" Hoa Văn Cây Liễu: Địch Công Kỳ Án 15 PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hoa Văn Cây Liễu: Địch Công Kỳ Án 15 PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #16 HOA VĂN CÂY LIỄU The Willow Pattern (1965) Nguyệt Minh dịch dựa theo bản in của NXB Văn học, 2019 GIỚI THIỆU CÁC NHÂN VẬT CHÍNH ĐỊCH NHÂN KIỆT: Đại lý tự khanh* kiêm Kinh triệu doãn* tạm quyền. Ông thường được gọi là “Địch Công”. ĐÀO CAM: trợ thủ của Địch Công, Trưởng sử của Đại lý tự. KIỀU THÁI, Mà VINH: trợ thủ của Địch Công, Tả Hữu Quả nghị Đô úy. Quan viên đứng đầu Đại lý tự, cơ quan có nhiệm vụ xét lại những án nặng đã xử rồi gửi kết quả cuộc điều tra qua Bộ Hình để đệ tâu lên Hoàng đế xin quyết định. Chức quan giữ nhiệm vụ quản lý hành chính và trị an ở kinh đô. CÁC NHÂN VẬT KHÁC MAI LƯỢNG: một thương nhân thuộc dòng dõi công huân thế tộc tiền triều*. MAI THỊ: phu nhân của Mai Lượng. DIỆP KHUÊ LÂM: một người thuộc dòng dõi Hầu gia tiền triều. DIỆP THỊ: phu nhân của Diệp Khuê Lâm. QUẾ HOA: tỳ nữ trong Diệp phủ. HÀ BẰNG: một người thuộc dòng dõi Tướng gia tiền triều. LƯ HỒNG CƠ: một đại phu nổi danh. VIÊN NGỌC ĐƯỜNG: một ông lão múa rối giang hồ. BẠCH LAM, HỒNG PHỈ: hai nhi nữ song sinh của Viên Ngọc Đường. Triều đại trước. CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN Vụ án HOA VĂN CÂY LIỄU. Vụ án CẦU THANG DỐC ĐỨNG. Vụ án NÀNG NÔ TỲ BỊ SÁT HẠI. HỒI 1 Đêm thanh vắng, nảy sinh tội ác Chốn phủ đệ, đồng mưu ác nghiệt “Lạy trời!” Bà ta thở dốc, để cái đầu đã biến dạng rơi xuống nền nhà bằng đá cẩm thạch. “Sao mà lão già này nặng thế! Nào, hãy cùng nhau đẩy lão ta lại gần chân cầu thang đi.” Bà ta vừa lấy tay áo lau mồ hôi vừa nhìn cái xác. Tấm áo ngủ mỏng manh phơi bày từng đường cong trên cơ thể trắng ngần, lõa lồ của bà ta. Bà ta ngước lên nói tiếp: “Cứ để lão ta nằm đó, như thể bị ngã cầu thang vậy, trượt chân khi đang đi xuống hay bỗng nhiên hoa mắt chóng mặt gì đó. Quan phủ phán sao cũng được. Ở tuổi của lão ta thì thiếu gì nguyên nhân gây tử vong.” Nói đến đây, bà ta bỗng nhiên lắc đầu. “Không được, hãy đặt đầu của lão ta cạnh cột cầu thang. Vậy thì mọi người sẽ nghĩ là lão ta vấp ngã và đập đầu vào cây cột nhọn này. Phải, như vậy sẽ rất máu me. Tốt nhất là chàng làm đi. Cảm ơn chàng, như thế là được rồi. Máu hiện rất rõ trên đầu cột cẩm thạch trắng, họ nhất định sẽ thấy. Giờ chàng hãy đến thư phòng của lão ta, lấy một cây nến rồi vứt ngay đầu cầu thang. Đi đứng cẩn thận nhé, trên ấy tối đen như mực.” Bà ta ngẩng đầu lên, đôi mắt to hồi hộp nhìn hắn bước lên cầu thang cẩm thạch thẳng đứng. Nó nằm ngay giữa một đại sảnh rộng lớn với vòm mái cao, được thắp sáng nhờ ánh nến lờ mờ từ dàn nến đặt trên giá gần giếng trời. Bà ta cảm thấy mình đã phải chờ rất lâu mới lại nhìn thấy ánh nến len lỏi qua các mắt cáo trên lan can phủ sơn đỏ ở tầng trên. Hắn thả cây nến xuống phiến đá lát bằng cẩm thạch. Ánh nến lóe lên trong tích tắc, và rồi tất cả lại chìm vào bóng tối. “Xuống đây nhanh lên!” Bà ta nôn nóng gọi. Cúi người xuống gần xác chết, bà ta tháo một chiếc giày ra và ném cho nam nhân đang đi xuống cầu thang. “Chụp này! Tốt lắm. Giờ thì đặt chiếc giày ngay giữa cầu thang. Phải rồi, đây chính là chi tiết hoàn hảo cuối cùng trong kế hoạch.” HỒI 2 Dịch bệnh hoành hành, kinh thành đầy chướng khí Lời đồn truyền lưu, bá tánh lo điềm gở Địch Công chán nản ngắm nhìn bầu trời không sao. Mấy tầng mây dày đặc như đang sà xuống hình bóng của những chiếc mái vòm và thành lũy bao quanh. Đôi vai rộng của ông chùng xuống dưới tấm áo choàng thêu chỉ vàng khi ông nghiêng người về trước, hai tay đặt lên chấn song kiên cố của dương đài* lát cẩm thạch dưới ánh sáng của duy nhất một ngọn đèn. Kinh thành bên dưới hoàn toàn yên tĩnh. Ban công. “Hoàng thượng và các bá quan văn võ đã rời đi”, giọng ông đanh thép. “Giờ đây sát khí đang bao trùm lấy kinh thành. Một thành trấn ngập tràn nỗi sợ.” Nam nhân cao lớn khoác nhung phục bên cạnh Địch Công lặng lẽ lắng nghe, trên khuôn mặt tuấn tú của y hiển hiện nỗi ưu tư. Phù hiệu vàng hình hai con rồng quấn nhau trên ngực cho thấy y là Tả Quả nghị Đô úy Cấm vệ quân tại kinh sư. Y rút tay phải khỏi chuôi kiếm giắt trên thắt lưng rồi kéo chiếc mũ đinh khỏi vầng trán thấm đẫm mồ hôi. Dù đang đứng trên dương đài ở tầng thứ tư của dinh phủ, không khí vẫn hết sức oi bức. Địch Công đứng thẳng người, hai cánh tay khoanh lại trong ống tay áo rộng. Không hề rời mắt khỏi chốn kinh thành u ám, ông nói tiếp: “Vào ban ngày, chúng ta chỉ nhìn thấy những bóng người đội mũ trùm đi moi rác kéo theo những chiếc xe chở xác chết. Vào ban đêm, khung cảnh chỉ còn là bóng tối. Một thành trấn tối tăm đang chết dần chết mòn.” Ông xoay nửa người sang nam nhân bên cạnh rồi nói, “Tuy vậy, Kiều Thái này, sâu trong những khu ổ chuột và tầng hầm của cựu thành*, ta biết có một thứ gì đó đang trỗi dậy trong bóng đêm đáng sợ. Ngươi có cảm nhận được thứ chướng khí của cái chết và sự mục ruỗng đang lớn dần không? Dường như nó đang bao trùm lấy kinh thành rồi từ từ bóp nghẹt chúng ta.” �� Chỉ thành Trường An cũ, khi chưa mở rộng. Địch Công nói chuyện với Kiều Thái Kiều Thái chậm rãi gật đầu. “Bẩm đại nhân, không khí tĩnh mịch này thật kỳ quái. Bá tánh rất ít khi ra ngoài, ngay cả tuần đầu tiên cũng thế. Hồi trước ngày nào họ cũng mang tượng Long vương đi diễu hành trên phố để cầu mưa, ngoài ra mỗi sáng tối đều có tiếng cồng chiêng và tiếng trống chùa hòa cùng tiếng tụng Quan Âm. Bây giờ thì không còn nữa. Trong vòng nửa tháng nay, chúng ta thậm chí còn không nghe thấy tiếng rao của người bán hàng rong.” Địch Công lắc đầu. Ông bước đến chiếc ghế bành bên cạnh bàn cẩm thạch chất đầy giấy tờ. Phía sau là những cây cột sơn son lớn trong thư phòng được dựng tạm ở tầng trên của phủ đệ Kinh triệu doãn. Điểm thuận lợi của kiến trúc này chính là từ đó ông có thể nhìn ngắm toàn bộ kinh thành. Quan án ngồi xuống ghế bành, chiếc phù hiệu thể hiện phẩm cấp màu vàng đính trên hai cánh chuồn mũ quan đung đưa phát ra âm thanh leng keng nho nhỏ. Ông kéo cổ áo thêu trên quan phục rồi lẩm bẩm, “Người ta khó có thể hít thở trong không khí ảm đạm, trì trệ này.” Sau đó ông ngẩng đầu lên, mệt mỏi hỏi, “Kiều Thái, Đào Cam đã xử lý xong phần báo cáo của lính gác kinh thành tối nay chưa?” Viên Đô úy cúi xuống bàn rồi cầm lấy một văn kiện khép hờ. Y thoáng cau mày rồi đáp: “Bẩm đại nhân, số người tử vong vẫn còn tăng. Người chết chủ yếu là nam nhân và hài tử. Số nữ nhân và anh nhi* tử vong thấp hơn nhiều.” Trẻ sơ sinh. Quan án bất lực giơ tay lên. “Chúng ta vẫn chưa biết nó lan truyền qua đường nào”, ông nói. “Nhiều người nghĩ rằng không khí không sạch, nhiều người lại đổ lỗi cho nguồn nước, số còn lại cho rằng nguyên nhân đến từ lũ chuột. Ta đã được bổ nhiệm làm Kinh triệu doãn tạm quyền được ba tuần rồi, vậy mà vẫn chưa thể làm được bất cứ điều gì.” Ông phẫn nộ giật mạnh bộ râu hoa râm, đoạn nói tiếp: “Chiều nay viên quản sự khu chợ trung tâm vừa hồi báo rằng y không thể phân chia lương khô tử tế. Ta đã ra lệnh cho y tự nghĩ cách giải quyết. Chẳng ai có thể thay thế Mai tiên sinh. Những phường chủ chưa rời đi không được bá tánh tin tưởng. Kiều Thái, tai nạn của Mai tiên sinh quả đúng là một thảm họa.” “Bẩm đại nhân, quả thật là Mai tiên sinh phân phối gạo rất tốt. Dù đã cao tuổi nhưng ông ấy luôn cần cù làm việc từ sáng đến tối mịt. Ông ấy dùng gia sản đồ sộ của mình để mua thịt và rau quả cho người nghèo với giá chợ đen. Đáng tiếc là ông ấy bất hạnh ngã cầu thang ngay chính trong tư gia của mình!” “Có lẽ ông ấy bị co giật khi bước xuống cầu thang”, Địch Công nhận định, “hoặc là bị chóng mặt. Không có khả năng ông ấy sẩy chân ngã cầu thang, vì ta nhận thấy thị lực của ông ấy hãy còn rất chuẩn xác. Chỉ vì tai nạn bất hạnh đó, một bằng hữu đã ra đi ngay tại thời điểm chúng ta cần ông ấy nhất.” Ông nhấp một ngụm trà do Kiều Thái pha rồi nói tiếp, “Gã đại phu họ Lư đạo mạo đó lúc bấy giờ cũng có mặt. Hắn là đại phu riêng của gia đình thì phải. Kiều Thái, hãy dò hỏi nơi ở của hắn và chuyển lời với hắn rằng ta rất muốn gặp hắn. Ta rất kính trọng Mai tiên sinh, ta muốn hỏi đại phu xem liệu ta có thể làm gì để giúp đỡ quả phụ của ông ấy hay không.” “Cái chết của Mai tiên sinh đồng nghĩa với việc một trong ba gia tộc lâu đời nhất kinh thành hoàn toàn sụp đổ”, một giọng nói khô khốc vang lên sau lưng họ. Một nam nhân dáng vóc cao gầy khom người bước vào sảnh, đôi hài bằng nỉ của y không hề phát ra tiếng động. Y khoác trường bào Trưởng sử màu nâu, cạp áo và cổ áo thêu chỉ vàng, đầu đội mũ đen. Y có khuôn mặt dài vẻ châm biếm với hàm râu lưa thưa. Y vừa đi vừa dùng tay kéo ba sợi lông dài mọc từ nốt ruồi trên má trái, lên tiếng: “Hai nhi tử của Mai tiên sinh đều chết yểu, sau khi thành hôn lần hai thì ông ấy vẫn không có con cái, vì thế người kế thừa tiếp theo là một biểu đệ họ hàng xa.” “Đào Cam, ngươi đã đọc hết hồ sơ về Mai tiên sinh rồi ư?” Địch Công kinh ngạc hỏi. “Sáng nay chúng ta mới phát hiện Mai tiên sinh đã tạ thế đêm qua!” “Bẩm đại nhân, tháng trước thuộc hạ đã nghiên cứu tư liệu về gia tộc họ Mai”, nam nhân gầy gò điềm tĩnh đáp. “Trong suốt sáu tuần qua, thuộc hạ đã dò tìm thông tin về tất cả các danh gia vọng tộc rồi mỗi đêm lại đọc tư liệu về một gia tộc.” “Ta đã xem qua tư liệu trong văn khố”, Kiều Thái xen vào. “Tư liệu phải chất đầy đến mấy rương! Ta cá là muốn xong được một rương chắc cũng phải đọc từ nửa đêm đến sáng mất!” “Thỉnh thoảng ta cũng phải đọc từ sáng đến tối mịt. Nhưng ta thường ngủ rất ít, những văn thư này đọc cũng dễ hiểu. Nhiều lúc ta thấy chúng cũng khá thú vị nữa.” Địch Công tò mò nhìn người trợ thủ gầy gò của mình. Nam nhân trầm lặng thông minh này đã theo ông nhiều năm, nhưng ông luôn khám phá ra những điểm mới lạ ở con người y. “Giờ đây gia tộc họ Mai đã tuyệt tự, công huân thế tộc ở kinh sư chỉ còn lại họ Diệp và họ Hà mà thôi”, ông nói. Đào Cam gật đầu. “Vài trăm năm trước, ba gia tộc đó đã cai quản khu vực này một cách nghiêm ngặt. Bấy giờ, đất nước vẫn còn hỗn loạn do nội chiến và bị quân man di xâm lược, những sự kiện đó đã xảy ra ở tiền triều. Phải rất lâu sau đó, vùng đất này mới được chọn làm kinh đô.” Quan án vuốt ve bộ râu dài của mình. “Những kẻ thủ cựu đó thật là kỳ lạ. Họ xem thường những tân quý* không thuộc ba dòng họ này. Ngay cả đương kim Thánh thượng cũng vậy! Ta nghe nói một số đại gia tộc vẫn còn sử dụng những tước hiệu xưa, họ còn duy trì cả phương ngữ riêng nữa.” Những người mới thăng quan tiến chức; những dòng tộc mới phất. “Bẩm đại nhân, họ cố ý phớt lờ hiện tại”, Đào Cam nói. “Họ tự giao du với nhau và không bao giờ đến tham dự những buổi lễ quan trọng. Họ thực hiện chế độ nội hôn, chủ tớ lang chạ bừa phứa - đó chính là tàn dư phong kiến vừa hỗn loạn vừa lỗi thời. Giữa chốn kinh thành nguy nga phồn thịnh, họ tự sinh sống trong chính thế giới tách biệt của riêng mình.” “Mai tiên sinh là một ngoại lệ”, Địch Công trầm tư. “Ông ấy rất nghiêm túc hoàn thành nghĩa vụ của mình. Còn về gia tộc họ Diệp và họ Hà thì ta vẫn chưa có cơ hội tiếp xúc!” Kiều Thái vốn đang trầm mặc lắng nghe bỗng lên tiếng: “Bẩm đại nhân, bá tánh trong kinh thành cho rằng cái chết của Mai tiên sinh là một điềm gở. Họ vẫn luôn tin rằng vận mệnh của những gia tộc này bị ràng buộc một cách bí ẩn với vận mệnh của những thành trấn nơi họ từng cai quản. Trong thành lan truyền một bài vè dự đoán rằng cả ba gia tộc đều sẽ diệt vong. Bá tánh rất tin tưởng vào bài vè ấy và cho rằng thành trấn này sắp sửa bị tiêu diệt. Thật là vô lý!” “Những bài vè ấy rất quái dị”, Địch Công nhận định. “Không ai biết chúng xuất phát khi nào và từ đâu. Chúng đột nhiên xuất hiện rồi lan truyền nhanh chóng. Bài vè đó có nội dung như thế nào vậy Kiều Thái?” “Bẩm đại nhân, đó chỉ là một bài vè năm câu ngớ ngẩn thôi ạ. Một hai ba Mai Hà Diệp Người này mất giường Người kia mất mắt Người nọ mất đầu Mai tiên sinh chết vì vỡ sọ, vì thế các Lục sự* đều cho rằng câu vè cuối đang ám chỉ ông ấy.” Người giữ việc biên chép văn thư, sổ sách. “Trong khoảng thời gian này”, Địch Công lo lắng nói, “bá tánh sẽ nhất mực tin tưởng những lời đồn thổi kỳ quặc nhất. Binh sĩ hồi báo như thế nào về tình hình hiện tại?” “Bẩm đại nhân, tình hình có khả năng sẽ trở nên tồi tệ hơn”, Kiều Thái đáp. “Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có vụ trộm lương khô, cướp bóc hay xô xát đáng kể nào. Mã Vinh và thuộc hạ luôn chuẩn bị đề phòng những tình huống hỗn loạn nghiêm trọng vì đây chính là thời điểm lý tưởng nhất để phạm pháp - đa số nam nhân đều phải ra giàn thiêu công cộng để giám sát việc hỏa táng thi thể, chúng thuộc hạ buộc phải cắt giảm quân số tuần tra đêm. Hầu hết các gia đình giàu có trong khu vực đều vội vã rời kinh thành nên họ không thể canh gác cẩn thận cơ ngơi bỏ trống của mình.” Đào Cam mím môi. Y nói: “Hơn nữa, những hộ còn ở lại cũng đều đuổi hết hạ nhân đi, chỉ giữ vài kẻ hầu cận. Thành trấn này quả là thiên đường cho phường trộm cắp! May mắn thay không có tên trộm nào lợi dụng tình hình hiện nay để gây án.” “Các ngươi đừng để không khí trầm lắng hiện tại đánh lừa!” Địch Công nghiêm túc nói. “Giờ đây bá tánh đang sợ hãi, nỗi sợ hãi này có thể biến thành hoảng loạn bất cứ lúc nào. Khi đó toàn bộ kinh thành sẽ nhuốm màu máu me và bạo lực.” “Bẩm đại nhân, Mã đệ và thuộc hạ đã thiết lập một hệ thống cảnh báo khá tốt”, Kiều Thái nói nhanh. “Lính gác sẽ đóng tại những địa điểm chiến lược trong kinh thành cũ và mới. Dù số lượng lính gác rất ít nhưng họ đều là những tinh anh được tuyển chọn kĩ lưỡng. Chúng thuộc hạ tin rằng tình hình bất lợi sẽ bị khống chế ngay khi chúng vừa manh nha xuất hiện. Hơn nữa, quốc pháp cũng cho phép việc xử quyết theo luật mà không cần thông qua xét xử nên chúng thuộc hạ…” Quan án bất chợt giơ tay. “Mau lắng nghe!” Ông kêu lên. “Có phải đó là tiếng hát rong không?” Một giọng hát khe khẽ kỳ quái của một nữ nhân hòa cùng âm thanh đàn dây bập bùng vọng lên từ con phố bên dưới. Họ loáng thoáng nghe thấy lời nàng: “Nàng đừng quở trách ta, Hỡi Hằng Nga tiên tử, Vì ta đã trót khép cửa sổ Che mất ánh sáng của nàng quá sớm. Nhưng những khát khao ngọt ngào nhất Sẽ chẳng bao giờ…” Lời hát bỗng kết thúc bằng một tiếng gào thảm thiết. Quan án ra dấu cho Kiều Thái. Y lập tức lao xuống cầu thang. HỒI 3 Thiếu nữ chạm mặt phường ác nhân Kiều Thái xét hỏi Lư đại phu Thiếu nữ siết chặt cây tỳ bà vào bầu ngực trần, thét lên tiếng nữa. Chiếc mũ trùm đầu màu đen của gã nam nhân đầu tiên rơi xuống, để lộ khuôn mặt đỏ bừng sưng tấy, lấm chấm những vết ban đỏ. Hắn đưa cánh tay dài trong ống tay áo màu đen lên túm lấy nàng. Nàng cuống cuồng nhìn về phía con hẻm nhỏ tối tăm. Đột nhiên, gã đội mũ trùm đầu thứ hai nắm lấy tay áo gã thứ nhất. Một nam nhân gầy gò mặc áo choàng màu xanh lục đắt tiền tiến đến. Hai bóng đen chìm vào bóng tối trong con hẻm nhỏ. �� Thiếu nữ hát rong bị hai gã hốt xác đùa giỡn trên phố tối Thiếu nữ lao tới chỗ người mặc áo xanh lục. “Họ bị nhiễm bệnh! Tiểu nữ đã thấy khuôn mặt kinh khủng của họ!” Hắn vỗ lưng nàng bằng bàn tay dài gầy guộc. Một nụ cười thích thú hiện lên trên khuôn mặt nhợt nhạt với ria mép đen và chòm râu ngắn của hắn. Đầu hắn đội một chiếc mũ vuông bằng vải đen. “Cô nương đừng sợ”, giọng hắn có vẻ nhẹ nhàng, dễ chịu. “Ở bên ta thì cô nương sẽ được an toàn.” Thiếu nữ bật khóc nức nở. Nam nhân nhìn vào tấm áo choàng chắp vá màu xanh lục, vạt áo mở ra hai bên cùng chiếc váy dài xếp nếp bằng vải lụa đen đã bạc màu của thiếu nữ. Hắn cất chiếc hộp dẹt màu đỏ làm từ da lợn vào người rồi nói: “Xin cô nương bình tâm. Ta là đại phu.” Thiếu nữ quệt nước mắt. Đến lúc này, nàng mới thật sự nhìn kĩ khuôn mặt của nam nhân kia. Hắn có vẻ là người tử tế, dáng vẻ đạo mạo dù đôi vai hẹp và hơi cong. “Xin lỗi đại phu. Tiểu nữ cứ nghĩ nơi đây sẽ an toàn, vì nó gần phủ Kinh triệu doãn. Tối nay tiểu nữ vốn đã gặp phải một chuyện kinh hoàng. Tiểu nữ chỉ mới vừa định thần lại, vừa đi vừa ngâm nga một khúc hát thì hai tên hốt xác đó…” “Cô nương nên cẩn thận hơn”, gã đại phu nói nhỏ nhẹ. “Trên ngực trái của cô nương có một vết bầm lớn kìa.” Thiếu nữ vội vã kéo sát áo choàng vào người. “Tiểu… tiểu nữ không sao”, nàng lắp bắp đáp. “Phải thoa thuốc lên mới được. Ta sẽ chăm sóc cho cô nương. Chắc là cô nương còn rất trẻ, đúng không? Ta đoán là tầm mười sáu tuổi?” Thiếu nữ gật đầu. “Đa tạ đại phu. Giờ thì tiểu nữ xin cáo biệt và…” Gã đại phu nhanh chân bước lại gần thiếu nữ và đặt tay lên vai nàng. Hắn cúi người sát mặt nàng và nói: “Cô nương có gương mặt thật xinh xắn.” Thiếu nữ vội lùi lại, nhưng hắn đã đặt hai tay lên vai nàng. “Không, không, cô nương phải đi cùng ta. Cứ yên tâm là Lư Hồng Cơ ta đây sẽ đối xử tốt với cô nương. Ta sống ở gần đây thôi. Ta sẽ trả cho cô nương chút ngân lượng.” Nàng đẩy gã nam nhân nọ ra. “Để ta yên! Ta không phải phường bán phấn buôn hương, ta là…” “Đừng làm bộ đoan trang, tiểu cô nương”, hắn xẵng giọng. Thiếu nữ cố gắng đẩy hắn ra. Hai vạt áo của nàng lần nữa mở toang ra. “Để ta đi!” Nàng hét lên. Hắn dùng tay trái túm chặt cổ áo của nàng, tay còn lại bóp ngực nàng một cách hung bạo. Thiếu nữ thét lên đầy đau đớn. Bỗng có tiếng giày sắt vang lên trên nền đá cuội. Một giọng nói gắt gỏng vang lên: “Này! Ở đây có chuyện gì thế?” Gã đại phu nhanh chóng thả thiếu nữ ra. Sau khi liếc nhìn nam nhân to lớn đội mũ lính, nàng siết chặt cây đàn tỳ bà, thu chiếc váy dài lại và chạy đi. Qua khe hở trên váy, Kiều Thái thoáng thấy cặp đùi trần của nàng. “Không thể để yên cho đại phu làm việc của mình hay sao?” Tên nam nhân gầy gò giận dữ hỏi. “Ta cứ nghĩ những sinh vật bẩn thỉu dưới cống rãnh đó không được phép đi lang thang trên phố chứ, thưa quan gia!” Kiều Thái quay đầu về phía hai cấm binh đi cùng mình và ra hiệu cho họ quay vào trong. Sau đó y móc ngón tay cái vào đai kiếm và nhìn gã đại phu với ánh mắt thăm dò. “Mau khai danh tính!” Y cộc lốc ra lệnh. “Ta là Lư Hồng Cơ, một đại phu sống ở phía Đông khu phố này. Lẽ ra ta phải khai báo việc cô nương đó quấy rối ta, nhưng vì ta đang vội nên…” “Ngươi nói ngươi là Lư đại phu? Ồ, vậy thì tốt. Tự khanh đại nhân muốn gặp ngươi.” “Quả là vinh dự lớn, thưa ngài. Liệu sáng sớm mai…” “Ngươi phải đến gặp ngài ấy ngay, đại phu.” “Ta đang trên đường đến khám cho một bệnh nhân. Có thể ngài ấy đã mắc bệnh, và ngài ấy là một nhân vật rất quan trọng. Ngài ấy…” “Có phải là nhân vật quan trọng hay không thì cũng sắp chết rồi. Mau theo ta ngay!” HỒI 4 Lư Hồng Cơ khai báo tình tiết Địch Nhân Kiệt đặt ra nghi vấn Kiều Thái bước lên những bậc thang bằng đá cẩm thạch dẫn lên căn phòng trên lầu tư. Y bước một cách chậm chạp do đã đứng từ sáng sớm. Theo sau y là Lư Hồng Cơ. Địch Công đang ngồi ở bàn, cúi người xem một tấm bản đồ lớn. Đào Cam đứng bên cạnh ông, trên tay cầm một xấp giấy tờ. Kiều Thái hành lễ với quan án, còn Lư Hồng Cơ quỳ gối ở bậc cầu thang trên cùng. “Vừa rồi có một nữ nhân hát rong hét lên ngoài phủ”, Kiều Thái báo lại. “Nam nhân này lại nói mình bị nàng ta gạ gẫm. Đây chính là Lư đại phu mà đại nhân đang muốn gặp.” Quan án nhìn vội về phía kẻ đang quỳ phía dưới. “Nữ nhân đó đâu?” “Nàng ta đã bỏ chạy, thưa đại nhân.” “Ra là vậy.” Quan án dựa lưng vào ghế và lệnh cho gã đại phu, “Ngươi có thể đứng dậy!” Đại phu họ Lư vội vã đứng dậy và bước vào phòng. Hắn cúi thấp người trước án thư, hai tay chắp lại một cách kính cẩn trong hai ống tay áo dài. Quan án lặng yên nhìn hắn một hồi rồi chậm rãi vuốt chòm ria mép. Sau đó ông lên tiếng hỏi: “Việc vừa diễn ra dưới phố kia là sao, Lư đại phu?” “Tiểu nhân đang trên đường đi thăm bệnh cho một bệnh nhân, thưa đại nhân. Tiểu nhân có mang theo hộp thuốc, một chút bột phấn và một vài toa thuốc.” Họ Lư đặt chiếc hộp dẹt màu đỏ của mình xuống và trình lên cho quan án xem. “Khi tiểu nhân đi ngang qua góc phố thì thấy một nữ nhân đang bị hai gã phu hốt xác mặc đồ đen quấy nhiễu. Sau khi tiểu nhân tống khứ những tên đó đi, nữ nhân đó lại quay sang chèo kéo tiểu nhân. Hóa ra ả ta là phường bán phấn buôn hương. Thay vì cảm tạ tiểu nhân đã cứu giúp, ả ta lại bám lấy tiểu nhân không buông. Khi tiểu nhân đuổi ả đi thì ả nắm lấy tay áo tiểu nhân, nhất định không để tiểu nhân đi. Vì vậy, tiểu nhân đã đẩy ả ta một cái, ả ta lập tức la lên ăn vạ. Chắc chắn ả ta muốn làm ầm ĩ lên để đòi tiền tiểu nhân. May mà vị quan gia đây đi ngang qua ngay lúc đó nên ả ta đã bỏ chạy mất.” Kiều Thái mở miệng định nói nhưng Địch Công lắc đầu. Ông điềm đạm nói với Lư Hồng Cơ: “Ta muốn gặp ngươi để nghe kể rõ hơn về cái chết đêm qua của Mai tiên sinh. Ta nghe nói lúc đó ngươi cũng có mặt.” Họ Lư lắc đầu buồn bã. “Dạ không thưa đại nhân, tiểu nhân không thực sự chứng kiến vụ việc đáng tiếc đó. Đó là một mất mát lớn, không chỉ với…” “Nhung Ngỗ tác* nói ngươi đã có mặt ở đó!” Địch Công xẵng giọng ngắt lời hắn. Người làm công việc khám nghiệm tử thi trong nha phủ. “Đúng là tiểu nhân có ở trong Mai phủ. Cụ thể là ở dãy nhà Tây. Còn vụ việc kia lại xảy ra ở dãy nhà Đông của phủ.” “Được rồi, ngươi hãy kể lại mọi chuyện đi!” “Tuân lệnh đại nhân. Mai tiên sinh đã cho gọi tiểu nhân lúc trời vừa tối, vào khoảng giờ Tuất*. Ngài ấy muốn tiểu nhân đến xem bệnh cho lão quản gia. Lão vốn đang làm việc như thường lệ, nhưng khoảng hai khắc* trước đó, lão đột nhiên cảm thấy không khỏe nên Mai tiên sinh bảo lão đi nghỉ trước. Trong bối cảnh hiện giờ, ai cũng sẽ suy nghĩ theo chiều hướng xấu nhất. Tiểu nhân đã khám qua cho bệnh nhân và nhận thấy lão chỉ bị sốt thông thường; vào thời điểm này trong năm thì đây là bệnh thường gặp. Sau đó, Mai tiên sinh thịnh tình mời tiểu nhân ở lại dùng bữa tối với ngài ấy. Vì lão quản gia đang ốm, còn người hầu trong nhà thì đã lên biệt viện trên núi, Mai phu nhân đành phải đích thân dọn bàn ăn. Phải nói là tiểu nhân thấy rất xấu hổ khi được đích thân nữ chủ nhân của ngôi nhà thiết đãi. Bữa ăn kết thúc vào khoảng cuối giờ Tuất. Mai tiên sinh bảo rằng ngài ấy sẽ đến thư phòng ở lầu hai dãy nhà Đông. Ngài ấy nói muốn đọc sách một lúc và sẽ ngủ lại trên chiếc tràng kỷ trong thư phòng. ‘Phu nhân đã mệt nhọc cả ngày rồi’, ngài ấy bảo với phu nhân, ‘nên về phòng ngủ sớm đi.’ Bẩm đại nhân, Mai tiên sinh vốn là một người ân cần chu đáo như vậy đấy. Lúc nào cũng thế.” Từ 7 giờ đến 9 giờ tối. 1 khắc = 15 phút. Họ Lư thở dài rồi nói tiếp, “Tiểu nhân nói lời từ biệt Mai tiên sinh. Trên đường đi ra ngoài, tiểu nhân có ngó qua phòng quản gia ở ngay sát cổng chính và vô cùng hoảng hốt khi thấy cơn sốt của lão trở nặng. Tiểu nhân ngay lập tức cho lão uống thuốc, rồi ngồi xuống giường đợi thuốc phát huy tác dụng. Mai phủ bình thường vốn nhộn nhịp tiếng người qua lại, khi ấy lại lặng im như tờ. Theo cảm nhận của tiểu nhân thì bầu không khí ấy có thể xem là khá u ám. Bất chợt, tiểu nhân nghe thấy tiếng một nữ nhân thét lên ở phía dãy Đông. Tiểu nhân vội vàng chạy ra ngoài. Chạy đến giữa sân thì gặp Mai phu nhân, bà ấy hết sức hoảng loạn. Phu nhân…” “Khi đó là khoảng mấy giờ?” “Khoảng giữa giờ Hợi*, thưa đại nhân. Mai phu nhân nức nở nói với tiểu nhân rằng vừa phát hiện phu quân nằm chết dưới chân cầu thang cẩm thạch ở đại sảnh. Trong lúc đưa tiểu nhân tới đó, phu nhân kể với tiểu nhân rằng mình đang định lên thư phòng để hỏi xem Mai tiên sinh còn cần gì nữa không để bà có thể yên tâm đi nghỉ. Nhưng khi bước vào đại sảnh thì phu nhân đã thấy tiên sinh nằm dưới đất. Bà ấy hét lên và chạy ra cổng chính, với hy vọng lão quản gia đã khỏe lại đủ để…” Từ 9 giờ đến 11 giờ đêm. “Ta sẽ xem như lời ngươi nói là thật. Vậy ngươi đã kiểm tra thi thể chưa?” “Chỉ kiểm tra sơ bộ thôi ạ, thưa đại nhân. Đầu của ngài ấy bị đập vào cây trụ bên trái, dưới chân cầu thang. Tiểu nhân nhận thấy xương trán của ngài ấy bị giập nát; hẳn là ngài ấy đã chết ngay lập tức. Nhất định là ngài ấy lên cơn đột quỵ khi đang đi xuống vì tiểu nhân thấy có một cây nến đã tắt ở đầu cầu thang và một chiếc dép ở giữa cầu thang. Nói thật thì, thưa đại nhân, việc này cũng không có gì quá bất ngờ. Mai tiên sinh từng than với tiểu nhân rằng gần đây ngài ấy thường xuyên bị đau đầu dữ dội, và tiểu nhân đã khuyên ngài ấy phải nghỉ ngơi, vì dù sao thì ngài ấy cũng đã gần thất tuần rồi. Nhưng Mai tiên sinh lại không nghe lời cảnh báo của tiểu nhân. Ngài ấy vẫn khăng khăng đòi giám sát việc phân phát đồ ăn từ sáng tới khuya, ngày nào cũng vậy. Và lúc nào cũng kiên nhẫn lắng nghe những lời kêu than của đám người ồn ào đó. Mai tiên sinh quả thật rất chu đáo. Và là một người vô cùng hào phóng. Sự ra đi của ngài ấy đúng là mất mát lớn, thưa đại nhân.” “Quả đúng là thế. Sau đó thì ngươi làm gì?” “Bẩm đại nhân, tiếp đó tiểu nhân kê thuốc an thần cho Mai phu nhân. Rồi tiểu nhân đến kiểm tra bệnh tình của quản gia, khi thấy lão đã ngủ ngon giấc, tiểu nhân khuyên phu nhân hãy giữ nguyên hiện trường và tới thẳng nha môn vời Ngỗ tác. Khi đó ở nha môn ai nấy đều bận rộn và không thấy bóng dáng Ngỗ tác đâu cả. Có người nói với tiểu nhân rằng ông ấy đã ra ngoài kiểm tra giàn hỏa thiêu. Vậy nên tiểu nhân trở về nhà và sáng sớm hôm sau lại đến nha môn. Lần này thì tiểu nhân đã gặp được Ngỗ tác và đưa ông ấy đến Mai phủ. Cũng may là lão quản gia đã khỏe lại nên có thể đi gọi người mai táng. Ngỗ tác khám nghiệm thi thể với sự có mặt của tiểu nhân. Ông ấy thấy rằng…” “Được rồi, ta đã đọc qua báo cáo của y. Ngươi kể đến đấy là được rồi, Lư đại phu. Ta khá lo lắng cho Mai phu nhân. Phu nhân sẽ cần người phụ giúp tổ chức tang sự. Ngươi hãy đến Mai phủ và chuyển lời của ta, nói rằng ta sẽ cử vài Lục sự đến giúp phu nhân.” “Đại nhân thật tử tế! Mai phu nhân chắc chắn sẽ rất biết ơn ngài.” Lư Hồng Cơ cúi người hành lễ rồi đi xuống cầu thang cẩm thạch. “Tên ngụy quân tử!” Kiều Thái bực mình hét lên. “Những gì hắn kể về việc cứu cô nương kia khỏi hai tên hốt xác hoàn toàn là dối trá, thưa đại nhân! Chính hắn mới là kẻ quấy rối cô nương ấy chứ không phải nàng tấn công hắn!” “Ta cũng nhận thấy như thế”, Địch Công trầm tĩnh nói. “Hắn ta không phải kẻ lương thiện gì. Vậy nên ta mới tra hỏi hắn cặn kẽ như thế, như các ngươi vừa thấy đó. Và dù rằng hắn nổi tiếng là một đại phu có kiến thức sâu rộng, ta vẫn không muốn tham khảo ý kiến của hắn về điểm mà ta thấy băn khoăn trong báo cáo của Ngỗ tác. Đào Cam, lấy cho ta bản báo cáo. Nó chắc chắn đang nằm trong mớ giấy tờ kia thôi.” Đào Cam lục lọi đống giấy tờ cho tới khi tìm thấy tờ báo cáo do Ngỗ tác viết. Y đưa nó cho quan án. “Ngắn gọn và rõ ràng, như thường lệ”, Địch Công vừa đọc vừa nói với vẻ hài lòng. “Các ngươi nghe nhé. Nạn nhân Mai Lượng, nam, nghề nghiệp thương nhân, tuổi sáu mươi chín. Xương sọ bị vỡ do đập phải cột trụ ở chân cầu thang; vài sợi tóc bạc và máu còn dính trên đầu nhọn của cây trụ. Các vết đen trên gò má có thể là do bồ hóng hoặc sơn đen tạo thành. Hai tay nạn nhân có nhiều vết bầm tím. Chân, lưng và vai của nạn nhân còn có nhiều vết bầm tím hơn. Kết luận sơ bộ: Tử vong do tai nạn.” Địch Công ném báo cáo xuống bàn và chậm rãi nói: “Những vết thâm tím hiển nhiên là do nạn nhân lăn xuống cầu thang. Điều làm ta băn khoăn chính là mấy vết màu đen kia.” “Chẳng phải Mai tiên sinh tối ấy có vào thư phòng hay sao?” Kiều Thái nhận xét. “Có lẽ ngài ấy đã viết gì đó và để mực dính lên mặt.” “Nếu đại nhân mài mực trên một chiếc nghiên không sạch sẽ”, Đào Cam nói thêm, “mực sẽ bắn ra tung tóe.” “Có thể đây chính là nguyên nhân”, Địch Công đồng ý. “Mà này, thuộc hạ của ngươi đã bịt tất cả các ống cống lại chưa, Kiều Thái?” “Những ống cống ở thượng thành đều đã được bọc lưới sắt, thưa đại nhân. Một con chuột cũng không thể lọt qua đó được. Chiều nay, binh sĩ đã bắt đầu đi bịt ống cống ở cựu thành. Tiểu nhân đã hẹn Mã Vinh cùng nhau đến đó đêm nay để xem xét tình hình.” “Tốt. Khi các ngươi trở về, nhớ đến gặp ta. Ta còn phải cùng Đào Cam xử lý một số chính sự khác. Ta đoán phải đến nửa đêm mọi thứ mới xong xuôi.” HỒI 5 Tửu quán ngẫu ngộ lão giang hồ Màn diễn đánh lừa Mã Đô úy Mã Vinh cau có nhìn chén rượu trên bàn tay to bè của mình. “Nơi tồi tàn thế này mà cũng gọi là Ngũ Phúc tửu quán!” Y lẩm bẩm một mình. “Kiều huynh vốn có thể chọn một nơi nhộn nhịp hơn mà. Nhưng nghĩ lại thì cũng đúng, thời buổi này kiếm đâu ra một tửu quán nhộn nhịp chứ.” Y uống một ngụm rượu xái rẻ tiền rồi mạnh tay đặt chén rượu xuống bàn. Y duỗi người và ngáp một tiếng dài. Suốt mấy tuần vừa qua, đêm nào y cũng chỉ ngủ được vài tiếng. Nhưng dù sao thì y vốn cũng khỏe mạnh hơn người, thậm chí còn cao lớn hơn cả Kiều Thái. Cơ bắp săn chắc của y cuồn cuộn dưới lớp nhung phục bó sát người. Y không đeo phù hiệu Hữu Quả nghị Đô úy trước ngực mà giấu nó dưới mũ để không phải dừng chân đáp lại lời chào của mỗi binh sĩ y gặp trên phố. Mã Vinh khoanh tay lại và ủ rũ nhìn quầy rượu dài và hẹp được đóng tạm bợ bằng những khúc gỗ và chỉ được thắp sáng bởi một ngọn đèn dầu rẻ tiền. Mạng nhện giăng đầy trên trần nhà thấp ọp ẹp. Mùi mỡ chua tanh hòa cùng mùi rượu ôi thiu trong bầu không khí ngột ngạt, nóng bức. Chưởng quỹ tửu quán, một gã gù quạu quọ, đã biến mất hút vào gian phòng phía sau ngay sau khi mang rượu ra cho Mã Vinh. Trong quán chỉ có duy nhất một tửu khách khác là một ông lão ngồi một mình ở cái bàn trong góc. Lão hoàn toàn không chú ý đến Mã Vinh, mà chỉ chăm chú ngắm nhìn con rối trong bộ phục trang sặc sỡ mà lão cầm trên tay. Trên chiếc bàn trước mặt lão là hai con rối khác. Lão ăn mặc khá nghèo nàn với một chiếc quần dài vá víu và một tấm áo vải màu lam tương tự màu của tấm màn xanh bạc màu phía sau lão. Trên mái đầu bạc của lão là một chiếc mũ màu đen lấm bẩn ôm sát đầu. Chú khỉ nhỏ màu đen trên vai phải của lão có vẻ rất khó chịu trước cái nhìn chằm chằm của Mã Vinh. Nó nhướn mày cao đến nỗi da mặt chuyển sang màu trắng bệch, và chỏm lông màu đen trên đỉnh đầu nó dựng đứng lên. Con vật bé nhỏ nhe răng ra và quấn chiếc đuôi lông lá quanh cổ của chủ nhân rồi rít lên một tiếng hung tợn. Lúc này, chủ nhân của nó mới ngẩng đầu lên. Lão tò mò nhìn Mã Vinh rồi lên tiếng, giọng trầm và nho nhã: “Nếu quan gia muốn thêm rượu thì cứ gọi một tiếng. Chưởng quỹ đang ở sau quán an ủi mẫu thân mình. Bà ấy đang buồn lo vì cách đây hai khắc, người ta vừa khiêng ba người chết ở căn nhà đối diện đi.” “Cứ để gã an ủi bà ấy”, Mã Vinh nói cộc lốc. “Cái thứ rượu rẻ tiền này thì còn lâu ta mới uống hết được một chén.” “Im nào!” Ông lão nhỏ nhẹ mắng chú khỉ. Lão vỗ vỗ cái đầu tròn nhỏ xíu của nó rồi nói, “Tửu quán này chỉ phục vụ cho những ai có khẩu vị đơn giản và túi tiền khiêm tốn, thưa quan gia. Nhưng cũng vừa hay là nó nằm ngay giữa thượng thành và hạ thành.” “Cũng phải trơ tráo lắm mới dám đặt tên nơi này là Ngũ Phúc”, Mã Vinh buông lời mỉa mai. “Ngũ phúc”, ông lão trầm tư đáp, “tiền tài, địa vị, trường thọ, khang ninh, con cháu đầy đàn. Sao lại không thể đặt cái tên đó cho tửu quán này chứ? Nó được xây dựa vào phần tường sau của ngôi nhà giàu có cuối cùng ở khu phố này. Ở bên kia phố là khu nhà nghèo. Nên có thể xem tửu quán này là đường ranh giới ngăn cách ngũ phúc của người giàu và kẻ nghèo. Tiền tài, địa vị, trường thọ, khang ninh cho người giàu. Và con cháu đầy đàn, quá đầy là đằng khác, cho kẻ nghèo. Bên bốn bên một. Nhưng những kẻ nghèo đâu than vãn gì, không hề. Với họ thì chỉ cần một cái phúc thôi là đã quá đủ rồi.” Lão bỏ con rối xuống, các ngón tay dài khéo léo tháo cái đầu ra khỏi phần thân chỉ với vài động tác. Mã Vinh đứng dậy và tiến lại bàn của lão. Y ngồi xuống chiếc ghế đối diện và nói: “Nghề của lão cũng thú vị đấy. Ta vốn thích xem múa rối. Phường múa rối các người điều khiển các binh sĩ chiến đấu rất đẹp mắt. Mà lão đang tìm gì đấy?” Ông lão lúc này đang lục lọi tìm thứ gì đấy trong chiếc giỏ rối bằng tre lão mang bên mình. “Lão phu không thể tìm được cái đầu phù hợp!” Ông lão múa rối cau có trả lời. “Lão phu muốn tìm một ác nhân sống động thật sự. Ngài thấy đấy, phần thân này thì đúng rồi. To lớn, mạnh mẽ, khát máu. Nhưng lão phu mãi vẫn chưa tìm được cái đầu hợp với nó.” “Ôi dào, cái đó thì dễ mà. Vai ác trong các vở tuồng đều có khuôn mặt thế này.” Mã Vinh phùng mang trợn má, mắt trợn tròn hung hãn, và miệng thì gầm gừ. Ông lão múa rối nhìn y với vẻ xem thường. “Đó là vì chúng là vai ác trong các vở hát. Trong tuồng kịch, tất cả diễn viên đều được phân vai rạch ròi. Các con rối của lão phu còn hơn cả những diễn viên kia. Lão phu muốn chúng là những con người thu nhỏ thật sự. Nên lão phu không muốn một vai ác như trong tuồng kịch. Ngài hiểu chứ?” “Thú thực là không. Nhưng đây là nghề của lão, ta chắc chắn lão hiểu những gì mình đang nói hơn ai hết. Mà này, lão tên gì vậy?” “Lão phu họ Viên, tên Ngọc Đường. Người ở cựu thành.” Lão ném con rối vào lại trong giỏ và hỏi, “Ngài biết cựu thành chứ?” “Không rõ lắm. Nhưng tối nay ta sẽ đến đó.” “Xin ngài hãy quan sát thật kĩ xem bách tính ở đó sống thế nào! Trong những căn nhà tối tăm, những căn hầm bỏ hoang, một nửa nằm dưới lòng đất. Ấy vậy mà lão phu vẫn thích sống ở đó hơn các dinh thự sang trọng của người giàu. Lúc nào cũng vậy!” Lão gãi gãi phía sau đầu chú khỉ rồi nói tiếp với vẻ trầm tư, “Người nghèo suốt ngày chỉ lo kiếm cái ăn, không còn thời gian để nghĩ ra những thú tiêu khiển ác độc nhằm thỏa mãn những ham muốn bệnh hoạn của mình. Như những kẻ giàu có trong căn nhà to lớn ngay phía sau chúng ta đây!” Lão chỉ tay ra sau lưng. “Lão thì biết gì?” Mã Vinh chán chường hỏi. Ông lão này thật tẻ nhạt. Y mong sao Kiều Thái sẽ đến ngay. “Biết nhiều hơn ngài nghĩ đấy”, Viên Ngọc Đường đáp. “Trên bức tường phía sau tấm màn có một vết nứt. Nếu nhìn qua đó, ngài có thể thấy một phần của hậu viện, chính xác là một hàng hiên. Thỉnh thoảng ngài có thể chứng kiến nhiều sự việc lạ lùng diễn ra ở đó.” “Vớ vẩn”, Mã Vinh cáu bẳn nói. Ông lão nhún đôi vai gầy gò. “Ngài cứ tự mình xem đi!” Lão xoay nửa người ra sau, mở he hé tấm màn màu xanh và hé mắt nhìn vào trong. Rồi lão quay đầu về phía Mã Vinh và nói cộc lốc: “Ngài lại mà xem cách tiêu khiển của người giàu!” Không cưỡng lại nổi sự hiếu kỳ, Mã Vinh đứng dậy và đưa mặt về phía khe hở mà ông lão múa rối đã kéo ra cho y. Y bất giác nín thở vì sửng sốt. Qua khe nứt nhỏ lởm chởm trên bức tường gạch, y thấy một gian phòng lờ mờ tối lát gạch đỏ. Ở phía xa là một đoạn tường có hàng cửa sổ phủ rèm trúc. Hai bên trái phải là một hàng cột sơn son. Mã Vinh lặng thinh và kinh hãi nhìn một nam nhân cao ráo, mảnh khảnh đứng ngay giữa gian phòng, quay lưng về phía y. Hắn mặc áo lụa dài màu đen, trên tay phải là một sợi roi dài. Với một động tác kỳ quái nhưng có tính toán, hắn vung roi quất xuống một nữ nhân lõa lồ đang nằm sấp trên một tràng kỉ thấp, hai chân hai tay dang rộng. Mái tóc đen dài của nàng kia rũ xuống nền gạch đỏ, lưng và hai bên eo đẫm máu. Bỗng nhiên, nam nhân kia dừng lại, bàn tay cầm roi bất động giữa lưng chừng. Hai con chim lớn bay vờn giữa các cây cột, đôi cánh dài tươi sáng vỗ nhẹ giữa không trung. Mã Vinh rủa một tiếng rồi quay người lại. “Đi với ta, chúng ta sẽ bắt tên khốn đó!” Y quát. Ông lão múa rối chộp lấy cánh tay y để ngăn y lại, nhưng Mã Vinh hất tay lão ra và vội nói, “Lão đừng sợ, ta là Hữu Quả nghị Đô úy.” “Ngài không cần phải vội”, ông lão múa rối điềm đạm nói, “người ngài muốn bắt ở ngay đây.” Bằng một động tác khéo léo, lão kéo hẳn tấm màn xanh xuống. Phía sau tấm màn là một chiếc hộp màu đen đặt sát tường trên một trụ cao ba chân. Phía trước hộp là một khe hở nhỏ. “Đây là màn biểu diễn của lão phu đấy”, họ Viên giải thích. Thấy khuôn mặt bối rối của Mã Vinh, lão nở một nụ cười thích thú. “Thật là khó tin!” Nam nhân cao lớn thốt lên. Ông lão với tay ra sau chiếc hộp. “Lão phu có hơn ba chục tấm hình trong này. Toàn là những cảnh tượng từ thời xưa. Ngài nhìn lần nữa đi!” Sau khi ép sát mặt vào khe hở, Mã Vinh nhìn thấy một lầu các u nhã được xây bên bờ sông, dọc theo những rặng liễu. Các nhánh cây dài lả lướt phất phơ trong gió. Sau đó, một chiếc thuyền con xuất hiện. Một nam nhân đội mũ rơm tròn từ từ chèo thuyền dọc bờ sông. Một thiếu nữ xinh đẹp ngồi phía đuôi thuyền. Bất ngờ, cánh cửa trên mái hiên của lầu các mở tung và một ông cụ râu dài bạc trắng bước ra. Tiếp đó mọi thứ tối sầm lại. “Nến bên trong đã cháy hết và buổi biểu diễn kết thúc. Vì buổi diễn quá ngắn nên lão phu sẽ không lấy tiền của ngài.” “Sao mà lão làm được những hình nhân sống động thế? Và lão làm thế nào để chúng chuyển động được vậy?” “Lão phu cắt chúng ra từ giấy cứng, nhưng đánh bóng thêm bằng một vật liệu đặc biệt, và thêm vào một phối cảnh đặc biệt. Tất cả là sáng chế của riêng lão phu. Lão phu làm chúng chuyển động bằng cách gắn lông ngựa vào hình nhân. Phải có đôi bàn tay khéo léo mới làm được, nhưng ngoài ra thì…” Lão bỗng nhiên khựng lại và nhìn xung quanh. Cửa quán mở toang, một nữ nhân cao ráo mảnh mai bước vào. HỒI 6 Cô nương giang hồ xử đám người vô lại Mã Kiều huynh đệ gặp tiểu tử báo tin Nàng ta đứng thẳng người rồi ngạo mạn liếc nhìn tửu quán bằng đôi mắt to lấp lánh. Nàng ta ăn mặc khá luộm thuộm - thân trên khoác chiếc áo màu xanh đen thêu kim tuyến mờ, thân dưới là chiếc váy xếp nếp bằng lụa đen đã sờn. Tấm áo ngoài hở ra, phô bày nửa trên của bộ ngực no tròn lấp ló sau tấm yếm đen bó sát người. Nàng ta sở hữu làn da trắng nõn, khuôn mặt trái xoan đẹp như tượng tạc và đôi môi đỏ mọng khép hờ. Mái tóc đen óng ả vấn ngược từ trán rồi búi lại sau gáy một cách cẩu thả. Mã Vinh nhìn chằm chằm nàng ta, như thể đã bị mê hoặc. Y chưa từng gặp nữ nhân nào tuyệt sắc đến thế. Dù khoác lên mình bộ y phục xấu xí nhưng ở nàng ta lại toát lên khí chất vương giả. Y ngắm nghía vòng eo nhỏ và bờ hông đầy đặn. Y chợt nhận ra mình đang ngắm nàng ta mà không hề tưởng tượng ra cảnh nàng ta trút bỏ y phục trong tâm trí, như thói quen mọi khi của mình. Nàng ta khiến y vừa cảm thấy thu hút lại vừa muốn trân trọng, đây vốn là loại xúc cảm mà y chưa từng trải qua. “Chắc hẳn là mình đã bắt đầu già đi rồi!” Y bực dọc tự nhủ. Chú khỉ nhỏ phát ra một tiếng rên rỉ kỳ quái. “Yên nào!” Ông lão múa rối nghiến răng. Giọng nói của lão đã mất đi âm sắc trầm bổng của một người trình diễn chuyên nghiệp. Sau khi quan sát một vòng, nàng ta sải chân bước thẳng đến quầy rượu, tà váy lụa vung vẩy theo đôi chân thon dài của nàng ta. Nàng ta cầm lấy bầu rượu rồi thả cho nó lúc lắc trên bàn gỗ. Gã gù lại xuất hiện. Sau khi liếc nhìn nàng ta, khuôn mặt nhăn nheo, cáu kỉnh của gã bỗng bừng sáng. Nở một nụ cười hài lòng, gã rót đầy chén rượu. Nàng ta uống một hơi cạn sạch rồi lại đưa chén lên để được rót rượu lần nữa. “Tửu lượng của nàng ta khá đấy!” Mã Vinh cười toe toét nói với người đối diện, đôi mắt y vẫn không rời khỏi nữ nhân kia. Dường như nhận ra Mã Vinh đang nhìn mình, nàng ta liền xoay người nhìn thẳng lại Mã Vinh đầy thách thức. Y rất muốn đứng dậy bắt chuyện với nữ nhân quyến rũ này, nhưng ở nàng ta có điều gì đó cảnh báo y phải cẩn trọng. Nàng ta khẽ nhíu đôi lông mày vừa cong vừa dài, ngửa đầu ra sau rồi nói gì đó với gã gù. Gã cười nhăn răng rồi rút từ dưới quầy một đĩa rau quả muối. Nàng ta cầm lấy đôi đũa rồi dùng bữa một cách ngon lành. Mã Vinh quan sát nàng ta với vẻ hào hứng không hề che giấu. Sau một hồi, y hỏi người ngồi bên cạnh, “Lão có biết nàng ấy không?” Ông lão múa rối xoắn bộ râu bạc lởm chởm. “Không biết rõ như lão phu mong muốn”, lão trả lời. Mã Vinh đang định buông một câu bông đùa thì bỗng nhiên nghe thấy những tiếng huyên náo chói tai vang lên từ ngoài phố. Cửa quán mở toang ra, bốn tên lưu manh từ ngoài bước vào. “Cho bốn chén…” Tên đi đầu nói. Rồi hắn bỗng khựng lại và nhìn chằm chằm vào thiếu nữ, tay vân vê bộ râu quai nón bóng nhờn. Hắn nhìn nàng ta chăm chú đến nỗi không nhận thấy sự hiện diện của Mã Vinh và ông lão múa rối ở đầu bên kia tửu quán. Khuôn miệng ác độc của hắn nở một nụ cười méo mó. “Phải rồi, chúng ta sẽ thưởng thức bốn chén rượu mạnh”, hắn quát với những tên còn lại, “sau đó thì đến cô ả xinh đẹp này. Lại đây nào, các huynh đệ!” Chúng vây quanh thiếu nữ. Tên có râu đặt bàn tay đầy lông lá lên cánh tay nàng ta. “Tối nay nàng quả thật rất có phúc đấy!” Hắn liếc nhìn nàng ta. “Tiểu mỹ nhân, nàng sẽ được hầu hạ bốn người chúng ta. Bốn vị hảo hán!” �� Bốn tên vô lại tấn công một thiếu nữ Nàng ta đặt chén rượu lên quầy. Liếc mắt nhìn bàn tay đặt trên cánh tay trái của mình, nàng ta khẽ nói: “Bỏ bàn tay thối của ngươi ra khỏi người ta.” Bốn gã nam nhân bật cười ha hả. “Hãy tẩn cho ả một trận trước”, một tên có thân hình vạm vỡ lên tiếng. “Như thế thịt sẽ mềm hơn đấy!” Mã Vinh đứng bật dậy. Y phải dạy cho những tên khốn này một bài học. Nhưng ông lão múa rối liền đưa chân ra, nhẹ nhàng gạt chân Mã Vinh khiến y ngã giập mặt giữa hai chiếc bàn, thân hình y đè gãy chiếc ghế, mũ cũng bị rơi ra. Lúc đứng lên, y lại bất cẩn đập mạnh đầu vào góc bàn. Y ngã xuống, choáng váng ngồi bệt dưới đất. Y nghe tiếng một gã côn đồ gào thét, “Tay của ta… con yêu nữ!” Tiếp đó là một tràng chửi rủa tục tĩu. Cánh cửa bị đóng sầm lại, vữa trên nóc nhà rơi xuống nền đất. Sau đó chẳng còn nghe thấy âm thanh gì nữa. Mã Vinh nhanh chóng bò dậy. Y không thể tin vào mắt mình. Bốn gã côn đồ đã biến mất, chỉ còn nữ nhân kia đứng cạnh quầy như lúc trước. Nàng ta đưa chén rượu lên và gã gù lại nhanh chóng rót đầy chén cho nàng ta. Mã Vinh nhận ra tà áo bên phải của nàng ta có một vết đỏ lớn. Y đội lại mũ, sau đó quay sang ông lão múa rối mà càu nhàu: “Nàng ấy bị thương rồi! Chiêu vừa rồi của lão thật là đê tiện quá. Nếu lão còn trẻ thì ta…” “Ngài ngồi xuống đi!” Ông lão bình tĩnh nói. “Ta làm thế chỉ vì muốn tốt cho ngài. Không nên nhúng tay vào một cuộc ẩu đả khi một trong hai bên có giấu ám khí. Ngài có thể bị trọng thương đấy, Đô úy đại nhân.” Mã Vinh ngẩn người, đoạn ngồi xuống. “Nàng ta đã nhẹ tay với chúng”, lão Viên nói tiếp. “Nàng ta chỉ bẻ gãy tay tên có râu. Chúng đã kịp tẩu thoát trước khi nàng ta thật sự ra tay.” Mã Vinh sờ vào chỗ sưng trên trán. Y có nghe nói về giáp tay. Nữ tử giang hồ thường mang theo thiết cầu có kích cỡ bằng một quả trứng to ở hai bên ống tay áo. Vì luật pháp nghiêm cấm thường dân mang dao kiếm sắc nhọn trong người, nếu vi phạm sẽ phải chịu trượng hình, những nữ nhân này đã tự nghĩ ra một môn tuyệt kỹ để dùng với ám khí. Họ nắm lấy phần trên tay áo rồi dùng nó để tấn công. Sau khi khổ luyện, họ sẽ có thể đánh trúng vào những điểm chí mạng của đối phương. Tuyệt kỹ này có thể đập gãy tay hoặc vai của một nam nhân, nếu họ thật sự có chủ đích thì họ có thể giết người bằng cách bắn trúng thái dương hoặc nhân trung của địch thủ. “Đáng lẽ lão nên nói với ta thay vì gạt chân ta như thế”, y tức giận lầm bầm. “Là vì lão phu thấy Đô úy đại nhân quá nóng lòng muốn xông đến giải cứu mỹ nhân!” Ông lão cộc lốc đáp. Nữ nhân lấy thiết cầu từ ống tay áo bên phải ra, đặt lên quầy. Lúc này, nàng ta đang cố gột sạch vết máu dính trên vạt áo trong chậu rửa. Gã gù lại biến mất lần nữa. Mã Vinh đứng dậy rồi thong dong bước đến quầy. “Để ta giúp nàng”, y nói bằng giọng cộc cằn. Nàng ta liếc nhìn y một cái, nhún vai rồi khẽ giơ tay ra cho y. Trong lúc rửa tay áo cho nàng ta, Mã Vinh muốn nói rằng cởi áo ngoài ra thì sẽ dễ rửa hơn. Tuy nhiên, ánh nhìn lạnh nhạt của nàng ta khiến y lặng im. Nàng ta còn trẻ tuổi nhưng dáng người rất cao, đầu nàng ta ngang tầm cằm Mã Vinh. Mái tóc được búi sơ sài nhưng khá dày và óng ả đến mức trông như đang ẩm. Đến giờ y mới phát hiện nàng ta chỉ mặc yếm, áo choàng ngoài và váy. Bộ ngực trắng nõn tỏa sáng lung linh dưới lớp vải lụa đen sờn cũ. “Đa tạ”, nàng ta nói trong lúc y vắt khô tay áo. Nàng ta vẫn đứng bên cạnh y. Y rất muốn ôm nàng ta vào lòng, nhưng y biết nàng ta đã quen lối giao thiệp phóng khoáng ngang hàng với nam nhân. Y quan sát nàng ta đặt thiết cầu vào trong ống tay áo, nói: “Nàng đã xử lý bọn vô lại ấy rất nhanh chóng. Mà lại còn chỉ sử dụng ám khí một bên tay áo!” Chỉ tay về phía ống tay áo trái rỗng không của nàng ta, y nói, “Ta cứ tưởng người ta thường mang ám khí trong cả hai ống tay áo chứ.” Ánh mắt sắc lẹm của nàng ta liếc nhìn y. “Ta chỉ cần một viên thôi là đủ”, nàng ta lạnh lùng đáp. Mã Vinh si mê nhìn nàng ta đến nỗi không nghe thấy tiếng cửa mở. Sau lưng y truyền đến những tiếng bước chân nặng nề. Nàng ta xoay người lại. Một giọng nói cộc cằn vang lên: “Cô nương vốn dĩ đâu cần phải bỏ chạy. Đáng lẽ cô nương nên ở lại và kiện tên đại phu ấy.” Kiều Thái gõ khớp tay lên quầy, Mã Vinh kinh ngạc nhìn bằng hữu của mình. “Ban nãy ta nghe thấy tiếng hét của cô nương đây”, Kiều Thái giải thích, “ở con phố ngay bên dưới thư phòng của đại nhân. Một nam nhân họ Lư đang quấy rối nàng ấy. Hắn lại còn là một đại phu nữa chứ!” Khi nhìn thấy gã gù đã quay trở lại sau quầy, Kiều Thái gọi một chén rượu rồi hỏi thiếu nữ, “Cô nương có muốn uống một chén không?” “Ta không cần, đa tạ”, nàng ta nói. Sau đó nàng ta xoay sang gã gù, “Ghi nợ phần của ta nhé?” Nàng ta kéo áo choàng vào sát người, nhẹ nhàng gật đầu chào họ và sải bước đi ra khỏi cửa. “Ngài đã gặp nàng ta ở đâu?” Ông lão múa rối hỏi Kiều Thái. Lão đã tiến lại gần họ và nhìn Kiều Thái với ánh mắt lo lắng. Khi thấy Kiều Thái nhướn mày nhìn mình dò hỏi, lão Viên vội nói thêm, “Mà gã Lư đại phu đó đã làm gì?” “Lão ấy là người tử tế”, Mã Vinh nói gọn lỏn với Kiều Thái, “chỉ là một kẻ mãi nghệ trên phố thôi.” “Ta gặp nàng ta trên con phố ngay dưới phủ Kinh triệu doãn”, Kiều Thái kể với ông lão múa rối, “nàng ta vừa hát vừa chơi đàn. Lư Đại phu quấy rối nàng ta, nhưng khi ta vừa xuống đến nơi thì nàng ta lại bỏ chạy.” Ông lão múa rối lầm bầm gì đó trong miệng. Lão cúi người hành lễ rồi nhanh chóng quay về góc phòng. Lão đặt gánh múa rối lên vai, chú khỉ nhỏ mau chóng leo lên đó ngồi. Lão nhặt chiếc giỏ tre lên rồi vội vàng lao ra ngoài phố. “Việc đó đã giải quyết xong”, Kiều Thái nói, “chúng ta chỉ nên uống đúng một chén rượu rồi đi ngay. Có nhiều việc cần làm ở hạ thành lắm. Chúng ta phải kiểm tra mấy cái cống chết tiệt ở đó đấy.” Mã Vinh lơ đãng gật đầu. Y nhìn gã gù rót đầy rượu cho mình rồi ra vẻ bình thản hỏi, “Cô nương ấy là ai vậy?” “Ngài không biết sao? Nàng ấy chính là nhi nữ của lão Viên, tên là Bạch Lam.” “Đúng là không thể nào ngờ! Nếu là nhi nữ của lão Viên, sao nàng ấy lại phớt lờ lão thế?” Gã gù nhún vai. “Có lẽ nhà họ có bất hòa gì đấy. Nàng ấy là một nữ nhân cứng cỏi. Khi tức giận, nàng ấy sẽ trở nên rất đáng sợ. Nàng ấy nhào lộn rất giỏi. Nàng mãi nghệ trên góc phố cùng với phụ thân. Nàng còn có một muội muội song sinh tên là Hồng Phỉ. Nàng ấy là một nữ nhân dịu dàng đáng yêu; ca múa rất thạo, lại còn biết chơi đàn tỳ bà nữa.” “Người huynh gặp nhất định là Hồng Phỉ rồi”, Mã Vinh nói với Kiều Thái. “Nếu là vậy thì sao chứ? Chầu rượu này ta mời đệ. Bao nhiêu tiền vậy, chủ quán?” “Ngươi có biết họ sống ở đâu không?” Mã Vinh hỏi gã gù trong lúc Kiều Thái trả tiền. Gã gù sắc sảo liếc mắt nhìn Mã Vinh. “Nay đây mai đó. Họ biểu diễn ở đâu thì sống ở đó.” “Đi thôi nào!” Kiều Thái nóng vội nói. Khi họ ra khỏi tửu quán, Kiều Thái nhìn lên bầu trời tối đen. “Chẳng có lấy một ngọn gió!” Y chán chường nói. “Ở hạ thành còn nóng bức hơn thế này cơ”, Mã Vinh đáp lời. “Ở phủ có tin gì mới không?” “Chỉ có tin xấu thôi. Số lượng người tử vong vẫn đang tăng lên. Gã dâm tặc họ Lư đã đến phủ thuật lại tai nạn của Mai tiên sinh. Mai tiên sinh là người tốt. Còn họ Lư là kẻ khốn nạn bẩn thỉu.” Bên góc phố xuất hiện một chiếc xe đẩy do sáu nam nhân mặc áo choàng đen trùm đầu kéo đến. Mũ trùm che kín mặt họ, chỉ chừa ra hai khe hở cho đôi mắt. Trên xe chất đầy những vật thể không rõ hình thù được phủ bằng vải bạt. Mã Vinh và Kiều Thái nhanh chóng kéo khăn choàng cổ che kín mũi miệng. Đợi đến khi xe đẩy đi xa, Kiều Thái lo lắng nói: “Đại nhân của chúng ta nên rời đi cùng bá quan mới phải. Nơi này sẽ làm tổn hại đến sức khỏe của đại nhân mất thôi!” “Huynh đi mà nói với đại nhân!” Mã Vinh nói cộc lốc. Họ lặng thinh bước đi trên con phố vắng vẻ. Họ men theo đường cái dọc con kênh lớn chắn ngang kinh thành theo hướng từ Đông sang Tây. Chẳng mấy chốc, họ đã nhìn thấy cầu Bán Nguyệt. Ba nhịp cầu cong cong nhịp nhàng bắc qua kênh khiến cho cây cầu có tên là Bán Nguyệt. Những khối gạch dày dạn sương gió đã chống chịu sự tàn phá của thời gian và chiến tranh suốt hơn ba trăm năm. Thường ngày, cầu Bán Nguyệt lúc nào cũng đông đúc người qua lại, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn vắng ngắt. Mã Vinh vừa định bước lên cầu thì bất ngờ dừng chân. Y đặt tay lên cánh tay Kiều Thái rồi dõng dạc tuyên bố: “Kiều huynh, đệ sẽ thành thân với cô nương ấy!” “Ta cứ hy vọng đệ sẽ nghĩ ra trò gì mới mẻ hơn”, Kiều Thái mệt mỏi đáp. “Lần này thì khác”, Mã Vinh khăng khăng. “Câu nói đó của đệ ta cũng đã nghe nhiều lần rồi. Mà đệ đang nói đến cô nương ban nãy ở tửu quán à? Nàng ta còn quá trẻ. Có lẽ nhiều lắm cũng chỉ tầm mười sáu, mười bảy tuổi. Đệ sẽ phải dạy bảo mọi thứ cho nàng ta lại từ đầu. Tức là phải chỉ bảo từng chút một đấy. Mà đệ thì đâu có tư chất làm phu tử. Tốt hơn hết là đệ nên tìm một nữ nhân trưởng thành đã thấu hiểu sự đời đi! Sẽ đỡ tốn cho đệ nhiều công sức và thời gian lắm đấy. Này tên kia, ngươi đang chạy đi đâu đấy?” Kiều Thái vươn cánh tay dài túm lấy cổ áo một tiểu tử đang hớt ha hớt hải chạy xuống cầu. Nó mặc một chiếc áo khoác màu xanh cùng quần dài, cái đầu trọc lốc. “Hầu gia chết rồi! Bị giết rồi!” Nó hổn hển nói. “Buông tiểu nhân ra. Tiểu nhân phải đến nha môn tìm Bộ khoái*…” Chức vụ phụ trách truy nã, bắt giữ tội phạm và duy trì trị an thời xưa. Tập thể các Bộ khoái được gọi là khoái ban và người đứng đầu khoái ban gọi là Bộ đầu. “Hầu gia nào?” Mã Vinh hỏi. “Và tiểu tử nhà ngươi là ai?” “Bẩm đại nhân, tiểu nhân là người gác cổng ở Diệp phủ. Mẫu thân của tiểu nhân tìm thấy Hầu gia ở hàng hiên. Mẫu thân là tỳ nữ của Diệp phu nhân, hiện giờ ở nhà chỉ có hai người họ.” “Ngươi đang nói đến tòa dinh thự to như thành lũy bên kia con kênh sao?” Kiều Thái hỏi. Thấy tiểu tử gật đầu dứt khoát, y lại hỏi, “Có biết là ai làm không?” “Bẩm đại nhân, không ạ! Tiểu nhân không biết sự thể diễn ra thế nào, vì tối nay Hầu gia vẫn luôn ở một mình. Tiểu nhân phải đến nha môn và…” “Không có nha môn nào hết”, Kiều Thái ngắt lời nó. “Hiện thời Tự khanh đại nhân sẽ tiếp nhận và xử lý các vụ án mạng.” Kiều Thái quay sang Mã Vinh, “Đệ hãy về báo lại với đại nhân. Ta vừa từ phủ ra đây. Ngài ấy đang ở thư phòng trên lầu cùng Đào Cam. Ta sẽ cùng tiểu tử này đến Diệp phủ xem xét hiện trường.” Y đăm chiêu nhìn dinh thự đen sì bên kia con kênh và nói tiếp, “Họ Diệp đã chết rồi!” “Huynh bị sao vậy?” Mã Vinh hỏi cộc lốc. “Huynh quen biết ông ta à?” “Không. Nhưng đệ cũng đã nghe bài vè đó rồi đúng không? Một hai ba, Mai Hà Diệp, bài vè ấy đấy? Bây giờ chỉ còn họ Hà. Các vị trưởng tộc của tam đại thế gia đang dần tiêu vong. Và tiêu vong rất nhanh!” HỒI 7 Tiếp Mai thị, quan án tỏ lòng cảm thông Nhận tin báo, Địch Công lập tức lên đường Địch Công dựa lưng vào ghế, nhìn thẳng về phía nữ nhân cao gầy mảnh khảnh đứng trước mặt mình. Bà ta đứng lặng lẽ, hai tay đưa cao lên thi lễ một cách kính cẩn trong ống tay áo rộng, đôi mắt e dè nhìn xuống đất. Bà ta mặc một chiếc áo tang mỏng làm từ lụa trắng được thắt lại quanh hông bằng dải đai lưng rủ xuống tận sàn. Mái tóc bà ta được búi cao gọn ghẽ, khuôn mặt trắng ngần thanh tú, hai bên tai đeo hai chiếc khuyên vàng có đính lam ngọc. Địch Công áng chừng nữ nhân này trạc ba mươi tuổi. Ông ra hiệu cho Đào Cam rót trà mời khách, đoạn nói: “Lẽ ra phu nhân không cần tốn công đến tận đây. Phu nhân chỉ cần sai người đưa thư đến là được rồi. Ta rất áy náy khi đã để phu nhân phải leo hết những bậc cầu thang này để lên đây.” “Dân phụ thấy đây là bổn phận của mình”, bà ta nói bằng một giọng nhẹ nhàng và du dương. “Dân phụ cảm tạ đại nhân đã giúp đỡ dân phụ tận tình. Có quá nhiều công việc cần phải giải quyết. Diệp đại nhân cũng đã gửi một số thuộc hạ tới giúp dân phụ, và dĩ nhiên là Hà đại nhân cũng vậy. Họ đều là những bằng hữu tốt của tiên phu dân phụ. Nhưng trong tình hình nguy cấp như hiện nay, gia nhân của họ đều đang ở xa…” Nói đến đây, bà ta ngưng bặt. �� Địch Công tiếp Mai phu nhân “Dĩ nhiên rồi, thưa phu nhân. Ta hoàn toàn hiểu rõ sự tình. Đào Cam, hãy gọi Chánh Lục sự* tới đây, bảo y cùng bốn Lục sự đến Mai phủ trợ giúp Mai phu nhân.” Nói rồi ông quay sang phía Mai thị và nói tiếp, “Thuộc hạ của ta sẽ giúp phu nhân soạn ra những giấy tờ quan trọng liên quan đến tang sự của Mai tiên sinh. Người quá cố có di nguyện đặc biệt nào không?” Người đứng đầu ban thư lại và quản lý tất cả các Lục sự. “Lão gia nhà dân phụ mong muốn làm tang lễ theo nghi thức Phật gia, thưa đại nhân. Lư đại phu đã tốt bụng tới chùa và sắp xếp những việc cần thiết. Trụ trì đã xem lịch và nói rằng giờ Tuất tối mai chính là giờ hoàng đạo để bắt đầu lễ tang.” “Ngày mai ta cũng sẽ tới tham dự tang lễ, thưa phu nhân. Ta vô cùng ngưỡng mộ Mai tiên sinh. Ông ấy có thể được xem là một trong những bậc ‘bô lão’ ở nơi này và ông ấy luôn tích cực tham gia các hoạt động trong thành. Hầu hết các nơi thiện nguyện ở đây đều do ông ấy thành lập và ông ấy luôn hào phóng quyên góp. Ta biết phu nhân là người chịu mất mát lớn nhất. Nhưng ta mong rằng suy nghĩ cả thành này sẽ cùng khóc thương với mình sẽ khiến phu nhân phần nào vơi đi nỗi đau lớn lao này. Xin kính phu nhân một tách trà.” Mai thị cúi đầu nhận tách trà bằng cả hai tay. Quan án nhận thấy trên ngón tay trỏ của bà ta có đeo một chiếc nhẫn vàng rất đẹp, bên trên khảm một viên lam ngọc lớn giống như trên khuyên tai. Lòng ông ngập tràn sự cảm thông với nữ nhân trầm tĩnh và đức hạnh này. “Lẽ ra phu nhân nên rời khỏi thành mới phải. Hầu hết các vị phu nhân đều đã đi ngay khi dịch bệnh khủng khiếp này ghé thăm chúng ta và theo ta thì đó là một sự đề phòng khôn ngoan.” Địch Công vừa nói vừa đẩy một đĩa bánh bằng sứ về phía Mai thị. Mai thị định đưa tay lấy một miếng bánh nhưng đột nhiên khựng lại. Đôi mắt bà ta trợn tròn, nhìn chằm chằm vào đĩa bánh. Điều này diễn ra chỉ trong chớp nhoáng, và rồi bà ta lấy lại được bình tĩnh. Bà ta lắc đầu và nhẹ nhàng trả lời. “Dân phụ không thể nào để phu quân ở lại trong cô quạnh, thưa đại nhân. Dân phụ biết ông ấy quan tâm đến những người khổ nạn kia như thế nào, cũng lo sợ rằng nếu mình không ở bên cạnh thì ông ấy sẽ làm việc tới lao lực rồi ngã bệnh. Nhưng ông ấy lại không nghe lời dân phụ, và bây giờ thì…” Mai thị dùng tay áo che kín khuôn mặt. Địch Công đợi bà ta lấy lại bình tĩnh rồi mới hỏi tiếp: “Phu nhân có cần ta cho người báo tin tới gia quyến đang sống tại biệt viện trên núi hay không?” “Đại nhân quả là người chu đáo. Biểu đệ của tiên phu đang sống ở đó, ông ấy sẽ là người tiếp quản mọi việc ngay khi có thể. Thật không may, hai nhi tử của tiên phu do Đại phu nhân sinh ra lại yểu mệnh nên không có ai kế thừa hương hỏa…” Lúc này, Đào Cam đã trở lại cùng một lão nam nhân mặc đồ đen. “Bốn Lục sự đã xuống cổng chính, thưa đại nhân”, Đào Cam báo lại. “Họ sẽ mang quân kiệu ra cho Mai phu nhân.” Quan án đứng dậy. “Xin thứ lỗi cho ta vì không thể cắt cử cho phu nhân một cỗ kiệu kín. Nhưng phu nhân cũng biết đó, tất cả kiệu phu ở đây đều đã bị gọi đi hốt xác rồi.” Mai thị cúi đầu chào và đi xuống lầu, theo sau là Chánh Lục sự. “Thật là một phu nhân thanh nhã.” Đào Cam nhận xét. Địch Công không nghe lời y nói. Ông cầm đĩa bánh lên và kiểm tra kĩ từng chiếc bánh một. “Những chiếc bánh này có vấn đề gì sao, thưa đại nhân?” Đào Cam tò mò hỏi. “Đó cũng là điều mà ta đang thắc mắc”, quan án cau mày đáp. “Vừa rồi ta có mời Mai phu nhân dùng bánh, và vừa nhìn thấy mấy chiếc bánh này, bà ấy liền tỏ ra sợ sệt. Nhưng chúng chỉ là những chiếc bánh gạo thường ăn kèm với trà thôi mà.” Đào Cam nhìn kĩ chiếc đĩa rồi chỉ những hoa văn trang trí màu xanh ở giữa đĩa. “Có khi nào là vì hoa văn trang trí này không, thưa đại nhân? Nhưng đây cũng là loại hoa văn thường thấy, lò sứ nào cũng vẽ được loại hoa văn này. Nó được gọi là hoa văn cây liễu.” Quan án nghiêng chiếc đĩa sứ để những chiếc bánh tròn nhỏ rơi xuống bàn. Ông quan sát kĩ họa tiết trên đĩa. Đó là một biệt viện miền quê tao nhã với nhiều mái nhà và những gian nhà phụ xây bên bờ sông. Dọc theo bờ là những hàng liễu rủ. Ở phía bên trái là một cây cầu đá nhỏ cong cong dẫn tới một tòa thủy đình. Ba bóng người nho nhỏ đang băng qua cầu, hai người sóng đôi đi phía trước, người thứ ba chạy theo sau, trên tay huơ một cây gậy. Trên không trung có hai con chim với bộ lông vũ dài mượt đang chao liệng. “Hình ảnh này có ý nghĩa gì?” Địch Công hỏi. “Có rất nhiều dị bản, thưa đại nhân. Nhưng câu chuyện được những lão thuyết thư* kể lại nhiều nhất là thế này. Cách đây hàng trăm năm, căn biệt viện xây bên rặng liễu thuộc về một vị quan gia giàu có. Ông ta chỉ có một nhi nữ duy nhất, đã được ông ta hứa hôn cho một vị đồng liêu tuổi xế chiều, cũng là một người vô cùng giàu có. Tuy nhiên, nhi nữ của ông ta lại đem lòng yêu say đắm thư lại của phụ thân, một chàng thư sinh trẻ. Người cha phát hiện mối tình vụng trộm của họ. Họ quyết định chạy trốn, nhưng bị ông ta đuổi theo đến chỗ cây cầu. Một số dị bản nói rằng đôi tình nhân trẻ vì quá tuyệt vọng nên đã trầm mình xuống sông, và rằng linh hồn của họ biến thành một đôi chim sẻ hoặc là một đôi uyên ương. Vài dị bản khác lại bảo họ đã neo sẵn một chiếc thuyền con ở dưới cầu và trốn thoát thành công. Họ đã tới một nơi xa xôi và sống hạnh phúc mãi mãi.” Người kể chuyện mua vui, thường ở các trà lâu, tửu quán. Địch Công nhún vai. “Quả là một câu chuyện lãng mạn. Ta thấy không có gì có thể khiến một phu nhân đáng kính như vậy phải sợ hãi. Nhưng dù sao thì dĩ nhiên, tâm trạng bà ấy vốn rất xấu sau tai nạn của phu quân. Có chuyện gì mà ngươi phải vội vàng vậy, Mã Vinh?” Mã Vinh bước một bước ba bậc đi lên và nhanh chóng bước vào phòng. “Bẩm đại nhân, Diệp Khuê Lâm đã bị sát hại!” Y thông báo. “Trong phủ của chính mình. Hiện giờ Kiều Thái đang ở đó!” “Diệp Khuê Lâm? Ý ngươi là hậu đại của Diệp Hầu gia tiền triều sao?” “Đúng vậy, thưa đại nhân. Kiều huynh và thuộc hạ đã gặp người gác cửa nhà ông ta trên đường xuống hạ thành.” “Ta sẽ thay y phục và đến đó ngay lập tức cùng Đào Cam. Ngươi hãy ở đây đợi Kiều Thái về, Mã Vinh. Sau đó, hai ngươi hãy cùng đi kiểm tra những chiếc cống kia. Chuyện đó cũng vô cùng cấp bách. Đào Cam, vào lấy cho ta chiếc áo choàng vải bông mỏng.” HỒI 8 Diệp phu nhân tỉnh mê trong ký ức Địch Tự khanh xem xét hiện trường án Bốn tên lính hạ kiệu của Địch Công xuống trước một cánh cổng cao; quan án và Đào Cam bước xuống con phố lặng ngắt như tờ. Ở đầu bậc cầu thang rộng bằng đá là hai cánh cửa sắt khổng lồ. Giữa cánh cổng bên phải có một cánh cửa hẹp, chỉ vừa đủ rộng cho một người len vào. “Cứ mỗi lần đi qua đây”, Địch Công nói với Đào Cam, “ta đều tự hỏi tại sao một dinh thự ở ngay giữa thành lại được xây dựng như một thành lũy vậy.” “Vào thời xưa, thưa đại nhân, tức là cách đây chừng một trăm năm, nơi này chính là cổng vào kinh thành. Diệp Hầu gia, khi đó là người cai quản vùng này, thu lệ phí của mỗi con thuyền đi qua dưới cầu Bán Nguyệt. Con kênh khi đó là con hào phía ngoài thành.” Cánh cửa nhỏ giữa cổng sắt mở ra. Kiều Thái xuất hiện, theo sau là tiểu tử gác cổng. “Quả đúng là án mạng, thưa đại nhân”, Kiều Thái trình báo. “Diệp Khuê Lâm bị tấn công trong hàng hiên chạy dọc theo hậu viện và nhìn ra phía con kênh. Mẫu thân của tiểu tử này là người phát hiện ra thi thể; bà ta là tỳ nữ của Diệp phu nhân. Thuộc hạ đã lục soát cả căn nhà, nhưng không thấy dấu vết của hung thủ. Nhất định là hắn đã lẻn vào rồi sau đó trốn ra ngoài qua cùng cánh cửa này. Vì không hề có lối thoát nào khác.” Y chỉ vào bức tường cao có lỗ châu mai phía trên đầu họ rồi nói tiếp, “Bức tường này bao quanh ba mặt của dinh thự. Mặt thứ tư được con kênh bảo vệ.” Y dẫn họ đến một khoảng sân lát gạch rộng rãi. Nó được thắp sáng bởi ngọn đèn duy nhất treo trên căn chòi phía bên phải của người gác cổng. “Cánh cửa nhỏ giữa cổng”, Kiều Thái nói tiếp, “được cài then. Nó chỉ có thể được mở từ bên ngoài bằng một chiếc chìa khóa đặc biệt, nhưng từ bên trong thì kéo then lên là mở được ngay. Khi cánh cửa đóng lại, cái chốt sẽ vào đúng vị trí và cửa được khóa lại.” “Nghĩa là hung thủ phải được ai đó trong nhà mở cửa cho vào”, Địch Công nhận xét, “nhưng hắn có thể tự mình đi ra.” Ông hỏi tiểu tử gác cổng, “Đêm nay nhà ngươi đã mời những ai vào nhà?” “Không có ai, thưa đại nhân. Nhưng tiểu nhân ở trong bếp gần như cả tối. Có thể lão gia đã tự mình mở cửa cho ai đó vào chăng.” “Có bao nhiêu chiếc chìa khóa mở cửa?” “Chỉ có một chiếc, thưa đại nhân. Và tiểu nhân luôn giữ nó bên mình.” “Ta hiểu rồi.” Dưới ánh đèn lờ mờ, quan án không thể thấy rõ khuôn mặt của tiểu tử gác cổng nhưng nó có vẻ lo lắng bất an. Ông quyết định sẽ tra hỏi nó cặn kẽ hơn sau. “Hãy dẫn ta đến hiện trường!” Ông lệnh cho Kiều Thái. Trợ thủ của ông lưỡng lự một hồi rồi nói: “Bẩm đại nhân, có lẽ là ngài nên đến gặp Diệp phu nhân trước. Người hầu của bà ấy bảo với thuộc hạ là phu nhân đang rất đau buồn, và rất muốn được nói chuyện với đại nhân.” “Được rồi. Tiểu tử gác cổng sẽ đưa ta đến chỗ phu nhân. Ngươi quay về phủ đi. Mã Vinh đang đợi ngươi ở đó.” Tiểu tử gác cổng lấy một ngọn đèn từ căn chòi gác cổng và đưa Địch Công cùng Đào Cam vào một đại sảnh tối tăm. Ánh đèn nhấp nháy trên hai hàng kích và thương cắm trên những chiếc kệ sơn đỏ dọc hai bên tường. Ở cuối sảnh là một tấm bảng rời với dòng chữ “Tránh đường” lớn màu đen. “Những biểu tượng quyền uy này phải bị xóa bỏ hết”, Địch Công cau có nói với Đào Cam. “Đã qua hơn một trăm năm kể từ thời nhà họ Diệp nắm quyền thống trị, mà lại là thứ quyền lực do họ chiếm đoạt mà có nữa.” “Chúng chỉ là tàn tích của quá khứ, thưa đại nhân.” “Ít nhất thì cũng phải là như thế!” Quan án lầm bầm. Họ đi qua vài đoạn hành lang lắt léo, tiếng bước chân của họ vang vọng dưới mái vòm cao. “Bình thường thì ở đây có gần tám mươi người hầu, thưa đại nhân”, tiểu tử gác cổng buồn bã nói. “Khi dịch bệnh ập đến, nhiều người đã muốn bỏ đi, nhưng lão gia không cho phép. Nhưng sau khi mười người hầu chết, lão gia mới lo sợ và gửi tất cả bọn họ lên núi. Trừ tiểu nhân và mẫu thân.” Họ băng qua một hoa viên nhỏ được bao bọc giữa bốn bức tường, những bụi hoa nhỏ trong hoa viên tỏa ra mùi hương ngọt ngào hòa lẫn cùng thứ mùi ẩm mốc của bầu không khí ngột ngạt nóng bức. Tiểu tử nâng đèn lên và gõ nhẹ vào tay nắm chạm khắc tinh tế của cánh cửa thếp vàng. Một nữ nhân cao ráo gầy gò trạc năm mươi tuổi ra mở cửa. Bà ta mặc áo dài màu nâu sẫm. Mái tóc điểm bạc rối bù được búi cao bằng một dải khăn xanh. Trong lúc bà ta cúi người chào, quan án hỏi ngay: “Ngươi phát hiện ra vụ án mạng vào lúc nào?” “Vào khoảng nửa canh giờ trước”, bà ta trả lời bằng giọng khàn khàn khó nghe, “khi nô tỳ mang giỏ trà vào hàng hiên.” “Ngươi có động vào thứ gì ở hiện trường hay không?” Bà ta điềm tĩnh nhìn quan án bằng đôi mắt sắc sảo. “Chỉ có phần cổ tay. Lão gia đã chết, nhưng xác vẫn còn ấm. Mời ngài đi lối này.” Địch Công và Đào Cam đi theo bà ta vào một hành lang hẹp. Nhi tử của bà ta ở lại phía sau, nơi cánh cửa dẫn ra hoa viên. Người tỳ nữ già dẫn họ vào một gian phòng hình vòm cầu, được thắp sáng lờ mờ bởi giá nến cao bằng bạc ở phía sau. Trong góc phòng, bên cạnh đống than sáng bừng là một lò than; phía trên đống than là một giá ba chân bằng sắt có chứa một vạc thuốc bốc hơi nghi ngút. Không khí nóng ẩm hòa cùng mùi thuốc ngai ngái khiến họ như muốn ngạt thở. Quan án kinh ngạc nhìn chằm chằm vào phần bục cao bằng gỗ mun ở phía trong phòng, gần giá nến bằng bạc. Trên bục là một chiếc ngai lớn bằng gỗ thếp vàng. Giữa những chiếc gối bằng lụa đỏ là một nữ nhân gầy gò đang ngồi thẳng người bất động, chỉ trừ đôi bàn tay trắng bệch khẳng khiu đang lần chuỗi tràng hạt hổ phách. Bà mặc một tấm áo choàng lộng lẫy màu vàng có thêu hình phượng hoàng bằng chỉ xanh và đỏ. Mái tóc hoa râm của bà được vấn thành một búi cao, cài trâm vàng khảm ngọc. Khoảng tường phía trên ngai treo một cuộn tranh lụa dài gần sáu thước, trên đó vẽ một đôi phượng hoàng màu sắc sặc sỡ. Ở hai bên bục là hai chiếc quạt được đặt trên hai cái giá cao sơn màu đỏ. Địch Công liếc nhìn Đào Cam đầy ẩn ý. Phượng hoàng là biểu tượng thiêng liêng của Hoàng hậu, cũng như rồng năm vuốt là biểu tượng của Hoàng đế. Hai chiếc quạt ở hai bên là đặc quyền của những người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Đào Cam bĩu môi. Tỳ nữ già vội vã băng qua sàn nhà cẩm thạch và thì thầm gì đó vào tai nữ nhân đang ngồi yên như tượng trên ngai. “Lại gần đây”, một giọng nói vô cảm thô ráp vang lên. Quan án tiến về phía bục. Đến lúc này, ông mới nhận ra đôi mắt của Diệp phu nhân có một vẻ xa cách lạ lùng. Bà chắc hẳn chưa quá ngũ tuần, ông nghĩ trong đầu, nhưng bệnh tật và sự u sầu đã tàn phá khuôn mặt xinh đẹp một thời. Và cũng đến lúc này, ông mới thấy màu sắc trên tấm phượng bào của bà đã bạc màu và có những vết rách lớn được vá víu vụng về. Bức tranh trên tường đã bị những vết ố xấu xí phá hỏng, mặt giấy phủ đầy mốc, và lớp mạ trên ngai cũng đang bị tróc ra. “Đa tạ Đại lý tự khanh đại nhân đích thân đến tệ xá điều tra vụ ám sát hèn hạ này.” “Ta chỉ thực hiện đúng bổn phận của mình thôi, thưa phu nhân”, Địch Công trả lời nhỏ nhẹ. “Ta thành thật chia buồn với phu nhân. Vì ta đang nóng lòng muốn truy tìm hung thủ ngay lập tức, xin phép phu nhân cho ta bỏ qua một số phép tắc thông thường.” Khi thấy bà gật đầu, ông hỏi tiếp. “Phu nhân có biết ai có khả năng là hung thủ sát hại Diệp tiên sinh không?” “Dĩ nhiên là biết”, Diệp phu nhân trả lời cộc lốc. “Chính là Vệ Hầu gia, kẻ thù không đội trời chung của chúng ta. Hắn đã lên kế hoạch khiến Diệp gia lụn bại từ nhiều năm nay rồi.” Nhận thấy nét mặt bối rối của Địch Công, Đào Cam vội tiến lại gần ông và nói nhỏ: “Trong giai đoạn chuyển giao triều đại cách đây một trăm năm, Vệ Hầu gia đóng quân ở phía bên kia con sông. Gia tộc đó đã tuyệt diệt cách đây chừng sáu mươi năm rồi.” Quan án nhìn tỳ nữ già với ánh mắt dò hỏi. Bà ta nhún vai rồi đến chỗ lò than trong góc phòng, ngồi xổm xuống và bắt đầu khuấy vạc thuốc bằng đôi đũa đồng. “Tối nay Vệ Hầu gia có đến đây không?” Địch Công hỏi. “Những việc diễn ra giữa các nam nhân không phải là phận sự của ta”, phu nhân lạnh lùng đáp. “Ngươi hãy đi mà hỏi Hà Tướng quân.” Khóe miệng Diệp phu nhân bắt đầu co giật. Tràng hạt hổ phách rơi lách cách từ người bà xuống sàn nhà. Bà từ từ đứng dậy và bước xuống khỏi bục với điệu bộ cứng nhắc kỳ quặc, dò từng bước bằng mũi của đôi giày thêu nhỏ làm bằng lụa. Khi đến trước mặt quan án, bà quỳ xuống. Bà giơ hai cánh tay trong ống tay áo dài lên và bất ngờ khẩn cầu bằng một giọng nói xúc động và to rõ: “Xin ngài hãy trả thù cho phu quân của ta! Ông ấy là người tốt, là một đại trượng phu. Cầu xin ngài!” �� Diệp phu nhân quỳ gối trước quan án Nước mắt chảy xuống đôi gò má hốc hác. Người tỳ nữ già vội vàng tiến lại gần và đỡ chủ nhân của mình dậy. Bà ta cho Diệp phu nhân uống thuốc từ một bát sứ nhỏ. Phu nhân đưa bàn tay trắng bệch khẳng khiu lên che mặt. Rồi bà lại cất tiếng, giọng nói vô cảm trở lại. “Ta đã ra lệnh cho Hà Tướng quân cùng thuộc hạ hỗ trợ ngươi. Ngươi lui ra được rồi.” Quan án nhìn khuôn mặt tiều tụy của bà với ánh mắt thương hại. Khi chuẩn bị quay ra đến cửa, ông thấy người tỳ nữ già cuống cuồng ra dấu cho ông từ sau lưng Diệp phu nhân. Bà ta chỉ tay về phía Đào Cam, rõ ràng là muốn trợ thủ của ông ở lại. Địch Công gật đầu đồng ý rồi đi ra ngoài. “Dẫn ta đến hàng hiên!” Ông lệnh cho tiểu tử gác cổng. Theo sau tên tiểu tử băng qua những gian phòng rộng lớn và những hành lang dài tĩnh mịch với trần nhà đã nhám đen qua thời gian, Địch Công ngày càng cảm thấy bất an. Cuộc gặp với vị phu nhân đáng thương, bệnh tật cả tâm trí lẫn thể xác, sống một cuộc đời u ám giữa những tàn tích của bóng ma quá khứ đã có tác động rất lớn đến ông. Tuy nhiên, điều đáng sợ hơn cả chính là bầu không khí lạ lùng hắc ám của dinh thự cổ kính hoang vu này. Trong thoáng chốc, ông hình dung mình là vị khách tưởng tượng trong một thế giới rất thật tồn tại cách đây cả trăm năm, một thời đại đen tối đầy bạo lực và máu tanh. Phải chăng quá khứ đang chiếm lấy hiện tại? Phải chăng những người đã chết trong quá khứ đang vùng dậy để nhập hội cùng những linh hồn lạc lối chết vì dịch bệnh, và quân đoàn ma quỷ sẽ chiếm lấy kinh đô yên ắng và trống trải? Và phải chăng đây chính là nguồn cơn của cảm giác sợ hãi và linh tính không lành đã xâm chiếm lấy ông vào đầu đêm nay, khi ông đứng trên gác cao nhìn về phía kinh thành chết chóc? Quan án cố gắng lấy lại bình tĩnh. Ông lau sạch mồ hôi lạnh trên mặt và theo sau tên tiểu tử giờ đang bước xuống một cầu thang hẹp. Nó đẩy hai cánh cửa ra và bước qua một bên để quan án tiến vào trong hàng hiên ảm đạm. “Ngươi quay về phòng của Diệp phu nhân được rồi”, ông nói với tiểu tử. Rồi ông đóng cửa lại và nhìn chằm chằm vào nam nhân khoác áo xanh đang nằm nhoài trên ghế dựa bên cạnh chiếc bàn ngay giữa sân. Ánh sáng chập chờn từ ngọn nến trên bàn tạo ra những cái bóng kì lạ trên khuôn mặt bị biến dạng khủng khiếp. Ông đứng yên, quay lưng về phía cửa và lia mắt quan sát nội thất quái lạ. Phòng trưng bày lát gạch đỏ trải dài từ phải qua trái cửa, tổng thể là một hình chữ nhật hẹp nhưng dài đến tầm sáu mươi thước. Bức tường bên ngoài ở trước mặt quan án có đục những khe hẹp theo chiều thẳng đứng và có khoảng cách đồng đều, giống như những khe hở để các cung thủ bắn tên vào kẻ thù ở bên ngoài. Dọc theo mặt trước của bức tường này là một hàng cột sơn son. Ở giữa, phía sau chiếc bàn nơi người chết đang nằm là bốn cửa sổ hợp thành một mái cổng. Các cửa sổ rộng và thấp được che phủ bằng những tấm rèm trúc. Bức tường bên phía quan án được lát bằng gỗ sẫm màu. Xa hơn một chút, đối diện chiếc bàn là một cái bục hẹp, cao hơn mặt đất khoảng một thước. Ban đầu quan án nghĩ rằng chiếc bục là để biểu diễn nhạc cụ, mặc dù như vậy thì có vẻ không phù hợp với hàng hiên được thiết kế cho cung thủ. Bên cạnh bục là một tràng kỷ thấp, phủ bằng chiếu trúc dày, nhưng không có khung hay mái che nào, và rõ ràng nó chỉ dùng để ngồi chứ không phải ngủ. Ngoại trừ nửa tá ghế lưng cao đặt dọc theo các cây cột, không hề có kiểu bàn ghế nào khác. Ông đoán rằng vào thời xưa, hàng hiên hẳn là một vị trí vô cùng chiến lược. Từ đây, người ta có thể thấy dòng người qua lại trên kênh và cầu. Các cửa sổ và mái cổng rõ ràng là về sau mới được thêm vào để biến hàng hiên thành một phòng khách. Địch Công lại gần chiếc bàn. Ông bất giác rùng mình khi nhìn kĩ thi thể nạn nhân. Ông đã từng thấy người chết dưới rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng cảnh tượng trước mắt vẫn khiến ông thấy rùng mình. Nửa trái của khuôn mặt bị giập nát do một cú đánh khủng khiếp khiến mắt phải rơi ra khỏi tròng. Nó giờ đang treo lủng lẳng trước má bằng vài sợi cơ đỏ. Mắt còn lại chết sững trong một nỗi kinh hoàng khiếp đảm. Phần vai trái áo choàng đẫm máu đã vón cục lại. Quan án phải xua tay đuổi đàn ruồi nhặng đi. Tiếng vo ve của chúng là âm thanh duy nhất phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch nơi đây. Hai cánh tay người chết mềm nhũn trong hai ống tay dài, hai chân thì dang rộng. Hẳn là ông ta đang đứng bên bàn khi bị tấn công, lực của cú đánh đẩy ông ta lùi ra sau, về phía chiếc ghế đen. Quan án chạm tay vào tứ chi người chết. Thi thể vẫn chưa co cứng. Khi kéo tay áo lên, ông thấy trên tay nạn nhân không có vết bầm tím hay dấu hiệu gì khác cho thấy có sự xô xát. Địch Công đứng dậy. Phần còn lại Ngỗ tác sẽ lo liệu. Trên sàn nhà, bên cạnh chiếc mũ đen của người chết là một chiếc roi với cán ngắn và những sợi roi mỏng dài. Ở giữa các sợi roi là vài bông hoa đang héo úa, và vài mảnh vỡ; chắc hẳn chúng thuộc về chiếc bình vốn dùng để cắm hoa. Bình này làm bằng sứ và có hoa văn màu xanh lam. Trên bàn, bên cạnh cây nến, là một lọ gừng lớn làm bằng đất nung xanh và một chiếc đĩa đầy mứt gừng. Đàn ruồi bu kín đĩa mứt ngọt. Bên cạnh giỏ đựng ấm trà là hai tách sứ; một tách vẫn còn ít trà, tách còn lại hoàn toàn sạch sẽ. Một chiếc ghế dựa khác được kéo lại gần đầu kia của bàn, rõ ràng là chưa từng được sử dụng. Địch Công thở dài và đứng dậy. Chậm rãi vân vê chòm râu dài, ông nhìn xuống thân hình bất động bên dưới. Thật là đáng tiếc vì ông chưa bao giờ gặp mặt Diệp Khuê Lâm. Từ giờ trở đi, ông chỉ có thể dựa vào những gì người khác kể lại để hình dung ra tính cách của nạn nhân. Và những người có thể kể cho ông nghe về ông ta cũng hiếm có mấy ai. Không như Mai Lượng, Diệp Khuê Lâm xưa nay luôn ẩn dật, không có bằng hữu nào thân thiết trừ Mai Lượng và Hà Bằng. Mà quan án cũng chưa từng gặp họ Hà. Ông vắt óc suy nghĩ, nhưng không thể nhớ ra liệu Mai tiên sinh có từng nhắc gì đến hai người ấy hay không. “Giá mà ta có thể biết được vẻ mặt ngay trước khi chết của ông là gì”, ông lầm bầm một cách chán chường. Nửa khuôn mặt đã biến dạng, nên việc ấy không dễ dàng gì. Một khuôn mặt dài, ốm yếu, đôi môi mỏng, ria mép bạc phơ và chòm râu xơ xác. Chỉ có thế. Chiều cao trên mức trung bình một chút và dáng người gầy gò. Địch Công thở dài chán nản. Suy cho cùng thì dáng dấp bên ngoài ra sao cũng không quan trọng. Quan trọng nhất là tính cách của nạn nhân. Đó luôn luôn là đầu mối tốt nhất để tìm ra hung thủ. Nhìn chằm chằm vào khuôn mặt biến dạng, Địch Công tự hỏi liệu Diệp Khuê Lâm có phải cũng chỉ biết sống trong quá khứ hay không. HỒI 9 Tỳ nữ Diệp phủ luận tội chủ nhân Tiểu tử gác cổng khai báo sự thể Dòng suy nghĩ của Địch Công bị đứt quãng trước sự xuất hiện của Đào Cam và tỳ nữ già. Đào Cam ra hiệu cho bà ta đứng đợi trước cửa còn mình thì đến trước mặt quan án rồi nhỏ giọng thưa: “Bẩm đại nhân, tỳ nữ này rất hận Diệp tiên sinh. Bà ta có khá nhiều điều muốn nói về ông ta.” Sau khi nhìn sơ qua xác chết, Đào Cam nghiêm túc hỏi, “Đại nhân, ngài đã suy đoán được gì về vụ án này chưa ạ?” “Hung thủ hoặc là bằng hữu thân thiết, hoặc là người có địa vị thấp kém hơn người bị hại”, quan án nói một cách chậm rãi. “Ta suy ra điều này từ việc họ Diệp, dù đã đích thân mời kẻ đó vào nhà, nhưng không hề mời hắn ngồi xuống hay mời hắn một tách trà. Sau khi Diệp Khuê Lâm đưa hắn đến hàng hiên này, ông ta ngồi xuống uống trà và ăn ít mứt gừng - mà cũng có thể ông ta đã ăn mứt gừng từ trước đó, trong lúc đợi khách đến. Sau đó, giữa họ đã xảy ra xung đột, có lẽ là đấu tay đôi; ngươi có thể nhìn thấy cây roi dưới sàn và bình hoa bị vỡ. Họ Diệp hét lên, và hung thủ đã dùng một hung khí khá nặng đánh chết nạn nhân chỉ sau một cú. Xét theo hình dạng và đặc điểm của vết thương, ta đoán hung khí là một chiếc gậy to có đầu tròn. Đào Cam, lực đạo của cú đánh quả thực không nhỏ. Hung thủ chắc hẳn phải là một nam nhân vô cùng cường tráng. Hiện giờ ta chỉ mới biết có thế. Còn bây giờ chúng ta phải đi tìm đầu mối.” Quan án vẫy tay gọi người tỳ nữ già lại gần. Ông đi đến chỗ chiếc tràng kỷ và ngồi xuống mép ghế. Người tỳ nữ bước lại gần họ mà không mảy may nhìn đến xác chết. Bà ta đứng trước mặt quan án, khoanh hai tay lại. Nhìn gương mặt cáu kỉnh của bà ta, Địch Công nhã nhặn hỏi: “Ngươi tên là gì?” “Quế Hoa, thưa đại nhân”, bà ta trả lời cộc lốc. “Ngươi đã làm việc ở đây được bao lâu rồi, Quế Hoa?” “Cả cuộc đời mình, thưa đại nhân. Nô tỳ được sinh ra và lớn lên trong chính căn nhà này.” “Ta hiểu rồi. Thần trí của phu nhân nhà ngươi đã hoàn toàn mất hết minh mẫn rồi đúng không?” “Bẩm đại nhân, không phải vậy. Chỉ khi nào tâm trạng bất an, phu nhân mới lẫn lộn giữa quá khứ và hiện tại.” Bà ta quăng một cái nhìn khinh miệt về phía xác chết trên ghế và nói với chất giọng chói tai, “Tất cả là do lão gia. Lão ta là một tên ác quỷ xấu xa tàn bạo, xứng đáng với cái chết thế này. Quả là đáng tiếc khi lão ta bị giết chóng vánh như thế. Lẽ ra lão ta phải chịu nhiều đau đớn hơn nữa, vì lão ta đã gây ra không biết bao đớn đau cho người khác, đặc biệt là phu nhân đáng thương.” “Diệp phu nhân mô tả phu quân là người tốt, là bậc đại trượng phu”, quan án lạnh lùng đáp. “Chính tình cảm mà phu nhân dành cho phu quân của mình đã làm thần trí bà ấy minh mẫn lại trong giây lát. Bà ấy đã quỳ xuống trước mặt ta, cầu xin ta tìm ra hung thủ đã giết Diệp tiên sinh và đưa hắn ta ra trước vương pháp.” Quế Hoa nhún đôi vai rộng gầy gò. “Đại nhân, lão gia là một kẻ vô cùng dâm đãng. Hầu như ngày nào cũng vậy, lão ta luôn mời những ả tiện nữ lẳng lơ nhất đến đây. Để làm gì ư? Lão ta muốn xem chúng trình diễn những điệu múa dơ bẩn trên cái bục kia, nếu có thể gọi mấy động tác uốn éo bẩn thỉu đó là múa.” Thấy Địch Công sắp nổi giận, bà ta nhanh chóng nói tiếp, “Lão ta mắc đủ chứng bệnh quái ác từ những ả đó, mà lão ta bị vậy âu cũng đáng. Nhưng lão ta lại còn lây bệnh sang cho phu nhân đáng thương, hủy hoại sức khỏe của phu nhân. Nhưng lão ta chẳng mảy may quan tâm. Không hề!” “Xác của lão gia nhà ngươi vẫn chưa lạnh đâu, tiện tỳ kia!” Địch Công bực tức. “Ngươi không nghĩ là vong linh ông ta vẫn còn ở đây và nghe những lời lẽ tồi tệ mà ngươi đang nói sao?” “Nô tỳ không sợ ma quỷ. Căn nhà cũ kĩ và đáng sợ này vốn đầy rẫy ma quỷ rồi. Ngài có thể nghe được tiếng khóc ai oán của họ trong những đêm giông bão. Tiếng khóc của những hồn ma cả nam lẫn nữ bị tra tấn ngay trong hàng hiên này, hoặc bị bỏ đói cho đến chết trong ngục tối.” “Chuyện ngươi đang nói là của một trăm năm về trước rồi”, quan án nói với thái độ khinh miệt. “Lão ta cũng độc ác như phụ thân và tổ phụ của mình vậy. Bọn họ đều là cầm thú. Nhưng nô tỳ không cần phải quay lại quá khứ mới chứng minh được điều đó. Không đâu! Sáu năm về trước, lão gia đã đánh chết một tỳ nữ tại đây, ngay trên chiếc ghế mà đại nhân đang ngồi.” “Ngươi có tìm thấy ghi chép gì về vụ việc đó không?” Địch Công gắt gỏng hỏi Đào Cam. “Bẩm đại nhân, không ạ. Chỉ có duy nhất một lời cáo buộc Diệp tiên sinh cho vay nặng lãi và ông ta đã được tha bổng.” “Tiện tỳ kia, ngươi đang bịa ra hàng tá những lời dối trá!” Quan án quát. “Đại nhân, đó hoàn toàn là sự thật. Nếu đại nhân cho người đào bụi trúc ở góc phía Nam sân sau, ngài sẽ thấy hài cốt của nữ nhân ấy vẫn còn ở đó. Nhưng trong nhà này ai dám cả gan đi tố cáo lão gia chứ? Phụ mẫu của chúng nô tỳ đã phục vụ từ thời cha thời ông của lão ta. Lão ta là một kẻ độc ác nhưng vẫn là chủ nhân của chúng nô tỳ. Nhưng ông trời thì có mắt.” Địch Công trầm tư nhìn Quế Hoa. Sau một hồi, ông chỉ tay vào cây roi trên sàn và hỏi tiếp: “Ngươi đã từng nhìn thấy thứ đó bao giờ chưa?” Bà ta khịt mũi. “Tất nhiên là rồi ạ! Đó là một trong những món đồ yêu thích của lão gia.” “Vậy còn Hà Bằng tiên sinh thì sao?” Quan án hỏi tiếp. “Ông ta có phải là người cùng một giuộc với lão gia nhà ngươi không?” Khuôn mặt vô cảm của Quế Hoa bất chợt tràn đầy cảm xúc. “Đại nhân không được phỉ báng một người đáng kính như Hà lão gia!” Bà ta la lên. “Ngài ấy là người tốt bụng và ngay thẳng. Giống như tổ tiên dòng tộc của mình, ngài ấy cũng là một thợ săn cừ khôi và là một chiến binh thiện nghệ. Vậy mà bây giờ ngài ấy thậm chí còn không được phép động đến đao kiếm! Phán quyết ngớ ngẩn đó thực sự là một sự xúc phạm với Hà lão gia.” “Ông ta có thể xin nhập ngũ vào quân đội của triều đình.” Địch Công nói cộc lốc. “Nhập ngũ ư? Đại nhân, xưa nay gia chủ nào của Hà gia cũng đều là Tướng.” Quan án lấy chiếc quạt trong ống tay áo ra. Bầu không khí trong hàng hiên ngày càng ngột ngạt. Ông quạt một lúc rồi đột nhiên hỏi: “Ai đã giết lão gia nhà ngươi?” “Một người mới đến”, bà ta đáp ngay. “Không một ai thuộc triều đại trước dám chống trả lại con ác quỷ kia. Nhất định là một gã tú ông mà lão gia cho vào nhà tối nay.” “Gần đây lão gia nhà ngươi có nhiều người đến viếng thăm không?” “Dạ không, thưa đại nhân. Trước khi bị bệnh, gần như đêm nào lão gia cũng cho gọi những ả kỹ nữ đê tiện và đám tú ông tới. Nhưng sau khi có vài nô bộc chết bệnh, đám kỹ nữ kia không muốn lui tới nữa. Thi thoảng Mai lão gia và Hà lão gia có ghé lại đây. Hà lão gia sống ở ngay phía đối diện, bên kia con kênh.” Địch Công gấp quạt lại. Ông hỏi, “Nhân tiện, ai là đại phu đang theo dõi bệnh tình của phu nhân nhà ngươi?” “Là Lư Hồng Cơ, thưa đại nhân. Người ta nói hắn là một đại phu giỏi. Nhưng hắn cũng là một kẻ hoang dâm như lão gia nhà nô tỳ. Hắn thường tham dự những bữa tiệc ở hàng hiên này. Nhưng hắn không nán lại đến hết tiệc. Ai cũng biết họ Lư không thể ân ái với nữ nhân.” “Ngươi nên cẩn thận với miệng lưỡi độc địa của mình!” Quan án tức giận nói. “Vương pháp có xử phạt tội phỉ báng đấy. Ra ngoài và bảo nhi tử ngươi mang một cây nến mới vào đây.” “Dạ vâng, thưa đại nhân.” Bà ta bước ra cửa với dáng đi kềnh càng. Địch Công trầm tư vuốt ve bộ ria mép. “Thật đáng kinh ngạc!” Ông lẩm bẩm. “Kì lạ làm sao khi bà ta vừa căm ghét lại vừa trung thành mù quáng với chủ nhân của mình.” “Bẩm đại nhân, đây là chuyện thường thấy trong thời kỳ biến động trăm năm trước.” Đào Cam phát biểu. “Khi đó, lãnh thổ nước ta bị chia cắt thành nhiều vùng tự trị, không có vương quyền chính thống, cũng không tồn tại vương pháp. Vì kế sinh nhai, vì chính mạng sống của mình, người dân phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ nhân của mình. Có một chủ nhân độc ác vẫn tốt hơn không có ai, vì khi đó họ sẽ trở thành nô lệ cho quân xâm lược, hoặc bị chết đói.” Quan án gật gù rồi giận dữ hỏi: “Nếu họ Diệp thật sự là một kẻ biến thái đồi bại, tại sao Mai tiên sinh không nói gì với ta về những hành vi của ông ta?” Đào Cam nhún vai. “Họ Mai là người có tư tưởng tiến bộ, nhưng ông ta cũng sinh ra và lớn lên ở tiền triều, thưa đại nhân.” “Và họ Diệp nhất định sẽ giữ kín những việc làm xấu xa trong bốn bức tường này. Dù sao đi nữa, tỳ nữ già đó thà chết chứ không hé lộ manh mối gì về hung thủ giết lão gia của mình. Nhưng nhi tử bà ta có thể sẽ cho chúng ta biết nhiều điều hơn. Vì còn nhỏ nên có lẽ nó sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những quy tắc phong kiến cổ hủ đó hơn. Ngươi tìm được gì ở đó thế?” Đào Cam cúi xuống và nhặt lên một vật nhỏ từ dưới sàn, cạnh chân chiếc tràng kỷ. Y đặt vật đó vào lòng bàn tay và đưa cho quan án xem. Đó là một chiếc khuyên tai bạc tầm thường có đính một viên đá đỏ rẻ tiền. Quan án dùng ngón trỏ sờ vào món trang sức. “Ở chỗ móc có một vệt máu chưa khô hẳn. Đêm nay đã có một nữ nhân tới đây, Đào Cam!” Tiểu tử gác cổng bước vào với một ngọn nến đang cháy trên tay. Trong lúc đặt ngọn nến lên bàn, nó cẩn thận né tránh nhìn vào xác chết. “Lại đây!” Địch Công ra lệnh. “Ta muốn nói chuyện với ngươi.” Khuôn mặt rộng và dẹt của tiểu tử bỗng tái mét. Mồ hôi tuôn ra trên vầng trán thấp của nó. Quan án đi đến kết luận rằng ấn tượng đầu tiên của ông là đúng - cậu bé thực sự đang rất sợ hãi. Ông hỏi gắt: “Đêm nay nữ nhân nào đã tới đây?” Tiểu tử giật bắn người. “Cô nương ấy… cô nương ấy không thể nào làm ra chuyện này, thưa đại nhân!” Nó lắp bắp. “Cô nương ấy còn quá trẻ…” “Ta không nghĩ nàng ta đã giết lão gia nhà ngươi”, Địch Công đáp, giọng ông bây giờ đã dịu lại. “Nhưng nàng ta có thể là một nhân chứng quan trọng. Nên tốt nhất là ngươi hãy kể cho ta những gì ngươi biết. Làm vậy cũng tốt cho nàng ta nữa.” Tiểu tử ngập ngừng một lúc rồi mới trả lời: “Nàng ấy đến đây lần đầu vào mười ngày trước, thưa đại nhân, sau khi lão gia cho toàn bộ gia nhân đi tị nạn. Ông ấy không muốn mẫu tử tiểu nhân nhìn thấy họ, ông ấy…” “Ngươi nói là ‘họ’ ư?” Quan án ngắt lời. “Vâng, thưa đại nhân. Lần nào cô nương ấy cũng đi cùng một nam nhân. Tiểu nhân… tiểu nhân đã rình trộm họ một lần. Bởi vì tiểu nhân đã nghe được giọng hát của nàng ấy, trong chính hàng hiên này… Nàng ấy có một giọng hát thật hay và ngọt ngào! Tiểu nhân rất muốn nhìn xem trông nàng ấy ra sao, nên…” “Vậy còn nam nhân kia thì sao?” Địch Công nôn nóng hỏi. Tiểu tử ngập ngừng. Nó dùng tay áo lau mồ hôi trên mặt và bắt đầu kể một cách chậm rãi: “Dạ bẩm, tiểu nhân không thấy rõ mặt hắn do đèn trong sân khá tối. Hắn là một tú ông hoặc là… côn đồ, tiểu nhân nghĩ vậy, vì hắn rất vạm vỡ, thân hình vô cùng to lớn. Hắn còn mang theo một chiếc trống cầm tay. Nhưng tiểu nhân đã nhìn rõ mặt của cô nương kia. Đó là một thiếu nữ trẻ có gương mặt xinh xắn và ngây thơ. Vậy mà nàng ấy lại bị ép phải nhảy múa cho lão gia xem, vì tiểu nhân nghe thấy tiếng trống…” “Vậy tối nay nàng ta và gã nam nhân kia có tới không?” “Tiểu nhân không dám chắc, thưa đại nhân. Tiểu nhân đã nói với ngài rồi, tối nay tiểu nhân ở trong bếp giúp mẫu thân dọn dẹp.” “Được rồi, ngươi có thể lui.” Ngay sau khi tiểu tử rời khỏi, Địch Công nói với Đào Cam: “Hai kẻ đó quả thực đã đến đây vào tối nay, bằng chứng chính là chiếc khuyên tai kia. Tức là người tỳ nữ già Quế Hoa đã đúng khi nói rằng hung thủ giết Diệp Khuê Lâm có thể là một tú ông. Chiếc roi cho ta thấy họ Diệp muốn đánh cô nương kia, nhưng gã tú ông không đồng ý. Người ta thường căm ghét hạng người như hắn, Đào Cam à, và nghề nghiệp của họ cũng không mấy đứng đắn. Nhưng họ cũng là con người, và họ thường có tình cảm tốt với những nữ nhân của mình. Có lẽ nam nhân đó đã nổi trận lôi đình và giằng cây roi ra khỏi tay họ Diệp rồi đập vào đầu ông ta bằng cây dùi sắt mà những kẻ như hắn thường mang theo bên người.” Đào Cam gật gù. “Một gã to xác chuyên đi dọa người rất phù hợp với những gì ta thấy ở hiện trường. Điều đó cũng lý giải được việc họ Diệp không mời hắn ngồi dùng trà.” “Và cũng bởi hai người này đã từng tới đây”, Địch Công nói tiếp, “họ biết rằng mình có thể lẻn ra ngoài mà không bị ai phát giác khi đi qua cánh cửa nhỏ trước cổng, và cửa sẽ tự đóng vào khi họ rời khỏi. Để xác định xem kỹ nữ đó là ai không khó, Đào Cam. Nàng ta chắc hẳn thuộc một kỹ viện nào đó trong cựu thành.” Quan án ngừng lại. Rồi ông nghi hoặc lắc đầu và tiếp tục, “Thật kì lạ, ta đã có linh cảm rằng vụ án này sẽ không dễ dàng phá giải. Nhưng giờ thì nó lại trở thành một vụ án cực kì đơn giản.” Ông đứng dậy và nói tiếp, “Được rồi, chúng ta hãy đi tìm thêm manh mối. Ngươi sẽ xem xét chỗ chiếc bàn, tràng kỷ và cái bục, còn ta sẽ kiểm tra những phần còn lại của hàng hiên.” Quan án bước tới chỗ mái cổng. Mùi nến đã cháy hết vẫn còn phảng phất trong không khí nóng bức, vì thế ông nâng chiếc rèm trúc chỗ cửa sổ bên trái lên và sợi dây gắn trên đầu cửa sổ để buộc nó lại. Đặt tay lên bệ cửa sổ rộng và rướn người ra ngoài, ông nhận thấy mái cổng này thực tế lại là một kiểu dương đài nhô ra phía con kênh và được những cây cột nhỏ và dài nổi lên từ làn nước đen kịt chống đỡ. Bên trái là một bức tường gạch cao, hơi nghiêng về phía con kênh với một tháp canh vuông vức ở cuối. Xa xa là bờ kênh thấp được bao phủ bởi những cây nhỏ và những cụm cây dày. Ở phía sau là nhịp cầu cao chính giữa cầu Bán Nguyệt. Bên phải là bức tường bao bọc bên ngoài dinh thự, ở cuối tường là một tháp canh hình vuông khác. Do con kênh bất chợt rẽ ở góc đó nên quan án không thể nhìn thấy được phần còn lại. Quan án lia mắt nhìn dãy nhà hai tầng nằm trong góc khuất ở bờ đối diện của con kênh. Đó là phủ của Hà Bằng, bằng hữu của họ Diệp. Nó được xây dựng theo phong cách trang nhã thường thấy của một căn biệt viện ở vùng quê, phần lầu trên có bờ mái cong vút nổi bật trên nền trời. Còn có một dương đài hẹp phía trên một hàng liễu với những nhánh dài rủ xuống dưới. Tất cả các ô cửa sổ đều tối đen. Quan án trước giờ chưa từng nhìn kĩ căn biệt viện nhà họ Hà mỗi lần đi ngang cầu Bán Nguyệt vì nó thường nằm khuất sau những hàng cây cao ở phía bên trái. Tuy vậy, ông vẫn cảm thấy những chi tiết này có vẻ rất quen thuộc. Mùi hôi thối của dòng nước đen và những cụm cây thối rữa khiến Địch Công phải lùi xa khỏi cửa sổ. Đào Cam lúc này đang cúi người xuống bàn để ghép các mảnh sứ lại với nhau. Người trợ thủ gầy gò ngẩng lên nhìn quan án và nói: “Thuộc hạ nghĩ Diệp Khuê Lâm đã cố gắng tự vệ, thưa đại nhân. Đây là những mảnh vỡ của bình hoa. Khi đã đặt hết mọi thứ về chỗ cũ thì ta có thể phần nào hiểu rõ sự tình, cũng may là chúng ta có một manh mối hữu ích - phần mứt gừng còn sót lại.” Khi quan án bước tới chiếc bàn Đào Cam nói tiếp, “Sau khi khách đến, Diệp Khuê Lâm đã ngồi xuống bàn ăn vài miếng mứt gừng. Có vết nước gừng trên tay phải của ông ta và một vết ố trên tay áo. Sau đó, họ Diệp đã cầm lấy cây roi, vì thuộc hạ thấy trên cán roi cũng có vết nước gừng. Hung thủ trở nên hung hãn và giằng lấy cây roi từ tay họ Diệp, như đại nhân đã suy đoán. Hoặc có lẽ họ Diệp đã làm rơi cây roi xuống sàn. Dù là thế nào đi nữa thì sau đó ông ta đã đi tìm một thứ vũ khí khác để tự vệ, do đó mới chộp lấy bình hoa. Thuộc hạ đã ghép những mảnh sứ vỡ lại với nhau, và đại nhân thấy đó, nó là một chiếc bình có phần cổ cao thon và phần thân lớn. Nhưng hung thủ đã ra tay trước khi ông ta có thể sử dụng chiếc bình, vì trên những mảnh vỡ này không có vết máu nào để lại. Chiếc bình rơi từ tay Diệp Khuê Lâm xuống và vỡ thành nhiều mảnh dưới sàn. Chúng ta có thể kết luận rằng ông ta đã chộp lấy chiếc bình sau khi làm rơi cây roi vì hai mảnh vỡ lớn nằm ở phía trên các sợi roi.” “Suy luận hay lắm!” Địch Công nói. “Nhưng làm sao ngươi biết họ Diệp đã dùng tay chộp lấy bình hoa? Chiếc bình cũng có thể bị xô đẩy và rơi từ trên bàn xuống trong lúc vật lộn mà.” “Đại nhân, ngài hãy nhìn mảnh vỡ này đi.” Đào Cam nhặt một mảnh vỡ lớn và đưa nó lại gần ngọn nến. Y dùng ngón tay trỏ khẳng khiu để chỉ vào một vết dinh dính màu nâu. “Miếng vỡ này thuộc phần cổ của chiếc bình hoa. Bẩm đại nhân, Diệp Khuê Lâm vớ lấy bình hoa này làm gì nếu không phải để tự vệ?” “Tốt lắm!” Quan án mỉm cười hài lòng. “À ra vậy, chính căn biệt viện nhà họ Hà ở phía đối diện khiến ta nhớ đến nó! Hoa văn cây liễu.” Ông chỉ tay về phía những mảnh sứ đã được Đào Cam ghép lại ở trên bàn. Đó là hình một biệt viện bên bờ sông, bao quanh là rặng liễu. Lầu trên của căn biệt viện có một dương đài hẹp. Chiếc bình là một món đồ cổ giá trị với hoa văn màu xanh được tô vẽ bằng những nét cọ tinh tế. “Ở đây đã có đầy đủ các mảnh vỡ rồi ạ”, Đào Cam nói. “Chúng ta có thể ghép lại thành một chiếc bình hoàn chỉnh. Thuộc hạ đã tìm kiếm dưới tràng kỷ và trên sàn nhà, thưa đại nhân. Nhưng không thấy manh mối nào khác.” “Ngươi và ta hãy cùng đi dọc hàng hiên để tìm kiếm xem sao. Sau đó chúng ta cần rời khỏi đây vì có rất nhiều việc khác cần làm. Hãy giao việc truy tìm ả kỹ nữ và gã tú ông lại cho Kinh triệu phủ. Được rồi, ngươi bắt đầu tìm kiếm ở chân những chiếc cột kia đi.” Địch Công bắt đầu tìm kiếm dưới sàn nhà bên dưới mái cổng. Đột nhiên, ông ngừng lại. Có một mảnh vải trắng nhàu nát ở trên bệ cây cột thứ ba. Ông ngồi xuống nhìn và hô to, “Đào Cam, mang nến lại đây!” Hai người cùng nhau nghiên cứu thứ vừa được phát hiện. Đó là một miếng vải hình vuông mỏng từ một chiếc khăn tay hoặc khăn quàng cổ cỡ lớn. Ở giữa miếng vải là một vệt đỏ. “Hung thủ đã dùng thứ này để lau hung khí, thưa đại nhân!” Đào Cam hớn hở nói. “Cũng có thể là lau tay mình.” Y lấy một tờ giấy dầu ra khỏi tay áo và nói, “Đại nhân, để thuộc hạ nhặt nó lên.” Đào Cam mang tấm vải đến chỗ chiếc bàn và cùng Địch Công quan sát nó một cách tỉ mỉ. “Không có bất kì dấu vết nào cả!” Đào Cam thất vọng nói. Địch Công sờ bốn góc miếng vải bằng ngón tay trỏ. “Lạ thật”, ông nói chậm rãi. “Vết máu ở giữa tấm vải đã gần khô, nhưng bốn góc vẫn còn ẩm ướt. Có nước. Nhìn này! Có một ngọn cỏ nước dính vào đường may. Gói tấm vải này lại và mang đi, Đào Cam. Đây có thể là một bằng chứng quan trọng!” Đột nhiên, quan án giơ tay lên và nhìn thật kĩ hai bàn tay. “Thật quá đỗi lạ lùng!” Ông hô lên. “Lúc mới rồi, khi ta mở tấm rèm trúc lên, ta để ý thấy rằng các bệ cửa sổ chỗ mái cổng đều phủ đầy bụi. Sau đó, khi ta nhướn người ra ngoài cửa sổ bên trái, ta đã đặt tay lên bệ. Nhưng ngón tay ta lại không dính chút bụi nào!” Quan án nhanh chóng bước về phía khung cửa sổ bên trái. Ông ra hiệu cho Đào Cam cầm nến lại gần và cúi người xuống nhìn bề mặt sơn son của bệ cửa sổ rộng. “Nó đã được lau sạch”, ông nói, “còn phần bệ của ba cửa sổ còn lại thì bám đầy bụi.” Ông quay lại khung cửa sổ đầu tiên và nhướn người ra ngoài xa đến nỗi Đào Cam lo lắng nắm lấy tay áo ông. “Nhìn này!” Địch Công hô to. “Có một gờ hẹp chạy dọc theo dương đài ngay phía trên hàng cột trụ. Ngươi có nhìn thấy những thân cây màu xanh đang bám vào mép gờ không? Là cỏ nước đấy, Đào Cam.” Quan án đứng thẳng dậy và lẩm bẩm, “Nghĩa là có ai đó đã bơi qua con kênh và trèo lên một trong số các cây cột để vào trong này.” Ông giận dữ phất tay áo và đi về phía chiếc bàn. Ông kéo chiếc ghế thứ hai ra và ngồi phịch xuống. Vừa khoanh tay trước ngực, ông vừa nhìn lên và nói to, “Dự cảm của ta hóa ra vẫn đúng, Đào Cam à. Vụ án này không hề đơn giản một chút nào.” HỒI 10 Ghé Hà phủ, Địch Công hỏi chuyện Kể chuyện cũ, Hà Bằng thở than Địch Công đứng bên lan can nhịp cầu chính giữa cầu Bán Nguyệt. Ông đặt khuỷu tay lên thành đá thô cứng rồi quan sát mặt nước tối om của con kênh bên dưới, chỉ có ánh sáng phát ra từ bốn chiếc đèn giấy dầu lớn treo lơ lửng dưới nhịp cầu. Đào Cam đứng bên cạnh ông, dùng ngón trỏ hết xoắn ngang rồi lại xoắn dọc mấy sợi lông mọc trên má. Họ đang chờ đợi. Quan án đã ra lệnh hai nha dịch mang kiệu đến chở thi thể của Diệp Khuê Lâm quấn trong chiếu tranh về nha môn để Ngỗ tác khám nghiệm. Hai nha dịch nữa được phái đi lấy kiệu để đưa ông và Đào Cam về phủ. “Quang cảnh thật khác biệt!” Địch Công lên tiếng. “Bình thường nơi này là trung tâm giao thương của kinh thành, vốn tấp nập và sôi động đến chập tối. Hai bên cầu vốn đông đúc những người bán hàng xếp hàng dài cùng các quầy hàng gắn đèn sặc sỡ. Trên cầu lúc nào cũng có vô số người vội vã qua lại, dưới cầu là tàu thuyền lớn nhỏ gắn đèn màu lưu thông. Giờ đây khung cảnh lại tan hoang chết chóc như thế này. Ngươi có ngửi thấy mùi thối không? Nước kênh giờ đã ứ đọng. Nhìn những miếng gỗ đang trôi dạt kia kìa, hãy nhìn xem chúng đang trôi chậm đến thế nào!” “Có lẽ dưới đó đầy muỗi”, Đào Cam nhận xét, “đứng trên đây cũng có thể nghe thấy tiếng vo ve của chúng. Nếu…” Địch Công bỗng giơ tay lên. “Yên nào! Ở hạ thành hình như có biến?” Tiếng muỗi vo ve vừa rồi bỗng biến thành tiếng gầm rú mơ hồ. Ở những ngôi nhà xa xa hiện lên một tia sáng đỏ chói. “Kho thóc nằm ở hướng đó”, Đào Cam lo lắng nói, “có lẽ bá tánh đang xông vào đó.” ẳ Họ căng thẳng dỏng tai nghe một hồi lâu. Tiếng gào thét dần lắng xuống rồi lại rộ lên. Đột nhiên, tiếng kèn chói tai của binh sĩ vang lên khắp chốn kinh thành tĩnh lặng. “Các sai nha đã đến rồi!” Địch Công nhẹ nhõm nói. Ánh sáng đỏ lớn dần rồi bùng lên thành ngọn lửa. “Hy vọng họ có thể dẹp loạn mà không để ai phải đổ máu”, ông lẩm bẩm. Ông nhìn khắp cây cầu nhưng không thấy bóng dáng bất kì ai. Cửa sổ dinh thự nhà họ Hà vẫn tối mịt, những ngôi nhà nhỏ nằm dọc thượng nguồn con sông dưới cầu cũng chẳng hề có động tĩnh gì. Trong vòng ba tuần kinh khủng vừa rồi, người dân kinh thành vốn tò mò về mọi thứ bất thường xảy ra trên phố nay đã học được cách chỉ chuyên tâm lo việc của mình. Ánh sáng đỏ bắt đầu nhạt dần, tiếng gầm thét đằng xa cũng lắng xuống. Mọi thứ lại rơi vào trạng thái tĩnh lặng. Bầu không khí yên tĩnh này thật nặng nề, Địch Công thoáng nghĩ. Nếu bá tánh bắt đầu tấn công kho thóc… “Sự hiện diện của người thứ ba tại hiện trường vụ án đã làm mọi chuyện phức tạp hơn”, Đào Cam nói. “Người thứ ba? À phải, ý ngươi là kẻ đã bơi qua sông.” Quan án tập trung suy nghĩ về vụ án mạng, ông cảm thấy vui mừng vì Đào Cam đã chuyển đề tài. “Bơi qua sông thì cũng dễ thôi. Nhưng để trèo lên cột nhà rồi leo vào gờ dương đài thì hắn phải rất cường tráng. Chắc hẳn hắn có quen biết Diệp Khuê Lâm, nếu không thì ông ta đã kêu cứu khi nhìn thấy một kẻ ướt như chuột lột bước vào qua lối cửa sổ rồi. Ông ta có cho ả kỹ nữ và gã tú ông lui ra khi người thứ ba đó xuất hiện không? Hay hắn là đồng đảng của hai kẻ đó? Và họ Diệp dùng bình hoa để tự vệ trước ai? Nếu giả định rằng…” Địch Công đột nhiên im bặt. Ông nhướn đôi lông mày rậm rồi nhìn chằm chằm vào dinh thự tối tăm đằng xa. “Một thợ săn cừ khôi, Quế Hoa đã nói thế… Liệu có thể không?” “Cái gì có thể cơ, thưa đại nhân?” Đào Cam háo hức hỏi. “Chà”, ông từ tốn nói, “ta chợt nghĩ có lẽ họ Diệp không dùng bình hoa để tự vệ. Theo lời của Quế Hoa thì ông ta là một lão già ác độc và xấu xa. Có khi nào ông ta cố tình đập vỡ bình hoa để khiến chúng ta phải chú ý đến hoa văn cây liễu không? Làm vậy sẽ để lại manh mối ám chỉ vị bằng hữu họ Hà của ông ta sống trong một dinh thự rất giống trong họa tiết đó ở bên kia con kênh.” Đào Cam trầm ngâm vuốt râu. “Cũng không hẳn là không có khả năng”, y đồng tình. “Mặt khác, theo tìm hiểu của thuộc hạ thì lời khai của tỳ nữ Quế Hoa về việc những người thuộc tiền triều đã hình thành một cộng đồng nhỏ khăng khít, và không ai trong số họ dám động thủ với chủ nhân của mình là Diệp Khuê Lâm. Tuy nhiên, Hà Bằng có động cơ rất lớn…” Địch Công im lặng. Ông chậm rãi vuốt râu, mắt vẫn dán chặt vào dinh thự đằng xa. Cuối cùng ông nói: “Đào Cam, sẵn tiện đã đến đây rồi thì chúng ta nên bất ngờ sang đó thăm Hà phủ. Ta thừa nhận rằng manh mối về hoa văn cây liễu còn quá mơ hồ. Nhưng ít nhất họ Hà có thể cung cấp thêm thông tin về họ Diệp để đối chiếu với lời khai của Quế Hoa. Đi thôi.” Họ bước xuống cầu. Sau khi men theo đường cái được một đoạn, họ nhìn thấy bên phải có một chiếc cổng trúc giản dị nằm giữa những tán cây cao. Trên cổng treo một chiếc bảng gỗ khắc hai chữ “Liễu phủ”. Họ sải bước trên con đường quanh co dẫn đến cổng phủ. Trước mặt họ là cánh cửa sơn son trang trí hình lá liễu thếp vàng. Đào Cam dùng khớp tay gõ thật mạnh lên cửa. Nhưng chờ mãi vẫn không thấy bên trong có động tĩnh gì, y bèn nhặt lấy viên đá khua lạch cạch lên phiến gỗ. “Bẩm đại nhân, chắc chúng ta sẽ phải đợi lâu đấy”, y bực mình nói. “Phải đánh thức người gác cổng dậy trước đã.” Y chưa kịp nói hết lời thì cổng đã mở ra. Một nam nhân béo lùn, vai rộng, cánh tay dài như khỉ nghi hoặc dò xét khắp người họ. Trên mái đầu hoa râm đội một chiếc mũ tròn. Khi giơ nến lên, ống tay áo rộng rơi xuống để lộ bắp tay vạm vỡ đầy lông. “Hà tiên sinh có phiền khi phải tiếp khách không?” Quan án ôn tồn hỏi. Nam nhân béo lùn rọi nến vào khuôn mặt Địch Công. “Ngươi là ai?” Giọng lão trầm đục. “Ta là Địch Nhân Kiệt, Đại lý tự khanh.” “Ôi trời ơi! Đại nhân vạn lần thứ lỗi! Đáng lẽ ta nên nhận ra ngài mới phải. Ta chỉ mới nhìn thấy ngài một lần khi mặc quan phục. Lúc ấy ta đứng rất xa. Làm sao mà…” “Ta đang đi dạo cùng Trưởng sử Đào Cam. Chúng ta có thể ghé vào dùng một tách trà không?” “Tất nhiên rồi, thưa đại nhân! Quả là một niềm vinh dự lớn lao! Xin ngài thứ lỗi vì ta ăn mặc như thế này, trong dinh phủ chỉ còn mỗi mình ta. Ta đã cho toàn bộ gia nhân lên núi. Giữ lại bọn chúng chỉ tổ chuốc thêm phiền toái. Bên cạnh ta chỉ còn một cặp phu thê nô bộc già, nhưng chiều nay họ đã rời đi để chôn cất nhi tử. Họ hứa tối nay sẽ trở lại. Vậy mà đến giờ vẫn chưa thấy tăm hơi!” Địch Công không biết lối ăn nói huyên thuyên này của lão là bản tính hay là do lão đang hồi hộp. Thật tiếc là ông chưa từng gặp lão bao giờ. Hay là ông đã từng gặp rồi? Khuôn mặt của lão trông khá quen thuộc. Hà Bằng dẫn họ đi ngang qua một khu vườn đầy hoa dại đã lâu không được chăm sóc, vừa đi vừa huyên thuyên chuyện trong nhà. Lão dẫn họ vào sảnh tiếp khách trang trí rất sơ sài được thắp sáng bằng một ngọn đèn dầu nhỏ. Không khí vô cùng ngột ngạt và ẩm mốc. Lão vừa định dọn dẹp chiếc bàn ở phía sau thì Địch Công vội vàng nói: “Chúng ta có thể lên lầu không? Ta muốn ngồi trong một căn phòng có tầm nhìn ra cầu Bán Nguyệt. Ta đã lệnh cho kiệu phu đón ta ở đó.” “Tất nhiên là được! Mời ngài đến thư phòng của ta. Vừa nãy khi ngài gọi cửa thì ta đang ngủ trong ấy. Ấm trà cũng ở trong đó. Dương đài ngoài thư phòng rất đẹp.” Trong lúc dẫn họ bước lên những bậc thang gỗ dốc, lão ngoái đầu lại nói tiếp, “Khi nãy ta bị tiếng kèn đánh thức. Hình như âm thanh xuất phát từ kho thóc. Trong thời buổi như hiện nay thì bọn dân đen thường đến đó phá phách. Mọi chuyện không quá nghiêm trọng chứ ạ?” “Không gian đã yên tĩnh trở lại”, Địch Công đáp, “nên ta đoán tình hình đã ổn rồi.” Sau khi Hà Bằng dẫn khách khứa vào một căn phòng vuông nhỏ, lão vội vã đẩy chiếc cửa kéo dán giấy để lộ ra một dương đài hẹp mà quan án đã nhìn thấy từ mái cổng của Diệp phủ ở phía đối diện. Hà Bằng dùng nến thắp sáng mấy đài nến lớn bằng đồng thau cổ trên chiếc bàn kê sát tường rồi mời hai vị khách ngồi xuống hai chiếc ghế bành tre mộc mạc cạnh chiếc bàn ở chính giữa phòng. Lão rót trà rồi ngồi xuống chiếc ghế gỗ cứng, lưng hướng về phía cửa kéo. Trong lúc thưởng trà, Địch Công nhận thấy một bầu không khí dễ chịu và ấm áp hơi người trong căn phòng được bài trí sơ sài này. Chiếc tràng kỷ kê sát tường được phủ một lớp da thú, còn chiếc tủ đựng y phục lớn bằng gỗ mun đã mờ đi vì năm tháng là một món đồ cổ giá trị. Trên bức tường phía sau có treo một bức họa rất đẹp, vẽ hình một chiến binh mặc giáp cổ đại đang cưỡi một con ngựa mang phục sức rất tinh xảo. Bên cạnh bức họa là những chiếc cung dài, ống tên, giáo mác và yên cương bằng da thuộc được treo bằng móc sắt trên bức tường thạch cao. �� Địch Công dùng trà ở Liễu phủ Hà Bằng nhìn theo ánh mắt của Địch Công. “Vâng, săn bắn là sở thích duy nhất của ta”, Hà Bằng nói. “Cao tổ phụ của ta từng sử dụng dinh thự này làm địa điểm săn bắn. Vào thời điểm đó, kinh thành đông đúc này vẫn còn là một vùng đồng quê.” “Ta nghe nói ngài ấy là một chiến binh vĩ đại”, quan án nói. Nụ cười hài lòng bừng lên trên khuôn mặt rộng của Hà Bằng. “Quả đúng là vậy, thưa đại nhân. Người vừa là một kỵ binh tài ba, vừa là một vị tướng tài. Người cùng với tổ tiên của họ Diệp và họ Mai là những người duy trì hòa bình ở vùng đất này trong thời buổi loạn lạc giữa giới vương tôn và lãnh chúa phong kiến. Và rồi thời thế cũng thay đổi! Nhà họ Diệp chiếm hữu đất đai, cao tổ phụ ta thống lĩnh quân đội, còn nhà họ Mai thì kiếm được nhiều của cải. Khi Lý Tướng quân, à không, nên nói là Khai quốc Hoàng đế mới phải, khi ngài thống nhất đất nước, ba người họ đã ngồi lại thương thảo. Trong biên niên sử của ba gia tộc đều có ghi chép lại cuộc họp lịch sử này. Cao tổ phụ đã nói với họ, ‘Hãy chấm dứt tất cả, chúng ta không cần phải chịu thiệt thòi nữa. Diệp huynh chuyển sang nơi khác làm quan, ta sẽ cùng thuộc hạ gia nhập quân đội triều đình, còn Mai huynh cứ ở đây mà thu tiền cho thuê đất.’ Cao tổ phụ thật cơ trí! Nhưng cố Hầu gia thì lại quá ngoan cố, một mực không chịu nghe theo. ‘Chúng ta nên ẩn thân một thời gian’, ông ấy nói. ‘Có lẽ sau này sẽ có thời cơ tái xuất.’ Đúng là mơ hão! Nơi này trở thành kinh đô, sau đó hàng nghìn người từ nơi khác đến, quan lớn quan nhỏ, quân đội, sai nha. Giờ đây, để kiếm được một người biết đến dòng họ Diệp là việc khó như lên trời!” Lão buồn bã lắc cái đầu lớn. “Còn gia tộc của ông thì sao?” Địch Công hỏi. “Gia tộc của ta? Ôi chà, họ Hà ta dần dần bán hết ruộng đất. Bây giờ ta chỉ còn mỗi dinh thự này, nhưng nó cũng bị đem thế chấp hết rồi! Mặc dù vậy, dinh thự vẫn sẽ được giữ cho đến hết thời của ta. Ta không có thê tử, cũng không có nhi tử, ta có thể quản lý mọi chuyện đâu vào đó. Thi thoảng ra ngoài săn bắn rồi sang nhà lão Diệp uống chút trà rồi trò chuyện. Dĩ nhiên là lão Diệp cũng đã mất hết đất đai, nhưng lão ta vẫn còn rất giàu có. Lão ta phóng đãng lắm! Lúc nào cũng thích có vài nữ nhân xinh đẹp vây quanh, và về việc đó thì ta không có gì phàn nàn.” “Đúng là thế. Hình như Mai gia là gia tộc duy nhất thành công trong việc bảo toàn tài sản trước kia.” “Về khoản kiếm tiền thì họ Mai là số một”, Hà Bằng cay đắng nói. “Họ xu nịnh quan trên, rồi kết giao với các đại thương buôn đến từ miền Nam. Đó là cách để làm giàu mà. Nhưng rõ ràng là cách này không thể giúp ông ta không bị ngã cầu thang và gãy cổ chết!” “Cái chết của Mai tiên sinh là một mất mát lớn”, Địch Công lãnh đạm nói. “Ông vừa nhắc đến thói tiệc tùng của Diệp Khuê Lâm. Ông có biết ả kỹ nữ trẻ mà dạo gần đây ông ta thường mời đến biểu diễn không?” Hà Bằng bỗng sầm mặt lại. “Ngài đang nhắc đến San Hô đúng không? Vậy là tin tức đã lan rộng rồi. Đúng là ta đã từng thấy ả ở đó một hai lần. Vũ nghệ rất thạo. Ca hát cũng giỏi nữa.” Lão dường như không muốn nói thêm về chủ đề này. Địch Công hỏi tiếp: “Nàng ta thuộc kỹ viện nào?” “Lão Diệp lúc nào cũng giữ bí mật, đúng là một kẻ ranh mãnh! Lão ta không bao giờ để ta nói chuyện riêng với ả hay tú ông của ả.” “Ý ông là tên to con thường đi cùng ả?” “Tên to con? Ta chẳng mấy khi để mắt đến hắn, nhưng hắn không hề to con đâu. Hắn đã già rồi, vai hơi cao. Nhưng hắn chơi trống rất cừ.” Địch Công uống cạn tách trà. “Tối nay bên Diệp phủ có chút biến cố”, ông thong thả nói. “Ông có thấy gì không? Từ dương đài này ông có thể nhìn thấy hàng hiên của Diệp phủ mà.” Hà Bằng lắc đầu. “Ta nằm ngủ trên tràng kỷ đằng kia. Khi ta bị tiếng kèn làm thức giấc thì bên đó vẫn tối om.” “Ả kỹ nữ San Hô đã ở cùng với Diệp Khuê Lâm. Đã có một việc không hay xảy ra.” Hà Bằng lập tức ngồi bật dậy. Lão đặt hai bàn tay lớn lên đầu gối và hỏi, “Việc không hay? Là việc không hay gì?” “Diệp Khuê Lâm đã bị sát hại.” Hà Bằng nửa ngồi nửa đứng trên ghế. “Diệp Hầu gia đã chết!” Lão thét lên. Khi thấy Địch Công gật đầu, lão lại ngồi xuống. “Trời ơi, chết rồi sao!” Lão lẩm bẩm. Đột nhiên, lão lia mắt nhìn Địch Công rồi căng thẳng hỏi, “Lão ấy có bị mất một con mắt không?” Địch Công nhướn mày. Ông cân nhắc câu hỏi một lúc rồi khẽ đáp: “Có thể nói là thế. Là mắt bên trái.” “Trời ơi!” Khuôn mặt rám nắng của Hà Bằng bỗng chốc xanh xao, cả người lão chùng xuống hẳn. “Trời ơi!” Lão lặp lại. Khi thấy Địch Công và Đào Cam nhìn mình chằm chằm, lão gượng cười rồi nói, “Đáng lẽ ta không nên để tâm đến bài vè vớ vẩn đó. Thủ cấp của ta vẫn còn yên vị trên vai cơ mà!” Lão dùng tay vuốt khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi. Địch Công nhìn lão một lúc, trầm ngâm vuốt râu. Hà Bằng giờ đã thay đổi. “Hà tiên sinh, mấy bài vè họ hát trên phố thường có nhiều ẩn ý. Ông biết ai có động cơ muốn mưu sát Diệp Khuê Lâm không?” “Mưu sát lão Diệp?” Hà Bằng lặp lại một cách máy móc. “Thật ra thì lão Diệp thường cho người khác vay tiền. Nếu kẻ vay tiền không trả nợ đúng thời hạn thì mọi chuyện sẽ khá căng thẳng. Nhưng nếu ép người quá đáng thì…” Lão nhún vai. Địch Công chợt nhận ra Hà Bằng đột nhiên không còn huyên thuyên như trước nữa. Ông lấy chiếc khuyên tai từ tay áo ra, đặt nó trước mặt lão rồi hỏi, “Ông có nhận ra món trang sức này không?” “Tất nhiên là có. Khuyên tai này là của San Hô. Có lẽ nó phù hợp với tên gọi của ả.” Lão vuốt râu rồi nói tiếp, “Ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu ả có dính líu đến vụ án này. Ả có vẻ là một thiếu nữ trẻ ngây thơ, và nghe đồn là vẫn còn trinh trắng. Ả tự gọi mình là kỹ nữ tập sự. Tập sự cái quái Ả ẳ gì! Ả chẳng phải học thêm gì nữa! Điệu bộ bên ngoài thì trong sáng ngây thơ! Nhưng bên trong thì thối nát!” Lão lại vuốt mặt, mồ hôi túa ra. “Cô ả ngây thơ đó lõa lồ nhảy múa trong hàng hiên mà không hề ngượng ngùng. Và trong lúc biểu diễn tuyệt kỹ, ả còn đặc biệt nhìn ta, cứ như ả chỉ nhảy để mình ta xem vậy. Sau lưng lão Diệp, ả cứ lén nhìn ta. Gã tú ông từng truyền lời của ả với ta, nói rằng lão Diệp đang đe dọa ả và hỏi ta có thể giúp gì cho ả không. Làm như ta sẽ cố gắng cứu ả tiện nữ ấy khỏi nanh vuốt của ác quỷ của họ Diệp vậy!” Hà Bằng nhún vai rồi lại nói tiếp, “Vì lão Diệp đã qua đời, và dòng họ của lão ta cũng đã tuyệt tự rồi, thiết nghĩ kể chuyện này với đại nhân cũng chẳng có gì. Bẩm đại nhân, sở thích lớn của lão Diệp là ngược đãi nữ nhân. Bản tính này di truyền trong cả dòng họ Diệp. Những gì mà cao tổ phụ của lão ta - tức cố Hầu gia - từng làm thật là khủng khiếp. Nhưng thời thế đã thay đổi, vì vậy lão Diệp phải thật cẩn thận. Lão ta ra tay với những ả kỹ nữ dưới hạ thành, và chủ yếu là những kẻ thuộc tiền triều. “Nhưng San Hô thì khác, ả cao cấp hơn. Lão ta rất muốn được ra tay với ả! Trời ơi, ngài chưa thấy cảnh lão Diệp chảy nước dãi khi ả biểu diễn và cái vẻ tàn độc trong đôi mắt lão ta đâu! Nhưng ả thông minh lắm, luôn giữ khoảng cách với lão ta!” “Diệp Khuê Lâm có biết ông cũng bị ả quyến rũ không?” “Bị quyến rũ ư? Thật nực cười vì đại nhân sử dụng từ ngữ thật chính xác. Ta không biết cách lý giải, đành nói thế này vậy: Mỗi khi ta trông thấy ả, ả luôn làm ta phát điên. Nhưng khi không có ả, ta cũng chẳng thấy nhung nhớ gì. Đại nhân có tin ta hay không cũng được, nhưng sự thật là như vậy. Diệp Khuê Lâm có biết chuyện đó không ư? Chắc chắn là lão ta biết!” Hà Bằng xoay người lại rồi chỉ vào Diệp phủ tối mịt bên kia con kênh. “Gần đây tên ác quỷ đó đã nghĩ ra một trò mới. Về đêm, khi khu vực này trở nên vắng vẻ, lão khốn ấy không hề báo trước cho ta biết khi nào ả đến mà chỉ kéo rèm trúc xuống, thắp rất nhiều nến trong hàng hiên rồi gọi ả đến nhảy múa ở mái cổng để chắc chắn rằng ta sẽ nhìn thấy cảnh đó từ dương đài bên này! Trời ơi, lão ta đúng là một tên đê tiện!” Lão giận dữ đấm tay lên đầu gối. Sau một hồi, Địch Công hỏi: “Còn vị khách nào khác tham dự mấy bữa tiệc ngoài hàng hiên không?” “Chỉ có mỗi Lư đại phu thôi. Ta cứ nghĩ đám đại phu sẽ không thích những trò tiêu khiển như vậy! Nhưng lão Diệp không bao giờ mời hắn tham gia khi có San Hô. Lão ta chỉ muốn chia sẻ lạc thú đó cho mỗi mình ta, bằng hữu thân thiết nhất của lão ta. Thật đấy!” Lão cựa quậy trên chiếc ghế gỗ cứng, có vẻ muốn tiễn khách. Nhưng Địch Công rút từ tay áo ra một chiếc quạt, ngồi xuống ghế vừa thong thả quạt vừa nói: “Ta nhận thấy hoa văn cây liễu thường gặp ở đồ sứ đã được vị kiến trúc sư thiết kế dinh thự này sử dụng làm hình mẫu.” Hà Bằng ngồi thẳng người lên. “Hoa văn cây liễu?” Lão chậm rãi hỏi. Và rồi, lão cố gắng lấy lại thái độ chân thành khi nãy và háo hức nói, “Bẩm đại nhân, ngài nói ngược rồi. Ngài nói ngược rồi! Dinh thự này mới chính là nguồn cảm hứng của đám thợ làm sứ.” Địch Công nhanh chóng liếc sang Đào Cam. “Ta không hề biết chuyện đó”, ông nói với Hà Bằng. “Ta đã từng nghe rất nhiều câu chuyện về nguồn gốc của họa tiết này. Câu chuyện về một vị quan già cùng với nhi nữ…” Hà Bằng bỗng ngắt lời Địch Công, điệu bộ có vẻ sốt ruột. “Bẩm đại nhân, toàn là chuyện vớ vẩn thôi! Một lão già và nhi nữ ư! Không phải đâu, câu chuyện đằng sau hoàn toàn không phải như vậy. Khác với lời họ kể nhiều lắm. Nhưng gia tộc của ta không bao giờ tiết lộ. Có kể ra sự thật cũng chẳng khiến gia tộc ta nở mày nở mặt. Ngài lại dùng thêm tách trà nữa đi ạ!” Trong khi Hà Bằng rót trà, Địch Công cẩn thận quan sát lão. Thái độ của lão lại thay đổi. Đôi mắt to của lão có vẻ dè chừng, và khi nói chuyện thì giọng lão tương đối bình tĩnh. “Đây là chuyện từ thời cao tổ phụ của ta. Vào những năm cuối đời của người, khi triều đại mới đã được thành lập và cũng là lúc người mất hết quyền lực. Tuy nhiên, người vẫn rất giàu có. Người sống xa hoa trong dinh thự của gia tộc ở cựu thành. Người phải lòng một nữ nhân trẻ tuổi xinh đẹp, vốn là một kỹ nữ. Tên thị là Lam Ngọc. Ngài cũng biết đấy, đó là thứ tình yêu sét đánh mê muội điên rồ của một người tuổi bóng xế. Người bỏ ra sáu thỏi vàng để mua thị. Một số tiền lớn, nhưng cũng vì thị là trinh nữ. Người đã xây dựng dinh thự này cho thị. Vì thị có một bờ eo mảnh mai mà đám thi sĩ hay gọi là eo liễu, nên cao tổ phụ cho người trồng liễu dọc theo bờ sông rồi đặt tên cho nơi này là Liễu phủ. Có lẽ đại nhân cũng đã nhìn thấy dòng chữ khắc trên cổng. Đó chính là chữ viết tay của cao tổ phụ ta. “Người cho thị sống trong vinh hoa phú quý. Nhưng lòng dạ nữ nhân thường khó đoán. Một nam nhân trẻ tuổi nhà họ Mai đã gặp thị; họ phải lòng nhau rồi quyết định cùng nhau bỏ trốn. Lúc bấy giờ, ở con hào này - tức là con kênh ngày nay - có một lầu thủy tạ dẫn đến khu vườn qua một cây cầu gỗ hẹp. Phụ thân ta đã phá lầu thủy tạ vì cột trụ đã mục nát. Vào ngày bỏ trốn, gã họ Mai đã buộc một chiếc thuyền dưới lầu thủy tạ cùng với mấy tên chèo thuyền. Gã tưởng rằng hôm đó cao tổ phụ của ta bận việc trong thành. “Trong lúc gã giúp Lam Ngọc gói ghém hành lý trong khuê phòng ở đầu bên kia của dãy hành lang này thì cao tổ phụ ta bước vào. Dù đã hơn sáu mươi nhưng người vẫn khỏe như vâm, thế là gã họ Mai và Lam Ngọc bỏ chạy. Họ chạy ra đến hoa viên, cao tổ phụ đuổi theo sau, vừa chạy vừa giận dữ huơ gậy. Khi họ chạy đến cầu thì người cũng vừa đuổi theo kịp, và lẽ ra người đã có thể giết cả hai ngay lúc đó. Nhưng vì quá kích động nên cao tổ phụ đột nhiên ngã quỵ rồi bất tỉnh. Bọn họ chẳng buồn nhìn đến người mà nhảy ngay xuống thuyền rồi chèo đi. Họ lẩn trốn trong địa bàn của Vệ Hầu gia, kẻ thù cũ của gia tộc ta. Gã họ Mai trở thành quân sư tài chính cho ông ta. Gã kiếm tiền rất giỏi, như tất cả mọi người trong gia tộc họ Mai vậy.” Hà Bằng khẽ kéo sợi tóc bạc ngang bướng khỏi vầng trán đầy mồ hôi của mình. Lão nhìn vào bóng tối ngoài kia với vẻ cau có và trầm tư. """