"
Hầu Tử Và Lão Hổ - Robert van Gulik & Nguyễn Việt Hải (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hầu Tử Và Lão Hổ - Robert van Gulik & Nguyễn Việt Hải (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Robert van Gulik
ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #6
HẦU TỬ VÀ LÃO HỔ The Monkey and the Tiger (1965) Nguyễn Việt Hải dịch
CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN
ĐOẠN CHỈ KÝ
ĐỊCH CÔNG: tức Địch Nhân Kiệt, Huyện lệnh Hán Nguyên dưới đời Đường năm 666.
ĐÀO CAM: một trong bốn phụ tá của Địch Công.
HOÀNG lang trung: chủ một hiệu thuốc.
LAM chưởng quỹ: chủ một hiệu cầm cố.
THẨM KIM: một gã du đãng.
THẨM VÂN: tiểu muội của Thẩm Kim.
TRƯƠNG VƯỢNG: đồng đảng của Thẩm Kim.
PHI HỔ ĐOÀN
ĐỊCH CÔNG: vị Thứ sử trên đường từ Bắc Châu về Kinh thành vào năm 676.
MẪN LƯƠNG: một trang chủ giàu có.
MẪN MAI NGỌC: nhi nữ của trang chủ.
MẪN QUỐC THÁI: thương nhân buôn trà, bào đệ của Mẫn trang chủ. NHAN NGUYÊN: tổng quản của Mẫn gia trang.
LIÊU LONG: quản gia của Mẫn gia trang.
THÚY CÚC: một nữ tì.
ĐOẠN CHỈ KÝ
(Vụ án bàn tay mất ngón)
Địch Công đang tận hưởng buổi sáng mùa hè mát lành bên hành lang chạy dài theo phía sau của tư thất. Ông vừa ăn xong bữa điểm tâm buổi sáng cùng mọi người trong nhà, và giờ ông đang thưởng trà một mình, đây là thói quen cố hữu trong suốt những năm ông làm Huyện lệnh Hán Nguyên. Ông kéo chiếc ghế mây lại gần lan can bằng cẩm thạch được chạm khắc. Chậm rãi vuốt bộ râu dài đen nhánh, ông khoan khoái ngồi ngắm hàng cây cao chót vót và cây bụi rậm rạp trên triền núi ngay phía trước chỗ ông ngồi, trông y như một bức tường màu xanh tươi mát. Từ bức tường ấy rộ lên tiếng những loài chim nhỏ ríu rít và cả bài ca râm ran của đám ve sầu hòa cùng. Ông nghĩ thật đáng tiếc khi những thời khắc thư nhàn để tận hưởng sự bình yên này chỉ là thoáng chốc. Chẳng mấy chốc, ông sẽ phải lên công đường để xem có công văn nào được chuyển đến hay không.
Bỗng trong đám lá có tiếng xào xạc và cành cây gãy. Hai bóng dáng lông lá đen thẫm đang chuyền qua những ngọn cây, đu từ cành này sang cành khác bằng đôi tay dài mảnh khảnh, để lại phía sau là một đám lá rụng lả tả. Địch
Công mỉm cười nhìn theo hai con khỉ. Ông chưa bao giờ chán ngắm vẻ uyển chuyển của lũ khỉ khi chúng nhào lộn. Khỉ vốn nhút nhát, chúng sống trên triền núi và đã quen với vị quan ngồi một mình ở đó mỗi sáng. Thỉnh thoảng, một trong hai con khỉ còn dừng lại một lát và khéo léo chụp lấy trái chuối Địch Công ném cho.
Đám lá lại xao động. Lúc này, một con khỉ khác xuất hiện. Nó chuyền rất chậm bằng một cánh tay dài duy nhất và đôi chân linh hoạt tựa như bàn tay. Nó đang ôm một vật nhỏ trên tay trái. Con khỉ dừng lại phía trước chỗ Địch Công và hạ mình xuống một cành thấp hơn, đôi mắt tròn và nâu nhìn sang vị quan án bằng vẻ tò mò. Lúc này, Địch Công mới thấy rõ vật trên tay nó - một chiếc nhẫn bằng vàng có gắn miếng ngọc màu lục lấp lánh. Ông biết lũ khỉ vẫn hay nhặt về những vật nhỏ mà chúng thích thú, nhưng hứng thú của chúng cũng chẳng được bao lâu, nhất là khi chúng thấy những thứ nhặt về không thể ăn được. Nếu ông không thể khiến con khỉ thả chiếc nhẫn
xuống ngay lúc này, nó có thể sẽ ném chiếc nhẫn vào đâu đó trong rừng, và chủ nhân chiếc nhẫn sẽ không bao giờ tìm lại được. ��
Địch Công trông thấy con khỉ đang nhìn mình
Vì Địch Công không còn chút hoa quả nào trong tay để khiến con khỉ mất tập trung với chiếc nhẫn, ông vội rút chiếc hộp nhỏ trong tay áo và bày những thứ trong đó ra bàn trà, cẩn thận xem xét từng thứ một. Ông liếc thấy con khỉ đang quan sát mình. Chẳng mấy chốc, nó đã bỏ rơi chiếc nhẫn, đu mình xuống cành cây thấp nhất và trụ lại đó hồi lâu bằng đôi tay dài xù xì, say sưa dõi theo từng cử chỉ của Địch Công. Địch Công thấy có vài cọng rơm trên bộ lông đen nhánh của con khỉ. Ông không thể đánh lạc
hướng nó quá lâu. Con khỉ kêu lên “oác oác” mấy tiếng thân thiết rồi lại trèo lên một cành cao hơn và biến mất giữa đám lá xanh.
Địch Công bước qua lan can và xuống chỗ những tảng đá xanh rêu xếp thành hàng dưới chân dốc núi. Ông nhanh chóng phát hiện ra chiếc nhẫn lấp lánh. Ông nhặt lên và lại treo lên hành lang. Quan sát kĩ hơn thì thấy đó hóa ra là một chiếc nhẫn lớn, rõ ràng là loại nhẫn dành cho nam nhân. Chiếc nhẫn được thiết kế từ hai con rồng bằng vàng cuộn xoắn lấy nhau, và một miếng ngọc lục bảo to lớn khác thường loại thượng đẳng. Chủ nhân chiếc nhẫn chắc sẽ rất mừng khi tìm lại được món đồ cổ giá trị này. Ngay khi ông định bỏ chiếc nhẫn vào tay áo, ông để ý đến những đốm màu nâu như gỉ sắt ở phần bên trong chiếc nhẫn. Ông nhíu mày nhìn kĩ. Những dấu vết đó trông giống vết máu khô một cách lạ lùng.
Ông quay lại và vỗ tay. Khi lão quản gia chạy đến, ông hỏi: “Lão quản gia, trên sườn núi đằng kia có nhà dân nào không?”
“Bẩm đại nhân, không hề có. Sườn núi ấy quá dốc, lại chỉ toàn rừng rậm che phủ. Tuy nhiên có vài tĩnh xá trên đỉnh núi.”
“Phải rồi, ta nhớ đã trông thấy những căn tĩnh xá đó. Ngươi có biết ai đang sống trên đó không?”
“Bẩm đại nhân, có Lam chưởng quỹ, chủ một cửa hiệu cầm cố. Và cả một lang trung họ Hoàng.”
“Ta không biết người họ Lam ấy. Còn ngươi vừa nói là Hoàng lang trung ư? Ý ngươi là người chủ hiệu thuốc ngoài chợ, đối diện miếu Khổng Tử? Một người nhỏ nhắn, sang trọng và luôn có vẻ âu lo?”
“Bẩm đại nhân, đúng là vậy. Ông ta cũng có lý do chính đáng để luôn âu sầu. Nô tài nghe nói, năm nay công việc làm ăn của ông ta không thuận lợi. Và nhi tử độc nhất của ông ta lại là người thiểu năng. Cậu ta sang năm sẽ tròn hai mươi tuổi, nhưng vẫn không thể đọc hay viết. Nô tài không biết cậu ta rồi sẽ thành người thế nào…”
Địch Công lơ đãng gật đầu. Căn tĩnh xá chắc vắng người, vì lũ khỉ không dám bén mảng đến nơi có người sinh sống. Đương nhiên, con khỉ có thể nhặt được chiếc nhẫn ở một góc vườn vắng vẻ trên đó. Nhưng rồi sau đó
nó có thể ném chiếc nhẫn đi trước khi nó đi qua khu rừng và xuống đến chân núi. Con khỉ chắc chắn đã nhặt được chiếc nhẫn ở quãng dưới này.
Ông bỏ qua lão quản gia và lại ngắm nghía chiếc nhẫn. Miếng ngọc lục bảo óng ánh này dường như bỗng xỉn màu, biến thành một con mắt sầu thảm nhìn xoáy vào ông bằng ánh mắt tang tóc. Khó chịu vì chính nỗi bối rối của mình, ông vội bỏ chiếc nhẫn vào tay áo. Ông sẽ phải ra cáo thị về chiếc nhẫn này, rồi chủ nhân của nó sẽ sớm đến huyện nha trình diện và mọi chuyện sẽ kết thúc ở đó. Ông vào trong, đi về tư thất của mình ở hoa viên phía trước, rồi từ đó lên thẳng sân chính của huyện nha.
Không gian dịu mát vì những tòa nhà lớn bao quanh sân đã ngăn lại ánh nắng buổi sáng. Bộ đầu của huyện nha đang kiểm tra lại quân bị cho hơn mười người dưới quyền, họ xếp hàng trong sân. Tất cả đều quay sang khi thấy Huyện lệnh đến. Địch Công định đi nhanh qua, lên công đường ở phía bên kia sân, nhưng bỗng một ý nghĩ khiến ông dừng bước. Ông hỏi Bộ đầu:
“Ngươi có biết tư gia nào trong khu rừng trên sườn núi phía sau huyện nha không?”
“Bẩm đại nhân, thuộc hạ không biết. Theo như thuộc hạ nhớ thì ở đó không có nhà dân. Tuy vậy, ở lưng chừng núi có một căn lều. Loại lều nhỏ bằng gỗ, vốn là của một tiều phu. Bấy lâu nay chỗ đó bị bỏ không.” Rồi y nghiêm nghị nói thêm, “Đám du đãng vẫn hay ở lại đó qua đêm. Vậy nên thuộc hạ mới phải lên đó thường xuyên. Chỉ để đảm bảo chúng không gây ra tai họa gì.”
Lời này có vẻ hợp lý. Trong một căn lều bỏ hoang, ở lưng chừng núi… “Ngươi nói thế nào là thường xuyên?” Ông hỏi sắc lạnh.
“Bẩm đại nhân, ý thuộc hạ là… khoảng hai tháng một lần. Thuộc hạ…”
“Ta không gọi đó là thường xuyên!” Địch Công ngắt lời y. “Ta muốn ngươi…” Ông bỏ lửng câu hỏi. Không được. Cảm giác băn khoăn, mơ hồ không khiến ông mất bình tĩnh. Chắc chắn là bữa điểm tâm chưa tiêu trong bụng đã phá hỏng tâm trạng thư thái, an lạc của ông. Ông sẽ không ăn thịt vào bữa điểm tâm nữa… Ông hỏi lại bằng vẻ thân tình hơn:
“Bộ đầu, căn lều ấy cách đây bao xa?”
“Bẩm đại nhân, chỉ tầm một khắc* đi bộ. Có một lối mòn nhỏ dẫn lên sườn núi.”
1 khắc bằng 15 phút.
“Được rồi. Hãy đi gọi Đào Cam đến đây!”
Bộ đầu chạy lên công đường. Y quay lại cùng một nam nhân trung tuổi, người gầy, mặc ngoại y màu nâu đã bạc màu, đội mũ có chóp cao bằng vải sa đen. Người này có khuôn mặt dài, u buồn, bộ ria mép rũ xuống và cằm lưa thưa râu, có ba sợi lông dài rủ xuống từ nốt ruồi trên má trái. Đào Cam vừa thi lễ, Địch Công đã kéo y đến một góc sân. Ông cho y xem chiếc nhẫn và thuật lại chuyện mình có được nó.
“Ngươi có thể trông thấy vết máu khô bám trên đó. Có thể chủ nhân chiếc nhẫn đã bị đứt tay khi đi trong rừng. Người này đã tháo chiếc nhẫn ra trước khi xuống suối rửa tay, rồi con khỉ đã lấy mất chiếc nhẫn. Vì đây là một vật giá trị, và cũng vì chúng ta vẫn có nửa canh giờ* trước phiên thăng đường buổi sáng, chúng ta sẽ lên núi và tìm kiếm. Có thể chủ nhân chiếc nhẫn vẫn còn quanh quẩn đi tìm nhẫn. Tín sứ có đem đến thư từ quan trọng nào không?”
1 canh giờ bằng 2 tiếng.
Khuôn mặt dài và xám của Đào Cam chùng xuống, y đáp:
“Có tin của Hồng Sư gia từ huyện Giang Hạ. Ông ấy nói Mã Vinh và Kiều Thái vẫn chưa thể tìm ra được manh mối.”
Địch Công cau mày. Hồng Sư gia và hai vị phụ tá kia đã lên đường sang huyện Giang Hạ từ hai ngày trước đó để trợ giúp người bạn đồng liêu của ông xử lý một vụ án khó khăn cần điều tra trên nhiều khu vực trong huyện. “Chà”, ông thở dài, “đi nào. Tốt nhất nên khẩn trương!” Ông ra hiệu cho Bộ đầu và bảo y cùng hai Bộ khoái khác đi cùng.
Năm người ra khỏi huyện nha bằng lối cổng sau và đi theo con đường nhỏ đầy bùn đất. Bộ đầu dẫn mọi người đến lối mòn dẫn lên khu rừng.
Lối mòn uốn lượn như rắn bò nhưng vẫn dốc nên khi leo lên khá tốn sức. Mọi người không gặp một ai và âm thanh duy nhất họ nghe được là tiếng bầy chim líu lo trên những vòm lá. Đi được một lúc, Bộ đầu dừng lại và chỉ vào đám cây cao trước mặt.
“Đại nhân, căn lều ở đó!” Y nói.
Năm người nhanh chóng tìm được một khoảnh rừng thưa có những cây sồi cao lớn bao quanh. Phía trong cùng có một căn lều nhỏ dựng từ những khúc gỗ, mái tranh đã phủ kín rêu. Cửa đóng then cài. Phía trước là một gốc cây già được dùng làm thớt bổ củi; bên cạnh đó có một đống rơm. Tất cả đều cô liêu, hoang lãnh, rõ ràng đã lâu không một bóng người lui tới.
Địch Công bước qua đám cỏ ẩm ướt và cao ngút, kéo cửa mở tung. Trong bóng tối lờ mờ, ông thấy một cái bàn bằng gỗ thông và hai chiếc ghế đẩu, kê sát tường là chiếc giường phản trơ trọi. Trên nền đất phía trước bàn là thân hình bất động của một nam nhân. Ông ta mặc một bộ đồ màu lam bạc
phếch, quai hàm đã vẹo, hai mắt mở trừng trừng.
Địch Công vội quay lại và lệnh cho Bộ đầu mở cửa sổ ra. Rồi ông cùng Đào Cam ngồi xuống bên thân hình sõng soài kia. Đó là một người trung niên, gầy mà cao. Ông ta có khuôn mặt rộng và cân đối, ria mép ngả xám và chòm râu cằm được tỉa gọn gàng. Phần tóc hoa râm trên đỉnh đầu còn đọng lại một đám máu khô. Tay phải người này thu lại trên ngực, tay trái duỗi thẳng dọc cơ thể. Địch Công cố nhấc cánh tay trái người nọ lên nhưng thấy cánh tay ông ta đã cứng đờ. “Người này chắc chắn chết từ đêm qua!” Ông thì thầm.
“Đại nhân, bàn tay trái của nạn nhân làm sao vậy?” Đào Cam hỏi.
Bốn ngón tay đã bị chặt đứt, chỉ chừa lại đốt tay cuối cùng, cả bốn đều bê bết máu. Chỉ ngón cái là còn nguyên vẹn.
Địch Công xem xét kĩ bàn tay cụt ngón rám nắng này.
“Đào Cam, ngươi có thấy trên phần đốt còn lại của ngón trỏ có một vòng da trắng không? Đường nét tương xứng với đường nét của hình rồng cuộn trên chiếc nhẫn ngọc lục bảo. Linh cảm của ta đã đúng. Đây chính là chủ nhân của chiếc nhẫn, và ông ta đã bị sát hại.” Ông đứng lên bảo Bộ đầu, “Mau bảo người của ngươi đưa thi thể ra ngoài!”
Trong khi hai Bộ khoái đưa thi thể đi, Địch Công và Đào Cam vội khám xét căn lều. Nền đất, bàn ghế đều phủ một lớp bụi dày, nhưng chiếc giường ván vẫn hoàn toàn sạch sẽ. Họ không thấy một dấu máu nào. Chỉ xuống nhiều vết chân lẫn lộn trên đám bụi dưới đất, Đào Cam nhận định:
“Rõ ràng có một số người đã ở đây đêm qua. Dấu chân này hình như là dấu giày của một nữ nhân, giày vừa nhỏ vừa có mũi nhọn. Và có cả dấu giày của một nam nhân, còn cả một dấu chân to lớn nữa!”
Địch Công gật đầu. Ông xem xét nền đất một lúc rồi nói, “Ta không thấy bất cứ dấu vết nào cho thấy xác người kia bị kéo lê trên nền đất, vậy chắc hẳn nó đã được khiêng vào trong lều này. Bọn chúng đã cẩn thận lau sạch chiếc giường ván. Rồi thay vì đặt cái xác lên giường, chúng lại bỏ lại cái xác dưới nền đất! Thật lạ lùng! Chà, hãy đi quan sát cái xác kia một lần nữa.”
Ra ngoài, Địch Công chỉ lên đống rơm và bảo:
“Đào Cam à, tất cả đều đúng như ta nghĩ. Ta đã nhận thấy một cọng rơm bám trên lông con khỉ. Khi xác chết được khiêng vào lều, chiếc nhẫn tuột khỏi đốt ngón trỏ của bàn tay trái và rơi vào đám rơm. Sáng sớm nay, lúc con khỉ đi ngang qua đây, con mắt tinh tường của nó đã phát hiện ra một
vật lấp lánh giữa đám rơm và nó đã nhặt lên. Chúng ta tốn một khắc để đến đây bằng con đường mòn quanh co, nhưng nếu theo đường chim bay, thì từ
đây đến rặng cây ở chân dốc núi phía sau huyện nha chỉ là một đoạn đường ngắn. Con khỉ không mất nhiều thời gian khi tung mình trên những ngọn cây.”
Đào Cam cúi xuống và quan sát thớt bổ củi.
“Đại nhân, ở đây cũng không có dấu máu. Và cũng không thấy bốn đốt ngón tay bị chặt kia đâu cả.”
“Rõ ràng người này đã bị chặt các đốt ngón tay và sát hại ở nơi khác”, Địch Công nói. “Sau đó, thi thể ông ta mới được đem đến đây.”
“Đại nhân, hung thủ chắc chắn là người khỏe mạnh. Không dễ gì để vác một người lên tận đây. Trừ khi hung thủ có đồng mưu.”
“Kiểm tra thi thể này đi!”
Trong lúc Đào Cam bắt đầu rà soát y phục của nạn nhân, Địch Công thận trọng xem xét phần đầu của ông ta. Ông nghĩ người này bị đánh mạnh vào đầu từ phía sau bằng một vật tuy hơi nhỏ nhưng nặng, có thể là một cây búa sắt. Rồi ông xem đến bàn tay phải còn nguyên vẹn. Lòng bàn tay và bên dưới các ngón tay đều đã chai cứng, nhưng những móng tay lại khá dài và sạch sẽ.
“Đại nhân, hoàn toàn không thu được gì!” Đào Cam đứng thẳng người. “Một chiếc khăn tay cũng không! Hung thủ chắc đã lấy đi mọi thứ có liên quan đến danh tính nạn nhân.”
“Tuy nhiên, chúng ta đã có được chiếc nhẫn”, Địch Công nói. “Hung thủ chắc chắn có ý định lấy chiếc nhẫn. Khi thấy chiếc nhẫn biến mất, hắn đã nhận ra chiếc nhẫn bị rơi khỏi ngón tay cụt ở đâu đó trên đường lên đây. Có lẽ hắn đã cầm đèn lồng đi tìm kiếm nhưng vô ích.” Ông quay sang Bộ đầu, lúc này y vẫn đang ngậm cây tăm xỉa răng với vẻ mặt nhàm chán, ông xẵng giọng:
“Ngươi đã gặp người này bao giờ chưa?”
Bộ đầu bấy giờ mới giật mình để ý.
“Bẩm đại nhân, thuộc hạ chưa bao giờ gặp ông ta!” Y nhìn sang hai Bộ khoái với vẻ dò hỏi. Khi cả hai cùng lắc đầu, y nói thêm:
“Đại nhân, có thể đây là một gã du đãng trong huyện.”
“Bảo người của ngươi lấy cành cây làm cáng và đưa thi thể này về huyện nha. Bảo các Lục sự và những người còn lại của huyện nha cùng đến xem, để xem có ai biết người này không. Sau khi đến báo cho Ngỗ tác, ngươi hãy đến hiệu thuốc của Hoàng lang trung gần chợ, bảo ông ta đến gặp ta ở tư phòng.”
Trong khi đi xuống núi, Đào Cam tò mò hỏi:
“Đại nhân, ngài nghĩ vị lang trung ấy sẽ biết được nhiều điều về vụ này ư?”
“Không hề. Nhưng ta chợt nhận thấy, cũng có khả năng thi thể này được đưa từ trên kia xuống, chứ không nhất định là đưa từ dưới núi lên! Bởi thế, ta muốn hỏi Hoàng lang trung xem đêm qua trên đỉnh núi có đám giang hồ, du đãng nào loạn đả không. Cùng một công, ta cũng muốn hỏi luôn ông ta xem còn ai sống trên đó nữa, ngoài ông ta và Lam chưởng quỹ. Ôi trời, y bào của ta bị vướng vào gai rồi!”
Trong lúc Đào Cam gỡ nhánh gai ra, Địch Công nói tiếp, “Y phục của nạn nhân cho thấy ông ta là một phu phen hoặc một người thợ thủ công, nhưng ông ta lại có khuôn mặt của một nho sĩ. Và bàn tay rám nắng, chai sạn nhưng sạch sẽ của ông ta cho thấy đây là người vừa giàu có, vừa có học thức, thích ngao du. Ta có thể kết luận rằng ông ta là bậc thượng lưu nhờ vào chiếc nhẫn ngọc lục bảo đắt tiền mà ông ta sở hữu.”
Suốt dọc đường còn lại, Đào Cam chỉ giữ im lặng. Tuy nhiên, khi về đến con đường lầy lội ban nãy, y lại từ tốn hỏi:
“Thuộc hạ không nghĩ chiếc nhẫn đắt tiền ấy chứng minh nạn nhân là một người giàu có. Đám lừa đảo trên giang hồ vẫn luôn mê tín. Chúng hay đeo
trên người một vài báu vật mà chúng lấy trộm được, chỉ vì chúng tin rằng những vật ấy sẽ đem lại may mắn.”
“Chà, cũng có thể lắm. Ta sẽ đi thay đồ vì ta ướt sũng rồi. Lát nữa, ngươi hãy đến gặp ta ở tư phòng.”
Sau khi Địch Công tắm rửa và đổi sang bộ lễ bào bằng gấm thêu kim tuyến màu lục, ông chỉ còn đủ thời gian để uống một chén trà. Đào Cam giúp ông đội mũ cánh chuồn và hai người cùng lên đại đường, kế liền bên tư phòng
của Địch Công. Chỉ có một vài thủ tục thường nhật nên Địch Công vỗ án bãi đường chỉ sau chưa đầy nửa canh giờ. Trở về tư phòng, ông buông mình xuống chiếc ghế lớn sau án thư, gạt chồng văn thư sang một bên và đặt chiếc nhẫn ngọc lục bảo xuống trước mặt mình. Rồi ông rút chiếc quạt trong tay áo ra, vừa nói vừa chỉ vào chiếc nhẫn:
“Đào Cam, một trường hợp lạ lùng! Những ngón tay cụt có thể mang ý nghĩa gì đây? Hung thủ đã tra tấn nạn nhân trước khi giết ông ta, để buộc ông ta phải nói ra điều gì sao? Hay hắn đã chặt những ngón tay sau khi giết nạn nhân, vì những ngón tay có dấu hiệu nào đó thể hiện danh tính người chết?”
Đào Cam không đáp ngay. Y rót một chén trà nữa cho Địch Công, rồi lại ngồi xuống chiếc ghế đẩu phía trước án thư và chậm rãi vuốt mấy sợi lông dài trên má trái.
“Vì cả bốn ngón tay dường như đã bị chặt đứt cùng lúc bằng một nhát chém, thuộc hạ nghĩ giả định thứ hai của đại nhân sẽ hợp lý. Theo lời Bộ đầu, căn lều bỏ không ấy vẫn có bọn du đãng lui tới. Bây giờ, nhiều đám du đãng giang hồ đã được tổ chức thành từng bang hoặc những hội nhóm bí mật. Những kẻ muốn gia nhập đều phải thề sẽ tuyệt đối trung thành với tên cầm đầu. Để chứng minh lòng trung thành và dũng khí, bản thân kẻ xin gia nhập phải tự chặt đứt đầu ngón út của bàn tay trái. Nếu đây quả thực là một nhóm hung thủ, thì đám giết người này có thể đã lấy đi bốn ngón tay hòng giấu đi chi tiết đầu ngón tay út bị chặt, như vậy chúng đã hủy đi một manh mối quan trọng về tội ác.”
Địch Công gõ chiếc quạt xuống bàn.
“Ý hay đấy, Đào Cam. Hãy cứ cho rằng ngươi đã đúng. Trong trường hợp đó…”
Có tiếng gõ cửa. Ngỗ tác bước vào và kính cẩn chào Địch Công. Ông ta đặt lên án thư một tờ giấy theo đúng thể thức của quan lại, trên đó đã được viết kín chữ.
“Bẩm đại nhân, đây là bản tường trình về việc khám nghiệm tử thi của tiểu nhân. Tiểu nhân đã viết rất chi tiết, chỉ còn thiếu danh tính của nạn nhân. Người chết tầm khoảng năm mươi tuổi, có vẻ có sức khỏe tốt. Tiểu nhân không thấy trên thân thể ông ta có bất cứ khiếm khuyết, sẹo, hay những dấu vết được cha mẹ đánh dấu khi vừa sinh ra. Cũng không có vết bầm giập hay những vết tích của xung đột. Người này bị giết do bị đánh mạnh vào phía sau đầu, có thể hung khí là một vật cứng bằng sắt. Bốn ngón tay trái đã bị chặt đứt, có thể ngay trước hoặc sau khi ông ta bị hại. Người này rõ ràng đã bị giết vào đêm qua.”
Ngỗ tác gãi đầu, rồi lại rụt rè nói:
“Tiểu nhân xin thú thực với đại nhân, tiểu nhân thấy khó hiểu về những phần ngón tay bị mất. Tiểu nhân không thể hiểu chúng đã bị chặt đứt như thế nào. Phần xương ở đốt ngón tay còn lại không hề giập nát, phần thịt ở những vết cắt cũng không bị biến dạng, trên da không có vết rách. Bàn tay chắc đã xòe rộng trên một mặt phẳng, rồi cả bốn ngón tay bị chặt cùng lúc bằng một nhát chém của một thứ hung khí có lưỡi rất sắc. Nếu nhát chém này là của một lưỡi phủ* lớn hoặc một thanh kiếm, kẻ ra tay sẽ không thể để lại một đường chém đều và gọn như vậy. Tiểu nhân thực sự không biết phải nghĩ sao nữa!”
Một loại vũ khí dạng rìu.
Địch Công liếc qua bản tường trình. Ông ngẩng lên hỏi Ngỗ tác: “Chân nạn nhân thì sao?”
“Bẩm đại nhân, đôi chân cho thấy đây là một người thích lang bạt. Trên bàn chân có những vết chai cứng đặc trưng của người hay đi bộ, những
móng chân đều vẹo vọ và nham nhở. Đôi chân này chứng tỏ nạn nhân là một người đi bộ đường trường và thường đi chân trần.”
“Ta hiểu. Có ai nhận ra danh tính của ông ta không?”
“Bẩm đại nhân, không ai nhận ra cả. Tiểu nhân cũng đã có mặt trong khi người của huyện nha đến nhận diện thi thể. Không một ai từng gặp người này.”
“Cảm ơn ngươi. Ngươi có thể ra về.”
Bộ đầu nãy giờ vẫn đợi ngoài hành lang, thấy Huyện lệnh đã trò chuyện xong liền bước vào và báo có Hoàng lang trung vừa đến.
Địch Công thu chiếc quạt lại. “Đưa ông ta vào!” Ông lệnh cho Bộ đầu.
Vị lang trung này là người nhỏ nhắn, lanh lợi, lưng hơi gù, ăn vận gọn gàng với bộ y phục bằng lụa màu đen và kiểu mũ mà các lang trung thường đội. Khuôn mặt ông ta hơi tái, có phần dè dặt, nổi bật là bộ ria mép và chòm râu đen nhánh. Ông ta thi lễ, Địch Công niềm nở nói:
“Hoàng lang trung, mời ngồi! Ở đây không phải là công đường. Xin thứ lỗi vì bản quan đã làm phiền ông, nhưng ta cần vài thông tin về mọi chuyện trên ngọn núi phía sau huyện nha. Đương nhiên ban ngày ông luôn ở hiệu thuốc ngoài chợ, nhưng ta nghĩ đến tối và đêm ông đều sẽ ghé về tĩnh xá trên núi, đúng chứ?”
“Bẩm đại nhân, quả có vậy”, Hoàng lang trung đáp bằng vẻ điềm đạm, nhã nhặn. “Vào thời điểm này trong năm, không khí trên đó thoáng mát hơn dưới trấn.”
“Đúng thế. Ta nghe nói một đám giang hồ đã gây náo loạn ở trên đó đêm qua.”
“Bẩm đại nhân, không hề có chuyện đó. Đêm qua trên ấy hoàn toàn yên bình. Quả là có một số tên giang hồ du đãng quanh quẩn ở đó. Chúng đi lại trong rừng vào đêm, vì sợ nếu vào thành đúng giờ giới nghiêm thì sẽ bị
lính tuần bắt giữ. Sự hiện diện của đám vô lại đó chỉ là trở ngại của những khu vực giàu có nhất. Đôi khi, người ta nghe thấy chúng hò hét và cãi lộn trên đường, nhưng tất cả những tĩnh xá trên đó, bao gồm cả tĩnh xá của tiểu nhân, đều kín cổng cao tường, chúng tiểu nhân không phải lo bị trộm cướp, nên cứ mặc kệ bọn chúng thôi ạ.”
“Hoàng lang trung, ta sẽ hiểu rõ mọi chuyện nếu ông cũng hỏi cả đám gia nhân của mình. Chúng không gây nhiễu loạn trên đường mà là trong khu rừng phía sau tĩnh xá của ông.”
“Đại nhân, tiểu nhân xin thưa rằng gia nhân nhà tiểu nhân chưa hề trông thấy hoặc nghe thấy bất cứ chuyện gì. Tiểu nhân đã ở đó suốt cả tối hôm qua, và chủ tớ không một ai ra ngoài. Đại nhân có thể hỏi Lam chưởng quỹ, người chủ hiệu cầm cố. Ông ta sống cạnh đó, và… giờ giấc của ông ta có phần thất thường.”
“Hoàng lang trung, còn ai khác sống trên đó nữa không?”
“Bẩm đại nhân, hiện tại thì không. Còn ba tĩnh xá khác nữa, nhưng cả ba đều thuộc về những thương nhân giàu có đến từ kinh thành. Họ chỉ đến nghỉ dưỡng vào mùa hè. Hiện nay, cả ba tĩnh xá ấy đều không có người ở.”
“Ta hiểu rồi. Xin đa tạ Hoàng lang trung. Ông có thấy phiền không nếu đến nhà xác cùng Bộ đầu? Ta muốn ông xem xét thi thể của một lão du đãng, và cho ta biết gần đây ông có gặp ông ta ở khu vực quanh tĩnh xá của mình không.”
Sau khi vị lang trung cúi mình và lui bước, Đào Cam nói:
“Chúng ta cũng phải tính đến khả năng người kia bị sát hại trong trấn. Trong một tửu điếm hoặc một nhà thổ của đám hạ lưu.”
Địch Công lắc đầu.
“Đào Cam à, nếu có chuyện đó, bọn chúng sẽ chôn giấu cái xác hoặc ném xuống giếng cạn để phi tang. Chúng không bao giờ dám liều lĩnh chuyển cái xác lên triền núi, vì chúng sẽ phải đến gần huyện nha này.” Ông lại lấy
chiếc nhẫn trong tay áo ra và trao cho Đào Cam. “Trước lúc Ngỗ tác đến, ta vừa định nhờ ngươi xuống phố và đem chiếc nhẫn này đến chỗ những hiệu cầm cố nhỏ. Giờ ngươi có thể đi rồi. Không cần lo lắng về những công vụ thường nhật ở công đường! Sáng nay ta sẽ tự lo liệu.”
Ông mỉm cười khích lệ người phụ tá rồi bắt đầu xem xét những tín thư được gửi đến huyện nha sáng nay. Ông sai người đi lấy những tài liệu cần thiết trong thư khố và bắt đầu xử lý mọi việc. Ông chỉ bị gián đoạn một lần duy nhất, đó là khi Bộ đầu vào trình báo Hoàng lang trung đã xem xét thi thể và nói mình không nhận ra nạn nhân là ai.
Buổi trưa, Địch Công bảo người đem đến một tô cháo kèm dưa muối. Ông ăn ngay tại tư phòng, chỉ có một nha lại phục vụ. Trong khi thưởng trà, ông hình dung lại vụ kẻ du đãng bị giết vừa rồi. Ông chậm rãi lắc đầu. Dù mọi manh mối đều chỉ đến một đám hung thủ, nhưng ông vẫn muốn tìm ra một lời giải khác. Tuy vậy, ông phải thừa nhận rằng mọi nghi vấn đều chưa đủ
thuyết phục. Ông chỉ tin chắc rằng người chết không phải là một gã lang thang, mà là một học sĩ uyên thâm, và một nhân vật có tầm ảnh hưởng. Ông quyết định sẽ không nói ra sự thiếu quyết đoán của mình với phụ tá vội. Đào Cam mới chỉ phục vụ cho ông được mười tháng, y nóng vội đến mức Địch Công bất đắc dĩ phải kiềm chế y bằng cách truy vấn lại giả thuyết của y về ý nghĩa quan trọng của những ngón tay bị mất. Và thật sai lầm khi dạy y điều tra bằng linh cảm thay vì thông qua lập luận có cơ sở!
Địch Công thở dài rồi đặt chén trà xuống và kéo tập hồ sơ lại phía mình. Trong đó là những văn thư liên quan đến vụ buôn lậu ở huyện Giang Hạ.
Bốn ngày trước, quan quân đã bất ngờ bắt quả tang ba kẻ đang tìm cách đưa hai chiếc rương qua sông, con sông vốn là ranh giới giữa hai huyện. Đám người này bỏ trốn vào khu rừng ở huyện Giang Hạ, để lại hai chiếc
rương. Bên trong rương chứa đầy những gói nhỏ đựng vàng cám, bạc cám, long não, thủy ngân và nhân sâm - loại rễ thuốc giá trị được đem về từ Cao Câu Ly*. Những món hàng này đều phải chịu thuế rất nặng. Vi vụ tịch biên này diễn ra ở huyện Giang Hạ, vụ án do Huyện lệnh Giang Hạ - người bạn đồng liêu của Địch Công lo liệu. Nhưng vô tình ông ta lại thiếu người phụ giúp và nhờ Địch Công tương trợ. Địch Công lập tức đồng ý, ông vốn sẵn
sàng vì nghi ngờ đám buôn lậu còn có đồng phạm trong chính huyện mà ông cai quản. Ông cử vị quân sư trung tín của mình là Hồng Lượng sang huyện Giang Hạ, cùng đi với lão là Mã Vinh và Kiều Thái. Họ đặt nhiệm sở tại một đồn binh nằm bên cây cầu bắc qua sông.
Cao Câu Ly (37 TCN - 688): một vương quốc ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên và Mãn Châu.
Địch Công rút trong tập văn thư ra một tập địa đồ của vùng này rồi chăm chú ngồi xem. Mã Vinh và Kiều Thái cùng quan binh đã đi lùng tìm khắp khu rừng, hỏi những nông phu sống ở cánh đồng gần đó, nhưng tuyệt không thu được manh mối nào. Thật là một sự vụ nan giải, vì các vị thượng quan luôn sát sao theo dõi chuyện trốn thuế đường. Tri phủ đại nhân - vị thượng quan trên quyền Địch Công và Huyện lệnh Giang Hạ - đã gửi một bức thư có tính cấp thiết, vì số lượng hàng buôn lậu lớn và có giá trị cao như vậy chứng tỏ đám buôn lậu trong vùng không hề ngẫu nhiên ra tay. Phía sau chúng chắc chắn có một thế lực đầy quyền uy chỉ đạo mọi đường đi nước bước. Cần bắt khẩn cấp ba tên buôn lậu này, sau đó có thể bắt chúng khai ra danh tính những kẻ cầm đầu đứng sau. Các thượng quan ở kinh thành ngờ rằng đầu sỏ chính là một kẻ có quyền lực về tài chính ở kinh thành. Nếu không lần ra được tên cầm đầu này, nạn buôn lậu vẫn sẽ tiếp diễn.
Địch Công lắc đầu rồi tự rót một chén trà nữa.
Đào Cam nhọc nhằn ra đến chợ, tâm trạng y rất bức bối. Trong khu phố nóng nực và nặng mùi phía sau chợ cá dưới phố, y đã ghé qua sáu, bảy hiệu cầm cố và dò hỏi cặn kẽ ở nhiều tiệm kim hoàn nhỏ, kể cả một số quán trọ tồi tàn và những nơi trú chân của đám hành khất. Không ai từng trông thấy chiếc nhẫn ngọc lục bảo có rồng cuộn này bao giờ, cũng chưa từng nghe đến vụ xung đột của một bang phái nào ở trong thành hoặc ngoài thành.
Y leo lên từng bậc đá dẫn vào miếu Khổng Tử, trên đó bày la liệt những quầy hàng của đám bán hàng rong. Y ngồi xuống chiếc ghế đẩu bằng tre phía trước quầy bán bánh khô.
Xoa bóp hai bắp chân đau mỏi, y buồn bã nghĩ mình đã không hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên mà Địch Công giao riêng cho mình; vì trước giờ y vẫn luôn có Mã Vinh và Kiều Thái đồng hành. Y đã mất đi cơ hội hiếm hoi để chứng minh nhuệ khí của mình! “Phải rồi”, y tự bảo, “ta thiếu sức mạnh thể chất và kinh nghiệm điều tra của những đồng sự kia, nhưng về khoản hiểu biết những đường ngang ngõ tắt trong giới giang hồ thì ta đâu thua kém họ, nếu không muốn nói là ta còn hiểu hơn họ! Tại sao…?”
“Đây là chỗ để người ta làm ăn, không phải để ngươi tự do nghỉ chân đâu!” Gã bán bánh cục cằn nói. “Hơn nữa, cái bộ mặt dài ngoằng của ngươi đuổi mất khách của ta đấy!”
Đào Cam khó chịu nhìn sang gã và bỏ ra năm đồng xu để mua một nắm bánh khô. Như vậy là đủ cho bữa trưa, vì y vốn là người dè sẻn. Vừa trệu trạo nhai bánh, y vừa dò xét quanh khu chợ. Y thầm ghen tị khi nhìn sang mặt tiền xa hoa, được trang trí hoành tráng bằng những bức hoành phi phủ vàng của hiệu thuốc Hoàng lang trung bên kia phố. Một tòa nhà lớn bằng đá xám bên cạnh đó trông giản dị nhưng lại rất đàng hoàng. Bên trên những khung cửa sổ có chấn song có treo một tấm bài phường nhỏ, đề “Lam ký đương phố”*.
Hiệu cầm cố nhà họ Lam.
“Đám du đãng không thể lui tới một hiệu cầm cố hạng sang như vậy”, Đào Cam lẩm bẩm. “Nhưng dù sao ta cũng đã đến đây, ta cũng có thể quan sát được hiệu cầm cố đó. Lam chưởng quỹ có một tĩnh xá trên núi. Ông ta có thể đã nghe hoặc trông thấy chuyện gì đó đêm qua.” Y đứng lên và tìm đường lách qua khu chợ đông đúc.
Quầy của hiệu chắn ngang giữa đại sảnh rộng lớn. Tầm hơn mười người khách ăn vận lịch sự đang đứng phía trước quầy, trò chuyện rôm rả với mấy viên ký lục. Phía sau, một nam nhân to béo, vạm vỡ đang ngồi sau một chiếc bàn đồ sộ, những ngón tay trắng và mập gảy tanh tách trên chiếc bàn tính lớn. Đào Cam thò tay vào ống tay áo rộng và đưa một tấm danh thiệp màu đỏ rất ấn tượng cho viên ký lục đứng gần đó. Trên tấm thiệp có hàng chữ lớn, đề “Khang Đào, mua bán đồ kim ngân cổ”. Và ở một góc có
đề “Trường An đại châu bảo thương”*. Đây là một trong số những danh thiệp giả mà Đào Cam vẫn quen sử dụng trong suốt thời làm kẻ lừa đảo chuyên nghiệp; dù nay đã về dưới trướng Địch Công, y vẫn không thể bắt mình quên đi phương pháp này.
Thương nhân châu báu ở Trường An.
Khi viên ký lục đưa danh thiếp cho người to béo kia, y vội đứng dậy và lạch bạch tiến lại quầy. Khuôn mặt tròn trĩnh, kiêu căng của y toát ra một nụ cười thân thiện khi cất lời hỏi:
“Khách quan, tôi có thể giúp gì được ngài hôm nay?”
“Lam chưởng quỹ, ta chỉ muốn được nói chuyện riêng với ông. Một người bạn đã bán cho ta chiếc nhẫn ngọc lục bảo này với giá chỉ bằng một phần ba giá trị thật. Ta ngờ rằng nó là đồ ăn cắp, và muốn biết đã có ai từng đem nó đến đây cầm cố hay không.”
Vừa nói, y vừa lấy chiếc nhẫn từ trong tay áo ra và đặt lên mặt quầy. Khuôn mặt Lam chưởng quỹ chùng xuống.
“Không”, y cộc lốc đáp, “chưa bao giờ trông thấy chiếc nhẫn này.” Rồi y quát gã ký lục mắt lác đang ngó qua vai y:
“Không phải việc của ngươi!”
Đoạn quay sang Đào Cam:
“Khang đại gia, xin thứ lỗi, tôi không giúp được ngài!” Và y quay lại bàn.
Gã ký lục mắt lác nháy mắt với Đào Cam và hất hàm về phía cửa. Đào Cam gật đầu và ra ngoài. Trông thấy chiếc ghế bằng đá cẩm thạch bên cổng hiệu thuốc của Hoàng lang trung cạnh đó, y ngồi xuống và chờ.
Qua cánh cửa sổ để ngỏ, y say sưa quan sát mọi hoạt động bên trong hiệu thuốc. Hai người phụ việc đang chuyền những viên thuốc quanh những chiếc đĩa gỗ, một người khác đang thái một khúc rễ thuốc lớn trên một mặt
thớt kim loại có gắn lưỡi dao lớn. Hai người kia đang phân loại những con rết và nhện đã sấy khô; Đào Cam biết những loài vật này khi được đem vào cối giã cùng với lớp da lột của ve sầu và hòa trong rượu ấm thì có thể dùng làm thuốc trị ho rất hiệu quả.
Bỗng y nghe có tiếng bước chân. Gã ký lục mắt lác đến chỗ y và ngồi xuống bên cạnh.
“Lão chủ ngu ngốc của tại hạ đúng là có mắt như mù, không nhận ra đại gia”, hắn nở nụ cười tự mãn, “nhưng tại hạ nhận ra ngài ngay! Tại hạ nhớ rõ đã từng trông thấy ngài ở huyện nha, ngồi bên bàn của các Lục sự!”
“Muốn gì, nói ngay đi!” Đào Cam gắt lên.
“Tại hạ muốn nói là lão béo kia đã nói dối ngài, đại gia ạ! Lão đã trông thấy chiếc nhẫn này từ trước. Lão còn đứng bên quầy và cầm nó trên tay.”
“Chà chà. Ta cho là ông ta đã hoàn toàn quên rồi.”
“Không có chuyện đó đâu! Hai ngày trước, một cô nương vô cùng xinh đẹp đã đem chiếc nhẫn ấy đến đây. Ngay khi tại hạ vừa định hỏi nàng ta muốn cầm cố vật gì, thì lão chủ đã xuất hiện và đuổi tại hạ đi. Lão luôn mê luyến những nữ nhân trẻ tuổi, đúng là đồ già dê! Ôi, tại hạ đã quan sát cả hai người bọn họ, nhưng không thể nghe ra họ đang thì thào bàn tán chuyện gì. Cuối cùng, cô thôn nữ ấy lại cầm chiếc nhẫn lên và bỏ đi.”
“Cô nương ấy là người thế nào?”
“Không phải một phu nhân, tại hạ dám chắc! Mặc một bộ y phục vá víu, trông như một tiểu tì phục vụ trong bếp. Trời ạ, nếu tại hạ giàu có, tại hạ sẽ không muốn có một nữ hầu như vậy trong nhà mình, tuyệt nhiên không! Thật không đáng để mắt tới! Tại hạ cũng xin nói luôn, lão chủ là một kẻ lừa đảo. Lão ta chỉ chuyên các loại giao dịch mờ ám, và cũng hay tìm cách trốn thuế.”
“Ngươi có vẻ không ưa ông chủ của mình lắm.”
“Đại gia, ngài không biết lão ta bóc lột người khác thế nào đâu! Lão và tên nhi tử kiêu căng của lão luôn soi mói tại hạ và những người làm công khác, thành ra chúng tại hạ không thể nhặt nhạnh thêm chút của rơi vãi nào!” Viên ký lục buông tiếng thở dài, rồi nói tiếp:
“Nếu huyện nha trả cho tại hạ mười xu một ngày, tại hạ sẽ thu thập được bằng chứng về tội trốn thuế của lão ta. Còn đối với những tin tức mà tại hạ vừa cung cấp cho đại gia, xin hãy cho hai mươi lăm xu.”
Đào Cam đứng dậy và vỗ vai hắn.
“Anh bạn, cứ tiếp tục đi!” Y niềm nở bảo. “Rồi trong tương lai, ngươi cũng sẽ trở thành một tên lưu manh phì độn, ngồi gảy bàn tính.” Rồi y lạnh lùng, “Nếu ta cần, ta sẽ cho tìm ngươi. Xin cáo từ!”
Gã ký lục thất vọng, vội vã quay lại hiệu cầm cố. Đào Cam khoan thai đi theo hắn. Vào trong, y gõ những ngón tay xương xẩu lên mặt quầy và ra hiệu cho viên chưởng quỹ to béo bằng vẻ hống hách. Y cho họ Lam xem
giấy tùy thân của mình, trên đó còn in con dấu lớn màu đỏ của huyện nha, rồi cộc lốc bảo:
“Lam chưởng quỹ, mời ông theo ta về huyện nha. Huyện lệnh đại nhân muốn gặp ông. Thôi, khỏi cần thay y phục. Bộ đồ màu xám của ông là rất thích hợp rồi. Mau lên, ta không có nhiều thời gian đâu!”
Hai người lên huyện nha bằng chiếc kiệu xa xỉ của họ Lam.
Đào Cam bảo viên chưởng quỹ đợi trên công đường. Họ Lam buông mình xuống chiếc ghế ở gian phòng chờ và bắt đầu cầm chiếc quạt lụa mà quạt liên hồi. Y bật dậy khi Đào Cam bảo mình đi theo.
“Quan gia, rốt cuộc là có chuyện gì vậy?” Y lo lắng hỏi.
Đào Cam nhìn y bằng vẻ thương hại, trong lòng thì lại vô cùng thích thú.
“Chà”, y chậm rãi đáp, “Đương nhiên ta không thể nói việc quan với ông được. Nhưng ta phải nói ra điều này: Ta thấy mừng vì mình không phải kẻ
làm công cho ông, Lam chưởng quỹ ạ!”
Viên chưởng quỹ vã mồ hôi hột, bị Đào Cam đẩy vào tư phòng của Địch Công. Thấy Huyện lệnh đang ngồi phía sau án thư, y vội quỳ thụp xuống và dập đầu.
“Lam chưởng quỹ, không cần đa lễ!” Địch Công lạnh lùng. “Cứ ngồi xuống và lắng nghe! Nhưng bản quan phải cảnh báo ngươi rằng: nếu ngươi không trung thực trả lời câu hỏi của ta, ta sẽ đành phải chất vấn ngươi trên công đường. Mau nói đi, ngươi đã ở đâu đêm qua?” ��
Địch Công thẩm vấn Lam chưởng quỹ
“Vâng, bẩm đại nhân, sau khi tiễn Chu huynh đệ ra về, tiểu nhân bảo kiệu phu đưa mình lên tĩnh xá trên núi. Khi vòng qua góc đường cạnh huyện nha, một nhóm thiếu niên lưu manh và con nhà tiện dân bỗng đổ xô vào trêu chọc tiểu nhân. Theo thói quen, tiểu nhân phớt lờ hạng người ấy, nhưng… ôi, như tiểu nhân đã nói, tiểu nhân… Dù sao tiểu nhân cũng đã nổi giận và bảo kiệu phu đặt kiệu xuống rồi dạy cho đám vô lại ấy một bài học. Bỗng có một lão du đãng xuất hiện. Lão ta đá vào kiệu của tiểu nhân và mắng tiểu nhân là loại ác bá đê tiện. Ôi, trong tình cảnh đó thì ai có thể chịu nổi; tiểu nhân sai hạ kiệu rồi bước xuống và giáng cho lão ta một quyền. Chỉ một thôi, thưa đại nhân. Lão ta ngã vật xuống và nằm sõng soài dưới đất.”
Viên chưởng quỹ rút chiếc khăn lụa lớn ra và lau khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi.
“Người đó có đổ máu không?” Địch Công hỏi.
“Đổ máu ư? Đương nhiên là không! Lão ta ngã xuống một rãnh đất trên con đường đầy bùn. Nhưng đương nhiên là tiểu nhân nên để ý kĩ xem lão ta có hề hấn gì không. Tuy vậy, những tên du côn nhãi ranh kia lại xúm lại quanh tiểu nhân mà rủa xả, nên tiểu nhân vội chui lên kiệu và bảo kiệu phu đưa mình ra khỏi đó. Chỉ khi lên đến lưng chừng núi, lúc đó gió đêm khiến tiểu nhân thấy hơi mát trên đầu, và tiểu nhân nhận ra lão du đãng đó có thể đã lên cơn đau tim. Vậy nên tiểu nhân bước ra và bảo các kiệu phu rằng mình phải đi có việc một chút, họ cứ việc lên thẳng tĩnh xá. Rồi tiểu nhân lại xuống núi và trở lại chỗ gây lộn. Nhưng…”
“Tại sao ngươi không bảo kiệu phu đưa mình quay lại đó?” Địch Công ngắt lời.
Chưởng quỹ có vẻ xấu hổ.
“Bẩm đại nhân, tiểu nhân biết rõ đám phu phen thời buổi này là người thế nào. Nếu quả là lão du đãng đó đã đổ bệnh, tiểu nhân không hề muốn các phu kiệu kia biết được… Khi trở lại góc đường đó, tiểu nhân không thấy lão du đãng đó đâu nữa. Một người bán hàng rong nói lão giang hồ đó đã bò dậy ngay sau khi tiểu nhân bỏ đi. Lão ta đã nói những lời rất không hay
về tiểu nhân, rồi lão ta tìm đường lên núi, vẫn hoạt bát như chưa có chuyện gì xảy ra!”
“Ta hiểu rồi. Sau đó ngươi đã làm gì?”
“Ồ, tiểu nhân gọi một chiếc ghế kiệu và về nhà. Nhưng rồi bụng dạ tiểu nhân bỗng thấy khó chịu, khi xuống kiệu ở trước cổng, tiểu nhân bỗng thấy đau bụng. May sao có Hoàng lang trung và nhi tử vừa đi dạo về, cậu trai ấy đã đỡ tiểu nhân vào trong. Cậu thanh niên ấy khỏe như trâu vậy. Rồi tiểu nhân lên giường nằm luôn.” Y lại lau mặt rồi mới kết luận, “Tiểu nhân hiểu ra mình không nên đánh lão du đãng đó, thưa đại nhân. Và đương nhiên bây giờ hắn có thể đâm đơn kiện tiểu nhân. Ôi, tiểu nhân sẵn lòng trả bất cứ khoản tiền bồi thường nào, đương nhiên là phải hợp lý, và…”
Địch Công đứng dậy.
“Lam chưởng quỹ, mau đi theo ta”, ông trầm tĩnh nói. “Ta muốn cho ngươi xem một thứ.”
Địch Công rời phòng, Đào Cam và viên chưởng quỹ đi theo. Ra sân, Địch Công bảo Bộ đầu đưa ba người đến nhà xác gần cổng huyện nha. Y dẫn họ đến một căn phòng có mùi ẩm mốc, chỉ có duy nhất một mặt phản bằng gỗ thông kê trên những khối trụ, trên đó phủ chiếc chiếu cói. Địch Công lật một đầu chiếc chiếu lên và hỏi:
“Lam chưởng quỹ, ngươi có biết người này không?”
Nhìn vào khuôn mặt người chết, họ Lam thốt lên:
“Lão ta chết rồi! Trời ơi, tiểu nhân đã giết lão ta!”
Y quỳ thụp xuống và kêu than, “Đại nhân, xin khai ân, xin đại nhân khai ân! Tiểu nhân không hề cố ý, tiểu nhân xin thề! Tiểu nhân…”
“Ngươi sẽ có cơ hội để giải thích khi đứng trên công đường”, Địch Công lạnh lùng nói. “Bây giờ, chúng ta hãy quay về tư phòng của ta, vì ta vẫn
chưa nói chuyện rõ với ngươi, Lam chưởng quỹ ạ. Hoàn toàn chưa!”
Trở lại tư phòng, Địch Công ngồi xuống sau án thư và ra hiệu cho Đào Cam ngồi xuống ghế phía trước. Lam chưởng quỹ không được mời ngồi nên đành đứng đó, dõi vào y từ phía sau là ánh mắt trông chừng của Bộ đầu.
Địch Công lặng lẽ quan sát y một lúc, rồi chậm rãi vuốt hai dải tóc mai. Ông đứng lên và lấy chiếc nhẫn ngọc lục bảo trong tay áo ra rồi nói:
“Tại sao ngươi nói với phụ tá của ta là chưa hề trông thấy chiếc nhẫn này?”
Lam chưởng quỹ nhướn mắt chăm chăm nhìn chiếc nhẫn. Y dường như không bị tác động nhiều bởi câu hỏi bất ngờ của Địch Công.
“Tiểu nhân vốn không hề biết người này là người của huyện nha, phải không ạ?” Y bực bội hỏi. “Nếu không, tiểu nhân đã nói rõ với y. Nhưng chiếc nhẫn này khiến tiểu nhân nhớ về một chuyện không hay, và tiểu nhân không muốn bàn luận về nó với một người hoàn toàn xa lạ.”
“Được rồi. Giờ hãy nói cho ta biết cô nương đó là ai.”
Họ Lam nhún vai.
“Đại nhân, tiểu nhân quả thực không thể trả lời ngài được! Cô nương ấy ăn vận rách rưới, là người của một đám du đãng, vì cô ta bị thiếu mất một đốt ngón tay. Nhưng đó lại là một cô nương xinh đẹp. Tiểu nhân dám nói là rất xinh đẹp. Cô ta đã đặt chiếc nhẫn lên bàn và hỏi giá. Đó là một món cổ vật,
chắc đại nhân cũng tự nhận thấy, đáng giá khoảng sáu nén bạc. Đối với một người sưu tầm đồ cổ thì có thể là mười nén bạc. Nên tiểu nhân đã trả lời cô ta, ‘Ta có thể trả ngay cho cô nương một nén bạc loại tốt nếu cô nương cầm cố nó, và sẽ là hai nén nếu cô nương đồng ý bán ngay.’ Chuyện làm ăn mà, đúng vậy không? Ngay cả khách hàng có khi cũng là một món hàng đáng giá. Nhưng cô ta có nhận lời tiểu nhân không? Không hề, thưa đại nhân! Cô ta giật lại chiếc nhẫn và cộc lốc nói ‘Không bán!’ rồi bỏ đi. Sau đó tiểu nhân không gặp lại cô nương ấy nữa.”
ẳ
“Ta thì lại được nghe một câu chuyện khác hẳn”, Địch Công nói. “Nói đi, hai ngươi thì thào chuyện gì?”
Mặt họ Lam đỏ bừng.
“Vậy ra, đám ký lục của tiểu nhân, cái đám vô tích sự ấy, vẫn luôn theo dõi tiểu nhân! Chà, vậy đại nhân có thể hiểu mọi chuyện rắc rối thế nào. Tiểu nhân chỉ hỏi chuyện cô nương ấy vì nghĩ một cô nương thanh tú như vậy ở trong thành, một mình giữa phố… ôi, cô ấy có thể sẽ gặp phải những kẻ gian, và rồi…”
Địch Công đấm mạnh tay xuống mặt án.
“Đừng có đứng đó mà nói nhảm nữa! Mau thuật lại chính xác lời ngươi đã nói!”
“Chà”, họ Lam đáp với ánh mắt lúng túng, “tiểu nhân gợi ý lát sau sẽ hẹn gặp cô nương ấy ở quán trà gần đó, và… và tiểu nhân có vỗ nhẹ lên tay cô ta, chỉ để muốn nói mình có ý tốt. Cô nương ấy bỗng nổi giận và bảo nếu tiểu nhân không thôi làm phiền cô ta thì cô ta sẽ mách với đại ca của mình đang chờ bên ngoài. Rồi… rồi cô ta bỏ đi.”
“Được rồi. Bộ đầu, giam kẻ này lại. Vì tội giết người.”
Bộ đầu chộp lấy tên chưởng quỹ đang có ý phản kháng và lôi y ra ngoài.
“Đào Cam, rót cho ta một chén trà nữa”, Địch Công nói. “Một câu chuyện thật lý thú! Và ngươi có nhận thấy điểm bất đồng giữa lời giải thích của họ Lam về cuộc gặp gỡ với cô nương kia và lời giải thích của gã ký lục không?”
“Đại nhân, thuộc hạ đã nhận ra!” Đào Cam hồ hởi nói. “Cái gã ký lục đê mạt kia không hề nói về xung đột ở quầy. Theo hắn, hai người đã thì thào trò chuyện. Thuộc hạ nghĩ, thực ra cô nương ấy đã nhận lời hẹn gặp của họ Lam. Cuộc xung đột mà họ Lam nói xảy ra sau đó, tại nơi họ hẹn hò. Và đó là lý do họ Lam sát hại lão du đãng kia!”
Địch Công nãy giờ vẫn chậm rãi nhấp trà, nghe vậy bèn đặt chén trà xuống. Ông tựa người ra sau và nói:
“Đào Cam, ngươi cứ tiếp tục trình bày thêm về giả thuyết của mình đi!”
“Chà, lần này, trò ve vãn của họ Lam lại gây ra phiền hà nghiêm trọng! Vì cô nương ấy, đại ca cô ta và lão du đãng kia là người của cùng một bang phái; cô gái đó là chim mồi. Ngay khi họ Lam đến nơi hò hẹn và bắt đầu ve vãn cô ta, cô ta đã mắng hắn vì đã sàm sỡ mình - một trò lừa chẳng có gì mới mẻ. Đại ca cô ta và lão du đãng kia vội xộc vào rồi đòi tiền bồi thường. Họ Lam đã trốn được. Tuy nhiên, khi trên đường lên tĩnh xá trên núi, lão du đãng kia lại chặn đường và tìm cách ăn vạ họ Lam vì cuộc gây sự trên phố. Kiệu phu của họ Lam đã đánh nhau với đám thiếu niên du đãng, nên họ không thể nghe thấy họ Lam và lão già kia cãi cọ về điều gì. Họ Lam đánh gục lão du đãng để buộc ông ta phải im miệng. Đại nhân, ngài nghĩ sao về giả thuyết này?”
“Có vẻ hợp lý và hoàn toàn phù hợp với tính cách của họ Lam. Tiếp tục đi!”
“Trong khi họ Lam lên núi, hắn thực sự đã lo lắng. Đương nhiên không phải lo về tình hình của lão du đãng, mà lo về những tên còn lại trong bang phái đó. Hắn sợ khi tìm ra lão du đãng, bọn chúng sẽ đi tìm hắn để trả thù. Khi người bán hàng rong bảo họ Lam rằng lão du đãng đã tìm đường lên núi, họ Lam liền bám theo ông ta. Được nửa đường, hắn tấn công người kia từ phía sau bằng một hòn đá có cạnh sắc, hoặc có thể là chuôi dao.”
Đào Cam ngừng lại. Khi Địch Công gật đầu khích lệ, y tiếp tục:
“Họ Lam là người khỏe mạnh và rất quen thuộc vùng này, nên hắn không mấy khó khăn để đưa cái xác lên căn lều bỏ không. Và họ Lam cũng có lý do thích hợp để chặt hết mấy ngón tay của nạn nhân, chính là để che giấu đi sự thật kẻ đó là người của một bang phái. Nhưng về địa điểm và phương
pháp mà họ Lam chặt đứt các ngón tay, thú thật là thuộc hạ thấy vô cùng khó hiểu.”
Địch Công ngồi thẳng dậy. Ông vuốt râu và mỉm cười:
“Quả thật không thể xem thường ngươi. Ngươi có một trí tuệ sáng suốt, và đồng thời có năng lực hình dung đáng nể, kết hợp được cả hai yếu tố đó sẽ biến ngươi thành một danh thám! Ta nhất định sẽ ghi nhớ giả thuyết của ngươi. Tuy nhiên, điểm yếu ở đây là giả thuyết hoàn toàn dựa trên sự ngộ nhận, cho rằng những lời giải thích của gã ký lục chứng kiến cuộc gặp gỡ trong hiệu cầm cố là hoàn toàn chính xác. Nhưng vừa nãy, khi ta đề cập đến điểm khác biệt giữa hai lời giải thích, ta định xem nó như một thí dụ cho thấy ta gần như không thể tin vào lời giải thích của kẻ chứng kiến. Thực tế, còn quá sớm để hình thành các giả thuyết, Đào Cam ạ. Trước hết, chúng ta phải xác minh các sự kiện mà ta nắm được, và tìm cách khám phá thêm nhiều manh mối.”
Trông thấy vẻ mặt tiu nghỉu của Đào Cam, Địch Công vội nói tiếp:
“Cảm ơn kỳ tích của ngươi chiều nay, giờ chúng ta phải sắp xếp lại ba sự kiện đã được xác minh rõ ràng. Trước hết, cô gái giang hồ xinh đẹp có liên quan đến chiếc nhẫn. Thứ hai, cô ta có một vị đại ca; dù thực sự đã có chuyện gì xảy ra, thì họ Lam kia cũng không có lý do gì để bịa ra một vị đại ca. Thứ ba, có mối liên hệ giữa cô nương đó, vị đại ca và nạn nhân. Có thể họ cùng thuộc về một bang phái, và nếu vậy, có thể đó là một bang phái không ở huyện này; vì không ai trong số các công sai nhận ra được người chết, còn họ Lam kia thì nghĩ cô nương ấy là người trong huyện. Vậy bây giờ, bước tiếp theo là tìm ra cô nương đó và vị đại ca kia. Sẽ không quá khó đâu, vì một cô nương trong chốn giang hồ có dung nhan tú lệ như vậy chắc chắn sẽ khiến người ta chú ý. Người đời vốn nghĩ, những nữ nhân gia nhập các bang phái thì đều là những ả đàn bà dâm đãng mạt hạng.”
“Bẩm đại nhân, thuộc hạ có thể đi hỏi Bang chủ Cái bang! Đó là một lão giang hồ rất khôn ngoan và có lòng tương trợ.”
“Được, ý hay đấy. Trong khi ngươi ra phố dò tin, ta sẽ xem lại câu chuyện của họ Lam kia. Ta sẽ đi chất vấn tên ký lục mạt hạng kia, người thợ kim hoàn họ Chu và cả những phu kiệu. Ta cũng sẽ lệnh cho Bộ đầu đi tìm một vài tên thiếu niên du côn đã trêu chọc họ Lam, cả người bán hàng rong đã
trông thấy lão du đãng bò dậy. Cuối cùng, ta sẽ đi hỏi Hoàng lang trung xem họ Lam có thực sự đã say như chết khi ông ta gặp hắn không. Mọi
công vụ thường nhật lẽ ra sẽ là việc của Hồng Sư gia, Mã Vinh và Kiều Thái, nhưng vì họ đang đi vắng, ta sẽ tự mình đảm nhiệm tất cả. Mọi việc sẽ giúp ta quên đi vụ buôn lậu vẫn luôn khiến ta canh cánh không yên. Nào, bắt đầu đi, đại sự sẽ thành!”
*
Người duy nhất trong tửu quán Hồng Lý nặng mùi là một lão nhân đang đứng phía sau quầy. Lão mặc y phục cũ sờn và đội chiếc mũ mỏng màu đen dính đầy mỡ. Trên khuôn mặt dài và nhăn nhó điểm một bộ ria mép bờm xờm và chòm râu cằm nhọn hoắt. Lão đang chăm chăm nhìn vào khoảng không và xỉa bộ răng xiêu vẹo. Lão còn bận rộn đến đêm, khi đám hành khất tụ tập ở tửu quán đó để nộp lại cho lão một phần những gì họ kiếm được. Lão nhân lặng lẽ nhìn lên khi Đào Cam tự rót cho mình một chén rượu từ chiếc vò gốm sứt mẻ, dù không được mời. Rồi lão vội chộp lấy vò rượu và bỏ xuống dưới quầy.
“Đào lão đệ, đệ đã tất bật mất cả sáng nhỉ”, lão khò khè. “Hết đi hỏi chuyện giang hồ tranh đấu, lại đến chuyện nhẫn vàng.”
Đào Cam gật đầu. Y biết đám hành khất dưới quyền lão nhân này có mặt ở khắp mọi nơi, có thể báo cho lão mọi chuyện xảy ra trong huyện. Y đặt chén rượu xuống và niềm nở nói:
“Vì thế nên tiểu đệ mới được nghỉ ngơi chiều nay! Tiểu đệ đang nghĩ sẽ đi tiêu khiển một chút. Nhưng không phải với các mỹ nữ trong lầu xanh kỹ viện, lão huynh nhớ cho. Chỉ cần các mỹ nữ lang bạt trong giang hồ thôi!”
“Ngươi thật khôn đấy!” Lão nhân chua chát bình phẩm. “Để rồi sau đó sẽ bắt giữ cô ta vì đã hành nghề mà không có môn bài. Ngươi được khoái lạc mà không phải bỏ tiền, và lại còn được một món tiền thưởng của huyện nha!”
“Lão huynh nghĩ sao về đệ vậy? Đệ muốn một cô nương tự do đi lại trong chốn giang hồ, và không phải ở trấn này, vì đệ còn phải nghĩ cho thanh danh của mình!”
“Đào lão đệ sao phải vậy?” Bang chủ Cái bang ôn tồn hỏi. “Thanh danh của ngươi là gì vậy?”
Đào Cam bỏ ngoài tai lời bình phẩm gai góc ấy. Y trầm ngâm nói: “Một cô nương trẻ tuổi, xinh đẹp. Nhưng nhớ là đừng có đòi nhiều tiền!” “Đào lão đệ, đệ sẽ phải chứng minh được rằng mình hiểu lời ta khuyên!”
Lão nhân dõi nhìn Đào Cam khi y bày ra đủ năm đồng xu lên mặt quầy, nhưng lão không thèm động tới số tiền. Đào Cam thở dài và bỏ thêm năm đồng xu nữa. Bấy giờ lão nhân kia mới vơ lấy tất cả số tiền bằng bàn tay xương xẩu.
“Đến khách điếm Bích Vân”, lão lẩm bẩm, “cách đây hai con phố, căn nhà thứ tư bên trái. Hỏi một người tên Thẩm Kim. Hắn là đại ca của cô nương kia, và ta nghe nói hắn là người quyết định mọi giao dịch mờ ám.” Lão nhìn Đào Cam bằng ánh mắt thận trọng, rồi nở một nụ cười nhăn nhở méo mó, “Ngươi sẽ thích Thẩm Kim đấy, Đào lão đệ! Một nam nhân chính trực và quảng đại. Và cũng rất hiếu khách. Chúc lão đệ được thống khoái. Đệ xứng đáng mà!”
Đào Cam cảm tạ và ra ngoài.
Y hết sức vội vã băng qua con ngõ nhỏ rải đầy đá cuội, vì y không muốn lão Bang chủ kia sẽ cử một tên hành khất đến khách điếm trước y để báo cho Thẩm Kim biết một sai nha đang trên đường đến đó.
Khách điếm Bích Vân là một nơi vừa nhỏ vừa tồi tàn, nằm chen giữa một cửa hàng bán cá và một hàng rau. Cuối cầu thang hẹp mờ tối ấy có một gã to béo ngồi ngủ gật trên chiếc ghế mây. Đào Cam đưa ngón tay gầy giơ xương của mình chọc vào sườn gã và quát:
“Ta muốn gặp Thẩm Kim!”
“Quan gia có thể lên bắt giữ hắn! Lầu trên, phòng thứ hai! Hỏi hắn xem khi nào hắn sẽ trả tiền thuê trọ!”
Khi Đào Cam định lên, gã béo kia – nãy giờ vẫn quan sát cái vóc dáng mảnh mai và hơi gù của Đào Cam, bỗng nói lớn, “Đợi đã! Nhìn mặt tại hạ này!”
Đào Cam trông thấy mắt trái gã sưng húp, gò má bên đó thì sưng tấy và nhợt nhạt.
“Thẩm Kim cũng sẽ cho quan gia một cú như vậy!” Gã nói. “Tên khốn kiếp!”
“Bọn chúng có bao nhiêu người?”
“Có ba. Ngoài Thẩm Kim và muội muội của hắn thì còn có bạn hắn là một gã họ Trương. Cũng là một tên khốn. Còn có tên thứ tư nữa, nhưng tên đó ra ngoài rồi.”
Đào Cam gật đầu. Trong khi lên cầu thang, y nhếch môi cười và nghĩ giờ đây mình đã biết nguyên do trong trò tiêu khiển bí mật của lão Bang chủ. Một ngày nào đó, lão ấy sẽ rủ cả lão giang hồ là ta đến đây!
Sau khi những ngón tay gầy gò của y gõ dữ dội lên cánh cửa, một giọng khàn khàn vang lên từ bên trong:
“Ngày mai ngươi sẽ nhận được tiền, cái đồ thối tha!”
Đào Cam đẩy cửa mở tung và bước vào. Trong căn phòng xám xịt và xơ xác, ở mỗi bên có một chiếc giường ván. Chiếc giường bên phải có một một gã đại hán mặc bộ đồ màu nâu rách rưới. Hắn có khuôn mặt rộng, béo núc, râu quai nón bờm xờm. Tóc hắn được búi lên bằng một miếng giẻ bẩn thỉu. Nằm trên chiếc giường bên trái là một gã cao ráo, rắn rỏi đang ngáy như sấm, hai cánh tay gân guốc của gã khoanh lại dưới cái đầu gần như trọc lốc. Một nữ nhân còn trẻ và xinh đẹp đang ngồi bên cửa sổ, cô ta đang vá lại một bộ y phục. Người này mặc mỗi chiếc quần màu lam, nửa thân hình cân đối bên trên thì để trần.
“Thẩm Kim à, ta có thể giúp ngươi trả tiền thuê trọ đấy”, Đào Cam nói. Y hất hàm về phía nữ nhân kia.
Gã đại hán vục dậy. Hắn nhìn khắp Đào Cam một lượt bằng con mắt đỏ lừ, đưa tay gãi lên bộ ngực lông lá. Đào Cam nhận thấy đầu ngón tay út ở bàn tay trái của hắn đã không còn nữa. Dò xét xong, gã đại hán hỏi cộc lốc, “Bao nhiêu?”
“Năm mươi xu.”
Một chân của gã họ Trương đang đong đưa phía đuôi giường, Thẩm Kim liền đá vào chân gã để gọi gã dậy.
“Đại gia hào phóng này”, họ Thẩm bảo họ Trương, “muốn cho chúng ta vay năm mươi đồng, vì thương chúng ta. Đáng chán là ta lại không hề thích hắn!”
“Lấy tiền rồi đuổi hắn ra ngoài!” Nữ nhân nọ bảo đại ca. “Không cần đánh hắn làm gì cho bẩn tay, trông hắn chẳng khác gì đống giẻ rách!”
Đại hán quay sang cô ta.
“Không phải việc của ngươi!” Hắn quát. “Im miệng và ngồi yên đó! Ngươi đã làm hỏng việc với Lão Vạn, thậm chí không lấy được chiếc nhẫn ngọc của ông ta! Đồ con ranh vô tích sự!”
Cô ta lao đến rất nhanh nhẹn và đá mạnh vào bắp chân Thẩm Kim. Nhanh như cắt, hắn tống một quyền vào bụng cô ta. Cô ta gập người lại, há hốc miệng. Nhưng đó chỉ là một mẹo lừa, vì khi hắn đánh tới, cô ta đã vội húc đầu vào dưới ngực hắn. Khi hắn bị đẩy lùi lại, cô ta rút nhanh chiếc trâm dài trên búi tóc và nanh nọc hỏi:
“Muốn thứ này cắm vào bụng không, đại ca?”
Đào Cam đang nghĩ phải làm sao để đưa cả ba kẻ này lên huyện nha, vì chúng có thể không phải là người ở huyện này. Nhưng y nghĩ mình có thể xoay xở được.
“Ta sẽ xử ngươi sau!” Thẩm Kim đe tiểu muội của mình. Và rồi quay sang gã bạn bên kia, “Trương Vượng, xử tên này đi!”
Trong khi Trương Vượng siết chặt hai tay Đào Cam rồi bẻ quặt ra sau lưng, Thẩm Kim khám xét khắp người y kĩ lưỡng.
“Được rồi, chỉ có năm mươi xu thôi!” Hắn nói với vẻ ghê tởm. “Giữ hắn, để ta dạy cho hắn biết là không được phá giấc ngủ của người khác!”
Hắn vớ lấy cây gậy tre trong góc và định đánh xuống đầu Đào Cam. Nhưng hắn bất ngờ xoay mình và vụt một gậy vào mông tiểu muội của mình, lúc này cô ta đang ngồi cắm cúi khâu vá. Cô ta nhảy sang bên và hét lên vì đau. Thẩm Kim phá lên cười. Nhưng rồi hắn phải cúi gập xuống vì cô ta ném chiếc kéo sắt nhằm vào đầu hắn.
“Ta không thích chen ngang đâu”, Đào Cam lên tiếng, “nhưng có một vụ đáng giá năm nén bạc ta muốn bàn với các ngươi.”
Tên đại hán nãy giờ đang vẫn tìm cách khống chế tiểu muội lập tức buông cô ta ra. Hắn quay lại và hổn hển hỏi:
“Ngươi nói là năm nén bạc sao?”
“Đây là chuyện riêng tư, chỉ có ta và ngươi biết thôi.”
Thẩm Kim ra hiệu cho Trương Vượng buông Đào Cam ra. Đào Cam liền kéo Thẩm Kim vào một góc và khẽ nói:
“Ta không quan tâm đến tiểu muội của các ngươi đâu. Chủ nhân cử ta đến đây!”
Thẩm Kim tái mặt.
“Là Lưu đại gia muốn năm nén bạc ư? Trời ơi, lão ta điên rồi sao? Sao lại…”
“Ta không biết Lưu đại gia nào cả”, Đào Cam gắt lên. “Chủ nhân của ta là một đại tài chủ, một người giàu có sẵn sàng chi rất hậu cho những thú tiêu khiển nho nhỏ của mình. Lâu nay, ông ta đã chán ngấy những thiếu nữ ôn hương nhuyễn ngọc. Bỗng ông ta lại muốn những mỹ nữ có phần đẫy đà và
bạo liệt. Ta phải đi tuyển lựa mỹ nữ cho ông ta. Chủ nhân đã nghe nói về tiểu muội nhà ngươi, ông ta cử ta đến giao cho ngươi năm nén bạc để được vui chơi với nàng ấy trong vài ngày.”
Thẩm Kim nãy giờ vẫn lắng nghe mà mỗi lúc một ngạc nhiên hơn. Bấy giờ hắn mới thốt lên:
“Ngươi điên sao? Trên đời này chẳng có người đàn bà nào lại sở hữu thứ gì đáng giá đến thế!” Hắn ngẫm nghĩ một lát, trán nhăn lại. Rồi bất ngờ hắn kêu lên:
“Lão huynh, đề nghị của ngươi thật khó chiều! Ta muốn tiểu muội được an toàn. Ngươi không thấy là ta đang định đưa nó cùng đi làm ăn sao? Nó sẽ thường xuyên đem lợi về cho ta.”
Đào Cam nhún vai.
“Được rồi. Còn nhiều ả giang hồ khác vẫn đang rong chơi ngoài kia. Trả lại cho ta năm mươi đồng tiền đi, rồi ta sẽ xin cáo biệt.”
“Này, đừng đi vội!” Gã đại hán xoa mặt. “Năm nén bạc! Như vậy là đủ để sống sung túc ít nhất một năm, không nhọc nhằn kiếm ăn! Chà, tóm lại, không quan trọng tiểu muội nhà ta có thực sự bạo liệt hay không. Nó có thể chịu đựng được nhiều thứ, và có thể nó sẽ bớt tự mãn đi. Được rồi, ta đồng ý! Nhưng ta và Trương Vượng sẽ đưa nó đi. Ta muốn biết nó sẽ ở đâu và cùng với ai.”
“Để sau này ngươi có thể tống tiền chủ nhân ta ư? Không được!” “Ngươi nói dối! Ngươi là người của bọn nhà thổ, đồ thối tha!”
“Được rồi, cứ đi với ta và tự mình xem xét. Nhưng đừng đổ lỗi cho ta nếu chủ nhân ta nổi giận và sai người đánh ngươi. Trả cho ta mười đồng xu đi, đó là tiền hoa hồng của ta.”
Sau một lúc cò kè thêm bớt, cả hai đồng ý ở mức mười đồng. Thẩm Kim trả lại Đào Cam năm mươi đồng tiền và đưa thêm mười đồng nữa. Đào
Cam bỏ số tiền vào tay áo và mỉm cười mãn nguyện, vì lúc này y đã lấy lại được số tiền mà khi nãy phải trả cho Bang chủ Cái bang.
“Chủ nhân của vị này muốn mời chúng ta uống rượu”, Thẩm Kim nói với Trương Vượng và tiểu muội. “Hãy đến chỗ ông ta và xem ông ta muốn nói gì.” ��
Đào Cam bày kế tóm gọn bọn Thẩm Kim
Mấy người cùng lên phố theo con đường chính, nhưng rồi Đào Cam lại đưa cả ba qua một mê cung của những con ngõ nhỏ, đến một bức tường
lớn bằng đá xám. Trong khi y rút chìa khóa mở cánh cửa nhỏ bằng sắt, Thẩm Kim trầm trồ:
“Chủ nhân ngươi chắc chắn rất giàu có! Cơ ngơi quả là đồ sộ!”
“Rất đồ sộ”, Đào Cam tán đồng. “Và đây là lối cổng sau duy nhất, ngươi nhớ cho. Ngươi sẽ thấy cổng chính!” Vừa nói y vừa dẫn cả ba vào một hành lang dài. Y thận trọng khóa cửa lại và bảo, “Cứ đợi ở đây một lát, để ta đi báo chủ nhân!”
Rồi y biến mất vào một lối khác.
Lát sau, nữ nhân kia sốt ruột:
“Muội không thích không khí nơi đây. Có thể là một cái bẫy!”
Rồi Bộ đầu cùng sáu binh sĩ mang vũ khí ào ra bủa vây quanh đó. Họ Trương chửi thề rồi rút dao ra.
“Có giỏi cứ động thủ!” Bộ đầu chĩa kiếm ra và cười nhạt. “Rồi huynh đệ ta sẽ được tiền thưởng vì đã lấy được đầu các ngươi!”
“Trương Vượng, bỏ dao xuống đi!” Gã đại hán cay đắng bảo bạn mình. “Bọn khốn này là đám giết người không ghê tay. Chúng nhận tiền chỉ để giết người nghèo khổ đấy!”
Nữ nhân kia định tìm cách trốn thoát nhưng Bộ đầu đã túm được cô ta và trói gô lại ngay lập tức. Cả ba bị đưa vào đại lao của huyện nha.
Sau khi Đào Cam chạy về túc xá và báo Bộ đầu đến bắt giữ hai gã giang hồ cùng ả thôn nữ đang đợi gần cửa sau, y lên thẳng pháp đường và hỏi Lục sự xem Địch Công đang ở đâu.
“Đại nhân đang ở trong tư phòng. Sau khi dùng bữa trưa xong, ngài ấy thẩm vấn một số người dân ở đó. Vừa cho họ ra về thì Lam công tử, nhi tử của Lam chưởng quỹ, chạy vào và đòi gặp đại nhân. Anh ta vẫn chưa hề trở ra.”
“Chàng thanh niên đó đến đây làm gì? Anh ta đâu có nằm trong số những người mà đại nhân muốn hỏi chuyện.”
“Tại hạ nghĩ anh ta đến để tìm hiểu xem tại sao phụ thân mình lại bị bắt giữ. Có chuyện này Đào lão huynh sẽ muốn nghe đấy. Trước khi vào, anh ta có hỏi lính gác trước cổng mọi chuyện liên quan đến xác chết được tìm thấy sáng nay trong căn lều trên núi. Lão huynh có thể báo chuyện này cho đại nhân.”
“Xin đa tạ, ta sẽ lưu tâm. Dù những lính canh đó không được phép nói ra bất cứ tin tức gì!”
Lão Lục sự nhún vai.
“Tất cả bọn họ đều biết rõ Lam công tử. Mỗi khi gần đến cuối tháng, bọn họ vẫn đến đó để cầm cố hết thứ này đến thứ khác, và Lam công tử luôn trả tiền rất sòng phẳng. Hơn nữa, toàn bộ người của huyện nha đều đã đến xem thi thể ấy, thì đó không còn là chuyện bí mật nữa rồi.”
Đào Cam gật đầu và về tư phòng của Địch Công.
Địch Công đang ngồi sau án thư, lúc này ông mặc bộ đồ rộng bằng sợi bông màu xám, đội chiếc mạo đen. Phía trước án thư là một thanh niên tráng kiện, tuổi tầm hai mươi lăm, mặc y phục màu nâu giản dị và đội mạo đen. Anh ta có khuôn mặt tuấn tú nhưng lại có vẻ dè dặt.
“Ngồi đi!” Địch Công bảo Đào Cam. “Đây là trưởng nam của Lam chưởng quỹ, Lam Điền Ngọc. Anh ta lo lắng vì chuyện phụ thân bị bắt giữ. Ta đã giải thích rằng ta nghi ngờ ông ta tham gia vào vụ sát hại một kẻ lang thang, ta sẽ xử vụ này trong phiên thăng đường tối nay. Ta chỉ có thể nói như vậy, Lam công tử ạ. Giờ ta không thể tiếp công tử được nữa, vì ta có những chuyện cấp thiết phải bàn với phụ tá của ta.”
“Đại nhân, gia phụ không thể nhúng tay vào vụ giết người đêm qua được”, chàng thanh niên ôn tồn nói.
Địch Công nhướn mày.
“Tại sao lại không thể?”
“Vì một lý do rất đơn giản. Gia phụ đã uống say đến nỗi không còn biết gì. Chính tay thảo dân đã mở cửa khi Hoàng lang trung đưa ông ấy vào. Gia phụ say mèm, và Hoàng công tử đã phải đỡ ông ấy vào trong.”
“Được rồi, Lam công tử. Ta sẽ ghi nhớ chi tiết này.”
Lam Điền Ngọc không có vẻ muốn ra về. Anh ta lấy giọng rồi lần này nói giọng khác hẳn:
“Thảo dân nghĩ mình đã trông thấy hung thủ.”
Địch Công vươn người về trước.
“Ta muốn nghe đầy đủ mọi chi tiết!” Ông sắc lạnh nói.
“Bẩm đại nhân, có tin đồn rằng xác lão du đãng đó được tìm thấy sáng nay trong một căn lều bỏ hoang trong rừng, ở lưng chừng núi. Thảo dân xin hỏi có thực là vậy chăng?” Thấy Địch Công gật đầu, anh ta nói tiếp, “Đêm qua, ánh trăng sáng tỏ, trăng thanh gió mát, nên thảo dân đã nghĩ sẽ đi dạo một
chút. Thảo dân đi theo lối mòn phía sau nhà dẫn vào khu rừng. Sau khi đi qua khúc quanh thứ hai, thảo dân thấy hai người ở xa phía trước. Thảo dân không thể trông rõ họ, nhưng một người dường như rất cao lớn, hắn đang vác một thứ gì đó rất nặng trên vai. Gã còn lại thì nhỏ nhắn, có phần mảnh dẻ. Vì các đám du đãng giang hồ vẫn hay đi lại trong rừng suốt đêm, thảo dân quyết định không đi dạo nữa mà quay về nhà. Khi nghe tin đồn về một kẻ lang thang bị sát hại, thảo dân nghĩ ngay ra vật nặng mà kẻ cao lớn kia đã vác đêm qua chắc chắn là xác chết đó.”
Đào Cam tìm cách đưa mắt ra hiệu cho Địch Công, vì mô tả của Lam Điền Ngọc khớp với Thẩm Kim và tiểu muội của hắn. Nhưng Địch Công còn đang chăm chú nhìn vị khách. Bỗng ông nói:
“Như vậy có nghĩa là ta có thể thả phụ thân công tử ngay lập tức, và bắt giữ công tử vì là kẻ bị tình nghi, thay cho phụ thân mình! Vì công tử vừa chứng
minh rõ ràng rằng, trong khi phụ thân công tử không thể phạm tội sát nhân, thì bản thân công tử lại có cơ hội để ra tay!”
Thanh niên kia lặng người, tròn mắt nhìn Địch Công.
“Thảo dân không giết người!” Anh ta lớn tiếng. “Thảo dân có thể chứng minh! Có người làm chứng cho thảo dân…”
“Đúng như ta đã nghĩ! Ngươi không chỉ có một mình. Một thanh niên như ngươi sẽ không một mình tản bộ trong rừng vào đêm. Chỉ khi ngươi đã đủ trưởng thành thì mới có thể an hưởng thú vui ấy. Nói đi, nữ nhân đó là ai?”
“Là tiểu tì của mẫu thân”, Lam Điền Ngọc đỏ mặt đáp. “Chúng thảo dân không thể gần gũi nhau nhiều nếu cứ ở trong nhà. Nên có đôi khi hò hẹn trong căn lều hoang bên sườn núi ấy. Nàng ấy có thể làm chứng cho lời của thảo dân về chuyện chúng thảo dân cùng nhau vào rừng, nhưng nàng
ấy không thể cung cấp thêm chi tiết gì về hai người mà thảo dân đã trông thấy, vì thảo dân đi trước và nàng ấy không trông thấy họ.”
Nhìn Địch Công bằng vẻ ngượng ngùng, anh ta nói thêm:
“Đại nhân, chúng thảo dân đã định kết bái làm phu thê. Nhưng nếu phụ thân mà biết thì…”
“Được rồi. Mau lên pháp đường, để Lục sự ghi chép hết mọi chứng khai của ngươi. Ta sẽ chỉ sử dụng đến những lời chứng khai này nếu thực sự cần thiết. Ngươi có thể ra về!”
Người thanh niên vừa định lui bước, Đào Cam đã hỏi:
“Có khi nào người nhỏ bé hơn mà công tử trông thấy lại là một cô nương không?”
Lam Điền Ngọc gãi đầu:
“Ôi, thảo dân không trông thấy rõ. Tuy nhiên, giờ tiên sinh hỏi thảo dân… Đúng rồi, thảo dân nghĩ đó có thể là một nữ nhân.”
Ngay khi Lam Điền Ngọc đi khỏi, Đào Cam mừng rỡ nói: “Đại nhân, mọi chuyện đã sáng tỏ…”
Địch Công khoát tay.
“Đào Cam, cứ đợi một lát. Chúng ta phải có phương pháp khi xử lý vụ án phức tạp này. Ta sẽ cho ngươi biết kết quả mọi điều tra thông thường của ta. Trước hết, tên ký lục của nhà họ Lam quả là một kẻ đáng ghê tởm. Ta
điều tra kĩ nên thấy rõ, sau khi trông thấy cô nương kia đặt chiếc nhẫn lên quầy, Lam chưởng quỹ bảo hắn phải lánh mặt. Những vị khách khác cùng lúc bước vào, và sau đấy tên ký lục chỉ trông thấy cô nương kia cầm chiếc
nhẫn và bỏ đi. Hắn bịa ra chuyện hai người thì thầm bàn tán, hòng để chứng minh chủ nhân mình là một kẻ phóng đãng. Và về chuyện chủ nhân hắn phạm tội trốn thuế, hắn chỉ có thể thuật lại những tin đồn thất thiệt. Ta đuổi hắn về kèm theo lời nhắn về điều luật xử tội vu khống, và ta gửi thư cho chủ phường kim ngân. Ông ta bảo rằng Lam chưởng quỹ là người vô cùng giàu có, thích giữ gìn danh tiếng. Y không phải không thích chơi trò hai mặt, và người ta phải thận trọng khi làm ăn với y, nhưng y cũng luôn cẩn thận để giữ đúng luật. Tuy nhiên, y hay đi xa, chủ yếu dành thời gian ở huyện Giang Hạ; và chủ phường đương nhiên không hề biết về những hoạt động của y ở đó. Thứ hai, họ Lam quả thực có uống quá chén với người bạn là thợ kim hoàn. Thứ ba, Bộ đầu đã tìm được hai tên thiếu niên du đãng đã trêu chọc họ Lam. Chúng nói đó hiển nhiên là lần đầu tiên họ Lam gặp lão du đãng kia, và trong cuộc đụng độ ấy không hề nhắc đến một cô nương nào. Lam chưởng quỹ quả thực đã đánh lão già đó, nhưng ông ta đã đứng dậy được ngay sau khi họ Lam bỏ đi. Ông ta đứng đó chửi họ Lam là kẻ bạo ngược khốn kiếp, rồi bỏ đi. Cuối cùng, hai tên thiếu niên có lời bình phẩm rất lạ. Chúng nói cách nói năng của lão du đãng đó không hề giống một kẻ giang hồ, ông ta nói thứ ngôn ngữ của người có học. Ta đã định hỏi Hoàng lang trung xem Lam chưởng quỹ có thực sự đã uống say khi Hoàng lang trung gặp y lúc về nhà hay không, nhưng sau những lời mà Lam Điền Ngọc vừa nói, ta thấy không còn cần thiết nữa.”
Địch Công uống cạn chén trà, rồi nói thêm, “Kể cho ta mọi chuyện ngoài đó đi!”
“Đại nhân, trước hết thuộc hạ phải nói rằng Lam công tử đã dò hỏi mọi lính gác về toàn bộ chuyện tìm ra xác chết trong lều hoang, trước khi vào đây gặp ngài. Tuy nhiên, việc đó dường như không còn quan trọng nữa, vì thuộc hạ có bằng chứng cho thấy anh ta không hề bịa chuyện đã trông thấy hai người trong rừng.”
Địch Công gật đầu.
“Ta cũng không nghĩ anh ta nói dối. Chàng thanh niên này cho ta ấn tượng là một người vô cùng trung tín. Hơn hẳn phụ thân của mình!”
“Những người anh ta trông thấy trong rừng có thể chính là tên giang hồ Thẩm Kim và tiểu muội Thẩm Vân của hắn - một ả thôn nữ vô cùng xinh đẹp. Bang chủ Cái bang đã chỉ cho thuộc hạ khách điếm mà bọn chúng thuê trọ, ở đó còn có một gã lưu manh tên là Trương Vượng. Còn một tên thứ tư nữa, nhưng tên đó đã bỏ ra ngoài. Thuộc hạ nghe Thẩm Kim mắng tiểu muội vì đã làm hỏng chuyện của Lão Vạn, và vì không lấy được chiếc nhẫn ngọc của ông ta. Rõ ràng Lão Vạn chính là lão du đãng đã chết. Cả ba người bọn chúng đều ở huyện khác, nhưng chúng biết một tên đầu đảng ở huyện này, được gọi là Lưu đại gia. Thuộc hạ đã giam cả ba bọn chúng vào đại lao.”
“Giỏi lắm!” Địch Công thốt lên. “Sao ngươi lại bắt được chúng nhanh chóng vậy?”
“Ồ”, Đào Cam đáp, “thuộc hạ kể cho chúng câu chuyện về một món tiền dễ kiếm ở huyện này, và chúng vui vẻ đi theo ngay. Đại nhân, về giả thuyết của thuộc hạ đối với Lam chưởng quỹ, đại nhân thật sáng suốt khi nói đó là một giả thuyết vội vàng! Họ Lam không liên quan gì đến vụ án mạng. Điều trùng hợp là đám trộm cướp kia đã đụng độ với y hai lần. Lần thứ nhất, Thẩm Vân muốn định giá chiếc nhẫn, và lần thứ hai là khi lão du đãng ấy nổi khùng vì lối phản ứng thái quá của họ Lam với đám thiếu niên.”
Địch Công chưa bình phẩm gì. Ông trầm ngâm vuốt râu. Rồi ông bỗng nói:
“Ta không thích những sự trùng hợp, Đào Cam ạ. Ta thừa nhận đôi khi cũng xảy ra trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng ta luôn nghi ngờ những sự kiện
trùng hợp. Tiện đây, ngươi vừa nói Thẩm Kim đã nhắc đến một tên đầu đảng là Lưu đại gia sao. Trước khi thẩm vấn hắn, ta muốn hỏi Bộ đầu xem y có biết kẻ này không.”
Trong khi Đào Cam đi, Địch Công tự rót một chén trà nữa từ bình trà trên bàn. Ông vu vơ tự hỏi bằng cách nào mà người phụ tá của mình lừa được cả đám trộm cướp đó lên huyện nha. “Y có vẻ muốn lảng đi khi ta hỏi”, ông nhếch môi cười và tự bảo mình. “Có thể y vẫn sử dụng một phần sự liều lĩnh ngày xưa - cái nghề ngày xưa của y! Chà, chừng nào vẫn còn vì những mục tiêu tốt đẹp, thì…”
Đào Cam đã trở lại.
“Bộ đầu đã nghe nhiều về tiếng tăm tên Lưu đại gia đó. Nhưng hắn không phải người huyện này; gã giang hồ này là một tên đầu đảng khét tiếng ở huyện kế bên, huyện Giang Hạ. Như vậy Thẩm Kim chính là người huyện Giang Hạ.”
“Và Lam chưởng quỹ cũng thường hay qua lại bên đó”, Địch Công chậm rãi đáp. “Đào Cam, chúng ta đã có quá nhiều sự kiện trùng hợp đấy! Chà, ta sẽ đi thẩm vấn từng kẻ một, bắt đầu từ tên Thẩm Kim. Bảo Bộ đầu đưa hắn đến nhà xác, nhưng dĩ nhiên không cho hắn thấy thi thể kia. Ta sẽ đến
đó ngay.”
Khi Địch Công bước vào nhà xác, ông trông thấy vóc dáng cao lớn của Thẩm Kim đứng giữa hai Bộ khoái, ngay trước tấm phản đặt xác chết có phủ tấm chiếu cói. Trong căn phòng gần như trống trơn này bao trùm một thứ mùi tang tóc. Địch Công nghĩ không nên để thi thể này ở lại đây quá lâu, trong thời tiết nắng nóng như thế này. Ông lật tấm chiếu lên và hỏi Thẩm Kim:
“Ngươi có biết người này không?”
“Trời ơi, là ông ta!” Thẩm Kim kêu lên.
Địch Công khoanh tay lại trong ống áo rộng. Ông cay nghiệt nói:
“Đúng rồi, chính là xác của lão nhân mà ngươi đã ra tay hạ sát.”
Tên cướp buông ra một tràng thề thốt chối tội. Bộ khoái bên phải giáng cho hắn một côn vào đầu. “Mau thú tội!” Y quát hắn. Nhát côn ấy dường như không có tác dụng đối với gã đại hán này. Hắn chỉ lắc đầu và rồi lại kêu lên:
“Thảo dân không giết người! Lão già ngu ngốc này vẫn còn sống đàng hoàng khi chúng thảo dân rời khỏi quán trọ đêm qua!”
“Ông ta là ai?”
“Một tên tài chủ ngu ngốc, tên là Vạn Mậu Tài. Là chủ một hiệu thuốc ở kinh thành.”
“Một chủ hiệu thuốc giàu có ư? Có quan hệ gì với ngươi?”
“Ông ta mê mẩn tiểu muội của thảo dân, thật là lão dâm tặc! Ông ta muốn nhập bọn với chúng thảo dân!”
“Đừng có tìm cách nói ra những lời dối trá ngu ngốc với ta, anh bạn ạ!” Địch Công lạnh lùng. Bộ khoái lại nện cho Thẩm Kim một gậy vào đầu, nhưng hắn cúi xuống tránh được và lại gào lên:
“Đó là sự thật, thảo dân xin thề! Ông ta si mê tiểu muội Thẩm Vân! Thậm chí muốn trả tiền để được đi cùng với chúng thảo dân! Nhưng tiểu muội của thảo dân vốn ngờ nghệch, nó không nhận bất cứ đồng nào của ông ta. Và ngài hãy xem con nha đầu thối này đã gây ra chuyện gì cho huynh đệ thảo dân! Như đại nhân nói, thì đó là tội sát nhân!”
Địch Công vuốt bộ râu dài. Kẻ này là người thô mãng, nhưng lời nói lại thấm đẫm sự thật. Thấy Địch Công im lặng, Thẩm Kim tưởng ông nghi ngờ mình, liền cất giọng rên rỉ:
“Huynh đệ thảo dân không bao giờ dám làm chuyện hại người, có trời đất chứng giám! Có thể chúng thảo dân đôi khi làm chuyện trộm gà trộm chó, hoặc cướp tiền của du khách - không thể tránh khỏi những chuyện như vậy
nếu ngài phải kiếm ăn nơi lề đường. Nhưng chúng thảo dân chưa bao giờ giết người. Và trong số bao nhiêu người, tại sao lại phải giết Lão Vạn? Thảo dân vẫn chưa nói là ông ấy còn cho thảo dân tiền, đúng không?”
“Tiểu muội của nhà ngươi là kỹ nữ ư?”
“Là gì cơ?” Thẩm Kim ngờ vực hỏi.
“Một kỹ nữ.”
“Ôi, trời!” Thẩm Kim gãi đầu rồi thận trọng đáp:
“Ôi, để thảo dân nói sự thật. Thưa đại nhân, nó vừa là gái giang hồ, mà vừa không phải. Nếu chúng thảo dân hết sức cần tiền, nó sẽ đi tìm một gã nào đó. Nhưng chủ yếu là nó sẽ đi cùng với đám thanh niên mà nó yêu thích, bọn chúng được thỏa mãn mà không phải mất tiền. Nó là người như vậy đấy! Thảo dân ước gì nó là người bình thường, ít nhất nó cũng sẽ kiếm được một chút tiền! Nếu đại nhân rủ lòng thương, xin hãy cho thảo dân biết phải làm sao để nó có được môn bài, như vậy nó có thể tự do hành nghề…”
“Hãy trả lời câu hỏi của ta!” Địch Công quát lên. “Nói đi, ngươi bắt đầu trở thành tay chân của Lam chưởng quỹ từ khi nào?”
“Lam chưởng quỹ? Đại nhân, không phải thảo dân rồi! Thảo dân không làm ăn với đám hút máu người đó đâu! Chủ nhân của thảo dân là Lưu đại gia, người huyện Giang Hạ. Lão ta sống ở một tửu quán, gần cổng thành phía Tây. Lão ta mới là chủ nhân của thảo dân. Chúng thảo dân đã bỏ tiền để xin ra khỏi bang. Thảo dân, tiểu muội Thẩm Vân và cả Trương Vượng.”
Địch Công gật đầu. Ông biết rằng, theo luật bất thành văn của giới giang hồ, một thành viên của bang phái có thể đoạn tuyệt mọi quan hệ với tên thủ lĩnh nếu hắn trả được một số tiền nhất định, số tiền gia nhập bang ban đầu và phần tiền được chia của hắn trong bang sẽ được khấu trừ đi khỏi số tiền đó. Cách xử lý tiền bạc này vẫn hay gây ra tranh cãi gay gắt.
“Cả hai bên đều được hài lòng sau mọi thỏa thuận chứ?” Ông hỏi.
“Ôi, bẩm đại nhân, vẫn có chút rắc rối. Lưu đại gia tìm cách cướp tiền của chúng thảo dân, lão ta thật bỉ ổi! Nhưng Lão Vạn quả là một phù thủy về tiền bạc. Ông ấy lấy một mảnh giấy, trả một số tiền và cho họ Lưu kia thấy lão ta đã phạm sai lầm. Họ Lưu không thích điều đó, nhưng còn có hai kẻ khác vẫn chứng kiến cuộc tranh cãi, và chúng đều nói Lão Vạn đã đúng. Nên Lưu đại gia để chúng thảo dân ra đi.”
“Ta hiểu rồi. Tại sao các ngươi muốn rời khỏi bang của họ Lưu?”
“Bởi vì họ Lưu ngày càng kiêu ngạo, lão ta chỉ thích nhúng tay vào những chuyện mà chúng thảo dân không thích. Có thể nói, ngoài sức của mấy người bọn thảo dân. Một hôm, lão ta muốn thảo dân và Trương Vượng giúp lão ta đưa hai chiếc rương qua bên này sông. Thảo dân từ chối. Trước hết, nếu chúng thảo dân bị bắt, cả hai sẽ mang tội lớn. Thứ hai, những người giúp họ Lưu làm những sự vụ lớn như vậy, về sau đều gặp tai nạn mà chết. Đương nhiên, tai nạn thì lúc nào chả có. Nhưng theo thảo dân thấy, thì những tai nạn ấy xảy ra quá thường xuyên.”
Địch Công nhìn Đào Cam đầy ẩn ý.
“Khi ngươi và Trương Vượng chối từ, ai là người nhận vụ đó?”
“Là Ưng Khuê, Mạnh Nhị Lang và Mậu Long”, Thẩm Kim đáp ngay tức thì.
“Giờ chúng ở đâu?”
Thẩm Kim đặt ngón trỏ ngang qua cổ.
“Gặp tai nạn, xin đại nhân nhớ cho!” Hắn cười nhăn nhở. Nhưng trong mắt hắn ánh lên nỗi sợ.
“Bọn chúng chuyển hai chiếc rương đó cho ai?” Địch Công hỏi. Tên cướp nhún vai.
“Chỉ có trời mới biết! Thảo dân nghe lỏm họ Lưu nói với gã Dương Thành về một tên nhà giàu, có một cửa hiệu lớn trong khu chợ ở huyện này. Thảo dân không hỏi, vì đó không phải việc của mình, biết càng ít càng tốt. Và Lão Vạn nói thảo dân nghĩ vậy là đúng.”
“Đêm qua ngươi ở đâu?”
“Thảo dân ư? Thảo dân cùng tiểu muội và Trương Vượng đến tửu quán Hồng Lý để ăn uống và đánh bạc. Lão Vạn nói ông ta sẽ ra ngoài ăn, và không thích đánh bạc. Khi chúng thảo dân về phòng lúc nửa đêm, lão nhân ấy vẫn chưa quay về. Lão già tội nghiệp ấy đã bị đánh vỡ đầu! Lẽ ra ông ta không nên ra ngoài một mình ở một nơi mà mình không biết rõ!”
Địch Công rút chiếc nhẫn ngọc từ trong tay áo ra.
“Ngươi có biết món đồ này không?” Ông hỏi.
“Có chứ! Đó là nhẫn của Lão Vạn. Ông ta được thừa hưởng từ phụ thân mình. Thảo dân vẫn bảo tiểu muội rằng ‘Đòi ông ta cho ngươi chiếc nhẫn đó đi!’, nhưng tiểu muội không đồng ý. Đại nhân, thật đen đủi khi bị một đứa em như vậy ám quẻ!”
“Đưa kẻ này trở lại lao phòng!” Địch Công bảo Bộ đầu. “Rồi bảo nữ tổng quản đưa Thẩm Vân cô nương đến tư phòng của ta.”
Lúc đi ngang qua sân sau, Địch Công hào hứng bảo Đào Cam:
“Ngươi có một mẻ lưới thật khấm khá! Đây là manh mối đầu tiên chúng ta có về vụ buôn lậu! Ta sẽ gửi thư khẩn cho người bạn đồng liêu ở huyện Giang Hạ ngay lập tức, bảo ông ấy bắt giữ tên Lưu đại gia kia. Lão ta sẽ khai ra kẻ đứng đầu là ai, và hai chiếc rương kia được chuyển đến huyện này cho kẻ nào. Ta cũng không lấy làm bất ngờ nếu kẻ đó chính là ông bạn họ Lam của chúng ta! Hắn là một kẻ giàu có, sở hữu một cửa hiệu lớn gần chợ, và thường xuyên qua lại huyện Giang Hạ.”
“Đại nhân có nghĩ họ Thẩm thực sự không liên quan đến vụ giết Lão Vạn không? Lời kể của Lam Điền Ngọc công tử có vẻ khớp với hắn và tiểu
muội của hắn.”
“Chúng ta sẽ biết rõ hơn khi khám phá ra sự thật về nhân vật bí ẩn Vạn Mậu Tài đó. Ta có cảm giác, Thẩm Kim đã nói cho chúng ta mọi chuyện hắn biết. Nhưng chắc chắn còn nhiều điều hắn chưa tỏ tường! Chúng ta hãy xem tiểu muội của hắn khai ra những gì.”
Hai người lên pháp đường. Lục sự vội đứng lên chào cả hai. Ông ta trao cho Địch Công một văn thư và nói:
“Bẩm đại nhân, thuộc hạ tình cờ nghe lén được Đào lão huynh hỏi Bộ đầu về một kẻ là Lưu đại gia. Bản tường thuật về mọi vụ án của huyện nha huyện Giang Hạ vừa được đưa đến. Trong đó có một đoạn nói về tên tặc này.”
Địch Công vội xem qua văn thư ấy. Ông trao lại nó cho Đào Cam và thốt lên giận dữ:
“Thật không may rồi!” Ông bực bội. “Đây, Đào Cam, ngươi đọc đi! Sáng hôm qua, họ Lưu đã bị giết trong một vụ cãi lộn của đám say rượu!”
Ông đi về tư phòng, tay áo vung lên trong cơn tức giận.
Khi ngồi xuống phía sau án thư, ông buồn bã nhìn Đào Cam và chán nản nói:
“Ta nghĩ chúng ta sắp giải quyết được vụ buôn lậu! Và giờ hai ta lại về không. Ba người có thể cho chúng ta biết món hàng lậu kia gửi cho ai thì đã bị họ Lưu sát hại. Hơi lạ là Mã Vinh và Kiều Thái lại không thể tìm ra ba người này! Nắm xương của bọn họ chắc đang nằm dưới một cái giếng cạn, hoặc được chôn dưới một gốc cây trong rừng! Và tên họ Lưu, kẻ duy nhất có thể khai ra tên đầu sỏ buôn lậu là ai, thì hiển nhiên phải bị giết để diệt khẩu!” Ông bực tức vuốt râu.
Đào Cam chậm rãi vuốt ba sợi lông trên má bằng ngón tay gầy. Lát sau, y nói:
“Thẩm vấn kĩ lưỡng những đồng bọn của họ Lưu ở huyện Giang Hạ thì có thể…”
“Không”, Địch Công ngắt lời, “họ Lưu đã giết hết những ai giúp hắn thực hiện những phi vụ bẩn thỉu. Lão ta sử dụng biện pháp cùng hung cực ác đó thì chứng tỏ lão ta nhận lệnh của tên đầu sỏ để giữ bí mật tuyệt đối cho mọi chuyện liên quan đến hoạt động buôn lậu.” Ông rút chiếc quạt trong tay áo ra và ngồi quạt. Lát sau, ông nói, “Vụ giết Lão Vạn chắc chắn có liên quan
mật thiết đến chuyện buôn lậu. Ta đặc biệt cảm thấy, nếu chúng ta phá xong vụ án đó, ta sẽ có được chìa khóa để phá giải chuyện buôn lậu. Vào đi!”
Có tiếng gõ cửa. Một thôn nữ trẻ tuổi, mảnh dẻ bước vào phòng, theo sau là nữ tổng quản cao ráo, hơi gầy, mặc y phục nâu đơn sơ và trên đầu quàng dải khăn đen.
“Bẩm đại nhân, đây là Thẩm cô nương.” Tổng quản trình báo.
Địch Công sắc lạnh nhìn thôn nữ này. Cô ta bướng bỉnh nhìn lại bằng đôi mắt to và chất chứa những lời muốn nói. Khuôn mặt trái xoan rám nắng có một vẻ đẹp khiến người ta lay động. Cô ta không hề điểm trang và cũng không cần điểm trang. Cái miệng nhỏ đầy hờn dỗi kia phớt hồng như màu một trái đào, chân mày dài, sống mũi thanh tú tạo nên một đường cong yêu kiều tự nhiên, mái tóc tết thành hai dải vừa dài, vừa óng rủ xuống bờ vai. Bộ y phục cũ sờn và vá víu có vẻ không hợp với vẻ đẹp ấy. Cô ta vẫn đứng trước án thư, hai tay nắm lấy sợi thừng quấn quanh eo lưng như một dải dây lưng.
Quan sát thôn nữ một lát, Địch Công nhã nhặn nói:
“Chúng ta đang cố lần ra nơi ở của Vạn Mậu Tài. Hãy mau khai ra, cô nương đã gặp ông ta ở đâu và trong hoàn cảnh nào.”
“Đại nhân, nếu ngài nghĩ mình có thể bắt dân nữ khai ra tất cả”, cô ta xấc xược, “thì ngài đang phạm sai lầm lớn nhất trong đời đấy!”
ẳ
Nữ tổng quản bước lên định tát thẳng vào mặt cô ta, nhưng Địch Công khoát tay. Ông ôn tồn bảo:
“Thẩm cô nương, cô nương đang đứng trước mặt Huyện thái gia. Cô phải trả lời mọi câu hỏi của ta.”
“Đại nhân nghĩ dân nữ sợ đòn roi sao? Cứ việc ra tay như ngài muốn, dân nữ có thể chịu được hết!”
“Không ai đánh đập cô đâu”, Đào Cam nói đỡ. “Nếu không tính chuyện liên quan đến Vạn Mậu Tài, cô nương phạm tội du đãng và tội hành nghề kỹ nữ mà không có môn bài. Cô sẽ bị xử thích chữ lên mặt.”
Thẩm Vân bỗng tái mặt.
“Đừng lo!” Đào Cam niềm nở, “Nếu cô nương đánh phấn đủ dày, những dấu vết ấy sẽ không lộ ra. Ít nhất thì cũng không lộ liễu quá.”
Thẩm Vân vẫn đứng lặng, nhìn Địch Công bằng con mắt sợ hãi. Rồi cô ta rùng mình nói:
“Dân nữ không làm gì sai trái. Và cũng không tin Lão Vạn lại vu khống cho mình. Không bao giờ! Dân nữ gặp ông ấy ở đâu ư? Ở kinh thành, tầm một năm trước. Dân nữ bị chém vào chân và đến hiệu thuốc của Lão Vạn để mua một lá cao. Tình cờ, ông ấy lại đứng ở quầy, cứ tìm cách hỏi chuyện dân nữ, tỏ vẻ thân thiện. Đó là lần đầu tiên có một người giàu có như vậy tỏ vẻ quý mến dân nữ, không hề nói đến những chuyện mà đại nhân vốn đã biết, thế là dân nữ cũng đâm yêu thích ông ấy vì điều đó. Dân nữ đồng ý gặp ông ấy đêm đó, thế rồi chuyện nọ kéo sang chuyện kia, nếu đại nhân hiểu ý dân nữ. Đương nhiên, đó là một người đã cao tuổi, có thể nói là tầm ngoài năm mươi. Nhưng lại là một người thực sự hào hoa phong nhã, ăn nói dịu dàng và luôn sẵn lòng lắng nghe từng lời của dân nữ.”
Cô ta bỗng im bặt và nhìn Địch Công với vẻ chờ đợi.
“Chuyện tình ái đó kéo dài được bao lâu?” Ông hỏi.
“Được hai mươi ngày. Rồi Lão Vạn phải cáo biệt, vì huynh muội dân nữ sẽ đi đến nơi khác. Ông ấy muốn tặng dân nữ một nén bạc nhưng dân nữ từ chối, ơn trời, dân nữ đâu phải một ả gái giang hồ, dù đại ca vẫn mong như vậy, thật là kẻ ma mãnh! Mọi chuyện chỉ có vậy. Nhưng một tháng sau đó, khi mấy người bọn dân nữ đang ở Tương Dương, Lão Vạn bỗng bước vào khách điếm mà dân nữ ở. Ông ấy bảo muốn cưới dân nữ về làm thiếp, và ông ấy sẽ tặng đại ca một món quà hậu hĩnh, bằng kim ngân tài vật.”
Cô ta đưa ống tay áo lên lau mặt, kéo áo sát vào người và nói tiếp:
“Dân nữ tạ ơn Vạn Mậu Tài nhưng không muốn nhận tiền, không cần gì cả. Dân nữ chỉ muốn được tự do, và không mơ tự nhốt mình vào giữa bốn bức tường, phải kính cẩn với thê tử của ông ấy, và theo sau là đám nô tì suốt từ sáng đến tối. Vạn Mậu Tài bỏ đi, ông già tội nghiệp ấy vô cùng sầu bi. Dân nữ cũng rất buồn - vì sau đó dân nữ lại xung đột với đại ca và huynh ấy đánh dân nữ thâm tím cả mình mẩy! Ôi, tháng sau đó, khi đang ở một ngôi làng ven sông, gần huyện Giang Hạ, Lão Vạn lại xuất hiện. Ông ấy nói đã bán hiệu thuốc cho một người bạn, vì đã quyết định sẽ đi cùng với bọn dân nữ. Đại ca nói huynh ấy sẵn lòng nếu ông ấy thường xuyên trả tiền công cho huynh ấy, vì huynh ấy luôn làm hộ vệ cho người khác để lấy tiền. Dân nữ bảo đại ca không nên như vậy. Lão Vạn có đi cùng, và có thể ngủ cùng dân nữ khi nào dân nữ muốn. Nhưng dân nữ không muốn nhận một đồng nào từ ông ấy. Đại ca nổi trận lôi đình, huynh ấy và Trương Vượng định đánh đòn dân nữ. Dân nữ sẽ bị một trận nên thân nhưng chính Lão Vạn đã đứng ra can ngăn. Ông ấy kéo đại ca sang một góc và hai người đã thỏa thuận gì đó với nhau. Ôi, nếu Lão Vạn muốn trả tiền cho đại ca để dạy cho ông ấy những ngón lừa lọc kiếm ăn dọc đường, thì đó chính là nghề của huynh ấy. Nên Vạn Mậu Tài đã nhập bọn với ba người bọn dân nữ và đi cùng cả ba trong gần một năm qua. Cho đến đêm hôm qua.”
“Ý cô định nói”, Địch Công hỏi, “họ Vạn đó, là một thương nhân giàu có quen với cảnh xa hoa ở kinh thành, lại chịu sống cùng cô và đi lang bạt như một gã du đãng tầm thường?”
“Chính là vậy! Ông ấy thích cuộc sống đó. Ông ấy đã nói với dân nữ hàng trăm lần, ông ấy chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy. Ông ấy còn bảo
mình đã chán ngấy cuộc sống ở kinh thành. Mấy vị phu nhân khi còn trẻ thì thật không chê vào đâu được, nhưng giờ họ chẳng còn biết làm gì ngoài suốt ngày than vãn, mấy vị công tử đã trưởng thành và vẫn luôn gây khó khăn cho công việc của ông ấy, luôn muốn dạy ông ấy phải làm sao để điều hành hiệu thuốc. Ông ấy chỉ yêu mến duy nhất một nhi nữ, nhưng nàng ấy đã thành thân với một thương nhân ở miền Nam và ông ấy không còn được gặp lại con nữa. Lão Vạn cũng nói tối nào cũng phải đi dự tiệc đến nỗi sinh bệnh trong nội tạng. Nhưng sau khi đi cùng bọn dân nữ, ông ấy chưa bao giờ bị đau bụng thêm lần nào. Hơn nữa, Trương Vượng đã dạy ông ấy câu cá, Lão Vạn vô cùng thích thú. Và ông ấy đã dần trở thành tay sát cá thiện nghệ.”
Địch Công vuốt râu, quan sát cô ta thêm một lúc. Đoạn ông hỏi:
“Ta cho rằng Vạn Mậu Tài đã đến thăm nhiều bạn làm ăn ở những nơi mấy người đi qua?”
“Không hề! Ông ấy nói đã đoạn tuyệt với tất cả rồi. Ông ấy chỉ thỉnh thoảng đến gặp một người bạn để lấy tiền.”
“Lão Vạn có mang theo những món tiền lớn trong người không?”
“Cũng không! Dân nữ thấy ông ấy hoàn toàn giản đơn, nhưng dân nữ tin ông ấy là một thương nhân vô cùng khôn khéo! Không bao giờ mang quá một nắm tiền xu trong mình. Nhưng mỗi lần đến một đô thị lớn, ông ấy sẽ đến tiệm kim ngân để lấy tiền. Rồi đem số tiền ấy đến cho một người bạn để nhờ giữ hộ. Một phương pháp hay, vì đại ca của dân nữ là kẻ rất gian manh! Nhưng Lão Vạn lại luôn giữ rất nhiều tiền nếu cần thiết. Và khi dân nữ nói là nhiều, thì tức là rất nhiều! Khi đến huyện Hán Nguyên này, ông ấy có năm thỏi vàng trong người. Năm thỏi vàng, trời ơi! Dân nữ chưa bao giờ biết một người có được số tiền lớn như vậy! ‘Lạy trời, đừng để đại ca của tôi trông thấy’, dân nữ đã bảo Lão Vạn như vậy. Huynh ấy không phải kẻ giết người, nhưng nếu vì một số vàng lớn đến thế thì huynh ấy sẵn lòng giết cả một huyện! Lão Vạn cười bảo ông ấy biết một nơi an toàn để giấu số vàng. Và hôm sau, chắc chắn trong túi ông ấy chỉ còn lại một xâu tiền xu. Cho dân nữ xin một chén trà được không?”
Địch Công ra hiệu cho nữ tổng quản. Bà rót cho cô ta một chén trà, nhưng khuôn mặt khó đăm đăm của bà rõ ràng có ý nói bà không đồng ý một kẻ phạm nhân lại được đặc cách. Địch Công không để ý thấy thái độ đó, vì ông đang nhìn sang Đào Cam. Đào Cam gật đầu. Họ đang dần đi đúng đường. Đợi cô gái uống trà xong, Địch Công hỏi:
“Lão Vạn trao số vàng đó cho ai?”
Cô gái nhún vai.
“Ông ấy nói nhiều về bản thân mình, nhưng chưa có một lời nói về chuyện làm ăn, và dân nữ cũng không bao giờ hỏi. Tại sao phải hỏi? Ngày đầu tiên đến huyện này, ông ấy bảo đại ca là ông ấy phải đi gặp một người có cửa hiệu gần chợ. ‘Tôi nhớ là ông chưa từng đến huyện Hán Nguyên bao giờ mà?’, đại ca hỏi. ‘Ta chưa từng đến đây’, Lão Vạn nói, ‘nhưng ta có nhiều bạn bè!’”
“Lần cuối cô nương gặp Vạn Mậu Tài là khi nào?”
“Tối hôm qua, ngay trước lúc ăn tối. Ông ấy bỏ ra ngoài và không quay về nữa. Dân nữ cho rằng ông ấy thấy đã đủ, và quay về kinh thành. Đó là quyền của ông ấy, ông ấy là người tự do mà, phải không? Nhưng ông ấy nên biết là không cần thiết phải lừa phỉnh dân nữ. Mới hôm trước ông ấy thậm chí đã mất công bảo dân nữ rằng ông ấy định chính thức gia nhập bang phái của dân nữ và xin được thề để nhập bang cơ mà! Tại sao không nói thẳng với dân nữ rằng hai người đã cạn sạch tình cảm? Nếu thế, dân nữ chắc sẽ nhớ thương ông ấy đôi chút, nhưng cũng không quá nhiều. Một cô nương trẻ tuổi như dân nữ có thể sống mà không cần một vị đại thúc, phải không đại nhân?”
“Được rồi. Ông ta nói sẽ đi đâu?”
“Ôi, ông ấy vẫn mang một điệu cười bí ẩn ấy, nói sẽ đi ăn ở nhà một người bạn mà ông ấy đã gặp ngay ngày đầu tiên đến đây. Và dân nữ tin ngay!”
Địch Công đặt chiếc nhẫn ngọc lên án thư.
“Cô nương nói chưa bao giờ nhận bất cứ thứ gì của Lão Vạn. Vậy thì tại sao cô lại tìm cách đem chiếc nhẫn của ông ta đi cầm cố?”
“Dân nữ không làm chuyện đó! Dân nữ thích vật này, nên Lão Vạn hay cho phép dân nữ cầm nó đi chơi suốt mấy ngày. Hôm nọ, khi tình cờ đi ngang qua một hiệu cầm cố có tiếng, dân nữ bước vào hỏi xem giá trị chiếc nhẫn
này thế nào, chỉ hỏi vui thôi. Nhưng lão chủ hiệu lập tức tìm cách ve vãn dân nữ, lão ta túm lấy tay áo dân nữ mà thì thầm gợi ý những điều nhơ nhuốc. Nên dân nữ đã bỏ ra ngoài.” Cô ta vén một lọn tóc rủ xuống trán, nhếch môi cười rồi kể tiếp, “Rõ ràng đó là một ngày đen đủi! Ngay khi dân nữ vừa ra khỏi cửa, một gã lưu manh to lớn túm tay dân nữ và nói dân nữ là nương tử của hắn! Cặp mắt ốc nhồi của hắn khiến dân nữ phải rùng mình! Nhưng Lão Vạn lập tức lên tiếng, ‘Buông tay ra, đó là nữ nhân nhà ta!’ Đại ca dân nữ đã vặn tay hắn và đá cho hắn một cái vào mông rồi đuổi hắn đi. Dân nữ dám nói, mọi nam nhân đều như nhau cả! Họ nghĩ mình có quyền động vào bất cứ cô gái giang hồ nào, và gọi một tiếng là cô ta sẽ ngã ngay vào lòng mình! Không, Lão Vạn thực sự là người đàng hoàng! Và nếu đại nhân nói ông ấy đổ cho dân nữ tội gì đó, dân nữ sẽ không ngại mà nói đại nhân là kẻ dối trá!” ��
Thẩm Vân khẳng định mình vô tội
Đào Cam nhận thấy Địch Công hình như không nghe những lời sau cùng của cô ta. Tay ông vuốt hai dải tóc mai, mắt đăm nhìn về trước, nhưng suy nghĩ thì rõ ràng đang nằm ở nơi nào đó. Đào Cam thấy lạ vì Địch Công hình như đang đầy phiền muộn, và y tự hỏi điều gì đã gây ra sự thay đổi bất ngờ này, vì trước khi gặp Thẩm cô nương, ông vẫn còn hứng khởi vì đã có thêm bằng chứng về vụ án buôn lậu. Và cô nương kia cũng sẵn lòng cho họ biết nhiều thông tin giá trị. Từ lời giải thích dài dòng của cô ta, Địch Công chắc chắn cũng luận ra được rằng Lão Vạn, hay Vạn Mậu Tài, đã gia nhập đảng trộm cướp chỉ để che giấu những hành vi phạm pháp của mình; có thể Vạn Mậu Tài trước giờ chính là kẻ phát tiền trong các hoạt động buôn lậu. Một vỏ bọc hoàn hảo, vì ai lại nghi ngờ một kẻ du đãng lang thang khắp nơi cùng hai tên trộm cướp? Và người được Vạn Mậu Tài đến
gặp buổi sáng hôm qua chắc chắn là một trong số những tay chân phân chia hàng lậu. Một cuộc điều tra gắt gao ở mọi hiệu buôn ngoài chợ và một cuộc thẩm vấn kĩ lưỡng đối với các chủ hiệu chắc chắn sẽ làm lộ ra danh tính kẻ đó. Và thông qua kẻ này, có thể tìm ra được tên trùm đứng đầu là ai… các
vị thượng quan ở kinh thành cũng đang nóng lòng muốn tìm ra hắn! Đào Cam ra hiệu vài lần nhưng Địch Công dường như không chú ý. Nữ tổng quản cũng thấy lạ trước bầu không khí im lặng kéo dài. Bà đảo mắt nhìn sang Đào Cam dò hỏi, nhưng y cũng chỉ có thể lắc đầu.
Cô nương kia có vẻ sốt ruột. “Đứng yên đó!” Nữ tổng quản quát. Địch Công nhìn lên, giật mình sực tỉnh. Ông đẩy chiếc mạo ra sau và nhẹ nhàng bảo Thẩm Vân:
“Lão Vạn ấy đã bị sát hại đêm qua.”
“Đại nhân nói là bị sát hại ư?” Cô nương òa lên. “Lão Vạn bị sát hại? Là kẻ nào đã ra tay?”
“Ta nghĩ cô nương có thể cho chúng ta biết”, Địch Công đáp. “Ông ấy được tìm thấy ở đâu?” Cô nương căng thẳng.
“Giữa một căn lều hoang, trong rừng. Ở lưng chừng núi.”
Hai mắt nảy lửa, Thẩm Vân đấm mạnh nắm tay nhỏ nhắn lên mặt án thư và gào lên:
“Chính gã họ Lưu khốn kiếp đã ra tay! Lão ta cử người theo dõi ông ấy, vì Lão Vạn đã giúp bọn dân nữ thoát khỏi cái bang phái thối tha của lão ta! Lão Vạn đã mắc bẫy! Tên khốn kiếp, tên đê mạt!”
Cô ta gục mặt xuống hai bàn tay và khóc nức nở.
Địch Công đợi đến khi cô ta bình tĩnh hơn. Ông chỉ vào chén trà, và khi cô nương uống xong, ông lại hỏi:
“Khi nhập hội, Lão Vạn cũng chặt một đốt ngón tay út bên trái sao?”
Cô nương mỉm cười qua hai hàng nước mắt.
“Ông ấy muốn vậy, nhưng ông ấy không có gan! Dân nữ không nhớ đã bao nhiêu lần ông ấy tìm cách chặt tay, cứ đứng với bàn tay trái đặt trên cái thớt gỗ và con dao lớn cầm trên tay phải, và dân nữ đứng bên ông ấy rồi đếm ‘một hai ba’! Nhưng ông ấy vẫn luôn sợ hãi!”
Địch Công gật đầu. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu, buông tiếng thở dài và rồi cầm lấy cây bút lông. Ông viết nhanh vài dòng trên một tấm danh thiệp màu đỏ, bỏ vào phong bì và đề vài chữ ra bên ngoài. “Gọi một Lục sự đến đây!” Ông bảo Đào Cam.
Khi Đào Cam quay lại cùng một Lục sự, Địch Công đưa phong thư cho ông ta và bảo, “Sai Bộ đầu chuyển đi ngay.” Rồi ông lại quay sang Thẩm Vân, nhìn cô ta với ánh mắt ân cần và bảo, “Cô nương vẫn chưa có tình lang ở nơi nào khác sao?”
“Có rồi. Huynh ấy là một thuyền phu ở huyện Giang Hạ. Huynh ấy muốn thành thân với dân nữ, nhưng dân nữ bảo cứ đợi vài năm nữa. Khi đó huynh ấy đã mua được cho mình một chiếc thuyền riêng, và dân nữ sẽ được sống vui như ý muốn. Hai người sẽ cùng đi khắp nơi để chở hàng thuê trên sông, kiếm đủ tiền để được ăn no mặc ấm và sống đời buôn bán làm vui!” Cô ta đưa ánh mắt lo lắng nhìn sang Địch Công. “Các ngài sẽ thích chữ lên mặt dân nữ sao?”
“Không đâu. Nhưng trong thời gian tới, cô nương sẽ không được thoải mái tự do như trước. Đối với một người thì sự tự do là điều dư dả nhất đấy!”
Ông ra hiệu cho nữ tổng quản. Bà nắm cánh tay Thẩm Vân và kéo cô ta ra ngoài.
“Cô ta mới lắm lời làm sao!” Đào Cam than. “Khó khăn lắm cô ta mới mở miệng, nhưng đã nói thì cứ thao thao bất tuyệt!”
“Ta đã để cô ta kể lại mọi chuyện theo cách của mình. Một cuộc thẩm vấn nghiêm chỉnh chỉ cần thiết khi ngươi nhận ra kẻ kia đang nói dối. Hãy ghi
nhớ cho những vụ án về sau, Đào Cam ạ.” Ông vỗ tay gọi một gia nhân, sai người đó đem đến một chiếc khăn ấm.
“Vạn Mậu Tài là kẻ giang hồ lão luyện”, Đào Cam nói. “Cô nương kia cũng không ngốc, nhưng cô ta sẽ không bao giờ hiểu được rằng họ Vạn đang điều hành một hội buôn lậu.”
Địch Công chưa nhận định gì. Ông xếp các loại văn thư trên án sang một bên và đặt chiếc nhẫn ngọc lên trước mặt mình. Gia nhân bưng vào một chiếc chậu đồng đựng nước nóng thơm nức. Địch Công cầm chiếc khăn lên và lau kĩ mặt mũi cùng hai bàn tay. Rồi ông tựa người ra ghế và nói:
“Đào Cam, mở cửa sổ ra đi. Trong này ngột ngạt quá.” Ông suy nghĩ một lát rồi nhìn lên Đào Cam, “Ta không biết họ Vạn đó có lão luyện hay không. Thẩm cô nương đã vẽ nên một bức tranh từ đời thực: một người cao tuổi bỗng nghi ngờ giá trị của mọi tiêu chuẩn vốn đã được công nhận, và băn khoăn tự hỏi mình sống vì điều gì trong suốt nhiều năm qua. Nhiều người đã trải qua giai đoạn này sau khi đến độ tuổi nhất định. Trong vài năm, họ sẽ là mối phiền muộn cho chính mình và người nhà, rồi họ sẽ lại hồi tỉnh và quay ra cười vào chính sự điên rồ của mình. Tuy nhiên, với họ Vạn thì mọi chuyện lại khác. Ông ta quyết định rửa tay gác kiếm và một quyết định hợp lý ra đời, đó là bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn mới. Sau vài năm nữa, ông ta có hối hận vì quyết định đó hay không thì vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời đáp. Vạn Mậu Tài đó chắc chắn là một nhân vật thú vị. Lập dị, nhưng nhất định là một nhân vật độc đáo.”
Địch Công lại chìm vào yên lặng. Đào Cam bắt đầu ngọ nguậy trên ghế với vẻ sốt ruột. Y nóng lòng được bàn tới phần tiếp theo của cuộc tra án. Y hắng giọng mấy lần rồi hỏi với vẻ hơi khác:
“Đại nhân, giờ chúng ta sẽ cho gọi Trương Vượng vào để thẩm vấn phải không?”
Địch Công ngẩng lên.
“Trương Vượng? Phải rồi, đồng bọn của Thẩm Kim. Đào Cam, ngày mai ngươi có thể lo việc đó. Cứ hỏi những câu thông thường thôi. Gã và Thẩm
Kim không phải là vấn đề lớn. Ta chỉ đang thực sự băn khoăn về cô nương kia. Ta không biết phải làm sao với cô ta! Triều đình giám sát chặt chẽ những kẻ giang hồ vì có thể dẫn tới nạn trộm cướp hoặc gây rối trật tự trị an. Còn cả đám kỹ nữ không có môn bài, vì đó cũng là một dạng trốn thuế và ảnh hưởng đến quốc khố. Theo luật, cô ta sẽ phải chịu hình trượng và bị giam trong hai năm. Nhưng ta tin rằng những hình phạt đó sẽ chỉ biến cô ta thành một nữ tội phạm dạn dày hơn, cuối cùng sẽ phải ra pháp trường hoặc ở lại trong đám cặn bã. Thật đáng thương, vì cô gái này chắc chắn có những phẩm chất tốt đẹp. Chúng ta phải tìm ra một giải pháp khác.”
Ông lắc đầu với vẻ lo âu và rồi nói tiếp:
“Đối với Thẩm Kim và tên đồng bọn, ta sẽ xử chúng phải chịu lao dịch một năm cùng đoàn dân phu của Bắc quân. Như vậy sẽ chữa được thói lười biếng của chúng và cho cả hai cơ hội thể hiện xem bản lĩnh của chúng đến đâu. Nếu cả hai đều biết sửa mình, sẽ đến lúc chúng có thể xin tòng quân làm lính. Nhưng đối với Thẩm Vân thì… Phải rồi, có giải pháp rồi đây! Ta sẽ bố trí cho cô ta làm thị nữ cho Hàn Ngu hầu! Hàn đại nhân là người vô cùng nghiêm khắc và truyền thống, luôn giữ phủ đệ của mình trong quy củ. Nếu cô ta ở đó trong một năm, có thể hiểu được mọi lợi ích của một cuộc sống chuẩn mực hơn, sẽ đến lúc chàng thuyền phu kia có được vị hiền thê đúng nghĩa!”
Đào Cam nhìn Địch Công lo lắng. Y nghĩ ông thực sự mệt mỏi, khuôn mặt ông đã tái đi và những nếp nhăn quanh miệng bỗng nổi rõ hơn. Hôm nay quả thực là một ngày dài. Y có quá tự tin không nếu đề nghị được tự mình xem xét hết mọi hoạt động thường nhật của các cửa hiệu ngoài chợ? Hoặc thẩm vấn lại Lam chưởng quỹ? Trước hết, y quyết định xác minh xem kế hoạch của Địch Công là gì.
“Ngài nghĩ tiếp theo chúng ta phải làm gì? Thuộc hạ nghĩ…”
“Bước tiếp theo ư?” Địch Công nhướn mày. “Không có bước tiếp theo. Ngươi không nhận thấy mọi chuyện đã được giải quyết rồi sao? Giờ đây, chúng ta biết được Vạn Mậu Tài vì sao mà chết và chết ra sao, ai đã đưa xác ông ta lên căn lều hoang, tất cả mọi chuyện! Đương nhiên, biết cả kẻ
nào nằm trong đám buôn lậu ở huyện này.” Trong khi Đào Cam lặng người nhìn ông đăm đăm, Địch Công sốt ruột nói tiếp, “Trời ạ, ngươi vẫn chưa hiểu hết được mọi bằng chứng ư? Nếu giờ ta giúp ngươi lo những việc phụ, chỉ là vì ta không còn gì đáng để làm hơn trong khi đợi nhân vật trung tâm của tấn bi kịch này xuất hiện.”
Đào Cam mở miệng định nói nhưng Địch Công đã vội nói tiếp:
“Phải rồi, đây là một tấn bi kịch. Đào Cam ạ, thường thì phá giải được một vụ án phức tạp sẽ cho ta cảm giác thỏa mãn, thỏa mãn vì đã chỉnh đốn được những sai trái và giải được bí ẩn. Tuy nhiên, đây là một vụ án khiến ta khổ
tâm. Thật lạ, ta dự cảm mơ hồ về vụ án này khi ta cầm chiếc nhẫn trên tay sáng sớm nay, ngay sau khi ta lấy được nó từ con khỉ. Chiếc nhẫn mang mùi vị của nỗi thống khổ… Có ai chịu nổi nỗi thống khổ đâu, Đào Cam. Khi thì dâng cao, khi thì suy biến. Giờ đây, chúng ta sẽ thấy nỗi thống khổ giày vò nhân vật chính trong vở kịch này như thế nào…” Ông bỏ lửng câu nói và liếc nhanh ra cửa. Có tiếng bước chân vang lên ngoài hành lang. Bộ đầu đưa Hoàng lang trung vào.
Viên lang trung, nhỏ nhắn và lanh lợi trong bộ y phục bằng lụa đen, bước vào thi lễ.
“Đại nhân, tiểu nhân có thể giúp gì được cho ngài?” Ông ta kính cẩn hỏi. Địch Công chỉ chiếc nhẫn ngọc trước mặt và ôn tồn bảo:
“Ông có thể nói cho ta biết tại sao ông không lấy đi chiếc nhẫn này khi ông lột hết tài sản của người đã chết hay không?”
Hoàng lang trung khiếp hãi khi trông thấy chiếc nhẫn. Nhưng rồi lão ta nhanh chóng làm chủ được bản thân và nói với vẻ phẫn nộ:
“Đại nhân, tiểu nhân hoàn toàn không hiểu! Bộ đầu đưa cho tiểu nhân danh thiệp của đại nhân với lời mời đến đây để cung cấp thêm thông tin và…”
“Đúng rồi”, Địch Công ngắt lời. “Thông tin về vụ giết người bạn Vạn Mậu Tài của ngươi!” Lang trung muốn nói nhưng Địch Công đã khoát tay.
“Không, hãy lắng nghe ta đã! Ta biết chính xác chuyện gì đã xảy ra. Ngươi rất muốn có năm thỏi vàng mà Lão Vạn đã phó thác cho ngươi, vì kế hoạch chuyển lậu hai rương hàng từ huyện Giang Hạ qua huyện Hán Nguyên của ngươi đã thất bại. Ngươi đã thuê người của Lưu đại gia, và bọn chúng đã làm hỏng việc, quan quân đã thu giữ số hàng hóa giá trị ấy mà ngươi có thể vẫn chưa trả tiền. Lão Vạn muốn nhập bọn với huynh muội Thẩm Vân bằng cách tuyên thệ và chặt một đốt ngón tay út bên trái, nên ngươi đã có cơ hội ngàn năm có một để sát hại kẻ bất hạnh đó.”
Bộ đầu áp sát lại gần họ Hoàng, nhưng Địch Công lắc đầu ra hiệu. Ông nói tiếp:
“Vạn Mậu Tài thiếu dũng khí để tự mình chặt một đốt ngón tay, và ngươi đã hứa sẽ giúp ông ta việc ấy vào đêm qua, ở chính tĩnh xá của ngươi trên núi. Ngươi đồng ý giúp ông ta chặt đốt ngón tay bằng lưỡi dao lớn vẫn được dùng để thái các loại rễ thuốc thành từng lát mỏng. Một đầu lưỡi dao vừa dẹt vừa sắc có khớp nối để gắn vào chiếc thớt nhỏ, một đầu có cán dao. Thông qua thứ công cụ hoàn hảo mà mọi lang trung và người buôn thuốc đều phải có, việc lấy đi một đốt ngón tay có thể được thực hiện chuẩn xác, nhanh gọn và dễ dàng, gần như không cảm thấy đau đớn. Lão Vạn lạc vào hang cọp vì muốn chứng minh với cô gái lang thang mà ông ta yêu quý rằng ông ta muốn ở bên cô ta mãi mãi.”
Địch Công ngừng lại. Họ Hoàng tròn mắt nghi hoặc, nhìn ông không chớp.
“Trước khi Lão Vạn đặt tay lên đúng vị trí trên chiếc thớt gỗ, lưỡi dao đã sập xuống và cắt đứt bốn ngón tay của ông ta. Rồi lão nhân bất hạnh đó bỏ mạng vì bị đánh vỡ sọ bằng chiếc chày sắt vốn dùng để giã thuốc.
“Sau đấy, cái xác được đưa từ trên tĩnh xá của ngươi xuống căn lều bỏ hoang. Ở đó, có thể là sau nhiều tuần, sẽ có người phát hiện ra cái xác đang trong tình trạng thối rữa. Hơn thế, ngươi đã cẩn thận xem kĩ cái xác và lấy đi mọi thứ có thể để lại manh mối về danh tính nạn nhân. Ta đã định thiêu cái xác vì đó là một kẻ lang thang không rõ danh tính. Nhưng một con khỉ trong rừng đã giúp ta đi đúng hướng.”
“Một… một con khỉ ư?” Họ Hoàng lắp bắp.
“Đúng thế, con khỉ đó đã tìm thấy chiếc nhẫn của Vạn Mậu Tài, chính là chiếc nhẫn trước mặt ta đây. Nhưng ngươi không phải lo đâu.”
Địch Công không nói nữa. Sự tĩnh lặng lại trùm lên căn phòng nhỏ. Khuôn mặt họ Hoàng chuyển sang tái mét và môi giật lên từng đợt. Lão ta nuốt nước bọt đôi ba lần rồi mới dám nói, giọng lại khàn khàn, rất khó nghe:
“Đúng vậy, tiểu nhân thú nhận đã giết Vạn Mậu Tài. Mọi chuyện xảy ra đúng như đại nhân nói. Ngoại trừ chi tiết hai chiếc rương đồ lậu. Chúng không phải hàng của tiểu nhân, tiểu nhân chỉ giữ vai trò một tay sai, có nhiệm vụ phân phối lại những thứ trong rương.” Lão ta thở dài và tiếp tục nói bằng giọng thản nhiên, “Tiểu nhân có nhiều rắc rối với tiền bạc từ hai năm nay, và đám chủ nợ vẫn đang thúc bách tiểu nhân. Kẻ mà tiểu nhân mắc nợ nhiều nhất là một đại viên ngoại ở kinh thành.” Lão ta nhắc đến một danh tính mà Địch Công nhận ra ngay đó là ai; kẻ đó là một đại tài chủ, biểu ca của Thượng thư Bộ Hộ. “Hắn gửi tín thư cho tiểu nhân, nói rằng nếu tiểu nhân đến gặp hắn, hắn sẽ sẵn lòng nói rõ mọi chuyện. Tiểu nhân lên đường đến kinh thành và được hắn đón tiếp rất nồng hậu. Hắn nói, nếu tiểu nhân đồng ý hỗ trợ cho hắn trong một kế hoạch thì hắn không chỉ xóa nợ cho tiểu nhân, mà còn chia cho tiểu nhân một phần hậu hĩnh trong vụ làm ăn này. Đương nhiên là tiểu nhân nhận lời. Rồi tiểu nhân vô cùng sợ hãi khi hắn thản nhiên giải thích rằng hắn đã tổ chức một hội nhóm buôn lậu trải khắp mọi châu huyện trên đất Đại Đường!”
Họ Hoàng đưa tay ôm mặt. Lão ta lắc đầu và nói tiếp:
“Khi hắn nhắc đến những món lợi khổng lồ, tiểu nhân đã xiêu lòng. Cuối cùng, tiểu nhân đành buông xuôi. Tiểu nhân… tiểu nhân không thể trở thành một kẻ nghèo kiết xác. Và khi nghĩ về số tiền tiểu nhân sẽ nhận được… Lẽ ra tiểu nhân phải sáng suốt hơn! Thay vì xóa nợ cho tiểu nhân, kẻ đại ác đó lại vẫn giữ nguyên số nợ đó, hắn có ý thưởng cho công sức tiểu nhân bằng cách cho tiểu nhân vay tiền với mức tiền lãi cắt cổ. Chẳng bao lâu, tiểu nhân đã nằm trọn dưới móng vuốt của hắn. Khi Vạn Mậu Tài tin tưởng giao năm thỏi vàng cho tiểu nhân, tiểu nhân đã nghĩ ngay rằng đây chính là cơ hội để trả tiền cho tên viên ngoại kia, và thoát khỏi bàn tay hắn. Tiểu nhân biết Vạn Mậu Tài cũng không nói với ai là đêm qua đến chỗ
tiểu nhân, vì ông ta không muốn người ngoài biết ông ta không có đủ dũng khí để tự mình chặt đứt một đốt ngón tay. Ông ta một mực cho rằng, tiểu nhân sẽ không nói cho ai về việc ông ta sắp đến, kể cả người nhà. Đích thân tiểu nhân ra đón ông ta vào bằng cổng sau.”
Viên lang trung rút trong tay áo ra một chiếc khăn tay bằng lụa và lau khuôn mặt ướt đẫm. Rồi lão ta nói bằng giọng quả quyết:
“Nếu đại nhân vui lòng cho tiểu nhân một tờ giấy, ngay bây giờ tiểu nhân sẽ viết lại toàn bộ lời thú tội của mình về chuyện cố ý sát hại Vạn Mậu Tài.”
“Ta vẫn chưa bắt ngươi chính thức thú nhận”, Địch Công điềm tĩnh nói. “Còn một số điểm ta cần xác minh. Trước hết, tại sao Vạn Mậu Tài luôn gửi một số tiền lớn?”
“Vì ông ta nuôi hy vọng một ngày nào đó cô gái lang thang kia sẽ ưng thuận mà thành thân với ông ta. Ông ta bảo tiểu nhân rằng ông ta muốn có thể trả tiền cho đại ca của cô ta, và mua một căn nhà tử tế ở vùng thôn quê nào đó, để bắt đầu một cuộc đời mới.”
“Ta hiểu. Thứ hai, tại sao ngươi không nói thẳng với ông ta rằng ngươi cần số vàng của ông ta, vì đang mắc nợ ngập đầu? Chẳng phải những thành viên trong cùng một phường hội có thói quen giúp đỡ lẫn nhau sao? Và Lão Vạn còn là người vô cùng giàu có, có đủ khả năng để cho ngươi vay năm thỏi vàng.”
Họ Hoàng có vẻ vô cùng bối rối trước những câu hỏi ấy. Môi lão ta mấp máy nhưng không thốt lên được một lời nào. Địch Công không muốn kéo dài thêm nên nói tiếp:
“Thứ ba, ngươi là người đã cao tuổi và vóc dáng mảnh dẻ. Bằng cách nào mà ngươi đưa được cái xác xuống căn lều? Hiển nhiên một phần nhờ vào dốc núi, nhưng ngay cả vậy ta cũng không nghĩ ngươi có thể làm được điều đó.”
Họ Hoàng lấy lại bình tĩnh. Lão ta lắc đầu chán chường và đáp:
“Đại nhân, tiểu nhân cũng không thể hiểu nổi mình đã làm như thế nào! Nhưng tiểu nhân gần như hóa điên, bị ám ảnh bởi ý muốn che giấu cái xác ngay lập tức. Vì lẽ đó, tiểu nhân có thêm sức lực để lôi cái xác ra khu vườn, và từ đó đi qua khu rừng. Khi trở lại tĩnh xá, tiểu nhân mệt thừa sống thiếu chết…” Lão ta lại xoa mặt, rồi nói bằng giọng quả quyết hơn, “Tiểu nhân hoàn toàn nhận ra rằng mình đã sát hại một người tốt chỉ vì tiền, và tiểu nhân sẽ phải đền mạng vì tội ác này.”
Địch Công ngồi thẳng người. Ông thu cả hai tay lên mặt án thư, vươn người về trước và nói với họ Hoàng bằng giọng hòa nhã:
“Tuy nhiên, ngươi không nhận ra rằng nếu ngươi chính thức thú tội giết người, mọi tài sản của ngươi sẽ bị tịch biên. Bên cạnh đó, nhi tử ngươi sẽ không được thừa kế dù trong trường hợp nào, vì ta sẽ phải chứng minh cậu ta có tâm trí bất ổn định.”
“Ý ngài là sao?” Họ Hoàng kêu lên. Lão vươn người về trước và đấm mạnh lên án thư. “Không đúng, toàn là dối trá! Nhi tử nhà tiểu nhân có đầu óc bình thường! Trí tuệ của nó chỉ hơi chậm phát triển, và nó cũng đã hai mươi tuổi rồi! Khi lớn hơn nữa, tâm trí nó chắc chắn sẽ được cải thiện… Chỉ cần nhẫn nại một chút, và tránh khiến nó xúc động, thì nó là người hoàn toàn bình thường!”
Lão nhìn Địch Công bằng ánh mắt van nài rồi tiếp tục bằng thứ giọng run bần bật:
“Nó là đứa con duy nhất của tiểu nhân, một đứa bé ngoan ngoãn, khôi ngô là vậy! Tiểu nhân xin đảm bảo với ngài…”
Địch Công ôn tồn đáp:
“Ta sẽ đích thân giám sát mọi việc chăm sóc nhi tử ngươi trong khi ngươi ở trong ngục. Ta xin hứa với ngươi điều đó. Nhưng nếu chúng ta không có những phương pháp hiệu quả, nhi tử ngươi sẽ gây ra nhiều tai nạn khác. Cậu ta sẽ được đưa vào nơi trông nom đặc biệt, đó là giải pháp duy nhất. Hai ngày trước, khi cậu ta ra khỏi cửa hiệu, cậu ta đã tình cờ trông thấy một cô nương vừa ra khỏi hiệu cầm cố của Lam chưởng quỹ, cô nương ấy
rất xinh đẹp, và tâm trí hỗn loạn của nhi tử ngươi đã nghĩ cô ấy là tình nương của mình. Cậu ta muốn giữ cô ấy lại, nhưng Lão Vạn đã bảo cậu ta rằng cô ấy là tình nương của ông ta, rồi đại ca của Thẩm cô nương đã đuổi cậu ta đi. Sự việc này đã hằn sâu lên tâm trí rối loạn, yếu ớt của cậu ta. Hôm qua, khi họ Vạn đến gặp ngươi, cậu ta chắc chắn đã trông thấy ông ta. Chắc rằng đó chính là người đã cướp đi tình nương của mình, cậu ta đã giết ông ta. Rồi ngươi sai con mình đưa cái xác xuống căn lều, đích thân ngươi dẫn đường. Đối với nhi tử nhà ngươi thì đó là một việc dễ dàng, vì như nhiều thanh niên thiểu năng khác, cậu ta đặc biệt cao lớn và khỏe mạnh.”
Họ Hoàng sững sờ. Những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt tái xám và hốc hác, hai vai run lên. Đang từ vẻ nhanh nhẹn và tinh anh của một thương nhân, lão bất ngờ biến thành một lão già mệt mỏi.
“Vậy ra đó chính là lý do nó không ngừng nói về cô nương ấy và Lão Vạn… Tối hôm qua, tiểu nhân hoàn toàn bất ngờ, vì nó cứ ở trong tâm trạng hoan hỉ suốt cả ngày. Buổi chiều hôm qua, tiểu nhân đưa nó đi dạo trong rừng và nó rất vui, say sưa ngắm lũ khỉ chuyền trên cây. Nó dùng cơm tối với quản gia rồi đi ngủ, vì nó cũng dễ mệt… Tiểu nhân đã bảo quản gia là mình sẽ ăn tối một mình trong thư phòng, sai ông ta chuẩn bị đồ điểm tâm cho tiểu nhân trong phòng. Khi đang dùng bữa với Lão Vạn ở đó, tiểu nhân nhắc với ông ta về số vàng, ông ta bảo ngay rằng tiểu nhân không cần thiết phải lo về số vàng đó, ông ta có thể dễ dàng lấy thêm vàng từ kinh thành nếu cần thiết, và tiểu nhân có thể trả lại cho ông ta thành nhiều lần. ‘Những gì huynh đang giúp ta’, ông ta cười bảo, ‘ta sẽ xem như tiền lãi trong món nợ!’ Ông ta thích như vậy đấy. Thật là một người đặc biệt. Ông ta nhanh chóng uống cạn một bát rượu lớn, rồi cả hai cùng ra xưởng bào chế nhỏ đặt tại căn lều trong vườn, chuyên để thử nghiệm các loại thuốc mới. Lão Vạn đặt bàn tay trái lên thớt gỗ và nhắm mắt lại. Ngay khi tiểu nhân đang điều chỉnh lại lưỡi dao, có ai đó thúc mạnh vào khuỷu tay tiểu nhân. ‘Lão ác độc này đã cướp mất nương tử của con!’ Nhi tử tiểu nhân kêu lên phía sau. Lưỡi dao sập xuống và chặt đứt bốn ngón tay của Lão Vạn. Ông ta gục xuống bàn và kêu lên đau đớn. Tiểu nhân vội nhìn quanh tìm lọ thuốc bột để cầm máu. Bất ngờ, nhi tử tiểu nhân chộp lấy chiếc chày sắt trên bàn và nện một chày rất mạnh vào gáy ông ta…”
Lão nhìn Địch Công với ánh mắt đau khổ. Rồi lão ta bám chắc vào cạnh án thư và nói:
“Ánh trăng soi tỏ phòng ngủ đã khiến nó thức giấc. Và khi nhìn ra cửa sổ, nó đã thấy tiểu nhân cùng Lão Vạn đi ra căn lều ngoài vườn. Ánh trăng luôn khiến nó rơi vào trạng thái thần trí hỗn loạn… Nó không hề biết mình đã làm gì, thưa đại nhân! Nó vẫn luôn hòa nhã, nó…” Giọng lão nhỏ dần đi.
“Nhi tử ngươi đương nhiên sẽ không bị khiếu kiện. Người có tâm thần bất ổn không nằm trong phạm vi xử lý của pháp luật. Giờ Đào quân sư sẽ đưa ngươi về phòng riêng của y ở bên cạnh phòng này, ngươi sẽ phải giải trình
mọi điều mình biết về cách tổ chức cũng như các hoạt động của hội buôn lậu kia, danh tính và nơi sinh sống của mọi đà chủ khác mà ngươi biết. Ta hỏi luôn, Lam chưởng quỹ có nằm trong hội này không?”
“Không hề! Sao đại nhân lại nghi ngờ ông ta? Ông ta là hàng xóm của tiểu nhân, và tiểu nhân chưa bao giờ…”
“Ta nghe nói ông ta thường xuyên đến huyện Giang Hạ, một trong số những cơ sở quan trọng trong hội buôn lậu của các ngươi.”
“Lam phu nhân là người vô cùng hay ghen”, họ Hoàng phân trần. “Bà ấy không cho phép ông ta có thêm nữ nhân nào khác trong nhà. Thế nên ông ta đã mua một căn nhà riêng ở huyện Giang Hạ.”
“Được rồi. Sau khi ngươi ký tên và điểm chỉ lên lời khai ta vừa nói, ngươi sẽ phải giải thích lại toàn bộ cái chết bất ngờ của Vạn Mậu Tài. Ngay đêm nay, ta sẽ gửi cả hai văn bản đó về kinh thành dưới dạng tín thư đặc biệt. Ta cũng sẽ gửi kèm thư xin khoan hồng, chỉ rõ rằng ngươi đã tự nguyện cung cấp mọi tin tức để các vị thượng quan có thể phá được hội buôn lậu. Ta hy vọng thời hạn tù giam của ngươi sẽ được giảm xuống nhờ đoái công chuộc tội. Tuy nhiên, nếu có thể ta sẽ tìm cách bố trí cho nhi tử ngươi được phép
vào thăm phụ thân trong tù nhiều lần. Đào Cam, đưa Hoàng lang trung về chỗ của ngươi. Lấy giấy mực cho ông ta và ra nghiêm lệnh không cho ai quấy rầy ông ta.”
Khi Đào Cam trở lại, y thấy Địch Công đứng bên cửa sổ đã mở, hai tay ông chắp sau lưng. Ông đang tận hưởng bầu không khí mát lành tràn vào phòng từ khu vườn nhỏ có tường bao, bên trong trồng toàn chuối. Chỉ vào đám lá xanh mướt, ông nói:
“Đào Cam, hãy nhìn những buồng chuối sai trĩu kìa! Chuối vừa chín rồi. Bảo Bộ đầu đem vài trái về tư thất của ta, để sáng mai ta sẽ cho lũ khỉ ăn.”
Đào Cam gật đầu, trên khuôn mặt dài của y toát ra một nụ cười hồn hậu. “Đại nhân, xin cho thuộc hạ chúc mừng ngài vì đã…”
Địch Công khoát tay.
“Đều là nhờ có ngươi đã hành động tinh nhanh và hiệu quả, chúng ta mới có thể nhanh chóng phá được vụ án phức tạp này, Đào Cam ạ. Xin thứ lỗi vì ta đã có phần thô lỗ với ngươi, ngay trước khi họ Hoàng bước vào. Thực ra ta đang sợ cuộc gặp gỡ này, vì ta ghét nhất phải trông thấy một người tỏ ra mềm yếu trước mặt mình - dù đó có là một kẻ phạm tội. Nhưng họ Hoàng này đã làm chủ bản thân rất tốt. Chính tình phụ tử đã cho lão được vẻ đường hoàng.”
Địch Công quay về ngồi lại sau án thư.
“Ta sẽ viết thư cho Hồng Sư gia ở huyện Giang Hạ ngay bây giờ, báo cho lão biết vụ án buôn lậu đã được phá, và lão cùng hai trợ thủ phải quay về ngay ngày mai. Ngươi có thể ra lệnh phóng thích ông bạn Lam chưởng quỹ. Những thời khắc ngồi trong đại lao đã cho ông ta cơ hội để ngẫm nghĩ, ta hy vọng là vậy.”
Ông cầm bút lên nhưng lại nhớ ra điều gì đó và nói:
“Đôi khi ta vẫn sát cánh cùng một mình ngươi trong một vụ án nào đó, Đào Cam, ta muốn nói rằng ta rất hài lòng khi có ngươi làm phụ tá vĩnh viễn cho mình. Ta chỉ có một lời khuyên cho ngươi trong sự nghiệp làm quan tra án về sau. Đó là ngươi không bao giờ được phép để mình bị liên quan về mặt cảm xúc vào những vụ án ngươi đang giải quyết. Đào Cam, đó là điều
quan trọng nhất nhưng cũng khó thực hiện nhất. Ta hiểu mà. Ngay cả ta cũng chưa thể học được khả năng ấy.”
PHI HỔ ĐOÀN
(Gặp “hổ” giữa thiên tai)
Lụng thụng trong chiếc áo khoác da nặng nề, Địch Công một mình thúc ngựa trên quan đạo* ngang qua vùng đồng bằng hoang vắng. Trời đã xế chiều, những khối màu xám của một tối mùa đông đang dần kéo đến vùng đất bị lũ lụt nhấn chìm trong thê lương này, quan đạo giữa vùng nước lũ trông như một vết rạn nứt trên tấm gương xỉn màu. Mặt nước phản chiếu bầu trời xám xịt. Bầu trời dường như thấp hẳn xuống, lơ lửng trên những con sóng lăn tăn. Gió Bắc đẩy những khối mây đen thẫm về phía dải núi phủ sương đằng xa.
Đường do triều đình xây dựng.
Chìm sâu trong suy tư, Địch Công thúc ngựa lên trước, bỏ cách đám hộ quân gần nửa dặm*. Rạp mình trên lưng ngựa, chiếc mạo bằng da thú của ông trùm xuống kín tai, ông đăm đăm nhìn về con đường trước mặt. Ông nhận ra mình chỉ nghĩ về tương lai. Hai ngày nữa, ông sẽ có mặt ở kinh thành và đến một nhiệm sở mới, ông vừa được thăng chức lên một vị trí mà chính ông cũng không ngờ. Nhưng tâm trí ông cứ luôn quay về với những ngày vừa qua. Tấn thảm kịch đánh dấu những ngày cuối cùng làm Thứ sử Bắc Châu cứ đeo đẳng theo ông, buộc ông phải quay lại châu phủ vừa nghèo nàn, vừa ảm đạm ở phương Bắc lạnh giá mà mọi người vừa rời khỏi ba ngày trước.
1 dặm tương đương 1,61 km.
Trong vòng ba ngày vừa rồi, cả đoàn cưỡi ngựa đi về phương Nam qua một vùng quê tuyết phủ của phương Bắc. Rồi tuyết tan bất chợt, gây ra những cơn lũ khủng khiếp ở vùng đất mà họ vừa đến. Sáng nay, mọi người đã gặp một đoàn nông phu, những người đã bỏ lại cánh đồng bị ngập để di tản lên phía Bắc. Tất cả đều mệt nhọc lê bước, còng lưng dưới những gói hành lý nhỏ, chân bọc trong những mớ giẻ đầy bùn đất. Khi họ dừng lại thổi cơm trưa ở một trạm xá, viên Hiệu úy chỉ huy đoàn hộ tống của Địch
Công đã thông báo: Hiện giờ cả đoàn đang đến đoạn đường xấu nhất, nơi nước Hoàng Hà đã tràn qua toàn bộ bờ phía Bắc; y khuyên mọi người nên đợi ở đây để chờ tin báo về mực nước sông của khu vực phía trước. Nhưng Địch Công quyết định mọi người tiếp tục đi, vì ông được lệnh lên đường trở về kinh thành ngay, không được trì hoãn. Hơn nữa, khi xem địa đồ, ông cũng biết nơi này nằm ngang con sông, ông định sẽ nghỉ qua đêm ở một doanh trại trong vùng.
Quan đạo không một bóng người. Đâu đó có một vài mái tranh cô lẻ của những nông trang bị ngập nước lộ ra từ mặt nước ngầu bùn, đó là những dấu vết còn lại cho thấy nơi đây từng là vùng đồng bằng màu mỡ, sung túc. Tuy nhiên, khi Địch Công đến gần rặng núi, ông trông thấy hai quân
trại bên lề trái con đường trước mặt. Có tầm hơn mười binh sĩ đứng tụ lại với nhau ở đó. Trong khi thúc ngựa chạy về phía họ, ông nhận thấy họ đều là dân binh, mũ áo và giày đều bằng da thú. Một đoạn đường đã bị sụt lún, phần đường hỏng kéo dài hơn trăm thước*, dồn lại đó là một dòng nước đục ngầu. Đám người đang lo lắng nhìn lên một bức tường thấp lè tè do những bó củi xếp thành, vốn để gia cố cho bốn bề của đồn binh mới dựng.
1 thước tương đương 0,33 mét
Một cây cầu nhỏ tạm thời bắc qua đoạn đường bị sụt, nối sang bờ đối diện. Phía bên đó, con đường dần cao lên theo một dốc núi rậm rạp. Cây cầu được làm vội từ những thân gỗ lớn, buộc lại với nhau bằng đám dây thừng bền chắc. Cây cầu cứ bập bềnh lên xuống theo sóng nước, nửa nổi nửa chìm.
“Đại nhân, không nên qua cầu đâu!” Thủ lĩnh đám dân binh nói lớn. “Dòng nước mỗi lúc một mạnh hơn, chúng tôi cũng không thể giữ vững được cây cầu. Tốt nhất ngài nên quay lại. Nếu dây thừng đứt, chúng tôi sẽ phải bỏ đồn binh này.”
Địch Công quay lại. Mắt nheo lại vì những cơn gió Bắc lạnh buốt, ông nhìn ra đoàn người ngựa đằng xa. Họ vẫn vội vã tiến lên, ông nghĩ chẳng mấy chốc họ sẽ theo kịp mình. Nhìn qua những ngọn đồi ở bờ bên kia, ông quyết định thử một phen. Theo như địa đồ, chỉ mất chưa đến nửa canh giờ
đi ngựa là qua được rặng núi, tới được Hoàng Hà. Trạm thuyền ở đó sẽ đưa ông đến doanh trại tại bờ sông phía Nam.
Ông thúc ngựa đi lên những cây gỗ trơn tuột ấy. Cây cầu lắc lư và những sợi thừng dày kẽo kẹt khi ông thận trọng tiến lên, ngựa của ông bước từng bước khó nhọc. Ông vỗ vỗ vào cổ ngựa để trấn an. Bỗng một thân cây trôi theo dòng nước lao thẳng vào cây cầu. Sóng nước tạt vào những thân gỗ, giội lên tận bụng con ngựa và làm đôi giày đi ngựa của ông ướt sũng. Địch Công kiên quyết thúc con tuấn mã đang hoảng hốt lên phía trước, người và ngựa đã đi qua được nửa cây cầu. Có những thân gỗ còn khô và người ngựa được đi lại dễ dàng. Ông giục ngựa lên bờ thật nhanh rồi dừng lại dưới rặng cây. Ông vừa ngoái lại thì có tiếng gãy kinh hoàng. Lúc này, một loạt những thân cây bị bật rễ trôi theo dòng nước đâm vào cây cầu. Phần giữa cầu uốn cong như lưng tôm, rồi những sợi thừng đứt phăng và những cây gỗ dần tách ra. Giữa ông và đồn binh kia chỉ còn lại một dòng nước ngầu bọt.
Ông vẫy ngọn roi ngựa về phía đám dân binh để ra hiệu rằng mình sẽ đi tiếp. Đoàn hộ tống của ông sẽ theo kịp ngay khi cây cầu được sửa chữa. Ông sẽ đợi họ ở doanh trại.
Sau khúc quanh đầu tiên, ông đã ở dưới những tán sồi tối mò vì những cây sồi cao lớn mọc ở cả hai bên đường. Tuy nhiên, ông thấy hai bàn chân mình lúc này lạnh khôn tả khi còn xỏ trong đôi giày ướt sũng. Nhưng ông cũng nhẹ lòng vì sau một quãng dài đi ngựa qua vùng lũ, đường đi đã dễ dàng hơn.
Bỗng có tiếng cành cây gãy. Một kẻ dáng vẻ hung dữ cưỡi ngựa lao ra khỏi đám cây bụi dày đặc. Bộ tóc dài của hắn được búi lên bằng chiếc khăn đỏ, chiếc áo khoác da hổ quàng trên đôi vai rộng và sau lưng hắn có đeo phác đao. Hắn dừng ngựa, đứng chắn giữa đường. Cặp mắt vừa nhỏ vừa ác xoáy vào Địch Công, đôi tay nhanh nhẹn múa tít ngọn đoản thương.
Địch Công dừng ngựa.
“Mau tránh đường cho ta đi!” Ông quát.
Gã kia nắm đốc thương, vung ngọn thương lên. Mũi thương vẽ ra một vòng tròn lớn, sượt qua đám lông trán con ngựa của Địch Công. Địch Công giữ thế, mọi nỗi bức bối dồn nén trong những ngày qua đã tìm được chỗ trút. Nhanh như chớp, ông đưa tay lên vai phải và rút thanh bảo kiếm sau lưng. Ông vừa tung ra một đường kiếm dài, tên đạo tặc đã đỡ trọn được bằng mũi thương, và lập tức dùng đốc thương nhằm đầu Địch Công mà đánh xuống. Ông cúi mình tránh được nhưng mũi thương lại quay cuồng nhằm vào ông. Ông vung lưỡi kiếm cực sắc lên đỡ, ngọn thương gỗ đứt làm đôi. Tên đạo tặc kinh ngạc nhìn mẩu thương gãy trong tay mình, Địch Công áp ngựa lại gần và tung một nhát kiếm chí mạng vào cổ kẻ kia. Nhưng gối hắn đã thúc vào hông ngựa, quay ngựa lại cùng lúc lưỡi kiếm sượt qua đầu. Tên cướp đánh ngựa ra xa, sang một bên đường, rồi ngoái lại quát:
“Thêm một con chuột mắc bẫy!”
Hắn cười nhăn nhở và biến mất vào trong đám lá dày. �� Địch Công chém gãy ngọn thương của tên cướp
Địch Công tra kiếm vào bao. Vừa cưỡi ngựa đi tiếp, ông vừa nghĩ mình phải bình tâm hơn. Ông không thể để một tên cướp đường cỏn con làm mất bình tĩnh. Ảnh hưởng của thảm kịch tại Bắc Châu đã tác động sâu sắc đến ông, đến mức ông khổ sở tự hỏi phải chăng mình vẫn chưa lấy lại được sự bình tâm.
Ông không gặp được bất cứ ai khi leo lên ngọn núi cuối cùng, và khi đến đỉnh núi, ông lại đón trọn một cơn gió Bắc. Xuyên qua lớp áo da thú dày, cơn gió lạnh thấu đến tận xương. Ông vội giục ngựa hướng xuống bờ sông và dừng ngựa trước bãi bồi thênh thang của dòng sông mênh mông. Những con sóng lớn đánh vào bờ đá ở phía Tây đằng xa. Bờ đối diện mờ mịt trong màn sương mù. Không thấy bóng dáng trạm thuyền nào, và trên bến thuyền chỉ còn lại hai cây cột mục. Đám bọt trắng xổ tung quanh hai cây
cột. Những con sóng ầm ì chạy từ Đông sang Tây, mang theo những khối gỗ lớn và đám cành cây.
Địch Công nhíu mày quan sát khung cảnh đìu hiu này, toàn một màu xám xịt sầu thảm trong lúc chạng vạng. Nơi trú chân duy nhất ông thấy được là một trang viên lớn, có vẻ lâu đời, nằm trên một ngọn đồi cách chỗ ông tầm một dặm về phía Tây. Trang viên có tường cao bao quanh; góc phía Đông có một vọng lâu. Làn khói từ nóc của gian nhà chính bị những cơn gió dữ dội nhanh chóng xé tan.
Nén một tiếng thở dài, Địch Công dẫn ngựa theo quan đạo quanh co dẫn lên ngọn đồi. Ông đến một con đường cụt. Không còn cách nào khác, ông và đoàn hộ tống sẽ phải tạm dừng hành trình ở đây, đợi đến khi trạm thuyền được tu sửa.
Xung quanh trang viên toàn là cỏ dại cao ngút và những tảng đá cuội lớn. Không có cây cao, nhưng dốc núi phía sau thì vẫn là rừng rậm. Có vài người đang quanh quẩn ở trước một nơi trông như một miệng hang lớn. Ba người cưỡi ngựa từ trong đám cây phóng ra và xuống sườn núi.
Khi Địch Công gần đến trang viên ấy, ông bỗng để ý đến một cây cột lớn dựng ở ven đường. Một vật thể to lớn treo trên đỉnh cột. Ông nhận ra đó là một thủ cấp. Bộ tóc dài bê bết trên khuôn mặt biến dạng. Hai bàn tay bị chặt được đóng đinh vào cột, ngay bên dưới cái đầu. Địch Công lắc đầu bối rối rồi giục ngựa đi tiếp.
Vừa đến trước cổng trang viên đồ sộ có đôi cánh cổng bằng sắt thô nhám, ông giật mình khi thấy nơi này giống một doanh trại nhỏ hơn là một trang viên. Những bức tường cao có lỗ châu mai, chân tường rộng và kiên cố lạ thường, không có bất cứ ô cửa sổ nào.
Ngay khi ông vừa định dùng cán roi ngựa gõ cổng, cánh cửa đã từ từ mở ra. Một lão nông phu ra hiệu cho ông bước vào một sân nhà vừa rộng vừa mờ tối, rải sỏi cuội. Vừa xuống ngựa, Địch Công liền nghe thấy âm thanh khó chịu đến gai người của thanh chắn cổng được cài lại vị trí cũ.
Một người gầy gò mặc y phục màu lam và đội chiếc mạo nhỏ chạy tới trước mặt ông. Khuôn mặt hốc hác của y ghé sát vào Địch Công, y hổn hển:
“Tiểu nhân đã trông thấy ngài từ trên vọng lâu, nên lập tức bảo lính canh mở cổng. Mừng vì họ không lờ ngài đi!”
Y có khuôn mặt của một nho sĩ, được tô điểm bằng một hàng ria mép lởm chởm và chòm râu ngắn dưới cằm. Địch Công đoán y tầm gần bốn mươi tuổi. Người kia nhìn thoáng qua vẻ ngoài lấm lem của Địch Công rồi nói:
“Rõ ràng ngài đã đi một quãng đường dài! Tiểu nhân là Liêu Long, là quản gia ở đây.” Bấy giờ, nhịp thở của y mới đều đặn trở lại, y nói bằng giọng hoan hỉ. Có vẻ y là người có học thức.
“Ta họ Địch, tên Nhân Kiệt, là Thứ sử một châu phủ ở phương Bắc, đang trên đường về kinh thành.”
“Thì ra là Địch đại nhân! Tiểu nhân sẽ đi báo cho Mẫn tiên sinh ngay!”
Y chạy vào gian nhà chính ở phía trong cùng sân, dáng vẻ vồn vã. Hai ống tay áo của y vung vẩy khiến Địch Công nhớ đến dáng vẻ một con gà đang nháo nhác sợ hãi. Lúc này, ông mới để ý thấy những tiếng rì rầm trò chuyện ở đâu đó. Âm thanh đó phát ra từ những gian nhà phụ hai bên sân. Mấy chục người cả nam lẫn nữ đang ngồi xổm dưới mái vẩy giữa những cây cột lớn. Phía sau họ là vô số những gói đồ lớn, bọc trong tấm vải màu lam và buộc bằng những sợi dây gai dày. Ở cây cột phía xa nhất, có một nông phụ đang cho con bú, một nửa người đứa bé được bọc trong tấm áo choàng rách nát của nàng. Bên kia bức tường thấp lè tè có tiếng ngựa hí vang. Địch Công nghĩ tốt nhất nên buộc ngựa ở đó, vì ngựa của ông vừa ướt vừa mệt. Khi dẫn ngựa tới lối đi nhỏ trong góc, những tiếng rì rầm bỗng ngưng bặt.
Bức tường bao cho thấy ở đó quả nhiên có chuồng ngựa. Năm, sáu thiếu niên đang mải miết bên những con diều lớn, đủ mọi màu sắc. Một thiếu niên đang hưng phấn nhìn lên con diều màu đỏ chao liệng trên nền trời xám, sợi dây diều căng ra giữa những cơn gió mạnh bạo. Địch Công nhờ
cậu thiếu niên cao lớn nhất tắm cho ngựa và cho ngựa ăn giúp ông. Ông vỗ vỗ vào cổ ngựa và quay lại sân chính.
Một vị thân sĩ vừa béo vừa lùn chạy xuống từ những bậc thềm của tòa nhà chính tam tầng. Y mặc bộ đồ dày bằng len xám, đội mũ mỏng cũng bằng len xám.
“Đại nhân, ngài đến đây bằng cách nào?” Y niềm nở hỏi. Địch Công nhướn mày trước câu hỏi bất ngờ.
“Ta đi ngựa”, ông đáp cộc lốc.
“Nhưng còn Phi Hổ Đoàn thì sao ạ?”
“Ta đâu có gặp hổ, cái gì mà hổ bay. Túc hạ có thể vui lòng giải thích cho ta…”
Địch Công bỏ dở câu nói khi một nam nhân cao to vạm vỡ, mặc đồ da thú, lại gần vị thân sĩ to béo. Y chỉnh lại chiếc mạo và kính cẩn hỏi:
“Đại nhân, ngài đi một mình sao?”
“Không, ta có sáu mươi binh sĩ đi cùng. Họ…”
“Ơn trời!” Người to béo thốt lên. “Chúng ta được bảo vệ rồi!” “Đại nhân, bọn họ đâu cả rồi?” Người cao lớn hăm hở hỏi.
“Ở chỗ đồn binh, phía bên kia rặng núi. Cây cầu bắc qua đoạn đường hỏng đã bị gãy ngay khi ta vừa đi qua. Người của ta đành ở lại đó cho đến khi cầu được tu sửa.”
Người to béo đưa hai tay lên trong nỗi tuyệt vọng.
“Ngươi đã thấy ai khờ như vậy chưa?” Y tức tối hỏi người bên cạnh mình.
“Nghe này!” Địch Công quát. “Ngươi không được phép gọi ta như vậy đâu! Ngươi là trang chủ của trang viên này phải không? Ta muốn nghỉ qua đêm ở đây.”
“Nghỉ lại? Nơi này?” Người to béo chế giễu.
“Mẫn tiên sinh, xin hãy bình tĩnh!” Nam nhân cao lớn cất giọng lanh lảnh. Đoạn y quay sang Địch Công, “Xin đại nhân thứ lỗi cho cách ứng xử thô thiển. Nhưng chúng tiểu nhân đang trong tình trạng vô cùng nguy cấp. Vị tiên sinh này tên là Mẫn Quốc Thái, bào đệ của trang chủ Mẫn Lương. Hiện trang chủ đang lâm bệnh nặng. Mẫn tiên sinh mới đến đây ngày hôm qua, trực chỉ sẵn sàng để phòng bệnh tình của bào huynh nặng hơn. Tiểu nhân là Nhan Nguyên, tổng quản của trang viên này. Mẫn tiên sinh, chúng ta có thể đưa khách vào trong được chưa?”
Không đợi người to béo đồng ý, y đã mời Địch Công vào. Hai người bước vào một sảnh đường tối như hang động, không có cửa sổ, chỉ có một bếp lửa lớn được nhóm trong cái hố hình vuông ở giữa sàn nhà lát bằng đá phiến. Trong sảnh thưa thớt những đồ dùng đã cũ: hai chiếc kệ bằng gỗ đen và một chiếc tràng kỷ kê sát tường bên, một bộ đại án bằng gỗ mun chạm khắc kê ở phía trong cùng sảnh. Những món đồ cổ bền lâu này tương xứng với những thanh xà to nặng, ám đầy mồ hóng trên trần nhà. Những bức tường đều trống trơn. Rõ ràng mọi thứ trong sảnh này chưa hề bị thay đổi trong rất nhiều năm. Một bầu không khí ấm cúng toát lên từ vẻ giản đơn dân dã này, đặc trưng của một trang viên lâu đời.
Trong khi đến bên đại án ở phía trong cùng sảnh, Địch Công nhận thấy tòa nhà được xây theo hai kiểu, ở hai phía đều có những cầu thang dẫn lên những phòng bên, ngăn cách với sảnh lớn bằng những tấm mành. Nhìn qua tấm mành bên trái, Địch Công nhận thấy một án thư, trên đó xếp nhiều sổ sách. Hình như đó là một thư phòng.
Nhan tổng quản thắp một ngọn nến trên đại án rồi mời Địch Công ngồi xuống chiếc ghế bành phía sau. Y cũng ngồi xuống chiếc ghế bên trái. Mẫn tiên sinh, nãy giờ vẫn cứ lẩm bẩm một mình, buông mình xuống chiếc ghế bành nhỏ hơn ở phía đối diện. Trong khi tổng quản mải pha trà, Địch
Công tháo thanh kiếm và gác nó vào chiếc bàn nhỏ kê cạnh tường. Ông nới lỏng áo khoác da và ngồi xuống. Tựa người ra ghế, ông vừa vuốt hai dải tóc mai, vừa thầm quan sát hai người kia.
Nhan Nguyên, vị tổng quản, không khó để đánh giá. Khuôn mặt y tuấn tú, ôn hòa, mang một hàng ria mép đen mờ và chòm râu cằm được cắt tỉa gọn gàng, cùng với giọng điệu hơi kiểu cách khi nói chuyện. Xem ra y là một thanh niên của nơi phố thị. Dù y chắc hẳn chưa quá hai mươi lăm tuổi, nhưng dưới mắt y đã hơi có bọng, và mí mắt cũng hơi sụp, thêm cả những đường răn sâu quanh cái miệng khôn khéo và có phần đầy nhục dục của y. Địch Công vu vơ tự hỏi tại sao một thanh niên tươi trẻ lại bỏ chốn thành thị để về làm tổng quản cho một trang viên cô quạnh. Khi Nhan Nguyên đặt chén trà lớn bằng gốm thô xuống trước mặt Địch Công, ông bâng quơ hỏi:
“Nhan tổng quản, túc hạ có quan hệ với trang chủ ư?”
“Bẩm đại nhân, tiểu nhân có quen biết với Mẫn phu nhân. Song thân của tiểu nhân sống ở trong thành. Phụ thân sai tiểu nhân đến đây từ năm ngoái để thay đổi không khí. Lâu nay tiểu nhân có bệnh trong người.”
“Bệnh của chúng ta sẽ sớm được chữa khỏi. Khỏi vĩnh viễn!” Họ Mẫn càu nhàu.
Y nói bằng giọng của vùng quê; nhưng khuôn mặt phệ, kiêu kì của y, cũng như những dải tóc mai đã bạc và bộ râu dài lộn xộn đều cho thấy y là một thương nhân đến từ thành thị.
“Mẫn tiên sinh, bào huynh của tiên sinh bị bệnh gì vậy?” Địch Công lịch sự hỏi.
“Bị hen suyễn, trầm trọng hơn do bị cả bệnh về tim”, họ Mẫn cộc lốc đáp. “Nếu ông ấy biết tự chăm sóc mình đàng hoàng thì đã không như vậy. Từ khoảng một năm nay, các vị lang trung luôn dặn ông ấy phải biết giữ gìn. Nhưng không, ông ấy vẫn cứ lang thang ra ngoài đồng, dù mưa hay nắng! Nên ta mới phải nhọc công đến đây. Phải bỏ lại phường buôn trà của mình cho người phụ tá, một kẻ lười biếng vô tích sự! Xin hỏi đại nhân, việc làm
ăn của ta và của cả nhà ta sẽ ra sao đây? Cái đám Phi Hổ Đoàn thối tha ấy sẽ lấy mạng chúng ta, không trừ một ai. Thật đen đủi đủ đường!”
Y dằn mạnh chén trà xuống mặt đại án, giận dữ luồn những ngón tay ngắn ngủn trên bàn tay mập mạp vào mái tóc.
“Ta mạo muội cho rằng”, Địch Công nói, “ngươi đang nhắc đến một đảng cướp đường hoành hành ở vùng này. Vì ta cũng đã bị một kẻ mang binh khí chặn cướp trên đường, kẻ này mặc áo khoác da hổ. Dù vậy, hắn lại không ham chiến. Chà, những trận hồng thủy tai nghiệt vẫn luôn buộc đám du đãng và nạn dân phải trục lợi từ tình trạng hỗn loạn chung và giao thông gián đoạn, tham gia gây rối hoặc cướp bóc. Nhưng túc hạ chớ lo, Mẫn tiên sinh ạ. Đoàn hộ quân của ta được trang bị binh khí đầy đủ, đám cướp ấy sẽ không bao giờ dám tập kích trang viên này đâu. Người của ta sẽ đến đây ngay khi cây cầu được sửa.”
“Ngọc Hoàng ơi!” Mẫn Quốc Thái quát lên với Nhan tổng quản. “Ông ta nói khi cây cầu được sửa xong! Nghe trang trọng thật đấy!” Cố gắng làm chủ mình, y hỏi Địch Công bằng giọng điềm tĩnh hơn:
“Đại nhân à, ngài cho rằng họ sẽ lấy gỗ ở đâu để sửa cầu? Quanh đó nhiều dặm chẳng có lấy một cây gỗ!”
“Túc hạ nói năng thật hàm hồ!” Địch Công bực mình. “Còn rừng sồi mà ta vừa đi qua thì sao?”
Mẫn Quốc Thái trừng trừng nhìn Địch Công, rồi y tựa người ra sau ghế và hỏi tổng quản bằng vẻ nhẫn nhục, “Ngươi có thể vui lòng giải thích chuyện này không, Nhan tổng quản?”
Tổng quản nhặt một chiếc đũa trên khay đựng trà. Đặt nó lên mặt đại án trước mặt Địch Công, y lại đặt cái chén nằm úp xuống một bên chiếc đũa.
“Chiếc đũa này là Hoàng Hà”, y bắt đầu. “Con sông này chảy qua vùng này theo hướng từ Đông sang Tây. Chén trà ở bờ phía Nam này chính là đồn binh, chén trà ở phía đối diện là trang viên này.” Y nhúng ngón trỏ vào trà và vẽ một hình bầu dục quanh cái chén úp. “Đây chính là rặng núi, vùng
đồi núi duy nhất ở phía bên này sông. Phần còn lại của địa hạt này bao gồm nhiều cánh đồng lúa; chúng thuộc về trang chủ Mẫn Lương của trang viên này, tầm sáu mươi dặm về phía Bắc. Chà, nước sông dâng lên cho đến khi nhấn chìm bờ phía Nam, biến rặng núi này thành một hòn đảo. Một phần của quan đạo lên phía Bắc rặng núi đã bị hỏng, như ngài đã thấy khi đi qua cây cầu tạm mà dân binh dựng lên ở chỗ sụt lún. Trạm thuyền ở phía bên này sông đã bị dòng nước cuốn trôi vào chiều hôm qua; Mẫn tiên sinh và một nhóm thương nhân là những người cuối cùng còn được dùng thuyền. Trang viên này là nơi duy nhất còn có người sinh sống trong vùng này. Nên ngài có thể thấy chúng ta hoàn toàn bị cô lập. Chỉ có trời mới biết khi nào mới dựng lại được trạm thuyền, sẽ mất nhiều ngày để vận chuyển xong số gỗ cần thiết từ phương Bắc để sửa lại cây cầu tại đoạn đường hỏng. Trong nhiều dặm quanh đó không có lấy một thân cây nào, như chính mắt ngài đã thấy khi ngài đi xuôi về phương Nam.” ��
Địch Công gật đầu.
“Tuy nhiên ta thấy ở đây các vị đã cứu trợ nhiều nạn dân”, ông nói. “Tại sao không chọn ra tầm mười nông phu cường tráng trong số họ và cho họ đi ngựa đến sửa đoạn đường hỏng? Họ có thể đốn cây, và…”
“Ngài không thấy cái đầu người trên chiếc cột bên lề đường khi đến đây hay sao?” Họ Mẫn ngắt lời.
"""