"
Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồ Sơ Một Tử Tù - Nguyễn Đình Tú full prc pdf epub azw3 [Tiểu thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 1
Chương 1 -
Tác phẩmđạt giải nhì Giải thưởng văn học 10 nămBộ công an và Hội nhà văn Việt Nam1995-2005, được chuyển thể thành 11 tập phimtruyền hình với tựa đề Lờisámhối muộn màng T
Bây giờ thì hắn được dẫn đến chỗ chôn cây cột ấy. Một cây cột hình thánh giá, to, chắc, đẽo gọt đẹp đẽ, phẳng phiu hơn cây cột của hắn chôn cách đây hơn hai mươi năm. Hơn hai mươi nămtrước hắn tổ chức cho lũ bạn bày đặt ra cảnh đưa thằng Hiến lên đoạn đầu đài. Cũng vì tò mò, cũng vì hắn được sinh ra và lớn lên cạnh cái nơi mà người ta thường kết liễu những kẻ tử tù. ở dưới những đoạn hào tối đen rậmrì những cỏ là cỏ kia có lẽ cũng có dămbảy cái đầu đang thập thò, len lén nhìn về phía hắn. Từ bao nhiêu nămnay người ta vẫn chọn khoảng thời gian nửa đêmvề sáng để nổ súng vào những tội nhân, trước khi đưa chúng vào những cỗ quan tài bật nắp chờ sẵn rồi táng xuống lòng đất lổn nhổn cát sỏi lẫn với vô số các loại đầu đạn. Ban ngày trường bắn thuộc về sự quản lý của một đơn vị bộ đội, ban đêm, nơi đây là chỗ để thực thi lẽ công bằng.
Hắn đã háo hức mò đến trường bắn này để xemngười ta thi hành án tử hình từ nămmười tuổi. Lần nào hắn cũng phải thức dậy từ một, hai giờ đêm, mò ra đến đầu làng thì gặp hơn chục thằng bạn đã lố nhố đứng đợi ở đấy. Cả bọn kéo nhau đi. Bò như ốc, trườn như rắn, nhảy như ếch, hắn cùng lũ bạn chui tọt xuống những đoạn hào bỏ không, sát sau lưng đội hành quyết căng mắt ra nhìn cái hình người bị xốc tới dựa cột. Hắn xemnhiều đến thế mà vẫn không chán có lẽ vì chưa bao giờ hắn được xemngười ta hành quyết tội nhân vào ban ngày. Mọi thứ cứ mập mờ trong đêm, cả tiếng nổ cũng u u mê mê, tiếng người trao đổi với nhau thì thào, loang loãng, tiếng xe nổ vội vàng, tiếng cuốc xẻng lào xào, lạo xạo, những bóng người cử động như trong phimcâm, đến khisáng bạch ra thì chỉ còn nấmmộ lùmlùm với những chân hương cháy dở. Chẳng có gì rõ ràng. Vì thế xemmãi vẫn không chán. Giá người ta cứ cho hắn vào xemđàng hoàng một vụ hành quyết được thực hiện giữa ban ngày ban mặt, thậmchí cho hắn làmcái chân khâmliệmtử thi thì chỉ một lần thôi là hắn sẽ chán. Nhưng chưa có vụ hành quyết nào diễn ra vào ban ngày cả. Lần này với hắn cũng thế. Tối om. Và côn trùng rỉ rả...
Quê hắn có trường bắn áng Sơn nổi tiếng cả tỉnh, nhưng cũng có một con sông thơ mộng chảy bảng lảng qua làng. Người dân áng Sơn ngoài cấy cày là việc muôn đời còn có nghề chèo đò và đập đá. Chèo đò thì cả làng hắn chỉ có một người, đó là ông Thảnh. Còn đập
đá thì từ đứa trẻ lên ba đến ông lão támmươi đều làmthành thạo vì đó là cách tạo thêmthu nhập duy nhất ở cái làng nghèo nhất tỉnh này. Hắn cũng là một tay đập đá có "hạng" của làng. Nhà có ba mẹ con, bố mất sớmnên anh emhắn phải làmviệc từ khi lẫmchẫmbiết đi. Đá được xẻ ra từng tảng lớn từ núi. Mà núi ở quê hắn lại nhiều. Cũng là sự lạ vì cả tỉnh chỉ có huyện hắn, xã hắn mới có núi. Toàn núi đá. Núi nhỏ, núi to, núi liên kết thành dãy, núi chơ vơ đứng riêng lẻ, núi chụmđầu làmhòn Trống Mái, núi nghiêng người ngả lưng làmVoi, làm Ngựa, núi dựng lên thành khu trường bắn, núi xẻ giữa cho đường cái chạy qua. Và núi đã trở thành mỏ đá cứu đói cho cả làng hắn. Bắt đầu từ cái văn bản đặc biệt của trung ương, trong đó người ta quyết cho tỉnh hắn được làmmới và nâng cấp bốn con đường cả thảy. Luận chứng kinh tế kỹ thuật của tỉnh thì nói đến việc phải phát huy nội lực, phải Nhà nước và nhân dân cùng làm. Muốn nhìn vào nội lực của một tỉnh thì phải xemđến nội lực của huyện của xã. Xã hắn có núi. Mà núi là đá. Làmđường rất cần đến đá. Thế là giữa lúc thói quen làm việc tập thể đang tàn phá dần những đồng làng quê hắn, giữa lúc nền kinh tế công điểmkhiến cho gia đình hắn cũng như bao gia đình khác bần cùng, kiệt quệ thì có người nhận đổi đá lấy ngô, đổi đá lấy mìsợi, lạp xường, trứng muối. Lập tức cả làng hắn rùng rùng kéo nhau lên núi vần đá, khuân đá về để ghè, để đập. Nhà nhà sắmđe, sắmbúa. Thanh niên trai tráng mang xà beng, choòng, đục, búa tạ lên núi xẻ từng tảng to đưa về. ở nhà đàn bà, con trẻ một đe một búa, cứ thế đập đá cho nhỏ ra, cho đều tămtắp. Rồi dựng thành khối. Một mét khối mười lămđồng. Rồi hai mươi, ba mươi, bốn mươi đồng. Một năm, hai năm, dămnămtrôi qua. Ba mẹ con hắn phải mua lại đá tảng của người ta nên mỗi mét khối đá dămbán đi coi như chỉ còn được hưởng một nửa. ấy là thời kỳ anh emhắn chưa lớn. Sau này khi hắn đã dámtheo đámthanh niên trong làng đi lên thị xã thi đấu vật thì hai anh emhắn cũng tự vần được đá tảng ở trên núi về cho mẹ hắn ngồi nhà chỉ việc một đe một búa mà ghè. Giữa tiếng chan chát, đômđốp đã từng ámảnh cả tuổi thơ ấy, hắn hỏi mẹ:
- Tạisao con lại tên là Bạch Đàn?
Mẹ hắn bảo:
- Thì tao đi cấy ở ngoài đồng, mày đòi chui ra, tao chạy đến gốc bạch đàn, chẳng nhịn được nữa, ngồi xuống đấy cho mày ra. Hắn hỏi:
- Thế anh Dương thì mẹ cho ra ở đâu?
Mẹ hắn hắt ánh mắt ngờisáng lên người hắn, đưa tay quẹt mồ hôi rồi bảo:
- Hồi ấy còn bố mày. Đẻ thằng Dương tao sướng chứ không như đẻ mày. Dương là tên bố mày đặt. Đến mày tao chẳng biết đặt là gì nên cứ gọi theo tên cây nơi mày chui ra.
Lại đômđốp, chan chát. Cả làng đômđốp, chan chát. Người làng có đi chợ thị xã thì chủ yếu là mua đe với búa. Lửa toé dưới tay mẹ hắn. Có lần bà cô họ hắn ở trên thị xã về chơi. Ngồi nói chuyện với mẹ hắn, bà cô bảo: "Chị dừng tay nói chuyện với emcó được không. Emnghe tiếng ghè đá cứ thấy gai gai người thế nào ấy. Nhoi nhói ở hai bên thái dương. Trẻ emmà nghe tiếng đập đá thế này lớn lên có hại lắmđấy chị ạ". Mẹ hắn bảo: "Thế mà trẻ con ở làng cứ lớn nồng nỗng, thằng nào cũng to, cũng khỏe. Quen hết cô ạ. Bốn, nămtuổi chúng nó cũng ngồi ghè được rồi. Không thì lấy gì mà ăn?". Bà cô hắn không nói gì nữa, đưa hai tay xoa xoa thái dương rồi đứng dậy xin phép về sớm. Hắn không hiểu những điều cô hắn nói, vì quả thực hắn không thấy giữa thứ âmthanh chát chúa kia vớisự trưởng thành của một đứa trẻ thì có quan hệ gì với nhau? Với anh emhắn sự trưởng thành về cơ bắp và trí tuệ luôn đồng hành cùng thứ âmthanh ấy. Anh trai hắn là học sinh giỏi của trường huyện. Từ nhà hắn lên trường huyện những támcây số. Anh Dương hắn cứ cuốc bộ đi học đều. Về đến nhà, vứt cái cặp da rách đáy xuống giường là lại vác choòng lên núi đánh đá hoặc xỏ găng tay ngồi ghè đá cùng với mẹ. Hắn cũng chả biết anh Dương học vào những lúc nào mà cứ nămhai lần có thầy giáo đến chở đi thi học sinh giỏi ở trên tỉnh. Có lần thầy giáo phải ngồi chờ vì anh Dương mải vần tảng đá to nửa khối ở trên núi Ngựa, cứ nấn ná không chịu về. Đó là lần anh Dương thi học sinh giỏi toán lớp 9. Hômấy anh Dương hắn thay quần áo xong, tu ực một hơi nước mưa rồi bơmmực vào bút, quay ra bảo thầy: "Đi!". Mẹ hắn bảo: "Cơmchỉ có canh thôi, lùa tạmmột bát rồi hẵng đi". Anh Dương bảo:
- Để con thi xong rồi về ăn cũng được.
Thầy giáo anh Dương thấy thế, cámcảnh:
- Bác để emđưa cháu ra tỉnh bồi dưỡng cho cháu bát phở rồi vào thi. Bây giờ mà ăn ở nhà xong mới đi thì muộn mất.
Vậy mà anh hắn vẫn được giải nhất học sinh giỏi toán của tỉnh nămấy. Bản thân hắn cũng học ít làmnhiều. Hắn chẳng bao giờ phải hỏi bài anh Dương cả mặc dù trong thâmtâmhắn rất kính nể. Nămhắn học lớp bảy, cô giáo chủ nhiệmcó lần ghé qua nhà hắn chơi. Mẹ hắn hỏi:
- Tháng vừa rồi cô được mấy khối?
Cô giáo hắn bảo:
- Nhà có một mẹ một con, emđịnh sống tằn tiện cũng được, chả dámnhận đá. Nhưng học sinh nó bảo mỗi tuần chúng emđến nhà cô học thêmhai buổi, học nửa tiếng thôi còn chúng emghè đá cho cô. Thế mà tháng rồi emcũng được gần hai khối đấy chị ạ.
Mẹ hắn bảo:
- ừ, để chúng nó giúp một tay chứ không thì hai mẹ con lấy gì mà sống. Hômnào tôi bảo thằng Đàn khuân cho cô ít đá hộc. Cô giáo hắn quay ra nói nhỏ như tâmsự với mẹ hắn:
- Emdạy cả hai thằng con chị, embiết, thằng Dương giỏi thì giỏi thật nhưng nhanh hẩu đoảng, thằng Đàn học chắc hơn chị ạ. Mà thằng Dương chỉ giỏi toán thôi, thằng Đàn bước sang nămnay lại nổi bật về môn văn. Cô Hường dạy văn khen nó lắm. Chị đẻ được hai thằng con trai như thế cũng mát ruột. Con Dung nhà emấy à, èo uột lắm. Mà cái chứng ở đâu cứ ngồi vào bàn học là lại kêu đau đầu. Em mới bảo: Cho mày đi ghè đá thì hết đau đầu! Nó bảo: Con mà ngồi đập đá thì chỉ ba ngày là lên cơn thần kinh. Khổ thế chứ! Xách dép cho hai thằng con nhà chị không xong.
Đúng là càng lớn hắn càng học giỏi văn. Đọc gì nhớ lấy. Cô Hường đưa cho mượn tập thơ Tố Hữu hômtrước, hômsau hắn đọc cứ vanh vách. Hắn mê thơ Tố Hữu, đi đánh đá cũng đọc, ngồi đập đá cũng ngâm, ngủ mê cũng toàn nói thơ. Buổi tối hắn thường ra đò ông Thảnh nằmđọc sách nhờ. Nghề làmđá cứ tối xuống là chấmdứt. Đèn dầu tù mù, thamquá cứ ngồi mà ghè có khi nện vào ngón tay cũng nên. Với lại cả ngày đômđốp, chan chát rồi. Khi ông mặt trời lặn cũng là lúc xương cốt nhão ra, gân bắp tê cứng, phải ngả lưng cho cái cơ thể nó được nghỉ ngơi. Thường thì khi ấy anh Dương ngồi học, còn hắn chạy đi chơi. Vào cuối cấp ba anh Dương bắt đầu học hành một cách nghiêmchỉnh. Anh Dương bảo: "Phải học thôi, thi đại học không xemthường được". Nhà có mỗi ngọn đèn, anh Dương ngồi học rồi thì hắn chạy đi chơi. Hắn thường mang sách của cô Hường cho mượn xuống đò ông Thảnh đọc nhờ. Đò ông Thảnh lúc nào cũng có một ngọn đèn để trong khoang lái. Đò dọc nên tối đến thường ít khách. Ông Thảnh ra đò sau nên không dámchở đò ngang. Dân xã bên người ta đã làmnghề ấy từ mấy đời nay rồi. Thực ra ông Thảnh ra đò cũng còn vì nhiều lý do khác nữa. Hồi ấy hắn còn bé nên chưa hiểu hết được những uẩn khúc của đời ông. Ông Thảnh ở có một mình thôi. Nhà ông có vườn chuối rất rộng. Sau này hắn mới biết vườn chuối ấy đã từng nuôisống ông trong những nămkhốn khó nhất. Ông có nguồn tiêu thụ lá chuối rất bí ẩn ở trên tỉnh. Cái thời mọi thứ đều mậu dịch hoá, những xếp lá chuối của ông biết đi đúng hướng, biết trôi đúng cửa nên nó cũng giúp ông có được cái ăn qua ngày. Vợ và con ông hình như vào Namtừ cái thời đất nước cắt chia. Sống trên cạn ông bị o ép nhiều nên ông xuống sông trải mình vớisóng nước. Sau ngày đất nước thống nhất con cháu ông có ra Bắc tìmlại ông. Nhưng đấy là chuyện sau này. Còn ông Thảnh của thời hắn tìmđến đọc thơ nhờ bằng ánh sáng hắt xuống từ bóng đèn làmbằng thân chaisáu nhămcô đơn và khó hiểu lắm. Ông Thảnh quí hắn, thương hắn, có thể còn hơn thế nữa, tìmthấy sự an ủi cho cuộc đời ông từ hắn. Ông có một cây nguyệt cầmđã cũ, hộp đàn sứt sẹo, đôi chỗ bong cả lớp gỗ dán, mười phímthô bẩn, dính keo nhamnhở, xộc xệch nhưng ông nâng niu và giữ gìn nó rất cẩn thận. Lần đầu nhìn cây đàn hắn tưởng đó là thứ đồ bỏ. Đàn gì mà chỉ có hai dây bằng cước trắng đục, chẳng được thanh nhã, mĩ miều như cây ghi ta mà hắn đã từng gảy. Sau hắn cũng hiểu ra công dụng của cây đàn ấy. Ông Thảnh thường gảy nó và hát bằng một thứ giọng liêu trai, phảng phất sương khói, u mê thâmcốc, bàng bạc lau lách, trầmhùng, u uẩn như dãy núi đá bao quanh trường bắn. Lúc đầu hắn tưởng đó là hát chèo. Nhưng ông Thảnh lắc đầu bảo: "Không, hát văn, chầu văn!"
... Cũng mờ ảo khóisương, cũng mịt mờ sóng nước, tự ru mình trong khoảng trống thinh không, quay támhướng vẫn lui về một góc, giữa lùmxanh thấp thoáng bóng tiên đồngMênh mang quá một ánh nhìn hư ảo, khi Phật Bà ban phước khắp muôn nơi. Phép nhiệmmàu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làmsao cho tất cả muôn ngườiChỉ còn lại một ngư ông bên núi, gác mái chèo ngửa mặt đón hư vô, con thuyền trĩu những nỗi niềmnhân thế, biết về đâu giữa bát quái trận đồ...
Hắn bảo:
- Cháu nghe ông hát thấy tủi thân lắm, nghe nữa là cháu khóc đấy. Cháu thích những câu như thế này cơ: Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão, gân đang săn và thớ thịt căng ra, đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa, hai mươi tuổi mới qua vòng thơ bé...
Ông Thảnh nghe hắn nói thế, imlặng một lúc rồi xoay người treo cây đàn lên vách đò. Ông bảo:
- Ta lỡ nhuộmhồn cháu bằng một thứ sóng u buồn từ dòng sông cuộc đời ta mất rồi. Nếu có thể cháu hãy xa lánh mọi dòng sông đi. Một chàng trai thích nghe những lời thì thầmcủa dòng sông cũng giống như một cô gái thích nghe tiếng réo rắt của đàn bầu. Con gái yếu mềmthì được còn con trai thì không, cháu nên bỏ văn đi, học thật giỏi toán như anh cháu để cuộc đờisau này đỡ nhuốmphần đa đoan.
Hắn chẳng hiểu được những lời ấy của ông Thảnh. Hắn vẫn lớn lên bằng sức vóc của người bạt núi, vẫn nghịch ngợmnhư bao đứa trẻ làng áng Sơn, vẫn khoái cảmkhi đêmđến mò vào trường bắn xemngười ta kết liễu những kẻ tử tù. Anh Dương hắn đỗ đại học ngay từ lần thi đầu tiên, trường kinh tế kế hoạch. Hắn lại thay thế vị trí của anh hắn ở trường cấp ba huyện. Hắn được đánh giá là học giỏi hơn anh hắn, vậy mà khi lựa chọn môn thi học sinh giỏi hắn lại chọn văn. Và bài văn hắn được chấmloại ưu chính là bài phân tích quá trình tha hoá của Chí Phèo. Mẹ hắn thản nhiên khi nghe hắn thông báo kết quả thi học sinh giỏi. Bà bảo: "Chẳng bằng bố chúng mày ngày xưa. Học giỏi nhưng làmruộng rất dở. Tính công điểmtoàn xếp hạng bét. Tao khổ. Ông ấy cũng chết vì khổ". Hắn chẳng lấy thế làmđiều hẫng hụt. ở nhà hắn học giỏi là chuyện bình thường. Học không giỏi mới là điều phải ngạc nhiên. Anh emhắn chẳng bao giờ nhận được sự chia sẻ những thành tựu học tập từ mẹ. Đồng ruộng và tiếng vỡ của đá đã làmmẹ hắn không thấy có gì giá trị hơn hạt gạo. Mà hạt gạo thì hình như không đến từ những bài thi học sinh giỏi. Mẹ hắn thờ ơ với kết quả học tập của anh emhắn cũng như đã có thời người ta thờ ơ với những tấmgiấy khen. Hắn chạy sang nhà thằng Hiến để khoe thành tích của mình. Dù không hy vọng nhận được một lời động viên từ sự vô tâmcủa mẹ nhưng hắn không thể không khoe khoang niềmvui của mình với đámbạn bè ở làng. Và người mà hắn muốn khoe đầu tiên chính là thằng Hiến.
Nhà thằng Hiến lốc nhốc một đàn bảy anh chị em. Bố Hiến ho lao nặng, suốt ngày ru rú ở nhà, trái gió trở trời là ho khồng khộc, ho đến tímtái cả người. Trên thằng Hiến là bốn chị gái, dưới nó còn hai emtrai. Hắn thân với thằng Hiến từ nămhọc lớp ba. Bắt đầu từ cái
chuyện thằng Hiến bị bọn học sinh xómChùa chặn đường... búng chim! Hômấy hắn xách chiếc túi lưới đựng lỏng chỏng vài quyển vở quăn mép đến chỗ bụi duối trước ngã rẽ vào xómChùa thì gặp thằng Hiến. Hắn thấy vẻ mặt thằng Hiến căng thẳng lắm, đôi mắt âu lo, nhìn ngang nhìn dọc vừa như cầu cứu, vừa như van xin, lại vừa lo sợ, giấu diếm. "Mày chờ ai thế hả Hiến?". "Không, không, mày cứ đi trước đi". "Sắp trống rồi mày không đi còn đứng đấy làmgì?". "Tao đau bụng, ngồi nghỉ một tí". Hắn đi vài bước nhưng nghĩ thế nào quay lại thấy thằng Hiến đứng nép mình bên bụi duối len lén nhìn về phía gốc gạo nơi ngã ba chợ Chùa. Thấy hắn quay đầu lại, thằng Hiến vội ngồi thụp xuống vờ ômbụng. Chắc chắn thằng này có chuyện gì rồi. Hắn nghĩ thế và quay trở lại. Thằng Hiến nhìn hắn bằng con mắt khiếp nhược, giọng nói lạc đi như sắp khóc:
- Mày có thấy bọn xómChùa đứng ở gốc gạo không?
- Chúng nó bắt nạt mày à?
- ừ...
- Chúng nó làmgì mày?
- Bắt chui qua háng rồi... rồi...
- Làmsao?
- Bắt tụt quần...
- Sao mày để chúng nó làmthế?
- Chúng nó đông, lại cậy gần nhà. Hômqua bốn, nămthằng chúng nó thay nhau búng chimtao. Đêmqua đau quá, tao không đái được.
- Mở ra tao xem?
- Sưng to lắm, hômnay chúng nó mà búng nữa thì tao chết mất.
"Lên b. bống rồi", hắn thốt lên kinh ngạc khi nhìn thấy cái con chimcủa thằng Hiến sưng vù như cái kẹo dồi chó, mọng nước, hồng hồng, bây bấy. Ngay sau đó cảmgiác thương hại thúc giục hắn phải làmviệc gì đó để lấy lạisinh khí cho bộ mặt xámngoét vì khiếp sợ kia
của thằng Hiến. "Hãy đi theo tao, nhặt mấy cục gạch để sẵn trong cặp, nếu chúng nó đông một mình tao không đánh lại thì mày lấy gạch ra ném". "Nhưng chúng nó gần nhà, hômsau đi học qua chúng nó lại bắt nạt thìsao?". "Thế cứ để chúng nó bắt nạt mãi à? Theo tao, không sợ!"
Sau đận ấy bọn xómChùa không chặn đường đòi búng chimthằng Hiến nữa. Vào cấp hai thằng Hiến bỏ học liên tục vì nhà nghèo quá, phải chạy ăn đến phờ mặt, chẳng còn hơi đâu mà cắp sách đến trường. Bố Hiến cứ vài tháng lại lên viện một lần. Bố nó là người được đi viện nhiều nhất làng vì ông có cáisổ khámbệnh được phát từ hồi làmcông nhân cầu đường. Có hômhắn đang ngồi học thì thằng Hiến thập thò ở ngoàisân vẫy hắn ra. "Đi lên bệnh viện chỗ bố tao không?". "ở đâu?". "Trên huyện". "Xa lắm!". "Chị tao đi bộ được mà". "Thế mày có nhớ đường không?". "Mẹ tao chở tao lên đó một lần rồi". "Thế thì đi".
Hắn và thằng Hiến lên tới nơi thì mẹ và chị gái lớn của nó đang bẻ lại người cho bố. Bố nó đã chết giữa một cơn ho khủng khiếp, thân xác co rút, hình hài vặn vẹo, rớt dãi trào xuống cằm, ướt đầmmột khoảng áo ngực. Lần đầu tiên hắn được tận mắt thấy người chết. Thấy giữa ban ngày ban mặt hẳn hoi. Đau đớn, vật vã, kinh khủng quá. Những tội nhân bị bắn hàng đêmcó lẽ cũng chỉ đau đớn đến mức ấy mà thôi. Sau đámtang bố được mấy hôm, thằng Hiến chia tay hắn để theo mẹ lên tỉnh bán tò he. Mẹ nó được thừa hưởng nghề nặn tò he từ ông ngoại. Gien ấy truyền đến thằng Hiến. Tò he thằng Hiến làmra rất đẹp, đủ các sắc màu. Ngoài các hình Ngộ Không, Sa Tăng, Bát Giới thằng Hiến còn nặn được cả ngan, gà, chim, cá, lợn, ếch. Các loài vật ngộ nghĩnh ấy được thằng Hiến đút một cái ống sậy nhỏ vào lỗ khoét trên thân, lại khía ống sậy ra, nhét mẩu lá nón vào. Thế là ngan, gà, chim, cá, lợn của Hiến đều kêu được nếu ghé miệng vào ống sậy mà thổi. Bọn trẻ trên phố chắc thích lắmvì cứ độ nửa tháng mẹ con thằng Hiến lại về làng mang hàng đi một lần. Lần đầu lên tỉnh về thằng Hiến sang chơi nhà hắn, mang cho hắn con ếch màu gạch non. Hắn thổi vào ống sậy ở đít con ếch thấy kêu toe toe, khoái chí, trong lòng phục tài thằng Hiến lắm. "Tao với mẹ tao ngày chỉ ăn một bữa thôi - Thằng Hiến kể - Mang sẵn theo ngô, ngồi chợ buồn thì lại vun lá nướng ngô ăn thêm. Tối đến ngủ nhờ ở mái quán của người ta. Trên ấy có món bánh rán ngon lắm, bên ngoài bọc rất nhiều đường, ngọt lịm". "Bao giờ mày lại đi?". "Khoảng mươi ngày nữa, làmxong mẻ tò he mới thì lại xuôi đò ông Thảnh lên đó". "Đi dò của ông Thảnh có sướng không?". "Sướng. Bồng bềnh, êmêmnhưng cũng hơisờ sợ". ở làng hắn người ta có việc lên tỉnh thường đi đò chứ không đi theo đường cái. Đi đò nhanh hơn, lại rẻ, có thể đi chịu ông Thảnh được. Mà đò ông Thảnh thường cập bến sát nách chợ tỉnh. Đi xe khách theo đường cái phải vào bến xe, từ bến xe vào chợ đi bộ cũng phải mất vài ba cây số. Mệt người, lại cách rách. Ông Thảnh đi tỉnh nhiều nên có nhiều thông tin nóng sốt nhất làng. Đêmnào trường bắn đỏ lửa, đêmnào không, cũng là do bởi ông Thảnh mà bọn hắn mới biết. Ông Thảnh biết được những chuyện mà bọn trẻ ở làng áng Sơn không thể nào biết được. Cả quãng đời tuổi thơ của hắn, những điều ông Thảnh nói đôi khi được đón nhận như chân lý. Đêmnay sẽ bắn Tiến lợn đấy. Nhiều khả năng đàn emcủa nó sẽ tổ chức cướp xác. Chắc là sẽ bắn sớmhơn mọi khi.
Đêmmaisẽ tử hình con mụ Quyên thực phẩm. Mụ này thamô lớn lắm, lại đốt cả kho hàng để phi tang, thiêu chết hai đồng chí bảo
vệ. Ngày bắt mụ to béo thế mà giờ nghe bảo trông mụ như cái xác ve.
Hai mươi chín này là bắn lão ất lương thực đấy. Nghe bảo lão là gián điệp của Mĩ cài vào để phá hoại ta. Kho tàng lão làmrỗng hết. Lão có mấy nhà liền, cô vợ ba chỉ bằng tuổi con gái lão. Thế mới kinh chứ!
Ba mươi tháng sau là bắn thằng Long gấu. Thằng này còn ác hơn thằng Tiến lợn. Băng cướp của nó có bốn mươi tên cả thảy. Nó tuyên bố thời nay chỉ có bốn mươi tên cướp thôi chứ không có Alibaba, ai muốn làmAlibaba nó sẽ cho đàn emđến cắt tai. Hômcông an truy bắt, nó bắn trả đến hết đạn mới thôi. Thằng này nghe bảo phù thũng rồi. Có khi chưa ăn loạt đạn nào đã nghoẻo.
Chưa có một thông tin nào về các vụ hành quyết từ mệng ông Thảnh lạisai bao giờ. Lần bắn Long gấu hắn đã liều mạng bò vào sát bên chiếc xe tù. Thì ra những người thực thi công lý cũng biết sợ hãi. Họ bịt mặt tử tù bằng một chiếc mũ vải màu đen. Tử tù được buộc vào một cây cột cao hơn đầu người. Trước khi đội bắn chui ra khỏi xe, đứng thành hàng, giương súng, khai hoả theo mệnh lệnh của đội trưởng, người ta đọc to một vài tờ giấy được soisáng bởi ánh dèn pin. Rồi đạn nổ. Rồi phát súng nhân đạo. Rồi kiểmtra tử thi. Rồi mấy người chọc bút ký vào một tờ giấy nhờ nhờ trắng. Hắn bật cười khi nghe nghe giọng của người đàn ông lúc nãy sang sảng đọc Quyết định tử hình, bây giờ cứ rin rít trong cổ họng: Long ơi, cũng vì nhiệmvụ mà tôi phải làmviệc thất nhân, thất đức này, xuống dưới đấy cậu đừng oán trách chúng tôi. Việc cậu làmcậu chịu, kết cục này là do cậu gây ra, tôi chỉ là người thực thi chức phận mà thôi. Xin vái cậu một vái gọi là tiễn cậu về với cõi âmcho nhẹ mình, siêu thoát.
Những tàn hương vãi xuống, lập loè làmhắn thấy ớn lạnh. Hômsau hắn rủ thằng Tá, thằng Học, thằng Xế ra xemcây cọc còn chôn ở đó không. Tất cả sạch trơn, như đêmqua chưa hề có vụ hành quyết nào diễn ra ở nơi hắn đang đứng cả. Nhưng rồi hắn phát hiện ra cái lỗ chôn cọc. Hắn bới chỗ đất xung quanh ra phát hiện thấy những vệt máu quệnvào sỏi cát. Hắn bỗng nghĩ đến một trò chơi giống như đêmhômqua. Hắn rủ bọn thằng Tá vào doanh trại bộ đội gần đó trộmmấy cây tre dựng giàn mướp. Hắn sai thằng Học chạy lên núi gần đó mượn của những người đánh đá con dao dựa và chiếc búa đinh. Hắn đẽo gọt, chằng buộc thành một cây cột như hắn tưởng tượng rồi cùng thằng Xế khiêng đến bên chiếc hố sâu hoắm, chôn xuống. Cột có rồi nhưng không có tội nhân nào để treo lên cả. Bọn hắn liền nghĩ ngay đến thằng Hiến. Chỉ có thằng Hiến hiền lành, nhút nhát mới đóng vai vật hiến tế lúc này được. Hắn chạy đi tìmthằng hiến. Bọn thằng Tá, Thằng Học, thằng Xế lấp sẵn ở trong những đoạn hào, thấy thằng Hiến đến liền ào ra vật thằng Hiến xuống, lấy áo trùmmặt, lấy dây thừng choàng vào gáy vắt ngược ra hai nách rồi tung lên mấu cột, kéo cả người thằng Hiến lơ lửng trên cột, cách mặt đất tới gần một mét. Trong khi thằng Hiến đau đớn, gào không ra tiếng thì bọn hắn hò hét khoái trá, xếp thành đội hình giả giương súng lên nhằm thẳng tội nhân xiết cò. Bỗng thanh gỗ ngang trên đỉnh cột gẫy đánh "roạch" một cái. Thằng Hiến rơi xuống đất, gối khụy xuống, theo đà quán tính cả người từ từ đổ ập về phía trước, mặt úp vào đống cát sỏi. Thằng Học vội lao đến gỡ dây, mở áo chùmmặt ra cho thằng Hiến. Hắn và cả bọn ngỡ ngàng khi thấy từ bên mép Hiến một vệt máu tươi rỉ ra, loang xuống cằm. Hắn vội lao vào ômlấy thằng Hiến xốc dậy.
"Mày có đau không? Bọn tao chỉ đùa mày tí thôi". Thằng Hiến có vẻ như muốn khóc, nhưng nó bỗng vùng ra, nhổ từ trong miệng xuống đất một chiếc răng cửa rồi không nói không rằng cắmmặt chạy về làng. Hắn nhìn xuống bàn tay mình, nước đái thằng Hiến còn loang loáng ướt. Hắn quay ra bảo bọn thằng Xế: Nó sợ vãi đái cả ra quần, lại gẫy cả răng nữa. Bọn mình chơi ác quá!
Hắn không phải là đứa trẻ thích nghịch ác. Đó là lần duy nhất hắn tìmkhoái cảmtrẻ thơ trên nỗi đau đớn của đứa bạn yếmthế. Tối hômấy hắn ăn cơmmà không nuốt được. Dọn dẹp xong hắn mò sang nhà thằng Hiến. Từ ngoài bờ rào nhìn vào hắn thấy thằng Hiến đang ngồi trên chiếc chõng tre đặt ở góc sân. Hômấy trăng sáng. Vậy mà trước mặt thằng Hiến vẫn còn đặt thêmmột ngọn đèn dầu. Môi thằng Hiến sưng vù. Nó đang cố gắng đưa từng thìa cháo vào miệng. Bát cháo trước mặt nó vẫn còn đang bốc khói. Tay trái thằng Hiến cầmhai con tò he. Nó ngắmnghía, nó nâng lên, đặt xuống, rồi lại quay ra xít xoa đưa cháo vào miệng. Hắn mò đến sát sau lưng mà thằng Hiến vẫn không hay biết gì. Bỗng thằng Hiến để tuột cái thìa. Nó quờ tay đỡ lại làmđổ hai con tò he, một con lăn khỏi chõng rơi xuống đất. Hắn vội cúi xuống bò vào gầmchõng nhặt lên con tò he cho thằng Hiến. Thằng Hiến nhìn hắn hơi ngỡ ngàng, nhưng trong ánh mắt của nó, hắn không thấy có sự thù hận.
- Mày sang từ bao giờ thế, sao tao không biết?
- Tao vừa sang thôi. Mày ăn cháo à?
- ừ, mẹ tao vừa nấu cho tao bát cháo này. Nhưng khó ăn quá. Buốt lắm.
- Mai mày có đi lấy đất sét không?
- Làmgì?
- Cho tao đi với. Tao lấy hộ cho mày.
- Không. Nhà tao không làmtò he nữa đâu. ế lắm. Mẹ tao vừa đổ đi đầy một thúng. Tao chỉ giữ lại hai con này thôi. Để làmkỷ niệm. - Thế mày không lên tỉnh nữa à?
- Mẹ tao bảo nhận đá về ghè thôi. Làmtò he không bán được. Trẻ con trên phố không thích chơi tò he. Trẻ con nhà quê thì thích nhưng lại không có tiền.
Hắn ngồi imchẳng biết nói gì nữa. Hắn thấy mình có lỗi, chỉ muốn làmmột việc gì đó để cho thằng Hiến vui. Hắn tưởmg thằng Hiến
còn nặn tò he thì hắn sẽ dành ra một buổisáng mai để đi lấy đất sét hộ cho nó. Nhưng thằng Hiến lại vừa hất xuống ao cả một thúng tò he mà nó kỳ công nặn cả tháng trời. Hai con tò he mà mà nó giữ lại là hai bức tượng Phật. Một bức là Phật Thích Ca, bức kia là Phật Bà Quan Âm. Hai bức tượng này nó nặn lớn hơn những con tò he khác, cao tới gần một gang tay. Hắn từng hỏi thằng Hiến là bỏ học có tiếc không? Thằng Hiến bảo tiếc nhưng đi chợ cũng thích. Hắn biết mỗi đứa mỗi cảnh, có tiếc cho nó cũng chả giúp được gì. Trăng hômấy sáng, ánh vàng loang loáng trên những tàu lá chuối, chung chiêng dưới gốc cau ra, rờ rỡ cả khoảng sân hai đứa ngồi. Thằng Hiến bất chợt quay sang hỏi hắn:
- Con trai đặt tên là Nguyệt có được không hả Đàn?
- Sao mày lại hỏi vậy?
- Sáng nay chị gái tao vừa sinh cháu. Mẹ tao ở trạmxá về bảo để cậu Hiến đặt tên. Thấy môi tao sưng vù mẹ tao hỏi bị làmsao. Tao bảo ngã. Mẹ tao nấu cho bát cháo xong lại lên trạmxá với chị tao rồi. Trước khi đi còn bảo: Nghĩ cho cháu nó cái tên!
- Hômnay trăng sáng lắm. Mà con trai đặt tên Nguyệt thì không oách tí nào cả. Đặt là Viên Minh hay hơn. - Viên Minh nghĩa là gì?
- Viên là viên mãn, tròn đầy, minh là sáng sủa. Tao đoán thế. Để mai tao hỏi lại cô Hường xemthế nào.
- ừ. Viên Minh. Chiều mai môi đỡ sưng tao sẽ lên trạmxá xemmặt nó, mẹ tao bảo kháu lắm.
- Thế bố nó đâu? Không xin về được à?
- Đang đánh nhau ở Campuchia Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng hắn chơi trò xử bắn tội nhân. Từ ngày lên trường huyện học hắn trầmhơn. Hắn tự nhủ lòng không bao giờ để thằng Hiến phải buồn nữa. Nó là một thằng bạn tốt. ở làng ngoài thằng Hiến ra hắn chỉ còn thân với một đứa bạn nữa mà thôi. Đó là cái Dịu con cô giáo Hường. Cô Hường dạy văn hắn suốt ba nămcấp hai, hiểu hắn, thương hắn và đặt rất nhiều hy vọng vào con đường học vấn của hắn. Chồng cô Hường là bộ đội, hy sinh ở miền Namtừ trước nămbảy nhăm. Dịu là con gái duy nhất của cô Hường, kémhắn một tuổi nhưng học sớmnên suốt mấy nămhọc ở trường làng đều ngồi chung bàn với hắn. Hômấy hắn định bụng chạy sang nhà thằng Hiến khoe kết quả thi học sinh giỏi xong sẽ đến nhà mẹ con cô giáo Hường để "báo cáo thành tích" của hắn cho cô mừng. Nhưng thằng Hiến không có nhà. Trong buồng thằng Hiến hai bức tượng Phật cũng không còn để ở đầu giường nữa. Chỉ có đi đâu xa thằng Hiến mới mang hai vật kỷ niệmđó đi. Cũng đã lâu lắmhắn không sang nhà thằng Hiến chơi.
Hay thằng Hiến lại lên tỉnh kiếmnghề gì đó làmrồi chăng? Càng lớn thằng Hiến càng đẹp trai. Nó có khuôn mặt quả lê, sống mũi thanh tú, con mắt sáng, trong trẻo, đôi mày rậm, môi đỏ, cằmchẻ, rất dễ gây thiện cảm. Nó lại khéo tay, chỉ tội tay nó cầmbúa ghè đá không hợp. Kể ra nó được đi học hay làmnghề hàng mã thì đỡ tội hơn.
Chờ mãi không thấy thằng Hiến về, hắn đành quay ra. Vừa ra đến ngõ thì hắn gặp mẹ thằng Hiến đi đâu về, tay cắp cái thúng bên trên có che mấy tàu lá chuối. "Thằng Hiến đâu bác?" - Hắn hỏi. "Ô, Đàn đấy à. Thế cháu chưa biết chuyện gìsao?". "Chuyện gì ạ". "Thằng Hiến nó bỏ bác lên chùa rồi cháu ạ. Nó đi được hơn một tháng rồi. Bác và các chị nó xin nó thế nào cũng không được. Nó bảo nó đi vào chùa chứ có đi chết đâu mà cả nhà cứ cuống lên thế. Đàn ơi, cháu có giúp bác bảo nó về được không?". "Chùa nào?". "Thì chùa áng Sơn chứ còn chùa nào, mé sau trường bắn ấy". "Nó làmgì ở đấy?". "Nó cơmnước, dọn dẹp phục vụ cho sư cụ. Nó bảo nếu bác cứ khóc lóc bắt nó về nó sẽ bỏ đi đến một nơi thật xa. Cháu bảo bác phải làmsao bây giờ?".
Hắn nghe mà như không tin vào tai mình. Hắn vội chạy đến nhà cô giáo Hường. Chỉ có mình Dịu ở nhà. Hắn hỏi: "Dịu biết tin gì chưa?". Dịu bảo: "Biết rồi, Đàn vừa được giải học sinh giỏi chứ gì?". "Không, thằng Hiến nó bỏ nhà lên chùa rồi". "Đi tu à? Sao phải làm thế?". "Tớ với Dịu đi tìmnó về đi, mẹ nó nhờ đấy".
Quả thật, ngày ấy hắn quí bạn nhưng không hiểu bạn. Hắn những tưởng ngôi chùa nằmở lưng ngọn núi đất phía sau trường bắn kia có thứ bùa mê thuốc lú gì đó khiến cho thằng Hiến trót bước chân vào đó không thể ra được. Và hắn thấy mình phải có sứ mệnh của một vị anh hùng vào hang sâu đánh đuổi tà ma để cứu bạn. Hắn cùng Dịu chạy băng băng tới chân núi. Trong khi Dịu thở không ra hơi thì hắn gào toáng lên: Hiến ơi... Hiến! Cửa chùa đóng imỉm. Mãi một lúc lâu sau mới có một chú tiểu lách mình bước ra bảo với hắn rằng Hiến đã chuyển đến một chùa khác rồi, xa lắm. Chú tiểu đặt vào tay hắn một gói giấy nhỏ. Hắn mở ra thấy bên trong là bức tượng Quan Thế Âm. Tự nhiên hắn khóc rú lên. Dịu sững sờ nhìn hắn. Chưa bao giờ hắn khóc như thế cả. Đó là tiếng khóc được bật ra từ một nỗi mất mát ghê gớm, trầmtrọng lắm. Hắn mất thằng Hiến thật rồi. Hắn không còn biết tìmđâu cái bóng dáng khiêmnhường, côi cút để xẻ chia những vui buồn nữa. Chú tiểu đã quay vào trong chùa và cánh cổng gỗ lại được khép chặt ngay sau vạt áo nâu sòng. Hắn thất thểu ra về, quên biến niềmvui đoạt giải cần phải đemkhoe với mọi người. Dịu đi bên cạnh hắn cũng rơmrớmnước mắt.
Hắn không biết được rằng, đằng sau cánh cổng chùa, thằng Hiến cũng đang ômmặt khóc khi bóng dáng hắn cùng Dịu nhỏ dần, nhỏ dần nơi chân núi.
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 2
Chương 2 -
Vào nămmẹ cháu mười ba tuổi thì cải cách ruộng đất xảy ra và ông nội cháu bị đemra đấu ở đình làng. Ông nội cháu có một người con trai với bà vợ đầu, đã mất, tên là PhạmĐình Thành. Thành không được ông nội cháu quan tâmnhiều vì bao nhiêu tình thương ông cháu dành cả cho người vợ lấy về sau này. Ông cháu là địa chủ, có nhiều đất, nhiều ruộng và có một thời gian ngắn giữ chân chánh hội. Nhưng cũng chẳng là gìso với đất ruộng nhà ta. Vào thời kỳ cải cách ông cháu cũng như một số người giàu có khác bị mang ra đấu tố giữa đình làng. Đấu tố là gì á? Kể ra cũng khó giải thích nhỉ? Là bị trói, bị quỳ, bị những người dân nghèo mắng nhiếc, chửi bới, lăng mạ, thậmchí cả đánh đập nữa. Tạisao lại thế á? Thì người giầu bóc lột người nghèo, đến lúc ấy cách mạng thành công, người nghèo được bóc lột lại người giàu. Bóc lột thật đấy chứ. Ruộng vườn, thóc lúa, giường tủ, bát đĩa, trâu bò, lợn gà, thậmchí cả vại dưa muối lẫn cây quạt lụa, bóc hết, lột hết, chia đều cho mọi người, những người dân nghèo ấy mà. Tạisao lại còn đấu tố nữa á? Thì đào tận gốc, trốc tận rễ mà. Lũ người giàu là lũ cây độc, không thể để tồn tại, phát triển trên mảnh đất công nông được. Vì thế người ta đemnhững người giàu ra cho dân nghèo xét xử. Dân nghèo muốn giết ai thì giết, bỏ đói ai thì bỏ, cầmtù ai thì cầm. Tómlại cách xét của họ là ai giàu cộng với ác thì xử giết, ai giàu mà ác ít thì xử tù, ai giàu mà không ác thì xử làmbần cố nông, tức là lưu đày họ vào kiếp nghèo đói. Cả nhà ta may sao đều chạy được. Chỉ mình ta không chạy vì ta cũng máu đi làmcách mạng. Ta nhất định không chịu bước chân xuống tàu ở Hải Phòng để bỏ vào Namcùng với gia đình. Vợ con ta cũng ở lại với ta. Ta đinh ninh thế. Nhưng tối hômấy, khi ta đi họp đoàn thanh niên về thì vợ con ta cũng đã bỏ ta mà đi nốt. Ông nội cháu ấy hả? Ông ấy được xét là giàu mà không ác. Đáng lẽ ra là như thế. Nhưng cậu con trai của ông cháu, cái cậu Thành ấy mà, bỗng dưng lại tố ác cho ông cháu. Cậu Thành kể rằng ông cháu từng đánh cậu ấy vì cậu ấy đi trêu gái, từng nhốt cậu ấy vì cậu ấy đòi bỏ nhà lên tỉnh đăng ký đi phu NamBộ, từng phạt không cho cậu ấy ăn vì dámcãi lại gì ghẻ, từng bắt cậu ấy quỳ gai vỏ mít vì dámchửi thầy giáo ở làng bên, từng giámsát, ngăn trở cậu ấy không cho cậu ấy thoát ly thamgia cách mạng từ sớm, để mãisau này cậu ấy mới được vào đoàn thể nên cáisự giác ngộ của cậu ấy mới chậm, mới muộn màng, vân vân và vân vân. Cứ lẫn lộn thực hư như thế, nhập nhằng giữa bản chất và hiện tượng như thế. Ngày ấy cậu Thành cũng mới mười lăm, mườisáu tuổi thôi. Tuổi trẻ ấy mà, máu trong người rất dễ sôi, ưa trả thù vặt và thích làmnhững việc giả tưởng. ông nội cháu trở thành ông lão chăn vịt, thành kẻ hót phân trâu, thành người mò hài cốt, thành lão già coi nghĩa địa. Vợ con ông đâu á? Cái bà hai ấy ômcon bỏ vào Namtheo đằng ngoại. Ông cháu đáng lẽ cũng đi chuyến ấy nhưng vì quay lại tìmcậu Thành nên bị lỡ tàu. Chính vợ con ta cũng đi chuyến tàu ấy đấy. Chúng dám
lừa ta cho đến lúc con tàu nhổ neo mà ta chẳng biết gì. Ông cháu hận cậu Thành lắm. Hận cho đến lúc chết. Nhưng mà ông cháu còn khổ chán rồi mới chết. Trước khi chết vài nămông cháu gặp con mẹ Hàn. Mẹ Hàn là đứa trẻ mồ côi, sống sót sau vụ đói nămbốn nhămghê rợn. Ngày mẹ Hàn gặp ông nội cháu là ngày ông cháu đang đói và rét, nằmchết lả đi ở góc nghĩa địa. Mẹ Hàn đi bắt lươn ngang qua đó, nhìn thấy, bóp lươn nướng cho ông cháu ăn một lúc hết mườisáu con liền, nhẵn cả giỏ. Rồi mẹ Hàn đưa ông nội cháu về ở cùng. Mẹ Hàn được chia cho cái chuồng trâu cũ của nhà ta trong đợt cải cách. Nhà cháu bây giờ được dựng trên nền chính cái chuồng trâu ấy đấy. Mẹ Hàn dốt nát, may nhờ cách mạng cũng cắp sách đi học được vài chữ ở lớp bình dân học vụ. Thầy giáo đứng lớp dạy mẹ Hàn là cậu Thành. Cậu Thành là người nhiều chữ nhất ở cái làng này vào thời bấy giờ. Tất nhiên chẳng thể bằng ta, nhưng thôi, trừ ta ra. Sau sửa sai cậu Thành hối hận lắm. Người nhiều chữ ai lại đi tố bố đẻ mình? Sửa sai là thế nào á? Là người ta sửa lại những việc làmtrong cải cách ruộng đất. Người ta thấy việc để cho dân nghèo bóc sạch lột nhẵn, lại giết hại, cầmtù, o bế bừa bãi những người giàu là thái quá, là oan uổng, là không cần thiết, là thiếu công bằng và không minh bạch. Những người giết rồi thì thôi, những người chưa giết thì thả, những người khốn quẫn được trả một phần nhà, một phần đất. Có chứ, có xin lỗi, Nhà nước xin lỗi, các độisửa sai đến từng nhà xin lỗi. ông cháu cũng được xin lỗi. Cậu Thành cũng về xin lỗi nhưng ông cháu không nhận lời xin lỗi đó, trợn mắt lên mắng cậu Thành, rồi chết. Cậu Thành ơn mẹ Hàn lắm. Mà con mẹ Hàn bắt lươn đen đủi, quắt queo ngày nào đến lúc dậy thì cũng mình nở thân son lắm. Rồi cậu Thành xin hỏi cưới mẹ Hàn. Vì tình hay vì nghĩa, chả biết, nhưng nghe tin ấy mấy cô xinh gái nhất làng úp mặt vào bụi duối khóc rưng rức. Thế mà mẹ Hàn từ chối đấy. Mẹ Hàn bảo: Anh là thầy tôi, tôi kính, nhưng anh tố ông cụ đến chết khổ chết sở thì tôi khinh. Tôi chả lấy người tôi khinh làmchồng. Cậu Thành lúc ấy đâu phải thường. Đội trưởng một độisản xuất của Hợp tác xã, lại được đưa đi bồi dưỡng về thuỷ lợi, nắmcả công tác thanh niên, viết giỏi, vẽ đẹp, gọi A lô hay như đài, là niềmngưỡng vọng của con gái cả làng trên xómdưới. Oai phong lắm. Chả phải đùa. Thế mà lại bị con mẹ Hàn từ chối. Nhưng cậu Thành bảo với mẹ Hàn thế này: Đời tôi có hai lỗi lớn, thứ nhất là tố bố, thứ hai là không trả nghĩa được cho cô. Với hai lỗi ấy tôi là người bất nhân, bất nghĩa. Làmngười mà phi nhân nghĩa thì bỏ đi cho xong. Cô không lấy tôi thì tôi xin ra núi Ngựa trực chiến phòng không cho bomMĩ nó bỏ vào đầu tôi, tan xác là xong. Mẹ Hàn vẫn không chịu đổi ý. Cậu Thành ra trực chiến phòng không ở núi Ngựa thật. Ra hômtrước thì hômsau bombỏ sát trận địa. Cậu Thành bịsức ép, bất tỉnh, phải đưa lên bệnh viện huyện. Mẹ Hàn nghe tin, vội tất tả lên huyện thăm. Khóc như sóng quẫy. Cậu Thành tỉnh thì dứt khóc. Cậu Thành hỏi: Cô có lấy tôi không? Mẹ Hàn bảo: Thì lấy!
V
Con mẹ Hàn cháu dốt nát nhưng được nết thương người, lại chịu khổ tốt. Cái thương người của mẹ Hàn là cái thương của con cua cắp con cáy bò qua sa mạc tìmnước. Hoa không bao giờ nở trong mắt mẹ Hàn nhưng nước mắt của người đời lại dễ nhuộmướt phần hồn cằn cỗi, thô ráp của người đàn bà sống sót sau trận đói thảmkhốc nămxưa. Cậu Thành thì lại không chịu được khổ. Sau khi mẹ Hàn đẻ thằng Dương, cậu Thành phát bệnh, một thứ bệnh kinh hoàng thời ấy - bệnh trĩ. Là bệnh gì á? Bệnh về hậu môn ấy mà, ở chỗ lỗ đít ấy. Cứ
mỗi khi tiêu hoá hay làmviệc nặng là chỗ ấy nó lại tòi ra một búi ruột già. Đau đớn, khó chịu lắm. Không ngồi, không cúi được lâu. Ăn phải chất xơ cứng thì lúc đi ngoài rõ khổ. Mà thời ấy thức ăn lại toàn ở dạng hạt và củ. Đòn giáng của bệnh tật chưa làmcậu Thành chết được. Phải thêmmột đòn giáng khắc nghiệt nữa của số phận thì cậu Thành mới quị hẳn. Là gì ư? Là sự hiểu lầmấy mà. Lúc bấy giờ bom Mĩ nó bỏ nhiều lắm. Khu trường bắn hồi ấy là kho vũ khí, khí tài của bộ đội, có cả tên lửa giấu trong đó nữa. Vì thế xung quanh trường bắn người ta bố trí tới bốn, nămụ pháo cao xạ. Không hiểu sao trong một thời gian ngắn bomMĩ lại cứ trút xuống khu vực đó. Lúc đầu pháo ta bắn trả oách lắm, khí thế hừng hực. Dân làng đổ xô đi xemxác máy bay và săn lùng giặc lái. Nhưng có ngày chúng đánh liên tục tới 10 giờ liền. Có vẻ như Mĩ nó biết kho vũ khí của ta nên quyết tâmđánh phá bằng được. Hai ụ pháo phòng không liên tục bị bomdội trúng, cả bộ đội và dân quân chết tới hơn chục người. Thế là trên về điều tra. Trên bảo có gián điệp chỉ điểmcho máy bay Mĩ đánh vào vùng này. Lập tức các ụ pháo phòng không được thay đổi vị trí. Một số dân quân trực chiến được đưa vào dạng tình nghi. Hàng rào bảo mật trận địa phòng không được thiết lập, không ai được ra vào nếu không được phép. Chả ra gì cho cái cậu Thành, tự nhiên có tin đồn cậu Thành có liên hệ với người nhà ở trong Nam. Thì quả thực là cũng có một cái thư của bà hai gửi cho ông nội cháu. Nhưng thư về đến tay cậu Thành thì nó đã mốc lên vì nằmở trong ngăn tủ hồ sơ mật của xã tới 8 năm9 tháng. Tiếng đồn từ vô ý chuyển thành hữu ý. Chắc là tên gián điệp chỉ điểmcho máy bay Mĩ bắn phá trận địa của ta đây? Lại còn tạo ra chuyện bịsức ép của bomMĩ để làmvỏ bọc che chắn nữa kia. Cáo già thật. Thế là cậu Thành đi đến đâu cũng gặp những ánh mắt có gai. Tổ chức không đả động gì cả nhưng thái độ thì cũng có khang khác. Đảng bộ xã xin ý kiến của trên thì nhận được trả lời: Đang xác minh! Cậu Thành không bị tước chức, bớt quyền nhưng chẳng được giao việc gì cụ thể cả. Sinh mệnh chính trị của cậu Thành đang khoẻ khoắn thế bỗng dưng như bị cúm, rúmró, thảm hại quá chừng. Bệnh trĩ do bị bomép cứ ngày một hành hạ cậu Thành. Những mạch máu lúc nào cũng căng phồng lên ở búi trĩ liên tục vỡ ra. Mẹ Hàn nghe ai nói cây xương rồng nước lợ có thể kéo thành ruột lên được, cất công đi gánh thúng lớn thúng bé về nhà sắc cho cậu Thành uống. Cái ăn không có cứ nước xương rồng uống mãi, cậu Thành tọp đi trông thấy. Đến khi trên báo về là đã bắt được tên gián điệp Mĩ rồi thì cậu Thành phấn khởi quá, ngồi dậy uống ba bát nước xương rồng liền rồi chạy một mạch lên xã bắt tay từng người một. Đêmấy cậu Thành chết. Chết thanh thản, nhẹ nhõmlắmdù rất đau đớn về thể xác. Đôi mắt cậu khép hờ như ngủ, môi cậu tươi, vương lại một nét cười phơ phất. Mẹ Hàn bụng mang dạ chửa đưa cậu Thành ra đồng trong một chiều xuân mưa rây, cây cỏ đang bắt đầu xanh lại sau một mùa đông u ám. Qua hạ thì mẹ Hàn đẻ rơi cháu ở gốc cây bạch đàn giữa lúc đang gặt dở thửa ruộng khai hoang bên chân núi. Cháu có được sức dẻo dai của mẹ, sự sáng dạ của cậu Thành, chỉ khác anh Dương cháu một điểm, đó là sự nhạy cảm. Nhạy cảmquá thường dẫn đến những hành động cực đoan. Ta không muốn cháu bị mê hoặc bởi những cung bậc của dòng chảy này nhưng lại tìmthấy ở cháu sự tâmgiao. Ta những muốn rót vào phần hồn đơn điệu và tẻ nhạt của anh Dương cháu chút rượu hồng chưng cất từ men văn hoá ngàn nămcủa làng nhưng cơ thể nó không chứa nổi. Ngược lại cháu nhận về mình tất cả. Hoặc sẽ là một kẻ mềmyếu, từ bi đến mức không làmnổi được việc gì, hoặc sẽ trở thành chú ngựa hoang có phần hồn nhàu nát, tổn thương, hoặc sẽ thăng hoa như loài chimchỉ quen vẫy cánh dưới mặt trời và tìmnơi trú ngụ trên đỉnh núi, kết quả của sự nhạy cảmquá mức thường là như thế. Ta buông mình quá lâu trên dòng chảy này nên hiểu được sự lên xuống, nổi trôi của dòng đời. Ta tiếc cho thằng Dương và lo cho cháu. Ta hiểu cháu vì ta đã
từng hiểu rất rõ về cậu Thành và mẹ Hàn. Ta luôn đứng ở tâmbão nên xung quanh dù có bị quăng quật xác xơ thì ta vẫn vô sự. Ta bình an bởi ta biết đường thoái của mình dù phải đánh đổi mọi thứ phù vân. Sự khổ đau và nỗi thất vọng thường làmbiến đổi con người ta. Ta cũng bị thời cuộc và biến cố phẫu thuật nhưng ta sống dựa vào quy luật của dòng chảy. Nguyệt cầmvà những lời hát văn là giá đỡ của cuộc đời ta. Ta cũng có những người bạn để xẻ chia, kể cả bạn vong niên như cháu. Tiễn cháu lên Hà Nội học ta lại tặng cháu khúc nhạc lòng quen thuộc này mà thôi. Ta đã nhìn thấy sự hết ở ta và sự tiếp nối từ người khác. Cháu hãy đisao cho chân cứng đá mềm, một ngày nào đó, trên đường đời rất dài rất rộng của cháu, thấy hiu hiu lá rụng thì lại nhớ đến ta, đến khúc hát của người lái đò già. Ta là quá khứ của cháu. Dù muốn dù không cũng sẽ vẫn là như thế.
... Chỉ còn lại một ngư ông bên núi, gác mái chèo ngửa mặt đón hư vô, con thuyền trĩu những nỗi niềmnhân thế, biết về đâu giữa bát quái trận đồ. Những trái núi đặt bên ô cửa, nghe lòng mình tiếng gọi của xa xăm, nước không chảy cho con thuyền cập bến, đáy sông kia muôn thủa sỏi vẫn nằm...
Đêmtrên dòng sông giữa khoang đò chật hẹp ấy còn bềnh bồng, bềnh bồng trôi mãi trong giấc ngủ đầu tiên nơi ký túc xá của chàng sinh viên PhạmBạch Đàn. Bạch Đàn đã đỗ đại học vớisố điểmkhá cao, được đặc cách vào khoa triết. Đàn ngơ ngẩn hỏi người giáo vụ: Khoa triết là khoa gì? Người đàn ông gầy gò trong chiếc áo kẻ ca rô màu xámnhạt ngẩng đầu lên giảng giải: Là khoa quan trọng nhất của các khoa, là khoa học của mọi khoa học, là chìa khoá mở cánh cửa lớn để đi vào thế giới này trước khi mở từng cánh cửa nhỏ. Rồi người cán bộ giáo vụ bảo: Tómlại, học triết ra là để làmlãnh đạo và rất dễ được đi Liên Xô.
Nhưng những giấc mơ bồng bềnh không còn đến với Đàn vào đêmhômsau nữa. Ma cũ mò đến bắt nạt ma mới, không khí phòng ở ngột ngạt, những đôi mắt âu lo, thắc thỏmkhi đêmxuống làmcăn phòng như được nén căng, chỉ chờ bục vỡ. Những lời thì thào truyền đi, từng lúc từng lúc, len lỏi, gặmnhấm, ức chế tinh thần đámsinh viên nămthứ nhất vốn rất mỏng manh chí khí xô xát. Đã biết Hùng ve, Tiến sẹo chưa? Đã biết Phương lé, Hải cẩu chưa? Hùng ve học khoa lý nămthứ ba, một mình tả xung hữu đột với bọn đầu gấu ngoài trường, nhận támmũi khâu trên mặt vẫn chưa là cái đinh gỉ gì, đêmnằmlúc nào cũng thủ sẵn cây kiếmdài mét rưỡi dưới gối. Hải cẩu học khoa sử, từng "hạ phóng" hai nămvề quê vì dính vụ chémxượt tai Phương lé. Phương lé phá kỷ lục yêu thầy mến trường, ở lại làm"cán bộ khung" cho khoa hoá tới chín nămvẫn không tốt nghiệp được. Tiến sẹo nổi tiếng với màn tỏ tình bằng cách chặt ngón tay út. Bây giờ cô người yêu Tiến ra trường rồi nhưng vẫn đều đặn hàng tuần vào thămTiến. Cứ thế lý lịch của các anh hùng hảo hán khoá trước truyền qua lỗ tai những namsinh mới nhập trường gây cho họ một mối lo sợ phấp phỏng, cảmgiác bất an luôn làmcho họ rúmngười lại, chỉ mau mau lên giảng đường rồi xuống thư viện, càng tránh va chạmcàng tốt. Đàn cũng nằmtrong số những chú cừu non tránh voi chẳng xấu mặt nào ấy. Nhưng lối đi thì hẹp, lại chẳng nhiều, ngả nào cũng có voi đứng chặn cả rồi. Trong nhà ăn mắt mũi cứ nháo nhác sẽ bị coi là nhìn đểu. Ra bể nước vô ý bắn nước vào các đại ca bị coi là xúc phạmnghiêmtrọng đối với người khác. Lên thư viện nhiều quá là hành vi bất lịch sự vì làmngười khác mất chỗ ngồi. Lên xuống cầu thang va chạmvào người khác là hành vi gây sự. Vào tán tỉnh hoa khôi của
khoá là muốn đấu súng với đàn anh. Tất nhiên vào ban ngày thì mọisự dường như đều được giấu diếmtrong sự bình yên giả tạo. Chỉ khi nào đêmxuống ân oán mới được lôi ra giải quyết. Xin đểu, phạt đểu là hình thức phổ biến mà các đại ca hay đemra áp dụng. Xin có vô vàn kiểu xin, xin quần áo, giầy dép, xin cây đàn ghi ta, xin chiếc kính cũ nhưng hay hay, xin mũ, xin bút, xin cả tình và tiền nữa. Phạt cũng có muôn ngàn kiểu phạt, phạt thuốc, phạt trà, phạt tiền, phạt đồng hồ, phạt rượu, phạt quỳ, phạt lạy, phạt yêu, phạt tắm, phạt đấmđá và chui qua háng nữa. Trạng thái tâmlý đầu tiên xảy đến với Đàn là uất ức. Càng nghĩ, càng lý giải càng thấy ức. Tạisao đều là những trí thức cả lại có những việc làmvô liêmsỉ như thế? Tạisao càng học nhiều, càng ở môi trường sinh viên nhiều lại càng sa đoạ, rách nát nhân cách như thế? Tạisao những Hải cẩu, Tiến sẹo, Phương lé đều một thời là những học sinh giỏi đến khi vào đại học lại trở nên lưu manh hoá như thế? Tạisao Nhà trường và Ban quản lý ký túc xá lại không thẳng tay can thiệp để tạo ra một môi trường sống cho sinh viên thực sự trong lành? Tạisao những namsinh mang trong mình dòng máu kẻ sĩ, trí tuệ bừng nở, sức khoẻ đang vào độ dồi dào kia lại hèn yếu, nhu nhược, khoanh tay trước một vài cá nhân yêng hùng trổ mã nhưng thực chất là tha hoá, trì trệ, xấu xa và đê hèn đến thế? Cùng với thời gian Đàn cũng trả lời được từng câu hỏi một. Trước hết là việc loại bỏ những đại ca, đầu gấu ở trong trường không đơn giản như Đàn nghĩ. Việc kỷ luật buộc thôi học một sinh viên phải do Hội đồng kỷ luật của nhà trường xemxét trên cơ sở những chứng lý đầy đủ và cụ thể. Mà kỷ luật thì có rất nhiều hình thức: Cảnh cáo, khiển trách, tạmđình chỉ học tập, nặng lắmthì mới buộc thôi học. Còn nếu những vi phạmđã trở thành tội phạmrồi thì đó lại là phần việc của các chú công an. Nhưng sinh viên chủ yếu chỉ vi phạmnhỏ lẻ, vì không muốn ảnh hưởng đến việc học tập nên không ai muốn thưa kiện lên nhà trường làmgì, kết quả dù thế nào cũng không dứt được thù oán, thà nhắmmắt cho qua, học xong vài nămrồi biến, chả tốt hơn sao? Cho mọisự là đơn giản thì nó đơn giản. Có lẽ nên nghĩ như thế thì hơn, nhưng Đàn lại không quen với cách nghĩ ấy. Đàn cứ thấy ngôi trường đại học là một thánh đường thiêng liêng, ở đấy không thể có những kẻ lưu manh, côn đồ. Đàn không thể đơn giản hoá vấn đề đi được vì thực sự Đàn thấy nó phức tạp và cần phải được giải quyết triệt để. Và việc làmđầu tiên của Đàn nhằmtiêu diệt đàn voi dữ ở ký túc xá là làmđơn gửi lên nhà trường, chỉ mặt, vạch tên từng người một với cụ thể những việc chúng làm. Ngay lập tức nhà trường cử một đoàn kiểmtra xuống gồmđại diện Ban giámhiệu, Phòng giáo vụ, Phòng quản lý học sinh, sinh viên, Ban quản lý ký túc xá, Đoàn thanh niên, Đội xung kích để thẩmtra, thu thập bằng chứng giúp Hội đồng kỷ luật nhà trường nghiêmtrị những sinh viên cá biệt. Buổi họp Hội đồng kỷ luật nhà trường đầu tiên mà Đàn thamdự với tư cách là bên nguyên, thậmchí hơn thế, như một công tố viên, đã thất bại thảmhại. Những con voi dữ ở trường Đàn có quá nhiều kinh nghiệmđể đối phó với những buổi họp như thế này. Phạt vạ ở quán nước hômthứ sáu tuần trước ư? Không, hômấy bạn A mời chúng em ra đấy ngồi chơi vui với nhau đấy chứ. Anh emmời nhau chén nước điếu thuốc là chuyện bình thường, có vấn đề gì đâu ạ. Không tin các thầy cứ hỏi A xem. Xin đểu đôi giầy của B ở phòng 104 ấy ạ? Đâu có, hômấy chúng emtổ chức sinh nhật, emmượn của B hẳn hoi, rồi bận đi thực tập nên chưa trả được, tối hômqua emmang sang gửi B rồi, anh emrất vui vẻ, các thầy cứ hỏi B xemcó đúng thế không ạ? Vâng, vâng, cái chuyện đánh C ở nhà ăn hômchủ nhật vừa rồi là có thật. Nhưng không phải vì nhìn đểu nhìn điếc gì đâu ạ. Chẳng qua đi học về muộn, tất cả đều đói nên chen lấn nhau vào lấy cơm. Emnghĩ mình học trước mấy khoá, là đàn anh nên dù sao cũng cần được tôn trọng tí chút. C hômấy hơi xâng xấc, đến sau lại đòi chen ngang lấy trước nên emnóng, tát C một cái, đúng một cái thôi ạ. Chiều hômqua
emđã gặp C xin lỗi rồi ạ. Anh emcó gì bỏ qua cho nhau, cần gì phải làmphiền đến các thầy như thế này đâu ạ.
Lần đầu tiên Đàn hiểu được cái lưỡi của con người ta làmđược nhiều điều ngoàisức tưởng tượng như thế nào. Những A, những B, những C được mời lên ngồi cả đấy, nhưng chả ai nói được gì ngoài việc xác nhận tính chân thực của những lời bào chữa từ đámbị cáo đã quá dạn dày với những kiểu họp Hội đồng như thế này. Giữa cuộc họp tình người như được hâmnóng, mọisai phạmvụt trở thành những điều vụn vặt chẳng đáng phải đemra xemxét. Mà cố ép vào hình thức cảnh cáo hay khiển trách cũng thấy nó thế nào ấy, chả ra làmsao cả. Thôi thì thay mặt Ban giámhiệu, thay mặt Hội đồng kỷ luật mong các emđoàn kết thân ái với nhau, cố gắng giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong học tập. Các anh khoá trên trong quan hệ với các emkhoá dưới cũng nên rõ ràng, minh bạch, tránh hiểu lầm. Chấm hết. Tan họp.
Những lần thamgia họp Hội đồng kỷ luật sau này Đàn còn vỡ lẽ ra nhiều điều nữa mà những chàng Đônkihôtê mới vào trường như Đàn không hiểu được. Những kẻ bị đemra kỷ luật quỉ biện đã đành, đứng sau họ lại còn cả tập thể lớp với đại diện là lớp trưởng, bí thư, rồi giáo viên phụ trách, rồi đại diện khoa, mỗi người đều ra sức bênh vực cho người của lớp mình, khoa mình. Bài học duy lý sâu sắc nhất mà Đàn học được chính là ở những buổi họp tập thể kiểu này. Phi chứng lý bất tội trạng. Lời nói lại dập lời nói, người phán quyết thường ngự trên đỉnh chóp quan liêu, cho nên kết cục chỉ là tát nước bằng tay, mệt người mà chẳng tích sự gì. Với riêng Đàn, kết cục chưa phải đã dừng lại ở đấy. Ân oán bao giờ cũng được giải quyết về đêm.
Và chỉ ngay đêmhômsau thôi.
Đàn đang mơ thấy mình ngồi trong con đò của ông lão Thảnh nghe khúc hát văn với bồng bềnh sóng nước thì bỗng nhiên con đò lắc mạnh. Đàn tối tămmặt mũi, đầu óc choáng váng, cảmgiác đau thốc, buốt nhói ào đến, lan ra toàn thân, gămnhức, tê điếng. Đàn hét lên ú ớ. Cả phòng bật dậy. Bốp. Chát. Hứ... hự! Đây chỉ là đòn cảnh cáo thôi, mày sẽ phải trả giá! Câu nói đó được némlại nhanh như gió nhưng quẩn mãi bên tai Đàn. Điện được bật sáng. Đàn co quắp, bó tròn trong đống chăn màn bùng nhùng. Với tư thế như thế kia Đàn hoàn toàn thụ động khi bị tấn công, cách tự vệ hiệu quả nhất là đưa hai tay lên ômchặt lấy vùng đầu. Lên báo cáo với Đội xung kích Đàn nhé? Hay báo Ban quản lý ký túc xá? Những thằng bạn cùng phòng nhao nhao lên chia xẻ với Đàn bằng cách đó. Đàn bảo: Thôi, chúng mày đứa nào có cao cho tao xin một ít rồi đóng chặt cửa lại ngủ tiếp đi. Hai ba vệt gậy vụt hằn lên, đỏ rực ở mạng sườn, đùi và cánh tay Đàn. Môi hơisưng vì bị đấm, ngực nhói đau bởi cú đạp thật lực trước khi đòn "hội đồng" chấmdứt. Dù sao bọn chúng cũng còn chừa cái đầu của Đàn, không trút xuống đó vài ba cú gậy thù. Những đêmtiếp theo cửa phòng Đàn được buộc chặt. Nhưng phòng ở tập thể, người ra kẻ vào không biết đâu mà kiểmsoát, nếu hômnào người ngủ sau cùng lỡ về muộn một tí là cả phòng phấp phỏng lo âu. Căng thẳng nhất vẫn là Đàn. Lúc nào cũng có cảmgiác bị rình rập, bị trả thù. Đàn nghĩ đến cách tự vệ nhưng chẳng lẽ lúc nào cũng giắt một cây côn ở trong người? Vẫn biết cách tự vệ tốt nhất là chủ động tấn công. Nhưng tấn công phải trên cơ sở danh chính ngôn thuận, nếu
không khi đưa ra trước Hội đồng kỷ luật Đàn cũng lại được xếp vào cùng một rọ với bọn chúng mà thôi. Đàn viết đơn tình nguyện xin vào Đội thanh niên xung kích của nhà trường. Đàn được phát một chiếc băng đỏ đeo ở cẳng tay và một chiếc dùi cui cũ bằng gỗ, tróc sơn, nhamnhở. Đội trưởng xung kích từ khi có Đàn như rồng thêmvây, như chimthêmcánh, tích cực lùng sục, hạch hỏi, trấn áp những sinh viên thích chơi trò bạo lực. Thì ra đội trưởng cũng phải nín nhịn những con voi giấy này từ lâu lắmrồi. Chỉ vì thiếu những đội viên có dũng khí, có bản lĩnh nên lực lương xung kích chưa đủ sức để trị lũ đại ca học đường. Đàn về với đội trưởng, khoác băng đỏ được hơn tháng, tiếng tămđã nổi khắp ký túc. Đống biên bản lưu cữu ở Đội xung kích hàng mấy nămliền chẳng mấy chốc đã hết veo. Biên bản được lập với tất cả những sinh viên nào vi phạmnội qui ký túc xá. Đánh bạc, uống rượu say, chơi quá giờ qui định, gây rối, quan hệ nam nữ không lành mạnh, dùng bếp dầu, ri đô, để xe sai nơi qui định... tất tần tật, thanh niên xung kích lập biên bản đưa lên Ban giámhiệu xử lý. Đàn đã tạo ra được cho mình một cái thế mới. Và dù có sứt đầu mẻ trán thì Đàn cũng vẫn không sợ vì Đàn làmviệc nhân danh lẽ phải, nhân danh tổ chức, nhân danh nội qui nhà trường. Đàn rình rập bắt Phương lé đi chơi về muộn giữa lúc Phương đang loay hoay trèo cổng vào ký túc xá. Đàn rút dùi cui phang túi bụi vào đầu Hải cẩu khi hắn dámgây rối ở khu B1. Đàn tổ chức khámphòng ở thu cây kiếm dài mét rưỡi của Hùng ve ngay giữa ban ngày, trước con mắt của hàng trămsinh viên ở dãy nhà B2. Đàn cùng với đội trưởng xốc lại lực lượng xung kích của nhà trường khiến nó ngày một mạnh hơn, liều hơn, tích cực hơn, say việc hơn. Cái thế của Đàn là thế núi, thế rừng, voi phải tránh, hổ phải phục. Đó cũng là cách tự vệ tốt nhất để không còn kẻ nào dámđộng đến Đàn.
Nhưng ở đời cái gì cũng có hai mặt. Say một cái gì đó quá thì cũng không tốt. Đàn say quyền dù đó chỉ là thứ quyền lực của một anh đội phó Đội thanh niên xung kích, quyền năng không vượt quá mười điều qui định của Nội qui ký túc xá. Mục đích ban đầu của Đàn là trấn áp lũ Phương lé, Hải cẩu, đến khi đạt được rồi thì Đàn lại quay sang cần mẫn đi làmcái việc phạt các đôi lứa tình tự trong ri đô, phạt đốt bếp dầu và để xe đạp không đúng nơi qui định. Trong quá trình thực thi nhiệmvụ của một đội viên xung kích Đàn dần quen với cách vung dùi cui để xử lý mọi tình huống. Đàn sa vào tự phụ. Không biết tự bao giờ Đàn thích được chào hỏi, được ghi nhận công trạng, được chiêu đãi dù chỉ là một chiếc bánh gai hay chén nước trà. Đôi khi bí lên Đàn cũng hỏi vay tiền người này, mượn áo người nọ. Đàn không cần biết những kẻ cho Đàn vay tiền hay mượn áo đó là do nể Đàn, quí Đàn hay sợ Đàn. Có những lúc Đàn đã dẫmvào vết chân đi trước của lũ voi độc mà Đàn từng xua đuổi. Cũng là xin đểu, phạt đểu cả thôi, các namsinh khoá mới cũng có những người ưa quan trọng hoá vấn đề, đã lập luận thế. Và ở cuộc họp Hội đồng kỷ luật của nhà trường được mở vào nămsau, trong số những lá đơn gửi đến cũng có một lá tố cáo Đàn đã lợi dụng danh nghĩa Thanh niên xung kích để xin đểu tiền của một sinh viên cùng quê. Đàn ngã ngửa người, biện hộ một cách vấp váp, rời rạc, vừa cáu người, thương mình vừa bực người lại vừa giận cả mình. Thà đừng nhận đồng hương cho xong. Mà cậu ấy lại có vẻ con nhà khá giả. Cậu ta mời Đàn ra quán uống nước, thấy cậu ta móc ra nhiều tiền quá, Đàn bảo: - Anh còn nợ quán này mười bốn đồng, chú cho anh vay trả luôn cho họ, coi như anh giữ tiền hộ chú, ít ngày nữa rồi anh trả chú sau.
Cũng tưởng là tình đồng hương thân thiết thế này thì có thể làmanh emvới nhau được. Mà cậu ấy trông hiền lành, thỏ thẻ như con
gái, Đàn có ý quí mến cậu ấy thực sự mới bỗ bã hỏi vay chứ ai ngờ đâu mình nghĩ thế nhưng người ta lại không nghĩ thế. Đàn muối mặt bộc bạch hết sự thể cho Hội đồng nghe nhưng nghe thì nghe vậy còn đằng sau những nét đămchiêu của từng vị uỷ viên Hội đồng kia họ nghĩ gì thì có trời mới biết được. Kết luận sau cùng của cuộc họp là Đàn phải cởi băng đỏ ở cẳng tay ra, bàn giao lại cùng với dùi cui
cho người khác, hạ một bậc hạnh kiểm, trừ đi không phảy hai điểmtrung bình trung. Người đầu tiên đến "chia buồn" với Đàn khi hay tin ấylà thằng Bằng cùng phòng. Nó bảo:
- Trả mũ áo cho triều đình rồi hả? Đây có lời thành thật chia buồn nhá.
Đàn nhìn thẳng vào mắt nó hỏi:
- Mồmmày nói chia buồn mà sao mặt mày cứ tươi hơn hớn thế?
Thằng Bằng nhún vai:
-Thì phải tiêu hoá nỗi buồn ngay chứ. Tao đã bảo mày rồi, cứ thích vác tù và hàng tổng làmgì. Tao còn nghi ngờ về việc mày học triết nữa kia. Mày không có dáng làmđày tớ của nhân dân đâu.
Nói xong thằng Bằng xoa xoa chân, ngửa người quay mặt vào tường đưa tay ấn chiếc cát xét cả dãy ký túc chỉ duy nhất nó có. Băng nhạc vàng quay đi quay lại đến cả ngàn lần lại ri rỉ ri rỉ mấy giọng hát hải ngoại, gieo vào lòng Đàn nỗi chán ngán. Đàn chả ưa gì thằng Bằng. Nó là một thằng rất khó chơi. Bố nó làmphó bí thư tỉnh uỷ một tỉnh miền duyên hải nên nó là đứa sung túc nhất phòng. Nó nghiện mực nướng. Người nó lúc nào cũng bốc ra cái mùi tanh nồng biển cả ấy. Nó có thể nhai mực bất kỳ chỗ nào. Trong túi quần nó lúc nào cũng có vài mảnh mực khô.
Thằng Bằng từng ủng hộ Đàn nhất mực trong việc dẹp lũ Phương lé, Hải cẩu nhưng lại cămĐàn thấu xương vì chuyện Đàn cứ thích chõ mắt vào sau tấmmàn ri đô của chị em. Giải quyết những mụn trứng cá tầng tầng lớp lớp trên mặt là việc làmquan trọng hơn hết thảy, kể cả việc lên giảng đường ghi ghi chép chép để sau này ra trường về quê nối nghề của bố. Cách giải quyết mụn trứng cá của thằng Bằng là hàng đêmlần mò chui rúc vào sau tấmmàn ri đô xanh, đỏ bên dãy nữ sinh. Nó vật lộn con người ta phờ phạc ra rồi về phòng thản nhiên kể lại một cách rất hào hứng. Bằng không đẹp trai nhưng lại có quá nhiều kinh nghiệmtrong việc phỉnh phờ phụ nữ để làmcái việc đưa ra khỏi người thứ trùng trắng bất trị. Bằng rủng rỉnh tiền bạc, lại có cái ô to đùng ở trường, nên sức hút đối với chị emrất mạnh, đáng để các namsinh cùng khoá phải ghen tỵ. Sự hamhố da thịt đàn bà ở Bằng là vô độ nên thân xác lúc nào cũng lẻo khoẻo, ngồi đâu ngủ gật đấy, nhưng hễ choàng mở mắt ra là phóng những tia cú vọ về tứ phía được ngay. Bằng bị những kẻ xu nịnh bố làmhỏng từ sớmnên trong hòmlúc nào cũng có những tập ảnh phô bày những thứ người ta cần che đậy. Bằng mang ra cho cả phòng xemnhững bức ảnh đó
rồi giảng giải về cáisự giao ái của con người một cách say mê, cả bọn cười rú lên với nhau, mắt thằng nào cũng lờ đờ limdimtha sức tưởng tượng về những vùng miền da thịt, đêmxuống lại thả sức phóng tinh, ú ớ khoái lạc, sáng hômsau ngượng nghịu dậy sớmđi thay quần. Đàn cũng nằmtrong số những kẻ bị mê hoặc bởi những câu chuyện tính dục từ Bằng. Về khả năng thoả mãn bản năng sinh lý thì quả thật Bằng có quyền cười mỉa vào lũ namsinh đồng môn, những kẻ cũng đầy ứ những dục vọng như Bằng nhưng lại chả dámcông khai thừa nhận, lúc nào cũng giấu giấu diếmdiếmmột cách khổ sở. Tuy nhiên tính dục phải đi liền với văn hoá, tất cả những thanh niên namnữ thời ấy đều được dạy rằng quan hệ namnữ bất chính là phi đạo đức, phi pháp, không lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến môi trường sống xung quanh. Vì thế Đàn đã bắt Bằng phải ký vào biên bản bởi những việc Bằng làmsau tấmri đô trong một lần đi kiểmtra phòng ở của nữ sinh. Bằng thù Đàn từ đấy. Bằng nhìn ra trong cái con người nhà quê của Đàn có rất nhiều điều lố bịch và nực cười. Bằng lại là người có cái lưỡi móc câu, lời nói nào của Bằng bung ra cũng giật lên được một vài mảnh hồn bầmtímcủa Đàn. Nó hỏi Đàn:
-Quê mày bây giờ đi ăn cỗ có còn húp nước xáo cho no bụng còn thức ăn để dành chia phần cho nhau mang về không? Đàn bảo:
- Kể ra thì đó cũng là một nét ứng xử văn hoá của những người nghèo. Đáng thương nhưng không đáng khinh. Thằng Bằng thủng thẳng:
- Tao chả hiểu được cái thứ mày nói ấy nó văn hoá ở chỗ nào, nó chỉ làmtao liên tưởng đến nét sinh hoạt của loài người dưới chế độ thị tộc nguyên thủy mà thôi. Cái thời người ta ăn lông ở lỗ ấy, nói theo cách của mày là cũng đáng thương chứ chả đáng khinh.
Thằng Bằng có khả năng ăn nói đến mức quỷ biện. Trong một buổi xêmina, khi nói về sự phân chia đẳng cấp trong xã hội ấn Độ cổ đại, nó liên hệ một cách rất tài tình như thế này: Con người ta sinh ra không ai bịsố phận đóng dấu nô lệ lên mặt cả. Trước tạo hoá con người đều bình đẳng, cái nghèo không phải là điều đáng xấu hổ mà đáng xấu hổ là tư tưởng chấp nhận đói nghèo. Hầu hết các bạn ngồi đây đều có một lý lịch gắn liền vớisự nghèo đói, song chúng ta không mặc cảmvề điều đó, vì chúng ta ý thức được đói nghèo đẻ ra cách mạng. Chúng ta đi cùng đói nghèo đến khi nào cách mạng thành công thì thôi. Cách mạng thành công thì không còn đói nghèo nữa. Không ai có quyền giàu có khi những người xung quanh mình nghèo đói. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận bình quân nghèo đói chứ không để cho sự giàu có xuất hiện ở một vài lớp người vì như thế sẽ lạisinh ra đẳng cấp. Bình quân nghèo đói cũng là một cuộc cách mạng vì chứng tỏ trong xã hội đã không còn đẳng cấp nữa. Và chẳng bao lâu chúng ta sẽ đạt được bình quân giầu có khi mà của cải dư thừa, xã hội tiến lên cơ giới hoá rồi tự động hoá. Nhưng đó là sau này, còn bây giờ chúng ta chấp nhận nghèo đói và có quyền ngẩng mặt tự hào vìsự nghèo đói của chúng ta hômnay có sự thay đổi về chất đối vớisự nghèo đói trong xã hội cổ đại ấn Độ mấy ngàn nămtrước đây. Nói cách khác sự nghèo đói trong xã hội phân chia giai cấp là đói nghèo tự phát, còn đói nghèo trong xã hội ta hiện nay là đói nghèo tự
giác. Một dân tộc biết tự giác đói nghèo là một dân tộc biết kết liễu nghèo đói để chuyển sang giàu có.
Đứng trước số đông thằng Bằng biết kích động lòng tự hào đói nghèo và khéo léo ru ngủ những số phận nghèo đói nhưng với riêng Đàn thì nó lại luôn chứng minh cho Đàn thấy đói nghèo sinh ra nhục nhã, hèn kémvà ngu dốt. Nó không ưa Đàn nhưng không chịu rời bỏ Đàn. Hình như nó tìmthấy niềmhứng thú trong việc kích động, mạt sát cái thằng nhà quê trong con người Đàn. Nó bảo Đàn: Mày giặt hộ tao toàn bộ đống chăn màn này tao sẽ cho mày cái áo Natô cũ kia. Hoặc: Tao sẽ cho mày một nửa lọ sườn muối nhưng mày phải tẩm quất cho tao ba buổi, mỗi buổi bốn mươi phút. Nó luôn đặt Đàn trước sự lựa chọn khó khăn. Và Đàn thường chấp nhận đánh đổi một chút tự ái để nhận về mình chiếc áo Nato hay lọ sườn rang muối để rồi ấmức mà không làmgì được. Cũng phải thừa nhận là thằng Bằng sòng phẳng. Nó chỉ muốn Đàn là Đàn và nó là nó. Mà Đàn là Đàn nghĩa là luôn theo sau gót nó về ý nghĩa sống. Nếu đã nhận như thế thì ở khía cạnh này thằng Bằng lại là người tốt nữa kia. Nhưng Đàn cố gắng giãy giụa để không muốn rơi vào sự an bài rất mơ hồ nhưng khắc nghiệt, u uẩn, nhục nhã đó. Và Đàn muốn phá vỡ sự an bài danh phận bằng cách sẽ chứng minh cho Bằng thấy Đàn cũng có những giây phút chớp loé trong cuộc đời chứ chả phải như củ khoai củ sắn cứ ngậmngùi nằmtrong bóng tối dưới gầmgiường. Việc làmchớp loé đầu tiên của Đàn là tổ chức sinh nhật. Trước đó hàng tháng Bằng đã xỏ xiên Đàn rồi. Bằng bảo: Mày sinh ở gốc cây bạch đàn nên phía trước cuộc đời mày là màn trời chiếu đất. Nămnay mày có định đốt nến kỷ niệmngày sinh không hay hưởng đèn giời quen rồi? Thôi thì Đàn nuốt hận, bỏ qua đi có lẽ phía trước cuộc đời dài rộng kia Đàn sẽ còn có dịp thanh toán nợ nần với Bằng nhưng Đàn lại bảo: Có chứ, tao không mọi rợ như mày nghĩ đâu, sinh nhật tao sẽ có rượu chảy, hoa tươi và bánh ga tô. Ba chục bạc chứ mấy, cũng là trả nợ anh emchiến hữu thôi. Ôi, khơraxô, Bằng lập tức đổi giọng, thế thì tao sẽ tặng mày nửa cân mực khô, nhớ nhé!
Nhớ nhé, Đàn nhớ nhưng kiếmđâu ra ba chục bạc bây giờ? Không thể để thằng Bằng cười vào mũi Đàn được. Đàn nghĩ tới hai người có thể giúp được Đàn ba chục bạc lúc này. Đó là anh Dương và thầy Quý.
Đàn vội mượn xe hămhở đạp tới chỗ hai người.
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 3
Chương 3 -
Anh Dương vừa nhìn thấy Đàn, bảo ngay:
A
-Tuần sau anh đi thực tập. Bằng tầmnày sang nămlà anh đi làmrồi. Đờisinh viên sao mà dài thế. Không biết đến bao giờ mới hết khổ.
Đàn bảo:
- Hômnay là sinh nhật em...
Anh Dương tiếp:
- Anh cũng đã tính rồi, học song có thể anh sẽ được điều đi công tác ở Việt Trì hoặc Quảng Ninh. Hai nơi đó mới xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp nên cần đến bọn anh. Nhưng nhiều khả năng anh sẽ xin về Việt Trì vì có một cô là con gái ông giámđốc công ty vật tư tổng hợp ở trên đó yêu anh lắm. Hômnọ ông ấy xuống đây cũng hứa là sẽ nhận và xếp việc cho anh.
Đàn bảo:
-Hômnay là sinh nhật em...
Anh Dương tiếp:
-Cô ấy thì không được đẹp, chỉ được cái mũmmĩmthôi. Anh hỏi mẹ rồi. Mẹ bảo: chỉ cần cáisức khoẻ. Mẹ cũng hỏi anh: Con ở trên đó có giúp được gì cho emnó không? Anh bảo: Nó chẳng thiếu thứ gì, con sang trường nó thấy còn sướng hơn trường con. Công nhận
ký túc trường emđẹp thật. Mà cơmbên đó nấu cũng ngon.
Đàn bảo:
-Hômnay là sinh nhật em...
Anh Dương tiếp:
-Hômđi mẹ đưa anh trămbạc, bảo lên đây nếu emcần tiêu gì thì đưa emmột nửa. Nhưng chắc emchả tiêu gì mà cần đến tiền. Anh lấy tiền đó mua bộ quần áo với ít đồ lặt vặt để chuẩn bị đi thực tập. Vừa vặn hết. Nếu còn thì anh mua thêmđôi dép quai hậu. Nhưng thôi, chả có cũng được.
Đàn bảo:
-Hômnay là sinh nhật em...
Anh Dương tiếp:
-Anh còn thích một cái mũ nồi nữa cơ. Nhưng cô bạn anh bảo ở nhà bố cô ấy có mấy cái liền dùng chả hết, hômnào cô ấy sẽ tặng anh một cái.
Bỗng anh Dương dừng lại, có vẻ như khó chịu khi phải dừng dòng tâmsự của mình để chuyển sang vấn đề khác.
-Embảo... sinh nhật á? Lại đua đòi với bọn sinh viên tiểu tư sản rồi. Không hợp với nhà mình đâu Đàn ơi. Thôi thì hômnay ở đây ăn cơmvới anh. Cô bạn anh có món ruốc ngon lắm. Nhé?
Anh Dương vẫn là anh Dương của Đàn dămnămvề trước. Hồn anh toàn đá với núi thôi, hoa không thể mọc được trên đó. Đàn chào anh rồi về, chiều cũng đã muộn. Đàn rẽ vào khu tập thể giáo viên. Thầy Quý đang cởi trần quạt than tổ ong. Thấy Đàn thầy bảo: Vào nhà đi, nước thầy để trong chai đấy. Cô đi chấmthi ở Hải Dương mai mới về. Đi cả tuần mà để lại cho ba bố con có hơn chục bạc. Đúng là đàn bà, keo kiệt lắm!
Rồi giữa khói bếp mịt mù thầy lại nói về bi kịch của Aiskhylos. Thầy Quý là chủ nhiệmlớp của Đàn. Thầy dậy lịch sử Hy Lạp cổ đại, thỉnh thoảng có dạy thêmmỹ học. Niềmđammê lớn nhất của thầy là kịch. Thầy đặc biệt mê kịch Aiskhylos.
-Hômnọ thằng sân khấu có mời thầy giảng về Sếchpia. Chẳng thích bằng Aiskhylos. Thầy đang liên hệ với thằng Nhà hát kịch Hà nội dựng vở Các thiếu nữ van xin. Kể ra dựng được vở Prométhée bị xiềng thì hay hơn.
Đàn hỏi:
-Cô để lại ít tiền thế thì thầy sống bằng cách nào?
Thầy Quý để cho cửa lò quay ra hướng gió rồi vào nhà ngồi tiếp Đàn. Thầy bảo:
- Thầy dịch xong bộ ba Agamemnon-Các phụ nữ mang rượu lễ và Các nữ thần dịu hoà rồi. Tuyệt lắm! Nhưng thầy nói thêmcho em hiểu về đặc trưng của kịch nhé. Về phương diện nhìn, nghệ thuật trình diễn sử dụng những phương tiện của hoạ và điêu khắc. Về phương diện nghe, nó sử dụng những phương diện của thơ và nhạc. Nhưng trình độ nó cao hơn cả họa, điêu khắc, thơ và nhạc, vì nó có hành động tạo cho mắt những mĩ thú trực tiếp, cụ thể, sinh động. Cái thú ấy lên tới cực độ khi các hành động diễn ra trong một khung cảnh chung, xen kẽ, đối lập nhau, cái nọ giải quyết cái kia và cùng nhau diễn tiến theo một chiều hướng chung tới một kết cục hợp tình, hợp lý, dường như tất yếu. Nghệ thuật trình diễn phát huy tác dụng trên hai diện, diện các hành động cụ thể gây cảmthú mĩ thuật cho giác quan đặc biệt là mắt và tai, diện tính cách tức nội tâmnhân vật qua các xung đột tạo cho lý trí cái thú tìmhiểu nội dung một câu chuyện.
Đàn hỏi:
- Cô để lại ít tiền thế thầy sống bằng cách nào?
Thầy Quý tiếp:
-Tới thế kỷ nămtrước công nguyên thể loại thơ đã thu được một số thành tích trong các thể anh hùng ca, thơ trữ tình. Nhưng từ anh hùng ca đến thơ trữ tình, thơ đi vào con đường ngày càng chật hẹp xét trên phương diện rung cảmthẩmmĩ. Kịch và nhất là bi kịch không thể nào thoả mãn với các rung động nghèo nàn, nhỏ bé của cá nhân trong khi thời đại đang rung chuyển dưới chân, xã hội Hy Lạp đang không ngừng biến chuyển. Chức năng của bi kịch là phản ánh những sự kiện vĩ đại ấy, rung động do bi kịch đemlại thật vô cùng mãnh liệt. Aiskhylos đã soạn tới bảy mươi vở bi kịch trong đó có những vở kinh điển như Các thiếu nữ van xin, Quân Ba Tư, Bảy tướng đánh Thèbes, Prométhée bị xiềng, đặc biệt là bộ ba vở Oreste.
Đàn hỏi:
- Cô để lại ít tiền thế thầy sống bằng cách nào?
Thầy Quý tiếp:
- Bi kịch của Aiskhylos toàn đưa ra những vấn đề kinh khủng như công lý, cưỡng hôn, loạn luân, trả thù, hành quyết xoay quanh các chủ đề tôn giáo, đạo đức, dân chủ, chiến tranh, hoà bình, con người, phụ nữ, hạnh phúc. Đoạn cuối của vở Các nữ thần dịu hoà trong bộ ba vở Oreste có đoạn đối thoại rất tuyệt. Tại phiên toà do nữ thần Athena xét xử, các nữ thần Phục thù cáo buộc Oreste giết mẹ. Oreste bào chữa việc mình giết mẹ là vì mẹ giết cha. Việc làmấy của mẹ sao không bị trừng phạt? Các nữ thần Phục thù trả lời: Vì Klytemnestra không cùng huyết thống với chồng. Oreste cũng lập luận: Tôi không cùng huyết thống với mẹ. Các nữ thần Phục thù hỏi: "Hung thủ kia, trong lúc anh nằmtrong bụng mẹ, bà ta nuôi anh thế nào? Chẳng lẽ anh chối không uống máu quí vô ngần của người mẹ hay sao?". Để bào chữa cho Oreste, thần Apollon lập luận: "Người mẹ chỉ có công nuôi dưỡng mầmhạt đã gieo trong bụng mình mà thôi. Ngườisinh, chính là người đàn ông giao hợp với người phụ nữ. Như nữ thần Athena, con của thần Zớt trên núi Olimpe, đâu phảisống và được nuôi dưỡng trong đêmtối của bụng người mẹ". Cuộc tranh luận kết thúc. Hội đồng xét xử bỏ phiếu, số phiếu thuận và phiếu chống ngang nhau. Thực ra đây là cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm: Giết người cùng huyết thống mới có tội hay đã giết người đều là có tội? Suy rộng ra là tiến hành chiến tranh xâmlược tàn hại người khác dân tộc có tội hay không có tội? Nữ thần Athena đã bỏ lá phiếu cuối cùng của mình cho quan điểmthứ hai.
Đàn bảo:
- Cô để lại ít tiền thế thầy sống bằng cách nào?
Thầy Quý tiếp:
- Một dân tộc có nhiều bi kịch là một dân tộc có số phận long đong. Bi kịch thường đẩy các dân tộc tớisự huỷ diệt hoặc vụt lớn mạnh mẽ chưa từng thấy. Lịch sử dân tộc ta cũng là lịch sử những bi kịch nhưng lại không được phản ánh nhiều bởi nghệ thuật. An Dương Vương chémMị Châu, Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng, Trần Thủ Độ ép chết cả một dòng họ để tiếmngôi, Vũ Như Tô xây cửu trùng đài thoả mãn khát vọng nghệ thuật nhưng lại chấmhết sự tồn tại một triều đại, dòng họ Trần loạn luân, triều đình Nguyễn có những ông vua thiếu niên lê xích sắt đi đầy. Toàn những vấn đề lớn, những mảng miếng mầu mỡ của bi kịch, vậy mà...
Đàn bảo:
- Thầy ơi, hình như nước sôi?
Thầy Quý như chợt nhớ ra, vội đứng dậy chạy xuống bếp. Lúc quay lên Đàn thấy thầy cầmchiếc rá con. Chết thật, mải nói chuyện quá quên cả đi vay gạo. Hà hà. Cô có đi cả tháng thầy cũng vẫn có cái ăn. Ngồi uống nước nhá, thầy sang bên này một tí. Đàn nhìn theo dáng đi tất bật của thầy Quý mà nén tiếng thở dài. Xung quanh Đàn không thiếu những người tốt nhưng không phải ai trong số họ cũng sẵn có ba chục bạc trong túi. Đàn từ chối ở lại ăn bữa cơmtối với thầy Quý, lặng lẽ lên xe đạp đi một cách vô định. Những khu nhà lắp ghép ngửa ngang, dãy bách hoá tổng hợp hào nhoáng nhưng rỗng tuếch, rặng xà cừ xanh thẫm, thảmnhiên hứng bụi, xe điện bánh hơi vờn mình bò đi chậmchạp, những cô gái Hà Thành mỏng manh, vẹo vọ trên những chiếc xe đạp Mipha, đôi ba chàng sinh viên khoác bị đi bộ dưới lòng đường. Tất cả nhoang nhoáng lướt qua mắt Đàn. Dãy hàng hoa người đứng, kẻ ngồi đông đúc hơn cả. Hà Nội có lẽ là nơi tiêu thụ nhiều hoa tươi nhất. Cuộc sống vẫn vận động như nó vốn thế. Anh Dương ăn ruốc của người yêu mơ tới ngày ra trường và thèm một chiếc mũ nồi đen. Thầy Quý vác rá đi vay gạo hàng xómmiệng vẫn nói không dứt về Promethée bị xiềng bằng sự say sưa vô lo. Người ta vẫn vào bách hoá tổng hợp để mua xà phòng và thuốc lá. Namnữ vẫn lựa những bông hoa thật đẹp để thi vị hoá cuộc sống. Chỉ có Đàn chạy vạy, vất vưởng, lạc lối ngay trên con đường của mình. Không thể trở về phòng để va mặt vào thằng Bằng lúc này được. Bọn Phương lé, Hải cẩu, Tiến sẹo, Hùng ve cũng đã lần lượt biến khỏi ký túc xá. Có đứa ra trường, có đứa vào tù, cũng có đứa bỏ về quê. Đừng tìmkiếmbất cứ điều gì ngoài tri thức ở giảng đường đại học. Sự yêng hùng, thói trăng hoa, những khát vọng phù phiếmrất dễ đẩy anh đến chỗ đánh mất đi mục đích ban đầu. Đầu vào của trường đại học là A, đầu ra sẽ là A phẩy nhưng cái phẩy ở đây phải là thứ tri thức mà A tắmrửa, ngụp lặn trong suốt nămnămtrời. Đừng để lúc ra trường A lại là một A ngược, chân chổng lên trời đầu lộn xuống đất, bi kịch của một thằng tri thức nửa mùa sẽ lập tức ập đến. Nhưng những suy nghĩ của Đàn lúc này không được minh bạch, rạch ròi như thế. Đàn chỉ thấy sự réo gọi, xỉ vả ở sau lưng nếu Đàn quay lại mà không có ba chục đồng bạc trong túi. Tư cách của Đàn, danh dự của Đàn đang bị dồn đuổi. Đàn chạy đến phờ phạc cả người mà chẳng biết là chạy đi đâu, chẳng tìmnổi một chỗ dừng chân bình yên khả dễ có thể du ngủ thứ danh dự hão huyền kia. Cuối cùng thì Đàn cũng tìmthấy một nơi trú ngụ cho mình. Đàn ngồi trong góc kín nhất của quán bà Xuân béo. Đàn uống rượu với lạc rang, với bánh dừa, với chuối và với cái bánh mì ế sót lại nguội ngơ nguội ngắt. Quán xá chỉ có thế, Đàn dùng thế. Nhưng lạ một điều là lần đầu tiên Đàn thấy rượu có vị ngọt. Ngọt quá thể, lan từ đầu lưỡi xuống cuống họng, rồi râm ran, tê tê. Khoái thú quá. Mà cũng đáng uống quá, lúc này uống là tuyệt nhất, thưởng thức nhất, đời người đôi khi cũng phải có những lúc độc ẩm, những lúc một mình ta với ta, những lúc trở về với cái vị trí của một chút triết nhân ngồi trầmngâmtrong bào thai. Bà Xuân cứ ghi vào sổ nhá. Kỳ học bổng này sẽ thanh toán hết.
Đến lúc lũ bạn cùng phòng cũng phát hiện ra Đàn đang bỏ bomchúng nó để trốn ra quán bà Xuân ngồi thì Đàn đã chếnh choáng, đi không vững nữa rồi. Chúng nó lôi Đàn về. Ô hay, sao nhiều thứ thế này. Hoa, quà để đày trên mặt hòm, giắt cả vào thành giường nữa. Chúng tao phải tiếp khách thay cho mày đấy Đàn ạ. Các embên B2 sang đông quá. Thằng Bằng bảo mày đi lấy bánh ga tô, cứ chờ một tí là mày về. Chúng nó ngồi mãi chẳng thấy mày đâu, đành kéo nhau lốc nhốc ra vế. Mày làmbọn tao dơ quá. Mà cái thằng Bằng cũng dẫn trò dai quá. Nó bảo anh Đàn chỉ thị cho anh rồi, phải lo phần nhạc, phần đồ nhắmvà phần văn nghệ, còn lại nó sẽ lo hết. Các emcứ ngồi
đây chờ anh Đàn tí chút rồi chúng ta sẽ vui hết đêm. Ai dámđộng đến phòng này? Thanh niên xung kích là anh Đàn chứ là ai nữa Ban quản lý Ký túc xá là anh Đàn chứ là ai nữa. Bây giờ nó đang chửi mày kia kìa. Nó bảo: Bố Đàn ơi, bố lừa chúng con thế này thì con cũng xin lạy bố. Chắc lại mò ra cánh đồng, tìmđến gốc cây bạch đàn nào đó gồi tưởng nhớ về cái thủa hoài thai của mình rồi chăng? Đâu? Nó đâu? Đàn bỗng rũ mình, gạt lũ bạn cùng phòng ra xămxămđi tìmBằng. Bằng vẫn nửa nằmnửa ngồi ở giường trên, một chân buông thõng xuống giường dưới, vung vẩy theo điệu nhạc. Nghe tiếng lao xao, Bằng ngồi dậy, ngoảnh ra, thấy Đàn mắt đỏ vằn đi vào, Bằng hơi ngán nhưng vẫn lên giọng xỏ xiên: Mày đi đâu mà kỹ thế, chẳng ở nhà mà nhận hoa của các em, đẹp hết xẩy, cả đống kia kìa, quả là một đêmgiáng sinh đáng nhớ. Đàn bức tới cầmlấy cái cổ chân vẫn đang vung vẩy của Bằng giật mạnh. Bằng quá bất ngờ ngã lộn một vòng từ trên giường tầng xuống, hai tay cố nhoài lên bámvào thành giường trước khi ngã uỵch xuống nền nhà. Chuyện đời tao mặc mẹ tao, không khiến mày chúi mõmvào, nghe chưa? Bằng đau điếng người, máu nóng cũng bốc lên, đang ở tư thế nằmngửa, tiện chân Bằng đạp luôn một cái vào vai Đàn. Đàn ngã ra, toàn thân bốc nhiệt, lập tức cuộn người bật dậy, thò tay xuống dưới giường rút ra thang gỗ nhằm Bằng vụt túi bụi. Bằng chạy hết từ góc giường này sang góc giường nọ, mặt tái nhợt, mắt bạc phếch, lạc giọng kêu cứu. Mấy thằng bạn cùng phòng nhao vào can nhưng lại dạt ra vì Đàn chẳng còn biết gì nữa cứ lia thang gỗ khắp mọi ngóc ngách để lùa Bằng. Rồi trong lúc Bằng ngã xấp mặt xuống đất, khiếp đảmđến đứt hơi, Đàn lẳng lặng tiến đến nhấc bổng hai chân Bằng lên mang tới cửa sổ. Đàn! Những tiếng thét giật lên gọi Đàn dừng hành động rồ dại ấy lại. Nhưng Đàn như không nghe thấy gì hết. Đàn giữ chân Bằng, dốc ngược, bảo: Mày có muốn tao thả mày ra cho mày tan xác không? Bằng cong người lên, vòng tay cố bámlấy thành cửa sổ, mặt trắng bệch, miệng lắp bắp: Đừng... Đừng... Chết... Chết... Ngay lúc ấy, không chậmhơn, hàng chục người vội lao đến chỗ Đàn ra sức lôi Bằng lên. Có rất nhiều cánh tay vòng ngang ômchặt lấy người Đàn. Đàn gầmlên muốn thoát ra nhưng không giãy nổi. Những cánh tay cứ xiết lại, xiết lại, cặp cứng lấy Đàn. Nó say quá rồi, trói nó lại, đưa xuống phòng quản lý. Hình như có ai đó hét lên như thế. Nghe thấy bắt trói Đàn gồng người lên cố sức dẫy dụa bứt phá ra nhưng những vòng dây đã bủa lên người Đàn. Rồi trong ánh đèn mờ đục Đàn nhìn thấy thấp thoáng những mảnh vải đỏ trên những cẳng tay đang dơ ra túmlấy Đàn. Chiếc vòng số 8 duy nhất mà đội xung kích được trang bị bập vào tay Đàn. Những cánh tay gân guốc lôi Đàn đi xềnh xệch. Trước khi chúi đầu xuống đất chìmvào khoảng trống vô tư, Đàn còn nhận ra khuôn mặt non choẹt của cậu đồng hương khoá dưới đang hò hét hăng hái giữa đámđông. Trên cánh tay của cậu ta cũng có một tấmbăng đỏ. Đàn chợt nhận ra là Đàn chưa trả hết cậu ấy số tiền 14 đồng bạc oan nghiệt hômnào. Thầy Quý tự nhận về mình vai trò của thần Appollon đứng ra bào chữa cho Đàn trước Hội đồng kỷ luật nhà trường, và thầy cho rằng với cách lập luận đánh tráo khái niệm, các vị uỷ viên Hội đồng sẽ mềmlòng và lần lượt biến thành nữ thần Athen để bỏ phiếu trắng cho Đàn. Đàn cay đắng nhận về mình sự bất lực ngôn từ, không tự bào chữa nổi một câu. Từ một sinh viên hiền lành chămchỉ, đã từng giữ cương vị đội phó Đội xung kích được thầy yêu bạn mến, PhạmBạch Đàn đã sớmtự phụ, kiêu ngạo, không ngừng trượt dài trong sự sa ngã, cưỡng đoạt, xin đểu tiền của các emsinh viên mới nhập trường, uống rượu say gây rối, đánh đập bạn bè trong phòng, hành vi đã trở lên nguy hiểmkhi định thả bạn từ cửa sổ tầng hai xuống mặt đất. Đàn đã có chuỗi hành động ngày một côn đồ, hung hãn, đánh mất dần bản chất tốt đẹp của một ngườisinh viên chân chính dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. Mặc dù Đàn là một sinh viên có thành tích học tập khá, có đóng góp cho việc lập lại tình hình trị
an ở ký túc xá nhưng với những lỗi phạmcủa mình không thể không nhận hình thức kỷ luật của nhà trường. Mỗi lời nói của chủ tịch Hội đồng kỷ luật là một cái tát thẳng cánh vào mặt Đàn. Khủng khiếp quá. Hư hỏng quá. Đốn mạt quá. Lẽ nào Đàn lại là thế ư? Lưu manh, côn đồ, sa ngã, hư đốn. Thôi, thầy Quý ơi, thầy đừng mất công bênh vực cho emlàmgì. Những lời lẽ có cánh của thầy giờ đây lạc điệu, tả tơi, rách nát rụng rơi lả tả, thảmhại lắm. Chẳng giúp gì cho emđâu. Thôi thì việc emlàmemxin chịu, án kỷ luật buộc thôi học chưa phải đã đẩy emvào con đường cùng, chưa khiến emtrở thành một thứ bỏ đi. Giá hômấy emở lại ăn bữa cơmđạmbạc với thầy, ngồi nghe thầy nói về Các thiếu nữ van xin, về Quân Ba Tư, về Prômêtheé bị xiềng đến nửa đêmrồi ngủ lại với thầy thì có lẽ mọisự đã khác. Bây giờ thì thầy đừng nhọc lòng xin xỏ hộ emnữa, emxin nhận về mình hình thức kỷ luật mà không dámkêu than gì. Thằng Đàn này xin về quê cuốc ruộng một nămrồisẽ quay trở lại cắmmặt mà học cho xong những nămtháng đắng đót để có mảnh bằng đại học, để đủ lông, đủ cánh mà bay ra ngoài đời. Khốn khổ cho thân mày, nhớ đời chưa, Đàn ơi!
Người đầu tiên Đàn gặp khi bước chân đến đầu làng là Dịu. Dịu mặc một chiếc áo màu hồng nhạt, cổ lá sen, xẻ một lỗ hình quả bầu trước ngực có thắt haisợi dây trắng hình cánh bướm. Dịu bảo: Đêmqua emnằmmơ thấy anh về chơi. Tự nhiên chiều nay không làmđược việc gì cả, một mình thơ thẩn đi ra đây. Đón vu vơ vậy thôi, không ngờ anh về thật. Đàn quẳng chiếc túi xách xuống rệ cỏ, ngồi bệt lên một tảng đá dưới gốc gạo non, ngẩng mặt nhìn trời thở dài.
Dịu hỏi: Anh không thích phải nhìn thấy mạt emà?
Đàn không nói gì, đàn cò trắng lượn qua vòmlá, rẽ hướng về phía sông Măng. Dịu bảo: Anh có về bây giờ không hay cứ ngồi đấy mà nhìn trời? Sao anh lạ thế? Đàn cố đẩy khối khí nặng nề đang đè trĩu trong ngực mình ra. Dịu ơi, Dịu có thể hiểu và thông cảmđược cho Đàn, nhưng còn cả làng cả xã, Đàn biết ăn nói vơi họ thế nào đây? Đàn khổ tâmlắm. Về đến đây rồi lại chẳng muốn về nhà nữa, ước gì hoá đá ở ngay dưới gốc gạo này, Dịu biết không? Đàn úp mặt xuống đầu gối. Tán gạo rung lên những tràng cười ngạo nghễ. Dịu tiến đến chỗ chiếc túi của Đàn, xách lên rồi bảo: Emmang túi về về trước cho anh, anh về sau nhé! Đàn bật dậy, chạy đến giằnglại chiếc túi xách rồi lại vứt bịch xuống đất, mặt cúi gằm: - Đàn bị đuổi đấy, Dịu ra đón làmgì.
- Thảo nào trong giấc mơ hômqua emthấy anh buồn lắm. Anh chẳng nói năng gì cả, cứ đứng yên để cho bọn con trai lớp B trêu em. Anh đã phạmlỗi gì vậy? Đuổi hẳn hay chỉ cảnh cáo thôi?
- Đuổi hẳn.
- Khiếp. Bây giờ biết ăn nói với mẹ anh như thế nào? Mà anh nói thật hay nói đùa đấy? Emkhông tin đâu. - Thật đấy Dịu ạ. Đàn đang chán đời, đang không thiết gì nữa đây. Chẳng lẽ lại bỏ làng mà đi?
- Đừng. Thôi anh cứ về nhà đi. Nghỉ một nămrồi lại thi tiếp, sức học của anh như thế lo gì. ở nhà giúp mẹ một nămrồi lại đi học cũng được chứ sao. Chả ai quan tâmtới việc anh nghỉ đâu. Anh cứ bảo là ốmxin nghỉ một nămvề nhà chữa bệnh, ở lớp emcũng có một đứa bị đuổi đã nói dối như thế đấy. à, emra trường rồi. Tháng sau lên lấy bằng. Emlại về dậy ở trường mẹ emđấy.
Dù sao thì Dịu cũng giải toả giúp Đàn phần nào những lo âu đang đè nặng trong lòng. Đàn cúi xuống xách túi rồi theo Dịu đi về. Dịu líu lo kể cho Đàn nghe bao nhiêu là chuyện. Chuyện trường lớp, chuyện quê nhà, chuyện đi tìmhài cốt bố, chuyện mẹ từ chối đi bước nữa với ông phó chủ tịch xã, chuyện hômnọ có mấy anh ở phố về chơi, đi bốn, nămchiếc xe máy liền làmcả làng cứ xì xào, bàn tán mãi. Đàn hỏi: Thế có nhận được thư không? Dịu cười: Tổng cộng emgửi cho anh mườisáu lá, anh gửi về cho emcó támlá. Anh keo kiệt, bủn xỉn lắn. Làmemcứ dài cổ mà đợi. Bọn bạn emnó bảo con Dịu mất ăn mất ngủ vì chờ thư Hà Nội. Chúng nó nói láo. Có lá thư của anh gửi embỏ đấy hàng tuần không thèmđọc. Ghét cái mặt.
- Thì có mấy thứ, nói hết rồi còn gì nữa đâu mà viết. Nhiều lúc cũng thấy nhớ Dịu nhưng chẳng biết viết thế nào. - Điêu nhá. Văn hay nhất trường mà lại bảo không biết viết thư. Còn mải chơi, mải ngắmmấy cô gái Hà Nội chứ gì?
- Chả có gì để ngắmđâu, họ cũng như Dịu thôi. Nhiều lúc cũng muốn tâmsự với Dịu điều này điều kia, nhưng toàn chuyện đàn ông con trai với nhau, lại thôi.
- Hình như lên học trên đó anh nghịch lắmphải không? Ngày xưa anh hiền lắmcơ mà, anh có thích đánh nhau đâu. Emkhông thể tưởng tượng được anh lại cầmcây gậy vụt vào một ai đó. Mẹ emcũng bảo anh hiền như thế sau này thể nào cũng bị vợ bắt nạt. Vậy mà có lần anh bảo một mình anh đánh nhau với ba thằng đầu gấu liền.
- Con trai khó tránh được chuyện va chạmxô xát. Đàn lại làmtrật tự viên nên cũng phải thamgia quản lý ký túc xá, tức là làmcái anh đeo băng đỏ, thổi còi đấy. Bây giờ thì Đàn sợ tất cả những chuyện đó rồi. Được cái hào quang hão huyền nhưng lại mất đi cái thực chất là học tập. Đàn bị đuổi cũng vì chuyền ấy.
- Con trai bây giờ sao mà dễ bị kích động thế. Chả giống mấy chú bạn bố emgì cả. Họ hiền ơi là hiền, mà đánh nhau với Mĩ - ngụy thì gan góc, dũng cảmvô cùng. Nghe các chú kể chuyện thời chiến trường emlại càng thấy thương bố quá. Bố emchết ở một khu ruộng thuộc xã vùng sâu Hương Trà của Thừa Thiên- Huế. Bẩy người chôn chung một nấmmồ. Phải chôn vội để địch không phát hiện ra xác. Bên trên mộ có trồng một bụi dứa. Các chú chỉ còn nhớ láng máng có thế thôi. Vậy mà anh biết không, bụi dứa ấy vẫn sống cho đến khi những đồng đội của bố emtrở lại.
- Nhưng làmsao biết được đâu là xác của bố Dịu?
- Thế mới biết ngày xưa các chú sáng tạo vô cùng. Anh có biết thứ gì không phân huỷ theo thời gian mà điều kiện chiến trường lại có sẵn không? Mỡ bò. Tên tuổi, quê quán, đơn vị được viết ra một mảnh giấy, phết mỡ bò lên mảnh giấy ấy, cho vào lọ Penicilin, buộc chặt bằng ni lông. Trước khi vào trận mỗi người làmsẵn cho mình một cái lọ. Khi an táng, đồng đội chỉ việc cho cái lọ ấy vào miệng các liệt sĩ. Khoang hàmsẽ giữ cái lọ ấy vài ba chục nămcho người thân đến nhận. Tất nhiên cũng chỉ nhận được chính xác cáisọ thôi, còn tay chân khi ghép thành bẩy bộ hài cốt có thể có nhầmlẫn. Mẹ emcứ ômchắt lấy cáisọ của bố khóc nấc lên. Lúc đầu emsợ, chết ngất đi. Đến khi tỉnh dậy lại khóc nhiều hơn mẹ. Các chú bảo: Thôi, hai mẹ con khóc nhiều quá anh ấy buồn đấy. Gặp nhau phải vui chứ. Rồi anh ấy sẽ phù hộ cho hai mẹ con nhiều điều tốt lành.
- Sao mẹ Dịu lại không lấy ông Hùng phó chủ tịch?
- Chú Hùng tốt lắm, giúp hai mẹ con emrất nhiều, cả chuyện đi tìmbố emvề nữa. Nhưng mẹ embảo ở làng gái goá còn nhiều, chú ấy nên thương lấy một đámkhác, mẹ emkhông thể ở với một người đàn ông nào nữa. Ngày xưa emghét chú Hùng lắm, nhưng từ ngày lớn lên đến giờ emlại thấy thương chú ấy. Emmong chú ấy về ở với mẹ emnhưng mẹ emnhất định không chịu.
- Nhà chú ấy có khó khăn không?
- Không. Chú ấy ở một mình nhưng việc gì cũng giỏi. Công điểmcủa chú ấy lúc nào cũng nhất nhì xã. à mà chú ấy cùng với xã tổ chức cho dân mình làmkhoán chui đấy. Anh thấy ruộng lên xanh chưa? Nghe bảo trên trung ương đang cãi nhau găng về cái khoán này, ở tỉnh mình nhiều nơi ngấmngầmcho làmtrước. Còn đá núi cũng được khoanh vùng, phân chia từng khu vực. Khu dành cho quốc phòng, khu giành cho cảnh quan, khu để dân vào khai thác, khu của hợp tác xã. Chú Hùng định mua chui cho xã mấy cái máy nghiền đã cũ của xí nghiệp xây dựng. Nếu trót lọt xã mình sẽ có máy nghiền đá. Oách chưa? Cơ giới hoá nông thôn đấy.
- Chả ăn thua gì đâu. Tất cả các kiểu làmăn mang tính tư hữu ấy rồi cũng sẽ bị bóp chết thôi. Thầy anh bảo sắp tới còn xây dựng hàng loạt các hợp tác xã bậc cao, kiểu nông trang tập thể như ở bên Liên Xô cơ. Chú Hùng cứ làmviệc theo kiểu lách cơ chế thế dễ bị khởi tố lắm.
- Chú Hùng rất thân với ông Thảnh. Người ta bảo ông Thảnh là con ma xó ở cái làng này, xã này, huyện này. Ông ấy từng là huyện uỷ viên từ những nămtrước hoà bình lập lại. Chú Hùng nghe ông ấy lắm. Thì thụt đi lại với nhau như tình nhân ấy. Nghe bảo sắp tới chú Hùng sẽ lên làmBí thư xã. Đàn lặng imkhi nghe Dịu nhắc đến ông Thảnh. Đã lâu lắmrồi Đàn không gặp ông. Đò dọc bây giờ ít người đi. Từ ngày đá được đưa xuống vận chuyển theo đường sông, dòng Măng mảnh dẻ, dịu hiền sùng sục cau có suốt cả ngày. Lại nghe đâu
mấy tỉnh kề cận tìmra được nguồn khí đốt ngoài khu vực cửa biển nên tàu của chuyên gia nước ngoài ra vào tấp nập lắm. Ông Thảnh lên bờ nhưng cũng không bỏ đò. Người làng thường mượn đò của ông khi lên tỉnh. Ông Thảnh yêu con đò chứ chưa hẳn đã vì kế sinh nhai mà ông phải cầmchèo, bởi thế mà nhiều người muốn nhượng lại mà ông chẳng bán.
Đàn quay sang hỏi Dịu:
- Sao bảo ông Thảnh vào Namvới con?
- Ông ấy vào rồi ông ấy lại ra. Già rồi xa quê làmsao được. Có người bảo con ông ấy cho ông ấy nhiều tiền lắm. Nhưng lại có người bảo ông ấy mang của chìmvào cung cấp cho con cái vì tiếng thế chứ con ông ấy cũng khổ. Chả biết thế nào. Đàn và Dịu đi qua chân núi Ngựa thì gặp một thằng bé độ năm, sáu tuổi đang bê một xảo khoai lang từ trên núi xuống. Dịu bảo:
- Thằng Viên Minh con chị Tình đấy.
Đàn dừng bước, chờ đứa bé đến gần, hỏi:
- Cháu mang khoai đi đâu thế?
- Cháu mang cho mẹ cháu.
- Mẹ cháu ở đâu?
- Mẹ cháu ở nhà.
- Thế khoai này cháu lấy từ đâu?
- Khoai này trồng ở chùa, cậu cháu dỡ, bảo cháu mang về cho mẹ.
- Cậu cháu tên gì?
- Cậu cháu là Hiến, nhưng ở chùa gọi là Pháp Thiện.
- Cháu có hay lên chùa chơi với cậu không?
- Từ ngày mẹ cháu sinh embé, rồi bố cháu hy sinh ở bên Campuchia, cháu lên chùa ở với cậu. Cậu cháu sẽ nuôi cháu ăn học đỡ cho mẹ cháu, cậu cháu bảo thế.
- Thế cháu đã đi học chưa?
- Cháu vào vỡ lòng rồi. Cậu cháu xin cho cháu vào lớp cô Dung. Cô Dung là bạn cũ của cậu Hiến. Dịu quay sang Đàn bảo: Cái Dung con bà Kết ấy. Nó học mười cộng hai, mới ra dạy nămngoái, cùng trường với mẹ em.
Đàn vẫn tiếp tục hỏi thằng Viên Minh:
- Mẹ cháu sinh emtrai hay emgái?
- Emgái. Nó giống cháu lắmnhưng mà nó hay khóc nhè vì mẹ cháu thiếu sữa.
Đàn xoa đầu thằng bé rồi đưa tay bê hộ nó xảo khoai.
Vừa đi Đàn vừa hỏi:
- Cháu ở trên chùa có vui không?
- Chỉ vui vào ngày rằm, mồng một thôi. Ngày thường cháu theo cậu Hiến đi trồng rau.
- Thế ăn uống có khổ không?
- Chả có gì. Nhưng vẫn còn hơn ở nhà.
Dịu lại quay sang bảo: Mấy lần xã định phá bỏ chùa nhưng chú Hùng kiên quyết không cho phá. Chắc lại nghe lời ông Thảnh. Ông Thảnh trông thế mà cũng mê tín dị đoan lắm, toàn hát những bài phù thuỷ. Đàn bật cười. Những bài hát mà Dịu cho là phù thuỷ chính là những bài hát văn mà ông Thảnh đã nhiều lần hát cho Đàn nghe. Có lần Đàn hỏi thầy Quý: Hát văn và lên đồng là mê tín dị đoan, là tàn tích phong kiến sót lại, là xấu độc, nên bỏ đi phải không thầy? Thầy Quý đáp: Nếu bỏ đi như thế là bỏ đi quá khứ của mình đấy. Dân tộc ta thích hợp với các tín ngưỡng dân gian hơn là các tôn giáo lớn. Nhưng chúng ta đang làmcuộc cách mạng văn hoá nên phải bỏ đi thôi. Thầy thấy tiếc nhưng có lẽ tinh thần cách mạng của thầy chưa được triệt để lắm. Không có hát văn, lên đồng, rước kiệu thì đình chùa, miếu mạo chỉ còn là những cái xác vô hồn. Nhưng thôi, thầy không luận thêmvề vấn đề này nữa. Thầy chưa được chuẩn bị nhiều. Nếu có
viết về vấn đề này, tốt nhất emnên theo giáo trình. Đến chỗ rẽ, thằng bé xin lại xảo khoai rồi lễ phép chào Đàn và Dịu trước khi bê đi. Tối hômấy Đàn kể hết chuyện với mẹ. Mẹ Đàn bảo: Cũng chả có gì đáng phải xấu hổ. Học mà khổ quá, không chịu được thì về làng mà làm đá. Từ nay chừa cái rượu đi nhá. Hômấy mà thả tay cho con người ta rơi lộn đầu xuống thì có mà đi tù. Đàn nhẹ cả người. Hômsau chú Hùng đến tận nhà gọi Đàn đi làm. Dịu đã kể chuyện của Đàn cho chú Hùng nghe. Chú Hùng hiểu cả, biết cả, không đả động gì đến chuyện của Đàn, chỉ bàn vào công việc hiện tại.
Chú bảo Đàn:
- Cháu có chút chữ nghĩa, từng biết đến cáisân trường đại học nó tròn hay nó méo, kể ra về giúp chú một tay văn thư ở uỷ ban thì hay nhưng lại không có tiền để trả cho cháu. Thôi thì cứ về mỏ đá trông hộ cho chú, đủ để nuôi cháu, đỡ phải ăn bámmẹ. Rồisang năm thi lại. Mà lần này thi Bách khoa nhé. Học về cơ khi ấy, để có gì bí chú còn hỏi. Sắp tới lớp cán bộ lãnh đạo là phải biết về cơ giới hoá. Mà chú thì mù tịt. Ngày xưa học mới đến lớp bốn ấy mà. Vào bộ đội được học tí chút về quân khí cũng thấy cái đầu nó sáng ra một ít. Mà chú là chú máu mê cơ giới lắm. Nhìn bức ảnh mấy cái máy cày chạy trên đồng lúa mì của nông trang tập thể Liên Xô chú thích quá. Bao giờ đồng ruộng của mình cũng được như thế thì tuyệt cú mèo.
Đàn khẽ thưa:
- Chú ơi, nghe bảo trạmđá của hợp tác có sử dụng máy nghiền chạy dầu có phải không ạ?
- Suỵt!
- Chú Hùng đưa tay lên môi ra hiệu rồi cúisát nói nhỏ vào tai Đàn - Chui đấy, chú mới đưa về được một cái thôi, còn một cái chưa dám. Sướng lắm. Ngày nó xơi vài khối là chuyện bình thường.
- Thế việc của cháu là...?
- Trông cái máy ấy chứ còn sao nữa. Rồi chú trích phúc lợi của hợp tác xã ra trả công cho cháu. Tối bao cấp thêmcho ngọn đèn dầu mà ngồi học. Nhưng mà kín miệng nhá. Trên kiểmtra là phải tháo máy giấu đi đấy. Tư liệu sản xuất hiện đại chỉ thuộc các xí nghiệp quốc doanh thôi. Còn hợp tác xã chỉ được sử dụng máy móc theo trên cấp, mua tắt ngang là sai nguyên tắc, chết cả thằng bán lẫn mình là kẻ mua. Hiểu chưa? Đàn hiểu và chấp hành đúng theo những lời chỉ bảo của chú Hùng. Cuộc sống bỗng trở lên thoáng đãng và dễ thở quá. Thỉnh thoảng độisản xuất TrạmĐá còn được cải thiện bánh bao nhân thịt mua từ cửa hàng ăn uống ngã tư huyện. Một nămquay đi quay lại trôi vèo như lá rụng. Đàn lại cắp giấy bút đi thi. Thi đúng trường Bách khoa như chú Hùng mong đợi. Mẹ Đàn vảo: Vẫn chưa chán, lại
đòi đi học à? Kể ra lấy vợ rồi ở nhà làmđá thì tốt hơn. Đàn cự: Đi học kiếmcái hộ khẩu thành phố, có sổ lương thực, có temphiếu thực phẩm, vải vóc, mọi thứ được phân phối chả thần tiên sao? Mẹ chả hiểu gì cả, đúng là bà già nhà quê. Ngày Đàn đi thi cũng là ngày chú Hùng bị đình chỉ công tác để trả lời trước đoàn thanh tra liên ngành về một loạt những vi phạmkéo dài hơn một nămqua. Càng ngày việc càng to ra. Nghe bảo đâu động chạmđến cả huyện, cả tỉnh, cả trung ương. Chú Hùng sai bét ra rồi. Cứ theo chủ trương, đường lối, chính sách mà kẻ baremthì chú Hùng đúng là một tên phản động chứ chả chơi. Người ta còn cách ly chú Hùng không được gặp gỡ rộng rãi mọi người nữa. Thỉnh thoảng xe con lại về tận xã đưa chú Hùng lên huyện, lên tỉnh để trả lời chất vấn, để viết kiểmthảo. Có lần huyện giữ tới bốn ngày mới cho về. Tin tức về chú Hùng cứ trái ngược nhau, loang ra như vết dầu, đến cả mẹ Đàn vốn bàng quan vớisự đời cũng háo hức hỏi thăm, nghe ngóng. Có người bảo chú Hùng tranh luận tay đôi với bí thư tỉnh uỷ suốt sáu giờ đồng hồ liền. Lại có tin bảo ông gì to lắmở trên trung ương về làmviệc với chú Hùng trắng cả đêm, sáng hômsau ra xe về Hà Nội ngay, không kết luận gì cả. Cứ hư hư thực thực như thế, cứ lơ lửng như thế. Mọi việc ở xã đã có người lo. Những người mới này dõi theo kết luận về chú Hùng như ruộng hạn mong mưa. Dù thế nào thì phán quyết của trên đối với chú Hùng cũng sẽ liên quan đến họ, đến cả Đảng bộ và Ban chủ nhiệmhợp tác xã. Trong khi chưa có kết luận chính thức thôi thì cứ theo nếp cũ, cứ đúng nguyên tắc mà làm. Không khoán, không cơ giới hoá, không cho làm dịch vụ gì hết. Cứ theo chỉ tiêu pháp lệnh mà làm, cứ đúng quy chế hướng dẫn ở trên mà làm. Đàn lại lò dò cầmlý lịch nhập học lên xin chứng nhận vào đúng lúc kỷ cương đang được lập lại một cách tích cực, triệt để như thế. Nghe tin Đàn đỗ Dịu là người vuisướng nhất. Dịu hăng hái viết lý lịch hộ cho Đàn. Chữ Dịu đẹp có tiếng ở trường huyện. Dịu lại cùng ngồi xe đạp với Đàn lên xin dấu ở uỷ ban. Nhưng Dịu đã tái mặt khi thấy Đàn trở ra, hai tay xé nát túi hồ sơ, lắc đầu ngán ngẩm. Theo quy chế của bộ đại học, những sinh viên bị buộc thôi học phải hai nămsau mới được thi vào trường khác. Thế là một nămqua việc bút nghiên của Đàn thành công cốc rồi. Đàn đã cố thuyết phục, cố năn nỉ, cố van xin, nhưng những người có thẩmquyền nhất xã đã xin ý kiến, đã hội ý với nhau và thống nhất là không thể ký sai nguyên tắc, không thể chứng nhận trái quy định. Thanh tra vẫn đang cày bừa, xới tung mọi việc của xã, không ai dámlàmthêmmột điều sai trái nữa. Đàn ômnỗi chán chường, thất vọng về nằmvật ra giường. Ngoài đường người ta ơi ới gọi nhau đi làmđồng, ơi ới hút thuốc lào vặt, nhìn mắt trời và chờ nghe tiếng kẻng để tích công điểm. Nhà nào nhà nấy lại thì thụp vần đá về nhà đômđốp, chan chát, dâmdấm dui dúi xúc đá lên xe cải tiến chở đi bán trộm. Núi rừng, đất đai, sông biển là tàisản của toàn dân, là của nhà nước, nhưng dân lại cứ chặt, cứ phá, cứ bạt núi đi mà đổi chác, bán mua chẳng cần biết đến nỗ lực ngăn chặn, bảo vệ của các cơ quan chức năng. Đói. Đói dài rạc. Đất ấy, ruộng ấy, màu mỡ thế, tươi tốt thế mà thóc cứ lép, sản cứ thấp, sống trên đất lúa mà cứ thèmgạo, sống bên núi đá mà cứ nhà tranh vách đất, cứ lầy lội lép nhép trên con đường nhão nhoét, lồi lõmổ trâu, ổ gà. Đámtrai làng bạn Đàn bỏ làng kéo nhau đi đào vàng. Thằng Tá, thằng Xế, thằng Học đi được vài chuyến về làng miệng ngậmHêrô, Queebe, áo đuôi tômthả chùng, có vẻ súng sính ngất ngưởng lắm. Chúng nó bảo Đàn: Hội áng Sơn trên bãi mạnh lắm, cứ vỉa nào màu nhất thì nhẩy vào chiếm. Đi không? Dịu xin Đàn đừng đi. Sốt rét. Ngã nước. Sập hầm. Phù thũng. Rừng xanh núi đỏ, hay ho gì, kiếmtìmgì, rồi thân tàn ma dại, rồisống vô gia cư chết vô địa táng, ở nhà đói một tí, chịu khổ nốt một nămrồi lại thi. Thi được là bay nhảy, là tung cánh, trời xanh bao la, khí trời khoáng đạt, chả thoả sức làmtrai sao? Nhưng Đàn không nghe Dịu nữa. Đàn lại như ngườisay rượu hômnào ở ký túc xá rồi. Đàn muốn có vàng để thay đổi, dù ít dù
nhiều, cái khoảng đời đơn điệu, tẻ nhạt, nghèo hèn này. Đàn đi không một lời từ biệt Dịu. Đàn đi được hai tháng thì chú Hùng có kết luận. Ngay sau kết luận của chú Hùng là nghị quyết 100 ra đời, nhà nhà thì thào, người người thì thào. Mẹ Đàn cũng nói đến khoán 100 dù chẳng biết con số 100 có nghĩa là gì.
Còn Đàn, hương lúa ngậmđòng ngày một trở lên xa mờ, nhợt nhạt trong ký ức.
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 4
Chương 4 -
Hắn đang bước từng bước đến chỗ cây cột. Lạnh lẽo và ẩmướt. Những vệt sáng loằng ngoằng trong đầu hắn. Vách đá mở mắt ra thao láo nhìn hắn. Thẳng đứng, lồi lõm, nứt toác vây bọc, dàn trận quanh hắn. Bỗng hắn nghe thấy tiếng thì thầmcủa đá. Đúng rồi, những câu thơ gẫy vụn như cámcủa Cuồng Sĩ bật ra từ vách đá.
H
Từ ổ lá mềmmại Từ lồi lõmhang động Từ thịt da nóng bỏng Oà ập âmdương Hoang dã Mê cuồng Hừng hực oải oằn nhịp lửa.
Ôi, Cuồng Sĩ ơi giờ này chú mày đang ở đâu? Buổi gặp mặt cuối cùng với chú mày cách nay đã ba tháng. Nhưng đơn xin ân xá đã bị bác rồi, chú mày biết chưa? Đừng ngạc nhiên hoang dại như thế. Đừng thả mắt bồ câu vào chảo lửa như thế. Kết cục sẽ phải thế này thôi. Nhớ bãi vàng Lũng Sơn quá. Lở loét và nhức nhối.
Bằng vết dao trên ngực Bầu vú trắng ngần Nhũ hồng chớmtuổi biết thương Gió lược Trăng thừng Máu như sữa chát...
Mọi thứ hiện ra trước mắt chàng Cuồng Sĩ là thế. Đàn thấy nực cười dù trong số hàng ngàn người đang chen chúc ở bãi vàng này, hắn là người có khả năng nắmbắt những rung động nghệ thuật hơn ai hết. Buổi ấy bọn thằng Xế về báo rằng có một tên thư sinh mặt trắng mới xuất hiện, cứ lảng vảng quanh khu vực hang thượng, hỏi dò về hắn. Lúc đầu hắn không để ý, chỉ dặn dò đồng bọn cẩn thận hơn. Bọn hắn sợ nhất là bị công an đánh úp. Công an vẫn dùng cách đó để buông lưới lũ tiền án, tiền sự, trốn trại, truy nã trà trộn, vật vờ trong đámdân đào vàng. Đến tối thì Xế lôi xềnh xệch tên thư sinh mặt trắng về cho hắn. Mảnh như cây sậy, quần thô túi vuông, giầy da để răng cưa, khuôn mặt xanh rớt, lại choàng cặp kính cận sáng lóa, chàng nhà báo nửa mùa có vẻ không biết sợ, hoặc giả có một động cơ gì thôi thúc lắm, buộc phải tới gặp hắn lên cố mà tự tin dù biết sức thư sinh không chịu nổi một cái tát mạnh.
- Mày là thằng nào? Sao biết tao?
- Emlà Tâm. Tâm"cận". Emhọc khoa báo chí nămcuối. Emđược đọc rất nhiều bài báo về anh, biết anh trước học khoá 27, emmuốn xin anh một chân đãi cát.
- Mày đang học cơ mà?
- Emnợ nhiều học trình quá nên phải xuống học với khoá sau. Thời gian này emđược tự do muốn làmgì thì làm. Học đại học bây giờ khác trước nhiều rồi anh ạ. Quản lý bằng bài thi là chính, quản lý con người là phụ.
- Mẹ kiếp. Nhưng mà sức chú mày lẻo khoẻo thế kia thì làmđược gì? Vài bữa lại ngã kềnh mẹ nó ra, run cầmcập, giật đùng đùng, ú ớ mê sảng, chả bỏ về sớm.
- Emchịu được. Mà emchỉ nhờ anh giúp emsống thôi chứ emkhông lên đây kiếmvàng. Emcần sống được để viết. Đến hạn thì em về trường thi. - Viết cái gì? Mày lại định lôi các bố mày lên mặt báo à? Mày liều nhỉ? Mày có biết đã vào đây là tắt đường về không? Thả mày về cho công an đến tómchúng tao à? Mày có biết...
- Embiết. Anh đang bị truy nã vì trốn trại. Emkhông quan tâmđến việc ấy. Emchỉ cần anh chấp nhận emở lại đây thôi. Rồi anh sẽ tin rằng emkhông làmđiều gì hại đến các anh. Emchỉ đi tìmmiền lãng du của em. Emcần không khí này, đất đai này, đồi núi này, con người này...
- Tao hiểu rồi. Một thằng cuồng sĩ của thế kỷ hai mươi. Bây giờ thì mày hãy đọc thơ đi. ở đây thơ khó gieo mầmđấy. Nhưng đã cấy đuợc xuống thìsẽ sống rất dai.
Tâm"cận" hớn hở, mặt tươi như vừa uống rượu tiết dê, không khách khí, đọc luôn:
Ôi, ba hồn bảy vía Những chàng trai xứ Đông xứ Đoài Con của sắn, của khoaiCủa sỏi ong, đá tảng Của gạo dự, gạo támCủa những giêng hai hội làng Theo đường sông mà lội Theo đường núi mà trèo Trời thì mênh mông Đất cũng mênh mông...
Đêmấy và những đêmsau nữa Tâmcận ngủ cùng với hắn. Tâmluôn đemlại cho hắn sự bất ngờ. Suy nghĩ của Tâmkhác lạ quá. Con người tưởng như rất yếu ớt về sinh lực của Tâmchứa rất nhiều những số phận, những ámảnh, cả khát khao nghệ sĩ và sự cô đơn trần thế. Tâmlà tấmgương soi rất nhiều những cảnh đời và từ đó bật ra những bóng chữ nhập nhèmnhưng linh thiêng, uẩn ức. Hắn không thể tưởng tượng nổi một thằng oắt con mới ngoài hai mươi tuổi như Tâmlại có những ý nghĩ kỳ cục, lạ lùng, đầy chiêmnghiệmvề cuộc đời và số phận.
Quán trọ trần gian Người đến và người đi Những lời giải muộn mằn Trên môi người khách trả phòng Là câu hỏi bí ẩn Dành cho người khách đến thay chỗ Va ly mở ra Thiện và ác Cuộc đấu trường sinh...
Emđược sinh ra vào những nămcuối cùng của thập kỷ bảy mươi, Tâmkể. Emđến trường vào một buổisáng mùa thu nắng trong, gió nhẹ. ấn tượng sâu sắc nhất của buổi tựu trường là cảmgiác choáng ngợp trước những điều to tát. "Các cháu sẽ là những công dân trưởng thành của thế kỷ 21, đến năm2000 chắc chắn sẽ có những cháu ngồi đây được bay vào vũ trụ...". Bố đứng chờ emngoài hành lang lớp học. Tan buổi, emtrèo lên gác-ba-ga và bỗng nhìn thấy mẹ. Emđã quay đi và mẹ thì thẫn thờ đứng nhìn theo.
Trí óc non nớt của embảo cho embiết mẹ là người không tốt. Mẹ đã bỏ bố vì bố nghèo, điều này sau đó đã trở nên khó lý giải vì mẹ lại về làmvợ một người đàn ông khác cũng nghèo như bố. Nhưng tạisao mẹ lại bỏ rơi em? Vì bố đã ngăn cản, không cho mẹ đến thămem ư? Bố vắng nhà suốt ngày, embị nhốt một mình, toàn ngồisau song sắt cửa sổ nhìn ra ngoài đường. Những lúc như thế sao mẹ chẳng đến?
Emrất sợ tiếng còi ô tô và không thích mùa hè. Nhà emnằmtrên một dãy phố nhỏ, một tụ điểmdân cư lạc lõng bámdọc theo con đường chạy vào cửa ô thành phố. Hai bên phố khoảng bốn chục nóc nhà, đa phần là mái ngói, một ít mái lá ghép lẫn với giấy dầu và rất ít, một, hai nóc thôi, mái bằng. Căn nhà emlợp ngói, tường nhiều màu loang lổ. Ngoài cùng là lớp ve màu xanh, chỗ nào lớp ve màu xanh bong ra thì thấy lộ rõ lớp ve màu vàng. Lớp ve màu vàng lại luôn bị lớp ve màu trắng đẩy bật ra khỏi tường. Và rồi lớp ve màu trắng cũng lại bị bong ra nốt, những chỗ ấy emđập tay vào, cát bay ra lả tả.
Nhà emcó một cửa chính và hai cửa sổ. Các cánh cửa đều bằng gỗ và được sơn màu xanh. Bố chỉ mở một cửa sổ duy nhất để em trèo lên, thò hai chân qua song và dán mắt vào khoảng trống giữa các song sắt đó để giao lưu với thế giới bên ngoài. Đó cũng là chỗ duy nhất ánh sáng trở nên phóng túng đối với emđồng thời cũng là chỗ duy nhất khiến emkhông nổi da gà mỗi khi nghe tiếng còi ô tô. Ngôi nhà khá dài, thông thống một không gian thiếu sáng. Chỗ bố con emngủ lúc nào cũng đùng đục một màu nước hến, những lúc emnằmở đó một mình, bất ngờ tiếng " bim, bim" choá lên, emco rúmngười lại vội chạy ra cửa sổ.
Tiếng còi ô tô đối với emthật kinh khủng, nó đi vào giấc ngủ, là nguồn cơn của mọi ác mộng và thường thìsau mỗi cơn ác mộng như thế bố lại ômchặt emvào lòng, khẽ bảo "khổ thân con tôi, ban ngày chơi gì mà đêmngủ cứ giật mình thon thót". Tiếng còi ô tô đặc biệt là cộng hưởng với mùa hè, tạo thành một lưới không gian ngột ngạt, mờ tối, ảmđạm, tĩnh lặng bao chùmlên emthứ phản ứng bất an thường trực. Bố thường về vào lúc mười một giờ trưa, vội vàng cơmnước cho emxong rồi cùng emlên giường đi ngủ. Khi emtỉnh giấc đã không thấy bố emđâu nữa. Rất có thể lúc ấy thứ tiếng "bim, bim" kia ập vào xé rách khoảng không mờ tối và emhốt hoảng nhận ra mình đang nằmmột mình trên giường. Ngay lập tức xuất hiện cái cảmgiác bủn rủn lan truyền khắp cơ thể và nó chỉ tan biến đi khi embật dậy
chạy ra chỗ cửa sổ, leo lên đó phóng tầmmắt ra ngoài đường, bámníu, nương tựa vào những bóng người thưa thớt, qua lạ trên hè phố.
Một hômbố emvề sớmhơn thường lệ. Bố thay cho embộ quần áo mới nhất rồi đặt emlên sau xe. Bố đưa emđến một đámma, không khí ở đó thật buồn bã ủ ê. Đámma không đông lắm, bố dắt xe đi vào hàng cuối, lẫn với những người đưa đám. Có một vài ánh mắt nhận ra bố con em. Họ nhìn trộm, họ chỉ chỏ rồi hình như là họ chép miệng. Khi người chết đã được đắp cho một ngôi mộ vuông vức, phủ kín vòng hoa, chờ cho đoàn người đưa ma ra về hết, bố đưa emđến trước mộ và bảo: "Con quì xuống lạy mẹ đi". Trong khi emcòn chưa hiểu gì thì bố lại lẩmbẩm: "Mẹ con số đoản mệnh, xẹt qua cõi đời này như một chớp sao, đủ để làmkhổ hai người đàn ông rồi ra đi".
Sau này khi đã vào đại học, trong một lần thamgia trò chơi hái hoa dân chủ embốc phải câu hỏi: "Bạn nghĩ gì về tình mẫu tử?" em đã không trả lời được, vì thực sự, thứ tình đó đối với emchưa từng hiện hữu trên cõi đời này. Ngay cả khi đứng trước ngôi mộ của mẹ, em cũng không hề thấy trong mình có một cảmgiác gì đặc biệt, dù chỉ là một cái rùng mình thoáng qua.
Mẹ embị bệnh tim. Bà chết sau khi emđến trường được vài tháng. Thường bố vẫn qua trường đón emvào buổi trưa, có một lần cô giáo đưa emvề qua chỗ cơ quan bố, nhưng emkhông thích không khí ở chỗ đó. ở đấy có những người đàn ông tay đầy dầu mỡ, những cô công nhân khẩu trang đeo kín mặt, họ bí hiểm, đáng sợ sau trang phục màu xanh bảo hộ. Thấy emhọ thường đùa tếu những câu em không hiểu nhưng họ lại cười toáng lên, ý vị và vui vẻ lắm. Thế nên emkhông nhờ cô giáo đưa về qua đó nữa, emkiên nhẫn đứngở cổng
trường đợi bố.
Hômấy bỗng dưng có một người đàn ông đến đón em. Ông bảo emvề chỗ mẹ chơi rồi ông sẽ đưa emvề nhà với bố sau. Không hiểu sao emlại có cảmtình với khuôn mặt nhẹ nhõmvà khuôn mặt hiền từ của người đàn ông ấy. Emtrèo lên sau xe của ông và ông đưa emđến một ngôi nhà nhỏ nằmgiữa một khu vườn rậmrạp, hoang vắng, ngay cạnh bờ sông. "Mẹ con kia, con có nhớ mẹ không?". Nghe ông nói thế và nhìn theo cánh tay ông chỉ vào bức ảnh trên bàn thờ emmới chợt nhớ ra rằng mẹ emđã chết và cách đây chưa lâu, chính bố đã đưa emđến đứng trước ngôi mộ được đắp vuông vắn, bên trên phủ đầy hoa. "Chả có gì để nhớ", embảo vậy. Người đàn ông đó khẽ gượng cười rồi đưa emra sau nhà. Ông ấy bứt cho emmấy quả doi màu hồng nhạt. Emnhớ là trong ngăn tủ của ông có rất nhiều bánh kẹo và những thứ hấp dẫn khác hoặc giả ông đã có cách dỗ trẻ khéo đến mức emđã nghĩ như thế. Trong khi emchưa biết là mình có thích hay không thì ông gỡ cây đàn ghi-ta xuống và bập bùng bài "Bé bé bông bông". Đã quá mười một giờ trưa. Ông vội vàng đưa trả emvề nhà. Bố có vẻ không vui nhưng hai người nói với nhau điều gì đấy rồi ông bẹo má emchào ra về. Bố bảo emăn cơm. Emđã ăn no ở nhà người đàn ông của mẹ rồi nên không thiết ăn nữa. Bố bảo: "Thế thì ngồi nhìn bố ăn". Rồi bố kể chuyện nhà cu Tám.
Cu Támlên mười tuổi, nhà ở phía đối diện với nhà em, nhưng chéo về hướng ngã tư. Bố mẹ đi làmcả ngày nên cu Támbị nhốt trong nhà như em. Cu Támđã lớn nên được bố mẹ giao cho cầmchìa khoá cửa, chiếc chìa khoá ấy được treo lủng lẳng ở cổ, khi nào cần thiết
mới đemra mở. Hômđó bỗng có một cô đến đưa cho cu Támhai chiếc bánh mì kẹp thịt, bảo là mẹ cu Támgửi cho. Khi cu Támăn xong cô nọ lai bảo cô làmcùng xí nghiệp với mẹ, cu Támhãy đưa chìa khoá để cô mở cửa vào nhà ngồi nghỉ. Cu Támđưa chìa khoá và khi người lạ mặt đó vào nhà rồi, liền trói cu Támlại, nhét giẻ vào mồm, đút xuống gầmgiường, lấy đi của nhà cu Támmột chiếc ti vi đemtrắng, một cái đài và một bộ comple còn mới. Mãi đến trưa hômấy bố mẹ cu Támmới đi làmvề và cu Támđược cứu thoát khi đã lả đi vì ngạt...
Emngồi nghe cứ thấy rờn rợn. Bố bảo: "Như thế là may, nếu chúng bắt đemđi bán cho mẹ mìn thì toi rồi".
Emhỏi: "Mẹ mìn mua trẻ con để làmgì?". Bố embảo: "Mẹ mìn mua trẻ emđể bán lại cho những người đisăn ở trên rừng. Những người thợ săn đó cho trẻ con vào những chiếc cũi bằng gỗ, rồi đặt chúng ở những khu rừng già. Hổ, báo, sư tử và nhiều con thú khác ngửi thấy mùi thịt ngườisẽ mò đến để ăn thịt. Những người thợ săn nấp ở gần đó và họ sẽ nạp đạn vào những con thú rừng ấy".
Câu chuyện của bố hướng tới một mục đích, là doạ emkhông được tự tiện đi với người lạ, tất nhiên với cả người đàn ông ở căn nhà bên bờ sông hoang vắng kia. Nhưng mọi cố gắng của bố đều vô ích. Sau này càng lớn lên emcàng năng đến chỗ ông. Rảnh rỗi lúc nào là emtới với ông lúc ấy. Ngôi nhà của ông đối với emthật kỳ thú.
Trước ngày vào đại học emđưa Loan đến để chào ông. Ông bảo: "Mẹ con ở với ta thì thuận người nhưng nghịch đời, ở với bố con thì thuận đời nhưng nghịch người, nhưng dù thế nào thì cũng không tốt cho bà ấy". Ông là giáo viên của trường Văn hoá - Nghệ thuật tỉnh. Mẹ emlà hạt nhân văn nghệ của cơ quan bố. Họ biết nhau qua những lần hội diễn văn nghệ quần chúng. Chất công nhân thuần tuý của bố không đủ phóng túng, rộng rãi để chứa những khát vọng lạc lõng của mẹ. Bố emmất mẹ vì không có khả năng giữ cho mình những thứ hư ảo. Ông giáo viên nhạc kia mất mẹ vì bệnh timquái ác. Mẹ emra đi là sự mất mát cho cả hai người nhưng đã kịp để lại em, một nốt nhạc trầmbuồn rơi rớt vào cuộc đời. Loan của emcó đôi mắt giống chị Thái. Thực ra ngay cả khi vào cấp ba rồi, emvẫn là một cậu bé sống rất trầm. Thế mà emlại nằmtrong số rất ít những học sinh cuối cấp có người yêu. Thứ tình yêu học trò, dấmdúi, vụng trộm hay bị người lớn phủ nhận ấy đến với emnhư một tiền định, sâu sắc và dấu vết chứ không bồng bột, thoảng qua như người ta vẫn thường bảo. Loan là một trong những cô gái nằmtrong đámbạn bè ít ỏi của em. Buổisáng thứ nămhômấy chúng emsẽ đi học thêmnhư thường lệ. Nhưng bố đi làmlâu rồi mà emvẫn không sao ra khỏi giường. Cơn sốt quái ác đã đánh qụi emtừ đêmhômtrước, sáng hômsau emvẫn mê man, thân nhiệt không giảm. Trong một lần tỉnh lại emthấy trán mình mát lạnh. Thì ra đó là bàn tay của Loan. Học xong tiết đầu tiên, Loan đã bỏ lớp học thêmđể về tìmem. Chưa bao giờ emthấy cần có người bên cạnh như lúc ấy. Bố cứ đi biền biệt suốt ngày, mà nếu bố có ở nhà thì vào những lúc như thế bố cũng chỉ biết nấu cho embát cháo và ép emuống thuốc. Hômấy Loan cũng nấu cháo và cho emuống thuốc nhưng emtiếp nhận dễ dàng hơn, lại rất phấn chấn và cảmthấy cơn sốt như đã bị đẩy lui ngay sau khi viên thuốc đầu tiên được nuốt vào trong bụng. Emháo hức nằmnghe Loan kể chuyện ở lớp. Loan nói, Loan cười, hàmrăng trắng bóng, đôi môi đỏ cong cong, đôi mắt như dấu hỏi, tất cả thân thuộc, gần gũi và máu thịt đến nỗi emkhông giámnghĩ khác đi rằng, một lúc nào đó, vào một
cơn ốmkhác, Loan lại không có ở bên cạnh. ảo giác không giúp emtỉnh táo được lâu hơn. Cơn sốt quay trở lại và kéo emtrôi tuột vào vong xoáy hun hút của ác mộng. Emthấy mình bị nhét vào một cỗ máy có hình bánh răng, vô cùng ngột ngạt và khó chịu. Timembị nén chặt, cơ thể bị phân ra nhiều mảnh, mỗi mảnh dội lên những cảmgiác khác nhau, kỳ quái. Bố đứng bên cạnh emvà chămchú nhìn theo vòng quay của chiếc bánh răng. Emgào xin bố hãy dừng vòng quay của bánh răng lại nhưng bố cứ mặc emquay cuồng trong ấy. Khuôn mặt bố lúc ấy được che đậy trong dáng vẻ cần mẫn nhưng emlại thấy toát lên sự gian ác, vô cảm, lạnh lùng. Nhưng rồi mẹ đã xuất hiện. Mẹ rút phụt công tắc điện ra khỏi bảng điện. Mẹ ômchầmlấy em. Mẹ hôn lên trán em. Mẹ nói điều gì đó nhưng emkhông nghe rõ. Hàm răng mẹ trắng bóng. Đôi môi mẹ đỏ tươi, cong cong. Đôi mắt mẹ hình dấu hỏi, đemláy, ngộ nghĩnh, đầy cá tính. Emômchặt lấy mẹ mà vẫn cảmthấy chưa hết sợ. Người mẹ mát lạnh, gây cho emcảmgiác thích thú vô cùng. Emmở bừng mắt ra, và trời ơi, người mẹ mà emôm chặt lại là Loan. Loan nhìn emđầy thương xót. Hình như emđã gọi mẹ nhiều lần trong cơn mê. Một vài rọt nước mắt từ Loan rớt xuống người em. Emchưa từng lưu giữ hình ảnh nào về mẹ, vì thế lần đầu tiên emmơ thấy mẹ lại là một người mẹ hiện hình qua dáng vẻ của Loan. Mặc dù đã tỉnh lại nhưng trước Loan, emvẫn là một cậu bé yếu đuối, themkhát sự chở che. Emkhông muốn Loan bỏ emnằmlại một mình, emcó thể gọi Loan bằng mẹ cũng được, bằng chị cũng được nhưng Loan đừng bỏ emđi vào lúc ấy. Và Loan đã không bỏ em. Chiều hômsau emlại đi học, emngượng ngùng khi gặp lại Loan nhưng emhiểu là emkhông thể thiếu Loan được. Chỉ có điều đôi mắt của Loan rất giống một người, đó là chị Thái.
Chị Thái ở đầu phố, nhà chỉ có hai bố con. Bố chị làmnghề cắt tóc, sau không làmnữa, nhường lại toàn bộ mặt tiền cho chị mở hàng cắt, gội, sấy đầu tóc namnữ, cả trang điểmcô dâu nữa. Chị có nghề đàng hoàng như vậy nhưng người lớn lại cứ nhắc đến chị với một sự kinh tởmvề cái nghề phụ đó của chị. Chị xinh đẹp vô cùng. Đối với em, cho đến bây giờ, khi đã là một chàng trai trưởng thành rồi, emvẫn cứ nghĩ rằng, chị Thái là người đã đemđến cho emkhái niệmvề cái đẹp. Nhà chị Thái không có chế độ temphiếu nhưng sinh hoạt của chị, nhất là ăn mặc, lại tỏ ra hơn cả những gia đình được hưởng bao cấp. Chị có bao nhiêu bộ quần áo emkhông biết nhưng nếu một lúc nào đó thấy cuộc đời này tẻ nhạt quá, đơn điệu và ảmđạmquá, thì hãy đến gặp chị Thái. Màu sắc trên người chị luôn phong phú, Khuôn mặt chị xinh đẹp, nụ cười chị có duyên và cách nói chuyện của chị rất cuốn hút. Nghe chị nói chuyện cánh đàn ông cứ cười hinh hích, đôi khi họ làmđộng tác trợn tròn mắt, lè lưỡi, lắc đầu. Họ bảo chị nói nghịch, đàn bà con gái gì mà ăn nói quá thể lắm. Họ quay quanh chị như những hình hoạ ở khung đèn kéo quân quay quanh ngon nến cháy. Thế mà xa khỏi chị là họ nói xấu chị. Mà tục lắm, hư đốn lắm, đểu giả lắm, vô nhân lắm. Tất nhiên những từ này emphải vay mượn ở thời tương lai chứ lúc ấy emchưa gọi tên ra được một cách chính xác thế. Emkhông ưa những người nói xấu chị Thái, vì quả thực chị chưa chửi đánh ai, chưa tranh chồng hại vợ, chưa bắt chẹt khách, chưa tỏ ra cáu kỉnh, nhăn nhó với đámtrẻ con như embao giờ. Tómlại là emchẳng thấy chị có gì xấu cả, với riêng emchị còn có mối quan tâmđặc biệt nữa. Lân ấy emcầmtiền bố cho thập thò trước cửa nhà chị để cắt tóc. Emkhông biết là bố chị đã nghỉ làmđể nhường cửa hàng lại cho chị. Nhìn thấy em, chị mỉmcười mời emvào nhà rồi đặt emlên chiếc ghế đệm, quàng quanh người emmột mảnh vải trắng có cổ, sạch bong. Và chị cắt tóc cho em. Lại gội đầu bằng một thứ dầu rất thơmnữa. Lần đầu tiên emđược chị chẻ ngôi cho. Emthấy mình chững
chạc và người lớn hẳn ra với mái tóc chẻ ngôi từ tay chị. Chị không lấy tiền. Chị hỏi em: Ngủ có mơ thấy mẹ không? Embảo: Có mà mơ thấy con ma ấy. Chị bảo: Không được nghĩ về mẹ như thế, mẹ bỏ emmẹ đau khổ lắm, lớn lên emsẽ hiểu. Emcãi: Lớn lên ư? Lúc ấy mẹ chỉ còn là một cục đất. Chị Thái không thích emnói thế, chị bảo: Ngày xưa mẹ emtừng bế chị đấy. Trong ngàn vạn người cũng có những người gặp bi kịch trong cuộc sống, với họ hãy cảmthông. Tiếc là những người như thế thường chỉ được cảmthông khi đã trở thành một cục đất.
Một lần emđi học về, vừa đi vừa khóc. Lúc ngang qua nhà chị Thái chị hỏi emvào và hỏi: Sao thế? Con trai mà lại khóc à? Embảo: Bố chả bao giờ mua cho emtruyện tranh, emtoàn mượn đọc của chúng nó, không có gì để trao đổi lại, hômnay chúng nó bảo nhau không cho emmượn nữa. Chị Thái bảo: Thôi emvề đi, sáng mai đi học qua đây chịsẽ mua cho emba quyển liền. Emtin chị và không khóc nữa. Sáng hômsau emcó ba quyển truyện mới để mang đến lớp.
Chị Thái có nhiều người yêu nhưng emchả biết chị yêu người nào. Có con ông hiệu trưởng trường cấp ba đến với chị, cả một người đàn ông trung trung tuổi, cả con ông chủ tịch huyện, cả anh chàng khoèo tay vẫn đứng bán sămlốp ở trước cửa hàng bách hoá. Hôm nay thấy chị đi với người này, hômsau đã lại thấy chị đi với người khác. Một hômchị đứng cửa đón emđi học về, rủ emđi với chị có chút việc. Chị đèo emtrên chiếc xe máy mà chị mượn của một người đàn ông nào đó. Chị đưa cho emcầmmột cái cuốc và một con dao dựa. Còn một cái túi to nữa chị để ở trên đầu xe. Chị trở emtới bãi tha ma. Chị cùng emđào đất đắp cho hai ngôi mộ, một ngôi mộ của mẹ chị, một ngôi mộ của mẹ em. Sau đó chị bỏ những thứ ở trong túi ra, đặt lên hai ngôi mộ và quỳ xuống xì xụp, khấn vái. Xong chị quay sang bảo emlạy trước mộ mẹ. Khi chị trở emvề thì người đàn ông của mẹ emđến. Ông không nhìn thấy emnên emcũng không để ông nhận ra mình. Bữa trưa hômấy emăn cơmở nhà chị Thái. Chị Thái bảo: Sau này chị đi lấy chồng, emlớn lên, thỉnh thoảng sang đây giúp bố chị nhé, bố chị già rồi, những lúc trái gió trở trời ấy mà. Embảo: chị lấy con ông chủ tịch huyện đi, hay con ông hiệu trưởng trường cấp ba cũng được, nhà các ông ấy đều giầu. Chị Thái cười buồn: Con các ông ấy không đủ dũng cảmđể lấy chị, họ không giámbước qua những hàng dào vô hình dựng lên xung quanh họ. Emkhông hiểu, bảo chị: Thế thì chị đừng hư hỏng nữa. Đôi mắt đen láy của chi dựng lên thành một dấu hỏi rồi cụp xuống, buồn thảm. Thời nào cũng có thuận và nghịch, cáisự thuận và nghịch ấy con người ta nhiều khi không lựa chọn được, sinh ra đã phải chấp nhận rồi, lớn lên emsẽ hiểu.
Emvặn lại: Tạisao cái gì cũng cứ phải lớn lên mới hiểu?
Chị Thái cười: Cũng như phải đến nămhai nghìn emmới bay vào vũ trụ được, không thể là bây giờ.
Một tuần sau đó chị Thái không mở hàng. Nửa tháng sau cả khu phố xì xầmviệc chị Thái vượt biên.
Ngày ấy vượt biên là một cái gì đó ghê gớmlắm, người ta ít nhìn đến yếu tố kinh tế của những người vượt biển ra đi, họ bị đổ lên đầu
một đống những ngôn từ rổn rảng. Chị đi được một vài nămthì bố chịsống rất khổ. Ông cụ không có sổ lương thực nên thường phải vác rá đi vay gạo hàng xóm. Bố emlà công nhân, được bao cấp nên hiếmkhi nhà emthiếu gạo. Bố chị Thái mất một vài nămthì xoá bao cấp. Tính ra cụ còn nợ emít ra là nửa nămcắt tóc không mất tiền. Nếu chị Thái còn thì bây giờ là thời thuận của chị. Cứ nhìn vào Loan là thấy điều ấy cả thôi.
Nămcuối cấp Loan đẹp rực rỡ. Những lần emđưa Loan đến chơi với ông giáo dạy nhạc Loan thường tỏ ra say mê tiếng đàn, ham thích nghiệp cầmca. Loan được ông giúp đỡ thi vào trường Văn hoá - Nghệ thuật tỉnh. Loan có giọng hát tốt, liên tiếp doạt giải thưởng tại các cuộc thi hát ở trung ương. ánh hào quang đến với Loan càng nhiều thì emthấy mình càng bị đẩy ra xa khỏi cô ấy mặc dù lúc nào Loan cũng tranh thủ thời giản rảnh rỗi để đến với em. Loan đã từng đến thămemở ký túc xá, từng giặt cho cả phòng mấy đống quần áo to tướng. Loan bảo emgầy và xanh, có vẻ lo lắng cho em. Loan bây giờ đã trở nên nổi tiếng. Cô ấy có cả những chuyến đi biểu diễn ở nước ngoài. Embỗng thấy mình chỉ là một tên thư sinh mặt trắng, chẳng đủ sức ômtrọn cái khối hào quang toả ra từ Loan. Loan là biểu tượng của sự thuận thời. Đôi mắt hình dấu hỏi của Loan chiếu vào mọi ngóc ngách của cuộc đời và nụ cười trên môi cô ấy là câu trả lời mãn nguyện. Khu phố emở chẳng còn khung cửa sổ nào nữa. Chẳng còn chú bé nào dán mắt qua song sắt nhìn ra ngoài đường. Tiếng còi ôtô "bim, bim" chẳng còn lạc lõng giữa muôn ngàn âmthanh chói loà của thời đại điện tử. Huyện emđã trở thành một quận của thành phố. Dãy phố tềnh toàng với khoảng bốn chục nóc nhà xốc xệch ngày nào giờ đã trở thành một khu buôn bán sầmuất. Người đàn ông dậy nhạc cũng đã treo đàn đi theo mẹ emrồi. Chị Thái không còn thuộc về emnữa, còn Loan thì hư ảo, biến hiện, khiến emluôn cảmthấy mình không nắmgiữ nổi. Trước ngày emlên đây Loan có chuyến biểu diễn ở trong Nam. Loan bảo emvề căn hộ cô mua mà ở, sang năm cố học nốt rồi ra trường. Nhưng emkhông sống nổi nếu không viết. Mà viết thì không thể nằmtrong cái căn hộ ấy. Emkhoác ba lô lần lên đây sau khi đã mò xuống trại tìmanh.
- Đó không phải là cách tốt nhất, hắn bảo với chàng cuồng sĩ như thế, mà viết là cái đếch gì mà phải vật vã, đau đớn, khốn khổ đến thế. Cuộc đời chú mày chả có cái móng tay gì là bi kịch cả, sao không học một lèo cho xong lại còn dở dói ra thêmmột nămnữa làmgì?
- Anh biết không. Tâm"cận" kể, mấy nămđầu emở trong ký túc, vào đúng phòng anh, nằmchính giường anh, dòng tên anh khắc vào cạnh giường vẫn còn nguyên. Chuyện về anh người ta vẫn kể truyền tai từ khoá này tới khoá khác. Emđược nghe kỹ hơn qua miệng cô Xuân béo, chủ quán nước ở đầu hồi nhà B1. Rồi chuyện anh bị bắt vì tội chiếmđoạt tàisản của người khác rộ lên trên các trang báo. Tất cả các bài báo đều khai thác một khía cạnh: Tạisao từ một sinh viên hiền lành, chămchỉ anh lại tuột dốc trở thành một tên cướp? Em cũng muốn làmsáng tỏ điều ấy. Tất nhiên lý giải theo cách của em. Emtìmxuống trại giamthì được biết anh đã trốn trại rồi. Hỏi lần mãi cũng biết anh đã bật lên trên này. Emđánh liều mò lên đây với hy vọng là được gặp anh, được sống cuộc sống của người đào vàng. Rồi emsẽ ra trường và trở thành một nhà báo. Hiện emđã là cộng tác viên ruột của một tờ báo khá ăn nên làmra. Emcần vốn sống thực tế. Nhưng không phải tất cả chỉ phục vụ cho những bài báo. Cao cả và thiêng liêng hơn nữa kia, thơ anh ạ. Emtìmthấy mình trong miền lãng
du với những cánh buồmthơ.
Quả thật Cuồng sĩ, hắn thích gọi Tâmnhư thế, đã rất liều khi tìmlên bãi vàng Lũng Sơn. Với những người như hắn, cái miền lãng du và những câu thơ ngô nghê từ miệng gã thư sinh kia chỉ là trò hề. Song Cuồng sĩ đã biết lánh vào đúng mái hiên thánh thiện, trong trẻo nhất trong tâmhồn hắn. Cuồng Sĩ luôn nhắc lại những kỷ niệmcũ, luôn nói về cái thời giấy bút là điều bận tâmlớn nhất đối với hắn. Cuồng Sĩ đưa vào cơ thể hắn một liều lượng vừa đủ, chất giảmđau hiện tại, chất kiềmchế những cuồng nộ, chất hạn chế những bản năng, để hắn thỉnh thoảng được hơmhớp bầu không khí trong sạch, được trở lại với thằng học trò nhà quê ngây thơ thủa nào. Điều này làmhắn vừa muốn tống khứ Cuồng Sĩ biến khỏi phạmvi hoạt động của hắn, nhưng lại cũng muốn giữ chàng ta ở lại bên mình để cân bằng cái trạng thái chênh chao thường trực của thực tại khắc nghiệt dù không phải không có những lần hắn phải bực mình. Cuồng sĩ có khả năng nốc rượu đến mức hắn phải ngạc nhiên. Nếu quen nhìn Cuồng Sĩ là một cậu thư sinh trói gà không chặt thìsẽ đánh giá không hết những gì cậu ta nghĩ và cậu ta làm. Cuồng sĩ có thể làmđược nhiều việc, nhưng không phải một lúc, mà cứ từ từ, vớisự bền bỉ của mình, bằng xong thì thôi. Cuồng sĩ cũng một mình một xẻng, cũng đội máng, ômlưới ra suối đào đãi. Tất nhiên không phải với hy vọng đào được những cây, những chỉ, mà với cuồng sĩ, những hạt vàng cámnhỏ li ti có ý nghĩa gợi nhắc một thứ triết lý nhân sinh nào đó. Điều quý giá hơn cả đối với Cuồng Sĩ là những tờ giấy ômấp những dòng chữ được chắt ra từ timóc của cậu. Hắn hiểu và trân trọng điều đó. Nhưng quả thật, những câu chữ Cuồng Sĩ viết ra không phải lúc nào hắn cũng hiểu được.
Ngườisay muôn thủa ghé qua chơi Nhựa níu, men chào, tóc lả lơi Trau chuốt ân cần..., thôi uổng quá Dợ phàmđâu buộc cánh chơi vơi Cuộc đi, khói, rượu, thơ, tình, mộng Ămắp đầy then, chẳng mượn đời Hứng sẵn, neo thuyền ghi chút cảmBuông về cao rộng mấy trùng khơi Cuồng Sĩ viết nhiều về cáisự say. Hắn bảo với Cuồng sĩ rằng chú mày loẻo khoẻo thế, say sưa được bao nhiêu mà cứ làmtrò. Cuồng Sĩ cười, đưa tay gãi gãi đầu trông rất lành. Cáisức yêu, sức say không phụ thuộc vào độ cường tráng của cơ thể anh ạ, cuồng sĩ bảo với hắn vậy.
Cạn đi!
Và lại cạn!
Say rồi, gắng thêmsay!
Bao nhiêu mơ, mà đắng?
Bao nhiêu quế, mà cay?
Đắng cay trút xuống bàn tay Nắmtay lần chót, thuyền quay mũi rồi.
Cuồng Sĩ lên với hắn được hơn hai tháng thì Lân sáu ngón bị xử bắn. Nghe tin hắn lạnh toát sống lưng, cảmthấy tử thần sắp tìmđến với cả hắn rồi. Lân sáu ngón là thằng bạn thân nhất của hắn hồi còn ở trại Thanh Dương. Hai bàn tay Lân mỗi bàn mọc thêmmột đốt thịt thừa ở ngón tay cái, vì thế Lân có biệt danh sáu ngón. Chính Lân đã kỳ công kiếmvề phòng giamlưỡi cưa lá lúa và đêmđêmngồi thức cưa thanh cửa sổ. Lần nào đi ăn cơmvề Lân cũng bớt lại mấy hạt muối để nhét vào chỗ cưa dở trên song sắt. Đến khi "công trình" của Lân gần xong Lân mới rủ hắn trốn. Chỉ cần lấy ức bàn tay đánh nhẹ một cái là song cửa gãy bật ra. Lân cùng hắn lập tức chui qua rồi tắt đồi ra đường cái tìmvề quê Lân. Hắn nằmtrong nhà Lân ba ngày để nghe ngóng tình hình xemnhư thế nào. Trong ba ngày ấy Lân đã tranh thủ vào cướp một tiệmvàng để lấy tiền mua một khẩu K54 và một quả lựu đạn mỏ vịt. Sau đó hai thằng tìmvề bãi vàng Lũng Sơn này. Hội áng Sơn cắmmặt xuống đất để bọn Phù Lưu cai trị, được hắn như được hổ, chẳng mấy chốc lấy lại thanh thế. Lân liều lĩnh và hiếu sát hơn hắn. Lân đưa cho hắn khẩu K54 còn Lân đi đâu cũng kè kè theo quả mỏ vịt. Thằng nào thích toé hoa cà, hoa cải trước khi về chầu trời thì động vào tao. Lời tuyên bố của Lân khiến bọn Hùng quăn, Thành dê, Tùng chột, phải khiếp. Lần bọn Hùng quăn có thêm "viện binh" từ trại Thanh Hoá về tràn sang định lấy phần đất của hội áng Sơn, Lân đã cho nổ quả mỏ vịt ngay giữa ban ngày ban mặt, cả nghìn người nhìn thấy. Sau đận ấy Công an truy rát, hắn cùng Lân phải lẩn sâu vào núi, dạt sang cả Lào một thời gian. Cuối cùng bí quá, hai thằng đành chia tay nhau, mỗi đứa một đường, hẹn khi nào ổn thì gặp lại nhau. Hắn về bãi vàng, còn Lân cướp xe khách trên đường về quê, không thành, bị bắt. Hắn tìmcách gửi quà cáp vào thămLân, đọc báo theo dõi tình hình xét xử, đến khi nghe tin tử hình hắn vẫn không tin là Lân sẽ chết. Có mặt hoặc vắng mặt ngoài xã hội, thế thôi, với bọn hắn, việc đi trại là vắng mặt. Dẫu thế nào thì cũng sống nhưng sống trong cái không gian và thời gian hạn hẹp, chẳng được như người thường. Vì thế việc vào trại hay ra trại đối với bọn hắn cũng là chuyện lật sấp, lật ngửa bàn tay mà thôi. Nhưng đến khi hắn nhận được cái áo Pilot của Lân thì hắn hiểu là Lân dựa cột thật rồi. Sự ra đi của Lân lần này không phải là một cuộc vắng mặt thông thường mà là sự vắng mặt vĩnh viễn, sự đào thoát vào cõi hư vô theo con đường khủng khiếp mà tử tội phải đi qua. Đêmấy hắn uống đến khuya. Hắn sợ. Bóng đêmquanh hắn như những họng súng lúc nào cũng muốn ngoáo cò. Cáisợ cứ bámriết lấy hắn. Hắn không muốn xemsổ sách, không muốn nghe bọn đàn emtính toán ngày qua thu được bao nhiêu cámvàng, không muốn nhìn một khuôn mặt nào, tất cả đối với hắn đều nhàmchán, vô nghĩa, không giúp được gì cho hắn trong việc khoả lấp nỗisợ hãi. Vàng làmgì, tiền làmgì, cả thứ xác thịt điên rồ kia nữa, có nghĩa lý gì khi cứ phải chui lủi như con chó dại nơi rừng xanh núi đỏ này. Bất kỳ lúc nào cái còng số támcũng có thể bập vào hai cổ tay hắn, và đòmmột phát, thế là lại đi vào cõi nhung nhúc những quỷ sứ mà thằng Lân đã đi. Ngay cả Cuồng sĩ hắn cũng muốn túmcổ lẳng ra ngoài lán trại, cho lăn lông lốc xuống vách đồi lô nhô sỏi đá kia để những câu chữ âmu như đá núi nổ tung, vụn nát dưới ấy. Đúng lúc hắn lên cơn thần kinh như thế thì Cuồng sĩ lại đọc cho hắn nghe những câu rất dễ hiểu.
Hành trình của tử tội chẳng dài lắmđâu Cây cột có hình thánh giá trước mặt Hãy bước lên và nhìn lại Nơi cái ác bị kết liễu Là cái
thiện hồisinh Những giọt máu rớt xuống chân cột Đất sẽ lại nảy mầm.
Cuồng sĩ có vẻ nhìn thấu gan ruột hắn. Cuồng sĩ biết lúc này hắn đã trở thành một con hổ đói, mọisự lởn vởn vô nghĩa trước mặt sẽ là chú cừu non đáng bị phanh xé. Cuồng sĩ chấp nhận trả giá khi phóng ra một câu hỏi như mũi lao có tẩmthuốc độc, cắmphập vào tim hắn:
- Anh đã bao giờ nghĩ đến chuyện đầu thú chưa?
- Mày có muốn tao nổ một phát đạn vào đầu mày không?
- Anh có thể sẽ đánh emmột trận thừa sống thiếu chết nhưng anh sẽ không nỡ giết emvì emchỉ bàn về con đường sống của anh. Embiết rằng nói với anh điều gì lúc này cũng thừa, nhưng không nói điều gì còn tệ hại hơn. Emkhông phải là một thằng cuồng sĩ như anh tưởng, không ai có thể thản nhiên đi vào miền lãng du duy mỹ mà dửng dưng với cái ác, lẽ nào emlại đứng yên nhìn anh hoảng loạn trong cuộc chạy trốn chính bản thân mình. Theo emđược biết thì không có một tội phạmnào, dù nguy hiểmđến đâu, lại bị xử bắn khi đã ra đầu thú.
- Nhưng tao đã chọn rồi, một là tự do, hai là tự sát.
- Nhưng anh đã không làmđược hai việc ấy. Hiện tại anh đang tự giammình trong cái hang này, tự đày ải mình ở bãi vàng này. Còn tự sát? Người ta có thể giết cả vạn người nhưng không giết nổi chính mình.
- Mày imđi. Ngày mai tao sẽ cho chúng nó dẫn mày xuống chân núi. Và tao cũng sẽ chọn một cái hang khác. Đó là việclàmtốt nhất của tao đối với mày lúc này. Tao tin là mày không hại tao nhưng tao vẫn cứ phải cảnh giác.
- Emtự đến rồi emsẽ tự đi. Emchỉ muốn được nói chuyện với cái con người hơn chục nămtrước đây của anh, nhưng cái con người ấy rất ít trở lại trong anh. Nó đã bị cái con người hiện tại lấn ướt, chen lấn. Emkhông tin là anh đã trở lên là không thể thay đổi. Anh đang say đấy thôi, một cơn say dài, nhưng cơn say nào rồi cũng kết thúc, chỉ có điều khi kết thúc, thì cái gìsẽ đến?
- Mày bảo tao cũng say như mày sao? Cũng đi tìmmiền lãng du với những trăng và gió như mày sao? Cũng lảmnhảmnhững câu kinh số phận, cũng muốn đến với những hiện thực khắc nghiệt bằng con mắt của kẻ thưởng lãm, cũng thích tấu lên những khúc bi ai bởi những rung động nghệ sĩ, cũng tự đầy đoạ mình bằng cách tưởng tượng ra những bi kịch, cũng... Mà thôi. Tao chợt nhớ đến thầy Quý. Tao đã không học hết những điều cần thọc nên không thể hiểu được chú mày. Nhưng cách tốt nhất là ngày mai chú mày vẫn phải xuống
núi. Đừng ở cạnh ngườisay như tao làmgì.
- Nhưng kết thúc cơn say sẽ là một cáisống tỉnh táo. - Hoặc?
- Cái chết.
- Vậy thì cơn say của tao chưa kết thúc.
- Có hai thứ có thể giảisay cho anh được.
- Thứ gì?
- Mẹ anh và chị Dịu.
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 5
Chương 5 -
Những bước chân cuối cùng. Hắn biết thế nên cố gắng bước thật chậm. Kể từ lúc chúi đầu lao xuống gốc cây bạch đàn, rồi lẫmchẫm biết đi, đến bây giờ hắn đã đi được bao nhiêu bước? Hành trình của một đời người là những bước chân. Thường thì khi kết thúc hành trình của mình người ta bước xuống và nhắmmắt trong sự tiếc thương, dù ít dù nhiều, của đồng loại. Còn hắn kết thúc hành trình ngắn ngủi, với vô vàn những bước chân trốn chạy, bằng cách bước lên. Cây cột sừng sững trước hắn như bậc tamcấp bước vào sự huỷ hoại mãi mãi. Phải, thân xác hắn phải bị huỷ hoại, phải được rắc vôi bột và muối, để cái ác không còn bật mồ mà đứng dậy được nữa. Vách núi bỗng mềmnhũn, tan loãng, dập đềnh hư ảo như những tảng mây trôi dướisắc màu hoàng hôn. Hắn nhìn thấy Dịu. Dịu mặc áo dài trắng, neo mình bên vách đá và hát. Hắn lắc đầu để dứt khỏi những ảo ảnh mơ hồ. Nhưng đúng là Dịu. Vách núi nào cũng có Dịu, như sự tương phản màu nhiệm. Đuôi áo dài tung bay, bồng bềnh, vuốt lên mặt đá. Tóc Dịu bạt đi trước gió. Dịu không nhìn hắn mà nhìn về một chân trời nào đó, xa xămlắm. Và Dịu hát. Vách núi hát. Quanh hắn là cả một dàn đồng ca. Những câu hát bủa lưới vào vùng ký ức hắn. Hắn phải dừng bước để nhận biết mình trong thực tại. Những câu hát tiếp tục rơi xuống người hắn như mắt lưới.
N
Emđi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằmngủ Con sông là quán trọ và trăng - tên lãng du Emđi qua chuyến đò ối a con trăng còn trẻ Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng sẽ già.
Con trăng, dòng sông, chuyến đò?
Đúng rồi, đấy là lần đầu tiên hắn được bay lên, trôi đi trong cảmgiác thần tiên. TrạmĐá vào buổi tối thường vắng người. Hắn tranh thủ về nhà ăn cơmvới mẹ, rồi ra giếng nước sau vườn dội ào ào. Cái cơ thể hừng hực sức trai của hắn thèmthứ nước giếng trong, mát lạnh, thèmsự khoả nước ào ạt sau mỗi ngày làmviệc. Và khi những ngôisao nhấp nháy trên đỉnh núi Ngựa thì hắn trở lại TrạmĐá châm đèn ngồi học. Hắn thường học rất khuya, đến khi buồn ngủ là nằmvật ra giường, thẳng đơ như những tảng đá xếp đầy sau trạm. Chú Hùng vẫn nhắc hắn khi ngủ phải bỏ màn, đừng để muỗi đốt dễ lây bệnh sốt rét. Nhưng Trạmnằmở giữa khe núi, bao nhiêu gió trời hút cả
vào đấy, mát mẻ và thoáng đãng, chả có con muỗi nào cả. Thỉnh thoảng Dịu đến thămhắn. Dịu thường kéo theo một cô bạn nữa đi cùng. Nhưng hômấy Dịu lại đi một mình. Dịu mang theo một chiếc áo kẻ ca rô, cổ cứng, dài tay, lượn đôi tôm. Có lẽ đó là chiếc áo đẹp nhất mà hắn được mặc trong quãng đời niên thiếu của mình. "Emnhờ may ở trên huyện đấy. Tuyệt không? Emưng nhất cái cổ, con trai mặc áo sơ mi phải cổ cứng". Hắn bảo: ừ, đẹp, đi đâu anh mới mặc. Dịu hỏi: Anh không nhớ hômnay là ngày gì à? Hắn bảo: Nhớ, nhưng đang muốn quên. Dịu nhăn mày: Đừng, ngày sinh nhật thì phải nhớ chứ!
Hắn gãi đầu ngượng nghịu. Đang cảmđộng đến mụ cả người đi thì Dịu rủ: Chúng mình ra sông chơi đi?. Hắn bảo: Thì đi! Và hắn mang theo cả cây ghi ta theo nữa.
Trăng lấp ló sau dãy núi Voi, vương hạt vàng xuống vệt cỏ lau. Gió thỉnh thoảng lại thốc vào người hai đứa làmDịu cứ phải đưa tay khép lại vạt áo.
- Đò ông Thảnh kìa, bọn mình xuống đó nhé? - Dịu bảo.
- Sao lần này ông ấy đi lâu thế nhỉ, cứ bỏ mặc đò thế kia à?
- Anh không biết gìsao?
- Biết gì?
- Ông Thảnh có hai người con trai, một người theo đằng mình, hy sinh nămsáu tám, còn người kia theo ngụy, cấp cũng to lắm, bây giờ đang cải tạo. Hai cô con dâu đều khó khăn, bà vợ thì đau yếu. Ông Thảnh phải vào trong đó giúp họ.
- Thế còn con đò?
- Ông Thảnh gửi đò cho chị Tình trông hộ. Thỉnh thoảng chị Tình lại dùng đò của ông ấy đi thả lưới kiếmmấy con cá sông. Con đò cũng nát lắmrồi, không chở nặng được nên người làng cũng ít đi.
Vừa đi vừa nói chuyện, tới nhà chị Tình, hai đứa vào hỏi mượn đò. Dịu đưa tay cho hắn dắt xuống bến. Hắn níu dây đò rồi cùng Dịu chui vào trong khoang. Hắn tháo dây thả cho con đò tự trôi theo hướng gió. Trăng đã vượt khỏi dãy núi Voi, soisáng cảnh vật, rọisắc vàng lấp lánh vào ánh nhìn của Dịu. Hắn cố tỏ ra tự tin nhưng timhắn đập như đá vỡ, cử chỉ cứ lúng ta lúng túng. Hắn yêu và được yêu. Hắn biết thế, hưởng thứ hạnh phúc ngọt ngào êmái ấy đã lâu, nhưng đây là lần đầu tiên hắn được ở gần Dịu như thế này, giữa gió trăng,
sông nước và chỉ có hai người. Hắn ômlấy cây đàn, gẩy lên vài nốt nhạc bập bẹ để khỏi ngượng ngập, để xua đi không khí imắng, nhưng nhức giữa hai đứa.
Dịu bảo:
- Anh Đàn ơi, hômnọ emchép được một bài thơ hay lắm, để hômnào sẽ đọc cho ông Thảnh nghe, nó rất hợp với ông ấy. Hắn bảo:
- Thử đọc cho Đàn nghe xemnào?
Dịu đọc luôn:
Bến My Lăng nằmkhông thuyền đợi khách Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách Ông lái buồn để gió lén mơn râu Hắn bảo:
- Hình như nghe ở đâu đó rồi. Đọc tiếp đi xemnào?
Dịu lại đọc:
Nhưng đêmkia đến một chàng kỵ mã Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi Hắn bảo:
- Nhớ rồi, nhớ rồi. Đây là bài Bến My Lăng của Yến Lan. Một bài thơ bị cấmvì thuộc văn học lãng mạn. Ông Thảnh rất thuộc bài thơ này, thuộc từ thời trước cách mạng cơ. Ông bảo ông rất thích hai câu cuối:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Dịu bảo:
- Văn học lãng mạn bây giờ được xemxét lại rồi, nghe bảo sắp tớisẽ được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy cho học sinh. Các thầy cô ở trường emđọc lại thơ lãng mạn từ lâu rồi, toàn chép tay thôi, ở đâu ra mà nhiều thế!
Hắn nhìn Dịu nói một cách say sưa thấy trong người rào rạt một thứ sóng rất lạ. Hắn dạo đàn rồi bảo:
- Đàn hát cho Dịu nghe một bài nhạc vàng nhé. Bài này ở trong băng cát xét của thằng Bằng. Chẳng hiểu sao Đàn lại thuộc bài này. Có lẽ vì nó cũng nói đến dòng sông, con đò như ở quê mình.
Dịu bảo:
- Anh hát đi, thử xememcó biết không? Hắn so dây, dạo lướt một lượt rồi cất tiếng hát:
Emđi qua chuyến đò thấy con trăng đang nằmngủ...
Dịu vội "a" lên:
- Embiết bài này. Không phải nhạc vàng hải ngoại đâu. Nhạc của một ông nhạc sĩ họ Trịnh từng xuống đường vớisinh viên miền Namtrước giải phóng đấy. Trường emcũng nhiều đứa thích hát những bài của ông ấy. Bài anh vừa hát là bài Biết đâu nguồn cội.
Hắn vừa nghe Dịu giảng giải, vừa gật gù đệmđàn và hát:
Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra.
Emđi qua chuyến đò lắng nghe con sông nằmkể.
Trăng ơi trăng rất tệ mày đi nhớ chóng về...
Hắn hát đi hát lại mà vẫn thấy thèmđược hát nữa. Đôi mắt Dịu lúng liếng nhìn hắn. Cái miệng Dịu bập bẹ theo hắn. Môi Dịu cong lên, mềmmại, khơi gợi quá. Hắn hát đến câu: Tôi xin làmđá cuội và lăn theo gót hài, thì buông đàn ômlấy Dịu. Bóng trăng phủ lên người Dịu.
Bóng trăng mơn man vành môi thiếu nữ ngọt mềmmê đắmcủa Dịu rồi khẽ lần tìmxuống vùng cổ trắng ngần. Bóng trăng quờ tay vuốt ve bả vai và eo lưng Dịu. Dịu nhắmmắt, run rẩy dưới bóng trăng rừng rực hơi thở nồng nàn ấmnóng. Những chiếc cúc cuối cùng bật ra, cả một vùng ngực lồ lộ hai bầu vú mềm, thiêu đốt những hammuốn đang trào lên từng đợt từng đợt trong bóng trăng.
Bóng trăng rửa sinh khí trai tráng trong Dịu để trở thành đàn ông từ hômấy. Bóng trăng yêu Dịu cuồng nhiệt, phủ lên người Dịu những cái hôn lửa đốt, những dập dềnh sóng lũ, những lắng dịu êmái, những rì rầmyêu đương, cả chút bạo liệt, bămbổ. Sau những giây phút thẹn thùng ban đầu, Dịu dần trở nên chủ động hoà quyện vào với bóng trăng. Da thịt Dịu mát lịm, hút chặt lấy thân nhiệt hừng hực
của bóng trăng. Cơ thể bóng trăng bỏng rẫy. Những vùng da thịt cọ xát phát nhiệt đê mê. Bóng trăng mở hết tất cả các giác quan để thoả mãn sự khámphá Dịu. Dịu thả lỏng toàn thân cho những khoái cảmtràn đến từng thớ thịt. Cặp vú Dịu lúc này căng mẩy như hai trái lê con, eo hông dập dềnh, lượn sóng, dồn dập, hối hả dưới bóng trăng. Những tiếng rên khe khẽ thả xuống làn nước, tạo dư ba trên mặt sông, chạy vào vùng nhạy cảmthần tiên. Bóng trăng đưa lưỡi lùa vào miệng Dịu, ngấu nghiến bờ môi Dịu, chồmlên cơ thể êmấm, giãn nở, tạo những cơn giật rùng mình trước khi hoà vào Dịu, trong Dịu và tan ra cùng Dịu giữa mặt sông lấp lánh ánh vàng.
Sau những nghiến ngấu, cuồng nhiệt, bóng trăng lại trở về bên Dịu, vuốt ve, ômấp. Bóng trăng có dáng dấp của một bức tượng thần Hy Lạp limdimmắt tận hưởng những khoái cảmtừ Dịu. Bóng trăng ấy mãi mãi là người đàn ông thánh thiện trong Dịu. Nhưng con sông đâu có ngờ rằng ngày kia trăng sẽ già. Xa Dịu bóng trăng đã hiện nguyên hình là một con quỷ dữ. Và hắn mang con quỷ dữ ấy trong mình bước tới chân cột để nhận sự kết liễu. Dịu đừng hiện lên bên những vách đá kia để con quỷ trong hắn lặng lẽ đến vớisự trừng phạt. Dịu là miền cổ tích được chôn giấu rất sâu trong ký ức hắn. Dịu hãy đưa miền ký ức ấy đi xa đi, hãy mang tới một nơi nào đó và hoả thiêu để tránh cho hắn một sự đau đớn. Cuộc sống xác thịt của hắn sau này không nhuốmmàu trăng như thế. Đó là những cuộc giải toả sinh lý triền miên trong nỗi khốn cùng của kẻ trốn chạy. Người đàn bà ấy có lẽ cũng yêu hắn, cũng tôn thờ bức tượng thần Hy lạp nằm bên mình mỗi đêmmà không biết rằng khát vọng chồng vợ chẳng bao giờ có thể đạt được.
Hắn gặp người đàn bà ấy trong chốn ngổn ngang, cắn xé, tranh giành nhau nơi từng hạt cámvàng đốt cháy lên những cuồng vọng. Bọn thằng Xế về bảo với hắn rằng bãi vàng vừa xuất hiện một con bớp không có tuổi. Tạisao lại không có tuổi? Thằng Xế nhếch mép đểu giả: Vì cái của nợ ấy vô mao. Nó là một đứa con gái chưa kịp lớn đã phải làmđàn bà, bây giờ mọi thứ trong nó đã lớn thì cái vệt mực tàu đánh dấu sự hoàn thiện của cơ thể một người phụ nữ chẳng mọc ra được nữa!
Hắn thờ ơ khi nghe thông tin này, thậmchí, một thoáng kinh tởmlen lén đi qua óc hắn. Nhưng mấy ngày hômsau lũ đàn emlại cứ xì xào bàn tán về cái con bớp vô mao ấy, như thể ngàn nămtạo hoá mớisinh ra được một người đàn bà đặc biệt như vậy, không nếmthử coi như phí đi cơ hội trời cho, hàng thiên niên kỷ mới có một lần.
- Thế cái con ấy nó tên là gì? - Hắn tuột miệng hỏi.
- Nhung. Hồng Nhung. Tên cha mẹ đặt cho đấy, không phải tên giang hồ đâu.
- Nó ở trại nào?
- Trại Hùng quăn.
- Hùng quăn bao nó à?
- Thời gian đầu thôi. Bây giờ tháo khoán. Hùng quăn dùng cách này để bóc lột cửu vạn cũng được đấy. Bọn Thành dê, Tùng chột thỉnh thoảng cũng ký tắt với Hùng quăn "mượn" emNhung về cải thiện. Trại Thành dê cũng có ba bốn emnhưng từ ngày Hùng quăn có Hồng Nhung bọn ấy vắng khách hẳn.
Tối hômấy hắn cũng ký tắt với Hùng quăn một hợp đồng miệng để mượn Hồng Nhung về trại của mình. ở bãi vàng Lũng Sơn này người ta có thể bắt gặp tất cả những gì được coi là quái đản nhất trên thế gian. Hồng Nhung về phục vụ bên trại hắn một tuần, đổi lại Hùng quăn sẽ được quyền khai thác hai hầmcó nhiều cámvàng nhất của bọn áng Sơn. Đất có trộn lẫn cámvàng là vật quy đổi, là thứ bảo đảmcho mọi giao dịch cả hợp pháp lẫn phi pháp áp dụng rộng rãi trong cái xứ nửa người nửa ngợmnày. Đêmđó hắn được sở hữu người con gái ngàn nămtạo hoá mớisinh ra một lần. Khuôn mắt tròn trĩnh, u buồn, mệt mỏi. Nước da nâu mịn, rắn rỏi, trường sức nhưng không căng tràn, nhuộmsắc. Bộ ngực vẫn còn căng, eo vẫn gọn, đùi thon dài, quả vẫn đáng đồng tiền bát gạo, vẫn có thể mang về cho Hùng quăn hết lọ penicilin cámvàng này đến lọ penicilin cámvàng khác. Nhung cười có làmcho khuôn mặt sáng lên nhưng không lấp hết được những oằn oải ẩn sâu trong hố mắt. Tuổi Nhung mười támhay hai mươi? Chịu. Hắn không thể đoán được. Nhung vừa có nét của con bé mườisáu, lại vừa có dáng dấp của một mụ ba mươi, vừa có vẻ lần đầu lên giường với người khác giới, lại vừa có những biểu hiện đầy kinh nghiệmchăn gối của một gái giang hồ. Tất nhiên trước Nhung, mọi ý nghĩ của hắn rồi cũng lại quay về với cái đặc điểmkhông giống ai trú ẩn trên cái cơ thể đang kêu gọi dục tính kia. Nhưng hắn chưa vội. Hắn ngồi đốt thuốc và thả những tia mắt quét lên người Nhung, dò xét, thật khó phân biệt được đó là những tia khoái cảmhay thương xót, hững hờ hay thèmthuồng, chờ đợi hay chán ngán. Nhung không thích ánh mắt ấy. Cô không muốn bị đẩy mãi vào thế bị động. Sau một khoảng thời gian co mình lại để khỏi để khỏi bị những tia mắt của hắn quét đi, quét lại, Nhung bắt đầu làmnhững công việc mà cô thường phải làm.
Nhung tiến đến bên hắn bằng nụ cười không sinh khí, đưa tay lần mò những khuy cúc và chủ động tạo những cọ xát gây hứng thú. Hắn không nói không rằng chỉ khẽ xoay người để cô ta tháo bỏ những vướng mắc khoái cảm. Khi cơ thể hắn hiện ra nguyên vẹn trước Nhung thì hắn giữ tay cô lại. Nhung cho đó là sự nhắc nhở ngược, liền lẳng lặng cởi bỏ những thứ trên người mình ra trước cặp mắt hơi nheo nheo của hắn. Nhung làmmọi việc một cách căng thẳng. Cô thấy ức chế trước thái độ của hắn. Những người đàn ông mà cô phải tiếp hoặc là quá tỉnh táo hoặc là quá mê muội, đằng này hắn lạnh lùng một cách rất khó hiểu. Hắn không đẹp trai nếu xét về khía cạnh tao nhã. Cao một mét bẩy hai, đùi to, ngực nở, cơ bắp cuồn cuộn, trán gồ, cằmbạnh, tiềmẩn những cơn cuồng khát mà trong đời lưu lạc của mình, Nhung biết những người như hắn sẽ rất đáng sợ khi vào cuộc mây mưa. Vòmhang lạnh lẽo, không khí trở nên ẩmướt khi đêm xuống. Nhung không chịu nổisự imlặng cứ bao trùmlên mối giao cảmcó vẻ như lạc lõng, xộch xệch này. Cô kéo hắn xuống tấmgiát có lót chăn, thực sự muốn cái cơ thể kia của hắn tan nhão ra. Nhung biết, những người đàn ông dù ghê gớmđến đâu đi nữa, thì rồi cũng sẽ mệt mỏi và gục ngã trước cơn hứng tình của người đàn bà. Hắn là một tên cướp, một bưởng vàng có thâmniên, có án tích, có máu lạnh,
có đầu óc. Cô nghĩ về hắn thế. Các bưởng khác cũng nghĩ về hắn thế và ngầmnể sợ hắn. Nhung cố gắng đẩy bật nỗisợ hãi ra khỏi trí óc đang trở nên hoảng loạn của mình trước thái độ đến là khó hiểu của hắn. Nhưng Nhung chỉ có thứ vũ khí duy nhất, ấy là bản năng giới tính. Cô sẽ dùng nó để chế ngự dục tính trong hắn, thôi miên, hoá giải mọisức mạnh của hắn để lấy lạisự tự tin cho mình. Khi ở thế thượng phong trên giường chiếu cũng là lúc có thể làmchủ được lý trí của bạn tình. Nhưng Nhung sốt ruột và khó chịu vì thứ vũ khí của cô có vẻ như không vào cuộc được để phát huy tác dụng. Đúng lúc Nhung giơ tay tắt đèn thì hắn giữ tay cô lại như đã từng giữ tay cô không cho khámphá hết cơ thể đẹp như bức tượng thần Hy lạp của hắn. à thì ra thế. Nhung chợt hiểu. Hắn muốn kiểmnghiệmxemcó hay không cái vệt mực tầu nơi đàn bà nhất của cô. Khốn nạn cả! Hắn cũng như bao thằng đàn ông khác mà thôi, muốn tìmkhoái cảm ngay cả trong sự giả tưởng. Nhìn cái bộ phận trời cho ấy thanh sạch, trắng muốt, mấp mô, mũmmĩmnhư núi đồi ngái ngủ ngậmsương, bọn con traisẽ có cái cảmnghĩ là mình được ngủ với một nữ đồng trinh. Thì ra hắn cần điều ấy ở Nhung mà cô không biết. Điện vẫn sáng và vòmhang vẫn lạnh lẽo, ẩmướt đến khó chịu. Hắn lại ngả lưng ra ghế, rút một điếu thuốc và nhúng vào chén nước đặt bên cạnh. "Cô có nhìn thấy những nốt mẩn đỏ chạy dọc hai bên háng và đã bắt đầu ăn lên rốn rồi không?". Nhung hoảng hốt trước giọng nói ráo hoảnh của hắn. Không có gì kinh khiếp hơn đối với một người đàn bà, ấy là khi bị người ta phát hiện ra những khiếmkhuyết trên cơ thể. Nhung sống và tồn tại được là nhờ cái cơ thể đặc trưng giới tính của mình. Vậy mà giờ đây cái cơ thể ấy đã bị hắn phát hiện ra những điểmxấu xí, độc hại và ủ đầy mầmbệnh. "Hãy mặc quần áo vào đi và về bảo với Hùng quăn rằng chớ có động vào một hạt cát ở hai cái hầmdưới chân núi".
- Anh Đàn! Emcũng không ngờ bị lây bệnh nhanh như thế này. Bây giờ anh có trả emvề đâu thì cũng hết đường sống rồi. Bọn Hùng quăn sẽ lại bán emđi xứ khác thôi. Mà cũng có thể chúng sẽ cho emmột nhát cuốc vào đầu rồi đút xuống một cái hầmbỏ không nào đấy, lấp đất lại rồi rắc vôi bột lên trên. Anh cứu emvới!
Hắn lại trầmngâmngồi hút thuốc và nhìn Nhung khóc. Cô khóc trông thật hơn là cô cười. Tiếng khóc của cô có vị mặn của muối, có vị chát đắng của số phận và những giọt nước mắt đang lăn tròn trên má kia là thứ duy nhất đẹp đẽ, long lanh trên khuôn mặt Nhung lúc này. Nhưng mà cô khóc cũng chẳng giải quyết được việc gì. Chính hắn cũng không cứu nổi hắn ra khỏi vách hang lúc nào cũng ẩmướt, tămtối này, hắn có thể giúp được gì cho cô? Bọn Hùng quăn, Thành dê, Tùng chột dẫu sao cũng rộng cẳng hơn hắn, bầu trời tự do còn mở ra với chúng, và chúng có điều kiện để cứu cô hơn. Cứu cô rồi chúng còn có thể tiếp tục thu lãi từ cô nữa kia mà? Làmsao cô phải khiếp đảm, hãi hùng đến thế?
- Emvan anh, anh Đàn ơi! Embiết hết ruột gan chúng nó rồi. Đứa nào cũng tỏ ra yêng hùng hơn anh, phỉ nhổ vào cái mác học thức của anh nhưng lại chẳng làmđược một việc gì nhân nghĩa bằng anh. Cả bãi vàng này đều biết anh là người tử tế hơn cả. Bọn cửu vạn gọi anh là Tống Giang của vùng Lũng Sơn. Emchẳng biết Tống Giang là ai nhưng chắc phải là một người tốt. Nếu không cứu được emthì anh cho emmột phát đạn cũng được. Rồi xin anh cho emmột cỗ ván. Chúng nó chẳng đứa nào coi emlà người. Sống đã chẳng được coi
là người thì chết chúng nó coi emra thứ gì? Emvan anh. Anh cứu emvới. Emxin anh đấy.
Không thể nói là hắn đã vô cảmtrước những giọt nước mắt của phụ nữ dù hắn là một tên cướp. Hắn thương Nhung thật. Bản tính hắn ưa nhẹ nhàng, dễ mềmlòng, đặc biệt rất ưu ái với phụ nữ. Con đường tội lỗi của hắn có hình tên phóng nhưng mũi tên ấy bao giờ cũng lánh xa đàn bà, con gái. Phóng lao phải theo lao. Hắn sẵn sàng đi đến tận cùng của cái ác, nhưng vùng tội lỗi quanh hắn không có bóng dáng của phụ nữ. Phụ nữ có thể sợ hắn như đámcửu vạn dưới kia sợ hắn. Vìsợ hắn lên ai cũng cúi xuống hoặc tránh xa hắn chứ chẳng ai ngẩng mặt nhìn hắn, chuyện trò tâmsự, coi hắn như một người tâmgiao cả. Người đầu tiên dámnhìn thẳng vào mắt hắn với tiếng khóc nguyên thuỷ ở bãi vàng này là Nhung. Và hắn đáp lại bằng những gì mà hắn có trong tay, thuần tuý hào hiệp, không một chút vụ lợi.
Ngay sáng hômsau hắn đến gặp Hùng quăn để thoả thuận lại hợp đồng miệng vừa ký tắt tối hômtrước. Hai cửa hầmmới mở dưới chân núisẽ thuộc về đámcửu của Hùng quăn, đổi lại, Hồng Nhung, con bớp vô mao, sẽ thuộc về hội áng Sơn của hắn. Hắn giao cho thằng Xế đưa Nhung về thành phố chữa bệnh. Hơn một tháng sau Nhung trở lại bãi Lũng Sơn, quản lý một quán ăn cho hắn. Gọi là quán ăn nhưng đó là nơi mua đi bán lại cả trămthứ trên đời. Quần áo, chăn màn, cuốc xẻng, bao bố, máng tôn, máng gỗ, kèo cột, lướisắt, thúng tre, xảo sắt, nồi gang, dây điện, giầy dép, mì tôm, ắc qui, thuốc tây, trứng, thịt, rau, quả... đủ cả. Lúc đầu quán của Nhung thực chất là bộ phận hậu cần của cả hội áng Sơn. Sau một thời gian, quán phình to, trở thành nơi cung cấp hàng hoá cho cả vùng vàng Lũng Sơn. Hắn đã từng bước bóp nghẹt các quán khác để độc chiếmnhững mối hời từ việc mua bán đổi chác. Trong quán của Nhung lúc nào cũng có hai thợ kimhoàn được thuê từ thành phố lên để nấu, lọc, cô, đúc số vàng khai thác được. Đây cũng là nơi trao đổi cámvàng của đámcửu làmthuê đồng thời thực hiện các dịch vụ như ký gửi, vay lãi, sơ chế vàng cám, cân đong, đo đếm, tính tuổi vàng cho bất cứ ai có nhu cầu. So với mười nămtrước, khi hắn lần đầu tiên đặt chân đến nơi này, bây giờ bãi vàng Lũng Sơn đã biến dạng tới mức thảmhại. Những dải đồi uốn lượn yên ngủ hàng ngàn nămnay bị đánh thức, bịt mồm, chẹn họng, moi ruột, moi gan, chặt đầu, chặt đuôi. Con suối chảy theo triền dốc như một viền bạc điểmtrang cho núi đồi thủa sơ khai giờ lở loét, ngầu đục, quằn quại, sủi đục bởisỏi và cát, đất và đá, rác rưởi và xác chết. Những nhómngười bị hút về đây từ tự phát, phân tán, cơ bản là tử tế nay được tổ chức, phân chia theo hội, nhóm, đối xử với nhau theo kiểu luật rừng, ai cũng mang trên mình khuôn mặt của kẻ cướp. Thay đổi hết cả, biến dạng hết cả. Các bưởng vàng xuất hiện như thể đã có bầy đàn thì phải có thủ lĩnh. Bưởng mạnh thì hội mạnh. Hội mạnh thìsố hầmnhiều, đất đai rộng, có đoạn suối dài, cửu vạn lắm, vàng thu về lớn. Cửu vạn lên đây chỉ có làmthuê, cần mẫn đào đãi, số vàng đãi được sẽ theo tỉ lệ định sẵn mà phân chia. Khá ra thì có vài cây vàng đemvề cho vợ, cho con, lỡ phải vận đen thì cứ ăn chịu, ở chịu, bán sức cho các bưởng sống lay lắt qua ngày. Chính quyền vào dẹp, công an, quân đội hết tới lại lui, đámdân đào vàng như đámbèo tấm, hết tan lại tụ. Bãi Lũng Sơn xa dân cư, xa thành thị nên cũng xa cả chính quyền. Vì thế đất cứ lở lói, người cứ ùn ùn tới, chính quyền không sao dẹp được.
Khi hắn theo bọn thằng Xế, thằng Học tới đây hắn cũng chỉ mong kiếmđược vài ba chỉ vàng như bất kỳ một anh cửu vạn nào trong
lúc bí bách phải tìmvận may mà thôi. Vì thế hắn không dámnói lời chia tay với Dịu. Hắn biết là Dịu sẽ chẳng bao giờ đồng ý để hắn đi. Nhưng một nămrất dài. Hắn không thể trần mình mãi nơi trạmđá hun hút gió lùa ấy để nhặt nhạnh những lời ong tiếng ve của người làng, người xã. Hắn phải khuất mặt đi một thời gian, vừa là kiếmtiền, vừa là trốn chạy thực tế khốn khổ, khốn nạn của một thằng sinh viên lĩnh án kỷ luật, đằng đẵng hai nămsau mới được thi lại. Dẫu sao thì một nămcũng đã trôi qua rồi. Hãy quên đi một nămnữa bằng cách đến bãi đào vàng này, tới gần ngày thi thì về. Rồi hắn sẽ đỗ thôi. Hắn sẽ học lại từ đầu. Sẽ yêu Dịu một cách lãng mạn như tất cả những tình yêu sinh viên khác, sẽ ra trường, đi làmvà cưới Dịu. Hắn nghĩ thế và việc ra đi của hắn ngày hômnay cũng là vì Dịu.
Nhưng sự đời lại chẳng thuận theo những suy nghĩ của hắn. Hắn lên bãi vàng giữa lúc hội Yên Mĩ đang bành chướng thế lực, từng bước lấn ép uy thế của hội áng Sơn. Đêmđầu tiên hắn được ngủ với bọn thằng Xế ở ngay chiếc lán dựng phất phơ dưới chân núi. Đi đường mệt nhọc khiến hắn ngửa ra là lịmvào giấc ngủ say sưa không còn biết trời đất gì nữa. Song giấc ngủ đến với hắn chưa được bao lâu thì những tiếng gào thét dựng đứng hắn dậy. "úp nồi lên đầu, bọn Yên Mĩ đánh lén đấy". Hắn chẳng hiểu gì cả, quờ tay vớ được chiếc mũ cối, vội chụp lên đầu rồi nép mình vào những tấmlưng khác, nửa nằm, nửa ngồi, co quắp tránh đá từ bên ngoài némvào. Sau những phút hoảng loạn, thằng Xế, thằng Học bò ra ngoài lán nhặt đá némlại, lũ thanh niên áng Sơn ở các lán khác cũng ào ra tiếp viện, némtrả vào bóng tối hiểmnguy bủa vây xung quanh. Cuối cùng thì bọn Yên Mĩ phải rút đi, bóng đêmlại imlặng, phủ lên bọn hắn những lo âu, căng thẳng. Hầu như không ai ngủ lại được nữa. Sáng hômsau cảmgiác yên bình theo những tia nắng sớmrọi xuống khắp mái lán. Hắn hít thở khoan khoái, thấy bóng đêmvốn nát con người ta chứ quả thực sự sợ hãi không đến nỗi tệ như hắn nghĩ. ánh ngày mang lại sự tự tin cho cả hội áng Sơn. Bọn hắn tổ chức ăn uống xong rồi người nào người nấy mang theo đồ nghề kéo nhau ra bãi. Thằng Xế đưa cho hắn cái máng gỗ có hình một chiếc thuyền rồi ra hiệu cho hắn đi theo sau. Bọn hắn hành quân đến chỗ mấy cái cửa hầmnằmsát nhau, cách bờ suối không xa thì dừng lại. Từng người chui xuống. Cuốc chimvung lên, đất rơi rào rào, xẻng lùa xàn xạt, một bao đất đầy được đưa lên. Hắn còn chưa biết mình sẽ phải làmgì thì ở cửa hầmbên kia thằng Xế ơi ới gọi hắn tới đỡ một bao đất khác. "Tí nữa mày cùng mấy thằng kia mang đất ra suối đãi. Nhìn theo chúng nó mà làm, không cẩn thận vứt hết mẹ nó cámvàng đi đấy". Hắn gật đầu hiểu ý. Thì ra cũng không có gì là khó nhọc lắm. Đào đất rồi đãi đất tìmvàng hoá ra còn sướng hơn cái việc ngồi ghè đá ở nhà. Chút phấn chấn ấy vừa thoáng đến đã vội tắt ngay trong hắn khi đá từ đâu bay tới, vèo vèo, sượt qua tai hắn. Một thằng cùng hội đứng cách hắn không xa bỗng lăn đùng ra đất, hai tay ômđầu lăn lộn. Từ những kẽ tay của nó, máu rỉ ra nhoe nhoét, nhờn nhợt màu đỏ tươi. Hắn hoảng hồn quay lại, mặt tái đi khi thấy hơn chục thằng mặt mũi hầmhè, lămlămtay dao, tay gậy ào tới.
"Biến khỏi đây ngay, tao tuyên bố nămcửa hầmnày thuộc về hội Yên Mĩ, thằng nào muốn hôn đất, nuốt vàng thì ở lại". Một thằng có vẻ mặt hung dữ nhất, tóc quăn tít, đuôi mắt trái bị kéo ngược lên thái dương bởi một vết sẹo to như con sâu róm, đứng chống nạnh tuyên bố. Thằng Xế lóp ngóp chui từ dưới hầmlên, tay cầmcán cuốc, bảo: "Hầmnày tự bọn tao mở cửa, không chiếmlại của hội nào, bọn mày là cái thá gì mà dámđòi?". Cạch! Chát! Lập tức hai hòn gạch bay vèo về phía Xế, may cả hai đều trúng vào cán cuốc. "Làm
việc!". Thằng tóc quăn phất tay. Cả bọn Yên Mĩ liền ào đến vung gậy đập tứ tung, có thằng cầmcôn ba khúc cứ nhằmcẳng chân hắn mà lia tới. Xế bị mấy gậy vào người, vứt cuốc bỏ chạy, mấy thằng còn lại của hội áng Sơn cũng nháo nhào chạy theo. Hắn cũng quay lưng định chạy nhưng thằng cầmcôn ba khúc lại bất ngờ vung ngược côn lên, quật chéo một khúc vào người hắn. Như bị một vệt cháy sém lưng, sức nhiệt trong hắn được thổi bùng lên, hắn quay lại và nhìn thấy tấmmáng đãi vàng nằmcạnh đó. Hắn nhào tới hai tay bê tấm máng gỗ lên, lăn xả vào bọn Yên Mĩ quay tròn. Chát! Bụp! Xạt! Tiếng va chạmcủa gậy, của dao làmhắn sởn tóc gáy nhưng máu đã bốc lên tới đầu, hắn cứ lia chiếc máng vào mặt bọn Yên Mĩ, chẳng cần biết sự thể ra sao. Bọn Yên Mĩ đang ở thế hùng hổ tấn công bỗng hoảng loạn trước hành động liều lĩnh của hắn. Có thằng rơi dao, rơi gậy, cuống cuồng bỏ chạy, tránh cú lia bạt mạng từ tấmmáng ở tay hắn. Hành động liều lĩnh của hắn bỗng chốc thay đổi tình thế. Thằng Xế, thằng Học từ xa cầmđá némtới tấp vào bọn Yên Mĩ rồi hô hào hội áng Sơn quay trở lại phản công. Cuốc chim, mai, xẻng, cột, kèo vung lên, quay ngang, tạt dọc khiến bọn Yên Mĩ kêu oai oái, mất thế thượng phong vội quay đầu bỏ chạy. Hắn quẳng chiếc máng sang một bên, vớ lấy đoạn tamtiết côn của một thằng trong hội Yên Mĩ rớt lại đuổi theo vụt rát rạt. Cả hội áng Sơn thừa thắng xông lên kéo thẳng một mạch đến lán trại của bọn Yên Mĩ. Thằng Xế tuyên bố toàn bộ cửa hầmcủa bọn Yên Mĩ từ nay thuộc về hội áng Sơn. Thằng Học chỉ đạo việc dỡ lều bạt, khuân tất cả của cải, đồ đạc của bọn Yên Mĩ mang về lán trại hội áng Sơn. Mấy ngày sau đó hắn cùng bọn thằng Học, thằng Xế trở thành những kẻ có máu mặt nhất bãi vàng Lũng Sơn. Bên hội Yên Mĩ bốn thằng phải đưa đi cấp cứu, toàn bộ tàisản bị mất sạch. Niềmvui chiến thắng đến với bọn hắn chưa được bao lâu thì vào một buổi chiều mùa hè nóng nực, cả bọn đang trần trùng trục đào, đãi bỗng hoảng hồn nhận ra xung quanh đã bị vây kín bởi những bóng áo vàng. Hắn ngoan ngoãn theo họ lên xe thùng về công an thành phố. Tại đây hắn được người ta hướng dẫn cho cách khai báo thành thật về những việc làmxảy ra ở bãi vàng giữa hội áng Sơn của hắn và hội Yên Mĩ của Hùng quăn. Hắn thật thà khai nhận tất cả. Có đánh người không? Có. Đánh như thế nào? Cầmmáng lia bạt mạng, cầmcôn đập thẳng cánh. Có gây thương tích không? Có. Mấy người? Không nhớ rõ, cứ ngã ra, lăn lộn, kêu xin thì thôi. Có người nào chết không? Không biết! Nhằmvào chỗ nào để đánh? Chẳng nhằmvào đâu cả, tiện đâu phang đấy. Có dỡ lều bạt không? Có. Lấy làmgì? Mang về cho cả hội dùng. Đó là tàisản của ai? Của hội Yên Mĩ. Sao lại lấy tàisản của người khác mang về dùng? Vì bọn nó thua chạy, bỏ lại. Hắn khai hết tờ giấy này đến tờ giấy khác, người ta chỉ vào đâu thì ký vào đấy. Cứ tưởng như thế là thật thà, là hoàn toàn tự vệ, là nó đánh tôi thì tôi đánh lại, là nó cướp của tôi thì tôi cướp lại. Đơn giản, chắc người ta cũng sẽ giải quyết một cách đơn giản. Ai ngờ người ta ấn vào tay hắn một lô một lốc những quyết định khởi tố, quyết định tạmgiữ, tạmgiam, kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản giao nhận. Hắn kinh hoàng khi phải tiếp xúc với hàng loạt những thuật ngữ pháp lý mà cả đời hắn chưa bao giờ biết đến dù đã có hơn hai nămhọc triết. Thì ra hắn đã trở thành tội phạm. Hắn cứ tưởng có lẽ chỉ phạt hành chính về xô xát vớ vẩn, ngờ đâu người ta đang tiến hành các thủ tục tố tụng để đưa hắn ra toà, lĩnh án. Biết thế này thì hắn cứ chối phắt đi là xong. Nhưng cuộc đời mà cứ vài lần biết thế như hắn thì chẳng còn là cuộc đời nữa. Hắn choáng váng khi nghe toà tuyên bố nămnămtù. Thằng Xế, thằng Học cũng bị tuyên án hai nămnhưng cho hưởng án treo. Chú Hùng cho xe ô tô đưa mẹ hắn và Dịu đến thăm. Hắn nhất quyết không ra gặp mặt. Tưởng xa Dịu vài tháng rồisẽ được về với Dịu, bây giờ coi như hắn đã mất Dịu, còn gặp lại làm gì. Hắn không muốn gặp Dịu nhưng không thể không gặp mẹ. Mẹ hắn đi một mình đến trại thămhắn. Một lần, hai lần, đến lần thứ ba thì
hắn chịu ra gặp. Vừa nhìn thấy hắn, mẹ hắn đã tru tréo lên:
- Đàn ơi là Đàn, sao mày lại không ra gặp mẹ, mày ăn phải thứ gì mà lú lẫn đi cướp của người ta thế hả con. Tao có cần vàng của mày đâu, sao mày đâmđầu lên cái xó ấy để hư hỏng ra thế này. Tao muốn đâmđầu vào đá chết cho xong, nhưng thương cái thân mày khốn khổ nơi tù ngục lại không chết được, phải cố mà sống để thămnuôi mày. Sao mày lại gàn dở, ương bướng không chịu ra nhìn mặt mẹ mày hả Đàn?
- Mẹ gặp con thế này thì con vào cho xong. Coi như mẹ không có con nữa, anh Dương sẽ nuôi mẹ, mẹ khóc lóc, chửi rủa con làmgì. Con cũng đang muốn chết đây.
- Đừng, đừng chết con ơi!
- Mẹ hắn bỗng nín bặt, đưa tay chùi nước mắt rồi chuyển giọng khẩn thiết, van nài hắn - Con đừng nghĩ dở mà mẹ không sống được đâu. Anh cán bộ quản giáo bảo với mẹ rồi, nếu con cải tạo tốt thì chỉ ba nămlà về. Mẹ còn khoẻ, còn sống để chờ con về. Con làmgì thì cũng phải nghĩ đến mẹ. Mẹ cố sống là vì con, mẹ sẽ thămlo, tiếp tế cho con, con đừng nghĩ dại, Đàn nhé!
- Thôi mẹ đừng nói chuyện đó nữa. Thế bây giờ ở nhà mẹ sống thế nào?
- Dễ chịu lắmrồi con ạ. Mẹ được chia ruộng khoán, thỉnh thoảng cái Dịu cũng có sang làmgiúp mẹ. Cái ăn bây giờ chả hết. Mẹ nuôi lợn chờ mày về rồi bán. Nhưng mà mày thế này thì mẹ để dành tiền cho mày. Anh Dương ra công tác ở Quảng Ninh rồi. Nó đang định cuối nămnay lấy vợ nhưng mày lại vào đây thì làmsao lo giúp mẹ một tay hả con?
- Anh ấy không lấy cái chị gì ở Vĩnh Phú nữa à?
- Không, nó theo người ta ra Quảng Ninh, ở đấy nó cũng yêu một cô mỏng mày hay hạt lắm, làmcái gì về tiền lương ấy, đưa về cho mẹ xemmặt rồi. Nó trách mày nhưng mẹ bảo emnó còn dại, đừng chửi mắng nó, tội nghiệp.
- Anh Dương biết con vào đây chưa?
- Biết chứ. Nhưng... Mà thôi. Mẹ giận nó lắm. Nó bảo vì con mà nó mất mặt với gia đình bên nhà gái. Nó bảo con là ngu, là đần, là chẳng chịu giữ gìn cho anh, để nó công tác có tiến bộ bao nhiêu cũng chẳng được tổ chức đoái hoài đến vì có một thằng emtrai làm cướp. Mẹ mắng nó, nó bảo mẹ bênh mày. Mẹ không muốn nói với nó nữa. Từ xưa đến nay nó vẫn khái tính. Nó giống bố mày. Đã vì công việc thì quên hết mọi người trong nhà. Con cũng chẳng trách anh làmgì. Nó thế nhưng nó cũng thương con lắmđấy. Nó gửi tiền mẹ cầm
lên cho con đây. Rồi nó sẽ lên với con sau.
Hắn nghe mẹ nói, chỉ thấy bản thân mình đáng trách chứ không hề giận anh Dương. Hắn quá hiểu anh Dương, và trong sâu thẳmký ức, anh Dương vẫn là con người đáng kính trọng nhất của hắn. Hắn sai lầm, tội lỗi, ngu dại bị anh mắng, anh chửi là đúng thôi. Anh Dương mang lại niềmvui cho mẹ, đáng hãnh diện với cả làng, còn hắn, hắn toàn mang lại những điều đàmtiếu, chê cười của thiên hạ mà thôi. Hắn là một đứa con hư, một đứa emngỗ ngược, phá gia chi tử, vô dụng, mạt kiếp, rước oan nghiệp vào thân, làmô danh cả làng, cả xã. Nếu gặp hắn, nóng lên có khi anh Dương lại cho hắn mấy cái bạt tai cũng nên. Hắn lẳng lặng ômtúi đồ tiếp tế vào ngực, đứng lên bảo:
- Thôi mẹ về đi, mẹ cũng đừng lên đây thămcon nữa, đường xa lắm, mà mẹ yếu nhiều rồi. Mẹ bảo với Dịu hộ con là lấy chồng đi, đừng chờ con. Cho con gửi lời cảmơn đến chú Hùng và cô giáo Hường.
- ừ, nhưng mà này, nhớ lời mẹ bảo đấy nhá. Cố gắng mà cải tạo, chỉ ba nămthôi. Mẹ chờ, cái Dịu nó cũng sẽ chờ. Chú Hùng về ở với cô Hường rồi. Chú ấy cũng mới lên nhận công tác ở huyện. Chú ấy bảo khi nào con về chú ấy còn công tác thì còn lo được việc cho con. Đừng lo nghĩ nhiều rồi phát phiền lại nghĩ dở con nhá.
Những lời mẹ nói đã đốt lên trong hắn ngọn lửa khát thèmtự do. Hắn lao vào làmviệc, cố gắng quên đi tất cả, chỉ chămchămmột điều: Được xét giảmán. Nhưng thời gian vẫn cứ là thời gian. Dù anh có vặn kimđồng hồ quay hết một vòng thì vẫn không thấy tốc độ ánh sáng đi nhanh hơn được. Một ngày đêmvẫn cứ là hai mươi bốn tiếng. Một tháng vẫn cứ phải ba mươi ngày. Lửa nhiệt tình trong mỗi con người không phải lúc nào cũng rực cháy. Hắn muốn hét thật to để thời gian trôi nhanh. Rồi hắn lại phải đối mặt vớisự ù lì, chậmchạp của ánh ngày và bóng tối. Đúng lúc hắn nản lòng đến mức muốn ngủ một giấc và không bao giờ thức dậy nữa thì Lân sáu ngón vào làm bạn tù với hắn. Lân sáu ngón thổi vào trong hắn một luồng kích thích mới, ngày đêmnhắc nhở hắn nhớ tới hai chữ tự do. Nhưng không phải là thứ tự do ở phía bên kia của thời hạn cải tạo. Muốn tự do thì phải tự tìmđến, tự vượt qua bức tường bao quanh mình, tự vượt núi băng rừng mà về với nó. Tự do ấy nằmở bên ngoàisong sắt. Nếu muốn, hãy bẻ gẫy song sắt mà chui ra. Tự do sẽ ở ngay trước mặt.
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 6
Chương 6 -
Hắn trở thành kẻ giết người, lần đầu tiên, vào khi nào? Không say rượu, không dùng chất kích thích, không thèmbạc vàng, không đói ăn, cũng chả tranh nước uống. Hai bàn tay hắn như hai gọng kìmcứ xiết lại, xiết lại mãi để Lân sáu ngón có thời gian đẩy bật chấn song sắt cửa sổ phòng giamra, đemtự do cho cả hai đứa. Có vẻ như lại là số phận đưa đẩy, có vẻ như lại là một sự tình cờ, tình cờ như hômhắn đến bãi vàng Lũng Sơn bị hội Yên Mĩ đánh thì phải đánh lại vậy. Phòng giamcủa hắn có bẩy người. Hắn và Lân sáu ngón là một, bốn phạmnhân thấp cổ bé họng còn lại là một và trưởng phòng Hân là một. Với việc trốn trại của bọn hắn, bốn phạmnhân còn lạisẽ không đáng phải bận tâm, nhưng trưởng phòng Hân mà biết thì coi như việc của chúng sẽ đi toi, bao nhiêu công lao ngồi cưa song sắt của Lân sáu ngón cũng sẽ đi toi. Trưởng phòng Hân to béo như con gấu đen. Hân quá tin tưởng ở sự quản lý của mình nên không thể ngờ được dưới trướng Hân có hai thằng phạmđang ngày đêmtìmcách thoát khỏi phòng giam. Hân đủ sức mạnh và uy dũng để bóp nát những ý đồ tạo phản nhằmthoát khỏi án đời đối vớisáu phòng viên vẫn ngày ngày làmviệc, ăn ngủ cùng buồng. Hân đang bước dần từng bước đến cánh cửa tự do để trở về với người vợ có nghề tráng bánh cuốn ở một huyện ngoại thành Hà Nội, vì thế Hân trân trọng khoảng thời gian này, mọi biến động bất lợi cho lộ trình đi đến tự do của Hân sẽ bị dẹp ngay khi còn ở dạng mầmmống. Lân sáu ngón và hắn hiểu rõ điều đó nên một mặt tỏ ra cần mẫn cải tạo trước cái nhìn sămsoi của Hân, một mặt bí mật nhét từng hạt muối vào vết cưa dở trên song sắt phòng giam, chờ đến ngày hành sự. Và ngày hành sự đã đến. Đúng lúc Lân đang tìmcách đẩy bật chấn song sắt ra khỏi vị trí của nó nơi thành cửa sổ thì bất ngờ Hân tỉnh ngủ, chồmngồi dậy. Hắn vẫn nằmbên cạnh Hân, cố nghiêng người che khuất góc nhìn của Hân để Lân sáu ngón yên tâmlàmviệc. Đến khi Hân bật ngồi dậy, mắt nhắmmắt mở xác định tiếng động nơi thành cửa sổ thì hắn hoảng hồn, nhận ra mọi việc đã vỡ lở, hắn và Lân không những không thoát được mà còn phải nhận thêmán kỷ luật của trại. Một giây tê dại điếng qua người hắn. Rồi một tia sáng loé lên trong đầu, hắn vật Hân nằmxuống, hai tay bóp chặt vào yết hầu Hân. Tất cả sức mạnh của một thằng con trai có nghề đập đá như hắn trút cả vào mười đầu ngón tay. Hân ằng ặc trong cơn mê ngủ rồi cứ thế lịmdần, lịmdần đi trong tay hắn. Ngồi xổmtrên bụng Hân, hai đầu gối thúc mạnh vào mạng sườn Hân, riêng mắt hắn thì nhìn không chớp về phía thành cửa sổ nơi Lân sáu ngón đang đưa nốt những nhát cưa cuối cùng. Đến khi Lân quay lại khẽ ra hiệu cho hắn chuồn thì hắn mới rời khỏi bụng Hân, cơ thể rã rời, tâmthần bất định, đờ đẫn ngồi dựa lưng vào thành tường, không hiểu là mình đang làmgì. Lân phải quay lại, vỗ vỗ vào người hắn mới làmcho hắn tỉnh táo trở lại. Và như một con báo, hắn lần tay ômlấy bọc quần áo, lẳng lặng theo Hân luồn qua cửa sổ, bỏ
phòng giamlạisau lưng với một xác chết còn ấmnóng.
H
"Hình thánh giá, thánh giá...". Khi hai đứa mệt lả, gục xuống ngồi nghỉ bên khe núi, hắn mới ú ớ lẩmnhẩmcâu đó làmLân sáu ngón kinh ngạc.
- Mày lẩmnhẩmcái gì vậy? Thánh giá nào?
- Tay Hân ấy mà. Có lẽ tao đã bóp chết nó rồi.
- Hãy quên chuyện đó đi. Nghỉ một lát rồi chuồn nhanh khỏi nơi đây. Nhưng mà mày vừa nói cái gì... thánh giá? - Trên cổ thằng Hân có một sợi dây đeo thánh giá. Chiếc thánh giá đó nằmở ngay yết hầu. Tao bámvào đó làmtâmđiểm, bóp mạnh.
- Xì, tao tưởng chuyện gì. Ngày mai khámnghiệmtử thi người ta sẽ ghi vào biên bản là cổ nó có vật hình thánh giá tác động vào cho đến khi nghẹt thở. Nó theo đạo đấy. Chúa nhờ tay mày lấy nó về bên mình Chúa. Chắc bây giờ nó được lên thiên đàng rồi.
- Sao mày cứ tỉnh bơ thế? Tao bắt đầu thấy sợ Lân ạ.
- Sợ gì? Thôi, nghỉ đủ rồi, dậy chuồn thôi. Sáng mai tao với mày phảisang đến đất Hoà Bình. Nếu không, cầmchắc là bị bắt lại. Mày sẽ dính thêmmột án giết người. Không có thời gian cho mày nghĩ linh tinh nữa đâu. Theo tao, mau!
Thánh giá! Hắn không thể nào quên được cái biểu tượng ghê gớmđó. Hắn là kẻ vô đạo. Thánh giá hiện hữu trong hắn là cái chết của Hân. Thi thoảng vào những buổi chiều sẩmtối hắn cũng có thấy Hân làmdấu thánh giá và lẩmnhẩmđọc kinh. Cây thánh giá hắn vẫn nhìn thấy ở đâu đó, có khi lủng lẳng ngay trên vòmngực vạmvỡ của Hân, nhưng không để lại trong hắn ấn tượng gì cả. Còn bây giờ cây thánh giá gămvào óc hắn là hình ảnh của cái chết nằmthẳng đuột của Hân. Khủng khiếp quá! Không ít lần hắn liên tưởng đến cây cột mà người ta vẫn dùng để bắn tử tù ở quê hắn. Tạisao hình thánh giá không gợi cho người ta nghĩ đến một điều gì tốt đẹp hơn nhỉ? Hắn đã từng hỏi thế rồi lắc đầu chán ngán. Biểu tượng khủng khiếp hình chữ thập kia không thể xoá đi được trong đầu hắn, nó trở thành nỗi ámảnh dai dẳng, đôi khi tưởng đã bị vùisâu dưới nền tiềmthức, lại vùng bật dậy, sừng sững trong óc hắn.
Chính Nhung đã làmcây thập giá trong óc hắn dựng đứng dậy.
Từ áng Sơn quán đến chiếc hang đá nơi hắn ẩn nấp quanh co, khúc khuỷu, tính ra cũng phải mất mấy cây số. Hắn xuống quán rồi lại ngược về hang không ra một quy luật nào cả. Hắn và Lân sáu ngón là hai kẻ đã mất quyền công dân nên áng Sơn quán không phải là nơi chúng có thể thường xuyên chường mặt ra được. Nhung là chủ quán, là phát ngôn viên của hội áng Sơn nhưng kẻ cai quản, quán xuyến mọi hoạt động của quán thực chất là hắn. Thông qua một đường dây liên lạc rất đáng tin cậy là thằng Xế, hắn đã làmcho các hoạt động của hội áng Sơn ở bãi vàng Lũng Sơn trở nên sinh động và có sức sống hơn. Từ ngày ở trại ra cho đến khi tạo lập được một hội nhóm mạnh nhất bãi vàng, có thể uy hiếp được toàn bộ hoạt động đào đãi của gần nămnghìn cửu và hàng trămbưởng lớn nhỏ đối với hắn là cả một quá trình không đơn giản chút nào. Hội áng Sơn có cái đầu biết nghĩ là hắn, có mười hai ngón tay thép là Lân, có sự khôn ngoan, ranh cáo của thằng Xế nên các nhómkhác không thể xemthường. Cho đến khi gặp Nhung, chữa khỏi bệnh cho Nhung hắn vẫn không có chút tình ý gì ngoài việc cần có một bàn tay phụ nữ phục vụ cho việc bán mua, trao đổi giữa chốn đào vàng toàn những thằng đàn ông thô lậu. Đêmhômấy tự dưng hắn thấy buồn tình, liền một mình rời khỏi hang lần mò xuống quán. Bãi vàng hắn đi qua imắng, các hầm đều đã nghỉ, những thân người nằmngang dọc trong lán trại làmhắn chợt nhớ đến cái đêmđầu tiên hắn cũng ngủ như thế này và phải lấy nồi úp lên đầu để tránh đòn phủ đầu của bọn Yên Mĩ. Tất cả đãxa rồi. Thời gian đã nhuộmhắn trở thành một con người khác. Rất khác. Hắn vừa nhổ bọt vừa đi như mộng du quanh mép bãi, dọc theo bờ suối nhamnhở. Xuống tới quán, hắn đi vòng lối cửa sau gõ theo ámhiệu. Nhưng bàn tay hắn đưa lên đến nửa chừng thì dừng lại vì hắn nghe thấy có thứ âmthanh lạ ở trong buồng của Nhung. Hắn vội cúi xuống nhòmqua khe cửa. ánh sáng hắt xuống từ bóng điện nhỏ như quả nhót nối từ ắc quy đủ để hắn thấy toàn bộ cảnh tượng trong buồng. Cảnh tượng ấy làmcho cây thập giá bật dựng đứng dậy trong đầu hắn, khiến hắn thở dốc, hai tay ômchặt thái dương. Nhung đang quỳ gối trước chiếc hòmcá nhân. Trên nắp hòmlà cây thánh giá cắmvào chân nến cháy dở to bằng bàn tay, màu bạc. Nhung vừa làmdấu thánh vừa đọc một bài kinh bằng thứ giọng ê a nghe rất buồn ngủ. Mái tóc buông rối xuống một bên ngực Nhung, sợi dây có đeo thánh giá mắc hờ trên mép cổ áo làmNhung hiện lên như một nữ tu uẩn khúc, đớn đau trong dáng hình trinh nữ thánh thiện. Trí tò mò làmhắn đứng yên như một bức tượng, lắng nghe cho bằng hết những lời cầu nguyện của Nhung. Nhung đọc đi đọc lại một bài kinh nói về cây thập giá. Hắn không bỏ sót một từ. Tự nhiên thấy nhập tâm.
Con lạy thánh giá, con kính thánh giá, thánh giá là phép màu nhiệmcủa lòng thương xót vô cùng. Đấng hằng sống đã chịu chết, cho người chết được sống.
Thánh giá là bàn thờ Đức Chúa Con dâng mình tế lễ trước Đức Chúa Cha.
Thánh giá là giường Chúa muôn vật nằmkhi tắt thở.
Thánh giá là cờ Vua cả toàn thắng đã cứu chúng con cho khỏi tay ma quỷ.
Thánh giá là tàu vượt qua biển, đemchúng con đến nơi vĩnh phúc.
Thánh giá là chìa khoá mở của Thiên Đàng cho chúng con được vào.
Lạy cây thánh giá, từ xưa đến nay chẳng có cây nào sánh bằng cây thánh giá.
Lạy Chúa nằmtrên cây thánh giá chịu chết vì chúng con.
Hắn rùng mình. Đêmthanh vắng quá thể. Tất cả đều đã chìmvào màn đêmmàu nhiệmđể lấy lại chút sinh lực đã tiêu phí cả vào ngày, chỉ riêng Nhung vẫn một mình lặng lẽ cầu nguyện nơi góc khuất này. Hắn vô cùng ngạc nhiên vì ngay cả khi Nhung phơi toàn bộ thân thể trước mắt hắn, hắn cũng chưa hề thấy cây thánh giá đeo trước ngực bao giờ. Đôi mắt Nhung thường nhìn xuống, lẩn trốn, chứ không mấy khi ngước lên thành kính thế kia. à, hắn nhớ ra rồi. Đôi mắt ấy có ngước lên một lần, nhìn thẳng vào hắn, trong đêmmờ tối ở hang đá ẩmướt, khi hắn quyết định trả Nhung về với Hùng quăn. ánh nhìn ngước lên ấy có sức lay động đến mức khó lý giải. Nó có khả năng kêu gọi được chút tình thương duy nhất còn sót lại ở trong bất kỳ một con quỷ dữ nào. Bây giờ thì hắn biết thêmrằng trong người con gái kia không chỉ có sự hời hợt, vô tâmcủa một đứa con gái giang hồ. Hắn bỗng thèmđược khámphá cái thân thể bỗng chốc trở nên hấp dẫn bởi thứ sắc màu tâmlinh đang vây bủa quanh Nhung. Khi Nhung thu dọn các biểu tượng tôn giáo lại, chuẩn bị đi ngủ thì hắn gõ cửa. Chỉ cần đếmtiếng gõ vào cửa là Nhung biết hắn đến. Nhung mở cửa cho hắn vào rồi như thường lệ nàng lôisổ sách, tiền bạc ra để báo cáo công việc hàng ngày với hắn. Nhưng hắn gạt bỏ tất cả những thứ đó sang một bên. Đôi mắt hắn nhìn như thôi miên vào ngực áo buông trễ một bên của Nhung. Đêmấy hắn làmchàng Ađamcòn Nhung là Eva. Nhung ngỡ ngàng trước cơn hứng tình hừng hực từ hắn. Nhung cảmthấy hạnh phúc vì rồi cuối cùng nàng đã quyến rũ được hắn. Và trên cả những đammê chăn gối, nàng còn nhận ra một thứ tình cảmkhác đang nảy nở trong hắn. Không như những thằng đàn ông khác, sau khi được nàng là gạt nàng ra như một tấmrẻ rách, hắn nằmlại bên Nhung, ômấp vuốt ve nàng rất lâu, rất kỹ, và lắng nghe những chuyện nàng kể.
Tuổi thơ của nàng ư? Nàng chỉ có một tuổi thơ lên sáu thôi, còn sau đó không còn gọi là tuổi thơ nữa, vì thế nàng không muốn nhớ đến cái đoạn đời khủng khiếp đó. Nhưng ngay cả cái tuổi thơ lên sáu của nàng cũng chỉ còn lại lờ mờ trong ký ức, không sao gọi về hoàn chỉnh được. Nàng nhớ về một cái nhà thờ lớn rất rộng. Mẹ nàng thường đưa nàng đến đó thamgia các buổi hành lễ với rất nhiều những thủ tục rắmrối, phức tạp. Đôi mắt trẻ thơ của nàng tìmthấy niềmvui thú ở những khối kiến trúc đồ sộ, những hình ảnh, màu sắc gây ấn tượng rất đặc biệt đối với trí óc non nớt của nàng. Ngôi giáo đường ấy nằmgiữa một bên là nhà thờ thành Giuse và một bên là nhà thờ thánh Phê Rô. Phía trước có một lầu chuông nhỏ, hai tầng. Nền nhà thờ rất cao, có cột, xà, tường, chấn song, tháp, bàn thờ đều bằng đá hoặc gỗ đen bóng. Mặt trước là toà Đức Mẹ ở giữa hai ngọn tháp hình vuông, nhiều tầng, có khắc bốn thứ tiếng: Việt - Hán - Pháp - La tinh. Nội dung những dòng chữ ấy đại loại là: Trái timrất thánh Đức Bà chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng tôi. Những hình khối
trong nhà thờ đường nét thanh thoát, nhẹ nhàng. Hai bên vách có những chấn song đá, viền những bức chạmhình cây tùng, cúc, trúc, mai. Ba bàn thờ chạmtrổ rất đẹp, bàn thờ chính ở giữa có hình trái timvới lưỡi gươmđâmxuyên qua, bên trái tạc một cái giếng đậy nắp gọi là giếng niêmphong, bên phải tạc một khu vườn rào kín. Những thứ ấy hàmý chỉ Đức Mẹ trắng trong trinh khiết. Phía trên bàn thờ
chính là Nhà Tạmbằng gỗ chạmkhắc, sơn son, thiếp vàng, bên ngoài có những bức chạmthông phong bằng đá rất đẹp với các hình chimphượng xòe cánh mang bút nghiên, sư tử có bờmdài, nhe răng nanh trông như mặt người đang cười. Quanh nhà thờ có rất nhiều những cửa đá nhỏ xinh xắn. Nàng đặc biệt thích phiến đá dài ở trước cửa nhà thờ. Buổi đi lễ nào mẹ nàng cũng dắt nàng ra chỗ đó, chỉ
cho nàng thấy bụi hoa Mân côi khắc trên đá, bảo cho nàng biết ý nghĩa của cái tên mà mẹ nàng đặt cho nàng. Bụi Mân côi tức hoa hồng từ giữa phiến đá toả ra thành nhiều ngành, trên các ngành mười bẩy vị thiên thần mang khuôn mặt trẻ thơ, có cánh sau lưng đang đeo bám, chơi hoa, vặt quả, vô cùng sống động trong mắt nàng. Sau này, khi chán những buổi lễ dài lê thê với những lời rao giảng nhàm chán, nàng thường bỏ thánh đường, tìmra chơi chỗ bụi Mẫn côi khắc trên đá. ở đây nàng gặp một người đàn bà lúc nào cũng bịt khăn che kín mặt. Người đàn bà này có giọng nói ngọt ngào không thể tả. Mụ ta làmquen với nàng bằng những cây kembông trắng muốt. Những cây kemấy có sức hấp dẫn nàng đến mức nàng sẵn sàng lên xe theo mụ ta đi đến một nơi rất xa. ở đó, khi đêmxuống nàng nhớ nhà, nhớ mẹ và khóc đến khản cả cổ. Mụ ta vẫn nói với nàng bằng thứ giọng ngọt ngào như những miếng kembông xômxốp, trắng muốt kia. Mụ bảo thế là cô cháu ta lạc đường rồi, cháu đừng khóc nữa, chịu khó ăn đi, ngủ đi, chờ cô hỏi tìmđường để đưa cháu về với mẹ. Nàng chẳng biết mụ hỏi đường những ai, chỉ thấy càng đi càng không còn nhìn đâu thấy tháp chuông có toà Đức Mẹ nữa. Lần đầu tiên nàng biết đến các bến xe, bến tầu. Đôi mắt nàng ngơ ngác, ngước lên nhìn mọisự một cách trong trẻo và lạ lẫm. Nàng không biết rằng đôi mắt nàng đáng đồng tiền đến mức mụ đàn bà kia phải cất công bỏ đi gần hai trămcây số để tìmcho bằng được. Mụ mang nàng về một thành phố nhỏ có những dãy phố sầmuất, trao nàng cho một gia đình giầu có. Nàng bị bắt phải gọi một người đàn ông có bộ râu xồm, lúc nào cũng mắc một cái quần soóc trắng, cả khi đi ngủ, lẫn khi ngồi lên xe máy đi ra ngoài đường, bằng bố. Nàng cũng phải gọi một người đàn bà gầy đét, cổ tay, cổ chân nhỏ như những cành củi khô, bằng mẹ. Mẹ Lan. Mẹ Lan buôn buôn bán bán, chủ yếu với những người đàn ông trở về từ những cuộc viễn dương dài ngày. Mẹ Lan rất giàu, giàu đến mức khó tin. Nhưng mẹ Lan lại nghèo đường con cái. Mẹ Lan cũng là người đàn bà mê tín nhất trên cõi đời này. Mẹ Lan có một bác sĩ riêng, một lái xe riêng (Tất nhiên mẹ toàn đi xích lô), một vệ sĩ riêng và một thầy bói riêng. Tất cả những người làmviệc cho mẹ Lan đều trên cơ sở hợp đồng miệng, rất lỏng lẻo về cơ chế nhưng lại rất chắc chắn về nghĩa vụ. Thầy bói riêng của mẹ Lan có ảnh hưởng nhiều nhất đến các hoạt động của mẹ. Khi mẹ Lan muốn kiếmcon nuôi, thầy bảo: "Bà phải kiếmmột đứa con gái độ támtuổi trở lại, sùng đạo, có đôi mắt Đức Mẹ, sự trong trắng, thánh thiện của nó sẽ tránh cho bà khỏi mọisự trừng phạt". Mẹ Lan đã bỏ ra mấy cây vàng để thuê lũ người chuyên đi bắt trẻ con tìmvề quê nàng. Chúng đã chọn nàng và nàng trở thành con gái yêu của mẹ Lan.
Nàng được mẹ Lan chămsóc như một cô công chúa. Nàng lại tiếp tục đến trường. Nàng đã dần quên ngôi làng nhỏ có nhà thờ đạo rộng lớn với bụi Mân côi trên đá. Bài kinh duy nhất mà nàng còn thuộc là bài kinh Kính thánh giá, bài giảng duy nhất mà nàng còn nhớ là
bài Chiên lạc, mẩu chuyện duy nhất trong kinh thánh mà nàng không quên là chuyện Đàn ông, đàn bà và con rắn. Bài Chiên lạc có nội dung như thế này:
Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe người, còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩmbẩm: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng". Đức Giêsu mới kể cho họ nghe một dụ ngôn:
Người nào trong các ông có một trămcon chiên mà bị mất một con lại không để chín mươi chín con ngoài đồng hoang đi tìmcho kỳ được con chiên bị mất? Tìmđược rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xómlại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìmđược con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". Vậy, tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sámhối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phảisámhối ăn năn. Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn rồi quét nhà, moi móc tìmcho kỳ được. Tìmđược rồi bà ấy mời bạn bè, hàng xómlại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìmđược đồng quan tôi đánh mất". Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sámhối. Rồi Đức Giêsu nói tiếp: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tàisản được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tàisản của mình. Khi anh ta ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâmcảnh túng thiếu nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làmcông cho cha ta được cơmdư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói. Thôi, đứng lên đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làmcông cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ômcổ anh ta, và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng nên đáng gọi là con cha nữa. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: Mau đemáo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làmthịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìmthấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhẩy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xemcó chuyện gì. Người ấy trả lời: Emcậu đã về và cha cậu làmthịt con bê béo vì được lại cậu ấy mạnh khoẻ. Người anh cả nổi giận và không chịu vào nhà. Cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: Cha coi, đã bao nămtrời con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Nhưng người cha nói với anh ta: Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì emcon đây đã chết, nay lạisống,
đã mất, nay lại tìmthấy.
Mẩu chuyện Đàn ông, Đàn bà và con rắn như sau:
Ngày Thiên Chúa làmra đất và trời, chưa có bụi cây nào trên mặt đất, chưa có đámcỏ nào mọc lên vì Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất.
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra Con người, thổisinh khí vào lỗ mũi, và Con người trở nên một sinh vật. Rồi Thiên Chúa trồng một bụi cây ở Êđen, về phía đông, và đặt vào đó Con người do chính mình nặn ra. Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trồng thì đẹp, ăn thì ngon, cả cây trường sinh ở giữa vườn và một cây cho biết điều thiện điều ác. Thiên Chúa đemcon người đặt vào vườn Êđen để cấy cầy và canh giữ đất đai. Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của
cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươisẽ phải chết".
Rồi Thiên Chúa lại phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làmcho nó một trợ tá tương xứng với nó". Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chimtrời, và dẫn đến với Con người, xemCon người gọi chúng là gì. Con người đặt tên cho mọisúc vật, mọi chim trời và mọi dã thú nhưng Con người không tìmcho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên Con người, và Con người thiếp đi. Rồi thiên Chúa rút một cái xương sườn của Con người ra, lắp thịt thế vào, làmthành một người đàn bà và dẫn đến với Con người.
Con người nói: - Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.
Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng mà Thiên Chúa đã làmra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?". Người đàn bà nói với con rắn: Trái các cây trong vườn thì chúng tôi được ăn, còn trái trên cây ở giữa vườn Thiên Chúa bảo không được động tới kẻo phải chết. Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện,
điều ác". Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quí vì làmcho mình được tinh khôn. Bà ta liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó cùng ăn với mình. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng, họ mới kết lá và làm
khố che thân.
Nghe thấy tiếng Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, Con người và vợ mình trốn vào giữa đámcây cối để khỏi giáp mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi con người ra và hỏi:
- Người ở đâu?
Con người thưa:
- Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì trần truồng, nên con lẩn trốn.
Thiên Chúa hỏi: - Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấmngươi ăn không? Con người thưa:
- Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.
Thiên Chúa bảo người đàn bà:
- Người đàn bà làmgì thế?
Người đàn bà thưa:
- Con rắn đã lừa dối con nên con ăn.
Thiên Chúa phán với con rắn:
- Mi đã làmđiều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loàisúc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống ấy sẽ đánh vào đầu mi, và misẽ cắn vào gót nó.
Với người đàn bà, Chúa phán:
- Ta sẽ làmcho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén, ngươisẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươisẽ thèmmuốn chồng
ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.
Với Con người, Chúa phán:
- Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta truyền ngươi đừng ăn nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi, ngươisẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời mới kiếmđược miếng ăn từ đất mà ra. Đất đaisẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươisẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươisẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất.
Thiên Chúa nói: "Nay con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để chúng giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi". Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Êđen để cày cấy đất đai. Từ đó ở phía đông vườn Êđen, Thiên Chúa đặt các thần hộ giá với lưỡi gươmsáng loé, canh giữ đường đến cây trường sinh...
Hắn ngồi nghe Nhung kể chuyện đến khi trờisáng bạch thì bước xuống giường, bảo:
- Tối nay chúng ta sẽ làmđámcưới. Chúa sinh ra anh là đàn ông, sinh ra emlà đàn bà, chúng ta phải làmchồng vợ thôi. Nhung tròn mắt ngạc nhiên:
- Anh nói thật hay đùa đấy? Mà ở cái nơi khỉ ho cò gáy này cưới cheo làmgì? Nếu anh thích emsẽ là của anh. Emvẫn đang thuộc về anh đấy thôi.
Hắn không nói không rằng, bước ra phía cửa sau, lần về hang đá tìmthằng Xế. Buổi tối hômấy, những nhân vật chủ chốt của hội áng Sơn tập trung ở ngay bãi cỏ cách nơi ở của hắn không xa. Một đống lửa được đốt lên. Bốn bình ắc quy đặt bốn góc thắp sáng tám ngọn điện hình quả quýt. Hắn vẫn chiếc áo da mốc meo, hôi xì, còn Nhung rực sáng trong chiếc áo dài trắng có đeo dây thánh giá trước ngực. Gà quay, thịt nướng, bia hộp la liệt, khả năng ăn uống được đáp ứng đến mức tối đa, khách mời cứ việc thực lòng vui cho đámcưới của hắn. Nhung đẹp đến mức đờ đẫn trước những con mắt đang bắt đầu ngầu lên vì bia. Hắn cũng thấy là Nhung đẹp. Nét bầmgiập của một đứa con gái qua tay hết thằng này đến thằng khác đã được thay thế bằng vẻ thuỳ mị, đoan trang đến khó ngờ. Lân sáu ngón hômấy là người uống nhiều nhất. Càng uống mặt Lân càng đanh lại, khô lạnh, vô cảm. Sống với Lân đã lâu, là chiến hữu thân thiết từng vào sống ra chết với nhau nhưng quả thực hắn không hiểu Lânlắm. Hắn đánh giá rất cao bản lĩnh chiến trận của Lân, ngoài ra hắn không hiểu gì về con người này. Lần hai đứa trốn trại ra, hắn đã từng ở nhà Lân. Đó là một ngôi nhà tồi tàn và ẩmmốc. Trong ngôi nhà đó có một người đàn bà khắc khổ cùng một đứa trẻ gái lên tám. Người đàn bà gọi Lân là cậu- Cậu Lân. Đứa bé gái gọi Lân là bố. Suốt ba ngày hắn ru rú trong buồng nên không hiểu quan hệ giữa người đàn bà đó với Lân là thế nào. Lúc đầu hắn tưởng là hai chị em. Nhưng rồi hắn thấy lạ
là khi bữa cơmcuối cùng có đông đủ mọi người đứa bé lại gọi người đàn bà đó là mẹ. Hắn không muốn hỏi Lân về cáisự lạ đó. Sau này khi lên trên bãi vàng hắn ở hang trên, Lân ở hang dưới, hai đứa ít có dịp tâmsự với nhau. Mà Lân thuộc típ người không thích tâmsự. Chỉ một lần duy nhất Lân kể chuyện, ấy là trên chuyến xe chạy ba trămcây số từ quê Lân tới bãi vàng. Qua câu chuyện hắn biết được Lân đã từng là lính ở Campuchia. Sau khi giải ngũ Lân có lấy vợ. Song người đàn bà vẫn gọi Lân là Cậu ấy chắc chắn không phải là vợ Lân. Chuyện Lân kể là chuyện về chiếc xe bò. Khi ấy chiếc xe khách chở hai thằng đang đi bỗng phanh dúi lại để tránh một chiếc xe bò qua đường. Lân buông ra một tiếng chửi thề, rồi bảo: "Xe bò của mình buồn cười thật, không giống như xe bò của người Khơme".
Hắn hỏi: " Ông đi đâu mà biết xe bò của người Khơme?"
Lân bảo: "Trước kia tôi đánh nhau ở Campuchia mấy năm. Bên ấy nhiều xe bò lắm, nó giống y như hình khắc ở những tấmphù điêu của đền thờ Bay on. Đôi bánh của nó cao lênh khênh, bằng gỗ đóng vành sắt. Thành chiếc thùng xe không vươn quá vành bánh. Đặc biệt xe nào cũng có một cái cần cong vút ra phía trước".
Hắn thấy lạ, hỏi: "Sao lại có cái cần cong vút ra phía trước?"
Lân kể: "Vì truyện cổ Campuchia nói về một người đàn ông làmcá ở Biển Hồ. Người đàn ông hễ đưa xe cá qua đoạn sông kia thì bị một con cá sấu ra ngăn đường, đòi phải nộp một số cá lớn cho cá sấu ăn đủ no. Người làmcá rất uất ức vì đưa cho cá sấu thì vợ con ở nhà sẽ đói. Nếu không thì cá sấu đòi nuốt cả bò lẫn người. Đã vậy cá sấu ngày một thamlam, nó đòi ăn ngày càng nhiều hơn. Người làm cá bàn vớisấu: "Cao sang như ông sao lại chịu hạ mình ăn cá ươn. Ông hãy để tôi mang theo ông trên xe, hễ đói là ông có cá tươi ăn cho đã". Sấu nghe bùi tai đành để kéo lên thùng xe. Xe tiếp tục đi trên con đường quá ư gồ ghề. Mỗi lần bánh xe lục khục thìsấu cũng bị xô gập mình vào thành xe đau ê ẩm. Người làmcá lại nói: " Ông sấu ơi, để tôi cột tạmông bên thùng xe, nếu không xương sống của ông sẽ gẫy mất". Sấu ta cũng biết đề phòng, chỉ cho cột qua loa. Người làmcá liền cho xe rẽ vào lối đi gập ghềnh hơn nữa. Sấu bị lắc qua lắc lại tưởng đến đứt hơi, bèn vội nài người làmcá cột mình vào thành xe thật chặt. Được thể, người làmcá bèn đemhết số thừng chão dự trữ cột thật chặt sấu vào thành xe, vào cả càng xe. Xe cứ đi và sấu ta thì đau đớn vô cùng, nhưng càng quẫy thì chão thấmnước càng thít chặt thêm, làmthân sấu phù thành từng khúc. Cái đầu sấu ưỡn ra, rền rĩ xin tha nhưng người làmcá đời nào chịu tha cho sấu. Đến lúc chết thân sấu cứng ngắc, đầu sấu vươn dài ra trước xe. Chiếc cần cong bây giờ chính là cái đầu cá sấu xửa xưa ấy biến cách mà ra".
Hắn nghe xong chuyện, gật gù: "Thì ra cái cần câu đó nhắc nhở đến trí thông minh và lòng dũng cảmcủa người Khơme".
Lân bỗng buột miệng: "Hồi đámcưới tôi, cả hai họ cũng đều đi xe bò. Nhưng sau này con vợ tôi khốn nạn quá. Tôi đã giết nó. Rồi cũng lại dùng xe bò chở đi ra sông vứt xác. Tôi trốn chạy trên một chiếc xe bò và bị bắt cũng ở ngay trên thùng chiếc xe bò khi trên người phủ đầy cá ươn".
Lân nói xong câu đó thì imlặng, không hé răng nửa lời cho đến khi chiếc xe dừng lại cho hai thằng nhảy xuống. Hômnay Lân lại chia vui với hắn bằng bộ mặt lạnh như đá núi. Đámcưới của hắn gợi nhắc cho Lân nhớ về chuyến xe hoa có bò kéo ngày nào chăng? Lân hơn hắn bốn tuổi, từng là lính chiến, lại đã có vợ con nên cuộc đời nhiều trang vui buồn hơn hắn. Chính Lân là người đã dạy hắn bắn những viên đạn đầu tiên từ khẩu K54 mua được bằng số tiền cướp ở tiệmvàng sau khi trốn trại. Cũng chính Lân vạch ra kế hoạch cướp súng của bọn Thành dê ngay đêmđầu đặt chân đến bãi vàng này. Lân bảo: "ở đây muốn làmăn được phải là bưởng của các bưởng. Hội áng Sơn của mày phải mạnh hơn các hội khác. Muốn mạnh phải có vũ khí. Thời này chỉ trông chờ vào vài ba khúc côn với mấy con lê thì vứt. Phải có súng. Đòmmột phát là đâu vào đấy hết. Chiều nay tao thấy hai thằng đàn emcủa Thành dê tháo AK ra lau ở bãi cỏ bên cạnh lán trại. Phải lấy hai khẩu súng ấy cho bằng được". Hắn hỏi: "Lấy bằng cách nào?". Lân bảo: "Kiếmkhoảng mười thằng, bịt mặt lại, mang theo dao và kiếm. Tao với mày sẽ nhái giọng miền trong. Nửa đêmnay ập vào cướp. Sáng mai vẫn sang chia buồn như thường. Nếu chúng nó chống cự đến cùng thì tao sẽ rút quả mỏ vịt này ra, đốn chúng như đốn cây non ấy".
Đêmấy bọn hắn đã thành công. Cũng chính Lân đã tháo lắp từng bộ phận trên súng AK chỉ cho hắn biết đâu là nòng, là qui lát, là hộp tiếp đạn, là báng, là lò so, là kimhoả, là đầu ruồi của một khẩu súng. Sau đó Lân cũng dạy hắn cách bắn tà âm, tà dương, cách để nấc liên thanh, tắc cú, điểmxạ. Lân lì lợm, giỏi tác chiến, hơi hiếu sát và đôi lúc tâmtính bất thường như người có biểu hiện mắc bệnh thần kinh. Hắn chịu trách nhiệmtổ chức hội nhóm, khai thác, cô đúc, lưu thông, phân phốisố cámvàng thu được. Lân luôn ủng hộ hắn. Dù sao hắn cũng là thằng có học. Hắn chịu khó đọc báo, nhận biết được những thay đổi từng ngày của xã hội, biết tiến ra, rút vào đúng lúc, phù hợp nên hội áng Sơn của hắn không ngừng lớn mạnh. Ngay cả việc hắn tổ chức thành công quán hàng tổng hợp do Nhung đứng quản lý cũng chứng tỏ hắn có đầu óc hơn những bưởng khác có thâmniên ở bãi vàng này.
Cuộc vui của hắn rồi cũng đến lúc tàn. Lân đến bên hắn, bảo: "Ông chui vào hang cho sớmđi. Bắt đầu từ ngày hômnay ông sẽ phải nghĩ đến việc có ra tự thú hay không đấy. Con vợ ông nó sẽ nhắc nhở ông điều ấy. Nếu đúng thế, nó là con vợ tốt. Dù có phải bóp cổ nó thì cũng nên xây cho nó một nấmmộ đàng hoàng".
Rồi Lân lững thững bước về hang đá của mình. Lân cũng được hưởng lợi từ bãi vàng này tỉ lệ tương đương như hắn. Lân đánh thành từng lá to bằng đốt ngón tay cho vào con lợn đất. Lân bảo: "Bao giờ ruột con lợn này được lèn chặt thì tao sẽ tìmvề quê, đặt nó lên đầu giường đứa con gái, rồi ra gốc chuốisau vườn nhà, đòmmột phát, thế là xong".
Chính vì Lân có một mục đích sống khá rõ ràng như thế nên phong thái Lân lúc nào cũng ung dung tự tại. Lân tàn bạo và hiếu sát là để giành giật lấy khoảng thời gian và không gian ngắn ngủi này mà kiếmvàng nhét cho đầy con lợn đất kia. Lân cần sống, cần vàng, vì thế Lân sẵn sàng làmtất cả. Còn hắn? Hắn không nhìn thấy tương lai của mình có một phát đòmnhẹ nhàng ở dưới gốc cây chuốisau vườn nhà như Lân. Hắn hamsống nhưng chẳng biết sống để làmgì? Hắn cần vàng nhưng vàng chẳng là gì trước cái giá của sự tự do,
trước mẹ hắn và Dịu. Hắn rơi vào hoảng loạn triền miên. Lối thoát của hắn chỉ là đáy hang đen ngòm, lạnh ngắt. Bây giờ thì hắn có thêm Nhung. Nhung đã chấmhết tuổi con gái của mình ở tuổi mười ba. Sau khi mẹ Lan chết bởi bệnh timbẩmsinh quái ác, Nhung bị ông bố nuôi râu xồmđánh cướp lạc thú làmngười ở cái tuổi mà cơ thể chưa được Chúa vẽ lên những vệt mực tầu cần thiết. Đôi mắt luôn ngước lên của Nhung không tìmđược sự lý giải nơi trần nhà lúc nào cũng vàng vọt ánh nêông, đã phải khép mi lại thả trôi theo dòng nước. Nhưng dòng nước cũng chả nỡ giết hại một đứa trẻ đẹp đẽ như Nhung nên đã trả Nhung về với vạn chài nhỏ nép mình nơi cửa sông. Những người đàn ông ở vạn chài tìmthấy ý nghĩa của tạo hoá ở Nhung nên họ nuôi cô để lấy thân xác cô chứ không cần đôi mắt ngước lên, thánh thiện, trước mỗi mùa giông bão. Nhung kinh tởmđámngười lúc nào cũng nồng nặc mùi vị tanh tưởi của cá, cô tháo chạy lên bờ, và tìmđường trở về với ngôi làng có tháp chuông hai tầng trước cửa có bụi Mân côi khắc trên đá. Đường về của cô cứ dài ra mãi, chỉ dằng dặc những đàn ông là đàn ông, cho đến khi cô ngỡ là Chúa sinh ra mình chỉ để đi trên con đường ấy và cô đành chấp nhận sự an bài. Con đường đó đã dẫn Nhung đến với bãi vàng Lũng Sơn và ở đây cô gặp người đàn ông cuối cùng của đời mình. Chỉ có điều người đàn ông ấy không được tự do. Người đàn ông đó luôn nhốt mình trong hang đá, triền miên hoảng loạn, triền miên toan tính, triền miên đâmchémvà triền miên mơ về một cõi xa xôi, rất thực nhưng lại chẳng thể nào tìmđến được.
Đúng như Lân nói. Mỗi khi nhìn cái bụng của Nhung nhô dần lên sau làn áo thun mỗi ngày một chật cứng, hắn lại nghĩ đến hai chữ: Tự thú. Bẩy năm, mười năm, hay mười lămnămở tù đi nữa thì vẫn còn có một ánh đèn ở cuối đường hầmkia làmđích cho hắn đi tới. Đằng này quanh hắn chỉ là hang đá tối đen, hun hút, vô định, mông lung lắm. Hắn sợ. Rồi hắn ghen vớisự bình thản ở Lân. Sao hắn không tìm thấy sự thanh thản cho mình ở đằng sau một phát đòmdưới gốc cây chuối nơi vườn nhà hắn nhỉ? Nhiều đêm, hắn ngồi ômbụng Nhung
mà nước mắt ứa ra.
Xung quanh hắn hang đá ẩmướt và lạnh lẽo.
HỒ SƠ MỘT TỬ TÙ
Nguyễn Đình Tú
www.dtv-ebook.com
Chương 7
Chương 7 -
Quả mỏ vịt của Lân sáu ngón bùng loé lên giữa ban ngày ban mặt, xé phăng, xoá nát lán trại trung tâmcủa bọn Hùng quăn cũng là lúc cái gọi là cuộc sống chồng vợ của hắn được đặt dấu chấmhết.
Q
Hùng quăn vốn không ưa gì hội Áng Sơn, chẳng qua vìsợ cái máu liều của Lân, sợ cái khả năng tổ chức hội nhómrất chặt chẽ của hắn, mà phải chịu chung sống hoà bình để các bên cùng có lợi nơi khoảnh rừng heo hút này mà thôi. Nhưng quyền lực, dù là thứ quyền lực giang hồ, bao giờ cũng có xu thế biến thể theo hình chóp. Hắn mạnh lên thì bọn Hùng quăn phải yếu đi. Quyền lực giang hồ vốn là thứ quyền lực cơ bắp, được thực thi chóng vánh, được củng cố bắng dao, kiếm, súng đạn và sự liều lĩnh. ĐámHùng quăn không phải không liều lĩnh. Nhưng vì thực lực yếu, không đủ sức cưỡng lại với hội Áng Sơn của hắn. Phạmtrốn trại và những kẻ gây án bị truy nã mò lên bãi Lũng Sơn ngày một nhiều. Số này sẽ phải lựa chọn một hội nhómnào đó để mà đầu quân. Nếu phận mọn thì xuống làmcửu, hàng ngày đào đãi, tìmkiếmsự sống từ những hạt cámvàng nhỏ li ti. Nếu chứng minh được bản lĩnh, dần dần đi vào vòng sóng trung tâmquyền lực của một nhómthìsẽ hưởng lợi theo tỉ lệ phần trămđược phân chia theo tiêu chuẩn "đại ca" mà không phải trực tiếp đào đãi. Cuộc chiến khốc liệt nhất giữa các nhómvơi nhau là cuộc chiến tranh giành mốc hầm. Ban đầu tất cả đều ra sức đào, ra sức cắmmốc, ra sưc đặt lán trại. Nhưng rồi đất được chia thành từng thửa, đồi cũng được đánh dấu, xác định quyền khai thác, sử dụng của từng nhóm. Cửu, hoặc là người tự nguyện tìmđến, hoặc là được tuyển mộ khắp nơi, đến bãi vàng này muốn bổ nhát cuốc xuống bất kỳ vạt đất nào cũng phải biết rằng nó đã có chủ. Đất đã có chủ rồi thì cửu đành giữ phận người làmthuê. Cửu đào đãi được bao nhiêu, được giữ lại bao nhiêu, phải nộp lên bao nhiêu, điều đó phụ thuộc vào sự ấn định của từng hội nhóm. Hội Áng Sơn duy trì tỉ lệ 4/6. Cửu được 6, các bưởng được 4. Vấn đề còn lại là làmsao phải tìmra những chỗ đất có mạch cámvàng. Khu vực tìmkiếmcứ thế mà rộng ra mãi, vết cuốc xẻng loang theo những triền đồi chạy dọc hai bên bờ suối. Những lán trại liên tiếp dựng lên trên phạmvi không giới hạn. Hội Áng Sơn cắm mốc ở những phần đất đai gần suối nhất. Các hội khác rất khó chịu vì xa nguồn nước, việc đãi vàng hay bị hội Áng Sơn nhòmngó, gây khó dễ. ĐámHùng quăn chịu ức chế đã lâu. Khi cơ hội đến là quyết ăn thua đủ một phen với bọn hắn.
Và cơ hội đã đến với Hùng quăn khi cùng lúc trại của hội Yên Mĩ nhận ba tên tù trốn trại về đầu quân.
Cảmthấy thế và lực đã đủ phân thua với hội Áng Sơn, Hùng liền cho ngăn dòng suối để nước chảy sang hướng khác. Hùng tuyên bố nhánh suối mới thuộc quyền quản lý của hội Yên Mĩ, ai muốn đãi vàng trên nhánh suối này phải nộp mười phần trămsố vàng thu được cho bọn Hùng. Hàng chục hội nhómcòn lại hận Hùng đến thấu xương nhưng ngay lập tức chưa có cách gì để đối phó. Nơi đầu nguồn suối, Hùng cho dựng một chiếc lán, lúc nào cũng có gần chục thằng tù trốn trại đầu trọc lốc, mắt đấy ámkhí chốt ở đó để bảo vệ nhánh suối mới. Cả bãi vàng nhao nhao lên như ong vỡ tổ. Con suối cũ chỉ còn là một cái lạch nhỏ, nước bámsát lòng, không thể đãi được vàng. Chỉ riêng cửu của hội Yên Mĩ là hả hê chuyển từng bao đất ra nhánh suối mới trang đất, đãi vàng. Bọn Thành dê, Tùng chột đành đến thương lượng với Hùng quăn để bàn với nhau cho ra một quy chế mới, tất nhiên là bất thành văn, để làmsao nguồn nước được sử dụng một cách hợp lý nhất. Giữa lúc các bên còn đang giằng co nhau về quyền khai thác nguồn nước như thế thì Lân sáu ngón bảo số cửu đang đứng nằmrải rác bên những lỗ hầmđào dở:
- Chúng mày theo tao. Khi nào tao bảo chúng mày phá đập thì cứ thế ào lên. Phải trả con suối này về đúng với dòng chảy của nó.
Nói xong, Lân sáu ngón đi trước, đámcửu kéo theo sau. Không chỉ cửu của hội Áng Sơn mà cửu của các hội nhómkhác cũng vác xẻng, cuốc đi theo xemsự thể thế nào. Hùng quăn tuyên bố: "Nếu mày bước đến vành đập ngăn bọn tao sẽ ra tay. Thằng nào cũng chỉ có từng ấy máu thôi. Nếu muốn chảy thì cùng chảy".
Lân chẳng nói chẳng rằng, móc quả mỏ vịt, giật chốt rồi liệng luôn vào giữa đámcủa hội yên Mĩ. Tất cả đều quá bất ngờ trước sự tàn bạo của Lân, nằmhết cả xuống, đến khi choàng tỉnh thì một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt. Đất bạt đi, lán đổ nghiêng, hàng chục xác người nằmngang dọc. Lập tức đámcửu kéo theo không còn nghĩ đến việc phải tháo đập tràn cho nước chảy về đúng dòng nữa, vội lao tới chỗ máu mê chân cẳng rơi rụng kia để chuyển xuống chân núi tìmcách đưa đi cấp cứu. Hai người chết ngay tại chỗ, ba người lần lượt chết vào những ngày sau đó. Như thế là tiếng nổ đã xuất hiện nơi bãi vàng Lũng Sơn. Tiếng nổ sẽ gọi tiếng nổ. Người chết sẽ gọi người chết. Máu sẽ gọi máu. Và sự bình yên cho cuộc sống gọi chính quyền đến ra tay can thiệp.
Sáng sớmhômấy từng đoàn xe, đủ kiểu chở công an, bộ đội tới bao vây bãi vàng Lũng Sơn. Tất cả những người đào vàng được tập trung lại để kiểmtra căn cước và được yêu cầu ra xe rời bãi vàng ngay lập tức. Một số phạmnhân trốn trại bị bắt lại, số có lệnh truy nã trước khi thụ hình cũng dễ dàng bị nhận diện. Đámcòn lại rút sâu vào trong núi lẩn trốn. Hắn cùng Nhung và Lân sáu ngón chạy vào trốn trong một ngách hang bí mật vẫn để dự phòng khi bị truy đuổi. Nhưng nghe chừng lần này chính quyền ra tay có vẻ cương quyết. Suốt một tuần trôi qua mà lực lượng công an, quân đội, tự vệ vẫn không rút. Lân là đối tượng cần phải bắt bằng được. Thức ăn và mấy can nước dự trữ đã hết. Bọn thằng Xế cùng các thành viên của hội Áng Sơn hầu hết đã bị lùa ra xe đưa về thị trấn để từ đó tìmđường mà
về lại bản quán. Số cửu sẽ bámlại thị trấn hoặc dạt về các huyện, chờ khi nào yên lại lần mò quay trở lại. Họ là những người dân tự do, ở đâu có thể kiếmăn được thì đến, đuổi thì đi, không đuổi nữa thì lại tụ về. Hắn đã giao ước với bọn thằng Xế rồi. Khi tình huống bất lợi xảy ra, bọn thằng Xế cứ chấp hành theo mọi yêu cầu của chính quyền, còn hắn và Lân sẽ trốn vào núi. Khi nào tình hình yên ắng trở lại, cả bọn sẽ gặp nhau tiếp tục tìmcách làmăn.
Thế nhưng hắn không ngờ lần này công an lại truy đuổi gắt gao đến thế. Những lần trước họ chỉ ở lại vùng này dămba ngày rồi rút. Bãi Lũng Sơn quá heo hút, xa huyện, xa tỉnh, theo đuổi đến cùng để bắt lại bọn hắn không phải là chuyện dễ. Lần này họ có vẻ quyết tâm bắt cho hết đámtù trốn trại như hắn. Lân là mục tiêu số một của họ vì Lân vừa gây một vụ mà theo như cách nói của họ là cực kỳ nguy hiểm. Còn để Lân ngoài xã hội một ngày nào là Lân còn có thể gây ra những vụ như thế. Hắn cũng chung một con đường sống với Lân. Hắn bàn với Lân cách tắt núi, băng rừng tìmsang tỉnh bên để thoát thân, chứ cứ ở lại trong hang đá này trước sau cũng bị bắt. Lân đồng ý. Hắn và Lân mò ra chỗ chôn tiền vàng, đào lên, lấy mang theo. Lân ômkhư khư con lợn đất bọc trong chiếc áo Pilot. Hai đứa quay trở lại hang để đón Nhung. Gần về tới cửa hang thì một tiếng quát to làmhắn giật bắn mình: "Đứng lại! Các anh đã bị bắt". Hắn vội lăn xuống triền núi, nấp vào một tảng đá, rút súng ra bắn lại. Tiếng AK, tiếng K54 rít lên, chiu chíu, nhoáng nhoàng bên tai hắn. Hắn tiếp tục lăn xuống dưới chân núi rồi tìmđường vòng trở về hang đá.
Trong hang, một cảnh tượng bất nhẫn đập vào mắt hắn. Dưới ánh nến leo lết, chập chờn, Nhung đang ngồi quị xuống, hai tay ôm chặt lấy cổ chân bầmđỏ, tóc tai rũ rượi. Thấy hắn trở về, Nhung vẫn không kêu than một tiếng, chỉ trào nước mắt, lã chã cả xuống đầu gối. Hắn vội thò tay vào hốc đá rút ra chiếc đèn pin. Dưới ánh đèn loé sáng, hắn nhìn thấy cách chỗ Nhung không xa một con rắn cạp nong màu vàng đen, đầu bị dập nát, thân giập mấy khúc, cong queo, chết tự bao giờ. Hắn hiểu ngay việc gì đã xảy ra với Nhung. Chính hắn cũng đã từng đập chết tới bốn con rắn ở trong chiếc hang này. Nhưng với Nhung thì điều này quả là vô cùng kinh hãi. Và hình như Nhung đã bị rắn cắn? Tạisao lại có sự trùng hợp kỳ lạ thế nhỉ? Nhung rất thuộc mẩu chuyện về đàn ông, đàn bà và con rắn, để rồi chính nỗi khủng khiếp ấy lại xảy ra với Nhung như sự linh ứng của một lời nguyền không thể hoá giải. Hắn còn đang loay hoay chưa biết xử trí ra sao thì một tràng AK rộ lên ngoài cửa hang. Có tiếng chân chạy gấp gáp rồi Lân hiện ra, một tay ômchiếc áo bọc con lợn đất, tay kia cầmkhẩu AK cưa báng. Giọng Lân hổn hển:
- Tất cả đã bị bao vây rồi. Công an đã mò đến đây, quyết bắt bằng được tao với mày. Đã có thằng dính đạn của mày. Bây giờ phải biến khỏi đây thôi. Mau lên.
Hắn bảo:
- Nhung bị rắn cắn. Máu vẫn còn đang rỉ ra ở gót chân.
Lân vứt chiếc áo và khẩu súng xuống nền hang, chạy đến bên Nhung, đưa tay nhấc cổ chân của cô lên xem. "Bỏ mẹ rồi". Lân buông ra một câu như vậy rồi lập tức lao tới góc hang, xé roàn roạt mảnh áo lót của hắn treo ở đấy. Băng cho Nhung xong Lân quay ra bảo:
- Rồi. Bây giờ tao với mày biến khỏi đây ngay. Chậmthêmphút nào là ăn đạn phút đấy.
Hắn bảo:
- Để tao cõng Nhung cùng chạy.
Lân giữ hắn lại, giọng gầmgừ:
- Mày ngu thế? Muốn chết chùmvới nhau à? Tao đã ga rô cho nó rồi, tí nữa công an đến sẽ đưa nó đi. Nó sẽ không sao cả. Còn tao với mày bị bắt lại là chết. Hiểu chưa?
Lân đẩy hắn ra khỏi hang, rồi kéo hắn chạy xềnh xệch xuống dốc núi. Hắn vừa chạy vừa quay lại nhìn nhưng còn nhìn thấy gì nữa khi mà xung quanh là màn đêmtối đen. Hắn không ngờ Nhung lại chịu lỳ đến thế. Không nói, không rằng, không kêu than, thậmchí khóc cũng cố nén lại để không thành tiếng. Nhung đã chờ cái ngày này từ lâu rồi. Nhung biết một kết cục không hay ho gì tất yếu sẽ phải đến với cả hai đứa. Nhung cũng không phải là người dễ khóc. Sự đời đã làmNhung trở nên chai cứng. Nhưng hômnay thì Nhung đã khóc. Khóc vì rắn cắn, khóc vì những tiếng nổ xé rách không gian thấp thỏmtrong lòng hang, hay khóc vìsự chia lìa? Hắn vừa chạy theo Lân vừa suy nghĩ về Nhung. Dẫu sao thì cũng là vợ chồng. Dẫu sao thì cũng là sự gắn bó như là tiền định, không thể không vấn vương trong hoàn cảnh này. Nhung cũng đã mang trong người một sự sống do hắn gieo trồng. Nhung có thể sống được nếu công an đến kịp, Hắn cầu mong cho công an đến sớm. Hắn bỗng dừng lại, rồi chạy ngược về phía hang đá nơi có Nhung đang trú ẩn, đưa súng lên trời, bóp liên hồi. Lân quay lại theo, giật tay hắn, gào lên:
- Mày điên à?
Hắn quay sang bảo:
- Để họ biết mà tìmđến ngọn núi này. Nếu không Nhung sẽ chết.
Bỗng một tràng AK rộ lên từ phía sườn núi dẫn lên hang đá. Họ đến rồi. Bây giờ thì hắn có thể yên tâmchạy được. Hắn quay sang bảo Lân:
- Nào, biến.
Cả hai lao xuống dốc núi dẫn ra con đường tắt để đisang dãy núi phía sau. Vượt qua dãy núi đó bọn hắn sẽ đặt chân sang đất Hà Sơn Bình. Từ đó chúng có thể về Hà Nội hoặc ngược trở lại Vinh theo đường 1A. Hắn rời bãi vàng Lũng Sơn lần này là lần thứ hai. Rồi hắn sẽ trở lại nếu dòng người đào đãi còn mò đến tìmsự sống ở đó.
Và hắn đã trở lạisau hai nămlang bạt.
Đó là hai nămkhốn khổ, khốn nạn cho cái kiếp chui rúc của một thằng tù trốn trại. Hắn và Lân đi đến đâu cũng ngửi thấy mùi nguy hiểmrình rập. Kinh nghiệmcho biết trốn trại mà mò về quê hương bản quán là dễ bị bắt nhất. Lân rủ hắn vượt biên giới đường bộ sang Lào. Lúc đầu Lân tưởng với vốn sống của mấy nămlàmlính ở Campuchia sẽ giúp hai đứa dễ thích nghi với xứ Lào hoang sơ, đất rộng, người thưa. Nhưng bọn hắn đã lầm. Kiểu sống đặc trưng của các nhómdân cư thưa thớt trên đất Lào không dễ gì du nhập được. Chúng tìmđường qua Thái Lan mấy lần nhưng không thành, luẩn quẩn mãi vẫn không sao ra khỏi mấy tỉnh Pusamsao, Puhoạt, Pulaileng giáp biên giới Việt-Lào. Đói rách quá, cuối cùng hai đứa lại lộn trở về Việt Nam. Đêmcuối cùng trước khi hắn và Lân chia tay để mỗi đứa một phương, Lân bảo:
- Trước mắt tao về quê xemthế nào đã. Nếu con nhỏ vẫn không sao thì tao sẽ tìmđường vào Sài Gòn.
Hắn buột miệng hỏi:
- Người đàn bà ở nhà mày là ai thế?
Lân bảo:
- Khốn nạn gặp nhau thôi. Tao ơn người ấy.
Hắn không muốn hỏi thêm, bảo:
- Tao sẽ quay trở lại Lũng Sơn xemthế nào. Nếu một trong hai thằng kiếmđược chỗ làmăn khá thì báo tin cho nhau. Mẹ kiếp, sao bây giờ dân thành phố giàu thế. Đi đâu cũng thấy xây dựng nhà cửa, đường xá, xe máy chen chúc, to nhỏ các kiểu, hàng hoá thì xanh đỏ, hoa cả mắt. Cuộc sống thay đổi đến chóng mặt mà tao với mày thì lại như thế này. Án chồng lên án, biết đến bao giờ mới gỡ được ra?
Lân bảo:
- Cái thằng trí thức đến đầu gối trong mày lại trỗi dậy rồi đấy. Quên mẹ nó đi. Xã hội có thay đổi đến đâu thì làmthằng tù cũng không sung sướng gì. Mà án của tao với mày đều đáng phải dựa cột. Coi như kiếp này bỏ, làmlại vào kiếp sau. Đừng nghĩ ngợi nhiều, nó bủn rủn người ra, rồi chẳng làmđược gì đâu.
Hắn vẫn không quên trong hắn còn một con người "trí thức đến đầu gối" như cách nói của Lân. Nhưng hắn đã sa chân lỡ bước rồi. Hắn luôn phảisống bằng cái danh phận một thằng tù trốn trại. Hắn lấy con ngườisau đè bẹp con người trước. Hắn lấy sự bung phá bản năng đè bẹp nỗisợ hãi, lấy cái khắc nghiệt của cuộc sống giang hồ mỉa mai, chế giễu những ánh xạ trong trẻo đôi khi vẫn lấp lánh trong sâu thẳmtâmhồn hắn. Hắn sợ đối diện với chính mình. Sợ phải trả lời những câu hỏi về tương lai cuộc đời. Hắn vịn vào những kẻ như
Lân để quên đi nỗisợ, vịn vào những môi trường sống như bãi vàng Lũng Sơn để quên đi cái tôi nhỏ nhoi, thánh thiện, tựa hồ như đang hấp hối trong hắn.
Trở lại bãi vàng hắn mừng rỡ như chết đuối vớ được cọc khi thấy mọisự dường như không thay đổi. Người đón hắn đầu tiên vẫn lại là thằng Xế. Sau gần ba tháng giải toả, đámngười đào vàng như những cánh bèo tấm, dạt đi rồi tụ lại, lúc đầu lẻ tẻ, sau rộ lên, đông đúc dần. Chính quyền cắmmột cái chốt trị an, để một tổ công an trực ở đó, sẵn sàng giải quyết những xích mích từ đámngười đang dốc kiệt sức mình ra cho việc đào đãi kia. Được sáu tháng thì cái chốt chẳng còn ma nào ở nữa, nó bị bỏ không, mặc cho nắng mưa phủ lên màu quên lãng. Không ai hơi đâu bỏ công sức, tiền của ra để trông coi cái đámbát nháo này làmgì. Quả thực, bãi vàng Lũng Sơn trong thời gian này cũng có tạo được một vẻ mặt yên bình. Các hội nhómvẫn ngấmngầmhình thành nhưng việc "Bốc của giời" có vẻ như hoàn toàn khách quan, không có thế lực nào áp chế cả. Lực lượng ở chốt trị an rút đi rồi, các thành phần bất hảo như hắn mới bắt đầu tìmđến. ĐámThành dê, Tùng chột khiếp hồn khi thấy hắn lù lù dẫn xác về. Tất cả đều nghĩ hắn và Lân đã bỏ mạng hoặc bị lưu đầy mất xác từ lâu rồi. Trận đọ súng trong đêmNhung bị rắn cắn đã bị những kẻ thích buôn chuyện giang hồ chế tác thành những huyền tích giật gân lưu truyền ngầmngấmtrong đámdân đen bấy lâu nay. Trong cái mớ chuyện truyền kì rẻ tiền ấy, ở phần kết hắn cùng Lân và Nhung đã được miêu tả là chạy vào hang sâu và mất tích trong đó. Rồi xảy ra mấy cái kết như thế này: Có người bảo cả ba đã tìmra được một cửa hầmdẫn vào lòng núi và chúng phát hiện ra nơi đó chứa rất nhiều vàng. Bọn hắn đã vơ vét cho bằng đủ rồi tìmđường vượt biên. Con tàu chở hắn đã bị hải tặc cướp, cả ba bị bắn chết và bị quẳng xuống biển. Người khác lại bảo bọn chúng đã cho nổ mìn tự sát khi bị truy đuổi, núisập xuống và cả một đại đội công an cũng chết theo. Cũng có người lại bảo nửa đêmdậy đi đái, chính mắt nhìn thấy ba đứa ngồi uống rượu bên triền núi, nhìn trăng cười ha hả. Bọn hắn đã thành ma rồi. Những con ma ấy cứ quanh quẩn quanh bãi này để giữ vàng, thấy ai đào trúng vỉa là bóp cổ cho chết rồi lấp hầmluôn. Những mẩu chuyện kiểu ấy cứ thế lan truyền. Nhiều người lập bát hương, kêu cầu khấn vái cho ba đứa hắn trước khi động thổ đào hầm. Chính thằng Xế cũng nửa tin nửa ngờ về điều này. Vì vậy khi hắn xuất hiện cả bãi vàng nháo nhác cả lên. Hắn bỗng được khoác lên người tấmáo choàng huyền bí. Tấmáo choàng ấy biến hắn thành một tên cướp đặc biệt, một tên cướp thần thánh và đầy huyền tích.
Hắn cũng ngay lập tức hiểu ra cái trò nực cười đó. Và việc đầu tiên hắn bắt tay vào là tích trữ thật nhiều gạo, mì tômcùng những thứ thực phẩmkhác trong một cái hang sâu. Hắn biết vùng Lũng Sơn này vô cùng hẻo lánh và heo hút. Công an có thể bủa vây cả tháng trời nhưng nếu hắn đủ lương thực thì vẫn có thể ung dung ngồi trong hang đá chờ cho kiếp nạn trôi qua. Lần trước hắn cùng Lân không thể nào trụ lại được là vì thiếu ăn. Lần này hắn chọn một cái hang chưa ai đặt chân đến. Và vớisố lương thực có thể dùng được trong hai tháng cho nămngười ăn, hắn tin là hắn sẽ tránh được mọi phiền phức mỗi khi công an muốn thanh lọc đámđào vàng để tìmbắt những kẻ trốn trại như hắn.
Nhưng còn một điều khiến hắn luôn băn khoăn, ấy là số phận của Nhung hiện giờ ra sao?
Không một ai biết là Nhung còn sống hay đã chết. Không một ai biết cái đêmsúng nổ đì đùng ở mấy cái hang đá nơi vùng núi Lũng Sơn kết cục xảy ra điều gì? Nếu Nhung chết thì phải có phần mộ ở khu vực này. Nếu Nhung được cứu sống thì phải tìmđến bọn thằng Xế theo địa chỉ đã hẹn trước. Nếu Nhung bình an vô sự thì bây giờ nàng đang nuôi con hắn. Đứa trẻ là gái hay trai? Giống hắn hay giống Nhung?
Nghe ngóng thấy tình hình có vẻ yên ắng. Cái lệnh truy nã hắn có vẻ như đã bị phủ lấp lên hàng trămhàng ngàn cái lệnh khác, hắn liền cùng thằng Xế mở cuộc tìmkiếmngười đàn bà Chúa sinh ra để giành cho hắn. Ở công an huyện người ta bảo: "Lần ấy hình như có bắt được một con bé là người tình của thằng tướng cướp Bạch Đàn. Họ đưa về tỉnh ngay đêmhômấy. Con bé bị thương rất nặng. Lại đang chửa. Thật là khốn nạn. Đời cha như thế rồi đời con biết sẽ ra sao?".
Ở công an tỉnh người ta bảo: "Rất may là lần ấy có đoàn bác sỹ ở trên Bộ xuống khảo sát một số cây thuốc namở vùng núi Lũng Sơn. Họ đã dùng mấy cây thuốc đó đắp vào chân cho con vợ thằng tướng cướp nên nọc độc rắn được rút ra hết, bó chân vài hômthì khỏi. Điều đặc biệt nữa là trong đoàn có một bác sĩ còn rất trẻ, vị bác sĩ này đã nhận ra con vợ thằng tướng cướp chính là emruột của mình, từng bị mất tích nămlên sáu tuổi. Sau khi lấy lời khai và làmcác thủ tục xong, cô gái ấy đã được anh trai đón về Hà Nội để nhận lại gia đình".
Ở Hà Nội, người của Bộ bảo rằng: "Đúng rồi, bác sĩ Bảo quê ở vùng đạo Ninh Bình. Nhưng bác sĩ Bảo đi nghiên cứu sinh ở bên Nhật rồi. Cả vợ con cũng sang bên ấy. Ở quê bác sĩ Bảo vẫn còn một người mẹ già và một cô emgái".
Ở vùng đạo Ninh Bình người ta bảo: "Cả cái huyện này biết bao nhiêu là nhà thờ, phải biết xã nào hay thuộc họ nào thì mới tìm được. Tháp chuông hai tầng thì nhà thờ nào chả có. Phù điêu khắc đoá Mân côi thì nhiều vô kể, còn khắc trên đá thì thử đến nhà thờ đá xem".
Ở nhà thờ đá, người ta bảo: "Trẻ embị bắt cóc từ những nămnảo nămnào thế ai mà biết được? Người đến đây dự lễ từ các nơi trên khắp cả nước chứ đâu chỉ một xã này. Bác sĩ Bảo à? Dân này làmbác sĩ có tới cả ngàn. Lạy Chúa tôi, tìmgì mà cứ như tìmchiên lạc thế?"
Cuộc tìmkiếmcủa hắn đã trở lên vô vọng. Điều hắn nhận ra một cách chua xót là hình như Nhung không muốn gặp lại hắn. Có thể Nhung đã tìmlại được gia đình của mình, đã muốn quên đi quãng đời lưu lạc khổ đau, đã tìmthấy hạnh phúc ở một nơi nào đó, bên người mẹ già hay ngay dưới nóc tháp chuông, và không muốn có một chút liên hệ nào với hắn. Đã thế thì hắn cũng không nên tìmkiếmlàmgì nữa. Chẳng ai muốn neo bámcuộc đời vào một thằng cướp đêmnhư hắn. Chẳng ai muốn làmvợ hắn, làmcon hắn để rồi phải chứng kiến cái phút giây hắn phải đền trả mọi lỗi lầmcủa mình. Lần đầu tiên hắn thấy chán sống. Hắn đã dặn dò lại cho thằng Xế tất cả những điều phải làmrồi lẳng lặng ra bờ sông nâng khẩu K54 lên áp nòng vào thái dương. Đúng lúc ngón tay hắn đang run run thì thằng Xế lao đến ômtrầmlấy hắn, gào lên:
- Đàn ơi, mày đừng chết. Biết đâu cái Nhung nó lại đang đi tìmmày thìsao? Nếu một ngày nào đó nó tìmđến chỗ tao, với cả con mày nữa, hỏi mày đâu thì tao biết trả lời thế nào? Nó khổ thì được nhưng chẳng lẽ con mày cũng phải chịu khổ sao? Thôi mày cố sống mà dành dụmlấy ít tiền, bao giờ trao được cho nó thì mày hãy chết. Còn chuyện này nữa tao chưa kể với mày. Mấy nămqua mẹ mày cứ lang thang đi tìmmày, cố gặp mày bằng được. Đợt mày còn ở bên Lào, mẹ mày tìmlên bãi vàng, không gặp được mày, bà cụ bảo: "Tôi chết mấy lần nhưng trên đường đến âmti địa ngục chợt nhớ ra là chưa gặp được thằng Đàn nên lại quay trở lại.". Rồi mẹ mày khóc lóc thảm thiết lắm. Mày cũng cần phảisống để mẹ mày được nhìn mặt trước khi bà ấy chết chứ.
Thằng Xế đã đánh đúng vào nỗi đau trong hắn. Không ai có thể chết được khi nỗi đau còn nảy mầmtrong ý nghĩ. Người ta chỉ có thể tự sát khi xác lập được một vùng cảmnghĩ bình yên và thanh thản dẫu vùng cảmnghĩ ấy chỉ tồn tại trong một giây. Nếu trong một giây ấy nỗi đau trồi lên, phá vỡ vùng cảmnghĩ vừa xác lập thì con người ta lại phảisống, cáisống lúc ấy cần thiết không những cho bản thân, mà còn cho chính nỗi đau không thể hoá giải kia. Hắn chỏ súng xuống mặt sông, bóp cò rồi cùng thằng Xế quay trở lại bãi vàng.
Hắn thực sự trở nên tàn bạo từ bữa ấy.
Hắn tìmthấy niềmvui khi gọi chệch Lũng Sơn thành Lương Sơn, và thích thú khi được mọi người gọi là Tống đại ca. Hắn huyễn hoặc cuộc sống phi pháp của mình theo kiểu Thi Nại Amviết Thuỷ Hử truyện. Hắn tuyên bố: "Tất cả những kẻ trốn trại cần một mái ấm để trú ngụ thì hãy đến với Đàn tôi. Đàn tôi có cơmcho các vị ăn, có việc cho các vị làm, có tự do cho các vị hưởng..."
Trong vòng một nămsau đó những trang hồ sơ tội lỗi về hắn không ngừng được bổ sung. Hắn đã lôi kéo về nơi hang đá của mình tới gần hai chục tên tù sổng. Hắn có tới cả nghìn viên đạn dùng cho ba khẩu súng, hàng trămtrái nổ các loại. Nơi bờ sông hoang vắng đêmnào, bên thằng Xế, hắn đã sống vì một động cơ tưởng như rất tình người. Còn bây giờ hắn sống vì hắn sợ ngày mai hắn phải chết.
"""