"HEIDI - Johanna Spyri PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook HEIDI - Johanna Spyri PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HEIDI —★— Tác giả: Johanna Spyri Người dịch: Thanh Vân Đông A phát hành Nhà xuất bản Văn Học – 2011 ebook©vctvegroup 03-09-2018 LỜI GIỚI THIỆU H eidi là một câu chuyện cảm động và thú vị về cuộc sống của cô bé Heidi trên ngọn núi Alps. Đây là một trong nhiều truyện viết dành riêng cho thiếu nhi của nữ nhà văn Johanna Spyri (Thụy Sĩ). Johanna sinh ra tại Zurich, Thụy Sĩ và mất vào năm 1901 trên chính mảnh đất quê hương của bà. Bà nổi tiếng tại Thụy Sĩ từ những năm 1880 ngay khi xuất bản quyển Heimathlos và tác phẩm này đã được tái bản nhiều lần. Ngay từ khi mới cầm bút, Johanna Spyri đã tuyên bố bà sẽ viết cho các bạn đọc trẻ tuổi và cho những người yêu trẻ. Sự cảm thông sâu sắc của bà với bản năng sống và những khát khao, mong muốn của trái tim trẻ thơ được thể hiện rõ nét qua nhân vật Heidi. Suốt nhiều năm qua, câu chuyện về thời thơ ấu của cô bé Thụy Sĩ này giữa vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của vùng núi quê hương đã là cuốn sách yêu thích của các bạn đọc trẻ tại Đức và Mỹ, rất được ưa chuộng và nổi tiếng tại Anh. Giống như Hans Andersen – nhà văn chuyên viết truyện cổ tích cho thiếu nhi, nữ nhà văn Johanna Spyri có một khả năng kì diệu tái hiện những câu chuyện giản dị, chan chứa tình người trong thế giới trẻ thơ. Các tác phẩm của Spyri đều thể hiện rõ rệt sự mong muốn gìn giữ cho lứa trẻ khỏi những bất hoà, cạnh tranh, đôi khi là những hành động tốt một cách sai lầm, vô tình cản trở niềm vui, hạnh phúc và sự phát triển hồn nhiên trong cuộc sống và tính cách của các em. Đọc sách của Johanna Spyri, chúng ta cảm thấy như được sống giữa vẻ quyến rũ tuyệt vời của phong cảnh núi non và những nhân vật được bà miêu tả một cách nghệ thuật. Câu chuyện Heidi đề cao vẻ đẹp tâm hồn nhân ái của cô bé Heidi, về cuộc sống chan hoà với thiên nhiên và sự đồng cảm giữa con người với con người. Chương I ĐẾN VỚI BÁC ALM TRÊN NÚI T ừ ngôi làng Mayenfeld cổ kính và duyên dáng, con đường mòn lượn ngoằn ngoèo qua các bãi cỏ xanh tươi và đầy bóng mát đến tận chân núi, từ triền núi này những đỉnh núi cao sừng sững lạnh lùng nhìn xuống thung lũng bên dưới. Con đường mòn càng lên cao càng rộng hơn và người leo núi không thể đi xa hơn mà không dừng lại, hít thở mùi lớp cỏ thấp và nhiều loài thảo mộc trên núi thơm phưng phức, vì con đường dốc đứng dẫn thẳng lên các đỉnh cao bên trên. Một buổi sáng tháng Sáu đẹp nắng, có thể nhìn rõ hai người đang leo lên con đường núi nhỏ hẹp. Một cô gái cao, dáng vóc khỏe mạnh, người kia là một cô bé bị nắm tay lôi đi, đôi má bé nhỏ của em hồng rực vì nóng, màu đỏ thắm rõ đến nỗi có thể nhìn thấy qua làn da cháy nắng đen nhẻm. Cũng chẳng lấy gì làm lạ, vì bất chấp mặt trời tháng Sáu nóng bỏng, đứa trẻ ăn mặc như để phòng giá rét cắt da. Trông em không quá năm tuổi, còn theo dáng người thì rất khó đoán, vì em mặc hai hoặc ba bộ quần áo, bộ nọ lồng ra ngoài bộ kia, ngoài cùng là một chiếc khăn quàng dày sụ bằng len màu đỏ quấn quanh làm thân hình bé bỏng của em chẳng còn ra hình thù gì. Đôi bàn chân nhỏ nhắn đi giày leo núi dày cộp, đóng đinh, nên em bước đi chậm chạp và khó nhọc trong tiết trời nóng nực. Cả hai chắc phải rời thung lũng khoảng một giờ mới tới một thôn nhỏ tên là Dörfli nằm giữa quãng đường lên núi. Đến đây, hai dì cháu được tứ phía chào hỏi, người thì gọi từ trong cửa sổ, người đứng ở cửa ra vào, có người ra hẳn bên ngoài, vì cô gái đang ở quê nhà. Tuy vậy, cô không dừng lại đáp lời chào hỏi của bạn bè, mà đi qua cho đến lúc tới một trong những ngôi nhà cuối thôn. Đến đây, một tiếng nói vọng ra từ trong cửa: – Dete, đợi một tí, nếu cô lên cao hơn, tôi sẽ đi cùng với. Dì Dete đứng lại, đứa bé lập tức thả ngay tay ra và ngồi phịch lên mặt đất. – Cháu mệt à, Heidi? – Dì Dete hỏi. – Không ạ, cháu nóng quá! – Đứa trẻ trả lời. – Bây giờ dì cháu ta phải lên đỉnh núi. Cháu chịu khó đi thêm tí nữa, bước cho dài ra, độ một tiếng nữa là đến nơi. – Dì Dete nói, giọng khích lệ. Một phụ nữ mập mạp, trông hiền hậu bước ra. Chị ta đi lên trước cùng người quen cũ, cả hai bắt đầu sôi nổi chuyện trò về mọi việc, mọi người ở Dörfli và quanh đấy, trong lúc đứa trẻ lê bước đằng sau. – Cô đi từ đâu với con bé vậy? – Vừa nhập bọn, người phụ nữ hỏi ngay. – Tôi đoán đây là đứa trẻ mà chị cô để lại? – Đúng vậy! – Dì Dete trả lời. – Em đưa cháu nó lên với Bác Alm, nó phải ở lại đấy. – Để đứa bé lại trên ấy với Bác Alm? Cô mất trí hay sao, Dete? Sao cô lại nghĩ ra việc như thế? Lão già ấy chẳng tống sớm cả cô lẫn con bé của cô về nhà cho mà xem! – Ông ấy không thể làm thế, vì ông ấy là ông nội con bé. Ông ta phải làm gì đó cho con bé chứ. Em đã trông nom nó cho đến tận bây giờ, và em có thể nói với chị, Barbel ạ, là em không thể vì lợi ích của nó mà bỏ lỡ dịp có một chỗ làm tốt như thế này đâu. Bây giờ đến lượt ông nội nó thực hiện nghĩa vụ với nó. – Nếu như ông ấy bình thường như những người khác thì chẳng sao, – chị Barbel mập mạp nhiệt tình xác nhận – nhưng cô biết ông ta là thế nào rồi đấy. Ông ấy thì có thể làm được cái gì cho đứa trẻ, nhất là nó còn bé thế! Con bé không thể sống với ông ta. Cô sắp đi đâu đấy? – Đến Frankfurt, ở đấy có một chỗ làm rất tốt đang đợi em. – Dì Dete đáp. – Hè năm ngoái, những người em sắp đến làm xuống Baths, và em làm người dọn phòng cho họ. Họ muốn đưa em đi cùng từ hồi ấy, nhưng em không thể đi được. Bây giờ họ lại đến đó và lại mời, em định đi với họ, chị nghĩ mà xem! – Tôi mừng vì mình không phải là con bé! – Chị Barbel nói, làm một cử chỉ thương hại. – Không ai biết tí gì về lão già sống trên đó! Lão ta chẳng động chạm gì đến ai, hết năm này sang năm khác chẳng bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Mỗi khi lão xuống làng, ai cũng tránh đường lão và cây gậy to tướng của lão. Chỉ nhìn đôi lông mày và bộ râu hoa râm rậm rì của lão cũng đủ khiếp. Trông lão như một lão già ngoại đạo hoặc người da đỏ, làm ít ai dám gặp lão một mình. – Thế thì sao? – Dì Dete nói, giọng gai ngạnh – Đằng nào lão cũng là ông nội và phải trông nom con bé. Lão không thể làm hại con bé, và nếu có làm thì lão phải chịu trách nhiệm, chứ không phải là em. – Chị rất muốn biết, – chị Barbel nói tiếp, giọng thăm dò – ông già ấy nghĩ gì mà trông lại như thế, và ở tít trên núi như một người ẩn dật, chẳng mấy ai nhìn thấy lão. Người ta nói đủ điều về lão. Còn em chắc phải biết nhiều về lão qua chị em, đúng không Dete? – Chị nói đúng, em biết nhưng không muốn nhắc lại những gì đã nghe được đâu, nhỡ đến tai ông ấy thì rầy rà lắm. Lúc này chị Barbel càng nóng lòng muốn biết tỉ mỉ về Bác Alm, vì chị không hiểu nổi ông lão nghĩ ngợi ra sao mà hận thù đồng loại đến thế, và một mực sống lẻ loi. Vì sao mỗi khi nhắc đến lão, ai cũng nói gần như thì thào dường như sợ nói ra điều gì chống lại lão và không dám nhận trách nhiệm về mình. Ngoài ra, chị càng không hiểu nổi vì sao tất cả cư dân ở Dörfli đều gọi lão là Bác Alm, vì lão không thể là bác của tất cả mọi người sống ở đó. Tuy vậy theo thói quen, chị cũng gọi ông già là Bác như những người khác. Chị Barbel mới đến sống ở Dörfli từ khi lấy chồng. Trước kia, nhà chị ở mãi tận Prättigau, nên chị không biết rõ mọi chuyện xảy ra với dân chúng ở Dörfli và vùng lân cận. Ngược lại, dì Dete vốn sinh trưởng ở Dörfli và sống ở đấy với mẹ cho đến lúc bà mất hồi năm ngoái, dì mới đến Baths ở Ragatz làm hầu phòng trong một khách sạn lớn. Sáng hôm ấy, dì cùng bé Heidi đi từ Ragatz, được một người bạn cho đi nhờ xe chở cỏ khô đến tận Mayenfeld. Vì vậy Barbel quyết không bỏ lỡ dịp tốt để thỏa trí tò mò. Chị ta khoác tay Dete vẻ tin cậy và nói: – Chị biết là em sẽ nói sự thật và ý nghĩa những chuyện người ta bàn tán về ông lão. Chị tin là em biết mọi chuyện. Bây giờ kể cho chị biết ông lão ấy có gì sai trái đến nỗi bây giờ xa lánh tất cả như một kẻ ghét đời vậy. – Làm sao mà em có thể kể hết được, em mới hai sáu tuổi còn ông ta ít nhất cũng bảy mươi, vì thế chị đừng mong em biết về thời trẻ của ông ấy. Song em chắc là những điều em kể với chị sẽ không lan đến Prättigau, em có thể kể mọi việc về ông ta. Mẹ em là người vùng Domleschg, và ông ấy cũng vậy. – Thật nhảm nhí, Dete, cô định nói gì vậy? – Chị Barbel nhắc lại, cảm thấy bị xúc phạm. – Những chuyện tào lao sẽ không lan đến Prättigau hoặc bất kì chỗ nào nhé, lúc cần tôi cũng biết giữ mồm giữ miệng lắm chứ! – Vậy thì em sẽ nói cho chị biết, nhưng gượm đã. – Dì Dete nói, giọng cảnh giác và ngoảnh lại để biết chắc con bé không đủ gần để nghe thấy. Lúc này chẳng thấy con bé đâu, hai người mải chuyện nên chẳng chú ý gì. Dì đứng lặng, nhìn khắp mọi hướng. Con đường mòn uốn lượn đây đó, nhưng vẫn có thể nhìn đến gần Dörfli, lúc này vắng tanh vắng ngắt không một bóng người. – Chị thấy nó rồi! – Chị Barbel nói – Nhìn đằng kia kìa! – Chị ta chỉ một điểm cách xa con đường. – Nó đang trèo ở con đường dốc đằng kia với thằng bé chăn dê và bầy dê. Chị không biết sao hôm nay nó đi chăn muộn thế. Song thế cũng hay, thằng bé có thể trông nom đứa trẻ, còn em cứ kể chuyện thì hơn. – Ôi dào, nói đến chuyện trông nom, – dì Dete nhận xét – thằng bé chẳng phải bận bịu gì lắm đâu! Con nhóc ấy không ngốc như những đứa lên năm khác, nó rất tinh ý. Nó chú ý đến mọi thứ, và em thường nói điều đó sẽ có ngày có ích cho nó, vì ông lão chẳng có gì ngoài túp lều và hai con dê. – Lão đã từng có nhiều hơn chứ? – Chị Barbel hỏi. – Ông ấy à? Em nghĩ chắc phải thế! – Dì Dete nhắc lại, vẻ hưởng ứng. – Đã có thời ông ấy là chủ một trong những nông trại lớn nhất Domleschg. Ông ấy là anh, còn người em trai kín đáo, gọn gàng, nhưng chẳng chịu làm gì, lúc nào cũng ra vẻ một quý ông lịch sự, đi dạo bằng xe khắp vùng và giao du với một hội bất lương, với những kẻ lạ mặt chẳng ai biết. Ông em trai uống rượu và cờ bạc, phá tan hết gia sản, và khi biết chuyện, cha mẹ ông ta buồn phiền lâm bệnh mà mất, người nọ cách người kia ít lâu. Người em rơi vào cảnh cùng quẫn và bỏ đi trong cơn giận dữ, không ai biết đi đâu, trong lúc Bác Alm chẳng còn của nả, lại bị tai tiếng, cũng bỏ đi mất tích. Suốt một thời gian không ai biết Bác Alm ở đâu, sau đó có người thấy ông ta đăng lính ở Naples, rồi mười hai đến mười lăm năm liền không ai hay biết tin tức gì. Cuối cùng, ông ta lại xuất hiện ở Domleschg, đem theo một đứa con nhỏ và thử đưa nó đến với một số họ hàng. Nhưng nhà ai cũng sập cửa vào mặt ông, vì chẳng ai muốn giao du với ông. Căm hận vì cung cách ấy, ông ta thề sẽ không bao giờ đặt chân đến Domleschg nữa, rồi chuyển đến Dörfli sống với đứa con trai. Vợ ông là người Grisons, ông đã gặp bà hồi ông ở đó, và sau khi cưới chẳng bao lâu thì bà ta mất. Ông ta chẳng còn tiền của, phải cho con trai là Tobias học việc một người thợ mộc. Anh Tobias là người đứng đắn và được mọi người ở Dörfli ân cần đón nhận. Ấy thế nhưng người ta vẫn ngại ông già, có tin đồn ông ta buộc phải chạy trốn khỏi Naples vì có chuyện ám muội, vì ông ta đã giết một người, không phải trong lúc giao chiến mà trong cuộc cãi lộn nào đó. Tuy vậy, chúng tôi không tuyệt giao với ông ta, cụ ngoại tôi là em gái của bà ông ta. Về đằng nội, chúng tôi gọi ông ta là bác, vì hầu như mọi gia đình ở Dörfli đều có họ, cho nên mọi người đều gọi ông ta là Bác. Kể từ ngày ông ta dọn lên ở trên triền núi Alm, khắp mọi nơi ai cũng gọi ông ấy là Bác Alm. – Còn anh con trai Tobias thì sao? – Chị Barbel hỏi, chị đang lắng nghe rất chăm chú. – Gượm đã, rồi em sẽ kể, em không thể nói tất ngay một lúc được. – Dì Dete đáp – Anh Tobias học nghề ở Mels, và khi đã thạo việc anh ấy trở về Dörfli, cưới chị gái em là Adelaide. Họ rất mực yêu nhau, và chung sống hết sức hoà thuận. Nhưng hạnh phúc của họ không dài. Hai năm sau khi kết hôn, anh Tobias bị một cái rầm đè phải lúc đang làm việc và chết ngay tại chỗ. Họ khiêng anh ấy về nhà, nhìn thấy thân hình biến dạng của người chồng tội nghiệp, chị Adelaide không sao vượt qua được nỗi kinh hoàng và thương tiếc, chị bị sốt cao và không bao giờ hồi tỉnh lại được. Chị ấy vốn là người mảnh khảnh và bị nhiều cơn bệnh nặng, lúc lên cơn không ai biết chị ấy đang thức hay ngủ. Hai tháng sau khi an táng anh Tobias, vợ anh mất theo. Số phận buồn thảm của họ là đầu đề câu chuyện khắp gần xa, và công khai hay kín đáo, mọi người đều cho đây là sự trừng phạt mà Bác Alm phải chịu vì đã sống vô thần. Một số người còn nói toẹt điều ấy vào mặt ông ta. Mục sư trong vùng đã cố gắng thức tỉnh lương tri và động viên ông ta sám hối, nhưng ông già càng ngày càng phẫn nộ và ngoan cố, không chịu nói năng với ai và mọi người thấy tốt nhất là tránh đường cho ông ta. Ngay sau đó, có tin ông ta chuyển lên sông trên núi Alm và không có ý định xuống núi nữa. Kể từ ngày ấy ông ta sống lẻ loi trên triền núi, thù địch cả với Chúa lẫn con người. Mẹ con em mang con của chị Adelaide về nuôi, lúc ấy nó mới lên một. Năm ngoái lúc mẹ em mất, còn em xuống Baths kiếm sống, em phải thuê bà lão Ursula trong làng trông nom con bé. Em ở Baths suốt mùa đông, vì em biết đan lát, may vá và có khá nhiều việc làm, đến đầu mùa xuân năm nay, gia đình em đợi đến làm từ Frankfurt về, yêu cầu em đi cùng họ. Đến ngày kia, em sẽ ra đi và em có thể cam đoan với chị, đấy là chỗ làm tuyệt vời cho em. – Thế cô định đưa con bé lên ở với ông lão trên ấy à? Tôi ngạc nhiên không nói được vì thấy cô nghĩ ra một việc như thế, Dete ạ! – Chị Barbel nói, giọng trách cứ. – Chị nói gì vậy? – Dì Dete vặn lại. – Em đã làm nghĩa vụ với đứa trẻ rồi, còn bây giờ em phải làm gì cho em chứ? Em không thể mang con bé lên năm đến Frankfurt được. Nhưng chị đi đâu đấy Barbel, chúng ta đã đi được nửa đường lên Alm rồi. – Sắp đến chỗ tôi muốn đến đấy. – Chị Barbel trả lời – Tôi có việc phải nói với vợ người chăn dê, bảo chị ta xe ít sợi cho tôi trong mùa đông. Tạm biệt Dete nhé, chúc cô may mắn! Dì Dete bắt tay bạn và đứng lại, trong lúc chị Barbel tiến thẳng đến túp lều nhỏ màu nâu sẫm, cách con đường mòn vài bước, thụt vào trong hõm núi để tránh được gió ít nhiều. Túp lều ở giữa đường lên Alm tính từ Dörfli, và khó mà làm chỗ trú thân an toàn vì nó xộc xệch, xác xơ, vì mỗi khi giông bão phía nam tràn đến núi, mọi thứ trong lều, cửa ra vào, cửa sổ đều rung lên bần bật và kêu lách cách, các rầm xà cũ kĩ, mục nát kêu cót két và run rẩy. Trong những ngày như thế, ngôi nhà của người chăn dê đứng cheo leo trên triền núi có thể bay thẳng xuống thung lũng không hề báo trước. Peter, cậu bé mười một tuổi sống ở đây. Sáng nào cậu cũng xuống Dörfli đón bầy dê và lùa lên núi, cho chúng tha hồ gặm chồi non, cành non ngon lành của cây cỏ trên núi cho đến tận chiều. Buổi chiều, Peter lại cùng những con vật nhanh nhẹn chạy, nhảy xuống núi đến tận Dörfli. Đến đó, cậu đưa mấy ngón tay lên miệng huýt một tiếng sáo chói tai, các chủ nhân từ mọi ngả túa ra nhận dê của mình. Theo lệ thường, lúc này đám trẻ con chạy ra đáp lại tiếng huýt sáo của Peter. Chúng không sợ gì những con dê hiền lành, và trong suốt mùa hè, đây là giờ duy nhất trong ngày Peter có dịp gặp gỡ bạn bè, thời gian còn lại cậu lủi thủi một mình với đàn dê. Cậu còn mẹ và bà nội mù lòa ở nhà, nhưng sáng nào cậu cũng phải dậy rất sớm, và chiều muộn mới từ Dörfli về đến nhà, vì thế cậu cố nán lại chơi đùa với các trẻ khác càng lâu càng tốt, cho đến lúc chỉ còn đủ thời gian về nhà. Sáng sáng, Peter nuốt miếng bánh mì với sữa, và chiều tối lại ăn một bữa đúng y như thế, rồi lên giường và ngủ thiếp đi. Cha cậu, mọi người đều gọi là anh chăn dê vì kiếm sống bằng nghề đó từ khi còn rất trẻ, đã chết bất ngờ trong lúc đốn gỗ từ mấy năm trước. Mẹ cậu, tên là Brigitta, theo lối cổ thường được gọi là vợ anh chăn dê, trong khi già trẻ quanh vùng chỉ gọi người bà mù lòa của cậu là “bà”. Dì Dete đứng khoảng mươi phút, nhìn tứ phía tìm dấu hiệu của bọn trẻ và đàn dê. Chưa thấy đâu, nên cô vẫn trèo lên chỗ cao hơn, có thể nhìn toàn cảnh núi non vì nó dốc xuống thung lũng. Nỗi lo lắng mỗi lúc một tăng, dì tiếp tục nhìn khắp các con đường dốc xung quanh. Trong lúc đó, bọn trẻ đang trèo lên một con đường quanh co phía xa, vì Peter biết mọi chỗ có các bụi cây, cỏ là thức ăn ngon cho bầy dê, và cậu có thói quen lùa đàn dê tránh xa các đường mòn. Bé Heidi mệt nhoài vì nóng và các thứ quần áo dày cộp, vừa thở hổn hển vừa ráng sức đi theo Peter một cách rất chật vật. Em không nói gì, cặp mắt nhỏ bé của em nhìn Peter lúc cậu nhanh nhẹn nhảy khắp đây đó bằng bàn chân trần, trên người mặc độc cái quần ống túm ngắn, nhẹ nhàng. Rồi đến những con dê chân cẳng mảnh khảnh, nhảy qua các tảng đá, bụi cây, và nhảy lên các con đường dốc ngược còn dễ dàng hơn nữa. Em ngồi bệt xuống, những ngón tay bé nhỏ của em cởi nhanh giày, tất ra. Cởi xong em đứng dậy, tháo bỏ chiếc khăn quàng màu đỏ bức bối ném đi, sau đó cởi đến váy áo. Xong chiếc áo thứ hai, vẫn còn chiếc nữa vì dì Dete đã trùm bộ váy áo ngày Chủ nhật ra ngoài bộ mặc hàng ngày, để đỡ phải mang xách vướng víu. Heidi cởi bộ áo hàng ngày nhanh như chớp. Lúc này em mặc độc chiếc váy lót ngắn tay nhẹ nhõm, vui sướng dang rộng đôi tay trần. Em xếp tất cả chỗ quần áo thành một đống gọn gàng, rồi vừa nhảy vừa trèo theo Peter và đàn dê, nhanh nhẹn chẳng kém ai. Peter chẳng để ý đến cô bé đã tụt lại sau, nhưng lúc Heidi chạy đến chỗ cậu trong trang phục mới, cậu cười toe toét, và ngoảnh nhìn lại thấy đống quần áo nằm trên mặt đất, cái cười của cậu càng rộng hơn cho đến lúc gần đến mang tai, song cậu không nói gì. Lúc này bé Heidi có thể cử động dễ dàng, em bắt đầu chuyện trò với Peter, hỏi dồn dập nhiều câu, vì muốn biết mọi thứ về đàn dê của Peter, cậu sẽ lùa chúng đi đâu, cậu phải làm gì khi đến đấy. Cuối cùng, bọn trẻ và đàn dê đã đến túp lều và lọt vào tầm mắt của dì Dete. Vừa nhìn thấy chúng trèo thẳng đến chỗ dì, dì Dete đã rít lên: – Heidi, cháu làm cái trò gì thế hả? Trông cháu kìa! Hai bộ váy yếm với chiếc khăn quàng đỏ đâu rồi? Cả đôi giày mới mua, bít tất dì mới đan cho cháu nữa, mất hết rồi! Chẳng còn gì nữa! Cháu nghĩ gì thế, Heidi? Cháu để tất cả những quần áo ấy ở đâu? Đứa trẻ bình tĩnh chỉ vào một điểm trên triền núi phía dưới và trả lời: – Dưới kia ạ! Dete nhìn theo hướng ngón tay, dì nhận ra có cái gì đó nằm trên mặt đất, một điểm màu đỏ ở trên cùng, dì chắc đó là chiếc khăn quàng len. – Cháu là đứa bé vô tích sự! – Dì Dete giận dữ hét lên. – Có hoạ là điên mới xử sự như thế. Sao cháu lại cởi quần áo ra, hở? Cháu định làm trò gì thế? – Cháu không muốn mặc bất cứ thứ gì! – Bé Heidi nói, không hề tỏ ra hối hận vì hành động vừa rồi. – Cháu hư quá, ích kỷ nữa! Cháu mất trí hay sao thế? – Dì Dete tiếp tục mắng mỏ và rền rĩ. – Ai mà xuống lấy được kia chứ, mất nửa giờ như bỡn! Peter, cháu chạy xuống lấy hộ cô, nhanh lên, đừng có đứng đấy há hốc miệng ra nhìn cô như trời trồng thế kia nữa! – Cháu không có thời gian. – Peter chậm rãi trả lời, cậu không rời chỗ, hai tay đút túi quần, lắng nghe cơn điên rồ và giận dữ của dì Dete. – Này, cháu không thể đi xa hơn nếu cứ đứng đấy trố mắt ra, – dì Dete cáu kỉnh vặc lại, – nhưng nhìn này, cháu sẽ có thứ rất hay đấy, – dì giơ ra một đồng tiền mới, sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Peter lập tức nhảy phóc lên và lao xuống triền núi dốc đứng theo đường tắt ngắn nhất và chẳng mấy chốc đã đến chỗ đống quần áo. Cậu vơ tất cả rồi trở lại nhanh đến mức dì Dete phải khen ngợi và đưa cho cậu đồng tiền đã hứa. Peter vội nhét vào túi, sung sướng vì có được một tài sản như thế. – Cháu có thể mang hộ cô lên nhà Bác Alm, vì cháu đi cùng đường mà! – Dì Dete nói tiếp lúc chuẩn bị trèo lên sườn núi nhô ra theo con đường dốc đứng, ngay đằng sau túp lều người chăn dê. Peter sẵn sàng làm việc đó, rồi cậu đi chân đất sau dì Dete, tay trái cậu ôm bọc quần áo, tay phải vung gậy, trong lúc bé Heidi và bầy dê vui sướng chạy nhảy bên cạnh. Trèo gần một giờ nữa, họ đã đến đỉnh núi Alm. Túp lều của Bác Alm đứng nhô ra trên một tảng đá, lộng gió nhưng hứng được mọi tia nắng mặt trời, và nhìn được toàn bộ phong cảnh thung lũng bên dưới. Sau lều có ba cây linh sam, cành dài, dày, thẳng tắp. Xa hơn là vách núi, ở các đỉnh thấp hơn cây cối vẫn mọc đẹp đẽ, xum xuê, nhưng trên cao hơn là những con đường dốc đầy đá, cao dần đến tận những đỉnh núi cao trần trụi, lởm chởm đá và dốc đứng, chỉ toàn những cây bụi. Bác Alm kê một cái ghế dựa vào lều, về phía nhìn thẳng xuống thung lũng. Ông đang ngồi đó, miệng ngậm tẩu, bàn tay để lên đầu gối, lặng lẽ nhìn ra lúc bọn trẻ, đàn dê và dì Dete bất ngờ lọt vào tầm mắt. Bé Heidi đi đầu tiên. Em tiến thẳng đến chỗ ông già, giơ tay ra và nói: – Cháu chào ông ạ! – Chuyện này là nghĩa thế nào đây? – Ông lão cộc cằn hỏi, lúc bắt bàn tay bé xíu, đôi lông mày bù xù nhíu lại ngắm cô bé thật lâu, thật kĩ. Bé Heidi bình tĩnh chăm chú nhìn lại ông, cái nhìn điềm nhiên, vì ông nội với bộ râu dài, cặp lông mày hoa râm rậm rì nhíu lại trên sống mũi trông như một bụi cây, diện mạo thật khác thường làm bé không rời mắt khỏi ông. Trong lúc đó dì Dete tới, Peter theo sau rồi đứng lại, xem chuyện gì xảy ra. – Chúc bác một ngày tốt lành! – Dì Dete nói lúc tiến đến chỗ ông. – Cháu đưa con gái của anh Tobias và chị Adelaide đến cho bác đây. Bác khó mà nhận ra nó, vì từ lúc nó được một tuổi bác chưa nhìn thấy nó lần nào. – Đưa con bé lên đây với ta làm gì? – Ông già hỏi cộc lốc. Rồi ông gọi Peter. – Đứng đấy làm gì, ra với đàn dê đi! Hôm nay cháu không đến sớm, lùa dê của ông đi đi! Peter vâng lời ngay lập tức và nhanh chóng biến mất, vì ông già đưa mắt nhìn làm cậu ta thấy không muốn ở lại thêm tí nào. – Con bé sẽ ở lại đây với bác. – Dì Dete trả lời. – Cháu nghĩ là cháu đã làm trọn nhiệm vụ với nó trong bốn năm qua, và bây giờ đến lúc bác làm nhiệm vụ của bác. – Ra thế, hả? – Ông già nói, mắt ông lóe sáng nhìn dì Dete. – Thế lúc con bé quấy nhiễu, khóc lóc nhai nhải đòi theo cô như những đứa trẻ khác, ta sẽ làm gì với nó? – Đấy là việc của bác! – Dì Dete đối đáp. – Mẹ cháu và cháu đã phải chăm bẵm nó không hề phàn nàn từ lúc nó còn ẵm ngửa. Bây giờ cháu phải đi kiếm việc làm, còn bác là họ hàng gần gũi nhất của nó. Nếu bác không thể thu xếp nuôi nó, thì bác muốn làm gì tùy ý. Bác sẽ phải chịu trách nhiệm nếu làm hại nó, dù bác không cần biết đến nhưng lương tâm của bác sẽ nặng trĩu thêm đấy. Lúc này dì Dete cũng không hoàn toàn thanh thản với việc dì đang làm, lại thêm trời nóng và cáu bẳn nên dì nói nhiều hơn dự định. Lúc dì vừa thốt ra những lời cuối cùng, Bác Alm đứng dậy khỏi ghế. Ông già nhìn Dete trừng trừng làm dì lùi lại một, hai bước, rồi vung tay, ông nói, giọng oai vệ: – Xéo ngay lập tức, về chỗ cô vừa đi cho nhanh, đừng để ta nhìn thấy cái mặt cô lần nữa. Dì Dete không đợi nói đến lần thứ hai. – Vậy chào bác, chào Heidi! – Dì kêu to lúc quay thật nhanh và chạy xuống núi, không chậm bước cho đến lúc đã an toàn ở Dörfli, cơn tức giận ngấm ngầm đưa dì lao về phía trước như một động cơ hơi nước đang sục sôi trong người. Một lần nữa, những câu hỏi từ tứ phía tới tấp rơi xuống đầu dì Dete như mưa, vì ai cũng biết dì, biết sự ra đời đặc biệt và câu chuyện của đứa trẻ, tất cả đều ngỡ ngàng vì việc dì làm. Nhiều giọng nói vọng từ trong cửa và cửa sổ: – Con bé đâu rồi? – Cô để con bé đâu, Dete? Dì Dete miễn cưỡng trả lời: – Để trên kia với Bác Alm! – Với Bác Alm! Tôi đã chẳng bảo cô rồi sao? Lúc đó, đám đàn bà ùa ra mắng mỏ Dete. Một người kêu lên: – Sao cô lại có thể làm một việc như thế! Người khác nói: – Ai lại để con bé bơ vơ trên đó! Rồi bao nhiêu tiếng “Khổ thân con bé! Tội nghiệp nó quá!” đuổi theo dì suốt dọc đường. Cuối cùng, không thể chịu nổi nữa, dì Dete chạy thật nhanh cho đến lúc ra khỏi tầm nghe. Dì không vui khi nghĩ đến việc đã làm, vì người chị mất sớm đã để đứa trẻ lại cho dì chăm nom. Tuy vậy, dì tự an ủi là nếu dì kiếm được nhiều tiền, sẽ có thể lo cho con bé gì đó. Dì nhẹ cả người khi đã đi xa khỏi cái đám đông đang bàn tán om sòm, và hân hoan nghĩ từ giờ, dì được tự do nhận một chỗ làm tử tế. Chương II Ở NHÀ ÔNG NỘI D ì Dete vừa khuất tầm mắt, ông già trở lại chiếc ghế dài và ngồi đó mãi, nhìn chằm chặp xuống đất không thốt lời nào, từng cuộn khói dày bốc lên từ chiếc tẩu. Trong lúc đó, bé Heidi đang thưởng thức mọi thứ xung quanh. Em nhìn ngó đó đây cho đến lúc thấy cái chuồng nuôi dê dựng sát túp lều. Em ngó vào và thấy bên trong trống rỗng. Em tiếp tục cuộc tìm kiếm, chẳng mấy chốc đã đến chỗ mấy cây linh sam đằng sau lều. Một luồng gió mạnh thổi qua, làm các đầu cành khua ào ào. Bé Heidi đứng yên và lắng nghe. Âm thanh yếu dần. Em đi tiếp đến góc lều xa hơn rồi vòng đến chỗ ông nội. Thấy ông vẫn ngồi yên tại chỗ, em đến trước mặt ông, đứng chắp tay sau lưng và nhìn ông lão chằm chặp. Ông nội em ngước lên và thấy em đứng không nhúc nhích. – Cháu muốn gì? – Ông hỏi. – Cháu muốn xem ông có những gì trong nhà. – Bé Heidi nói. – Nào đi! – Người ông đứng dậy và đi trước vào trong lều. – Mang bó quần áo của cháu vào! – Ông bảo lúc em đi theo. – Cháu không muốn mặc nữa đâu. – Bé Heidi trả lời ngay. Ông già quay lại, dò xét nhìn đứa cháu, cặp mắt đen láy của em ánh lên vẻ hài lòng vì sắp được thấy mọi thứ trong lều. – Chắc chắn con bé không thiếu thông minh. – Ông già lẩm bẩm, rồi hỏi to. – Sao cháu không muốn mặc những thứ ấy nữa? – Vì cháu muốn đi lại như những con dê, chân gầy, nhẹ nhàng. – Tốt lắm, cháu có thể làm thế nếu cháu thích, – ông em nói, – nhưng cứ mang các thứ vào, ông cháu ta phải cất vào tủ. Bé Heidi làm theo lời ông. Ông lão mở cửa và bé theo ông vào trong, em thấy một căn phòng rộng rãi, chiếm toàn bộ nền lều. Một cái bàn, một cái ghế là đồ đạc duy nhất, trong một góc phòng kê giường của ông, góc khác là lò sưởi, bên trên treo một cái ấm đun nước to, ở bức tường bên kia có một cánh cửa lớn là tủ. Ông mở cửa tủ, bên trong là quần áo của ông, vài cái treo, những thứ khác như sơ mi, bít tất, khăn mùi soa xếp trong một ngăn; ngăn thứ hai xếp đĩa, cốc tách, cao hơn nữa là ngăn để bánh mì, thịt hun khói, pho mát; tất tật mọi thứ Bác Alm cần cho việc ăn, mặc đều cất trong tủ này. Cửa tủ vừa mở, bé Heidi đã chạy tới, dúi gói quần áo vào thật sâu, đằng sau quần áo của ông để không dễ tìm thấy nữa. Sau đó, em nhìn cẩn thận khắp phòng và hỏi: – Cháu ngủ ở đâu hở ông? – Ở bất cứ chỗ nào cháu thích! – Ông em trả lời. Bé Heidi rất khoái, em lập tức kiểm tra mọi xó xỉnh xem chỗ nào thú vị nhất để ngủ. Trong góc phòng gần giường ông, thấy một chiếc thang ngắn dựng vào tường, em trèo lên và thấy một cái vựa đựng cỏ khô. Một đống lớn cỏ khô tỏa mùi thơm dịu, tươi mát, trên tường có một cửa sổ tròn, từ đấy em có thể nhìn thẳng xuống thung lũng. – Cháu sẽ ngủ ở đây, ông ạ! – Em gọi với xuống chỗ ông. – Trên này thích lắm. Ông lên mà xem, thích lắm! – Ừ, ông biết rồi. – Ông em trả lời. – Cháu đang chuẩn bị giường, – bé Heidi hét to trong lúc chạy tới chạy lui, bận bịu công việc. – Cháu muốn ông mang cho cháu khăn trải giường, giường phải có khăn để nằm lên trên, ông ạ. – Được! – Ông em đáp, và lục lọi trong tủ. Vài phút sau, ông lôi ra một mảnh vải thô dài dùng làm khăn trải giường. Ông mang lên vựa cỏ, và thấy Heidi đã làm xong một cái giường xinh xắn. Em dồn thêm một đống cỏ vào một bên giường làm gối, và thu xếp để lúc lên giường, em có thể nhìn thoải mái qua ô cửa sổ tròn. – Hay lắm, – ông nội nói, – bây giờ ông cháu ta phải phủ khăn lên, nhưng gượm đã, – ông lấy thêm một bó cỏ lớn, làm cái giường dày thêm để cô bé không cảm thấy nền sàn cứng bên dưới, – thế, bây giờ đưa khăn lại đây! Bé Heidi vẫn giữ tấm khăn, nhưng nó nặng quá em không mang nổi. Tuy vậy, thế mới tốt! Tấm khăn dày và khít này sẽ làm cho thân cỏ sắc nhọn không đâm xuyên vào người em. Hai ông cháu trải khăn lên giường. Ở chỗ khăn quá dài và quá rộng, Heidi khéo léo vén vào dưới lớp cỏ. Lúc cái giường đã gọn gàng, thoải mái, bé đứng ngắm công trình của mình thật kĩ. – Ông cháu mình còn quên một thứ, – sau một lát im lặng, em nói. – Gì vậy? – Ông hỏi. – Khăn phủ giường ạ. Lúc đi nằm, ông phải chui vào giữa khăn trải và khăn phủ chứ. – Ồ, lại thế nữa? Nhỡ ông không có khăn phủ thì sao? – Ông già nói. – Không sao đâu, ông ạ! – Bé Heidi nói, giọng an ủi. – Cháu sẽ lấy một ít cỏ phủ lên người. – Em quay đi lấy một ôm cỏ, nhưng ông em ngăn lại. – Đợi một tí! – Ông nói, rồi xuống thang và đến bên giường ông. Ông trở lại vựa cỏ, cầm theo một cái bao to, dày bằng vải lanh. Ông ném bao xuống và nói. – Cái này tốt hơn cỏ chứ? Bé Heidi ra sức kéo mạnh cái bao cho phẳng và thẳng thắn, nhưng bàn tay bé tí của em không hợp với công việc nặng nhọc ấy. Ông nội đến giúp em, và lúc đã trải cái bao gọn gàng lên giường, trông mọi thứ xinh xắn, ấm áp và thoải mái đến mức Heidi đứng nhìn chăm chú, vẻ mãn nguyện. – Một tấm khăn phủ tuyệt vời, – em nói, – trông cái giường đẹp quá! Cháu ước bây giờ là đêm, để có thể chui ngay vào đấy. – Ông cho là bây giờ phải ăn cái gì trước đã, – ông nội nói, – cháu có thấy thế không? Mải làm giường, bé Heidi quên bẵng mọi thứ, nhưng lúc này nhắc đến ăn, em bỗng thấy đói ngấu, vì em chưa ăn gì kể từ bữa điểm tâm sớm nay chỉ có lát bánh mì và tách cà phê loãng, rồi lại phải đi một chặng đường dài và nóng nực. Em trả lời không ngập ngừng: – Vâng ạ, cháu cũng nghĩ thế. – Vậy xuống nào, ông cháu ta nghĩ giống nhau đấy. – Ông già nói, và theo đứa bé xuống thang. Ông đến chỗ lò sưởi, gạt cái ấm to sang một bên, kéo cái ấm nhỏ treo lên dây xích, rồi ngồi lên chiếc ghế ba chân, mặt ghế hình tròn trước lò sưởi, ông thổi cho ngọn lửa bùng lên. Cái ấm sôi rất nhanh, trong lúc đó ông già xiên một miếng pho mát lớn giơ lên bên trên ngọn lửa, xoay tròn cho đến lúc cháy xém các cạnh thành màu vàng nâu. Bé Heidi quan sát mọi việc, vẻ háo hức, tò mò. Chợt nảy ra một ý mới, em chạy đến bên tủ, rồi bắt đầu bận bịu chạy tới, chạy lui. Ngay lúc ông em đứng dậy, mang cái bình và pho mát đến bàn, đã thấy một ổ bánh mì tròn, hai cái đĩa, hai con dao xếp đặt gọn gàng, đúng chỗ trên bàn, vì trước đó Heidi đã để ý chính xác mọi thứ xếp trong tủ, và em biết bữa ăn cần dọn những gì. – Chà, giỏi lắm! – Ông nói. – Ông vui thấy cháu có ý nghĩ riêng. – Ông nói lúc đặt lát pho mát nướng lên bánh mì, – nhưng vẫn còn thiếu một thứ. Bé Heidi nhìn cái bình bốc khói đầy mời mọc, và chạy nhanh lại tủ. Lúc đầu em chỉ thấy một cái bát nhỏ trên ngăn, nhưng em lúng túng không lâu vì chỉ lát sau đã tìm ra hai cái cốc ở phía sau, em mang tất cả đặt lên bàn. – Tốt, ông thấy cháu biết việc đấy, nhưng cháu lấy gì làm ghế nhỉ? Ông nội đang ngồi trên chiếc ghế duy nhất trong phòng. Heidi chạy như bay đến lò sưởi, kéo chiếc ghế ba chân đến bên bàn và ngồi lên đó. – Giỏi lắm, ông thấy cháu biết tự tìm ra ghế cho mình, nhưng e là ghế hơi thấp, song cháu có ngồi ghế của ông vẫn không đủ cao để với tới bàn. Việc đầu tiên bây giờ là ăn đã, rồi sẽ tính sau. Ông đứng dậy, rót đầy sữa vào bát và để lên ghế, đẩy cái ghế ra trước mặt Heidi, em đang ngồi trên chiếc ghế ba chân, thế là em có một chiếc bàn. Rồi ông đưa cho em lát to bánh mì, một miếng pho mát vàng nâu và bảo em ăn. Sau đó, ông ngồi lên góc bàn và bắt đầu ăn. Heidi nhấc cái bát bằng cả hai tay, uống một hơi hết sạch vì cơn khát sau một chuyến đi dài, nóng bức trở lại giày vò em. Rồi hít một hơi thật sâu – trong lúc uống cho đã khát, em không ngừng lại để thở – và đặt bát xuống. – Sữa ngon không? – Ông em hỏi. – Trước đây cháu chưa bao giờ uống thứ gì ngon như thế. – Bé Heidi trả lời. – Vậy cháu uống thêm ít nữa nhé! – Ông lão lại rót thêm bát nữa, đầy đến miệng và đặt trước mặt đứa bé lúc này bắt đầu ăn miếng bánh một cách thèm thuồng. Lần đầu tiên em được ăn bánh với pho mát nướng mềm như bơ. Hai thứ ăn cùng với nhau ngon tuyệt, chốc chốc em lại dừng, uống một ngụm sữa. Bữa ăn đã xong, ông nội ra ngoài dọn chuồng dê, trong lúc Heidi thích thú xem ông quét dọn, trải rơm mới cho dê nằm. Rồi ông vào gian nhà kho nhỏ, cắt mấy cái gậy tròn, dài và một tấm gỗ nhỏ hình tròn. Ông khoét mấy cái lỗ trên tấm gỗ và đóng mấy cây gậy vào, thế là như một phép màu, có ngay một cái ghế ba chân giống hệt của ông nội, chỉ cao hơn thôi. Heidi đứng và ngắm cái ghế, không nói nên lời vì kinh ngạc. – Cháu nghĩ đây là cái gì nào? – Ông nội em nói. – Cháu biết đây là ghế của cháu, vì cao thế kia mà! Ồ, ông làm nhoáng cái đã xong! – Cô bé nói, vẫn ngẩn ngơ vì thán phục. – Con bé hiểu ngay thứ nhìn thấy, mắt nó tinh lắm! – Ông nội thầm nhận xét trong lúc đi quanh lều, đóng đinh chỗ này, chỗ kia, hoặc chèn chặt phần cửa, ông mang búa và đinh đi hết chỗ này đến chỗ kia, sửa chữa, dọn dẹp những chỗ cần thiết. Bé Heidi theo ông từng bước, mắt em chăm chú tiếp nhận mọi việc ông làm, mọi thứ, và thấy đấy là nguồn vui thích mới mẻ. Thời gian trôi qua vui vẻ như thế cho đến chiều. Lúc đó, gió thổi qua đám linh sam ồn ào hơn. Heidi thích thú lắng nghe, lòng em tràn đầy niềm vui đến nỗi em nhảy nhót và xoay tròn quanh đám cổ thụ, dường như một niềm vui chưa từng biết đã đến với em. Ông nội từ gian nhà kho đứng ngắm em. Bỗng có tiếng huýt sáo lanh lảnh. Heidi ngừng nhảy múa, còn ông em ra ngoài. Đàn dê đang lao từ trên đỉnh cao xuống, con nọ nhảy sau con kia, Peter đi ở giữa. Heidi reo lên vui thích và len vào giữa đàn, chào từng con như những người bạn cũ. Lúc đến gần túp lều, chúng đứng lại, chỉ có hai con mảnh khảnh, xinh đẹp, một con trắng muốt, một con màu nâu lao thẳng đến chỗ ông nội và liếm bàn tay ông, vì ông nắm ít muối, luôn sẵn sàng cho chúng lúc về nhà. Peter biến ngay cùng đàn dê còn lại. Heidi nhẹ nhàng vuốt ve chúng, rồi nhảy nhót xung quanh, sung sướng vì những con vật xinh đẹp. – Dê nhà mình hở ông? Cả hai con là của nhà ta? Ông sắp nhốt chúng vào chuồng à? Lúc nào chúng nó cũng ở với mình hả ông? Heidi hỏi tới tấp hết câu này đến câu khác, làm ông nội chỉ đủ thời gian trả lời “ừ, ừ”. Lúc mấy con dê liếm hết muối, ông nội bảo em lấy bát và bánh mì. Heidi vâng lời và trở ra ngay. Ông vắt sữa con dê trắng vào đầy bát, rồi bẻ một miếng bánh mì. – Bây giờ cháu ăn bữa tối đi, – ông nói, – rồi đi ngủ. Dì Dete để lại cho cháu một bọc nhỏ, có áo ngủ với một số thứ lặt vặt, cháu sẽ thấy ở đáy tủ nếu cháu muốn. Ông phải đi đóng cửa chuồng dê, vậy cháu đi đi và ngủ ngon nhé. – Chúc ông ngủ ngon! Mà chúng tên là gì hở ông? – Em gọi lúc chạy theo ông đang cùng mấy con dê vào trong chuồng. – Con trắng tên là Thiên nga Bé, còn con nâu là Gấu Bé. – Ông trả lời. – Chúc ngủ ngon, Thiên nga Bé, Gấu Bé! – Em cao giọng gọi, vì chúng đã ở trong chuồng. Rồi ngồi xuống ghế, em bắt đầu ăn uống, nhưng gió mạnh đến suýt thổi bay em, làm em ăn vội cho xong và vào nhà, trèo lên giường. Em ngủ thiếp đi, say sưa và duyên dáng như bất cứ nàng công chúa bé bỏng nào trên chiếc giường nhung lụa. Một lát sau, trời hãy còn chạng vạng, ông em cũng đi nằm vì sáng nào ông cũng dậy sớm lúc mặt trời mọc, mà mặt trời trên núi trong những tháng hè mọc rất sớm. Ban đêm, gió càng thổi mạnh, giật thành từng cơn đập vào tường làm căn lều rung lên, những cái xà cũ kĩ rên rỉ và kêu cót két. Gió hú và rền rĩ qua ống khói như tiếng than vãn vì đau đớn, gió lồng lộn trong đám linh sam cổ thụ làm cành gãy và rơi xuống. Nửa đêm, ông già tỉnh dậy. “Con bé chắc sợ lắm”, ông lẩm bẩm. Ông trèo lên thang và đến đứng bên giường đứa cháu. Bên ngoài, trăng đang chống chọi với bóng tối, những đám mây bay nhanh, bầu trời sáng sủa và trong trẻo được một lát, rồi lại hết và tất cả lại tối đen. Chỉ đến lúc này, ánh trăng mới xuyên qua ô cửa sổ tròn, đổ thẳng vào giường bé Heidi. Em nằm dưới tấm khăn phủ dày, má em hồng lên trong giấc ngủ, mái đầu đặt yên bình lên cánh tay khoanh tròn, bộ mặt trẻ thơ đầy vẻ hạnh phúc, dường như em đang mơ thấy chuyện gì thú vị. Ông già cứ đứng, nhìn mãi đứa bé đang ngủ cho đến lúc mặt trăng lại biến sau đám mây và không thể trông thấy gì nữa, ông mới trở lại giường. Chương III RA NGOÀI VỚI ĐÀN DÊ S áng hôm sau, một tiếng huýt sáo thật to đánh thức bé Heidi dậy sớm. Mặt trời đang chiếu qua ô cửa sổ tròn, những tia nắng vàng đổ lên giường em và lên đống cỏ khô to tướng, lúc mở mắt em thấy mọi thứ trong vựa cỏ hình như đều lấp lánh vàng. Em nhìn quanh sửng sốt, trong giây lát không biết mình đang ở đâu. Nhưng nghe thấy tiếng nói trầm trầm của ông nội ở bên ngoài, Heidi nhớ lại mọi chuyện: em đã ở xa ngôi nhà cũ biết chừng nào, bây giờ em đang ở trên núi với ông nội thay cho ở với bà lão Ursula. Bà lão điếc đặc và lúc nào cũng kêu rét, nên suốt ngày bà ngồi bên bếp lò hoặc cạnh lò sưởi trong phòng khách, còn Heidi phải ở cạnh bà, vì bà lão điếc nên không biết đứa bé ở đâu nếu nó ở ngoài tầm nhìn. Heidi bị nhốt trong bốn bức tường, em thèm được ra ngoài vô cùng. Vì thế, sáng nay em rất vui lúc thức dậy trong căn nhà mới, nhớ lại những thứ mới mẻ đã thấy hôm trước và sẽ được thấy hôm nay, và em thích nhất là hai con dê yêu quý. Heidi nhảy khỏi giường thật nhanh và chỉ vài phút đã mặc xong quần áo cởi ra đêm qua, vì cũng chẳng lấy gì làm nhiều. Sau đó, em trèo xuống thang và chạy ra ngoài lều. Peter đã đứng đấy với bầy dê, còn ông nội đang đưa mấy con dê của nhà ra nhập đàn. Heidi chạy tới, chào ông và mấy con dê. – Cháu có muốn đi với chúng lên núi không? – Ông nội hỏi. Không gì làm Heidi vui hơn, em nhảy lên vì mừng. – Nhưng trước hết, cháu phải rửa ráy và sửa soạn cho gọn gàng. Mặt trời đang chiếu sáng trên đầu sẽ cười cháu nếu cháu bẩn thỉu, thấy không? Ông đã sắp các thứ cho cháu rồi đấy. – Nói xong, ông chỉ một bồn to đầy nước đặt bên cửa, tắm ánh mặt trời. Heidi chạy đến, té nước lên kì cọ cho đến lúc cả người đỏ lựng vì sạch sẽ. Trong lúc đó ông nội vào lều, gọi Peter mang túi dết của cậu theo. Peter ngạc nhiên vâng lời, cậu để cái túi dết nhỏ đựng bữa ăn đạm bạc của cậu xuống. – Mở túi ra! – Ông già nói rồi cho vào túi một khúc bánh mì to, một miếng pho mát to không kém làm Peter mở tròn mắt, vì thứ nào cũng lớn gấp đôi phần ăn thường ngày của cậu. – Này, mang thêm cái bát nhỏ này, vì con bé không thể bú sữa dê như cháu, nó không quen thế đâu. Lúc nó ăn, cháu phải vắt cho nó hai bát sữa đầy, vì nó sẽ đi cùng cháu và ở lại cho đến chiều mới về. Cháu phải chú ý đến nó, đừng để nó ngã lộn cổ lên đá, nghe chưa? Lúc này Heidi chạy vào: – Bây giờ mặt trời có cười cháu không, ông? – Em lo lắng hỏi. Ông em đã treo sẵn một cái khăn mặt khô cho em gần bồn tắm, và em dùng khăn chà xát mặt, cánh tay, cổ rất kĩ vì sợ mặt trời cười nhạo. Em đứng đó, cả người đỏ hồng như con tôm luộc. Ông em khẽ cười. – Không, bây giờ ông mặt trời chẳng cười đâu. – Ông an ủi cô bé. – Nhưng ông dặn này, chiều nay lúc về đến nhà, cháu phải lội hẳn vào bồn tắm như một con cá, vì cháu chạy khắp đó đây như một con dê, chân cháu sẽ rất bẩn. Bây giờ thì đi đi! Heidi sung sướng, khởi hành lên núi. Ban đêm, gió đã cuốn hết mây đi, bầu trời xanh thẳm trải rộng trên đầu, mặt trời chiếu rực rỡ xuống các con đường núi xanh tươi, hoa nở thành những cái chén xinh xắn màu xanh lơ và vàng óng, chúng ngước nhìn lên trời và mỉm cười. Bé Heidi chạy đây chạy đó, hò reo vui thích, vì ở đây có từng vạt hoa anh thảo thanh tú màu đỏ, hoa long đởm màu xanh lơ lấp lánh rất đẹp, bên trên đầu là những bông hồng núi vàng óng, lá mềm, đang gật gù cười. Mê mẩn cánh đồng hoa rực rỡ sắc màu, bé Heidi quên cả Peter lẫn đàn dê. Em chạy loăng quăng hết chỗ này đến chỗ kia, theo đường này đến đường khác lúc bắt gặp những nơi lấp lánh màu đỏ và vàng. Chỉ thoáng chốc, Heidi đã hái hoa đầy tay và cho vào chiếc tạp dề xinh xắn, vì em muốn mang về nhà, cắm vào cỏ khô làm cho giường em trông giống thảm cỏ đầy hoa bên ngoài. Peter phải luôn cảnh giác, cặp mắt tròn của cậu không chuyển động quá nhanh đã phải làm việc nhiều hơn bình thường vì đàn dê nghịch ngợm chẳng kém Heidi, chúng chạy tứ tung làm Peter phải chạy theo, vừa huýt sáo vừa vung gậy dồn chúng lại. – Em ở đâu thế, Heidi? – Cậu cáu kỉnh gọi to. – Ở đây! – Một giọng từ đâu đó đáp lại. Peter chẳng nhìn thấy ai, vì bé Heidi đang ngồi trên mặt đất, dưới chân quả đồi nhỏ mọc dày đặc cỏ tươi tỏa mùi ngọt ngào. Dường như toàn bộ không gian đầy ắp hương thơm, và Heidi thấy chưa bao giờ em được ngửi một mùi mát lành đến thế. Em ngồi, xung quanh toàn hoa là hoa, em hít những hơi thật dài làn không khí thơm tho. – Lại đây! – Peter lại gọi, – cẩn thận không lại vấp phải đá đấy, ông đã dặn thế. – Đá ở đâu ạ? – Heidi hỏi để trả lời. Nhưng em vẫn không rời chỗ, vì mỗi làn gió thổi tới dường như làm cho mùi hoa càng thơm ngọt ngào hơn. – Lên đây, lên trên này đi! Chúng ta còn phải đi một quãng dài, lên đây đi! Trên đỉnh cao nhất có một con chim săn mồi già đang đậu và kêu quàng quạc. Đúng thế thật. Bé Heidi bật dậy và chạy lên chỗ Peter, tạp dề của em đầy hoa. – Đủ rồi đấy! – Peter nói lúc các em lại trèo cùng nhau. – Em sẽ ở lại đây mãi nếu cứ mải hái hoa, với lại bây giờ mà hái hết hoa thì ngày mai chẳng còn bông nào. Lý lẽ cuối cùng này đã thuyết phục được Heidi, hơn nữa tạp dề của bé đã đầy ắp, chẳng còn chỗ nào mà đựng, và chẳng bao giờ nên vặt trụi, chẳng để lại gì cho ngày hôm sau. Thế là em đuổi kịp Peter, đàn dê cũng trật tự hơn vì chúng bắt đầu ngửi thấy mùi cây cối chúng thích, mọc trên những đường dốc cao hơn và chúng mải miết trèo không dừng lại. Nơi Peter thường thả cho dê gặm cỏ ở ngay chân các tảng đá cao, phủ kín những bụi cây và cây linh sam. Phía đằng xa, nhô lên những đỉnh núi trơ trụi và lởm chởm. Ở bên sườn núi, đá nứt thành một khe sâu, rất nguy hiểm mà Bác Alm đã cảnh báo cho Peter. Trèo lên đến chỗ dừng chân, Peter tháo túi dết và cẩn thận để vào một cái hốc nhỏ, vì cậu biết gió trên này mạnh như thế nào rồi, và không muốn nhìn thấy “của nả quý giá” của cậu bị một cơn gió bất ngờ cuốn lăn tròn xuống núi. Sau đó, cậu nằm thẳng cẳng trên mặt đất ấm áp vì đã mệt sau mọi cố gắng. Trong lúc đó, bé Heidi cởi tạp dề và cẩn thận cuốn tròn quanh những hông hoa, để xuống hố cạnh túi dết của Peter, rồi em ngồi xuống cạnh thân hình duỗi dài của Peter và nhìn quanh. Thung lũng bên dưới tắm ánh mặt trời. Trước mắt em, nhô lên một cánh đồng tuyết[1] cao, nổi bật trên nền trời xanh thẳm, bên trái là một đống đá khổng lồ ở sườn bên kia của đỉnh núi cao ngất, trơ trụi, dường như xuyên thủng bầu trời, đang nhìn xuống em, cau có. Cô bé ngồi không nhúc nhích, mắt em như muốn nuốt lấy toàn bộ phong cảnh. Xung quanh tĩnh lặng tuyệt vời, chỉ có những luồng gió nhẹ lay động, đung đưa những bông hoa chuông nhỏ màu xanh lơ, chiếu ánh vàng rực lên các bông hồng núi, làm chúng gật gù vui vẻ trên những cái cuống mảnh dẻ. Peter đã ngủ thiếp đi sau công việc vất vả, còn đàn dê nhảy len vào các bụi cây bên trên. Trong đời, bé Heidi chưa bao giờ thấy vui như thế. Em thấm đẫm ánh nắng vàng rực, không khí trong lành, mùi hoa ngọt ngào, và chẳng ước gì hơn là được ở đây mãi mãi. Thời gian cứ thế trôi đi. Trước kia Heidi ở dưới thung lũng, thường phải ngước nhìn những quả núi bên trên, nhưng lúc này, những quả núi ấy dường như có mặt mũi, đang nhìn xuống em như những người bạn cũ. Bỗng có một tiếng kêu to, khàn khàn ở trên đầu, Heidi ngước nhìn và thấy một con chim to chưa từng thấy, đôi cánh lớn dang rộng đang lượn thành nhiều vòng tròn và thốt ra những âm thanh chói tai, khó chịu. – Peter, anh Peter, dậy đi! – Bé Heidi gọi to. – Nhìn này, có con chim to tướng, anh nhìn kìa! Peter thức giấc khi nghe tiếng gọi, rồi cả hai cùng ngồi ngắm con chim mỗi lúc một bay cao hơn, cao hơn mãi cho đến lúc mất hút sau những đỉnh núi màu xám. – Nó bay đi đâu thế? – Bé Heidi hỏi, em chăm chú theo dõi chuyển động của con chim. – Về nhà, tổ của nó. – Peter nói. – Nó có nhà ở tít trên kia à? Chà, lên cao chắc thích lắm! Sao nó cứ kêu như thế nhỉ? – Vì nó không thể làm khác. – Peter giải thích. – Chúng mình trèo lên đấy xem tổ của nó đi! – Bé Heidi nói. – Này, này, này! – Peter kêu lên, không đồng ý với lời gợi ý của Heidi. – Ngay cả dê cũng không trèo cao được đến thế, hơn nữa Bác Alm đã chẳng dặn em cẩn thận kẻo bị ngã lộn nhào xuống núi đấy! Peter bắt đầu huýt sáo và gọi thật to, to đến mức Heidi không tưởng tượng nổi. Nhưng rõ ràng đàn dê rất hiểu tiếng cậu, vì con nọ tiếp con kia nhảy xuống cho đến lúc tụ tập đầy đủ trên bãi bằng phẳng xanh tươi. Một vài con vẫn tiếp tục gặm thân cây ngọt ngào, vài con nhảy nhót đó đây, chen lấn và húc nhau để tiêu khiển. Heidi nhảy bật lên và chạy tới chạy lui vào giữa chúng, thấy đàn dê chơi đùa như thế này là chuyện mới với em. Được nhập bọn với đàn dê, Heidi vô cùng thích thú. Em lần lượt làm quen với từng con, vì mỗi con có tính nết và cách hành xử riêng. Trong lúc đó, Peter lấy túi dết ra và bày bánh mì, pho mát lên mặt đất thành hình vuông. Hai miếng to hơn về phía Heidi, hai miếng nhỏ hơn về phía cậu, vì cậu biết chính xác những gì của Heidi, những gì của cậu. Sau đó, cậu cầm cái bát nhỏ, vắt ít sữa tươi của con dê trắng, rồi đặt bát vào giữa hình vuông. Xong xuôi, cậu gọi Heidi tới, nhưng phải gọi em nhiều hơn lũ dê, vì em đang thích thú nhảy lò cò và những trò vui vẻ của các bạn chơi mới đến nỗi em chẳng nhìn, chẳng nghe thấy gì. Nhưng Peter biết cách để Heidi nghe thấy tiếng cậu, cậu gọi cho đến lúc các tảng đá bên trên vọng lại tiếng nói của cậu. Cuối cùng, Heidi xuất hiện và thấy bữa ăn đầy mời mọc bày trên mặt đất, em nhảy quanh vì thích thú. – Đừng nhảy nữa, đến giờ ăn trưa rồi! – Peter nói. – Ngồi xuống và ăn đi! Bé Heidi ngồi xuống. – Sữa của em đây à? – Em hỏi và hài lòng vì cách bày biện đẹp đẽ, bát sữa như một vật trang trí chính ở giữa. – Ừ! – Peter đáp. – Hai miếng bánh mì và pho mát to cũng là của em. Lúc nào uống hết, em sẽ có thêm một bát đầy sữa con dê trắng nữa, rồi sau mới đến lượt tôi. – Anh uống sữa con nào? – Heidi hỏi. – Con dê đốm của nhà tôi. Nhưng ăn đi chứ! – Peter nói, nhắc Heidi đã đến giờ ăn. Heidi cầm bát sữa uống một hơi, và em vừa đặt cái bát không xuống, Peter đã đứng dậy vắt cho em bát khác. Heidi bẻ một miếng bánh mì, rồi đưa chỗ còn lại, còn to hơn cả phần của Peter, với nguyên cả miếng pho mát cho cậu. Em nói: – Anh ăn đi, em có nhiều rồi. Peter nhìn Heidi, cậu không nói được vì sửng sốt. Trong đời cậu chưa bao giờ nói hoặc làm như thế. Cậu ngập ngừng giây lát, không tin Heidi nói thật, nhưng Heidi vẫn giơ miếng bánh mì và pho mát ra. Thấy Peter không cầm, em để lên đầu gối cậu. Lúc đó, Peter mới biết Heidi nói thực lòng, cậu cầm lấy thức ăn, gật đầu cảm ơn và nhận, rồi ăn một bữa ngon lành chưa từng có kể từ ngày cậu là người chăn dê. Trong lúc đó, Heidi vẫn tiếp tục ngắm đàn dê. – Anh cho em biết tên chúng đi. – Heidi nói. Peter biết rõ từng con, nhớ từng tí một, nên cậu thuật lại không khó khăn gì. Cậu lần lượt chỉ và nói tên từng con. Heidi say sưa lắng nghe, và chẳng mấy chốc em đã có thể phân biệt được và gọi tên từng con một, vì mỗi con có những đặc điểm riêng không dễ nhầm lẫn, chỉ cần quan sát thật kĩ. Con Great Turk có cặp sừng to, lúc nào cũng muốn húc con khác, vì thế hầu hết đàn dê chạy dạt ra lúc thấy nó đi tới vì không muốn bị người bạn thô lỗ này gây chuyện. Chỉ có con Greenfinch, con dê nhỏ nhanh nhẹn, mảnh dẻ là đủ gan góc đương đầu, dám lao vào nó ba, bốn lần liên tiếp, nhanh nhẹn và khéo léo đến mức con Turk to lớn đứng ngây ra, không dám tấn công lần nữa, vì Greenfinch đứng trước mặt nó, sẵn sàng như một chiến binh, mà sừng nó lại sắc. Kia là con Bạch Tuyết kêu be be nghe ai oán và van lơn làm bé Heidi phải mấy lần chạy đến, ôm lấy đầu nó, an ủi. Lúc này con dê non lại kêu năn nỉ, Heidi chạy tới, vòng tay ôm cổ con vật bé bỏng và hỏi, giọng thông cảm: – Sao thế Bạch Tuyết? Sao mày cứ kêu thảm thiết thế? Con dê nép sát vào Heidi vẻ tin cậy và thôi kêu be be. Peter nói to từ chỗ cậu đang ngồi, vì cậu vẫn chưa ăn xong chỗ bánh mì và pho mát: – Nó kêu như thế vì con dê già không đi cùng, nó đã bị bán ở Mayenfeld hôm kia, vì thế không lên núi nữa. – Con dê già nào kia? – Heidi hét lại. – Tất nhiên là mẹ con Bạch Tuyết. – Peter đáp. – Thế bà nó đâu?- Heidi lại hét to. – Không có. – Còn ông nó? – Cũng không có. – Chao ôi, khổ thân Bạch Tuyết bé bỏng! – Heidi vừa nói vừa nhẹ nhàng ghì con vật sát vào em. – Đừng kêu thế nữa, ngày nào tao cũng lên đây với mày, mày sẽ không còn lẻ loi nữa, nếu mày muốn gì cứ đến chỗ tao nhé. Con dê non hài lòng dụi dụi đầu vào vai Heidi, và không kêu lên những tiếng be be ai oán nữa. Peter đã ăn xong bữa, cậu đến nhập bọn với Heidi và đàn dê. Lúc này Heidi đã phát hiện ra nhiều thứ về chúng. Em dứt khoát cho rằng hai con dê của ông nội em là đẹp nhất và ngoan nhất. Chúng cư xử rất khá, theo cách của riêng chúng. Với con Turk to lớn, chúng tỏ ra thờ ơ và coi thường. Đàn dê lại bắt đầu nhảy nhót trên các phiến đá, mỗi con tìm loại cây nó thích, một số con bỏ qua mọi thứ chúng gặp, cho đến lúc tìm ra thứ chúng muốn, những con khác cẩn thận hơn, ăn tất những lá cây ngon lành dọc đường, còn con Great Turk thỉnh thoảng lại húc con khác một cái. Thiên nga Bé và Gấu Bé nhanh nhẹn trèo lên và bao giờ cũng tìm được những bụi cây ngon nhất, chúng đứng duyên dáng trên những cái chân mảnh dẻ, thong dong gặm lá. Heidi đứng, tay chắp sau lưng, chăm chú theo dõi mọi việc chúng làm. – Anh Peter, – Heidi nói với cậu bé lại nằm dài trên đất, – đẹp nhất đàn là con Thiên nga Bé và Gấu Bé. – Ừ, biết rồi, – Peter đáp, – Bác Alm chải lông, tắm, cho chúng ăn muối, lại còn làm chuồng tốt nhất cho chúng nữa. Bỗng Peter nhảy phắt lên và vội vã chạy theo đàn dê. Heidi cố hết sức chạy theo, háo hức muốn biết xảy ra chuyện gì. Peter lao vào giữa đàn, xông thẳng đến bên sườn núi, nơi những tảng đá dựng đứng thành một vực thẳm lớn, bất cứ con dê bất cẩn nào đến gần cũng có thể ngã lộn nhào và gãy chân như bỡn. Cậu đã thấy con Greenfinch tò mò nhảy về phía đó, và cậu đến đúng lúc con vật đã nhảy đến bên mép vực. Peter chỉ kịp bổ nhào xuống và nắm lấy chân sau con vật. Greenfinch sửng sốt, kêu be be cáu kỉnh, giận dữ vì bị tóm chặt và ngăn cản cuộc thám hiểm. Nó vùng vẫy để thoát, ráng sức lao về phía trước đến nỗi Peter phải hét lên, gọi Heidi đến giúp vì cậu không thể đứng dậy được và sợ kéo gãy chân con vật. Bé Heidi chạy đến và thấy ngay mối nguy hiểm cho cả Peter lẫn con dê. Em vội vơ một nắm lá có mùi thơm ngọt và giơ ra trước mũi Greenfinch, dỗ dành: – Lại đây Greenfinch, lại đây, đừng hư thế! Xem này, mày có thể ngã xuống dưới và gãy chân, đau lắm đấy! Con dê non quay nhanh lại, thích thú rứt lá trong tay Heidi. Trong lúc đó, Peter đứng dậy và túm lấy một bên vòng cổ đeo chuông của con vật, Heidi nắm bên kia, cả hai dắt nó trở lại với đàn vẫn đang ăn ngon lành. Thấy con vật đã an toàn, Peter giơ gậy lên định cho nó một trận trừng phạt, con Greenfinch rúm lại vì sợ. Nhưng Heidi kêu lên: – Đừng, đừng, anh Peter, anh không được đánh nó, anh xem nó sợ thế nào kìa! – Nó đáng thế lắm! – Peter càu nhàu và lại giơ gậy lên. Heidi lao tới giữ cậu và phẫn nộ kêu lớn: – Anh không có quyền chạm vào nó, không được làm nó đau. Hãy để mặc nó đấy! Peter ngạc nhiên vì cô bé chỉ huy, cặp mắt đen của Heidi sáng lóe làm cậu miễn cưỡng hạ gậy xuống. – Tôi sẽ tha cho nó, nếu ngày mai em cho tôi thêm ít pho mát nữa. – Cậu nói, quyết phải có cái gì đền bù cho sự hoảng sợ của cậu. – Anh sẽ có pho mát, ngày mai và ngày nào cũng có, em không muốn ăn đâu. – Bé Heidi đáp, sẵn lòng thỏa mãn yêu cầu của Peter. – Em sẽ cho anh cả bánh mì nữa, một miếng to tướng như hôm nay ấy, nhưng anh phải hứa không bao giờ đánh Greenfinch, Bạch Tuyết hay bất cứ con dê nào. – Được thôi! – Peter nói. – Tôi không phản đối. Vậy có nghĩa là cậu đã thỏa thuận cuộc mặc cả. Lúc cậu tha cho Greenfinch, nó sung sướng lao vào nhập đàn. Ngày cứ trôi qua như thế cho đến lúc gần tàn, lúc này mặt trời đang chìm sau dãy núi cao. Heidi lại ngồi trên mặt đất, lặng lẽ ngắm nhìn những bông hoa chuông màu xanh lơ lấp lánh trong ánh trời chiều, vì ánh sáng vàng rực đang trải khắp lớp cỏ và lên những bông hoa, còn những tảng đá bên trên cũng bắt đầu sáng rực và lấp lánh. Heidi nhảy dựng lên: – Peter! Anh Peter! Tất cả đang cháy này! Cả núi đá, cả núi tuyết to tướng và bầu trời đang cháy! Anh nhìn xem, nhìn kìa! Tảng đá trên cao kia đỏ rực vì lửa kìa! Ôi đẹp quá, tuyết bốc lửa! Đứng dậy đi Peter! Nhìn kìa, lửa đến tận tổ con chim khổng lồ, nhìn những tảng đá kìa! Nhìn các cây linh sam nữa! Tất cả, tất cả đang cháy rực lên kìa! – Bao giờ chẳng thế, – Peter bình tĩnh nói, cậu vẫn tiếp tục lột vỏ cây gậy, – nhưng không phải là lửa thực đâu. – Thế thì là cái gì? – Heidi kêu lên lúc em chạy tới chạy lui nhìn hết bên này đến bên kia, vì em cảm thấy không thể nhìn hết cảnh tượng đẹp tuyệt vời ấy. – Là cái gì hở, anh Peter? – Em nhắc lại. – Nó giống như chính nó thôi. – Peter giải thích. – Nhìn kìa, nhìn xem kìa! – Heidi hào hứng kêu lên – Bây giờ tất cả biến thành màu hồng! Nhìn những tảng đá nhọn hoắt, ở trên cao, phủ tuyết kia kìa! Anh gọi tên chúng là gì? – Núi không có tên đâu! – Peter trả lời. – Đẹp quá, tuyết có màu đỏ thắm! Trên các tảng đá cao chót vót kia kìa, như có bao nhiêu là hoa hồng! Ơ kìa! Bây giờ tất cả lại thành màu xám! Ơ, bây giờ mất hết các màu kìa, Peter! – Heidi ngồi trên đất nhìn, chán ngán như thể mọi sự sắp đến hồi kết thúc. – Ngày mai lại thế mà! – Peter nói. – Đứng dậy đi, bây giờ phải về nhà thôi. Cậu huýt sáo gọi bầy dê rồi tất cả lên đường về nhà. – Ngày nào cũng thế hở anh? Ngày nào chăn dê lên đây, chúng ta cũng sẽ nhìn thấy thế à? – Heidi hỏi lúc đi cạnh Peter xuống núi. Em háo hức đợi câu trả lời, mong Peter sẽ bảo em là sẽ như thế. – Nó giống thế trong phần lớn các ngày thôi. – Cậu nhắc lại. – Nhưng ngày mai thì nhất định chứ? – Heidi khăng khăng. – Ừ, ừ, mai thì nhất định rồi. – Peter đáp lại, quả quyết. Lúc này Heidi lại thấy vui, đầu óc thơ dại của em đầy những ấn tượng và ý nghĩ mới mẻ, đến mức em không nói được gì hơn cho đến lúc về đến túp lều. Ông nội em đang ngồi dưới gốc cây linh sam, nơi ông để sẵn chiếc ghế, đợi lũ dê của ông từ triền núi trở về. Heidi chạy tới với ông, con dê trắng và nâu theo sau vì chúng nhận biết chủ và chuồng. Peter gọi với theo em: – Ngày mai lại đi nhé! Chúc em ngủ ngon! – Cậu lo vì lí do nào đấy, hôm sau Heidi không đi cùng nữa. Heidi chạy trở lại rất nhanh và đưa tay ra cho Peter, hứa sẽ đi cùng cậu, rồi len vào hai con dê, em ôm ghì cổ con Bạch Tuyết, nói dịu dàng: – Ngủ ngon nhé, Bạch Tuyết, nhớ là ngày mai tao sẽ đi cùng, nhưng đừng có kêu be be buồn rầu như thế nữa. Bạch Tuyết nhìn em, cái nhìn thân thiện và cảm kích rồi vui sướng nhảy theo con dê kia. Heidi trở lại chỗ cây linh sam: – Ông ơi, – chưa đến nơi, em đã gọi toáng lên, – đẹp quá ông ạ! Lửa này, những bông hồng trên đá này, bao nhiêu là hoa màu xanh lơ và vàng nữa này, ông nhìn xem cháu mang gì về cho ông này! – Heidi mở cái tạp dề và giũ những bông hoa xuống bên chân ông nội. Nhưng những bông hoa tội nghiệp đã biến đổi biết chừng nào! Heidi không thể nhận ra được nữa. Trông chúng như những mẩu cỏ khô, không một đài hoa bé bỏng nào ngóc lên nổi. – Ôi ông ơi, chúng nó làm sao thế? – Heidi ngạc nhiên, kêu lên sửng sốt. – Chúng nó chẳng giống sáng nay, sao bây giờ trông lại thế này? – Chúng thích đứng dưới ánh mặt trời, chứ không thích bị quấn trong tạp dề. – Ông nói. – Thế thì cháu sẽ không bao giờ hái hoa nữa. Nhưng ông ơi, sao con chim to tướng ấy cứ rền rĩ như thế hở ông? – Em vẫn hỏi, giọng băn khoăn. – Giờ cháu đi tắm đi, trong lúc ông đi vắt ít sữa. Lúc ông cháu ta ăn tối, ông sẽ kể cho cháu nghe. Heidi vâng lời, và lúc em ngồi trên chiếc ghế cao trước bát sữa, cạnh ông nội, em nhắc lại câu hỏi: – Sao con chim to tướng ấy cứ rền rĩ và gào rú lên với chúng cháu, hở ông? – Nó chế nhạo tất cả những người sống ở bên dưới, trong các làng mạc, vì tất cả sống chen chúc và nói chuyện ngồi lê đôi mách, người nọ khuyến khích người kia nói năng và hành động xấu xa. Nó kêu to lên rằng: “Nếu các người tách nhau ra, ai đi đường nấy và lên đây, sống trên cao này như ta, có phải tốt hơn không!” Trong giọng nói của ông lão, có một cái gì đó hung dữ làm Heidi như nghe thấy tiếng kêu buồn thảm của con chim, thậm chí còn rõ ràng hơn nữa. – Sao núi lại không có tên hở ông? – Heidi tiếp tục căn vặn. – Chúng có tên chứ, – ông nội em trả lời, – nếu cháu tả cho ông nghe ngọn núi ấy như thế nào, ông sẽ bảo cháu nó tên là gì. Heidi tả cho ông em ngọn núi lởm chởm có hai đỉnh cao chính xác đến nỗi ông em rất hài lòng. – Vậy thì ông biết. – Rồi ông nói tên núi đó. – Cháu còn thấy gì nữa? Heidi bèn kể lại cho ông em về ngọn núi có bãi tuyết rộng cháy rực lên ra sao, rồi biến thành màu đỏ, hồng, sau đó tất cả nhợt đi rồi các màu biến mất. – Ta cũng biết ngọn núi đó! – Ông nói tên ngọn núi. – Vậy là cháu thích ra ngoài cùng bầy dê? Đáp lại, Heidi kể cho ông nội nghe em đã vui sướng ra sao suốt cả ngày, đặc biệt là lúc em tả lửa cháy ở khắp mọi chỗ lúc chiều xuống. Ông em nói mọi thứ cho em nghe, chứ Peter chẳng biết tí gì. Ông nội giải thích cho em rằng mặt trời đã làm nên thế đấy. – Lúc mặt trời chào tạm biệt các ngọn núi, nó phủ lên núi các màu sắc đẹp đẽ, để núi không quên rằng ngày hôm sau, mặt trời lại đến. Heidi rất thỏa mãn, và em nóng lòng mong đến ngày hôm sau lại được lên núi với đàn dê và xem mặt trời tạm biệt các ngọn núi. Nhưng trước tiên, em phải đi ngủ đã, và em đã ngủ ngon lành trên chiếc giường cỏ khô, chẳng mơ gì ngoài những ngọn núi rực sáng, phủ đầy những bông hồng và con Bạch Tuyết vui sướng nhảy nhót giữa đám hoa ấy. Chương IV ĐI THĂM BÀ S áng hôm sau, từ sớm mặt trời đã rực rỡ chưa từng thấy, lúc Peter xuất hiện cùng bầy dê. Hai đứa trẻ cùng leo lên bãi cỏ trên cao. Ngày lại trôi đi như thế. Sống giữa cỏ hoa, bé Heidi cháy nắng đen nhẻm, khỏe khoắn và tươi vui như chưa từng ốm o bao giờ. Em sung sướng vì hết ngày này sang ngày khác được sống tự do và thoải mái như những con chim nhỏ làm tổ giữa đám cây rừng xanh tươi. Rồi mùa thu đến, gió thổi mỗi lúc một to và mạnh lên, thỉnh thoảng ông em nói: – Hôm nay cháu phải ở nhà, Heidi ạ. Cơn gió mạnh bất ngờ sẽ thổi một sinh linh bé bỏng như cháu bay vù qua núi xuống thung lũng trong chớp mắt. Mỗi lần nghe thấy thế, Peter lại phải đi một mình, trông cậu ỉu xìu vì cậu chỉ thấy mọi điều rủi ro và không biết sẽ chịu đựng cả ngày dài dằng dặc không có Heidi ra sao. Rồi thiếu cả bữa ăn ngon lành, bầy dê lại nghịch ngợm và hư đốn làm cậu phải vất vả gấp đôi, vì chúng đã quen với sự có mặt của Heidi đến mức cứ chạy tứ tung và không chịu dồn lại, trừ khi có Heidi đi cùng. Bé Heidi thì chẳng bao giờ buồn, vì ở bất cứ nơi đâu em cũng tìm ra một thứ gì đó thú vị hoặc vui sướng. Thực ra, em thích nhất là lên núi cùng Peter, đến chỗ đầy hoa tươi và con chim khổng lồ. Ở đấy có bao nhiêu thứ để nhìn ngắm, trải qua bao thứ cùng bầy dê, mỗi con một tính khác nhau. Song ở nhà, em cũng được thấy ông nội đóng đinh, cưa xẻ, làm đồ mộc hết sức say sưa, xem ông làm bánh pho mát to, tròn bằng sữa dê. Em thích thú ngắm nghía công trình tuyệt diệu đó và quan sát ông nội, tay áo xắn cao, dùng cánh tay trần khuấy cái vạc lớn. Tuy nhiên, điều lôi cuốn em nhất là trong những ngày lộng gió, ba cây linh sam già uốn lượn, đung đưa và gầm rống. Nhiều lần, em bỏ dở việc đang làm để lắng nghe, vì không gì lạ lùng và kì diệu bằng những âm thanh bí ẩn, sâu xa trong các ngọn cây. Em đứng dưới gốc và ngước nhìn lên, không sao dứt ra được, em ngắm nhìn và lắng nghe trong lúc chúng gật gù, đu đưa và gầm rú khi ngọn gió hung hãn ào qua. Dạo này không còn mặt trời rạng rỡ, ấm áp chiếu sáng trong suốt mùa hè nữa, nên Heidi phải lục trong tủ và mỗi lần ra ngoài, em phải đi giày, đi bít tất và ăn mặc cẩn thận vì mỗi ngày trời càng lạnh hơn. Lúc Heidi đứng dưới cây linh sam, gió thổi qua em như thể em là chiếc lá mỏng manh, nhưng em không thể ngồi ru rú trong nhà lúc nghe thấy tiếng cành cây đu đưa bên ngoài. Rồi tiết trời trở nên rất lạnh, và lúc sáng sớm Peter đến vừa đi vừa thổi vào ngón tay cho ấm. Nhưng ít lâu sau, cậu không đến nữa vì một đêm kia tuyết rơi dày và sáng hôm sau, tuyết phủ kín dãy núi, không nhìn thấy một cái lá xanh ở bất cứ nơi nào. Hôm đó Peter không đến, Heidi đứng cạnh cửa sổ nhỏ, thích thú nhìn ra ngoài vì tuyết lại rơi, những bông tuyết dày rơi mãi, cho đến lúc tuyết ngập đến cửa sổ mà vẫn cứ rơi. Lớp tuyết ngày càng cao hơn, cuối cùng không sao mở được cửa sổ, Heidi và ông em phải giam mình trong lều. Heidi thấy thế thích lắm, em chạy từ cửa sổ này sang cửa sổ khác xem có chuyện gì, vì tuyết phủ kín túp lều nên hai ông cháu phải thắp đèn dù đang là ban ngày. Nhưng mọi sự không đến nỗi quá tệ. Ngày hôm sau tuyết ngừng rơi, ông nội ra ngoài dùng xẻng xúc tuyết quanh lều và hất thành nhiều đống to tướng, trông như những quả núi giữa các khoảng trống bên cạnh lều. Thật tốt biết bao vì lúc này có thể mở được cửa ra vào và cửa sổ. Một chiều kia, Heidi và ông đang ngồi trên ghế ba chân trước lò sưởi thì có tiếng giậm mạnh bên cửa, tiếp đó là vài tiếng nữa và cửa bật mở. Chính Peter đã tạo nên các âm thanh đó lúc giậm mạnh giày để giũ tuyết. Cả người cậu trắng toát vì suốt dọc đường, Peter đã bị lún sâu trong tuyết và tuyết bám vào quần áo cậu đóng thành băng. Tuy vậy, cậu quyết không nản chí và trèo lên đến tận túp lều vì đã một tuần nay, cậu không gặp được Heidi. – Xin chào! – Peter nói lúc bước vào. Cậu đến ngồi gần lò sưởi, không nói thêm lời nào, gương mặt cậu sáng lên vui thích. Bé Heidi nhìn cậu sửng sốt, vì hơi ấm bắt đầu làm tuyết trên người Peter tan chảy, trông cậu như một dòng thác nhỏ giọt. – Thế nào đại tướng, công việc ra sao rồi? – Ông già nói. – Bây giờ mất hết quân sĩ, cậu lại trở về với bút mực chắc? – Sao anh ấy lại phải về với bút mực ạ? – Heidi hỏi ngay, hết sức tò mò. – Mùa đông, Peter phải đến trường để học đọc học viết, – ông nội giải thích, – việc ấy rất vất vả dù có ích. Có đúng không, đại tướng? – Vâng, đúng thế thật! – Peter tán thành. Lúc này mọi sự quan tâm của Heidi mới trỗi dậy, cô bé hỏi Peter dồn dập về mọi thứ, cậu đã làm những gì, nhìn thấy gì, nghe thấy gì ở trường. Câu chuyện lâu đến mức Peter có đủ thời gian đến khô cả người. Peter thường rất khó khăn trong việc diễn đạt ý nghĩ thành lời, hôm nay cậu thấy khó gấp đôi vì cậu vừa trả lời được một câu, Heidi đã hỏi tiếp hai, ba câu và nói chung, câu nào cũng buộc cậu phải trả lời dài dòng. Trong lúc các em trò chuyện, ông già ngồi không nói lời nào, chỉ thỉnh thoảng nhếch mép cười thích thú, chứng tỏ ông vẫn lắng nghe. – Này đại tướng, cậu đã được sưởi khô và chắc muốn có cái gì ấm bụng. Đến với ông cháu ta nào! – Ông già nói lúc đứng dậy và tìm bữa trong tủ, còn Heidi đẩy ghế đến bên bàn. Hồi này chiếc ghế dài buộc áp vào tường vì ông lão không còn để ngoài nữa, và đủ chỗ cho hai người vì Heidi lúc nào cũng muốn ở gần ông, dù ông đang đi, ngồi hoặc đứng. Vì thế cả ba người rất thoải mái, và Peter mở tròn mắt khi thấy Bác Alm để một miếng thịt to tướng lên lát bánh mì dày cho cậu. Đã lâu, Peter chưa được ăn thứ gì ngon lành. Bữa ăn vừa xong, Peter chuẩn bị về nhà vì trời sắp tối. Cậu chào và cảm ơn. Lúc vừa ra ngoài, cậu quay lại lần nữa và nói: – Chủ nhật sau tôi sẽ đến, bà tôi dặn hôm nào Heidi đến chơi với bà. Đến thăm một người nào đó là ý nghĩ hoàn toàn mới mẻ với Heidi và em không xua được ra khỏi đầu. Ngày hôm sau, câu đầu tiên em nói với ông là: – Hôm nay cháu phải xuống núi gặp bà của Peter. Bà đang đợi cháu. – Tuyết dày quá, – ông em trả lời, cố ngăn em. Nhưng Heidi đã quyết, vì bà đã nhắn em thế. Em luẩn quẩn với ý định ấy và mỗi ngày trôi qua, em nói với ông nội tới năm, sáu lần: – Hôm nay chắc cháu phải đi, bà đang đợi cháu. Đến ngày thứ tư, mỗi bước đi là mặt đất đông giá lại kêu lách tách và cả cánh đồng tuyết mênh mông cứng lại thành băng. Heidi ngồi trên chiếc ghế cao ăn trưa. Mặt trời rạng rỡ lọt qua cửa sổ chiếu lên người em, em nhắc lại: – Hôm nay cháu phải đi thăm bà, kẻo bà đợi lâu quá. Ông em đứng dậy, trèo lên vựa cỏ và lấy xuống cái bao dày làm khăn phủ giường cho Heidi và nói: – Thì đi nào! Cô bé nhảy chân sáo vì mừng, theo sau ông trong vạn vật lấp lánh tuyết. Lúc này những cây linh sam già đứng lặng ngắt, cành phủ đầy tuyết trắng tinh, lấp lánh và sáng ngời trong ánh mặt trời, đáng yêu đến nỗi Heidi nhảy lên vì vui lúc nhìn thấy và reo to: – Ông ơi, lại đây, lại đây! Cây linh sam toàn vàng và bạc thôi! Ông nội đã vào trong kho và lúc này bước ra, kéo theo một cái xe trượt to, trong xe có một cái ghế thấp, có thể đẩy xe trượt về phía trước và lái bằng bàn chân của người ngồi trên xe, dùng sào buộc chặt bên sườn xe trợ giúp. Sau khi chiều Heidi đi vòng quanh mấy cây linh sam, ngắm nghía vẻ đẹp của chúng ở mọi phía, ông vào xe và nhấc đứa cháu lên lòng, rồi quấn cô bé vào trong cái bao để giữ ấm, ông vòng cánh tay trái ôm lấy cháu để nếu cần thì ôm thật chặt trong chuyến đi sắp tới. Tay phải ông nắm lấy con sào và dùng hai bàn chân đẩy xe trượt về phía trước. Chiếc xe lao xuống núi nhanh đến mức Heidi tưởng như hai ông cháu bay trong không khí như chim, em hét thật to vì vui thích. Họ dừng lại đột ngột vì đã đến túp lều của Peter. Ông nội nhấc Heidi ra và tháo bỏ cái bao: – Đến rồi đấy, cháu vào đi, và lúc trời sẩm tối cháu phải lên đường về nhà đấy. Ông để đứa cháu lại và leo lên núi, kéo chiếc xe trượt theo sau. Heidi đẩy cửa lều và bước vào căn phòng bé tẹo trông rất tối tăm, có một lò sưởi và mấy cái đĩa trên giá gỗ, chỗ này là cái bếp nhỏ bé. Em mở cửa khác và thấy một căn phòng nhỏ, vì túp lều của người chăn dê không giống lều ông em, có một phòng rộng hết mặt bằng và vựa cỏ bên trên, mà là một túp lều rất cũ, mọi thứ đều chật hẹp, tiều tụy và nghèo khổ. Một cái bàn gần cửa, và lúc bước vào, Heidi thấy một phụ nữ ngồi bên bàn đang vá chiếc áo gilê. Heidi nhận ra ngay là áo của Peter. Trong góc nhà, một bà già còng lưng vì tuổi tác đang ngồi xe sợi. Heidi tin chắc đấy là bà của Peter, vì thế em tiến đến cái xa quay sợi và nói: – Cháu chào bà, cuối cùng cháu đã tới. Bà có thấy mãi cháu mới đến không? Bà lão ngẩng đầu và chạm vào bàn tay cô bé chìa ra cho bà, và lúc thấy rồi, bà cẩn thận đưa tay sờ soạng vài giây rồi nói: – Cháu là Heidi, cô bé ở trên núi với Bác Alm đấy à? – Vâng ạ! – Heidi trả lời. – Cháu vừa xuống núi bằng xe trượt với ông cháu. – Thế ư! Sao tay cháu ấm thế? Brigitta, Bác Alm đến với đứa bé này đấy à? Mẹ của Peter bỏ việc đấy và đứng dậy, nhìn Heidi từ đầu đến chân, vẻ tò mò: – Con không biết Bác Alm có đến không mẹ ạ. Khó mà thế lắm, có lẽ cháu bé này nhầm. Heidi bình tĩnh nhìn người phụ nữ, không hề nao núng và nói: – Cháu biết rõ người đã quấn cháu vào tấm khăn trải giường và đưa cháu xuống núi bằng xe trượt mà, ông cháu đấy. – Vậy thì mọi chuyện mà Peter kể trong cả mùa hè có ít nhiều sự thật, vậy mà chúng ta cứ ngỡ nó nhầm, – người bà nói – nhưng ai mà tin lại có chuyện thế chứ, ta cứ ngỡ con bé không sống nổi trên đó lấy ba tuần. Trông nó ra sao, Brigitta? Brigitta ngắm nghía Heidi tứ phía để có thể tả tỉ mỉ cho bà mẹ nghe. – Thân hình con bé mảnh dẻ như Adelaide, nhưng mắt nó đen, tóc quăn giống ba và giống ông già trên núi. Con nghĩ nó giống cả đằng nội lẫn đằng ngoại. Trong lúc ấy, bé Heidi chẳng chịu yên. Em chạy quanh phòng nhìn ngó đó đây mọi thứ. Bỗng em kêu lên: – Bà ơi, một trong những cửa chớp này cứ đập tới đập lui, giá là ông cháu thì đã đóng đinh và sửa xong trong chớp mắt, vì nhỡ nó làm vỡ một trong các tấm gỗ. Bà nhìn xem, nó vẫn đang đập đây này! – Chà, cháu ạ, – bà lão nói – bà không thể nhìn thấy gì nữa, nhưng bà còn nghe thấy nhiều thứ khác, ngoài cái cửa chớp. Mọi thứ ở đây đều kêu lách cách, cót két mỗi khi gió thổi, và gió lùa vào bên trong qua mọi lỗ, mọi khe hở. Nhà này sắp vỡ tan tành, ban đêm khi mẹ con nó ngủ, bà thường nằm thao thức vì sợ và run rẩy, tưởng chừng nhà sắp đổ sụp xuống và giết chết chúng ta. Chẳng có ai sửa chữa cho chúng ta, vì Peter chẳng biết gì việc ấy. – Bà ơi, sao bà không nhìn thấy cánh chớp lỏng? Bà nhìn xem, cánh kia kìa! – Heidi chỉ vào cánh cửa chớp. – Chao ôi, cháu ơi, bà chẳng nhìn thấy thứ gì, chẳng thấy gì nữa hết! – Bà lão than vãn. – Thế nếu cháu ra ngoài và kéo cánh chớp ấy ra cho sáng, bà có thể nhìn thấy không? – Không, cả thế cũng không, chẳng ai có thể làm mắt bà sáng lại nữa. – Nếu bà ra ngoài, toàn tuyết trắng xóa, chắc bà sẽ thấy nó sáng. Bà đi với cháu đi, cháu sẽ chỉ cho bà! – Heidi nắm lấy bàn tay bà lão kéo đi, em cảm thấy rất buồn khi thấy một người không nhìn thấy ánh sáng. – Cứ để mặc bà, cháu yêu quý ạ. Bây giờ lúc nào bà chẳng thấy tối đen, dù giữa tuyết hay mặt trời, chẳng có ánh sáng nào lọt được vào mắt bà. – Chắc là trong mùa hè, – Heidi nói, mỗi lúc em càng muốn tìm cách thoát khỏi sự rắc rối, – lúc mặt trời nóng bỏng chiếu sáng, và lúc mặt trời chào tạm biệt núi non, tất cả cháy rực lên, những bông hoa vàng rực như bằng vàng bà sẽ nhìn thấy chứ, tất cả sẽ rạng rỡ và xinh đẹp với bà. – Cháu ơi, bà sẽ không nhìn thấy núi non và hoa lá cháy rực lên nữa đâu. Với bà mọi thứ trên đời sẽ chẳng bao giờ sáng sủa lại nữa. Những lời này làm Heidi bật khóc. Em thổn thức, buồn khổ: – Thế ai có thể làm cho nó sáng lại cho bà? Chẳng ai làm được hở bà? Chẳng có ai làm được hở bà? Bà lão cố an ủi cô bé, nhưng chẳng dễ gì làm em dịu lại. Heidi không hay khóc, nhưng em không thể nhanh chóng thoát khỏi phiền muộn. Bà lão ra sức làm nguôi nỗi thương xót của cô bé, vì tiếng nức nở của em làm trái tim bà đau thắt. Cuối cùng, bà nói: – Lại đây, Heidi yêu quý của bà, lại đây bà nói điều này cho cháu nghe. Cháu không thể biết bà vui đến thế nào khi nghe cháu trò chuyện đâu. Vậy cháu hãy lại ngồi cạnh bà và kể cho bà nghe chuyện gì đi. Kể cho bà nghe cháu làm gì trên núi, ông cháu bận rộn những gì. Ngày trước, bà biết ông cháu lắm, nhưng nhiều năm nay bà không nghe tin gì về ông cháu trừ qua lời Peter, mà nó thì chẳng bao giờ nói nhiều. Thật là một ý tưởng mới mẻ và hay ho cho Heidi, em vội lau khô nước mắt và nói, giọng an ủi: – Bà cứ đợi nhé, cháu sẽ kể hết cho ông cháu. Cháu tin chắc ông cháu sẽ làm cho bà sáng mắt lại, và sẽ làm mọi việc để nhà này không sập. Ông cháu sẽ sửa lại mọi thứ cho bà. Bà lão im lặng, còn Heidi bắt đầu miêu tả rất sinh động cuộc sống của em với ông nội, về những ngày em lên núi với bầy dê, về việc em làm trong những ngày đông, và ông em có thể làm được tất cả mọi thứ: ghế dài, ghế đẩu, máng để cỏ cho con Thiên nga Bé và Gấu Bé, làm bồn tắm mới, to tướng để em tắm trong mùa hè, làm bát đựng sữa mới và thìa… Mỗi lúc Heidi càng sôi nổi khi liệt kê đủ thứ kì diệu làm bằng gỗ. Sau đó, em thuật lại cho bà lão rằng em thường đứng cạnh ông, say sưa quan sát mọi việc ông làm và em hi vọng một ngày nào đó, tự em cũng làm được như thế. Bà lão chăm chú lắng nghe, chỉ thi thoảng mới bảo cô con gái: – Nghe thấy chưa Brigitta? Có nghe con bé kể về Bác ấy không? Câu chuyện bỗng bị ngắt vì một tiếng đập mạnh lên cửa và Peter bước vào, cậu đứng không nhúc nhích, mắt mở to vì ngạc nhiên lúc thấy Heidi, rồi mặt cậu sáng bừng lên lúc cô bé nói to: – Chào anh Peter! – Chà, thằng bé đã ở trường về! – Bà lão sửng sốt nói. – Nhiều năm nay, bà không ngờ có buổi chiều như chiều nay, trôi qua nhanh thế. Cháu tập đọc ra sao rồi, Peter? – Cũng tàm tạm ạ!- Peter trả lời. Bà lão thở dài nhẹ: – Thôi được! – Bà nói. – Bà mong lần này cháu có chuyện gì khác để kể, vì đến tháng Hai này cháu mười hai tuổi rồi đấy. – Bà muốn anh ấy kể chuyện gì hở bà? – Heidi hỏi, em chú ý đến mọi lời bà lão nói. – Bà muốn nói là lúc này nó phải học đọc nhiều hơn. – Bà lão nói tiếp. – Trên giá có quyển Kinh Thánh cũ, trong ấy có nhiều bài hát hay đã lâu bà không được nghe và không thể nhớ để nhẩm lại, nên bà mong Peter học để thỉnh thoảng đọc cho bà nghe một bài, nhưng nó thấy khó quá. – Con phải châm đèn, trời sắp tối chẳng nhìn thấy gì. – Mẹ Peter nói, chị vẫn đang bận bịu vá víu chiếc gilê. – Con cũng thấy chiều nay trôi nhanh đến mức con không cảm thấy gì hết. Lúc này Heidi nhảy khỏi chiếc ghế thấp, vội vàng chìa tay ra cho bà lão và nói: – Cháu chào bà, trời sắp tối cháu phải về nhà ngay ạ! – Rồi vừa ra cửa, em vừa chào tạm biệt Peter và mẹ cậu. Nhưng bà lão gọi giật lại, giọng lo âu: – Gượm đã, Heidi, cháu không thể đi một mình được, Peter phải đi cùng cháu. Trông em nhé, Peter, đừng để nó ngã đấy, đừng để nó đứng yên vì sợ, nó sẽ bị đông giá lại, cháu nghe chưa? Con bé có thứ gì quấn quanh cổ cho ấm không? – Cháu chẳng có gì để quấn đâu ạ! – Bé Heidi hét to. – Nhưng cháu chắc cháu không bị lạnh! – Rồi em chạy ra ngoài, nhanh đến mức Peter khó khăn lắm mới tóm được em. Bà lão vẫn lo lắng, nói với con gái: – Chạy theo nó đi Brigitta, con bé chết cóng mất trong đêm như thế này. Cầm lấy khăn quàng của mẹ, chạy nhanh lên! Chị Brigitta chạy ra ngoài, nhưng bọn trẻ chưa kịp đi được mấy bước đã thấy ông già đi xuống đón chúng, chỉ loáng sau ông đã sải bước đến cạnh các em. – Thế là đúng lắm, Heidi, cháu phải giữ lời. – Ông vừa nói vừa quấn cái bao chắc chắn quanh cô bé, rồi bế em lên tay và rảo bước lên núi. Chị Brigitta vừa đến đúng lúc thấy ông già làm thế, và cùng Peter trở về lều, chị kể nỗi sửng sốt đó với mẹ. Bà lão ngạc nhiên không kém và cứ xuýt xoa: – Tạ ơn Chúa, ông ta tốt với con bé như thế, tạ ơn Chúa! Mong là ông ta cho con bé đến chơi với ta lần nữa! Nó làm ta thấy dễ chịu quá. Con bé có tấm lòng nhân hậu và kể chuyện mới vui làm sao! Bà lão cứ vui mãi khi nghĩ đến cô bé, cho đến lúc đi nằm bà vẫn nói đi nói lại: – Nếu con bé đến lần nữa nhỉ! Bây giờ thì ta có một thứ thực sự để vui trên đời rồi. Chị Brigitta cũng đồng ý với bà mẹ. Còn Peter, mỗi lần bà nói cậu lại gật đầu mãn nguyện, nụ cười nở rộng trên môi: – Cháu đã kể với bà thế mà! Trong lúc đó, cuộn tròn trong bao, bé Heidi nói chuyện huyên thuyên với ông. Song tiếng em không thể đến tai ông qua nhiều lớp quấn dày dặn, nên ông nội không thể hiểu em đang nói gì. Ông em bảo: – Đợi về đến nhà, cháu hãy kể cho ông nghe! Hai ông cháu vừa vào trong lều và Heidi tuột khỏi tấm quấn người, đã nói ngay điều phải nói: – Ông ơi, ngày mai chúng ta phải mang búa và đinh đóng lại cửa chớp cho bà của Peter, đóng nhiều đinh vào nhiều chỗ khác vì nhà bà rung rung và kêu lách cách khắp nơi. – Chúng ta phải ư? Ai bảo cháu thế? – Ông nội em hỏi. – Không ai bảo cháu, nhưng cháu biết, – Heidi trả lời ông, – vì tất cả đều bị hỏng, bà không thể ngủ được, bà nằm run lên vì sợ, vì bà nghĩ lúc nào cái nhà cũng đổ ụp xuống đầu họ. Bây giờ cái gì cũng tối đen với bà, bà nghĩ là chẳng có ai làm cho sáng lại, nhưng cháu chắc là ông làm được. Nghĩ lúc nào cũng tối mò thì kinh thật, lại chẳng có ai giúp được bà thì khủng khiếp quá. Ngày mai ông cháu mình phải đến giúp bà, ông nhé! Đứa trẻ bám lấy ông già và ngước nhìn ông, tin cậy. Người ông nhìn xuống Heidi một lát không nói gì, mãi sau ông mới nói: – Thôi được, Heidi, chúng ta sẽ làm cho nhà ấy không kêu lách cách nữa, ít nhất là có thể làm thế. Ngày mai ta sẽ xuống. Cô bé nhảy nhót khắp phòng vì vui, em la hét inh ỏi: – Ngày mai chúng ta sẽ đi! Ngày mai chúng ta sẽ đi! Ông nội giữ lời hứa. Trưa hôm sau, ông lại kéo cái xe trượt ra như hôm trước. Ông để Heidi xuống cạnh cửa nhà bà và nói: – Bây giờ cháu vào đi, và lúc trời tối nhớ ra ngoài nhé! Rồi ông để cái bao vào trong xe trượt và đi quanh ngôi nhà. Heidi vừa mở cửa và lao vào phòng thì bà đã gọi em từ trong góc nhà: – Cô bé lại đến! Lại đây với bà! – Bà đánh rơi cả cuộn sợi vì vui mừng, cái guồng đứng im lúc bà giơ cả hai tay ra đón. Heidi chạy đến với bà, rồi nhanh nhẹn kéo cái ghế thấp vào gần bà lão, em ngồi lên ghế, bắt đầu nói chuyện và hỏi han đủ thứ. Ngay lúc đó, những âm thanh nặng nề đập vào tường làm bà lão giật nảy người lo lắng, suýt làm đổ cả cái xa kéo sợi. Bà kêu lên, giọng run run: – Ôi lạy Chúa, bây giờ sự ấy sắp đến, cái nhà sắp đổ ụp lên chúng con! Heidi vội nắm lấy cánh tay bà và nói dịu dàng: – Không phải đâu bà ạ, bà đừng sợ, ông cháu đóng đinh đấy. Ông cháu đang sửa chữa mọi thứ, để bà không phải sợ và lo lắng nữa. – Thế ư! Có thực thế không? Chúa kính yêu không quên chúng con! – Bà lão kêu lên. – Con có nghe thấy tiếng ồn không, Brigitta? Con có nghe con bé nói gì không? Bây giờ nghe kĩ, mẹ có thể nói đúng là tiếng búa. Ra ngoài đi, Brigitta, nếu đúng là Bác Alm, nói với ông ấy phải vào nhà để mẹ cảm ơn. Chị Brigitta ra ngoài và thấy Bác Alm đang đóng nhiều mảnh gỗ mới dọc theo bức tường. Chị đến chỗ ông già và nói: – Chào bác. Mẹ con cháu rất cảm ơn bác đã giúp, mẹ cháu muốn đích thân nói với bác, bà rất cảm kích. Cháu không biết có ai làm thế cho mẹ con cháu không, chúng cháu không thể quên lòng tốt của bác, và cháu tin là… – Thì sẽ làm thôi! – Ông già ngắt lời Brigitta. – Tôi biết mọi người nghĩ về Bác Alm thế nào rồi, chẳng cần cô phải nói. Cô vào nhà đi, tự tôi sẽ tìm ra chỗ nào cần sửa. Chị Brigitta làm theo ngay lập tức, vì Bác Alm có cách làm ít người dám cưỡng lại ý muốn của ông. Ông tiếp tục gõ búa quanh ngôi nhà, sau đó trèo lên những bậc thang hẹp đến tận mái, ông gõ tiếp ở đó cho đến lúc dùng hết số đinh mang theo. Trời sắp tối, ông mới từ mái xuống và kéo cái xe trượt ở đằng sau chuồng dê ra, đúng lúc bé Heidi xuất hiện. Ông quấn Heidi lại và bế em như hôm trước, dù vẫn phải kéo theo chiếc xe trượt lên núi. Ông sợ để cháu ngồi một mình trong xe, quấn kín mít như vậy nhỡ bị ngã hoặc dễ bị rét cóng, nên ông bế cháu trên tay, em vừa được ủ ấm vừa an toàn. Mùa đông trôi qua như thế. Sau nhiều năm sống buồn tẻ, người bà mù lòa cuối cùng đã tìm thấy điều làm bà hạnh phúc. Ngày tháng của bà không còn trôi qua trong u ám và đen tối như bao người khác sống không niềm vui và thay đổi. Giờ đây, bà luôn có thứ để ngóng đợi. Ngày vừa đến, bà đã lắng nghe tiếng bước chân bé bỏng, thoăn thoắt và lúc nghe tiếng mở cửa, biết cô bé đã đến, bà nói to: – Tạ ơn Chúa, con bé lại đến! Heidi lại đến ngồi cạnh bà, trò chuyện và kể đủ thứ, sinh động đến mức bà chẳng bao giờ để ý thời gian trôi qua ra sao, chẳng bao giờ bà còn hỏi Brigitta một cách máy móc như “Chưa hết ngày à?”, vì lúc cô bé khép cửa lại để ra về, bà kêu lên: – Chiều nay sao ngắn thế? Con có thấy thế không, Brigitta? Con gái bà trả lời: – Con cũng thấy thế, cứ như vừa dọn bữa trưa vậy. Bà nói tiếp: – Cầu Chúa không mang đứa bé xa con, và Bác Alm vẫn cho nó đến đây! Trông nó có khỏe mạnh, tươi tắn không, Brigitta? Cô con gái đáp: – Trông nó rạng rỡ và hồng hào như một quả táo. Heidi cũng ngày càng yêu mến bà lão. Cuối cùng thì em biết một điều chắc chắn là không người nào có thể làm bà sáng mắt được, em đã bớt được nỗi buồn. Khi bà lão nói bà cảm thấy đỡ đen tối lúc có Heidi ở bên bà, và thế là ngày đông nào tốt trời, cô bé cũng ngồi xe trượt xuống với bà. Ông em luôn chiều em, ông chưa lần nào phản đối, và ông hay mang theo búa cùng đủ thứ vặt vãnh khác trong xe trượt. Suốt nhiều buổi chiều, ông đã làm cho ngôi nhà của người chăn dê trở nên vững chãi, kín gió. Căn nhà không còn rền rĩ và kêu lách cách suốt đêm, và nhiều mùa đông qua bà không thể ngủ thì nay được ngủ yên. Bà nói sẽ không bao giờ quên việc Bác Alm đã làm cho bà. Chương V HAI CUỘC VIẾNG THĂM M ùa đông qua đã nhanh, mùa hè tươi sáng còn qua nhanh hơn, và lại một mùa đông nữa sắp đến. Heidi vẫn vô tư và vui vẻ như một con chim, mỗi ngày em càng náo nức ngóng đợi mùa xuân sắp tới. Khi làn gió Nam ấm áp reo vui luồn qua các cây linh sam và thổi tuyết đi, mặt trời ấm áp sẽ kéo màu xanh lơ và vàng đến trên đầu, rồi lại đến những ngày dài dạo chơi trên núi. Với Heidi, dường như đó là niềm vui lớn nhất mà cuộc sống ban cho em. Heidi đã lên tám, em đã học được nhiều điều bổ ích từ ông nội, biết chăm sóc dê giỏi như bất cứ ai, con Thiên nga Bé và Gấu Bé nghe lời em như những con chó trung thành. Mỗi khi nghe tiếng em, chúng vui sướng kêu be be thật to. Trong khóa học mùa đông năm ngoái, đã hai lần Peter chuyển lời thầy giáo ở Dörfli nhắn Bác Alm nên cho Heidi đến trường, vì em đã đến tuổi và đúng ra phải đi học từ mùa đông năm ngoái. Lần nào Bác Alm cũng trả lời thầy giáo là nếu cần nói gì cứ đến tìm ông ở nhà, và ông không định cho Heidi đến trường. Mỗi lần như thế, Peter lại trung thành chuyển lời nhắn của ông. Khi mặt trời tháng Ba làm tan tuyết trên sườn núi, cây giọt tuyết[2] nhú khắp thung lũng, những cây linh sam giũ sạch đám tuyết nặng trĩu và lại vui vẻ vẫy cành trong không khí, Heidi chạy nhảy tới lui vì vui thích. Đầu tiên là đến chuồng dê rồi đến chỗ các cây linh sam, sau đó đến cửa lều, cho ông nội biết mảng màu xanh dưới gốc cây đã lớn hơn chừng nào, rồi lại chạy đi xem lần nữa, khó lòng mà đợi đến lúc tất cả xanh tươi và mùa hè đẹp đẽ, trọn vẹn khoác tấm áo đầy cỏ hoa lên núi. Một buổi sáng tháng Ba đẹp nắng, Heidi đang chạy quanh và nhảy qua rãnh nước ít nhất đến lần thứ mười, em suýt ngã ngửa vì sợ. Đứng trước mặt em là một ông già mặc toàn màu đen đang trang nghiêm nhìn em. Thấy em giật mình, ông già nói, giọng hiền từ: – Đừng sợ ta, ta rất yêu trẻ. Bắt tay cái nào! Chắc cháu là Heidi mà ta đã nghe kể, vậy ông cháu đâu? – Ông cháu đang ngồi ở bàn, làm thìa gỗ tròn ạ! – Heidi thông báo lúc mở cửa. Ông ta là vị mục sư già trong làng ở Dörfli, là hàng xóm của ông nội hồi ông còn sống ở đó, và rất quen biết ông. Ông vào trong lều, đến chỗ ông già đang cúi người làm việc và nói: – Chào ông hàng xóm! Ông nội ngẩng lên ngạc nhiên rồi đứng dậy nói: – Xin chào! – Ông đẩy chiếc ghế mời khách lúc nói tiếp. – Nếu cha không ngại ngồi ghế gỗ thì đây là ghế dành cho cha. Mục sư ngồi xuống. – Đã lâu tôi không gặp ông, ông hàng xóm ạ. – Mục sư nói. – Hoặc là tôi không gặp cha. – Đấy là câu trả lời. – Hôm nay tôi đến vì có chuyện muốn nói với ông. – Mục sư tiếp tục. – Tôi cho là ông thừa biết tôi đến đây vì việc gì. Nói xong, mục sư nhìn thẳng vào cô bé đang đứng bên cửa, nhìn chăm chú và ngạc nhiên vào người khách lạ. – Heidi, ra với lũ dê đi! – Ông bảo. – Cháu đem cho chúng ít muối và ở đấy cho đến lúc ông đến nhé! Heidi biến mất ngay lập tức. – Cháu bé phải đến trường từ cách đây một năm, nói đúng ra là mùa đông năm ngoái. – Mục sư nói. – Thầy giáo đã nhắn ông nhưng ông không trả lời. Vậy ông định làm gì với cháu đây, ông hàng xóm? – Tôi nghĩ là sẽ không cho con bé đến trường. Vị khách sửng sốt nhìn ông già. Ông ta ngồi trên chiếc ghế dài, tay khoanh lại, toàn bộ con người ông toát ra vẻ quyết tâm. – Ông định để nó lớn lên ra sao? – Mục sư hỏi. – Tôi sẽ để nó lớn lên sung sướng giữa bầy dê và chim chóc. Với nó như thế là an toàn, nó sẽ không học điều gì xấu xa. – Nhưng cháu nó không phải là dê hoặc chim, nó là con người. Nếu nó không nhiễm thói xấu nào của đám bạn bè, nó cũng không học được gì hết. Không nên để cháu nó lớn lên dốt nát, bây giờ đã đến lúc cháu nó phải học rồi. Tôi đến lúc này để ông có thời gian suy nghĩ và thu xếp trong mùa hè. Đây là mùa đông cuối cùng cháu nó được phép chạy nhảy lung tung, mùa đông sang năm nó phải đến trường hàng ngày. – Nó sẽ không làm thế! – Ông già nói, kiên quyết. – Ông cho rằng không có sự thuyết phục nào làm ông có thể nhìn ra lẽ phải ư? – Mục sư nói, nổi nóng. – Ông là người từng trải, ắt ông phải nhìn thấy và học hỏi được nhiều, lẽ ra tôi tin ông hiểu biết hơn chứ, ông hàng xóm. – Thực ra thì, – ông già đáp, sắc thái trong giọng ông lộ rõ sự tức giận, – mục sư đáng kính có thực lòng nghĩ đến việc mùa đông tới, tôi sẽ cho đứa cháu bé bỏng như thế đi nhiều dặm xuống núi trong buổi sáng buốt giá, đầy giông bão và tuyết, rồi tối tối trở về lúc gió dữ, ngay người lớn như chúng ta còn dễ bị thổi bay đi và vùi trong tuyết? Có lẽ ông chưa quên Adelaide, mẹ đứa trẻ đấy chứ? Nó bị bệnh mộng du, đã lên nhiều cơn. Đứa trẻ này có thể bị như thế nếu bị quá nhiều sức ép. Liệu có người nào nghĩ là có thể đến đây và bắt được tôi cho cháu đi? Tôi sẽ đến trước mọi tòa án của đất nước này, lúc đó chúng ta sẽ thấy ai buộc được tôi làm việc ấy! – Ông hoàn toàn đúng, ông hàng xóm ạ! – Mục sư nói, giọng thân thiện. – Tôi thấy không thể để một đứa trẻ đến trường từ đây được. Nhưng tôi cũng hiểu ông rất quý cháu, vì lợi ích của cháu, ông nên làm như cách đây đã lâu: xuống Dörfli và sống cùng đồng loại. Ông sống lẻ loi với bao ý nghĩ gay gắt với Chúa và con người là kiểu sống gì vậy! Nhỡ xảy ra chuyện gì cho ông ở đây, lấy ai là người giúp đỡ? Tôi không thể không nghĩ đến ông phải sống gần như chết rét ở túp lều này trong mùa đông, và tôi không hiểu sao cháu bé lại sống qua được! – Đứa trẻ có dòng máu trẻ trung trong huyết quản và có mái nhà vững chãi trên đầu. Hãy để tôi nói thêm với mục sư, tôi biết tìm ra củi ở đâu, và biết khi nào là thời gian chính xác để kiếm củi. Mục sư có thể vào trong kho củi của tôi mà xem, suốt mùa đông, trong lều tôi chưa bao giờ hết củi. Đến sống ở dưới kia thật xa lạ với mong muốn của tôi. Họ khinh tôi và tôi coi thường họ, chính vì thế sống tách biệt là tốt nhất cho chúng tôi. – Không đâu, như thế không tốt cho ông. – Mục sư nói, giọng chân thành. – Tôi biết ông thiếu những gì. Về chuyện dân chúng dưới kia nhìn ông không thiện cảm, thì không đến nỗi tệ như ông nghĩ đâu. Hãy tin tôi đi, ông hàng xóm. Hãy cố tìm ra cách hoà thuận với Chúa, cầu xin tha thứ những chỗ cần tha thứ, rồi đến mà xem người ta có ra vẻ kẻ cả với ông không, biết đâu ông sẽ vui. Mục sư đứng dậy, chìa tay ra cho ông già. Ông nói thêm với vẻ chân thành mới mẻ: – Tôi đánh cuộc rằng mùa đông tới ông sẽ lại xuống với chúng tôi, ông hàng xóm ạ, và chúng ta sẽ lại là hàng xóm như cũ. Tôi sẽ rất tiếc nếu phải thúc ép ông. Ông hãy đưa tay cho tôi và hứa với tôi rằng ông sẽ lại đến và sống với chúng tôi, sẽ hoà giải với Chúa và con người. Bác Alm đưa tay cho viên mục sư và trả lời, bình tĩnh và cương quyết: – Tôi biết ông muốn tốt cho tôi, nhưng cái điều ông muốn tôi làm, lúc này tôi nói và sẽ tiếp tục nói rằng tôi sẽ không gửi cháu tôi đến trường hoặc đến sống với các người đâu. – Cầu Chúa phù hộ ông! – Mục sư nói và buồn bã quay đi, rời túp lều và xuống núi. Bác Alm rất bực dọc. Chiều hôm đó, lúc Heidi nói như thường lệ: – Hôm nay chúng ta có xuống thăm bà không ạ? Ông già trả lời: – Hôm nay thì không. Rồi suốt ngày hôm ấy ông không nói lại, và sáng hôm sau Heidi hỏi lại câu đó, ông đáp: “Để rồi xem”. Nhưng chưa kịp dọn rửa bát đĩa bữa trưa, một vị khách khác lại đến, và lần này chính là dì Dete. Dì đội chiếc mũ cắm lông chim duyên dáng, chiếc váy dài quét đất, và trên nền túp lều người chăn dê lủng củng đủ thứ càng làm nổi bật chiếc áo. Ông già nhìn dì từ đầu đến chân, chẳng thốt một lời. Nhưng dì Dete đã chuẩn bị một bài nói quá mức thân thiện và bắt đầu khen ngợi diện mạo của Heidi. Trông cháu gái tươi tỉnh làm dì khó lòng nhận ra, chứng tỏ Heidi vui vẻ và được ông nội chăm nom tử tế. Dì không bao giờ điên rồ có ý nhận lại cô bé, vì dì hiểu rất rõ rằng đứa cháu được chăm chút theo cách riêng của ông nội, là việc mà cho đến nay dì chưa làm được. Song, ngày đêm dì nghĩ cách đưa cháu đến một nơi nào đó và chính vì thế mà hôm nay dì đến đây, vì dì nghĩ đây là dịp may cho Heidi, vượt cả mong ước đầy hoài bão nhất của dì. Một người họ hàng hết sức giàu có của nhà chủ dì có một ngôi nhà tuyệt vời gần Frankfurt có cô con gái trẻ và tàn tật, lúc nào cũng phải ngồi trên xe đẩy, vì thế cô bé rất buồn, rất cô đơn và không có người cùng học. Cha cô bé đã nhờ bà chủ của dì Dete tìm giúp một người bạn cho con gái, bà ta đã lo giúp vì rất thông cảm. Cô quản gia đã tả họ cần một đứa trẻ thật thà, hồn nhiên, không hư hỏng như phần lớn trẻ con họ thấy ngày nay. Dì Dete nghĩ ngay đến Heidi và đến gặp cô quản gia ngay lập tức. Nghe dì miêu tả Heidi, cô ta đồng ý nhận bé ngay. Chẳng ai ngờ vận may ấy đến với Heidi, vì nếu Heidi được những người ấy yêu mến và lỡ có chuyện gì xảy ra với con gái họ, – ai mà biết được, vì cô bé ấy ốm yếu như thế, – mà họ lại thấy không thể sống thiếu một đứa trẻ, thì vận may chưa từng xảy ra là… – Cô nói sắp xong chưa? – Bác Alm ngắt lời, ông đã để dì nói một thôi một hồi, không xen ngang. – Chà! – Dì Dete vừa kêu lên, vừa hất đầu vẻ phẫn nộ. – Bác tưởng cháu đang nói đến một việc thông thường nhất hay sao? Cứ tìm khắp Prättigau mà xem, ai cũng sẽ cảm tạ Chúa nếu cháu đưa đến cho họ một mẩu tin cháu nói với bác vừa rồi. – Cô cứ mang đến cho bất cứ ai cô thích, còn tôi chẳng biết làm gì với cái tin ấy đâu. Lúc này, dì Dete nhảy vọt khỏi ghế như tên lửa và kêu lên: – Nếu đấy là tất cả những gì bác nói, thì cháu bận tâm làm gì kia chứ. Con bé hiện giờ đã lên tám mà chẳng hiểu biết gì, còn bác chẳng chịu cho nó học hành, ở Dörfli, người ta kể với cháu là bác không gửi nó đến nhà thờ hoặc trường học, còn nó là con của chị ruột cháu. Cháu có trách nhiệm với nó, và khi có dịp tốt như thế cho một đứa bé như Heidi, chỉ có người chẳng quan tâm đến ai, chẳng bao giờ muốn tốt cho ai mới không chớp ngay lấy. Nhưng cháu nói với bác điều này, cháu không chịu đâu. Cháu được mọi người ở Dörfli ủng hộ cháu, ai cũng phản đối bác. Cháu khuyên bác nghĩ cho kĩ trước khi đưa sự việc này ra tòa, nếu bác có ý định ấy. Có nhiều thứ nảy sinh có thể chống lại bác có lẽ bác chẳng cần nghe, vì khi đã ra tòa có nhiều thứ đã quên đi sẽ được bới lại. – Im đi! – Bác Alm gầm lên, mắt ông sáng lóe vì giận dữ. – Xéo đi! Đừng bao giờ để ta nhìn thấy cô, với cái mũ cắm lông chim, với những lời đầu lưỡi của cô như hôm nay nữa! – Và ông sải bước ra khỏi lều. – Dì làm cho ông cháu cáu rồi! – Heidi nói, cặp mắt đen láy của em nhìn dì Dete thân thiện. – Ông ấy sẽ ổn ngay thôi. Bây giờ thì ta đi! – Dì Dete nói, vội vã. – Chỉ cho dì xem quần áo cháu để đâu. – Cháu không đi đâu! – Heidi nói. – Nhảm nhí! – Dì Dete nói tiếp, rồi lựa lời nửa dỗ dành, nửa cáu kỉnh. – Đi nào, đi nào Heidi, cháu không hiểu ông cháu chẳng có gì tốt hơn đâu, cháu sẽ có mọi thứ đẹp đẽ cháu chẳng bao giờ mơ đến. Dì đến bên tủ, lôi đồ dùng của Heidi ra, cuộn lại thành bó. – Bây giờ thì đi thôi, mũ cháu đây! Trông nhếch nhác quá nhưng dùng tạm bây giờ vậy, đội vào rồi đi nhanh lên. – Cháu không đi đâu! – Heidi nhắc lại. – Đừng ngốc nghếch và bướng bỉnh như một con dê thế. Dì đoán cháu đã học được cung cách ấy của lũ dê. Nghe dì này, cháu đã thấy ông cháu cáu và nghe ông cháu nói rồi đấy. Ông ấy không muốn nhìn thấy dì cháu ta nữa. Ông ấy muốn cháu đi với dì và cháu không được làm ông ấy cáu thêm. Cháu không phải lo Frankfurt có đẹp không và nhiều thứ cháu sẽ nhìn thấy, vì nếu không thích, cháu có thể trở về, khi đó ông nội cháu sẽ thuần tính lại. – Cháu có thể về nhà ngay tối nay không ạ? – Heidi hỏi. – Cháu nói gì thế, đi thôi! Dì bảo là cháu có thể trở về nếu cháu thích. Hôm nay chúng ta sẽ đến Mayenfeld, sáng sớm mai lên tàu hỏa và như thế sẽ không về kịp nếu cháu muốn, vì tàu chạy nhanh như gió ấy. Lúc này dì Dete đã tay cắp bọc, tay dắt đứa trẻ, và thế là họ cùng nhau xuống núi. Hồi đó mới là đầu năm chưa phải đi chăn dê, Peter vẫn tiếp tục đi học ở Dörfli, nhưng thỉnh thoảng cậu nghỉ trộm một ngày vì thấy học đọc chẳng ích lợi gì. Chẳng thà đi lang thang một chút, kiếm những cây gậy bền chắc, biết đâu có ngày cậu lại kiếm được việc làm tốt hơn. Lúc dì Dete và Heidi đến gần túp lều của bà, họ gặp Peter đang rẽ vào góc lều, rõ ràng hôm ấy cậu đáng được thưởng vì đã làm việc cật lực, cậu đang vác trên vai một bó to những thanh gỗ phỉ chắc nịch. Peter đứng yên, nhìn chằm chằm vào hai người đang lại gần, và lúc họ đến chỗ cậu, cậu kêu lên: – Em đi đâu đấy, Heidi? – Em đến Frankfurt, đi chơi với dì Dete, – Heidi đáp, – nhưng trước tiên em phải chạy đến với bà, chắc bà đang đợi em. – Không, không, cháu không được đứng lại nói chuyện, muộn lắm rồi! – Dì Dete nói và nắm lấy tay Heidi, em cố giằng ra. – Lúc nào về cháu sẽ vào thăm bà, còn bây giờ thì đi đã. Rồi dì kéo tuột cô bé đi, vì sợ để Heidi vào, cô bé lại đổi ý và không muốn đi nữa, nhỡ bà lão lại bênh em. Peter chạy vào lều và dựng bó củi vào bàn đánh sầm, giận dữ đến mức mọi thứ trong phòng rung lên. Bà cậu đang quay xa giật mình kêu lên hoảng hốt. Không biết vì sao, Peter cảm thấy phải trút mọi xúc động. – Có chuyện gì thế? Có chuyện gì thế? – Bà lão sợ hãi kêu to, trong lúc mẹ cậu bật dậy khỏi ghế vì sửng sốt và nói, vẫn nhẫn nại như thường lệ: – Sao thế Peter? Sao con cư xử thô lỗ thế? – Vì cô ấy đưa Heidi đi. – Peter giải thích. – Ai đưa? Đưa đến đâu, Peter? – Bà cậu hỏi, mỗi lúc một khó chịu hơn. Song bà cụ đoán ngay ra sự tình, vì lúc trước chị Brigitta đã kể vắn tắt là nhìn thấy dì Dete đi lên chỗ Bác Alm. Bà lão vội vàng đứng dậy, đôi tay run run mở tung cửa sổ và gọi to, van nài: – Cô Dete, Dete ơi, đừng mang con bé đi! Đừng tách nó khỏi chúng tôi! Hai người đang vội vã xuống núi nghe thấy tiếng bà. Dete nghe rõ từng lời và dì càng nắm chặt cứng bàn tay Heidi. Heidi vừa vùng vẫy vừa gào lên: – Bà đang gọi kìa, cháu phải đến với bà. Nhưng dì Dete nhất định không thả cô bé ra, và ra sức dỗ dành. Dì nói bây giờ phải đi nhanh lên, nếu không sẽ quá muộn và ngày mai không thể đến Frankfurt được. Dì còn khẳng định Heidi đến đấy rồi sẽ thích lắm và không muốn quay về nữa. Nhưng nếu Heidi muốn về nhà, em sẽ được về ngay lập tức, lúc đó em sẽ mang thứ gì em thích về cho bà. Ý nghĩ đó thật mới mẻ với Heidi, nó làm em vui đến mức dì Dete kéo em đi không khó khăn gì. Im lặng được vài phút, Heidi hỏi: – Cháu sẽ mang gì về cho bà? – Chúng ta phải nghĩ xem cái gì thật thích. – Dì Dete trả lời. – Một ổ bánh mì trắng thật mềm, bà sẽ thích lắm, bà già rồi không ăn được bánh mì đen vì rắn quá. – Không, bà hay đem cho Peter, bà bảo vì cứng quá, cháu đã trông thấy mà. – Heidi quả quyết. – Dì cháu mình đi nhanh lên, để có thể từ Frankfurt về sớm, và hôm nay cháu sẽ đem bánh mì trắng về cho bà. Heidi chạy nhanh đến mức dì Dete cắp cái bọc phải vất vả mới theo kịp. Nhưng dù sao dì cũng mừng vì đi nhanh đến thế. Họ đang đến gần Dörfli. Ở đấy, bạn bè dì sẽ chuyện trò và hỏi han, dễ có nhiều ý này nọ chui vào đầu Heidi. Vì thế, dì Dete đi xuyên qua làng, nắm tay Heidi thật chặt, để mọi người đều thấy hai dì cháu đang vội. Dì trả lời mọi câu hỏi và mọi nhận xét lúc hai dì cháu đi qua: “Bây giờ cháu không thể dừng lại được, các bà thấy đấy. Cháu phải đi gấp vì còn cả một quãng dài”. – Cô mang nó đi đấy à? – Nó chạy trốn Bác Alm đấy ư? – Thật lạ là con bé còn sống! – Nhưng má nó hồng hào đấy chứ! Những lời ấy tới tấp ào ào từ mọi phía, còn dì Dete lấy làm may là không đứng lại và trả lời bất cứ câu nào khác, trong lúc Heidi háo hức chạy tuốt lên trước không nói một lời. Từ hôm đó trở đi, mỗi khi Bác Alm xuống và đi qua Dörfli, trông ông càng dữ dội và lầm lầm hơn bao giờ. Ông già không trò chuyện với ai, trông như con yêu tinh lúc ông bước đi, lưng cõng bao pho mát, chiếc gậy chắc nặng trong tay, đôi lông mày rậm nhíu lại làm cánh đàn bà phải gọi bọn trẻ con: – Cẩn thận đấy! Tránh đường ra, không Bác Alm đánh cho kìa! Ông lão chẳng buồn chú ý đến ai lúc rảo bước qua làng trên đường xuống thung lũng để bán pho mát rồi mua bánh mì và thịt. Ông đi khuất rồi, cả làng mới tụ tập nhìn theo, mỗi người nói một câu về ông. Nào trông lão ta hung dữ hơn mọi ngày, nào lão chẳng thèm trả lời bất cứ câu chào nào, nào thật may cho con bé thoát khỏi lão, nào ai mà chẳng thấy con bé tất ta tất tưởi như sợ ông nó đuổi theo bắt lại… Chỉ có bà lão mù là im lặng, không nói một lời chống lại ông, bà kể với những người đến thuê bà làm hoặc mang sợi đã xe đi rằng, ông già tốt bụng và ân cần với cô bé biết chừng nào, tử tế với bà và con gái bà ra sao, ông đã bỏ nhiều buổi chiều sửa chữa ngôi nhà, nếu không có ông giúp thì căn nhà đã sụp xuống đầu họ từ lâu rồi. Tất cả những điều ấy được nhắc lại ở Dörfli, nhưng phần lớn dân chúng ở đấy lại nói rằng bà lão già quá nên không hiểu hết, hoặc nghe không chính xác, vì bà bị mù chắc cũng điếc luôn. Bác Alm hồi này không đến nhà bà lão nữa, và ông già đã làm cho nó an toàn rồi nên không phải đả động đến nó trong một thời gian dài. Giờ đây là những ngày buồn bã cho bà lão mù, chẳng ai lai vãng nên bà cứ lẩm bẩm than vãn: – Chao ôi! Mọi niềm vui và hạnh phúc đi cùng con bé mất rồi. Ngày bây giờ sao mà dài và buồn đến thế! Lạy Chúa, cho con được gặp Heidi một lần rồi hẵng chết! Chương VI SỰ VIỆC MỚI T rong ngôi nhà ở Frankfurt, cô bé Clara, – con gái của Herr[3] Sesemann – nằm dài suốt ngày trên giường bệnh, chiếc giường có lắp bánh xe đẩy từ phòng này sang phòng khác. Lúc này, em đang ở trong phòng học, nhiều thứ đồ đạc khác nhau bày la liệt làm cho căn phòng thoải mái dễ chịu, cho thấy đây là nơi được cả gia đình ưa thích. Một giá sách đẹp lắp cửa kính giải thích vì sao phòng này gọi là phòng học, và rõ ràng cô bé đã làm quen với các bài học tại đây. Gương mặt bé nhỏ của Clara gầy và xanh xao, cặp mắt xanh dịu dàng của em đang dán vào chiếc đồng hồ. Với em ngày hôm nay sao trôi qua chậm đến thế, và em hỏi hơi sốt ruột, một điều hiếm thấy ở em: – Vẫn chưa đến giờ à, Fräulein[4] Rottenmeier? Fräulein Rottenmeier ngồi rất thẳng bên chiếc bàn làm việc nhỏ, đang bận thêu thùa. Cô mặc bộ quần áo trông khó hiểu, cổ áo rộng hoặc tấm che vai làm diện mạo cô có vẻ trang nghiêm, cái khăn trùm đầu hình vòm cao ngất càng tăng thêm sự uy nghi. Đã nhiều năm qua, kể từ khi bà chủ qua đời, Herr Sesemann giao phó mọi việc trông nom nhà cửa và quản lí đám tôi tớ trong nhà cho Fräulein Rottenmeier. Ông hay đi vắng xa nhà nên giao hoàn toàn trách nhiệm cho cô, với điều kiện duy nhất là cô con gái nhỏ của ông được có ý kiến trong mọi việc, và không ai được phép chống lại cô bé. Lúc Clara sốt ruột hỏi câu đó lần thứ hai, dì Dete và cô bé Heidi vừa đến trước cửa. Dì hỏi người xà ích vừa xuống khỏi ghế rằng đã muộn rồi không biết có được gặp Fräulein Rottenmeier không. – Đấy không phải việc của tôi, – người xà ích càu nhàu, – cứ rung chuông trong tiền sảnh mà gặp Sebastian. Dì Dete làm theo, và Sebastian xuống cầu thang. Nhìn thấy dì, gã cáu kỉnh mở to mắt cho đến lúc gần bằng chiếc khuy áo. – Tôi đến quá muộn, liệu có gặp được Fräulein Rottenmeier không ạ? – Dì Dete hỏi lại. – Đấy không phải việc của tôi! – Sebastian nói. – Rung chuông kia gọi cô hầu Tinette. – Rồi chẳng buồn nói thêm, Sebastian biến mất. Dì Dete lại rung chuông. Lần này cô hầu Tinette xuất hiện, mũ trắng tinh ngất nghểu trên đầu, vẻ kênh kiệu trên mặt. – Gì thế? – Cô ta nói vọng từ đầu cầu thang. Dì Dete nhắc lại câu hỏi. Cô Tinette biến mất, nhưng trở lại ngay và nói vọng xuống bảo dì. – Lên đi, cô quản gia đang đợi các người. Dì Dete và Heidi lên cầu thang vào phòng học, Tinette theo sau. Dì Dete đứng lễ phép gần cửa, vẫn nắm chặt tay Heidi, vì dì không biết cô bé đang tiếp nhận những điều gì mới mẻ xung quanh vào đầu. Fräulein Rottenmeier chậm rãi đứng dậy và đến chỗ người bạn mới của cô chủ, xem cô bé ra sao. Có vẻ như cô không hài lòng lắm với diện mạo của Heidi. Heidi mặc bộ váy yếm bằng len trơn, mũ rơm cũ kĩ chẳng ra hình thù gì. Dưới cái mũ, trông cô bé rất ngây thơ, em nhìn chằm chặp cái khăn trùm đầu cao chót vót của Fräulein Rottenmeier, vẻ ngạc nhiên không giấu giếm. – Tên cháu là gì? – Fräulein Rottenmeier hỏi, sau vài phút ngắm nghía cô bé rất tỉ mỉ, còn mắt Heidi vẫn dán lên cô ta. – Heidi ạ! – Em trả lời, giọng trong trẻo, ngân vang. – Cái gì? Cái gì? Không có tên thánh cho một đứa trẻ à, cháu vẫn chưa có tên thánh? Họ gọi cháu là gì khi làm lễ rửa tội? – Fräulein Rottenmeier dài giọng hỏi. – Cháu không nhớ. – Heidi trả lời. – Trả lời thế à? – Cô ta nói và lắc đầu. – Dete, đứa trẻ này ngốc nghếch hay hỗn xược? – Nếu cô cho phép, em sẽ bảo ban cháu, vì cháu nó chưa quen với người lạ ạ. – Dì Dete nói và huých Heidi một cái vì câu trả lời không thích hợp. – Chắc chắn là cháu nó không ngốc, cũng không hỗn hào đâu ạ. Nó không hiểu nói thế nghĩa là gì, nó nghĩ gì nói nấy. Hôm nay là lần đầu tiên nó được vào nhà của một quý ông và nó chưa biết cư xử cho phải phép, nhưng cháu nó ngoan ngoãn và rất ham học, nếu cô có lòng chỉ bảo cho. Tên thánh của cháu là Adelaide, theo tên mẹ cháu là chị ruột em, chị ấy mất rồi ạ. – Được, cái tên ấy có thể đọc được! – Fräulein Rottenmeier nhận xét. – Nhưng Dete, tôi phải nói với cô là tôi ngạc nhiên thấy nó bé như thế. Tôi đã bảo cô là muốn có một đứa trẻ trạc tuổi cô chủ để cùng học bài và làm những việc khác với cô chủ. Cô Clara hiện giờ đã hơn mười hai tuổi, đứa bé này lên mấy? – Xin cô cho phép! – Dì Dete lại nói rất trôi chảy. – Chính em không tính chính xác tuổi của cháu nó. Cháu nó chắc ít tuổi hơn cô chủ, nhưng không nhiều lắm đâu ạ. Em không thể nói chính xác, nhưng em nghĩ là lên mười hoặc chừng đó ạ. – Ông nội bảo cháu lên tám. – Heidi xen vào. Dì Dete lại huých cái nữa, nhưng Heidi không hiểu vì sao dì em nói thế, chắc dì nhầm lẫn. – Mới lên tám! – Fräulein Rottenmeier kêu lên giận dữ. – Ít hơn những bốn tuổi! Một đứa như thế thì có ích gì? Cháu đã đi học chưa? Cháu học được những gì trong sách? – Chẳng có gì ạ! – Heidi nói. – Sao? Cái gì? Cháu học đọc thế nào rồi? – Fräulein Rottenmeier tiếp tục. – Cháu chưa bao giờ học đọc, cả Peter cũng thế! – Heidi thông báo với cô ta. – Trời ạ! Cháu vẫn chưa biết đọc! Thật thế ư? – Fräulein Rottenmeier kêu lên, kinh hoàng. – Không thể… không thể đọc được? Thế cháu đã học những gì? – Chẳng có gì ạ! – Heidi thực thà nói, rất thản nhiên. – Này cô, – Fräulein Rottenmeier nói với dì Dete, sau một lát ngừng để trấn tĩnh khỏi cơn choáng váng, – cô chưa cho tôi hay tất cả những điều này. Cô nghĩ sao mà đưa đến cho tôi một đứa như thế này? Nhưng dì Dete đâu có dễ thua, dì liến thoắng nói: – Xin cô cho em nói ạ, em nghĩ đứa trẻ này đúng là người cô cần. Cô đã nói muốn có một đứa trẻ không giống mọi trẻ khác, và em không thấy ai thích hợp, phần đông trẻ em biết đều không có gì độc đáo, đứa nọ giống đứa kia, và em thấy con bé này thật đúng vào vị trí ấy. Nhưng bây giờ em phải đi đây ạ, bà chủ chắc đang đợi em, nếu cô cho phép em sẽ sớm trở lại xem con bé xoay xở ra sao. Rồi cúi chào thật nhanh, dì Dete ra khỏi phòng và chạy xuống cầu thang. Fräulein Rottenmeier đứng ngẩn người giây lát vì sửng sốt rồi chạy theo dì Dete. Nếu để đứa trẻ lại, cô có nhiều điều cần nói và hỏi về nó, vì nó vẫn đứng kia và như cô thấy, Dete cố tình bỏ nó ở lại. Heidi vẫn đứng bên cửa, đúng chỗ em đứng từ lúc mới bước vào. Cô bé Clara đã ngắm nhìn Heidi trong suốt cuộc phỏng vấn mà không nói gì. Lúc này, em vẫy tay ra hiệu cho Heidi và nói: – Lại đây! Heidi đến chỗ Clara. – Cậu thích gọi là Heidi hay Adelaide hơn? – Clara hỏi. – Em chưa bao giờ được gọi tên khác ngoài Heidi. – Câu trả lời của cô bé thật chóng vánh. – Vậy mình sẽ gọi cậu bằng tên ấy. – Clara nói – Nó hợp với cậu lắm. Trước đây mình chưa bao giờ nghe thấy tên ấy, thậm chí chưa từng nhìn thấy một đứa trẻ như cậu. Lúc nào tóc cậu cũng ngắn và quăn thế à? – Vâng, em nghĩ thế. – Heidi nói. – Cậu có thích đến Frankfurt không? – Clara hỏi tiếp. – Không, nhưng ngày mai em sẽ về nhà và mang cho bà một ổ bánh mì trắng. – Heidi giải thích. – Tuyệt, cậu nhộn thật đấy! – Clara kêu lên. – Cậu được đưa đến đây và ở lại để học cùng tôi, thế mà buồn cười quá vì hiện giờ cậu không biết đọc. Thế là có việc mới để làm vì cậu biết không, các bài học chán khủng khiếp, tôi tưởng như buổi sáng chẳng bao giờ hết. Cậu có biết sáng nào gia sư của tôi cũng đến lúc mười giờ, bắt tôi học đến hai giờ chiều, thời gian dài lê thê. Thỉnh thoảng thầy ấy còn giơ một quyển sách ra, gí vào gần mắt như thể thầy bị cận thị, nhưng tôi biết chỉ vì thầy muốn ngáp khủng khiếp. Còn Fräulein Rottenmeier thi thoảng lại rút cái mùi soa to tướng ra và che lên mặt, làm như cảm động vì những điều chúng tôi đọc, nhưng thực ra chỉ vì cô ấy cũng muốn ngáp mà thôi. Tôi cũng hay muốn ngáp nhưng cố ngăn mình lại, vì nếu tôi ngáp Fräulein Rottenmeier sẽ chạy ngay đi lấy dầu gan cá moruy bắt tôi uống một liều, vì tôi lại mệt. Mà eo ơi, thứ dầu gan cá ấy kinh lắm nên tốt nhất là tôi đừng ngáp còn hơn. Nhưng bây giờ thì vui hơn rồi, vì tôi có thể nằm và lắng nghe cậu học đọc. Heidi lắc đầu ngờ vực lúc nghe đến chuyện học đọc. – Kìa, thật vô lí Heidi, tất nhiên là cậu phải học đọc, ai cũng phải học cả. Gia sư của tôi rất tốt, không bao giờ cáu, thầy ấy sẽ giảng mọi thứ cho cậu. Chú ý là khi thầy giảng mà cậu không hiểu, đừng có hỏi gì hết, vì thầy càng giảng cậu càng hiểu ít. Sau này cậu sẽ học được nhiều hơn và tự tìm hiểu nhiều điều, lúc ấy cậu sẽ hiểu thầy định nói gì. Lúc này Fräulein Rottenmeier đã trở lại phòng. Cô không đuổi kịp Dete và rõ ràng rất cáu vì cô đang muốn biết chi tiết về đứa trẻ và muốn Dete thấy là dì đã nhầm, Heidi không phải là người bạn thích hợp cho Clara. Thực lòng cô không biết làm thế nào tháo gỡ được cái trò láu cá này, và cô càng cáu hơn vì phải chịu trách nhiệm đã đồng ý cho dì Dete đưa Heidi tới. Cô giận dữ chạy ngược chạy xuôi giữa phòng học và phòng ăn, mắng mỏ Sebastian đang đứng nhìn cái bàn đã dọn xong, xem có thiếu thứ gì không. – Đến sáng mai mới nghĩ xong hả? Nhanh nhanh lên, hoặc là hôm nay chúng tôi sẽ không có bữa ăn trưa mất. Sau đó, cô cáu kỉnh gọi Tinette. Cô hầu đi đến, bước đi õng ẹo hơn thường lệ và trông rất xấc xược làm Fräulein Rottenmeier phải rất kiềm chế để không quát cô ta và cơn tức bị kìm nén càng lớn thêm. – Sửa soạn phòng cho con bé vừa tới! – Cô nói, gắng kiềm chế. – Mọi thứ đã sẵn sàng, chỉ chưa phủi bụi. – Thế cũng đủ mệt cho tôi rồi! – Tinette đỏng đảnh nói lúc quay đi. Trong lúc đó, Sebastian mở cánh cửa gập dẫn vào phòng ăn, ầm ĩ hơn cần thiết. Gã cũng thấy cáu dù không dám vặc lại Fräulein Rottenmeier. Sau đó, gã đẩy ghế có bánh xe của Clara vào phòng bên cạnh. Lúc gã xếp cái tay cầm ở sau ghế, Heidi đứng gần đó nhìn gã chăm chú. Thấy cái nhìn của cô bé dán lên mình, gã bỗng nổi cáu: – Sao cứ nhìn tôi chằm chặp thế? – Và chắc không làm xong việc, nếu gã không nhận thấy Fräulein Rottenmeier vừa bước vào phòng. – Trông anh giống Peter quá! – Heidi trả lời. Cô quản gia đan hai bàn tay vào nhau, hoảng hốt: – Không thể thế được! – Cô gần như lắp bắp. – Bây giờ con bé lại nói năng với người hầu như nói với bạn! Ta không thể hình dung một đứa trẻ như thế! Sebastian đẩy cái giường vào phòng ăn và đỡ Clara vào ghế. Fräulein Rottenmeier ngồi ghế cạnh Clara và ra hiệu cho Heidi ngồi vào ghế đối diện. Chỉ có ba người bên bàn, họ ngồi cách nhau đủ chỗ cho Sebastian chuyển các món ăn. Cạnh đĩa của Heidi là một ổ bánh mì trắng ngon lành, mắt em sáng lên vui thích lúc nhìn thấy. Sự giống nhau mà Heidi nhận thấy rõ ràng làm em tin cậy Sebastian, vì em ngồi im như thóc và không nhúc nhích cho đến lúc gã đến bên cạnh và đưa cho em đĩa cá. Lúc đó, em nhìn ổ bánh và hỏi: – Em có lấy nó được không? Sebastian gật đầu, và liếc nhìn Fräulein Rottenmeier xem câu hỏi ấy tác động đến cô ra sao. Heidi cầm ngay ổ bánh đút vào túi. Mặt Sebastian nhăn lại, gã cố nín cười vì biết đây không phải là chỗ được cười to. Gã đứng im lặng và bất động cạnh Heidi, nói cũng như bỏ đi không phải là việc của gã, cho đến khi nào em ăn xong. Heidi băn khoăn nhìn gã một, hai phút rồi hỏi: – Em cũng được ăn món kia chứ? Sebastian lại gật đầu. – Vậy cho em một ít! – Heidi nói, và bình tĩnh nhìn vào đĩa của em. Nghe câu này, vẻ kiềm chế trên mặt Sebastian trở thành nghi ngại, và đĩa thức ăn run run một cách đáng ngờ trên tay gã. – Để đĩa lên bàn và lát nữa hãy quay lại! – Fräulein Rottenmeier nói, vẻ mặt nghiêm khắc. Sebastian biến ngay lập tức. – Về phần cháu, Adelaide, ta thấy cần phải dạy cháu những quy tắc xử thế đầu tiên. – Cô quản gia thở dài nói. – Ta bắt đầu giải thích cho cháu phải xử sự ra sao ở bàn ăn. – Rồi cô chỉ dẫn cho Heidi hết sức cặn kẽ những việc phải làm. – Ta phải cho cháu hiểu rõ rằng cháu không được nói chuyện với Sebastian bên bàn ăn hoặc bất cứ lúc nào khác, trừ khi cháu ra lệnh hoặc đặt những câu hỏi cần thiết, cháu không được nói năng với nó như người có quan hệ thân thiết. Đừng bao giờ để ta nghe thấy cháu nói với Sebastian kiểu ấy! Với Tinette cũng thế, còn với ta, cháu phải thưa gửi như những người khác. Clara sẽ tự quyết định cho cháu gọi cô ấy như thế nào. – Lẽ tất nhiên là Clara rồi! – Clara nói. Sau đó là một danh sách dài những quy định cho cách hành xử chung, nào ngủ dậy và đi ngủ, nào đi vào đi ra các phòng, nào đóng cửa, nào sắp xếp mọi thứ cho gọn gàng… Nghe mãi mắt Heidi dần dần khép lại, vì chưa đến năm giờ sáng em đã bị dựng dậy và phải đi một chuyến dài. Dựa vào lưng ghế, em ngủ thiếp đi. Cuối cùng, lên lớp xong, Fräulein Rottenmeier nói: – Bây giờ nhớ lấy những điều ta đã nói, Adelaide! Cháu có hiểu không? – Heidi ngủ lâu rồi! – Clara nói, mặt em nhăn lại vui thích, vì đã lâu lắm rồi em không có bữa ăn trưa nào thú vị thế. """