếu dương và Dương minh. Ba mạch này đi lên đầu chiếm phần ngoài của cái đầu, phía trước là Dương minh, hai bên là Thiếu dương, phía sau và trên đỉnh đầu là Thái dương. Sau này sẽ biết thật rõ.
HÌNH 1.1: PHỔI TIM, TẠNG THẬN VÀ MẠCH NHIỆM
Ổ
HÌNH 1.2 : PHỔI, TẠNG THẬN VÀ MẠCH NHIỆM
BÌNH:
Bắt đầu đoạn này ta thấy tinh thần nhà vua lần đi vào sâu tận nguồn sinh lý của con người. Ta nhìn chung ý của Kỳ Bá đáp ta thấy khởi đầu bằng trình bày một sự kiện vốn hiển nhiên như thế, để rồi
sẽ đi đến cái tại làm sao có ra như thế. Muốn giải thích điều này ta hãy chờ đến đoạn nói hết về người con trai, chừng đó ta sẽ có dịp mà nhận thấy toàn bộ NỘI KINH đều bắt nguồn từ Dịch lý. Như ta đã biết tuần hoàn máu trắng mà gọi là Thiên quý, là vì nó thuộc về chất nước và bắt nguồn hẳn vào mạng mạch thiên nhiên bên ngoài nó ra tận đến mặt da ngoài để cùng với chót vót hai thứ thần kinh và chót vót của động mạch và tĩnh mạch để mà gặp nhau, bên trong nó vào tận đến mặt da trong của tạng phủ và cùng với động mạch tĩnh mạch và hai thứ thần kinh hệ gặp nhau cũng y hệt như bên ngoài. Nhưng tại sao lại phải đợi đến 14 tuổi, điều nầy ta hãy đợi Dịch lý giải thích luôn. Có điều hiển nhiên là đến tuổi này sự rung cảm trên tâm lý bắt đầu biến thái, nhựa sống bắt đầu căng đầy, lồng ngực bắt đầu căng thẳng, tim thỉnh thoảng có hồi đập nhanh, có hồi đập chậm, có hồi ăn uống liền miệng, có hồi đi đứng nhảy nhót, có hồi cau có bực dọc, có lúc ngủ nghỉ bất thường, bắp thịt mông đít bắt đầu đầy đặn, lông nơi âm hộ bắt đầu khởi mọc. Như vậy ta thấy được động cơ triển nở nó đòi hỏi sự tiếp tế tăng cường để trưởng thành cơ năng sanh dục. Động cơ ấy bắt nguồn từ đâu ta cứ để Dịch lý lát nữa trả lời luôn. Có điều này ta cần nên biết sự thật trên cơ thể học, tất cả những nguồn cội cơ cấu xuất phát từ trên như tim óc đều xuống đến bộ phận sanh dục, phần tủa ra tận cùng vi ti quản đều chầu về gặp nhau tại đó. Bởi vậy da trong của tử cung nó cũng phải có đủ năm điều kiện như da ngoài (điều nầy sẽ có hình chỉ dẫn). Và trên tim óc có gì về mặt tâm lý tinh thần, thì ở dưới tử cung cũng có đủ hết, y hệt như cơ cấu thu vào của vô tuyến truyền hình mà lại là thu tất cả. Nơi đây là một môi trường kì diệu cho cả cơ cấu thần kinh âm, thần kinh dương, tuần hoàn máu đỏ, tuần hoàn máu trắng, tuần hoàn máu đen đều chầu về tại đây nhiều nhất, mà nhiều nhất là cơ cấu của máu trắng. Cho nên chất độc bên ngoài muốn xâm chiếm vào quyết định cũng không phải dễ.
Giờ đây ta hãy tiến sâu vào câu “Kinh kỳ nhơn nơi đó mà có, cho nên có thể có con” (bộ phận tử cung của người đàn bà ra sao, sau này sẽ có hình chỉ dẫn). Chỉ có một điều là tại sao người đàn bà mỗi tháng lại phải có một kỳ kinh và chính văn lại gọi là “nguyệt sự” và bắt đầu mỗi kỳ chẳng có ai giống ai.
Trong Thái dương hệ ta thấy được trăng với nước có trực tiếp tương quan. Dòng tuần hoàn của mặt trăng mỗi tháng một chu kì, cho nên mỗi tháng có một đợt nước to mà người quê gọi là con nước ròng.
HÌNH 1.3: CÁCH HOẠT ĐỘNG CÁC HẠT MÁU TRẮNG
Ắ Ở
HÌNH 1.4: MẠCH THÁI XUNG VÀ MẠCH MÁU TRẮNG Ở MẶT DA NGOÀI VÀ MẶT DA TRONG NỘI TẠNG (vẽ theo lối tưởng tượng)
Ử Ồ
HÌNH 1.5: TỬ CUNG VÀ BUỒNG TRỨNG
Người đàn bà thọ bẩm lệch về thể tĩnh, về quả đất, về Thái âm, về hướng tâm của quả đất, về tình cảm. Cho nên máu đỏ theo chiều máu trắng biến hóa theo thể hướng tâm mà chuyển nặng về bên dưới, vì thế mà tác dụng của kinh kỳ theo chu kỳ của mặt trăng và theo ảnh hưởng của nước bên ngoài, cho nên trong vô tình khi nước lên xuống mà tình cảm của người đàn bà có những đợt biến thay.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật có nói: Mỗi một chúng sinh bên trong có một thứ nước gọi là nước ái, hễ khóc thì ứa ra mắt gọi là nước mắt; khi tủi thì ứa ra mũi gọi là nước mũi; khi thèm ứa ra miệng gọi là nước miếng; khi dục ứa ra bộ sinh dục gọi là nước dâm. Lại nói: trong lòng nhiều tình cảm thì nước hướng về bên dưới nhiều, nhiều suy tư lại hướng về bên trên nhiều. Bởi vậy đồng là chịu chung ảnh hưởng của chu kỳ mặt trăng thế mà không một ai giống ai cả. Quả thật tâm thức là một nguồn quan trọng. Ôi! Then máy như thế trước đây 6-7 ngàn năm người xưa đã thấu rõ rồi, tôi không biết các bậc bác học bây giờ lại nghĩ sao.
Tiến tới một bước nữa mà bàn, nghệ thuật ghép cây, người ta phải chọn cây còn đầy đủ nhựa sống và phải trích lấy chồi non với một nghệ thuật đúng kì ăn khớp thì mới thành tựu. Cách thọ thai của người đàn bà cũng vậy, trước khi kinh kỳ đến là tất cả mạch máu trắng ở lòng tử cung đều trương nở, đến mức ứa ra một loại huyết trắng để rửa sạch các chất dơ bẩn trong lòng tử cung, và làm bong ra một lớp da hết sức mỏng để dọn đường cho máu đỏ đều ứa tung ra, khi máu đỏ bài tiết ra rồi thì lại đến một loạt bài tiết của máu trắng nữa, làm cho da trong tử cung có đủ khả năng tiếp nhận khối dương tinh với cái trứng dính vào. Trong khi đó tử cung đã hết bực buông lơi nên trứng trong ổ trứng theo ống dẫn trứng nhịp nhàng với luật hướng tâm của quả đất mà rơi vào lòng tử cung. Hồi đó tinh thần người nữ rung chuyển với nhịp điệu khác thường để đón chờ một cuộc gặp gỡ của tinh trùng với cái trứng.
Nam nữ trước khi gần gũi đều bị luật xung động của dục tình nó hâm nóng để tăng cường sinh lực cho con tinh trùng và cái trứng. Khi vào tử cung, theo luật âm dương hấp dẫn, ngoài sự tàn hại lẫn nhau của tinh trùng, con nào còn lại độc nhất sẽ theo luật hấp dẫn mà chui
rúc vào quả trứng và tử cung bắt đầu hơi co lại để cho con tinh trùng với cái trứng ghép vào lòng tử cung.
Thế là cái thai bắt đầu kết thành. Nếu ai thấu hiểu được cơ cấu nầy một cách tường tận thì việc giải quyết cho một cuộc có thai ngoài tử cung (có thai trong ống dẫn trứng) trong vòng ba tháng trở lại một cách dễ dàng mà khỏi phải cần mổ xẻ. Không những thế thôi, mà cho đến những trường hợp kinh trồi, kinh sụt, có kinh đau bụng, tử cung nghiêng lệch, hoặc có bướu, có bệnh ung thư, hoặc sanh dễ, sanh khó, sanh con trai, sanh con gái, sanh con dễ dạy dễ nuôi, khó dạy khó nuôi, nhiều bệnh tật hay khỏe mạnh, hay muốn tiết chế sự sinh dục đi nữa cũng đều nhứt nhứt có cách giải quyết thuận theo trật tự thiên nhiên một cách đơn giản mà khỏi phải cần rườm rà máy móc, và cũng khỏi phải đổ cho vận số hay Phật Trời. Chỉ cốt sao cho thật biết mà thôi.
Luận nói: Đến đợt 7 tuổi thứ ba thì khí của Thận được quân bình, thế là sức nẩy nở đã đến mặt bằng. Tiếp đến đợt 7 tuổi thứ tư vẫn còn tiến triển theo đà mặt bằng ấy. Đến đợt 7 tuổi thứ năm thì mạch Dương minh suy, da mặt bắt đầu khô, tóc bắt đầu rụng. Thế là đã qua một quá trình mặt bằng và giờ đây bắt đầu xuống dốc.
Cả trong vũ trụ từ vật lớn đến vật nhỏ, không vật nào mà không thịnh cực rồi suy, hễ thịnh chóng thì suy chóng. Con người cũng thế, trong người đàn bà khi mạch Dương minh suy thì thường hay có hiện tượng tóc trước trán bắt đầu rụng, da mặt bắt đầu khô. Vì sao thế? Vì mặt là khu vực của Dương minh. Bây giờ thế vận chuyển lên trên đã yếu thì trên ngọn phải héo trước. Đợt 7 tuổi thứ sáu, ba mạch dương trên đầu đều suy, mặt bắt đầu già, tóc bắt đầu bạc tức là trọn hết phần ngọn, phần ngoài đều bắt đầu sạm cháy. Rồi đến đợt 7 tuổi thứ 7, mạch Nhiệm mạch Thái xung đều suy kém, phần Thiên quý kiệt, bộ phận bên dưới không thông nữa nên cơ thể già mà không có con. Thế là bắt đầu từ 35 tuổi đến 49 tuổi là mức sanh nguyên xuống dốc. Trong đây có một điều mà chúng ta nên chú ý là phần Thiên quý kiệt, các mạch ở hạ bộ không thông. Vậy tại sao phần Thiên quý kiệt?
Đành rằng có thịnh thì phải có suy, nhưng nó suy bằng cách nào? Có người nói: Nếu toàn cả cơ cấu thay cũ đổi mới được làm việc đều đều thì con người sẽ không già chết. Cái then máy thay cũ đổi mới ấy, bên trong và bên dưới thì bộ tiêu hóa và tạng Thận là nơi trọng yếu, bên trên và bên ngoài thì tạng Phổi và mặt da là nơi trọng yếu. Bây giờ sức co dãn cũng như sức tiêu hóa bên trong đã giảm đi, lẽ tất nhiên toàn cả mặt da đều bị chi phối. Khi mặt da đã bắt đầu chùng thì toàn cả cơ cấu của tuần hoàn máu trắng đều bị giảm suy và vít lại. Thế là nguồn sinh hóa chấm dứt. Đấy là một hiện tượng hiển nhiên.
Đoạn 8
PHIÊN ÂM:
Trượng phu bát tuế Thận khí thiệt, phát trường xỉ cánh. Nhị bát Thận khí thạnh, Thiên quý chí, tinh khí dật tả, âm dương hòa, cố năng hữu tử. Tam bát Thận khí bình quân, cân cốt kỉnh cường, cố chơn nha sanh nhi trưởng cực. Tứ bát cân cốt long thạnh, cơ nhục mãn tráng. Ngũ bát Thận khí suy, phát đọa, xỉ sao. Lục bát dương khí suy kiệt vu thượng, diện tiêu, phát tân ban bạch. Thất bát can khí suy, cân bất năng động, Thiên quý kiệt, tinh thiểu, Thận tạng suy, hình thể giai cực. Bát bát tắc xỉ phát khứ.
Thận giả chủ Thủy, thọ ngũ tạng lục phủ chi tinh nhi tàng chi. Cố ngũ tạng thạnh nãi năng tả, kim ngũ tạng giai suy, cân cốt giải đọa, Thiên quý tận hỉ. Cố phát cái bạch, thân thể trọng, hành bộ bất chánh nhi vô tử nhỉ.
DỊCH:
Con trai 8 tuổi khí của Thận sung túc, tóc dài, răng thay. Đến 16 tuổi khí của Thận phát triển mạnh, Thiên quý đầy đủ, tinh khí(1) tràn đầy, âm dương hòa, nên có thể có con. Đến 24 tuổi khí của Thận đến mức quân bình, gân xương cứng cáp nên răng cấm mọc
và sức lớn căng đầy. Đến 32 tuổi gân cốt sung túc, da thịt mạnh mẽ. Đến 40 tuổi, khí của Thận bắt đầu suy, tóc rụng răng se. Đến
48 tuổi khí dương suy kiệt bên trên trước nên mặt nhăn, tóc tai đều hoa râm. Đến 56 tuổi khí lá gan suy, gân không thể hoạt động, Thiên quý khô kiệt, tinh ít đi, tạng Thận suy, và hình thể đều mỏi mệt. Đến 64 tuổi thì răng tóc đều rụng.
Thận là tạng thuộc về Thủy, chủ về thọ lãnh tinh hoa của năm tạng sáu phủ để mà chứa giữ. Khi năm tạng còn thạnh thì mới có thể bài tiết. Bây giờ năm tạng đều suy, gân cốt rời rã, Thiên quý cạn hết nên tóc bạc trắng, cơ thể nặng nề, bước đi lảo đảo nên không thể có con.
CHÚ THÍCH:
(1) Tinh khí: Chữ “tinh khí” ở đây là để chỉ cho chất bài tiết trong khi giao dục của người đàn ông. Nhưng trong đây có hai phần: một phần tinh và một phần khí. Phần “tinh” tức là do tinh hoa của huyết với tâm thức nó tạo ra thành khối tinh trùng, chất nó rất đậm đặc, keo dẻo và hơi có màu vàng, có mùi rất hăng nồng, khi tính dục càng động thì mùi hăng nồng càng tăng. Chính cái tính chất đặc biệt này khi vào lòng tử cung chạm với lớp da mỏng mới bị lột, nó chiếm một phần quan trọng trong cảm giác. Theo quan niệm của cổ nhơn Đông phương thì phải mỗi một tuần lễ qua tinh trùng mới có đủ sức trưởng thành, và số tinh trùng phải tùy theo tầm tuổi mà sinh hóa khác nhau. Chất này đựng trong một bộ phận gọi là túi tinh. Nó chế tạo từ hòn dái rồi đem lên giữ ở túi tinh. Chữ “khí” ở đây là để chỉ cho một chất nước nhờn trong, không có màu sắc, thuộc về hệ thống tuần hoàn máu trắng. Theo ống dương vật vào đến gần bọng đái giáp ranh với bìa trên của ruột cùng, hai bên có hai cái hạch. Khi bị kích động hạch ấy trương nở, tức thì chất nước nhờn tụ sẵn về để cùng với chất tinh pha loãng ra giúp cho việc giao dục.
Túi tinh cũng hai bên nhưng ở trong sâu một chút. Khi tinh khí thoát ra, nếu người sức khỏe khí huyết trung bình thì cả tinh lẫn khí cùng pha loãng ra mà bài tiết một lượt. Tác dụng này có liên quan mật thiết đến tuần hoàn của hô hấp. Sau này sẽ rõ.
BÌNH:
Đợt thứ nhứt của con gái là 7 mà con trai là 8, đây là chuyện hiển nhiên chớ không phải bày đặt. Nhưng do đâu mà có thế? Nhận xét của cổ nhơn trả lời như sau đây:
Con gái được thọ bẩm nặng về phần âm thịnh, mà âm thuộc Thủy. Con trai thọ bẩm nặng về dương thịnh, mà dương thuộc Hỏa.
Trong vũ trụ này bản chất của thái không nó vốn là thứ khí lạnh (không phải cái lạnh ngược với cái nóng). Sau khi có mặt địa cầu trải qua bao nhiêu lần biến hóa, thể khí đó biến thành chất tức là nước. Cho nên Hà Đồ mới sắp số 1 là số sanh của nước, đến số 6 là số thành.
Hỏa là lửa, mà lửa không có một vật gì để nương thì nó không thể hiện hình; cho nên nó thuộc về chất. Do đó mà Hà Đồ sắp số 2 là số sanh của lửa. Có lửa rồi mới có khí nóng, cho nên đến số 7 mới là số thành của lửa. Có điều ta nên nhớ nơi đây nói nước, nói lửa, nói nóng, nói lạnh chẳng qua là tạm dựa trên hiện tượng tương đối để thuyết minh thôi. Chớ thực ra trong bao la này không bao giờ có cái nóng, lạnh cực đoan.
Bao la vô cực vốn không có tròn khuyết sáng tối, không có trong ngoài. Vậy nên đến khi có trời có đất, nghĩa là có khí quyện có địa cầu thì hình tròn xuất hiện. Ta đứng trong bầu tròn ấy ánh với cảm giác ta thấy: hướng Đông chiếu vào hướng Tây, hướng Tây chiếu vào hướng
Đông, rồi Đông phản chiếu lại Tây, Tây phản chiếu lại Đông, mười phương tám hướng cũng đều như thế. Hiện tượng đó đi vào trong người, cũng như ở ngoài vũ trụ nó là động cơ để xảy ra cái cực âm sanh dương, và cực dương sanh âm vậy. Bởi lẽ nhiệm mầu ấy mà cổ
nhơn sau khi chứng thực tận nguồn tâm linh mới lập ra Kinh Dịch để giáo hóa cho người sau, mà Hà Đồ là giải thích chuyện này (rồi sẽ có bản đồ chỉ rõ). Do đó mà con gái đến cùng cực con số âm là khí dương bắt đầu động, cho nên mới có đợt 7 tuổi. Còn con trai cùng cực số dương là 7 nên đến 8 tuổi là khí âm bắt đầu chuyển động, nên mới có đợt số 8. Cái thế cùng cực rồi trở lại do sự phản chiếu của vòm
bao la này chúng ta hãy ý thức sâu sắc để ta sẽ thấy trong mọi phương diện của cuộc sống. Bởi vậy khi Thiên quý xuất hiện đồng là số âm, nhưng con gái phải 14, con trai phải 16.
Như trên kia đã nói: Khí của Thận phát triển mạnh, tức là tác dụng rung chuyển của thần kinh hệ gia tăng. Nhưng ta nên nhớ chữ mạnh, chữ gia tăng ở đây cũng như nói tăng thêm điểm trừ, vì Thận thuộc thủy. Bởi vậy khi khí của Thận phát triển mạnh là lúc mà tuổi đến thì dễ xảy ra cái cảm giác cô đơn, quạnh quẽ, lạnh lẽo, bơ vơ. Đến lúc này trong người con trai nơi bộ phận tinh khí được căng đầy, và tinh với khí có thể nhịp nhàng bài tiết. Cho nên gọi là âm dương hòa nên có thể có con.
Thêm một đợt 8 tuổi nữa là tiến lên đến mặt bằng cũng như nơi con gái bước vào khoảng 21 tuổi. Đến đây xin nhắc lại chữ “thận” không phải chỉ nói ở phần lọc nước tiểu bên dưới, mà là trọn cả Thận dương (mũ Thận) và Thận âm. Nơi đây chất tan trong nước (Adrénaline) và chất tan trong dầu (Cortine) của Thận dương chiếm một phần vô cùng quan trọng.
Đến đây sức phát triển về xương đến hồi tột bực, nên răng cấm bắt đầu mọc.
Diễn tiến theo mặt bằng thêm một đợt 8 tuổi thứ tư là đã trải qua gần hết quá trình của mặt bằng.
Việc đời cực thịnh phải suy từ xưa vốn thế, nên đến đợt 8 tuổi thứ năm là khí của Thận bắt đầu suy, tóc bắt đầu rụng, răng se lại để mà xuống dốc.
Đến đợt 8 tuổi thứ sáu khí dương bên trên đã suy kiệt, sự nuôi dưỡng lên không tới nên mặt nhăn và tóc tai đều hoa râm.
Như trên kia đã nói người nam thọ bẩm lệch về khí dương, về động. Trên vật lý hễ lửa động là sanh gió. Trong tạng phủ sự hoạt động của gân thuộc về Gan, mà Gan lại theo nhiệt lực. Bởi vậy đàn ông khi đến đợt 8 tuổi thứ bảy nhiệt lực giảm, khí lá gan đã suy yếu, nên gân không thể hoạt động, đồng thời Thiên quý cũng kiệt, tinh khô
khan, sự sản xuất tinh trùng trở nên yếu ớt, sự hoạt động của tạng Thận suy, nên hình thể đều mỏi mệt.
HÌNH 1.6: HÀ ĐỒ (VẼ THEO KINH DỊCH)
HÌNH 1.7: NGŨ HÀNH SANH THÀNH THEO TƯỢNG HÀ ĐỒ
Vẽ theo chiều dài
Đến đợt 8 tuổi thứ tám thì răng tóc đều rụng. Thế là sinh nguyên xuống dốc tột bực.
Đến cuối đoạn này luận giả dẫn giải thêm rằng: Thận là tạng thuộc về Thủy, công việc của nó là thọ lãnh tinh hoa của năm tạng sáu phủ để mà chứa giữ v.v. Đến đây tôi sực nhớ lại tự bao ngàn xưa cổ nhơn có chế ra một phương thuốc, mà đến mãi ngày nay trong giới Trung y vẫn hãy còn xài, tức là phương hoàn “Bát Vị Thận Khí”. Công dụng của nó là để tăng cường cho khí của tạng Thận, hầu giúp cho các cơ năng sản xuất tinh khí được dồi dào. Phương thuốc này thông dụng nhất ở tầm tuổi 40 trở đi. Chỗ chú trọng của nó hoàn toàn ở tạng Thận nên đặt tên là “Thận Khí Hoàn”. Thế mà tôi còn nhớ lại một dạo trong một hội nghị y khoa của một nhóm bác sĩ Tây y, có người lên giọng đàn anh rằng: Á Đông tự hồi nào chưa biết rõ tạng Thận là một tạng chỉ để dùng lọc nước tiểu, rồi họ nhắm chừng bày đặt ra thứ thuốc gọi là bổ thận để lừa bịp thiên hạ, chứ chính thứ thuốc Urotropine của Tân y học của chúng ta mới thật là thuốc bổ thận, vì nó giúp cho sự lọc nước tiểu được tăng cường. Rồi trải qua một thời gian khá lâu mấy năm sau, cũng một bầu không khí tương tự như vậy, một bậc bác học đàn anh nói: Bọn Đông y họ có biết gì về nội
tạng! Tân y học của chúng ta mới phát minh được cái giá trị quý báu của mũ Thận, nên mới chế ra được một thứ thuốc hồi sinh cho mũ Thận gọi là Syncortine, để cứu cấp cho trường hợp khi mũ Thận bị cạn kiệt. Vậy mà bọn Đông y họ dám lớn lối bảo rằng có chế ra được những thứ thuốc bổ thận, thật là chủ quan hết bực v.v.
Rồi lại trải qua một thời gian khá lâu mấy năm, tôi có tiếp xúc với một vị y tá trưởng, vì ham muốn cho mũ Thận được tăng cường thêm, nên dùng nhiều chất Syncortine quá, nhiều ngày bỗng dưng nhịp đập của Tim của vị y tá trưởng ấy càng ngày càng xuống thấp, thỉnh thoảng mệt từng cơn và sắc mặt vàng ẻo, cho đến hiện nay vẫn hãy còn trong tình trạng ấy. Và trong địa hạt Tân y học lại xuất hiện thêm một thứ thuốc gọi là Cortine Naturelle tân kỳ nữa. Ôi! Viết đến đây tôi bỗng dưng muốn trào nước mắt với bộ óc học hỏi của con người ngày nay. Thế mà hiện nay vẫn có nhiều nhà bác học cho rằng tạng Thận không quan hệ gì đến vấn đề dâm dục. Trời ơi, hỡi trời! Vậy mà vẫn chưa hết, thậm chí đến tất cả những trường hợp bệnh thoát tinh họ đều cho rằng tại nó dư nên lại chỉ dẫn cho, bảo về dâm dục thêm, và hơn nữa bắt người bệnh chổng khu rồi dùng thuốc tê tiêm vào mấy lỗ xương khu mà gọi là làm cho dịu bớt. Đến non nước này dẫu có hàng thức giả cũng đến không thể nghĩ bàn (điều này đến phần hình vẽ sẽ có chỉ dẫn).
Đến ngày nay đã sắp đến hồi phải trở về với lòng đất, tôi mới mạnh miệng quả quyết rằng: “Khi chưa biết gì hết về tinh thần của chính con người của mình trước, thì dẫu cho có tin theo khoa học, hay cho đến không tin gì cả cũng vẫn là một thứ mê tin kì dị, hoặc là thở theo lỗ mũi người khác mà thôi”. Thế thì họ có đàm luận phải quấy chăng nữa cũng chẳng qua phải theo cái mình thấy phải, quấy theo cái mình thấy quấy. Trong tình trạng ấy dẫu cho có khám phá điều gì cũng chẳng qua là đổi cái lạng quạng này để lấy cái lạng quạng khác mà thôi. Nếu chúng ta ở trong tình trạng ấy mà nghĩ để làm lợi ích cho ai thì quả thật là chúng ta đã bằng lòng cái tự gạt và gạt người mà thôi vậy. Điều này chúng ta há dễ xem thường được sao? Thật là “một mảy bụi trần trong con mắt cũng đủ để che khuất cả một bầu
trời, một mảy mê lầm trong quy định cũng đủ để che khuất một bầu linh năng muôn thuở”.
Đoạn 9
PHIÊN ÂM:
Đế viết: Hữu kỳ niên dĩ lão nhi hữu tử giả, hà dã?
Kỳ Bá viết: Thử kỳ thiên thọ quá độ, khí mạch thường thông nhi Thận khí hữu dư dã. Thử tuy hữu tử, nam bất quá tận bát bát, nữ bất quá tận thất thất nhi thiên địa chi tinh khí giai kiệt hỷ.
DỊCH:
Huỳnh Đế hỏi: Có người tuổi đã già rồi mà còn có con là tại sao?
Kỳ Bá thưa: Đó là trường hợp ngoại lệ, sức khỏe thọ bẩm quá mức bình thường, nhờ tuần hoàn máu trắng thường thông nên khí của Thận có thừa. Chứ kì thực trung bình phần đông đàn ông không qua khỏi 64 tuổi, đàn bà không qua khỏi 49 tuổi là tinh khí của trời đất(1) đều đã cạn hết.
CHÚ THÍCH:
(1) Tinh khí của trời đất: Chữ “trời đất” trong câu này là để ám chỉ cho nghĩa trời đất trong thân. “Trời” tức là thuộc về phần khí, phần nước, phần thuộc Thận, phần thọ bẩm ở nơi cha mẹ đầu tiên, phần quan hệ đến hô hấp. Còn chữ “đất” ở đây là để chỉ cho phần chất, phần thức ăn, phần thuộc về bộ tiêu hóa, phần sanh ra mới có. Vậy nên hai chữ “tinh khí” ở đây tức là khí tinh hoa của phần tiên thiên thuộc Thận và khí tinh hoa của phần hậu thiên thuộc Vị hợp lại mà nói vậy.
BÌNH:
Nhìn vào hiện tượng cực âm rồi dương sanh với đợt 7 tuổi đầu tiên của người nữ, với cuối cùng bằng 7 lần 7; cũng như dương cực rồi âm bắt đầu sanh kết thành con số 8 của người nam và đến cùng cực là 8 lần 8. Đây là việc hiển nhiên chớ không phải ai bịa đặt. Nó là một định luật số học của Dịch lý trong trời đất, là nguyên lý biến thiên của sự vật, để rồi sau này sẽ có nói rõ hơn. Bởi vậy con người sau khi chết, mức trung bình biến hóa của thần thức cũng theo thông lệ này.
HÌNH 1.8: TÚI TINH VÀ HẠCH TINH THUỶ
Đoạn 10
PHIÊN ÂM:
Đế viết: Phù, đạo giả niên giai bá số năng hữu tử hồ?
Kỳ Bá viết: Phù, đạo giả năng khước lão nhi toàn hình thân, niên tuy thọ năng hữu tử dã.
DỊCH:
Huỳnh Đế hỏi: Còn như những đạo gia(1) tuổi họ đều ngoài trăm, như thế có thể có con không?
Kỳ Bá thưa: Những đạo gia họ có cách giữ cho chậm già, và sức khỏe được trọn vẹn, vậy nên tuổi tuy cao nhưng vẫn có thể có con được.
CHÚ THÍCH:
(1) Đạo gia: là danh từ để chỉ cho những nhà tu luyện theo thuật trường sanh.
BÌNH:
Nếu tuổi thọ cũng như tuổi sanh con mà có thể nhích lên được, thế là cái tụt xuống tức là cuộc sống vô ý thức. Mà cuộc sống vô ý thức tức là cuộc sống thả trôi theo vật dục. Thế là chúng ta sống với một cuộc sống yểu ương càng ngày càng tuột thang thêm nữa. Bởi vậy:
“Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng nám màu dâu!” là phải.
Đoạn 11
PHIÊN ÂM:
Huỳnh Đế viết: Dư văn thượng cổ hữu chơn nhơn giả, đề xiết thiên địa, bả ốc âm dương, hô hấp tinh khí, độc lập thủ thần, cơ phu nhược nhứt. Cố năng thọ tệ thiên địa, vô hữu chung thời, thử kỳ Đạo sanh.
DỊCH:
Huỳnh Đế nói: Trẫm nghe thời thượng cổ có bậc chơn nhơn(1). Họ vận chuyển trời đất sửa đổi âm dương, hô hấp khí tinh hoa, tinh thần không bị chi phối, da thịt như trẻ thơ. Nên có thể sống sánh cùng trời đất, đó là nhờ ở Đạo mà có như thế.
CHÚ THÍCH:
(1) Chơn nhơn: Là bực hiện thân của Đạo, cả tinh thần lẫn xác thân của họ vốn cùng với bao la đồng nhất.
Đoạn 12
PHIÊN ÂM:
Trung cổ chi thời, hữu chí nhơn giả, thuần đức toàn Đạo, hòa ư âm dương, điều ư tứ thời, khử thế ly tục, tích tinh toàn thần, du hành thiên địa chi gian, thị thính bát đạt chi ngoại, thử cái ích kỳ thọ mạng nhi cường giả dã, diệc qui vu chơn nhơn.
DỊCH:
Ở thời Trung cổ(1) có bậc chí nhơn(2), thuần đức(3) trọn đạo, điều chỉnh âm dương, hòa nhịp với bốn mùa, lìa đời lánh tục, chứa tinh giữ thần, dạo chơi trong trời đất, nghe thấy vượt không gian. Nhờ thế mà thêm được thọ mạng và mạnh khỏe, rồi cũng quy về với chơn nhơn.
CHÚ THÍCH:
(1) Trung cổ: Thế thường người ta phân thời đại hay dùng ba giai đoạn, nếu đếm theo ngược dòng thì có hiện kim, trung cổ và thượng cổ. Mà đây là tính từ thời đại Huỳnh Đế trở về trước.
(2) Chí nhơn: Từ chơn nhơn đến hiền nhơn chia làm bốn bực, mà chí nhơn là bực thứ hai. Đến đây muốn có cuộc sống yên vui phải bắt đầu hơi dụng lực.
(3) Thuần đức: Lão tử nói: “Vì đạo mất nên mới lập đức …”, vậy đức là một cách sống có ý thức cho hợp với Đạo, mà “thuần đức” tức là đức được thuần hậu.
Đoạn 13
PHIÊN ÂM:
Kỳ thứ hữu thánh nhơn giả, xử thiên địa chi hòa, tùng bát phong chi lý, thích thị dục vu thế tục chi gian, vô nhuế sân chi tâm, hạnh bất dục ly vu thế, bị phục chương cử, bất dục quan ư tục, ngoại bất lao hình ư sự, nội vô tư tưởng ư hoạn, dĩ điềm du vi vụ, dĩ tự đắc vi công, hình thể bất tệ, tinh thần bất tán, diệc khả dĩ bá số.
DỊCH:
Kế đó có bậc thánh nhơn(1), ăn ở hòa với trời đất, thuận với gió tám hướng(2), tùy thuận với thế tục lòng không oán hận, tuy ăn mặc theo hạnh đời nhưng không muốn bận với thế. Bên ngoài không để chật vật hình hài, trong không vọng tưởng lo âu, lấy điềm đạm thảnh thơi làm sở thích, lấy sở đắc(3) làm công, không hủy hoại hình thể, không hao tán tinh thần, cũng có thể sống đến trăm tuổi.
CHÚ THÍCH:
(1) Thánh nhơn: Chữ “thánh nhơn” nơi đây đối với chữ thánh nhơn trên kia có hơi khác. Ở đây để chỉ cho từ chơn nhơn đến hiền nhơn chia làm bốn bực, mà thánh nhơn là bực thứ ba.
(2) Tám hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc.
(3) Sở đắc: Là để chỉ cho cái có được, nhưng câu trước có nói “lấy điềm đạm thảnh thơi làm sở thích”, thế là chữ “có được” ở đây là được cái không được, nghĩa là được thảnh thơi điềm đạm.
Đoạn 14
PHIÊN ÂM:
Kỳ thứ hữu hiền nhơn giả, pháp tắc thiên địa, tượng tợ nhật nguyệt, biện liệt tinh thần, nghịch tùng âm dương, phân biệt tứ thời, tương tùng thượng cổ, hợp đồng vu đạo, diệc khả sử ích thọ nhi hữu cực thời.
DỊCH:
Chót hết có bực hiền nhơn(1), phép tắc theo trời đất, nghiên cứu mặt trời mặt trăng, phân ngôi tinh tú, suy nghiệm sự vận hành nghịch thuận của âm dương, phân biệt bốn mùa, để trở về thuận theo thời thượng cổ, tìm hợp đồng với đạo, thì cũng có thể cùng cực thọ mạng được.
CHÚ THÍCH:
(1) Hiền nhơn: Chữ “hiền nhơn” nơi đây tức là để chỉ cho bực người đã phải sống trong một cuộc đời thác loạn, mà nghĩ để nghiên cứu học hỏi, cố tìm ra một lẽ sống cho ứng hợp với trật tự thiên nhiên. Họ có tính chất bác học, nhưng họ có thiện chí để trở về nguồn cội, cho nên gọi là hiền nhơn.
BÌNH:
Đọc suốt hết bốn đoạn này ta thấy chỉ một mạch văn thuận chiều trôi chảy của một đoạn. Và theo đây ta thấy tổng quát những ý tứ:
1. Cuộc sống của loài người trong hoàn cảnh chung đụng của một thế giới hay một xã hội, nó có từng đợt thăng trầm. Quả thật là hết thạnh rồi suy, rồi chồng bao nhiêu đợt nữa để rồi quả địa cầu này trở về với tan hoại; đó là lẽ tất nhiên. Nhưng có như thế không ngoài bởi từng khối mâu thuẫn của bên trong từng người nó ánh ra để trở thành một cuộc đời xung chướng đau khổ.
2. Đã là cùng sống trên mặt địa cầu này cùng chung trong khối Thái dương hệ, mà khối Thái dương hệ chỉ mới là một phần bé bỏng của bao la. Từ tất cả bao la cho đến con người chỉ là một dàn máy đồng nhất. Vậy nên cái lý trật tự nhịp nhàng
không thể không tìm biết. Phương chi mỗi một phần tử là một hội tụ của bao la, cho nên không thể bỏ qua được vậy.
Đó là hai nét đậm tổng quát của bốn đoạn này. Nhưng ta hãy chậm rãi tế nhị để đi sâu vào chi tiết từng đoạn.
Luận nêu lên nào “thời thượng cổ”, nào “bực chơn nhơn” tức là muốn nói: một cuộc sống còn chất phác thanh bình, loài người còn lơ thơ rải rác chưa đến nỗi đổ máu vì miếng ăn, thức uống, chỗ ở, chỗ nằm. Nói “vận chuyển trời đất, sửa đổi âm dương” ở đây cũng như nói “có cách sống cho thuận với âm dương, hòa cùng trời đất”. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật có nói: “Nếu có thể chuyển được vật tức đồng với Như Lai”. Câu “chuyển được vật” ở đây tức là nghĩa không bị vật nó chuyển, nghĩa này cũng tương tự như thế.
Con người nhịn ăn lâu chết hơn nhịn uống, nhịn uống lâu chết hơn nhịn thở. Thế là hô hấp là điều tối cần thiết cho mạch sống. Cho nên người xưa họ biết tìm cách để lấy lại sự hô hấp quân bình. Ngược lại chúng ta ngày nay suốt từ thành thị đến thôn quê đều đổi cái mũi
mà chạy theo cái miệng. Cho nên hơi thở thì hổn hển, còn miệng thì chành chạch đuổi theo những cái gọi là chất bổ tân kỳ. Nên cuộc sống ngày nay chẳng biết gọi bằng gì nữa. Thế mà có kẻ tự cho mình là hàng thông đạt ý tứ của cổ nhơn, thấy tình cảnh tạp loạn của đời nay rồi đưa ra những thuyết: nào uống nước nhịn ăn, nào chỉ ăn nhịn uống, ăn cơm gạo lức với muối mè và coi những thức ăn khác như rắn rít thì quả thật là một cách uốn quá hóa không ngay.
Một con người tinh thần hồn nhiên không đóng khung, không bị chi phối, không ám độn ngu đần, sanh hoạt đúng cách, hô hấp đúng phép thì khí tượng hiện ra như trẻ thơ; đó là điều chẳng có gì lạ.
Vũ trụ tuy bao la nhưng cái không bao giờ cũng bao gồm cái có. Cho nên khi trong lòng rỗng rang điềm đạm, không vướng chút bụi trần thì hồi đó còn có cái gì ở đâu mà không phải là mình nữa chứ! Cuộc sống như thế dẫu trời đất cũng khó sánh tày, chớ đừng nói sánh cùng trời đất. Cho nên có thiền giả nói: Có cái tôi thì cái tôi bị ở trong trời đất, không có cái tôi thì trời đất ở trong tôi. Lại nói: Nếu một mảy may đừng lập thì sẽ có một sức mạnh không thể nghĩ bàn. Quả thật là nhờ mạng mạch ở Đạo vậy. Nhưng ta hãy đề phòng! Khi ta sống bằng một cuộc sống phá hoại yểu ương đã là không phải Đạo đành rồi; nhưng nếu tham sống sợ chết, mà phải cắm đầu khổ sở với mong được sống lâu bằng cách này hay cách khác, đó cũng là một thứ chết sống. Cho nên gọi là con quỷ giữ thây ma là vậy. Đó là điểm lầm lạc của những kẻ trường sanh cửu thị.
Một con người khi thấu suốt đến cội nguồn hằng ngày không lìa chơn tâm bổn tánh, rỗng rang rời rảnh, động dụng phân minh thì trật tự thiên nhiên kia có hay không không thành vấn đề. Vì chính họ là trật tự thiên nhiên rồi. Cho nên họ đi là thiên nhiên đi, họ ở là thiên nhiên ở, họ ăn uống nằm ngồi đều là thiên nhiên ăn uống nằm ngồi, y nhiên như nhiên chẳng tăng mà cũng chẳng giảm, ăn mà vẫn không ăn, không ăn mà vẫn ăn, đi đứng nói năng cũng vậy, khỏi ai phải xen vào đo lường thước tấc dùm cho họ, thế mà họ vẫn hợp Đạo. Nếu chưa được như thế tức là ít nhất cũng phải rơi vào hạng chí nhơn, để rồi phải giữ nào là “thuần đức trọn Đạo, thuận âm dương, hòa bốn mùa, lìa đời lánh tục, chứa tinh giữ thần, v.v.” Quả thật là bắt đầu
một cuộc lỗ lã. Thế nhưng nhờ căn cứ nơi Đạo mà lòng được dạo chơi trong trời đất, tai mắt không vướng bận không gian để rồi trở về với thọ mạng. Thế nên sắp dưới chơn nhơn một bực là phải.
Đã không thể dễ dàng mà thực hiện một cuộc sống thảnh thơi điềm đạm, thế tất nhiên phải cố gắng mà ăn ở sao cho hòa với trời đất, thuận với gió mùa, ngoài phải đề phòng sự xâm lăng của thế tục, trong phải dòm chừng đám lục tặc nó buông lung, không muốn bận với thế tục mà phải ăn mặc theo hạnh đời là việc cực chẳng đã, bên ngoài không để cho hình hài bị chật vật, bên trong không để cho vọng tưởng lo âu, nhắm hướng điềm đạm thảnh thơi mà tiến tới, lấy sở đắc trong việc làm ấy làm công, không vô tình để hủy hoại hình thể, không phá tán năng lực để tiến tới kết quả tròm trèm với chí nhơn. Quả thật là một cuộc lội ngược ghê gớm, giống hệt như chiếc xe hơi vừa chạy vừa bật đèn vừa nhấn kèn, để thành một cái thế vừa gom nhóm vừa tán hao. Vậy mà lại đi săn đuổi để tìm cái không mất mát, rõ thật là mâu thuẫn. Thêm một điều khốn đốn nữa là mang mâu thuẫn để đi tìm lấy năng lực, mà thế mâu thuẫn lại là thế giết chết năng lực, đàng nào cũng phải vướng một cái vừa cộng lại vừa trừ. Quả thật ở trong cái thế chẳng được đừng vậy.
Trong đây có chữ “sở đắc” mà mục đích của sở đắc lại là cái không là gì. Nói đến đây tôi lại nhớ lại ông Di Lặc có bài kệ rằng:
“Trụ tâm vô sở trụ,
vọng trần hà phát sanh.
Đắc pháp vô sở đắc,
chơn như tự hiện hình.
Pháp không tướng bình đẳng,
Ta bà Cực lạc thành.”
Tạm dịch:
Buông lòng không u tối,
rắc rối làm gì sanh.
Nhờ được cái không được,
mặt thật hiện nguyên hình.
Rỗng rang bình đẳng suốt,
tục lụy biến thanh bình.
Rõ là yếu chỉ của toàn NỘI KINH. Bởi vậy kinh nói: Di Lặc sau này sẽ giáng sanh, cái nghĩa Di Lặc ở đây thật là thâm thuý!
Đã lỗ lã như trên, nhưng cuộc đời vẫn còn tuột dốc thêm nữa, để đến phải có một sự nghiệp bác học nào thiên văn, nào địa lý, nào nhân sự v.v. mới có đủ khả năng để lội ngược về thời thượng cổ, hầu mong hợp đồng với Đạo. Như thế Hiền nhơn sắp sau bực Thánh nhơn là phải. Tuy thuộc về hạng bét, nhưng nếu chúng ta thử ngược dòng nhìn về họ, đem ta mà so sánh, thì ta sẽ thấy họ còn may mắn hơn ta triệu triệu lần gấp bội. Vì họ tuy phải mang kềnh càng một sự nghiệp bác học, nhưng họ còn nắm vững được chuôi đạo. Còn chúng ta bây giờ than ôi! Chỉ là một hòn núi Tu Di, một bệnh thực tích, nó chạy nọc đến mắt mờ lạng quạng không biết đâu là lối thoát. Hèn nào có người bảo: Học nhiều là tên gọi khác của ngu. Lại còn bảo: Càng khôn ngoan chừng nào càng mê muội chừng nấy. Bởi vậy có thức giả than rằng: Đã quá nửa đời tôi luống bị cái thông minh nó gạt gẫm. Ôi! Một cuộc sống như thế chẳng đáng là tủi nhục lắm sao!?
Suốt hết tinh thần từ đầu đến cuối thiên này ta thấy còn ba điểm nữa cần phải để tâm đến.
1- Trong khung cảnh xã hội loài người chưa đến nỗi khắt khe tàn hại quá lắm, cổ nhơn đã sớm biết được cả thân lẫn tâm đều đồng một nguồn cội, đều vốn là cái không hai. Thân khỏe mạnh thì tinh thần vui tươi, tâm thoát tục thì xác thân không bị trái chướng. Ngược lại tâm phiền não, xác thân bệnh hoạn; thân đau ốm tinh thần khổ đau.
Bởi lẽ ấy nên khi vừa mở quyển là đã nêu lên vấn đề tuổi thọ rồi mới bàn bạc đến vấn đề trật tự thiên nhiên, ăn uống, sinh hoạt, tâm tư. Cái học như thế đâu phải là thứ nê trệ thiếu lưu thông, vậy mà lại có thể lai sanh ra một thứ tinh thần cố tình đặt một cái nhân chỉ biết tham sống mà gọi là trường sanh cửu thị rồi bỏ quên chiều thâm sâu của tinh thần để mà bóp méo cái học cổ nhơn. Như thế cho nên bị gọi là con quỷ giữ thây ma là phải lắm. Trái lại có những người học Phật lại cũng dựa vào đó để mà chỉ trích ông cha, rồi vội cho rằng văn minh Trung Hoa không bằng văn minh Ấn Độ, chớ họ có biết đâu rằng thầy thuốc chỉ là con đẻ của bệnh nhơn, và chân lý cũng là một thứ tùy thời mà thị hiện. Phương chi khi loài người đã xa dần nguồn cội, đến lúc cuộc sống xung chướng ngập tràn; thân tâm cả hai không thể giữ vẹn. Thế thì đặc điểm chú trọng thiên hẳn về tâm linh đâu phải là chuyện vô cớ. Thực ra tất cả cái học thánh hiền thực tế nơi cá nhân dù cho nhà Phật tóm lại cũng không ngoài việc điều ngự thân tâm mà thôi. Như thế tại sao ta lại bỏ quên hẳn cái địa phương tính và thời gian tính để mà phê phán thánh hiền, quả thật là một lý do phiến diện. Bởi vậy giờ đây đến hồi thế vật chất đã tiến triển đến mức năm châu họp chợ, thì phần đông được mệnh danh là thay mặt cho Phật giáo để tuyên dương chân lý. Cũng không làm sao giải nổi sự xâm nhập của danh vọng, vật chất, tiền tài. Rõ thật là: lưỡi câu danh lợi móc vành môi, dĩ hoạn, bả vinh hoa vật ngã chí quật cường vậy.
2- Bắt từ ngay từ chỗ thế hệ ta đứng bây giờ mà ngược dòng nhìn suốt tận đến xa xưa, ta thấy thật chẳng khác nào một người đứng ở biển khơi mà ngược dòng ngóng tận nguồn suối trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn. Nay nếu chúng ta quả thật muốn trở về nguồn, ít nhất cũng phải có một thiện chí chuyển mình mọc cánh tung tận trời xanh, tương tự như các loài cá hóa rồng vượt vũ môn tam cấp may ra mới không uổng trọn kiếp làm người. Như thế thật cuộc đời này chẳng biết có được mấy ai. Vậy từ đây về sau đến kết thúc bộ NỘI KINH, càng lần ra càng thâm sâu vào trật tự thiên nhiên, vào sinh hoạt ăn uống, vào tất cả những phương pháp cứu chữa bệnh tật, v.v. Như thế cũng chẳng qua là lòng từ của cổ nhơn đến chỗ không nỡ mà thôi.
Sống trong một thế hệ mà vật chất cơ giới phát triển một cách điên cuồng như ngày nay, dẫu cho cái gọi là tổ chức Phật giáo cũng vẫn phải nằm tròn trong cái thế kẹt. Chẳng được mấy ai đủ khả năng kiểm tra lại tất cả những ảnh hưởng vào cuộc sống hằng ngày. Thế mà một việc hiển nhiên như thế này mà người ta vẫn lơ là hời hợt thì thật cũng là lạ lắm!
3- Nếu là hàng thức giả tinh đời thì ai cũng thấy rằng: Việc tột bực thành thật với mình, khám phá chính con người của mình trước để mà điều ngự cuộc sống chính mình cho được y như người, là việc làm khó nhất trên đời.
Từ xưa tất cả kinh sách của thánh hiền những yếu điểm bao giờ cũng hình như ẩn khuất, còn phần phụ thuộc thì lại tùy phương tiện mà diễn giải rộng ra. Y hệt như trong nội tạng của con người, những tạng bí hiểm hoàn toàn chìm sâu trong kẹt hóc. Điều đó có phải là cổ nhơn đối với ta vì tiếc rẻ mà không chịu nói hết chăng? Xin thưa rằng: không vậy. Vì sao thế? Vì đây không phải là cái có thể truyền bảo nhau hết bằng cách thức của lý trí và ngôn từ. Nhưng than ôi! Cách học của người đời thì lại ngược lại, không những Trung Hoa là thế mà Ấn Độ với Việt Nam cũng chẳng khác nào. Ta hãy cứ nhìn tín đồ nhà Phật học Phật. Thí dụ như Kinh Lăng Nghiêm chẳng hạn thì ta cũng đủ rõ. Cho nên NỘI KINH với dân Trung Hoa hay đến chúng ta bây giờ cũng thế.
Trong cảnh đời tạp loạn đảo điên, đối với những kẻ cố tình chui rúc vào vòng danh lợi, hạng đó tất nhiên hết đầu cơ phương tiện này đến đầu cơ phương tiện khác. Cho đến dẫu cho biến hóa tinh thần tôn giáo tín ngưỡng trở thành môi trường đầu cơ chợ búa, thôi ta khỏi phải bàn. Nhưng đàng này lại có những hạng tuy được va chạm với mặt thật của đời, vẫn chưa giáp mặt được với chính mình, rồi trong băn khoăn tráo trở sảng sốt mê ly để rồi lòng trần của họ nó có thể biến thái thành ra hai mặt: một là hoặc họ nô nức để ôm chặt vào cái gọi là giải thoát mà quên hẳn những cái họ va chạm thực tế hằng ngày. Hai là hoặc lòng ích kỷ nó biến tướng để tìm lấy một cái hốc ngồi lại mà tu luyện cho được trường sanh. Bởi hai biến tướng lòng tham của tâm lý nói trên mà NỘI KINH cũng đã từng bị họ bóp méo
để mà chế ra một chi phái tham sống gọi là luyện đan. Họ rất sành về phần ăn uống, sinh hoạt và trật tự thiên nhiên, mà họ quên lửng đi chính cái tâm họ, rồi họ chỉ trích những nhà tu hành khác, thí dụ như tu Phật rằng: biết tu tánh mà không biết tu mạng. Cũng như tín đồ nhà Phật nghe Phật nói: Tất cả đều từ tâm, thế rồi dựa vào đó mà nói tâm tâm, rồi họ cho rằng cơ cấu NỘI KINH chỉ là một tài liệu để luyện tập cho xác thân được sống lâu chớ không phải đạo. Một đàng nhận lầm tinh thần của ông cha một cách lệch lạc để mà chỉ trích kẻ khác khác hơn mình, còn một đàng cũng vì nhận lầm tinh thần của ông cha mà hiểu sai đi cái tinh thần của ông cha kẻ khác. Quả thật là một đám lạng quạng mê mờ. Một tinh thần thấy biết như thế làm sao để mà vượt thoát khỏi nổi trùng vây của ba đào vật chất! Thực ra dẫu toàn bộ NỘI KINH ý chỉ không ngoài cái nghĩa làm sao cho con người đừng tạo thêm cái nhân để sinh ra đau khổ bệnh tật, tức là người đó sống đúng với tuổi trời, chớ phải đâu bày ra cái nhân tham sống sợ chết để mà tách rẽ thân tâm ra làm hai thứ!? Điều này chúng ta phải dồn hết tinh thần để mà lưu tâm, hầu mong sau này khi thấu suốt được toàn kinh ta sẽ có một cái nhân không lệch lạc. Như thế mới đủ khả năng mọc cánh tung tận trời xanh, để mà cùng với thiên nhiên đồng nhất.
THIÊN THỨ NHỨT
- HẾT -
Ly tâm hướng tâm
Thăng trầm tiêu trưởng
Đối với thiên nhiên tuyệt nhiên không chứa giữ, cái đã qua qua rồi, hiện tại vẫn không dừng, vị lai vẫn chưa đến. Cho nên thiên nhiên luôn luôn mới mẻ thường hằng, chẳng bớt chẳng thêm. Còn tôi, tôi lại luôn luôn chứa giữ, nên tất cả sự mất mát thăng trầm đều bâu rức vào tôi. Nếu tôi không dám chấp nhận điều này, thì tôi làm sao đọc được NỘI KINH.
C.N.
Thiên thứ hai
TỨ KHÍ ĐIỀU THẦN ĐẠI LUẬN
Định nghĩa tên thiên
Tứ khí: khí của bốn mùa.
Điều: điều ngự, điều phục, điều chỉnh. Thần: tinh thần. Đại: lớn, tức là ám chỉ cho việc rất quan hệ.
Tứ khí điều thần đại luận: là thiên luận có tính chất quan trọng, mà trong đó nói về tùy thuận với trật tự, khí hậu của bốn mùa để điều ngự tinh thần.
BÌNH:
Đọc lên tên thiên ta liền cảm thấy trong đó hàm chứa một tinh thần bác học mà đã nắm được cái chuôi thực hành, chứ không phải là thứ kiến thức núi Tu Di để mà đổi cái lạng quạng này lấy cái lạng quạng khác, vì họ đã rõ biết minh bạch về trật tự thiên nhiên, và nếu vô ý thức hoặc trái chướng với trật tự thiên nhiên, thì sẽ xảy ra những gì không hay cho cuộc sống. Như vậy tức là luận giả muốn đem cái thấy biết của mình để mà hướng dẫn đời sau, hầu mong y cứ vào cái biết ấy để thực hiện một cuộc sống yên lành. Quả thật là một tinh thần sống có ý nghĩa đang chuyển mình đứng dậy. Nhưng thiên này không thấy có câu hỏi, như thế tức là nối tiếp với thiên trên mở rộng để thuyết minh thêm nữa.
Cuộc đời như một dòng trường giang đều đều sóng gió. Cảnh thiên nhiên là một quá trình biến hóa ngày ngày mới, giờ giờ mới,
phút phút mới, giây giây mới trôi chảy không ngừng, đã qua qua rồi, hiện tại không dừng, vị lai vừa thoáng đã hóa thành hiện tại, hiện tại vừa thoáng đã hóa thành trôi qua. Thân con người như chiếc thuyền nan đang thả bềnh bồng trên trường giang sóng gió, chỉ một cái
thoáng sống sượng cũng đủ để đánh đắm tận đáy muôn trùng. Con người trở về nguồn cội cũng như những tay nhà nghề mặt nước, cỡi thuyền nan mà rong chơi nơi sông dài biển cả; họ có lèo lái, khi thì vô cùng thận trọng như cầm ngọc như bưng đầy, khi thì buông lơi ẻo lả như một tinh thần tài tử, giống hệt như hai câu ca dao của Việt Nam:
Lênh đênh qua cửa thần phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.
Thế thì chỉ có cách là thuận với sóng gió ba đào, tùy theo dòng sông trôi chảy để mà tự tại ngao du. Phải chăng đây là trung tâm ý nghĩa của cuộc sống? Mà cái việc tùy thuận theo bốn mùa để chế ngự tinh thần nơi thiên này chẳng qua cũng chỉ thế thôi. Và dù cho tất cả cuộc sống của thánh hiền bao đời cũng chỉ thế thôi.
Trong Kinh Thánh của Kitô giáo có nói: Phải khôn ngoan như rắn rít, phải đơn sơ như chim bồ câu.
Còn nhà Phật thì nào như: Diệu pháp cỡi kình dạo chơi bể khổ của Quan Thế Âm. Buông lòng không u tối của Di Lặc. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm của Kinh Kim Cang, v.v.
Lão Tử nói: Người học đạo tâm phải lỏng như nước. Trang Tử nói: Làm chim ta bay chơi, làm cá ta lội chơi.
Tất cả những tinh thần ấy đều là một thứ tinh thần siêu tuyệt của nghệ thuật vượt biển cả cỡi thuyền nan mà thôi vậy.
Đoạn 1
PHIÊN ÂM:
Xuân tam ngoạt thử vị phát trần, thiên địa câu sanh, vạn vật dĩ vinh, dạ ngọa tảo khởi, quảng bộ vu đình, bị phát hưỡn hình, dĩ sử chí sanh, sanh nhi vật sát, dữ nhi vật đoạt, thưởng nhi vật phạt. Thử xuân khí chi ứng, dưỡng sanh chi đạo dã. Nghịch chi tắc thương can, Hạ vi hàn biến, phụng trưởng giả thiểu.
DỊCH:
Ba tháng mùa Xuân gọi là thay cũ(1), khí trong trời đất đều sanh(2), vạn vật đã nảy mầm. Đêm phải ngủ sớm, sáng phải dậy sớm, đi bách bộ trong vườn, tóc buông xõa, thân ung dung để cho tinh thần phát triển. Nên sanh chớ không nên giết, nên cho chớ không nên cướp, nên thưởng chớ không nên phạt. Đó là ứng hợp với khí mùa Xuân, cái đạo dưỡng sanh(3) phải như thế. Nếu trái lại thì hại Gan, sang mùa Hạ sẽ biến làm bệnh lạnh, và sự giúp cho khí trưởng dưỡng của mùa Hạ sẽ rất yếu ớt.
CHÚ THÍCH:
(1) Thay cũ: chỉ cho cái mới đun lên và cái cũ phải rời đi.
(2) Khí trong trời đất đều sanh: Trong đoạn này có hai chữ “sanh”. Nhưng chữ sanh nầy để chỉ cho cái nghĩa của sức thu vào của lòng đất cũng như sức hướng tâm của khí trời khi bước sang Xuân nó
bắt đầu trỗi dậy và tung ra, mà tất cả vạn vật cũng như con người nhựa sống mầm non bắt đầu chuyển mình trỗi dậy theo thế ly tâm, cho nên gọi là sanh. Còn chữ “sanh” dưới có hàm ý nghĩa phóng sanh và tình thương.
(3) Dưỡng sanh: Chữ dưỡng sanh ở đây cũng như nói cái phép nuôi dưỡng khí sanh (mới trỗi dậy).
BÌNH:
Mỗi năm bốn mùa, mỗi mùa đều có khởi đầu và kết thúc để sang mùa khác. Khởi đầu mùa Xuân tức là sự chìm lỉm đến cực độ rồi bắt đầu trỗi dậy để tung ra. Thế là trong khung cảnh sống, dưới từng đáy tức
là bắt đầu mùa Xuân mà phần trên, phần ngoài vẫn còn dày đặc khí lạnh của mùa Đông chìm lỉm. Trong khi dằn co, sức đè nén hướng tâm của quả đất mới vừa bắt đầu buông lơi, với sức rung chuyển trỗi dậy của muôn vàn sự sống, hai thế giằng co để cho mầm non phải trỗi vượt. Vì thế nên càng được cởi mở càng hay, do đó mới có “đêm phải ngủ sớm, sáng phải dậy sớm” v.v.
Nói “nên thả chớ không nên giết, nên cho chớ không nên cướp, nên thưởng chớ không nên phạt”. Mới nghe qua hình như là một cuộc gia ơn chớ thật ra đây chỉ là muốn nói lên một tinh thần cởi mở. Cũng như nhà Phật nói: dùng từ bi để chế ngự hận thù. Phải chăng cái phong tục lì xì ba ngày tết của người Trung Hoa cũng do đây vậy! Nhưng vì càng đi xa càng mất ý nghĩa, càng lâm vào tình trạng mê tin. Cho nên lần đi đến cho mai, cho mãng cầu, cho quả sung, cho đu đủ thì người ta mừng ghê gớm; còn cho dao, cho kim, cho khăn có lẽ rồi cũng gặp người chửi cho một mẻ cũng nên.
Nói rằng: “Vì khí mùa Xuân mà phải làm như thế, nếu trái lại thì hại Gan”. Đến đây ta càng thấy rõ hơn nữa về nghĩa dùng từ bi để chế hận thù, vì hận thù thuộc về biến động của lá gan, mà mùa Xuân là mùa tạng Gan dễ uất phát sanh sân hận nhất.
Tiếp theo rằng: “Nếu không làm như thế sang mùa Hạ sẽ biến thành bệnh lạnh, và sự giúp ích cho khí trưởng dưỡng của mùa Hạ càng thêm yếu ớt”, thế là muốn nói gì? - Theo Dịch lý thì Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy. Chữ “sanh” ở đây nghĩa là nuôi dưỡng giúp đỡ. Và Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Mùa Xuân thuộc Mộc, mùa Hạ thuộc Hỏa, cứ cuối mỗi mùa 18 ngày thuộc Thổ mà cuối mùa Hạ là chính yếu, mùa Thu thuộc Kim, mùa Đông thuộc Thủy. Còn về khí thì khí gió thuộc Mộc, khí lửa nóng thuộc Hỏa, khí ẩm thấp thuộc Thổ, khí ráo se thuộc Kim, khí lạnh buốt thuộc Thủy. Về nội tạng thì Thận thuộc Thủy, Gan thuộc Mộc, Tim thuộc Hỏa, Tỳ thuộc Thổ, Phổi thuộc Kim. Luật sanh khắc này phát minh từ Dịch lý (rồi sau sẽ có hình chỉ dẫn). Giờ đây ta chỉ nói đến luật tương sanh tương khắc của ba tạng Gan, Tim và Tỳ.
Mùa Xuân, sinh khí của lá gan phải trỗi dậy theo chiều dọc lên đến tận đỉnh đầu. Bởi vậy trên kia mới nói “tóc phải buông xoã” để tránh sự thiếu lưu thông trên đỉnh đầu, biến thành khủng hoảng làm ra bệnh nhức đầu.
Trong vòm tròn, khí sắc hướng Đông chiếu thẳng về hướng Tây, hướng Tây chiếu thẳng về hướng Đông; trong thân con người cũng vậy, tạng Gan bên hông phải, tạng Tỳ bên hông trái, nó phải giao nhau mà đối chiếu. Cách thế của Gan giao với tạng Tỳ cũng như loài cây giao với mặt đất để ăn mầu mỡ, mà ở đây gọi là tương khắc.
Trong lúc khí lá gan nặng về chiều phải vượt lên, nếu rủi có bị đè nén sanh uất, tự nhiên nó phải phát triển đâm sang tạng Tỳ, cũng như phần trên của cây bị đè nén nó phải dọn đường sinh lực mạnh mẽ về hướng lòng đất; đây là một định luật (mà người bệnh nước tiểu đường nặng được chọc tức thì bệnh sẽ đỡ đi). Bởi vậy nếu Gan bị uất quá thì tạng Tỳ ngay lúc đó bị mệt, đến sang Hạ thì sức phát triển của lá gan đến cùng cực, nó phải giao dịch với Tim một cách bình thường. Nhưng vì khí của nó đã bị hao tán làm cho sự quan hệ bình thường giữa Gan với Tim thiếu liên tục. Trong hồi ấy tạng Tim lại phải giữ mức quan hệ bình thường trung bình với tạng Tỳ, mà tạng Tỳ lại đã trải qua một lúc đảo điên vì tạng Gan, nên biến sanh yếu ớt. Bây giờ nó phải thâu hút sinh lực để bù vào, do hai thế ấy mà khí trưởng dưỡng cho Tim hao hụt, làm cho Tim yếu ớt. Vì Tim yếu lửa thiếu nên dễ sanh bệnh lạnh.
HÌNH 2.1: NGŨ HÀNH SANH KHẮC RÁP VÀO THÂN
Đoạn 2
PHIÊN ÂM:
Hạ tam ngoạt, thử vị phồn tú, thiên địa khí giao, vạn vật hoa thiệt, dạ ngọa tảo khởi, vô yểm vu nhựt, sử chí vô nộ, sử hoa anh thành tú, sử khí đắc tiết, nhược sở ái tại ngoại. Thử Hạ khí chi ứng, dưỡng trưởng chi đạo dã. Nghịch chi tắc thương tâm, thu vi hải ngược, phụng thâu giả thiểu, Đông chí trọng bệnh.
DỊCH:
Ba tháng mùa Hạ gọi là rậm rạp(1), khí của trời đất giao nhau(2), vạn vật đua chen hoa quả. Tối ngủ sáng thức dậy sớm, đừng ngại ngày dài, để cho tinh thần không bị bực dọc, cho mầm non được
nảy nở, cho khí được bài tiết, làm như có điều gì ái mộ bên ngoài. Đó là ứng với khí của mùa Hạ phải làm như thế, là cái đạo dưỡng trưởng(3). Nếu trái lại thì hại Tim, sang Thu sanh bệnh sốt rét và sự giúp ích cho Phổi thu liễm càng thêm yếu ớt, đến sang Đông sẽ sanh bệnh nặng.
CHÚ THÍCH:
(1) Rậm rạp: chỉ cho các loài cây cỏ đến lúc đó đều được phồn thịnh.
(2) Giao nhau: Ở đây nói khí của trời đất giao nhau, tức là vòng khí quyện ly tâm hướng tâm của quả đất giao nhau cân phân ở mùa Hạ, nghĩa là dưới lên trên xuống gặp mặt nhau ở khoảng không khí mặt đất, tức là lúc sấm sét mưa rào.
(3) Dưỡng trưởng: Mùa Xuân thì phát sanh, cho nên nói “dưỡng sanh”. Mùa Hạ vạn vật cây cối trưởng thành, khí trong con người cũng thế, cho nên gọi là “dưỡng trưởng”.
BÌNH:
"""