" Hậu Duệ Thần Đèn 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hậu Duệ Thần Đèn 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup 26-06-2018 Cuốn sách này dành tặng Brian Bookman Lời của Tác Giả cho những độc giả “lỡ” quên mất chuyện đã xảy ra trong hai tập đầu tiên John và Philippa Gaunt là hai bạn nhỏ sống ở New York. Sau khi nhổ răng khôn, cả hai bất ngờ phát hiện ra mình là djinn. Răng khôn, cũng giống như sự thông minh, xuất hiện sớm hơn đối với những đứa trẻ djinn. Cậu Nimrod của John và Philippa, một djinn cực kỳ mạnh sống ở London, là người đã hướng dẫn hai bạn “nhập môn” djinn ở Ai Cập, một đất nước với khí hậu nóng bức phù hợp cho quá trình phát triển sức mạnh djinn. Được tạo ra từ lửa, djinn vốn không ưa gì cái lạnh, và những djinn trẻ chưa trưởng thành như John và Philippa gần như không thể “vận” được sức mạnh djinn khi ở trong vùng khí hậu lạnh. John và Philippa vẫn còn rất nhiều điều phải học hỏi về djinn, và sức mạnh của chúng vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, đừng xem thường hai bạn trẻ này. Là một cặp djinn sinh đôi - không phải dạng giống nhau như đúc đâu nhé - khi hợp sức lại với nhau, chúng có được một sức mạnh to lớn như bất kỳ djinn trưởng thành nào. Điều này giải thích tại sao hai bạn có thể giúp cậu Nimrod ngăn chặn kế hoạch lợi dụng 70 djinn thất lạc của Akhenaten để thay đổi sự cân bằng sức mạnh giữa ba tộc djinn Tốt và ba tộc djinn Xấu - còn gọi là Sự Điều Bình - của Iblis, gã djinn độc ác nhất thế giới. Trong khi tất cả những chuyện đó xảy ra, người mẹ djinn của chúng, bà Layla, ở nhà và cố không liên hệ gì với thế giới djinn, để giữ an toàn cho chồng, ông Edward Gaunt, một người bình thường và là một giám đốc ngân hàng. Mọi việc đều ổn thỏa, ít nhất là khi sức mạnh đặc biệt của cặp sinh đôi vẫn chưa bị phát hiện. Nhưng khi Philippa bị bắt cóc bởi Ayesha, vị djinn tối cao của thế giới djinn, người có vẻ đã quyết định lựa chọn cô bé làm người kế vị vị trí Djinn Xanh Babylon của mình, Layla nhận ra bà không thể bỏ mặc tương lai của con gái. Để có thể có được sự tôn trọng của tất cả djinn - cả phe Tốt và phe Xấu - Djinn Xanh buộc phải cỏ một sự độc lập hoàn toàn về lý trí. Nó còn là một vị trí đòi hỏi sự hy sinh cá nhân đáng kể, vì Djinn Xanh buộc phải từ bỏ gia đình để sống một mình, đứng bên ngoài phạm trù Tốt và Xấu. Và vì thế, Layla đã quyết định can thiệp và âm thầm hỗ trợ John trong nhiệm vụ giải cửu em gái tại Iravotum - quốc gia ngầm dưới lòng đất của Djinn Xanh ở Babylon. Nhưng rồi, Layla phát hiện ra người mà Djinn Xanh thật sự nhắm tới không phải là Philippa mà chính là bà. Và, để tuổi thơ của con gái không bị đánh cắp, Layla đã chấp nhận điều kiện của Ayesha: khi Ayesha qua đời, chính bà, chứ không phải Philippa, sẽ trở thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo. Philippa và John dĩ nhiên rất sốc khi phát hiện ra Ayesha là bà ngoại của mình. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn không biết rằng chẳng bao lâu nữa, người mẹ yêu dấu của chúng sẽ rời khỏi nhà vĩnh viễn. Trong khi Iblis tiếp tục là kẻ thù lớn nhất của cặp sinh đôi, Philippa và John đã có được một vài người bạn tốt. Đầu tiên là ông Rakshasas, vốn là một người bạn thân của cậu Nimrod, một djinn lớn tuổi có sức mạnh đang hao mòn dần, nói tiếng Anh với chất giọng của người Ai-len dù sinh ra ở Ấn Độ. Tiếp theo là ông Groanin, quản gia kiêm tài xế trung thành của cậu Nimrod đến từ Manchester, người chỉ còn một cánh tay do tích tắc bất cẩn trước một con hổ đói tại Bảo tàng Anh quốc. Cũng phải kể đến Dybbuk, một cậu bé djinn sống ở Palm Springs, California, cùng mẹ là bác sĩ Jenny Sachertorte. Ông bà Gaunt còn có một bà quản gia trung thành tên Trump, người vẫn tiếp tục làm việc cho nhà Gaunt sau khi Philippa đã bí mật biến điều ước được trúng giải độc đắc xổ số New York của bà thành hiện thực. P.B. Kerr, tháng Hai năm 2006 Chương 00 Chuyện đã xảy ra chỉ vài tuần sau khi cặp sinh đôi John và Philippa ra đời ở Thành phố New York Như tất cả mọi câu chuyện kinh dị, câu chuyện kinh dị của chúng ta bắt đầu vào lúc nửa đêm, khi hầu hết mọi người đã yên giấc. Căn nhà nơi sự cố kinh hoàng này xảy ra là một tòa nhà chính phủ ở London. Một căn nhà bằng gạch to lớn với kiến trúc xây theo phong cách của kiến trúc sư Palladio (sống vào thế kỷ 16) tại khu Whitehall, với số địa chỉ lâu đời và trứ danh nhất thế giới. Bên ngoài cánh cổng trước màu đen nổi tiếng có một viên cảnh sát đứng canh, và ở phía đối diện bên kia đường là một số tòa nhà chính phủ khác nằm xếp hàng đến tận khu Westminster và Tòa nhà Quốc hội. Đằng sau chúng là dòng sông Thames xám xịt. Giờ khắc nửa đêm vừa mới trôi qua trong một buổi tối tháng Tư lạnh giá vào năm cuối cùng của thiên niên kỷ cuối cùng. Trong căn nhà số 10 đường Downing, mọi thứ có vẻ hoàn toàn im ắng. Một bé gái mười một tuổi ở một mình trong phòng, và đang còn thức. Bên dưới lớp chăn bông che kín người, cỏ đang mải mê đọc truyện dưới ánh sáng một cày đèn pin. Cha cô, Thủ tướng Vương quốc Anh và Bắc Ai-len, cùng mẹ cô đang say ngủ ở căn phòng phía cuối hành lang, trong khi dưới lầu, tại văn phòng đằng sau Phòng Nội các, nhân viên mật vụ của Thủ tướng cùng thư ký báo chí của ông đang làm việc. Vào đúng 00 giờ 40 phút sáng, cô bé ngước mặt khỏi cuốn sách của mình với một cái chau mày ngạc nhiên, cô nghĩ hình như mình vừa nghe thấy tiếng cười của ai đó. Và thật kỳ lạ vì đó là tiếng cười con gái. Tiếng cười khúc khích của một đứa trẻ tinh nghịch. Lạ thật. Thò đầu ra khỏi cái lều tự tạo bằng chăn bông của mình, cô bé giỏng tai nghe ngóng trong vài giây, rồi gạt bỏ suy nghĩ vừa rồi. Chắc mình nghe nhầm. Nhưng tiếng cười con gái lại vang lên. Lần này, không còn tập trung được nữa, cồ bé ngồi dậy và quăng quyển sách qua một bèn. Tiếng cười khúc khích ấy. Nó làm mình nổi cả da gà. Cô bé đứng dậy để đi kiểm tra. Choàng cái áo khoác ngoài ờ nhà lên người, cô bé mở cửa phòng và liếc nhìn xuống phía cuối hành lang. Tiếng cười khúc khích dường như phát ra từ phòng ngủ của ba mẹ cô. Chuyện gì thế nhỉ? Đó không phải tiếng cười của mẹ. Mẹ chẳng cười như thế bao giờ. Từ khi chuyển đến sống trên đường Downing, mình chẳng lúc nào thấy mẹ cười. Cô bé rón rén bước về phía cuối hành lang và tiếng cười thình lình lớn lên, tinh quái hơn, thậm chí có phần hiểm ác, nhưng khi cô đẩy cửa phòng ngủ của Thủ tướng và bước vào trong, tiếng cười lập tức ngưng bặt - dù chỉ trong giây lát. Chuyện quái gì đang xảy ra thế này? Mẹ cô đang ngồi thu lu trong một góc phòng, cặp mắt mở to với sự kinh hãi thấy rõ. Cha cô thì đang ngồi thẳng đơ trên giường với hai mắt nhắm nghiền và hơi thở nặng nề như thể ông vừa chạy marathon một quãng đường thật dài. Nhìn ông không giống như bình thường chút nào. Mặt ông trắng bệch, bộ đồ ngủ trên người ướt đẫm mồ hôi, và mái tóc dính bệt trên đầu như những sợi rơm ẩm ướt. Rồi mắt ông hé mở, hai con ngươi xoay vòng trong hốc mắt như những hòn bi, trước khi nhắm nghiền trở lại. Điều tiếp theo cô nhận ra là cái nóng. Căn phòng. Nó y như một cái lò nướng, cô bước về phía cửa sổ. Mở nó ra. Chạm vào bộ tản nhiệt. Lạnh ngắt. Quá lạ. Cô hỏi nhỏ: – Mẹ không ổn hả mẹ? Mẹ cô thì thầm trả lời với vẻ lo lắng: – Mẹ ổn. Nhưng cha con thì không. Cô đi đến bên giường. Nghiêng người về phía cha, cô dùng mu bàn tay đẩy nhẹ con gấu Teddy của ông qua một bên và hỏi thăm: – Ba? Ba ổn không? Lại thêm vài hơi thở nặng nề qua cánh mũi phập phồng của cha cô. Ông nhe răng cười như một con sói, rồi cặp mắt xanh lục của ông mở ra và nhìn thẳng vào cô với ánh nhìn làm cô thấy rợn cả người. – Ngừng lại đi ba. Chuyện này chẳng vui chút nào. Ba làm mẹ sợ đó. Đó là khi ông bắt đầu bật cười. Ngoại trừ việc, không phải ông là người đang cười. Bật ra từ miệng ông là tiếng cười của một đứa con gái, như thể có ai đó đang ở bên trong người ông, một ai đó xa lạ, không được hoan nghênh và có lẽ cũng không tốt đẹp gì. Một ai đó hoặc một cái gì đó. Nếu ba cố tình làm vậy, ba à, nếu đây chỉ là một trò đùa của ba, thì nó không vui chút nào đâu, vì ba đang làm con sợ chết được đấy, ba biết không? Cặp mắt lạnh lẽo, vô hồn trông hoàn toàn trái ngược với tiếng cười khúc khích như hút hồn cô trong suốt mấy giây, trước khi giọng nói của một đứa con gái - có vẻ không lớn hơn cô bao nhiêu - lên tiếng. Giọng nói ra lệnh: – Gọi Bộ trưởng Bộ Nội vụ đến đây. Và Chánh Thanh tra Cảnh sát Thủ đô. Và Trường phòng Ủy viên Công tố. Và Viên Chưởng lý. Ta muốn bắt một người và ném hắn vào nhà ngục Tháp London. Ngay lập tức. Tối nay. Không còn dư thời gian đâu. Cô bé nói: – Ba không thể ném ai đó vào Tháp London được Không phải như thế. Phải theo trình tự phù hợp. Theo luật. Giọng nói lại ra lệnh: – Vậy thì gọi điện thoại cho Nữ Hoàng. Ta muốn ban hành một luật mới. Ngay bây giờ. Một luật cho phép ta bắt giữ và xử tử hắn. Ngay tối nay. Cô bé cảm thấy quai hàm của mình sắp rớt xuống đất vì ngạc nhiên. – Đứng đó chờ gì nữa hả, con bé ngu ngốc kia? Làm đi chứ. Ngươi không biết ta là ai sao? Ta là Thủ tướng. Và trong khi làm, ngậm cái miệng của ngươi lại giùm. Trông cứ y như một con cá vàng ấy. Một con cá vàng ngu ngốc. Mấy cái mặt đồng hồ vỡ nhìn còn đỡ ngu hơn mặt ngươi bây giờ đấy, nhóc con. Thật sự khiếp sợ, cô con gái Thủ tướng bước lùi xa khỏi cha mình, cố gắng trấn an trái tim đang đập thình thịch liên hồi trong lồng ngực. – Và nhóc con mặt cá kia? Nhớ nói rõ cho mọi người biết là ta hoàn toàn nghiêm túc đấy nhé. Nếu không đừng trách ta sử dụng quyền lực trấn áp. Hiểu chưa, đồ mặt cá? Vị Thủ tướng lại bật cười khúc khích với giọng con gái. Và đó là lúc đứa con gái nhỏ của ông bắt đầu hét lên. * * * Cậu Nimrod nhận xét: – Trẻ sơ sinh là những sinh vật thật kỳ quặc. Ý em là, chúng y như mấy con thú ấy. Đến New York để thăm hai đứa cháu trai và cháu gái mới sinh, John và Philippa, cậu Nimrod nhìn cặp sinh đôi đang nằm im trong hai cái nôi bệnh viện với ánh mắt gần như kinh hãi. Ông ghét mấy đứa trẻ sơ sinh lắm lắm, và việc ông có thể nhớ rõ mồn một từng khoảng khắc khủng khiếp khi còn là trẻ sơ sinh của mình chẳng khác nào “đổ dầu vào lửa” cho sự căm ghét ấy. Đây là trường hợp thường xảy ra cho những djinn trưởng thành: nhiều người trong số họ có một trí nhớ hoàn hảo về tất cả mọi thứ đã xảy ra với họ, và cố đến mấy cũng chẳng thể nào quên được chúng. – Mà chị không thấy lạ sao? Việc đứa trẻ sơ sinh nào nhìn cũng y chang Winston Churchill ấy. Hoặc Benito Mussolini. Lúc nào cũng tè dầm và cáu kỉnh. Mà đó là chưa kể đến khuynh hướng thích được làm trung tâm mọi sự chú ý của chúng. Chị gái của cậu Nimrod, bà Layla, vốn cũng là một djinn, ngồi cứng đơ trên giường bệnh và lắng nghe những lời nhận xét chả tế nhị chút nào của cậu em trai với sự bực mình ngày càng tăng cao. Dường như cảm nhận được sự chán ghét của ông cậu kén cá chọn canh, cặp sinh đôi bắt đầu đồng thanh khóc rống lên như một cặp mèo đói. Nâng cao âm lượng để mong át được tiếng khóc của lũ trẻ, cậu Nimrod nói thêm: – Lại còn sinh đôi nữa chứ! Chị yêu dấu, em cá là chị sắp bận rộn đến chết cho coi. Nhìn hai cái loa to mồm này, em bắt đầu tin vào truyền thuyết sáng lập La Mã rồi đấy. Chuyện cặp sinh đôi Romulus và Remus bị bỏ vào một cái máng xối và ném xuống sông Tiber, chỉ để được giải cứu bởi một con sói cái và một con chim gõ kiến ấy. Nhìn chúng xem, cứ như đang muốn bạt tai ai đấy. Đặc biệt là cái cách vẫy tay vòng vòng như hai con tôm trụng nước sôi ấy. Mỉm cười một cách đầy kiên nhẫn, bà Layla hỏi: – Cậu còn gì khác để nói không? Hay là cậu lặn lội từ London đến tận đây chỉ để xỉ vả con chị thô lỗ như thế hả? Cậu Nimrod cười cầu hòa: – Thô lỗ? Em ấy à? Làm gì có. Và nhặt lên một cái hộp đựng giày để dưới đất nãy giờ, cậu vui vẻ tuyên bố: – Trên tư cách là người cậu duy nhất của chúng, em mang đến cho chúng món quà truyền thống của djinn chúng ta đây. Một cái đèn dầu đàng hoàng. Mỗi đứa một cái. Mà chẳng phải mấy cái đèn bằng họp kim thiếc vớ vẩn ở Malaysia đâu nhé. Đây là bạc thật. Nguyên chất 100%. Từ triều đại Ottoman. Với nội thất do chính đứa em trai yêu dấu của chị thiết kế đấy nhé. Bà Layla lẳng lặng nói: – Rất tiếc, nhưng cậu làm ơn mang nó về. Con chị sẽ không được nuôi dạy như một djinn, mà sẽ như một con người. Cậu Nimrod ngạc nhiên hỏi: – Hử, Layla, ý chị là…? Bà Layla trả lời: – Cậu không có nghe lầm đâu. Cha chúng là người. Tại sao không chứ? Cậu Nimrod nói: – Và là một con người dễ chịu. Em biết chứ. Nhưng những đứa trẻ này không phải, và không thể nào là mundane. Chị biết điều đó mà. Bà Layla thở dài: – Chị sẽ cám ơn cậu nhiều nếu cậu không sử dụng cái từ đó. Cậu Nimrod thốt lên: – Từ “mundane” ấy à? Tại sao không? Đó là mô tả chính xác về con người mà, bà chị yêu dấu. Chúng ta không thể nào phủ nhận việc sức mạnh djinn chỉ truyền từ mẹ sang con. Đến một lúc nào đó trong tương lai - em cá chỉ chừng mười đến mười hai năm nữa, khi những chiếc răng khôn của chúng cần được nhổ - chị và anh Edward chồng chị sẽ phải đối mặt với thực tế. Rằng cặp sinh đôi của anh chị là ai, là cái gì. Chúng là những hậu duệ của thần đèn, chị Layla à. Bà Layla vẫn cương quyết: – Chị sẽ cám ơn cậu nếu cậu quên điều đó. Và để yên cho anh chị. Vĩnh viễn. Chị không muốn có liên hệ gì với thế giới djinn nữa. Và nó bao gồm cả cậu, em trai của chị. Cảm thấy nhói đau trong lòng, cậu Nimrod gượng cười bảo: – Được thôi. Nếu chị muốn vậy. Nhưng em chỉ muốn nhắc chị nhớ một điều: chị có thể tách rời con chị khỏi những djinn khác, nhưng chị sẽ không thể tách rời chất djinn khỏi người chúng. Và ngay trong ngày hôm đó, cậu Nimrod bay về London. Quay về từ New York chưa được bao lâu, cậu Nimrod vẫn còn đang ở dưới hầm hì hục gói giấy báo quanh hai cây đèn dầu triều đại Ottoman mà cậu định tặng cho John và Philippa thì người tài xế một tay của cậu, ông Groanin, xuất hiện trên bệ cửa. – Có khách ớ ngoài sảnh, thưa ngài. Ông Groanin thông báo. Cái cách mà ông nói chữ “khách” nghe giống như ông đang nói “heo” hoặc “linh cẩu”. – Ông ta bảo có chuyện gấp muốn nói với cậu, Nimrod. – Thế vị khách đó có tên không? – Tôi không nghĩ tôi có thể nói được cái tên đó, thưa ngài. – Tại sao? Mèo ăn mất lưỡi của anh rồi à, Groanin? – Đó không phải là điều tôi muốn nói, thưa ngài. Ý tôi là, ông ấy có một cái tên khó phát âm. – Thì anh cứ nói thử xem. – Được thôi, thưa ngài. Rồi ông Groanin tập nung suy nghĩ, đảo cặp môi và cái lưỡi của mình, và nói: – Bác sĩ Ruchira P.Warnakulasuriya. – À vâng, tôi có thể hiểu rắc rối của anh, Groanin. Đúng là một cái tên dễ làm người ta trẹo cả lưỡi. Thế anh có biết ông ấy muốn gì không? – Ông ta không nói chính xác mình muốn gì, thưa ngài. Chỉ bảo đó là một vấn đề nghiêm trọng cấp an ninh quốc gia. À phải. Ông ta còn nói cậu biết cha ông, thầy tu Murugan. – Tốt nhất anh nên dẫn ông ấy vào thư viện chờ, anh Groanin. – Vâng, thưa ngài. Rồi ông Groanin quay lưng bước đi, miệng không ngừng càu nhàu gì đó chỉ đủ lớn để mình ông nghe được. Cậu Nimrod khóa hai cây đèn dầu vào trong hầm, rồi đi,gặp vị khách của mình. Người cha quá cố của vị khách này, một trong nhũng vị thánh sống nổi tiếng ở Ấn Độ, là người quen của ông. Sự hiến thân vì đạo và tính thần thánh vĩ đại của thầy tu Murugan được thể hiện qua việc ông dành trọn mười năm cuộc đời để ngồi thiền trên một cây cột cao với tám con dao găm cắm ngập vào ngực và vai. Đó là một việc mà các vị thánh sống ờ những nơi như Ấn Độ thường làm. Thật sự đến giờ cậu Nimrod vẫn không hiểu được lý do tại sao họ lại làm như vậy, tuy nhiên có vẻ nó làm họ thấy hạnh phúc, và cậu Nimrod là người chẳng bao giờ can thiệp vào khái niệm hạnh phúc của người khác. Chờ ông bên trong thư viện là một người đàn ông mập lùn đeo kính màu, vận áo vest xanh sọc nhỏ với một cái đồng hồ bằng vàng bảnh chọe trên cổ tay. Trông thấy cậu Nimrod, gã cúi chào, rồi hôn lên tay ông một cách kính cẩn. Thầy Murugan biết cậu Nimrod là một djinn, và Nimrod đoán chắc con trai ông cũng biết. Không vòng vo, tay bác sĩ đi thẳng vào vấn đề: – Quý ngài đáng kính, xin tha lỗi cho tôi vì đã đột ngột đến làm phiền như thế này, tuy nhiên, một vấn đề có tầm nghiêm trọng cấp quốc gia đã nảy sinh. Châm một điếu xì gà, cậu Nimrod nói: – À vâng, anh Groanin cũng đã thông báo thế với tôi. – Xin tự giới thiệu, tôi vốn hành nghề bác sĩ ở phố Harley - một bác sĩ rất thành công. Một trong những khách hàng của tôi là phu nhân Thủ tướng, bà Widmerpool. Sau một thời gian dài làm việc với nhau, tôi đã trở thành một người bạn đáng tin cậy của bà ấy. Vừa giới thiệu, bác sĩ Warnakulasuriya vừa vân vê cái cà vạt của gã như thể hơi xấu hổ khi phải tiết lộ một cái tên nổi tiếng và có ảnh hưởng như vậy. Nhưng cậu Nimrod, chẳng có vẻ bị ấn tượng một chút nào, chỉ nói: – Ờ, thật tốt khi được khách hàng coi như bạn thân. Bác sĩ Warnakulasuriya nói tiếp: – Vâng. Và đó là lý do tại sao tôi, chứ không phải bác sĩ riêng của ngài Thủ tướng, đang liên quan đến một tình huống hệ trọng đòi hỏi phải được giải quyết một cách thận trọng và tế nhị nhất có thể. Thở ra một vòng khói mang hình những cái lỗ tai người thật lớn, cậu Nimrod bảo: – Ông làm tôi tò mò đấy. Mải nhìn những cái lỗ tai bằng khói, bác sĩ Warnakulasuriya lơ đãng nhận xét: – Ô, thế thì tốt quá. Rất tốt. Rồi chợt nhớ ra sự khẩn cấp trong nhiệm vụ của mình, tay bác Sĩ vội nói tiếp: – Thưa ngài, vấn đề ở đây là, tôi nghĩ Thủ tướng Widmerpool đang bị một djinn nhập xác, và tôi đến đây để thỉnh cầu ngài làm lễ trừ tà giùm. Cậu Nimrod chau mày hỏi: – Lễ trừ tà à? Tại sao ông lại nghĩ việc này có liên quan đến djinn chứ không phải một thứ gì khác? Ma nhập chẳng hạn? Bác sĩ Warnakulasuriya nói chắc như đinh đóng cột: – Tôi không phải là cha tôi, thưa ngài. Tuy nhiên, với kiến thức giới hạn về djinn của mình, tôi có thể cam đoan việc này có bàn tay djinn nhúng vào. Ví dụ như nhiệt độ trong phòng ngủ của Thủ tướng Widmerpool, nơi ngài Thủ tướng hiện đang bị tạm giữ, nóng chứ không phải lạnh. Ngoài ra, tôi đã thử đốt một que diêm ngay sát miệng Thủ tướng, và ngài ấy chẳng hề thổi tắt nó. Thay vào đó, ngài ấy hút lấy ngọn lửa vào miệng, như thể người ta uống trà từ đĩa. Cậu Nimrod gật đầu: – Mô tả tốt đấy. Còn gì nữa không? Một mùi đặc trưng nào đó chẳng hạn? Bác sĩ Warnakulasuriya gật đầu: – Vâng, trong phòng còn có mùi lưu huỳnh nồng nặc nữa. – Chắc ông đã thử nói chuyện với Thủ tướng, đúng không? Giọng ông ấy thế nào? Tay bác sĩ cho biết: – Đó là giọng một con bé, khoảng chừng mười hai tuổi. Có học thức, người Mỹ. Tinh quái và xấc xược. Nó ra lệnh cho tất cả những ai đến gần, như thể nó cho rằng mệnh lệnh của nó sẽ được thực hiện chỉ vì được phát ra từ miệng ngài Thủ tướng. Lúc đầu, tất cả các mệnh lệnh của nó đều giống nhau: bắt giữ một người đàn ông, nhốt hắn vào Tháp London, rồi xử tử hắn ở đó bằng cách chặt đầu. – Ồ, vậy à? Thế tên của kẻ đó là gì? Người đàn ông mà cô bé kia muốn bắt giữ ấy? – Một cái tên lạ. Nghe như tên người nước ngoài. Ý tôi là, không phải tiếng Anh. Đây, tôi đã viết lại cái tên đó. Nói rồi bác sĩ Warnakulasuriya lục trong túi áo vest và đưa cho cậu Nimrod một tấm danh thiếp với một cái tên được viết sau lưng. Gã nói thêm: – Nhưng tôi cũng không chắc mình đánh vần cái tên đó có đúng không… Cậu Nimrod im lặng nhìn cái tên trong mấy giây liền, rồi, bỏ tấm danh thiếp vào túi quần, cậu bảo: – Ông nói tiếp đi. Ông có nói lúc đầu tất cả các mệnh lệnh đều như nhau. Vậy về sau cô bé ấy yêu cầu gì? – Khi nhận ra sẽ không có ai bắt giữ người đàn ông ấy, con bé bắt đầu thay đổi mệnh lệnh của nó. Và lần này, có vẻ như chúng chỉ nhằm mục đích làm mất mặt Thủ tướng Widmerpool, làm người khác tưởng ngài ấy bị điên. Ví dụ như, con bé yêu cầu thư ký báo chí của Thủ tướng gửi tối hậu thư đe dọa sẽ bắt giữ Tổng thống Mỹ vì tội phản quốc nếu ông ấy không xé Bản Tuyên ngôn Độc lập, rồi ngay lập tức bay đến gặp Nữ Hoàng Anh và thề sẽ trung thành vĩnh viễn với bà. Cậu Nimrod không khỏi mỉm cười: – Ý hay đấy. Có thể thành công cũng nên. Rồi suy nghĩ trong giây lát, cậu hỏi: – Bác sĩ Warnakulasuriya, có con mèo nào sống trong tòa nhà số 10 đường Downing không? – Mèo à? Vâng, tôi nghĩ là có đấy. Tại sao? – Bời vì chúng ta sẽ cần một con mèo cho lễ trừ tà. – Vậy có nghĩa là ngài đồng ý giúp? Liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, cậu Nimrod mỉm cười: – Tại sao không chứ? Hôm nay là một ngày tuyệt vời cho lễ trừ tà mà. * * * Con mèo sóng ở tòa nhà sổ 10 đường Downing có tên Boothby. Vốn là một con mèo hoang được nhặt về nuôi, con Boothby lông dài với hai màu trắng đen này đặc biệt thích gặm bánh quy. Bất chấp biệt danh “sát thủ chim non” của nó, Boothby rất được coi trọng trong tòa nhà số 10. Trước khi cậu Nimrod đến đây vào một buổi sáng tháng Tư, rắc rối duy nhất mà Boothby gặp phải từ khi chuyển đến sống trên đường Downing chỉ là việc xém bị chiếc Cadillac bọc thép nặng hai tấn của Tổng thống Mỹ cán phải một lần. Đặt chân vào tòa nhà số 10, cậu Nimrod đã làm bác sĩ Warnakulasuriya không khỏi ngạc nhiên khi yêu cầu được gặp Boothby chứ không phải Thủ tướng Widmerpool. Cậu Nimrod được dẫn đến chờ trong Phòng Trụ cột[1], nơi bác sĩ Warnakulasuriya xuất hiện sau đó vài phút với con mèo giữ chặt trên tay. Tay bác sĩ vốn chẳng ưa gì loài mèo, vì gã không muốn bộ vest đặt may riêng của mình bị dính đầy lông mèo. Và quan trọng hơn, gã cực kỳ ghét những vết cào xước mà con mèo đã “thân tặng” cho gã trong cuộc đào thoát không thành vừa rồi của nó. Xuýt xoa trước những vết trầy chảy cả máu trên mu bàn tay, tay bác sĩ thiếu điều trừng mắt với con mèo: – Ôi ôi ôi… đồ ăn bám ghê tởm! Sao mày dám? Đồ quái vật thô lỗ. Trong một giây, nhìn gã như thể sắp đá con mèo đến nơi. Nhưng cậu Nimrod, người cảm nhận được lý do hoảng loạn thật sự của con mèo, đã kịp bế nó lên và giải thích: – Căn phòng này bị ma ám, bác sĩ ạ. Bởi hồn ma của bà Gladstone. Tốt hơn chúng ta nên kiếm một căn phòng khác, không thì con mèo sẽ chẳng thể nào đủ bình tĩnh để tôi làm… ờ… làm những chuyện cần làm. Vốn củng biết rõ đường đi nước bước trong tòa nhà số 10, bác sĩ Warnakulasuriya dẫn cậu Nimrod vào Phòng Đất nung[2], nơi cậu Nimrod, vẫn bế con mèo trên tay, ngồi xuống một cái ghế bành và bắt đầu vuốt ve người bạn mới họ nhà mèo của mình. Nimrod nói với tay bác sĩ: – Phiền ông đưa giùm tôi cái gạt tàn. Tay bác sĩ đưa cái gạt tàn cho cậu Nimrod. – Tôi muốn hỏi một chút: ông có đưa cho Thủ tướng uống cái gì không? Một cốc nước lọc chẳng hạn? – Không. Tôi đã bắt mạch cho Thủ tưởng - nó đập rất nhanh - lấy ít máu của ngài ấy đi phân tích, kiểm tra đồng tử và lưỡi của ngài ấy, và đã ấn thử tuyến bạch huyết bên trong cổ ngài ấy để xem chúng có bị sưng không. À, đúng rồi, nhắc mới nhớ, cái mùi lưu huỳnh mà tôi đã nhắc đến lúc nãy ấy, hình như tôi chỉ ngửi được nó sau khi ấn vào tuyến bạch huyết của Thủ tướng Widmerpool. Cậu Nimrod cho biết: – Đó là vì tuyến bạch huyết chính là trung tâm của sự nhập xác. Nói đơn giản thì đó là nơi djinn chọn để trú ngụ trong cơ thể vật chủ. Chỉ cần xoa bóp nhẹ những cái tuyến ấy cũng đủ để lưu huỳnh nguyên chất toát ra khỏi người Thủ tướng Widmerpool. Djinn có liều lượng lưu huỳnh trong cơ thể cao hơn mundane… à, ý tôi là, cao hơn con người. Chắc ông cũng biết, một cơ thể người bình thường chứa một lượng lưu huỳnh đủ để tiêu diệt tất cả bọ chét trên người một con chó lớn. Nhưng lượng lưu huỳnh trong cơ thể một djinn bình thường sẽ đủ để diệt sạch bọ chét trên người một con voi ma mút rậm lông. Vì lý do đó, con người có một cái mũi thính hơn djinn nhiều. Đó là một trong những lợi thế hiếm hoi mà loài người các ông có được so với chúng tôi. Cậu Nimrod nói tất cả những điều này cho bác sĩ Warnakulasuriya nghe không phải vì muốn cải thiện kiến thức của tay bác sĩ về djinn - nếu như nó có để còn được cải thiện. Là người thường rất kín miệng về các vấn đề bí mật, ví dụ như những chuyện liên quan đến djinn, lần này cậu đặc biệt phá lệ cũng chỉ vì con mèo. Cậu Nimrod có thể dễ dàng nhận ra giọng nói trầm vang của mình có tác dụng xoa dịu sự bất an của con mèo, làm nó bình tĩnh lại dần trong vòng tay cậu. Cậu Nimrod muốn Boothby cảm thấy đủ thoải mái để cho phép cậu đụng vào hàng ria mép của nó. Một con mèo có 24 cái ria cử động được, chia đều mười hai cái mỗi bên mũi. Và cậu Nimrod cần bảy cái để thực hiện nghi lễ trục xuất djinn, hay còn được gọi là nghi lễ Katto (dù lý do của nó chẳng có gì liên quan đến mèo cả). Cậu Nimrod vốn không phải là một người độc ác, và cậu nghĩ thật không may khi djinn bị cấm dùng sức mạnh của mình để tự tạo ra ria mèo, vì chắc chắn Boothby sẽ chẳng đời nào tự nguyện từ bỏ một phần ba bộ ria yêu quý của nó. Và ngay bây giờ, dù ngoài miệng vẫn cười nói bình thường với bác sĩ Warnakulasuriya, trong đầu cậu Nimrod vẫn đang cố nghĩ cách đền bù xứng đáng cho Boothby sau khi bị xin mất mấy cọng ria. Lo lắng liếc nhìn lên trần nhà, bác sĩ Warnakulasuriya nhắc: – Ừm, xin lỗi vì đã ngắt lời, nhưng tình hình hiện rất khẩn cấp, thưa ngài. Thủ tướng Widmerpool có cuộc gặp với Thủ tướng Đức vào buổi trưa mai. Vì thế, nếu được, mong ngài sớm đến gặp ngài ấy để xem chúng ta cần phải làm gì. Vừa nói, bác sĩ Warnakulasuriya vừa gượng gạo mỉm cười. Gã thật không hiểu tại sao cậu Nimrod lại coi trọng con mèo đến thế, nhất là trong lúc nước sôi lửa bỏng như thế này, khi mà ở căn phòng trên lầu, ngài Thủ tướng đáng kính của họ đang lảm nhảm như một con bé học sinh tinh quái. Tuy nhiên, gã cũng biết một số djinn nổi tiếng nóng tính và, theo như những gì người cha quá cố cúa gã đã nói, cần được xoa dịu và tâng bốc chút xíu trước khi họ đồng ý làm gì cho con người. Vì thế, gã khúm núm cúi đầu và vội nói thêm: – Ý tôi là, khi nào ngài chơi với con mèo xong, thưa ngài. Cậu Nimrod không nói gì mà vẫn tiếp tục gãi cằm con Boothby. Con mèo rên lên gừ gừ một cách thỏa mãn. Trong một giây, tay bác sĩ chi biết nhắm mắt chứ không dám nói gì thêm. Tuy nhiên, ngay trong giây sau đó, gã gần như nhảy bật khỏi ghế khi Boothby rít lên một tiếng lớn như nữ thần báo tử và hoảng loạn bò ngược lên tấm rèm cửa như đang bị cả một tiểu đoàn chó becgiê truy đuổi. Cậu Nimrod thả một thứ gì đó vào trong cái gạt tàn, trước khi đứng dậy và nhanh chóng bước về phía cửa sổ. – QWERTYUIOP! Bác sĩ Warnakulasuriya há hóc miệng khi một đĩa cá sống to dùng đột ngột xuất hiện trên bàn tay giơ ra của vị djinn. Gã không biết tại sao con mèo lại bỏ chạy trối chết như vậy, nhưng điều đó dường như không đáng ký lô gì so với sức mạnh siêu nhiên mà gã vừa được chứng kiến. Đây là lần đầu tiên gã tận mắt trông thấy sức mạnh của djinn, và nó làm gã rất, rất ấn tượng. Trong khi đó, cậu Nimrod giơ đĩa cá về phía thanh treo rèm nơi con Boothby đang tạm trú và nhẹ nhàng xin lỗi nó. Tay bác sĩ thều thào nói: – Con cá. Ngài biến ra chúng. Từ không khí. Chỉ như thế. Đúng không? Cậu Nimrod giải thích: – Tôi nghĩ đó là điều ít nhất tôi có thể làm được cho Boothby để cám ơn sự hỗ trợ của nó. Ông không nghĩ vậy sao? Rồi cậu để con mèo đánh hơi được mùi cá trước khi đặt cái đĩa xuống đất. – Vâng, tôi không hoàn toàn rõ lắm về điều đó. Chính xác nó giúp được gì cho chúng ta, thưa ngài? Nhặt cái gạt tàn lên, cậu Nimrod chỉ cho vị bác sĩ xem bảy cái ria mèo mà cậu đã bứt khỏi mặt của Boothby tội nghiệp. – Nó đã giúp chúng ta rồi. Với ria của nó. Hiểu lầm vẻ mặt ngạc nhiên cúa tay bác sĩ rằng gã đang bị sốc và không hài lòng với hành động ngược đãi động vật vừa rồi của mình, cậu Nimrod trấn an: – Đừng lo. Chúng sẽ mọc lại thôi. Rồi gật đầu chi về phía cửa ra vào, cậu bảo: – Đi thôi. Có cả một lễ trừ tà đang chờ chúng ta, đúng không? Cậu Nimrod từ tốn bước vào phòng ngủ của ngài Thủ tướng. Ông Widmerpool đang nằm ngửa trên giường, đầu kê trên một cái gối bự. Đứng cạnh ông là một phụ nữ tóc vàng cao ráo mà cậu Nimrod lập tức nhận ra là phu nhân Thủ tướng, bà Sheila. Hai tay ôm siết vào nhau, trông bà có vẻ rất căng thẳng và mệt mỏi. Ở một góc phòng, một bé gái chừng mười một, mười hai tuổi đang ngồi thu lu trên ghế; cậu đoán đây chắc là cô con gái bé nhất của Thủ tướng, tên Lucinda. Đứng sau lưng cô là thư ký báo chí của Thủ tướng, người liếc nhìn bác sĩ Warnakulasuriya dẫn cậu Nimrod vào phòng với một vẻ mặt nhẹ nhõm pha lẫn bực dọc. Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, ông nói: – Đến đúng giờ quá nhỉ. Và rồi quay sang nhìn cậu Nimrod trong bộ vét đỏ chót, như không tin vào mắt mình, ông hỏi: – Còn ông là ai? Santa Claus à? Nhưng bà phu nhân Thủ tướng thì đón nhận sự hiện diện của cậu Nimrod với vẻ nồng nhiệt và biết ơn hơn. Mắt đẫm lệ, bà nắm lấy tay ông xiết thật chặt và thổn thức: – Ôi, ơn Chúa, ông đã đến. Chúa phù hộ ông. Khẽ hít thử không khí trong phòng, Nimrod vừa dẫn bà rời xa cái giường vừa an ủi: – Xin bà cứ bình tỉnh, quý bà đáng kính. Ngài Thủ tướng sẽ ổn ngay thôi. Tôi có thể đảm bảo điều đó. – Ồ, vậy à? Thế ngươi là ai nhi? Lần này đến lượt ngài Thủ tướng lên tiếng - hay đúng hơn là cô bé djinn hiện đang sống trong cơ thể ông. Cậu Nimrod không nghi ngờ gì về két luận đó: mùi lưu huỳnh toát ra mỗi khi ngài Thủ tướng mở miệng không lẫn vào đâu được. Ngồi xuống một bên giường, cậu Nimrod nói: – Ta có thể hỏi cô điều tương tự đấy, cô bé. Nhưng ta quan tâm hơn đến việc tại sao cô làm chuyện này. Thề là cô có thể đóng chai ta nếu ta không khó chịu khi thấy cô đối xử với ngài Thủ tướng một cách vô lễ như vậy. – Ngươi khó chịu thì đã sao nào? Ngươi không thể thấy ta. Trừ khi ta quyết định điều ngược lại. – Ta đang lịch sự yêu cầu cô rời khỏi Thủ tướng đấy. Ngay bây giờ. Cô bé bên trong người Thủ tướng cười khúc khích: – Nếu ta không muốn thì sao nào? – Vậy thì đừng trách ta mạnh tay với cô. – Ồ? Ngươi thì làm gì được ta chứ? – Cô sẽ không muốn biết đâu. Cô bé lại cười khúc khích. Làm ngài Thủ tướng ngồi dậy, cô tuyên bó: – Đang vui thế này thì ngu sao ta bỏ chứ. Cậu Nimrod vẫy nhẹ tay và thầm thì cái từ mà cậu dùng để tập trung sức mạnh của mình: – QWERTYUIOP! Ngay lập tức, cô bé djinn nhận ra một chuyện gì đó không ổn đã xảy ra. – Gì thế này? Ngươi đã làm gì? Tại sao ta không thể cử động? Cậu Nimrod bảo: – Không có gì đáng lo đâu. Chỉ là một phép trói buộc nho nhỏ thôi. Giọng nói bên trong người Thủ tướng hét lớn: – Tại sao? Ngươi định làm gì? Người đâu, gọi cảnh sát bắt tên này cho ta! Nhặt một cọng ria mèo lên khỏi cái gạt tàn, cậu Nimrod nói: – Cô đã ra mệnh lệnh cuối cùng của mình rồi đó. Đến lúc đi rồi, cô bé. Ngài Thủ tướng lo lắng nhìn cọng ria mèo trên tay cậu Nimrod và hỏi: – Cái gì thế? Rút một cái hộp quẹt ra khỏi túi áo khoác màu đỏ của mình, cậu Nimrod cười khinh khỉnh: – Chắc cô đã nghe cầu tục ngừ “một con mèo cháy lúc nào cũng tốt hơn vẻ ngoài của nó”[3] rồi nhỉ? Cố biết không, không cò mùi gì djinn chúng ta ghét bằng mùi mèo cháy. Trong thời cổ đại, nghi lễ trục xuất djinn Katto đòi hỏi cả một con mèo sống. Nhưng may phước là hiện nay, chúng ta không đến nỗi độc ác như thế. Tất cả những gì chúng ta cần chỉ là bảy cọng ria mèo. Cậu Nimrod lúc lắc những ngón tay không cầm gì của mình và một cái kẹp mũi chuyên dụng của vận động viên bơi lội hiện ra từ không khí trong sự ngạc nhiên cao độ của bác sĩ Warnakulasuriya, người đang đứng ngay bên cạnh cậu. Kẹp cái kẹp lên mũi mình để tránh hít phải mùi ria mèo cháy, cậu nói: – Ta nghĩ là cô muốn tạo ra một rắc rối chính trị bằng những gì cô đã làm. Cô bé djinn trong người Thủ tướng thanh minh: – Không phải. Ít nhất ban đầu ta không định thế. Ta chỉ muốn Iblis bị bắt giữ thôi. Đó là lý do tại sao ta làm việc này. Bắt giữ, xử tử, hoặc tra tấn. Cái gì trước cũng được. Chắc ngươi phải nghe nói đến Iblis rồi chứ? Cũng vì hắn mà cả gia đình ta tan nát. Cậu Nimrod gật đầu khi cô bé djinn giải thích lý do của mình. Iblis là một cái tên mà cậu biết rất rõ. Là tộc trưởng tộc Ifrit, một trong ba tộc djinn Xấu, Iblis được biết đến như djinn độc ác nhất thế giới. Cậu Nimrod hỏi: – Sao cô nghĩ ngài Thú tướng có thể giúp chứ? Giọng nói trả lời: – Không có djinn nào, bao gồm cả cha ta, dám đụng đến Iblis. Vì thế ta phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ loài người. Thủ tướng Anh. Nhưng ông ta lại không phải người như ta nghĩ. Mẹ mà biết được sự thật thì thế nào cũng thất vọng. Bà lúc nào cũng ca ngợi ông ta mà. Lúc nào cúng bảo ông ta là một người tuyệt vời. Nhung ông ta chẳng tuyệt vời gì. Một kẻ chẳng có chút sức mạnh nào. Cậu Nimrod nhắc nhở: – Đây là cơ hội cuối cùng để cô tự nguyện rời khỏi ngài Thủ tướng đấy. Nhưng cô bé djinn chỉ cười khinh bỉ: – Một kẻ thậm chí không thể bắt nhốt người khác theo ý muốn thì không đáng lãnh đạo một đất nước. Cho nên ta muốn ông ta phải trả giá cho sự vô dụng của mình. Bằng sự rắc rối chính trị mà ông ta sắp gặp phải. Cậu Nimrod chau mày nói: – Người sắp gặp rắc rối chính là cô đấy. – Ngươi chỉ giỏi khoác lác. – Để xem ai khoác lác nhé. Với cái đầu và thân thể của ngài Thủ tướng bị giữ bất động bởi phép trói buộc djinn của cậu Nimrod, cô bé djinn không có cách nào tránh được cái ria mèo bốc cháy mà cậu Nimrod giữ ngay bên dưới lỗ mũi ngài Thủ tướng. – Á! Không! Ngừng lại! Cái mùi kinh khủng. Bỏ nó ra chỗ khác! – Chính cô ép ta làm thế. Thả tro tàn của cái ria mèo đầu tiên xuống đất, cậu Nimrod tiếp tục châm lửa đốt cái thứ hai, cái thứ ba, rồi lần lượt đến từng cái ria còn lại. Mùi ria mèo cháy khét giờ đây đã nồng nặc khắp phòng, đến nỗi Lucinda Widmerpool phải đưa tay bịt chặt mũi và miệng cô lại. Nhưng điều đó chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, vì ngay sau đó, cái mùi kinh khủng ấy không ngăn được cô đưa tay chỉ vào chuyện đang diễn ra với cái giường. Cái giường đang bay khỏi sàn nhà. Tất cả những gì cô có thể làm là trố mắt nhìn vào nó. 30 phân, 60 phân, 1 mét. Trọng lượng của cha cô và người đàn ông mặc vét đỏ hiện đang cầm một cái ria mèo bốc cháy khác dường như không là gì ngoài một con số 0 tròn trĩnh. Cái giường lại bay cao thêm 30 phân nữa và lơ lửng trong không khí như một ảo thuật gia trong màn ảo thuật bay lượn. Trong khi vị thư ký báo chí buột miệng chửi thề lớn tiếng đến mấy lần vì không tin vào mắt mình, bà Widmerpool thốt lên: – Ôi, lạy Chúa lòng lành! Châm lửa đốt cái ria thứ sáu, cậu Nimrod trấn an bà: – Không có gì phải lo đâu, quý bà đáng kính. Chúng tôi gọi đây là giai đoạn thảm thần của nghi lễ trục xuất, khi ước muốn được bay đi chỗ khác của một djinn trở nên quá sức chịu đựng. Gần xong rồi. Chỉ cần một cái ria nữa thôi. – Lạy Chúa tôi! Bà phu nhân Thủ tướng lại nói, nhưng lần này không phải vì việc cái giường bay lên mà vì những thứ hiện ra bên dưới nó: một miếng bánh pizza ăn dở, mấy tờ báo cũ, những mẩu cắt móng tay móng chân vụn vặt, vài tập tài liệu được đánh dấu TỐI MẬT, một đôi tất chân, một vé phạt đậu xe, một bức chân dung có chữ ký của Nữ hoàng Anh, vài miếng sing-gum (nhai dở), vài đồng xu ngoại quốc (phần lớn là đồng france Pháp), và một cây vợt Tennis gãy đôi. Cậu Nimrod hét lớn khi bà Widmerpool định cúi xuống nhặt bức hình Nữ hoàng: – Đừng đến gần. Một giây sau, cái giường thình lình rớt phịch xuống sàn, và cánh cửa sổ phòng ngủ bật mở toang khi cô bé djinn vô hình vội vã tháo chạy. Cậu Nimrod lầm bầm: – Người chiến thắng. Và thắng sát nút. Rồi khẽ vẫy tay và nói nhỏ từ trọng tâm của mình, cậu Nimrod giải trừ phép trói buộc ếm trên ngài Thủ tướng, người hiện đang quay đầu nhìn xung quanh và, quan trọng hơn, nói bằng một chất giọng nghe có vẻ đã trở lại bình thường. Ông ngập ngừng hỏi: – Chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy? Cậu Nimrod đứng dậy và lùi khỏi cái giường để nhường chỗ cho bác sĩ Warnakulasuriya, bước tới bắt mạch rồi kê ống nghe lên ngực ông Widmerpool để kiểm tra nhịp tim ông. Mỉm cười với con gái khi cô đưa ông con gấu teddy của ông, ngài Thủ tướng bảo: – Tói thấy ổn mà. Thật đó. Cậu Nimrod hỏi: – Thủ tướng, ngài có nhớ chuyện gì đã xảy ra với mình không? Ông Widmerpool có vẻ hoi ngượng ngùng khi trả lời: – Một giấc mơ xấu. Tôi nghĩ vậy. Tôi đã không thể điều khiển lời nói hay hành động của mình. Nó giống như có ai đó bên trong đầu tôi và quyết định tôi phải nói gì, làm gì. Liếc nhìn vị thư ký báo chí của mình trong một giây như thể ông muốn chắc chắn điều ông nói không có gì ảnh hướng đến hình ảnh một vị nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng Widmerpool nói tiếp: – Là một bé gái, nếu tôi không lầm. Một cô bé còn khá nhỏ. Có lẽ cũng cỡ tuổi con gái tôi. Cậu Nimrod hỏi: – Cô bé ấy có tên không? Ông Widmerpool suy nghĩ trong giây lát. Rồi khẽ lắc đầu, ông nói: – Tôi không chắc. Hình như là Tina? Liếc nhìn cậu Nimrod, đến lượt ông hỏi: – Cái tên đó có quen thuộc với ông không? Cậu Nimrod lắc đầu thay cho câu trả lời. Vẫy tay xua đi những vẻ mặt cám ơn đang ném về phía cậu - ngay cả vị thư ký báo chí khó tính của ngài Thủ tướng giờ đây cũng đang rối rít cám ơn - cậu tuyên bố: – À đến giờ tôi phải đi rồi. Chậc, không cần phải cám ơn tôi đâu. Hoàn toàn không cần. Đây chỉ là một nghĩa vụ cần thiết của một công dân Anh yêu nước thôi. Chúng ta không thể để Thủ tướng của mình phô diễn kỳ quặc trước mặt Thủ tướng Đức, đúng không? Không, điều đó nên dành lại cho Tổng thống Pháp. Bác sĩ Warnakulasuriya hộ tống cậu Nimrod ra tận sảnh vào, nơi gã một lần nửa kính cẩn hôn tay cậu và nói: – Cha tôi đã kể cho tôi nghe về djinn và sức mạnh vĩ đại của họ, nhưng thưa ngài, thật đáng xấu hổ vì tôi đã không tin tưởng lắm vào điều ông nói. Mong ngài hiểu cho, tôi vốn là một con người của khoa học. Không phải của sự mê tín dị đoan. – Nhưng rồi ông lại là người mang tôi đến đây, không đúng sao? – Sự thật là tôi cũng nửa tin nửa ngờ khi mời ngài giúp, thưa ngài. Cho đến khi ngài làm cái giường bay lên. Đó là chưa kể đến việc ngài hô biến ra cái kẹp mũi từ không khí. Hay là đĩa cá cho con Boothby. Cậu Nimrod khiêm tốn nói: – Ô, chỉ là một đĩa cá bình thường thôi mà. Chẳng phải thỏi vàng gì. – Nhưng nó đã có thể là một thỏi vàng, không phải sao? Còn con bé djinn mà ngài đã đuổi khỏi người Thủ tướng Widmerpool nữa. Sức mạnh gì để điều khiển cơ thể người khác như vậy? Con bé gần như có thể làm được mọi chuyện ấy chứ. – Cũng may là cô bé ấy không có nhiều kinh nghiệm trong việc nhập xác người khác đấy. Nếu cô bé ấy - Tina, hoặc bất cứ cái tên gì khác - kiểm soát được trung tâm điều khiển phát ngôn của ngài Thủ tướng thì thật không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Rồi liếc nhìn đồng hồ, ông nói: – Giờ tỏi phải đi tìm cô bé ấy đây. Sau vài tiếng sống trong cơ thể người khác, cô bé sẽ cần tôi giúp để khôi phục cơ thể mình. Thân thể người mà để quên đâu đó dễ bị mất cắp lắm. Ngay cả ở London này. Vừa nói, cậu Nimrod vừa vui vẻ mỉm cười và vỗ vai tay bác sĩ. Gỡ mắt kính ra, bác sĩ Warnakulasuriya hỏi: – Có thật không? Chuyện ngài có sức mạnh ban ba điều ước ấy? Cậu Nimrod có thể thấy được câu hỏi này dẫn đến đâu. – Cha của ông, thầy tu khổ hạnh Murugan, một con người rất thông thái, đã từng nói với tôi rằng, người ta nên có một ý chí hơn là có một điều ước. Tay bác sĩ gật đầu một cách nghiêm túc, nhưng cậu Nimrod có thể thấy rõ gã không đồng ý với cha mình. Trên thực tế, cậu Nimrod cảm nhận được có một sự thay đổi đáng kể hiện ra trọng mắt người đàn ông trước mặt mình. Tuy nhiên, phải đến hơn mười năm sau, cậu mới có thể biết được chính xác sự thay đổi này đã tác động như thế nào lên gã bác sĩ trẻ đến từ Ân Độ. Chương 1 Hoạt họa Đó là lúc 7 giờ sáng trong phòng Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở Sonny Bono, ở khu Palm Springs, California. Như thường lệ, đây là lúc ông lao công Astor đã lau chùi xong sàn nhà, và đang chuẩn bị gỡ cái bịch nhựa đựng rác ra khỏi sọt giấy vụn kế bên bàn làm việc của cô Sarkisian. Gần phía trên mép bịch, bên trong một lon soda rỗng, cảm nhận được ông Astor đang bắt đầu nhấc cái bịch lên, Dybbuk Sachertorte nhanh chóng khóa mình vào một chiếc ghế chuyên dụng dùng trên máy bay phản lực mà cậu đã đặc biệt lắp đặt vào trong cái lon cho nhiệm vụ lần này. Rồi cậu đội mũ bảo hiểm lên đầu và cài chặt dãy khóa cổ để ngăn chặn bất cứ chấn thương nào có thể xảy ra từ va chạm mà cậu bé djinn mười hai tuổi biết sắp sửa xảy ra. Djinn hiếm khi bị gì khi đang ở bên trong một cây đèn hay một cái chai, hoặc với tình huống của Dybbuk là trong một lon soda, nhưng chấn thương vẫn có thể xảy ra: bà ngoại của Dybbuk đã từng bị choáng nặng khi cái chai whisky bằng thủy tinh mà bà dùng để di chuyển thình lình bị vỡ tung. Và Dybbuk đã hành động đúng lúc. Ngay trong giây sau đó, người lao công mở cửa sổ và thả bịch rác xuống thùng gom rác dưới sân trường. Trong bất cứ tình huống nào, sự cẩn trọng của Dybbuk là quá đủ để đảm bảo cậu có được một cuộc hạ cánh tốt đẹp. Bên trong cái lon, cậu ngồi yên trên ghế cả phút, và chỉ đến khi chắc chắn ông Astor đã đi khỏi, cậu mới bắt đầu thực hiện phép hóa thể. Lái cụm khói chứa đựng các nguyên tử, phân tử của mình ra khỏi lon, chui qua cái cổ buộc hờ của bịch rác, rồi ra khỏi cái thùng gom rác và lên trên mặt đất bên ngoài, cậu tập họp nó lại thành cơ thể loài người của mình. Toét miệng cười khùng khục vì hài lòng với một nhiệm vụ thành công mỹ mãn, cậu đi thẳng đến nhà thằng bạn Brad và gõ cửa sổ phỏng ngủ của nó. – Ê, mở cửa ra. Là tớ. Buck đây. Vốn không ưa gì cái tên của mình, Dybbuk thích được gọi là Buck, lấy theo tên thần tượng văn học của cậu - một con chó dũng cảm trong một tiểu thuyết tuyệt vời của Jack London. Phải mất mấy giây, cánh cửa sổ mới mở ra, để Dybbuk có thể leo vào trong gặp một thằng bé cỡ tuổi cậu. Thằng bé loài người này khá cao, tuy vẫn không cao bằng Dybbuk, và gầy như một que củi, trong khi Dybbuk lại có bờ vai rộng hơn nhiều. Brad lắc đầu: – Không thể nào. Dybbuk nhe răng cười với nó: – Ô, thế mà có thể đấy. Và cậu xòe ra cho thằng bạn thấy vài tờ giấy. – Cậu không đùa chứ? Đây đúng là câu hỏi cho kỳ thi sắp tới hả? Dybbuk tự hào tuyên bố: – Không phải chỉ câu hỏi không đâu. Tớ còn có cả đáp án đấy nhé. Như không tin vào tai mình, Brad thốt lên: – Không thể nào. Sao cậu làm được chứ? Ý tớ là, có hệ thống CCTV[4] bên ngoài phòng cô Sarkisian mà. Cả còi báo động nữa. Và tớ có thể lấy đầu ra đảm bào là mấy tờ giấy này được cất trong két sắt. Cậu là gì vậy, Buck? Siêu trộm à? Dybbuk vẫn chưa nói cho Brad biết chuyện cậu là djinn, để phòng trường hợp nó xin cậu ba điều ước. Ngay cả người như Dybbuk cũng biết, việc loài người đạt được điều ước mãnh liệt nhất của họ không phải lúc nào cũng là một điều tốt. Những điều ước luôn chịu ảnh hưởng của Hiệu ứng Hỗn mang, nghĩa là đôi lúc chúng có thói quen diễn biến theo một hướng mà không ai đoán trước dược. Cho nên cậu lảng qua một bên và chỉ nói: – Siêu trộm hả? Ờ, chắc cũng cỡ đó. Sự ngưỡng mộ của Brad đối với Dybbuk giờ đây đã không còn giới hạn. – Thật hả? Giống y như trong phim? Quơ quơ xấp câu hỏi và đáp án, Dybbuk bảo: – Giờ khoan quan tâm đến chuyện đó. Chúng ta chỉ còn vài giờ để nạp cái mớ này vào đầu, không thì xơi trứng ngỗng cả đám. * * * Một ngày sau kỳ kiểm tra - kỳ thi mà cả hai cậu nhóc đều dạt điểm cao nhất lớp - cha của Brad, ông Harry Blennerhassit, khao hai đứa một bữa trưa thịnh soạn tại một nhà hàng gần tiệm sách cổ của ông ở khu kinh doanh của Palm Springs. Mẹ Brad đã mất, và hai cha con nhà Blennerhasssit rất thân thiết với nhau. Thân thiết đến nỗi Brad thậm chí còn tự thú tội với cha chuyện nó làm cách nào để đạt được một kết quả thi đáng nể như vậy. Nhưng, thay vì giảng cho cả hai đứa nghe một bài moran dài thòng về cái tội gian lận - đó là điều Dybbuk sợ, và cũng là điều cậu đáng bị - ông Blennerhassit chỉ mỉm cười và cám ơn cậu. Xém sặc miếng hamburger trong cuống họng, Dybbuk hỏi lại: – Chú vừa nói gì ạ? Ông Harry Blennerhassit bình tĩnh nhắc lại câu nói của mình: – Chú vừa nói là, những gì cháu đã làm chứng tỏ cháu là một người khéo léo và có tài xoay xở tuyệt vời. Không phải cậu bé nào củng có thể đánh lừa hệ thống CCTV, qua mặt chuông báo động, và giải mã hệ thống mật mã phức tạp của một két sắt. Cháu đã thực hiện một vụ trộm vi đại đấy, anh bạn trẻ. Một kỳ tích về mạo hiểm. Dybbuk chỉ nhún vai chứ không dám nói gì, vì cậu vẫn còn sợ đây chỉ là một cái bẫy buộc cậu phải thừa nhận tội lỗi của mình. Ông Blennerhassit nhấp một ngụm cà phê và ngồi im một lúc. Với vầng trán nhăn nhó như đang lo lắng, nụ cười toét rộng nhưng đầy vẻ gượng gạo, và cái mũi to như trái anh đào, ông trông giống một chú hề không hóa trang. Rồi ông hỏi Dybbuk: – Cháu nghĩ mình có thể làm chuyện như thế một lần nữa không? Ý chú là, làm một vụ trộm nữa ấy. Ngập ngừng liếc nhìn Brad, Dybbuk giận dữ hỏi: – Cha cậu đùa đấy à? Vì nếu thế, tớ có thể nói thẳng là tớ không thích chuyện cậu mách lẻo cha cậu chút nào. Ngoài ra, tớ từ chối đề cập đến chuyện này vì lẽ điều đó có thể khiển tớ bị trừng phạt. Mẹ tớ mà biết chuyện này thì xin lỏi, tớ chỉ còn là lịch sử. Quan hệ mẹ con tớ giờ đã quá đủ xấu rồi. Brad xoa dịu cậu bạn: – Buck, không sao đâu. Tớ thề đó. Cậu cứ nghe ba tớ nói hết đã nào. Ba tớ đang muốn hợp tác làm việc với cậu đàng hoàng mà. Dybbuk nhượng bộ: – Thôi được. Cháu đang nghe đây, chú nói đi. Ông Blennerhassit cho biết: – Cách đây ít lâu, chú có đi công tác ở thành phố Munich của Đức. Để buôn sách cổ và bản in ấy mà. Và trong một cửa hiệu đồ cổ, chú đã mưa được một hồ sơ bản vẽ kỹ thuật của Paul Futterneid, một nhà thiết kế kim hoàn đã từng làm việc với Carl Fabergé[5] danh tiếng. Một trong số đó là bản thiết kế gậy chỉ huy cho một tay Thống chế Đức. Một cây gậy dài chừng 50 phân làm bằng ngà voi, khảm hột kim cương và hình đại bàng bằng vàng ròng. Ngừng một giây để lấy hơi, ông Blennerhassit nói tiếp: – Nhung điều thú vị nhất ở đây là, cây gậy này được làm rỗng bên trong để chứa một ngăn đựng bí mật. Một ngăn đựng chỉ có thể mở ra bằng cách nhấn đúng một tổ hợp mật mã của các hột kim cương và hình đại bàng. Và chú càng chắc chắn hơn việc ngăn đựng bí mật này được thiết kế để che giấu một thứ gì đó rất quý giá, một khi chú khám phá ra cây gậy đó thuộc về Hermann Goering. Cái cách ông Harry Blennerhassit nhấn mạnh cái tên cho thấy đó phải là một người mà thường thì ai cũng biết. Rất tiếc đó lại là một cái tên xa lạ với Dybbuk. Cho nên khẽ nhún vai, cậu hỏi: – Hermann Goering? Ai vậy chú? Brad nhắc: – Ông ta là phó tướng của Hitler, và là người đứng đầu quân đội Đức Quốc Xã. Dybbuk hỏi: – Vậy chuyện gì đã xảy ra với nó? Cái cây gậy chỉ huy ấy? Ông Blennerhassit nói: – Chú sẽ kể cho cháu biết. Vào năm 1945, một năm sau chiến thắng của quân Đồng minh ở châu Âu, khi quân đội Mỹ còn đang bận thu thập chiến lợi phẩm ở Đức, Tướng Patch, chỉ huy quân đoàn số 7 quân đội Mỹ, đã bắt giữ Goering và gửi tặng cây gậy chỉ huy cho Tổng thống Harry Truman để làm lưu niệm. Brad tiếp lời cha: – Từ đó trở đi, nó luôn được trưng bày trong bảo tàng quân đội ở Pháo đài Benning tại Georgia. Ý tớ là, nó chỉ nằm im ở đó, Buck. Hàng tá người đã đụng đến nó, nhưng cho đến giờ, dường như chẳng có ai khám phá ra cái ngăn đựng bí mật và, quan trọng hơn, cái mà Goering có thể đã cất giấu bên trong trước khi bị bắt. Như kim cương vô giá chẳng hạn. Ba tớ bảo Goering rất mê kim cương mà. Dybbuk cảm thấy cực kỳ hứng thú. Cậu luôn yêu những câu chuyện về Thế chiến thứ II cùng những câu chuyện về các báu vật bị mất tích, và câu chuyện này lại có đủ cả hai yếu tố đó. Cậu chặc lưỡi mơ màng: – Chà, không biết người ta có thể nhét bao nhiêu viên kim cương trong một cây gậy chỉ huy của tay Thống chế nhỉ? Đặt một thứ được bọc ni lông kín mít lên bàn, ông Blennerhassit nói: – Sao chúng ta không cùng nhau khám phá điều đó nhỉ? Cháu thấy đó, Buck, chú đã dựa theo bản vẽ thiết kế gốc để làm ra bản sao. Cây gậy chỉ huy này được làm từ nhựa thông khảm kim cương giả, nhưng chú đảm bảo nó giống y chang cây gậy thật. Rồi gỡ lớp ni lông bọc ngoài ra, ông cầm cây gậy giả lên và bắt đầu ấn vào một số hột kim cương và hình đại bàng nổi trên cây gậy. Ông cho biết: – Dĩ nhiên, cấu tạo hoạt động bên trong nó cũng y chang. Ngay khi ông đang nói, phần chóp đuôi khảm kim cương của cây gậy bỗng bật mờ. Dốc ngược nó xuống, Harry Blennerhassit đổ ra bàn một mớ đậu phộng Brazil to cỡ mấy vốc tay và tuyên bố: – Có tất cả 35 hột đậu trong đó. Cháu nghĩ thử xem, Buck, nếu mỗi hột đậu này là một viên kim cương thì chúng sẽ đáng giá bao nhiêu? Buck nhe răng cười: – Hàng triệu đô. Brad đế vào: – Và một phần ba trong số đó sẽ thuộc về cậu, Buck. Tất cả những gì cậu phải làm, chiến hữu của tớ, là sử dụng kỹ năng siêu trộm đặc biệt của cậu để tráo cây gậy này lấy cây gậy đang nằm trong bảo tàng quân đội ở Pháo đài Benning. Dybbuk suy nghĩ trong giây lát. Tiền bạc đối với cậu không thành vấn đề. Là một djinn, cậu muốn có bao nhiêu tiền vào bất cứ lúc nào mà chẳng được. Nhưng ở một nơi đầy người lớn tuổi như Palm Springs, sự thú vị chẳng khác nào hàng quý hiếm, và trò mạo hiểm mà cha của Brađ đưa ra nghe có vẻ khá thú vị. Và Dybbuk cũng không nghĩ cậu thật sự phạm tội ác tày đình nào, nếu sau khi xong việc cậu lại tráo ngược cây gậy về chỗ cũ. Còn về thứ bên trong đó, dù nó có là gì thì cũng không thể nói cậu ăn cắp nó. Làm sao bạn có thể ăn cắp một thứ mà thậm chí cả bảo tàng còn không biết đến chứ. Tuy nhiên, liệu cậu có thể làm việc này mà không để lộ bí mật của mình cho gia đình Blennerhassit không? Bởi nếu họ biết thì sẽ hỏng bét cả: họ sẽ hứng thú với ba điều ước hơn là một thứ gì đó không chắc chắn bên trong cây gậy của Goering. Việc che giấu thân phận djinn xem ra có vẻ khó hơn nhiều so với việc tráo đổi cây gậy. Khó, nhưng không có nghĩa là không thể. Dybbuk bắt đầu gật đầu. Brad hí hửng hỏi: – Gật đầu nghĩa là cậu đồng ý, đúng không? Cậu sẽ làm chuyện đó, đúng không? – Ok, không thành vấn đề. Dybbuk nhe răng cười. Cậu nghĩ thầm trong đầu: – Chuyện này vui à nhe. * * * Cả ba bay đến thành phố Atlanta ở Georgia, nơi họ thuê một chiếc xe và lái 60 dặm về phía Nam để đến Pháo đài Benning. Sau khi nhận phòng tại một nhà khách trong khu căn cứ, họ chỉ cần đi bộ về hướng Đông qua vài dãy nhà là đến được Bảo tàng Bộ binh, nơi trưng bày rất nhiều loại vũ khí, quân phục, mặt nạ, xe cơ giới cùng nhiều thứ liên quan đến bộ binh khác. Một trong số đó là cây gậy chỉ huy của Thống chế Hermann Goering. Ngắm nhìn cây gậy, ông Blennerhassit nhận xét: – Thật khó tin! Ngần ấy năm trời nó đã nằm ở đây, thế mà không ai biết được nó rỗng ruột. Đúng không, các chàng trai? Nhưng Dybbuk hiện đang nghe tai nọ xọ tai kia. Cậu còn đang bận phác thảo một kế hoạch an toàn nào đó trong đầu. Nhìn thấy mấy cái can nước dã chiến của Tướng Ulysses S. Grant được trưng bày gần đó cậu bỗng nảy ra một ý. Cậu có thể hóa thể và núp vào một trong những cái chai thủy tinh màu hổ phách đó cho đến khi bảo tàng đóng cửa. Chuyện đó thì quá dễ rồi. Vấn đề ở đây là làm sao thực hiện phép hóa thể lần thứ hai cùng cây gậy thật trong tay, đơn giản là vì sức mạnh djinn vốn không có hiệu lực với kim cương. Có thể thấy rõ là cây gậy cần được giấu ở một chỗ khác, và cậu sẽ phải mang nó ra ngoài bằng cách khác. Nhưng cách nào đây? Dybbuk tìm thấy câu trả lời bên trong cửa hàng bán đồ lưu niệm của bảo tàng. Và nó hiển nhiên đến nỗi cậu bắt đầu cười lớn tiếng để tự khen trí thông minh của mình. Cậu sẽ giấu cây gậy chỉ huy thật bên trong một ống đựng poster, rồi sau đó chỉ đơn giản mua cái ống poster đó khi bảo tàng mở cửa vào sáng hôm sau. Nghe tiếng cười đắc thắng của Dybbuk, Brad hỏi: – Sao? Cậu nghĩ mình làm được không? – Dĩ nhiên là được rồi. Tớ mà lỵ. Dybbuk liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Bảo tàng sẽ đóng cửa trong vài phút nữa. Biết cái ba lô của ông Blennerhassit hiện đang đựng cây gậy giả, Dybbuk bảo Brad đưa nó cho mình. Rồi cậu chỉ đạo: – Bây giờ hoặc chẳng bao giờ. Tớ sẽ làm chuyện đó tối nay. Nhưng từ giờ đến sảng mai, đừng chờ tớ nhé. Tớ sẽ về sau khi bảo tàng mở cửa. Ok? Harry Blennerhassit gỡ cái ba lô ra và đưa cho cậu. Tuy nhiên, Dybbuk có thể thấy được ông đang lo lắng một chuyên gì đó. Trợn ngược mắt lên, cậu cố tình thở dài một tiếng rõ to và hỏi: – Chuyên gì thế? Chú sợ rồi à? Ông Blennerhassit nói: – Có thể. Buck à, dù gì cháu cũng chỉ là một đứa trẻ. Nếu có chuyện gì xảy ra, chú sẽ là người vào tù chứ không phải cháu. Dybbuk nói như đinh đóng cột: – Chú cứ yên tâm đi. Cháu sẽ ổn thôi. Tin cháu đi. Cháu có một vị thần đèn bảo hộ mà. Dĩ nhiên đó là sự thật. Mẹ của Dybbuk cũng là một djinn, mặc dù bà có lẽ sẽ chẳng vui vẻ gì nếu biết điều con trai bà sắp làm. Bác sĩ Sachertorte nghĩ Dybbuk đang đi tham quan những chiến trường của cuộc Nội chiến Mỹ cùng vói Brad và ông Blennerhassit. Đó là điều Dybbuk đã nói với bà. Cũng không có nghĩa cậu thực sự chú tâm đến chuyên bà sẽ nghĩ gì. Ngay bây giờ, chuyện được làm gì đó vui vui mới là điều quan trọng nhất đối vói cậu. – Chú Harry à, cháu biết cháu đang làm gì mà. Tin cháu đi, chú sẽ ngạc nhiên nếu biết cháu có thể làm được những gì đấy. * * * Lâu rồi mới được một lần Dybbuk làm tốt như lời cậu tuyên bố. Đúng 10 giờ 30 phút sảng hôm sau, nửa tiếng sau khi bảo tàng quân đội mở cửa đón khách, cậu đã quay lại nhà khách của Pháo đài Benning với một nụ cười rộng đến tận mang tai và một ống poster lớn trên tay. Cha của Brad thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy cậu: – Ôi, ơn Chúa, cháu không sao. Buck hếch mũi nói: – Dĩ nhiên cháu không sao rồi. Brad hỏi: – Cậu có nó chưa? Cây gậy chỉ huy ấy? Giơ cái ống poster lên, Dybbuk nói: – Chớ không lẽ cậu nghĩ tớ cầm bản đồ pháo đài. Dĩ nhiên tớ lấy được nó rồi. Nói rồi cậu giở cái nắp ống ra và dốc cây gậy ở bên trong xuống giường của Brad. Ông Blennerhassit thốt lên: – Ôi, cậu ta đã lấy được nó. Và ông ôm Brad nhảy vài vòng quanh phòng. Ngay khi dừng lại, ông thở ra một hơi dài nhẹ nhõm và đi khóa cửa phòng lại. Ông cho biết: – Chú cứ lo cháu gặp chuyên gì đó, Buck. Cháu biến mất lâu thế mà. Dybbuk nhún vai nói: – Mấy chuyện như thế này cần phải bình tĩnh. Bình tĩnh thì cần thời gian. Đó là lý do tại sao người ta hay gắn hình ảnh các siêu trộm với loài mèo thay vì loài chó. Ít nhất cháu nghĩ vậy. Rồi cậu quăng mình xuống giường kế bên cây gậy chỉ huy và đưa tay vuốt một lọn tóc dài ra khỏi mắt. Trong bộ quần jean, áo thun và giày đi xe mô tô của mình, nhìn cậu giống một ngôi sao nhạc rock trẻ tuổi hơn là một siêu trộm. Brad, người mà hiện giờ lòng ngưỡng mộ đối với thằng bạn học đã không còn bút mực nào tả nổi, nói: – Chắc cậu đói lắm. Dybbuk xém nữa thì nói cậu chẳng đói bụng gì vì đã tự phục vụ bản thân một bữa ăn sáng thịnh soạn bên trong can nước của Tướng Grant, nhưng đã ngừng lại kịp lúc. Cậu chỉ nói: – Tớ hào hứng đến quên cả đói ấy chứ. Hề hề, dzụ này đúng là vui. Rồi cậu và Brad hí hửng đập tay nhau cái bốp để thể hiện sự đồng tình. Nhặt cái gậy lên và cầm nó trên tay một cách tôn kính, ông Blennerhassit nói: – Không thể tin được chú thật sự đang cầm nó. Cứ y như chú đang cầm cả lịch sử trên tay ấy. Dybbuk, người mà hứng thú với lịch sử chỉ giới hạn ở những bộ phim chiến tranh, mỉm cười một cách gượng gạo. Đang chờ ông Blennerhassit chuyển sang phần thú vị hơn của cuộc mạo hiềm lần này, cậu chỉ gật gù cho có lệ: – Ờ, chắc vậy. – Nói cháu đừng cười, nhưng bỗng chú hơi sợ mở nó ra đó. Đúng là ông Blennerhassit đang khẽ run lên vì lo lắng. Mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán ông. Cắn môi, ông nhăn mặt nói: – Lỡ bên trong không có gì thì sao. Dybbuk giục: – Chỉ có một cách để biết. Thôi nào, chú Blennerhassit, chú mở nó ra đi. Chú đang làm cháu và Brad chết vì tò mò đấy. Harry Blennerhassit ấn vào những hột kim cương và hình đại bàng bằng vàng ròng trên cây gậy chỉ huy theo một thứ tự được Futterneid mô tả trong bản thiết kế gốc. Ngay khi thứ tự đó được hoàn chỉnh, một tiếng “tách” nhỏ vang lên, và một đầu gậy - mô tả hình một con đại bàng bằng kim cương đang quắp chữ thập ngoặc tượng trưng cho Đức Quốc Xã - nhẹ nhàng bật mở. – Tuyệt quá. Dybbuk trầm trồ, rồi cậu nhảy ra khỏi giường, hào hứng chờ đón những viên kim cương túa ra khi ông Blennerhassit dốc ngược cây gậy lên trên tấm trải giường. Nụ cười của họ chợt tắt trên khuôn mặt khi, từ bên trong cây gậy dài 50 phân, không có gì rớt ra. Không kim cương, thậm chí một đồng xu vàng cũng không. Ông Blennerhassit giơ cây gậy lên ngang mắt như một ống kính viễn vọng, và lo lắng liếc nhìn vào bên trong. Những lời ông nói tiếp theo tạm ngưng lại sự thất vọng tràn trề của họ. – Chờ đã. Có cái gì ở trong này. Nhìn giống như những tờ giấy cuộn lại. Móc những tờ giấy ra khỏi cây gậy, ông cẩn thận mở chúng ra. Rồi ông thở gấp một tiếng lớn. Dybbuk rên rỉ: – Đừng nói với cháu là cháu vừa ăn trộm ống đựng poster của Goering nhé. Harry Blennerhassit bật cười. – Trên thực tế, Buck à, chú nghĩ đó chính xác là cái cháu đã trộm được. Ngoại trừ việc chúng không phải là poster. Chúng là hoạt họa. Brad chau mày: – Hoạt họa hả ba? Sao nhìn không giống mấy cái hoạt họa con vẫn coi vậy? Đó là sự thật. Có hình vẽ trên những tờ giấy dày cộm, cũ kỹ - những hình vẽ giống như cảnh lấy từ Kinh Thánh. Cười ngoác tận mang tai, cha Brad trả lời: – Con lầm rồi. Đối với con, hoạt họa chỉ là mấy thứ giải trí vớ vẩn trên tivi thôi. Dybbuk thừa nhận: – Nhưng cháu cũng nghĩ vậy. Ông Blennerhassit giải thích: – Trên thực tế, hoạt họa là tên gọi phù hợp cho những hình vẽ được sử dụng như một thiết kế cho một bức tranh. Hermann Goering nổi tiếng là một nhà sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật. Tuy chú không phải là chuyên gia, nhưng những bức vẽ này hình như thuộc về những họa sĩ lâu đời. Bức này nhìn giống của Leonardo da Vinci. Còn bức này của Michelangelo. Bức này cũng vậy. Và bức này có thể là của Raphael. Bức này thì chắc lại của da Vinci. Chú đoán những bức vẽ này được Goering cất giữ để lưu lại một phần phong cách sống của gã sau chiến tranh. Chỉ một trong số những bức vẽ này cúng đáng giá ít nhất 10 hay 15 triệu đô. Và chúng ta có tất cả sáu bức. Khoan, chờ đã. Năm thôi. Bức thứ sáu nhìn không giống những bức kia chút nào. Chú không chắc nó là gì. Nhìn nó có vẻ mới hơn. Mà, cũng không quan trọng. Với tư cách một nhà sưu tầm, chú có thể cam đoan năm bức vẽ kia sẽ mang về cho chúng ta ít nhất 75 triệu đô. Lại vỗ cái bộp vào bàn tay xòe ra của Brad, Dybbuk nói: – Tuyệt! Tớ luôn thích hoạt họa. Brad gật gù: – Tớ cũng vậy. Thế giờ chúng ta làm gì đây ba? – Chúng ta sẽ về Palm Springs. Ngay khi về đến nhà, ba sẽ gọi điện cho một bảo tàng nào đó có tiếng một chút, nhiều tiền một chút, để xem họ có hứng thú mua không. Và nếu họ không muốn mua, chúng ta sẽ thử sức với các nhà đấu giá. Rồi gật đầu một cách quả quyết, ông tuyên bố: – Cứ tin lời ta đi, các cậu bé. Sẽ không thiếu người mua đâu. Trên khắp thế giới, người ta thậm chí còn giết nhau chỉ vì một trong số những bức tranh này đấy. Chương 2 Tiệc sinh nhật John và Phihppa Gaunt đang chuẩn bị đón mừng sinh nhật đầu tiên của chúng từ khi trở thành djinn. Đó là phong tục của cộng đồng djinn: rằng tất cả các sinh nhật trước đều không tính, và sinh nhật đầu tiên thật sự của một djinn chỉ diễn ra vào đúng ngày sinh nhật tiếp theo trên lịch sau khi họ đã nhổ răng khôn và chính thức tiếp nhận sức mạnh djinn vào người. John trố mắt hỏi người mẹ djinn của mình: – Vậy có nghĩa là con mới chỉ một tuổi hả mẹ? Bà Gaunt mỉm cười: – Đúng thế, con trai. Mặt John trắng bệch. – Mẹ đùa hoài. Philippa thì thắc mắc chuyện khác: – Vậy là chỉ có một cây đèn cầy trên bánh sinh nhật của tụi con thôi hả mẹ? – Chính xác. À mà hai đứa có biết cái phong tục đốt đèn cầy - đốt lửa - trên bánh kem ấy cũng là do con người vay mượn từ djinn chúng ta không nhỉ? Nhưng John không dễ dàng gì bị đánh lạc hướng. Cậu rên rỉ trong giận dữ: – Thật là bất công! Và con sẽ chết vì xấu hổ mất Mẹ cứ nghĩ xem, bọn bạn con đến dự sinh nhật mà trông thấy có mỗi một cây đèn cầy, thế nào tụi nó cũng lăn ra cười cho coi. Bà Gaunt trấn an: – Ô, mẹ chắc không có chuyện đó đâu, con trai. Nhất là khi chỉ có djinn được mời thôi. Mẹ rất tiếc, nhưng đó là truyền thống không thể phá. Dù rất muốn mời những đứa bạn loài người của chúng đến dự sinh nhật, cặp sinh đôi có thể thấy rõ bà Gaunt đã có quyết định khác. Và hai đứa cũng không nghĩ tranh cãi với bà sẽ được gì. Từ sau khi trở về từ Babylon, bà Gaunt bắt đầu trở nên xa lánh và ít còn dễ chịu mỗi khi bất đồng quan điểm với hai đứa con của bà. Hai đứa đến giờ vẫn chưa biết được rằng, chẳng bao lâu nữa thôi, người mẹ yêu dấu của chúng sẽ rời xa chúng vĩnh viễn để trở thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo. Bà nói tiếp: – Mà cũng chẳng có nhiều djinn đến dự lắm đâu, yên tâm. Năm nay, sinh nhật của hai đứa trùng với lễ Samum của djinn, cho nên hầu hết djinn ở New York đều đi du lịch cả. Rồi khẽ nhún vai, bà nói: – Tuy là hơi tiếc, nhưng chúng ta không thể làm khác được. Truyền thống đã quy định rõ phải tổ chức sinh nhật djinn đầu tiên vào đúng ngày sinh của hai con mà. Philippa hỏi lại: – Samum? Là lễ gì vậy mẹ? Bà Gaunt giải thích: – Dịch chính xác thì nó có nghĩa là “khói không lửa”. Nghĩa là việc xảy ra trong một phép hóa thể. Samum là ngày djinn chúng ta ăn mừng việc là djinn. John thắc mắc: – Nhưng tụi con có quen đứa trẻ djinn nào đâu. Ngoại trừ Dybbuk. Philippa nói thêm vào: – Và con bé Lilith de Ghulle khủng khiếp. Con sẽ chẳng đời nào mời nó đến dự sinh nhật. Bà Gaunt cho biết: – À, thật ra là mẹ đã mời vài bạn rồi. Dĩ nhiên dịp này hầu hết những đứa trẻ djinn đều đi du lịch với cha mẹ. Nhưng cũng có vài bạn nói sẽ đến. John nghi ngờ hỏi: – Vài bạn? “Vài” là bao nhiêu mới được? Bà Gaunt trả lòi: – Bốn người. John nhận xét: – Nghe giống như hẹn đánh bài hơn là dự sinh nhật á. Bà Gaunt cười: – Nó sẽ chẳng là gì, trừ khi bây giờ chúng ta đi mua sắm chút đồ cho nó. Họ đi bộ qua vài dãy nhà để đến một siêu thị nhỏ trên Đại lộ Số 3, nơi bà Gaunt mua đủ đồ tiêu dùng và một tờ báo mới. Dòng tiêu đề to đùng trên trang đầu tờ báo cho biết lại có thêm một văn phòng nha sĩ nữa ở Manhattan - cái thứ mười trong tháng này - bị trộm viếng thăm. Bước nhanh vào trong siêu thị, John và Philippa cố lờ đi người đàn ông vô gia cư ngồi ngay lối vào đang giơ một cái ly giấy trống rỗng trên bàn tay nhem nhuốc của mình và hỏi xin họ ít tiền lẻ. Trước sự ngạc nhiên của hai đứa trẻ - đó là chưa kể đến sự ngạc nhiên của chính người đàn ông - bà Gaunt dừng lại, mở bóp, rút ra một tờ 50 đô, gấp nó lại, và nhét vào cái ly. Hơn cả vui sướng, người đàn ông vội đứng dậy, gỡ cái mũ bóng chày nhàu nát ra khỏi đầu, và cúi đầu cảm ơn bà lia lịa. Bên trong siêu thị, cặp sinh đôi nhìn mẹ với ánh mắt vô cùng ngạc nhiên. Có thể trước kia chúng chưa từng đế ý mỗi khi mẹ cho tiền những người vô gia cư, nhưng bây giờ bảo chúng không để ý mới là lạ đó. 50 đô chứ đâu có ít. Lắc đầu liên tục như vẫn không tin vào mắt mình John nói: – 50 đô. Mẹ cho lộn rồi. Chắc mẹ chỉ định cho 5 đô phải không? – Không, con trai. Ngay từ đầu mẹ đã muốn cho ông ta 50 đô. – Nhưng đến 50 đô đó mẹ. Ông ta sẽ làm gì với 50 đô chứ? Ý con là, ông ta có thể mua nhiều thứ lắm. Bà Gaunt gật đầu: – Thì chính xác mẹ cho tiền để ông ta thích gì thì mua mà, con trai. – Mẹ biết con muốn nói gì mà. Bộ lúc nào mẹ cũng cho những người vô gia cư 50 đô sao? Mẹ cậu cười thật nhẹ: – Có lẽ. Trước đây mẹ cũng từng vô gia cư mà. Mẹ biết cuộc sống trên đường phố khổ như thế nào, con ạ. Nhìn bà Layla Gaunt hiện giờ với áo choàng lông thú, túi xách da đà điểu, và đôi giày hàng hiệu Manitas Del Plata, chẳng ai tin được điều đó, huống hồ hai đứa con của bà. Bà Gaunt toát ra vẻ sang trọng, quý phái, y như cách một chiếc kẹo dẻo mềm làm bằng sôcôla toát ra hương sôcôla. Tuy nhiên, Philippa bỗng nhớ ra một điều mà cậu Nimrod từng nói về mẹ cô. – Cậu Nimrod có nói trước khi gặp ba, mẹ sống vô gia cư. Đó là sự thật hả mẹ? – Đó là sự thật. Và sau khi rời siêu thị, bà Gaunt kể cho hai đứa con câu chuyện đời bà. Bà hỏi: – Có bao giờ hai đứa tự hỏi tại sao tất cả djinn đều giàu có chưa? Philippa nhún vai: – Làm sao djinn có thể nghèo chứ? Nếu mẹ có sức mạnh để ban điều ước hoặc những việc tương tự, con không nghĩ mẹ lại phải sống nhờ vào tiền trợ cấp xã hội. John nói thêm: – Trừ khi mẹ là một djinn ngoài vòng pháp luật. Người buộc phải sống trong Ngôi nhà Kafur ở Cairo, nơi mà sức mạnh djinn bị cấm sử dụng hoàn toàn. Bà Gaunt cho biết: – Nhưng sự thật có những djinn gần như không có chút của cải nào, các con ạ. Mẹ đang nói đến trường phái djinn Ẩn Sĩ[6]. Tiêu chí của những djinn thuộc trường phái này là bắt chước cuộc sống của thiên thần và các vị thánh, một cuộc sống không sở hữu bất kỳ của cải nào. Đã có thời gian mẹ là một Ẩn Sĩ. Và con nghĩ đúng đấy, Philippa: mẹ đã gặp cha con như vậy. Cha con nghĩ mẹ chỉ là một trong vô số người vô gia cư ở New York, nhưng ông vẫn cố giúp mẹ. Và cũng chính bởi thế, mẹ đã yêu và cưới ông. Cha con có thể là một người nhỏ bé, nhưng ông có một linh hồn vĩ đại gấp vạn lần. John hỏi: – Vậy có nghĩa trong số những người vô gia cư ở New York, có những người thật sự là djinn hả mẹ? – Không chỉ ở New York đâu. London. Calcutta. Cairo. Bất cứ đâu. Và không chỉ có djinn chọn lối sống như vậy. Còn có thiên thần nữa. “Hãy để tình yêu nhân loại được tiếp tục, và đừng quên đối xử tốt với người lạ, vì sẽ có khi ta đối xử tốt với thiên thần mà không biết”. Đó là triết lý sống của tất cả các Ẩn Sĩ. Tất cả những gì họ tìm kiếm là mang đến sự may mắn cho những mundane thật sự xứng đáng. Những mundane đã giúp đỡ họ, mà không hề biết đến bản chất thực sự của người họ đang giúp. Philippa gật gù: – À, ra đó là lý do mẹ cho người đàn ông vừa rồi đến 50 đô. Vì ông ta có thể là djinn. Bà Gaunt chỉnh lại: – Vì ông ta có thể là một thiên thần, Philippa. Nói không phải khoe, nhưng mẹ luôn biết được người đứng cạnh mình là djinn hay không. Nhưng thiên thần thì khác. Họ mạnh hơn chúng ta, và khả năng ngụy trang của họ cũng tốt hơn nhiều. Trên thực tế, họ hầu như có thể làm bất cứ chuyện gì họ nghĩ tới. John nhận xét: – Nghe có vẻ rất cao thượng, mẹ nhỉ. Việc làm một Ẩn Sĩ ấy. Mẹ cậu nói: – Ừ, có thể cho là vậy. Nhưng việc đó cũng có nguy hiểm của nó. Đó là lý do tại sao mẹ muốn hai con hứa với mẹ là sẽ không bao giờ trở thành Ẩn Sĩ. Ít nhất là đến khi hai con đủ lớn. Không phải lúc nào mẹ cũng ở bên cạnh bảo vệ hai con được. Trong suy nghĩ của cặp sinh đôi, mẹ chúng vừa nói một điều thật kỳ lạ. Chúng dường như không bao giờ có thể nghĩ đến một cuộc sống không có bà bên cạnh. Nhưng dù gì thì hai anh em cũng hứa với bà sẽ không trở thành một Ẩn Sĩ trước khi cùng về nhà. Sau khi đã xách đồ vừa mua xuống bếp, Layla tuyên bố bà có một thứ quan trọng cần cho cặp sinh đôi xem. Bà bảo: – Mới nãy, khi nhắc tới linh hồn của cha các con, mẹ nhớ đến một chuyện: sinh nhật djinn đầu tiên là cơ hội tốt nhất để hai đứa làm quen với gương linh hồn của mình. Philippa ngơ ngác hỏi: – Gương linh hồn là gì cơ? – Gương soi lòng. Chẳng lẽ cậu Nimrod chưa nói gì với con sao? – Chưa ạ. – Vậy thì đi với mẹ. Sẽ dễ hiểu hơn nếu hai đứa tận mắt thấy nó. Rồi bà Gaunt dẫn cặp sinh đôi lên tầng gác mái, nơi mà trước đây chúng luôn bị cấm cửa. Nhìn mẹ kéo cái cầu thang dẫn lên tầng gác mái xuống, Philippa thắc mắc: – Mẹ luôn bảo có dơi trên đó mà. Con ghét dơi lắm. Bà Gaunt cười: – Cho nên mẹ mới nói thế. Để con không bao giờ nghĩ đến chuyện lên trên này. Họ bước lên cầu thang. Bà Gaunt đẩy cánh cửa sập lên và với tay tìm công tắc điện. Tìm thấy nó, bà bật sáng một cái bóng đèn mờ mờ trên gác, trước khi bước lên gác và đứng lại. Theo sau bà, cặp sinh đôi bỗng cảm thấy hơi lo lo, vì chúng chợt nhận ra mình sắp sửa nhìn thấy một thứ kỳ lạ gì đó mà cả hai chưa bao giờ thấy trước đây. Khi đã yên vị trên gác mái, cặp sinh đôi đưa mắt nhìn xung quanh. Những thùng carton vô danh nằm rải rác trên sàn nhà làm bằng gỗ cứng. Nhưng không có bụi. Không mạng nhện. Và chắc chắn là không có dơi. Chỉ có mùi băng phiến khá nồng mà John lập tức nhắc đến khi ngửi thấy. Bà Gaunt cho biết: – Dơi ghét băng phiến. Mái nhà trông như mới được sửa sang hoàn chỉnh. Có một cửa sổ trên mái, nhưng hôm nay là một ngày mây đen phủ đầy trời, nên cả cái gác mái chìm trong bóng tối. Bất chấp điều đó, John vẫn nhìn thấy một vết nứt trên tường. Thậm chí cậu còn nhận ra nó. John thốt lên: – Nó là cái vết nứt trên đầu giường con. Cái vết nứt xuất hiện ngay trước khi tụi con nhổ răng khôn ấy. Ra là nó chạy lên đến tận trên này. Mẹ cậu gợi ý: – Mẹ nghĩ con nên đi theo nó, John à. Vết nứt dẫn hai đứa trẻ đến phía sau gác mái, và, ở đằng sau một bể chứa nước lạnh, chúng tìm thấy một cặp giá vẽ cũ kỹ phủ kín dưới lớp vải chắn bụi. Mẹ chúng bảo: – Các con sẽ tìm thấy điều mình đang tìm kiếm bên dưới lớp vải ấy. John nắm lấy lớp vải trên một cái giá vẽ, trong khi Philippa nắm lấy lớp vải trên cái giá còn lại. Nhìn thấy sự ngần ngừ của hai đứa con, bà Gaunt khích lệ: – Mở ra đi chứ, John, Philippa. Hai đứa còn chờ gì nữa? John thú nhận: – Tự nhiên con thấy sợ phải mở nó ra. Philippa gật đầu: – Con cũng vậy. Nhìn một vòng quanh gác mái, bà Gaunt nói: – Được rồi. Chắc là tại trong đây hơi tối. Rồi bà thầm thì cái từ dùng để tập trung sức mạnh djinn của mình, từ NEPHELOKOKKYGIA. Nó thắp sáng cả khu gác mái như một ngày mùa hè, và lớp vải chắn tuột khỏi những cái giá, làm lộ ra hai cái gương. Đó là những cái gương có hình thù kỳ lạ, làm bằng kim loại. Chúng có bề mặt gương lồi, và phía sau lưng được trang trí bởi những họa tiết phức tạp. Điều kỳ lạ nhất vè hai tấm gương này là, ánh sáng xuyên qua khung cửa sổ và phản chiếu trên mặt gương phía trước cho thấy hình ảnh dạ quang của lớp họa tiết sau lưng gương, chứ hoàn toàn không có hình ảnh của những thứ ở trước gương. Đứng ngay phía trước một cái gương và nhìn thẳng vào nó một lát, John thắc mắc: – Con không hiểu. Hoặc con là ma cà rồng, hoặc con không có hình ảnh phản chiếu, hoặc phải có một mánh lới soi gương nào đó ở đây. Mẹ cậu bật cười: – Đừng nhìn phía trước gương, cậu ngốc ạ. Nó sẽ không cho con thấy gì đâu. Rồi vẫy tay theo một khoanh tròn, bà hướng dẫn: – Đi vòng ra sau lưng ấy. Đó mới là đầu hoạt động của gương linh hồn. Với trái tim đánh lô tô trong lồng ngực vì lo lắng, cặp sinh đôi bước ra đằng sau hai tấm gương kim loại kỳ lạ mà từ chúng, một hình ảnh dạ quang lung linh hiện ra, như hình ảnh phản chiếu của một nơi nào đó chứ không phải của một căn gác mái trong một ngôi nhà cổ xây bằng đá cát kết nâu ở New York. Và trong khi cặp sinh đôi dán mắt vào những hình ảnh trong gương như bị thôi miên - vì đó chính là linh hồn của chúng - bà Gaunt bắt đầu giải thích bằng những từ ngữ và khái niệm mà chúng không hoàn toàn hiểu rõ: – Tâm linh và vật chất, thể xác và linh hồn, da thịt và tinh thần - nó chỉ được đưa cho djinn để lĩnh hội bí ẩn của nơi một thứ kết thúc và một thứ khác bắt đầu, và để nhận ra sự vô lý ngớ ngẩn được phát ngôn bởi những linh mục chánh xứ[7], những kẻ tự cao tự đại và những nhà tâm lý học. Để thấy suối nguồn sự sống hiện ra trước mặt con, các con của ta! Hãy nghĩ đến bao nhiêu mundane đã mơ ước được nhìn thấu vào trong họ và thật sự thấu hiểu họ là ai, họ là cái gì. Ở một mặt gương là một thế giới không có các con trong đó, vì tất cả da thịt rồi sẽ biến mất. Và ở mặt còn lại là linh hồn ẩn nấp trong bóng tối. Nhưng chỉ có các con nhìn thấy nó. Không ai ngoài các con nên đặt ánh mắt vào nó, vì chỉ các con có thể ảnh hưởng đến hình dạng của nó. Đó là lý do tại sao nó ở trên này, được giấu đi khỏi cả thế giới. Gương linh hồn là một vật bí mật, và cực kỳ riêng tư đối với một djinn. Rồi bà im lặng trong mấy giây, để hai đứa trẻ có thể im lặng với suy nghĩ trong đầu chúng. Philippa thầm thì: – Thật kỳ lạ. Cô chỉ mới nửa nhận ra, nửa không nhận ra cái mà cô hiểu được là chính bản thân mình, vì dường như cái hình ảnh đầy màu sắc tươi sáng trong gương luôn chuyển đổi không ngừng - làm nó càng mơ hồ và bí ẩn hơn. Trong giây trước, nó là một thứ, thế mà chỉ trong giây tiếp theo, nó đã là một thứ hoàn toàn khác. Tuy nhiên, nó luôn là một thứ dễ nhìn, và có phần nào đó giống như cái được gọi là phân dạng fractal mà cô đã có lần nhìn thấy trên máy tính, một dạng mô hình biến hình sẽ tự động sản sinh một mô hình biến hình khác theo thời gian. John cũng đang suy nghĩ y chang em gái cậu. Tuy nhiên, trong một giây, cậu bỗng nghĩ tới 50 đô mà mẹ cậu đã cho người đàn ông vô gia cư. Sâu thẳm trong lòng, cậu nhận ra lòng hảo tâm của mẹ làm cậu hơi phật ý. Cậu là con bà, đáng lẽ cậu xứng đáng nhận 50 đô ấy hơn là một người không quen biết chứ. Ngay khi suy nghĩ ấy xuất hiện trong đầu John, một thứ gì đó đen tối và không lấy gì làm dễ chịu bỗng hiện ra trên tấm gương. Nó nhỏ xíu thôi, nhưng vẫn dễ nhận ra. Như thể suy nghĩ bủn xỉn ấy ngay lập tức hiện ra như một đốm mực đen trên linh hồn mà trước đó còn tinh khiết, không chút tì vết của cậu. Và nó làm cậu hơi hoảng sợ. Chỉ một suy nghĩ đã thế, vậy linh hồn cậu sẽ trông như thế nào nếu cậu làm một điều gì đó thật sự xấu? John thở hắt ra một tiếng và nhận xét: – Thật đáng kinh ngạc. Bà Gaunt nói: – Bất cứ chuyện gì xảy ra với các con, bất cứ chuyện gì các con làm, các con sẽ thấy nó hiện ra ở đây, trong hình ảnh linh hồn của các con. Hãy lưu ý đến điều đó, vì trong tất cả mọi chuyện các con làm, ngay cả người tốt nhất trong chúng ta cũng có cả thiên đường và địa ngục bên trong. Và đây sẽ luôn là nơi các con học được bài học đó. * * * Thay vì bốn, chỉ có ba đứa trẻ djinn đến dự sinh nhật của cặp sinh đôi. Dybbuk không thấy xuất hiện, mặc dù mẹ cậu, bác sĩ Jenny Sachertorte, nói cậu sẽ đến. Nhưng Philippa không mấy ngạc nhiên trước hành động có vẻ quá thô lỗ đó. Qua hai lần gặp trước, cậu vốn chẳng để lại cho cô ấn tượng đẹp đẽ gì. John thì hơi thất vọng khi không được gặp cậu bạn quậy phá. Tuy nhiên, sự thất vọng của cậu nhanh chóng tan biến trước sự hiện diện của Agatha Daenion, người gây ấn tượng với cậu cứ y như ba điều ước gộp lại thành một. Hai đứa trẻ djinn còn lại là Jonathan Munnay và Uma Karuna Ayer - cả hai đều lớn hơn, mạnh hơn, và ít bị ảnh hường bởi cái lạnh hơn John và Philippa. Trong suốt bữa tiệc sinh nhật “lửa” theo đúng truyền thống djinn với tôm panđan xốt rượu hạt hồi sampuca, bò sốt phủ tiêu, bánh kếp caramen với nước cam, và bánh kem, ba vị khách trẻ tuổi của cặp sinh đôi tự giới thiệu về bản thân, và cho biết mỗi người dự định sẽ giúp đỡ mundane theo cách riêng nào. Agatha nói: – Mình sẽ làm một chuyên gia tư vấn điều ước. Mình muốn giúp mundane tránh lãng phí ba điều ước. Theo “Những quy luật Baghdad”, những djinn ban điều ước bị cấm gợi ý cho mundane nên sử dụng những điều ước đó như thế nào. Nhưng nếu là một djinn ngoài cuộc như mình thì sẽ không sao. Như vậy, một djinn tốt có thể đưa danh thiếp của mình cho bất cứ mundane nào may mắn được ban ba điều ước. Và mình nghĩ vị djinn đó sẽ cảm thấy thoải mái hơn nhiều nếu ba điều ước của mình được dùng cho những việc xứng đáng. Vì thật tồi tệ khi buộc phải thực hiện điều ước của ai đó dù biết rõ nó là một điều xấu xa. Dù Agatha nói gì John cũng gật đầu lia lịa. Cậu phải công nhận lập luận của cô rất đúng. Tuy kinh nghiệm ban điều ước của cậu không nhiều, cậu vẫn không thể nào quên được cảm giác tồi tệ dày xéo trong lòng khi cậu buộc phải biến Finlay Macreeby thành một con chim ưng. Liếc nhìn anh trai, Philippa mỉm cười. Không phản đối gì chuyện John xem ra hơi bị thích Agatha, cô chỉ ước gì ông anh ngố tồ của mình kín đáo một chút trong việc thể hiện tình cảm ấy. Bản thân mình, cô nghĩ thật sự không cần thiết phải có một chuyên viên tư vấn điều ước nếu như mundane được rèn luyện ngữ pháp thật đàng hoàng ở trường để có thể phát ngôn chính xác những gì họ muốn nói. Nhưng dù sao Agatha cũng là khách, và cô không muốn làm một người chủ nhà thô lỗ, nên Philippa quyết định giữ im lặng, không nhận xét gì. Jonathan Munnay cho biết anh cũng có chung hướng suy nghĩ với Agatha, và anh dự định sẽ trở thành một chuyên gia tâm thần học. Anh giải thích: – Anh nghĩ anh có thể lắng nghe rắc rối của người khác, rồi sử dụng sức mạnh djinn của anh để giải quyết nó. Bí mật giải quyết. Như vậy, nếu có ai đến gặp anh với tâm trạng khốn khổ hay tuyệt vọng, anh có thể âm thầm giúp họ vui vẻ hơn. Cảm thấy không tin lắm, Philippa hỏi: – Ví dụ như? – Anh cũng không biết. Tất cả những gì anh biết hiện giờ là, có thêm một ít may mắn bao giờ cũng tốt đẹp hơn. Uma Ayer gật đầu với Jonathan: – Ờ, mình cũng nghĩ vậy. Rồi hạ thấp giọng, chị cho biết: – Đó là lý do tại sao mình quyết định sẽ từ bỏ bộ tộc, tài sản và của cải của mình để trở thành một Ẩn Sĩ. Bắt đầu từ ngày mai, mình sẽ gia nhập hàng ngũ những người vô gia cư ở New York, và mình sẽ giúp đỡ những ai thật sự xứng đáng có được ba điều ước. Bí mật giúp đỡ như cậu nói, Jonathan. Mẹ mình không biết việc này. Vì thế, mình muốn tất cả các cậu hứa sẽ giữ bí mật giùm mình. Tất cả những thổ lộ mang tính tương lai này làm cặp sinh đôi bỗng thấy hơi xấu hổ vì đã tổ chức sinh nhật. Trước buổi nói chuyện, John và Philippa đã dự tính sẽ đem khoe với bạn cái máy tính xách tay mới cáu của chúng - quà sinh nhật của cha - nhưng đến giờ, nó bỗng có vẻ gì đó quá tầm thường. Không ai trong cặp sinh đôi muốn mình trớ nên nông cạn và ích kỷ trong cặp mắt nghiêm túc của những djinn trẻ khác. Và không hẹn mà gặp, chúng đồng loạt thở dài nhẹ nhõm khi buổi tiệc kết thúc và những vị khách của chúng ra về. John than thở: – Anh chẳng muốn sinh nhật như thế này chút nào. Mục tiêu chính của việc tổ chức sinh nhật là chúng ta được mọi người xúm xít vây quanh. Đó là ngày duy nhất trong năm mà chúng ta được phép ích kỷ một chút. Thế mà… anh cứ có cảm giác như nó không còn vì anh nữa, mà vì một cái gì khác. Philippa gật đầu: – Em cũng thấy vậy. Nhưng một lúc sau, cô nói thêm: – Dù sao, họ cũng làm em nhận ra, đúng là tốt nếu giúp được ai đó. Một người thật sự cần được giúp đỡ. John nhận xét: – Thời tiết mà lạnh như thế này thì có nghĩ đến chuyện đó cũng chả có ích gì đâu, Phil. Em biết mà, từ giờ cho đến khi là djinn trưởng thành, sức mạnh djinn của chúng ta chỉ xài được khi trời nóng. – Ờ, dĩ nhiên em biết điều đó chứ. Chỉ là, nói chuyện với các anh chị djinn đó xong, em nghĩ mình cần phải có một mục đích. Một nhiệm vụ. Và Philippa không biết rằng chẳng bao lâu nữa, cô và John sẽ lãnh một nhiệm vụ trên vai. * * * Là người tỉnh ngủ nhất nhà, John giật mình thức dậy với một cảm giác chắc chắn rằng có ai đó đang xâm nhập nhà cậu. Và cậu lập tức nghĩ đến ăn trộm, vì mới hôm trước, mẹ cậu có kể phòng khám trên Đại lộ Số 3 của ông “Mo” Larr, nha sĩ gia đình của nhà cậu, vừa bị trộm viếng thăm. Tuy không có gì bị mất cắp, nhưng tất cả hồ sơ bệnh án của bác sĩ Larr bị vứt lung tung khắp phòng. Lặng lẽ bò ra khỏi phòng và liếc mắt nhìn qua thành cầu thang, John trông thấy có ánh sáng di chuyển đằng sau cánh cửa thư viện. Nếu là một đêm mùa hè nóng bức và được vũ trang đầy đủ với sức mạnh djinn của mình, John sẽ tự mình giải quyết vị khách không mời mà đến này. Nhưng đêm nay lại là một đêm trời lạnh và, hoàn toàn không có chút sức mạnh nào, John không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đánh thức cha mẹ cậu. Cha cậu, ông Edward, là một người đàn ông nhỏ con, nhưng ông đã lấp đầy sự thiếu hụt về chiều cao của mình bằng một lòng dũng cảm phi thường. Ngay khi nghe John thông báo có trộm viếng nhà, ông lập tức phóng ra khỏi giường và móc cây gậy chiến của thổ dân Bắc Mỹ mà ông thủ sẵn dưới gầm giường lên, sẵn sàng tinh thần xông trận. Liếc nhìn cây gậy chiến với ánh mắt nghi ngờ, bà Gaunt hỏi chồng: – Thế anh định làm gì với cái này? Ông Gaunt tuyên bố: – Bảo vệ gia đình anh, dĩ nhiên rồi. Choàng cái áo khoác ngoài mặc ở nhà bằng lụa lên người và xỏ chân vào một đôi dép đi trong nhà cùng chất liệu, bà nhẹ nhàng khuyên: – Ed à, em nghĩ anh nên để em lo chuyện này thì hơn. Đây có thể không phải là một kẻ trộm bình thường. Có thể là một djinn tộc Ifrit, hoặc là chính Iblis, đến đây để trả đũa con chúng ta vì những gì chúng và em trai em đã làm với hắn ở Cairo mùa hè năm trước. Rồi không hề sợ hãi, bà bước thẳng xuống cầu thang oai phong như một nữ hoàng chiến binh vĩ đại. Ông Gaunt bỏ cây gậy chiến xuống với sự lưỡng lự thấy rõ. Ông biết Layla nói đúng, nhưng nó không có nghĩa ông thích chuyện đó. Lo lắng liếc nhìn xung quanh, ông hỏi John: – Phil đâu rồi con? John nói: – Nó còn ngủ. Cứ để mẹ lo chuyện đó đi cha. Nếu đó đúng là một djinn, một cây gậy chiến thổ dân sẽ không đủ để ngăn hắn đâu. Rồi cậu và cha mò xuống cầu thang theo sau bà Gaunt, vừa kịp lúc để thấy bà mở tung cánh cửa thư viện và bật đèn lên. Xém nữa John đã hét lên sợ hãi khi cậu trông thấy không phải một mà là hai kê xâm nhập. Vận áo sơ mi và quần dài cùng tông màu cam, bộ mặt đầy râu ria lởm chởm của hai kẻ trộm sơn vàng vằn vện như người hoang dã. Một tên đang giữ cái bóp da đà điểu của bà Gaunt, trong khi tên còn lại cầm một cái hộp tiền Tây Tạng cổ mà nếu không lầm, John luôn thấy nó nằm im trên bệ lò sưởi trong thư viện. Rồi cậu nghe mẹ nói từ trọng tâm của bà, và theo sau đó là một tiếng bùm lớn, vì sức mạnh djinn sử dụng khi đang giận dữ lúc nào cũng đi kèm với một tiếng động rõ rệt. Cùng lúc đó, cả John và cha bị lóa mắt trong tích tắc bởi một luồng sáng chói chang như ánh mặt trời và một đám mây khói mù mịt. Và khi họ đã có thể nhìn thấy rõ ràng, hai người đàn ông trong bộ đồ màu cam đã biến mất. Trên sàn ở nơi chúng vừa đứng trước đó là hai chai rượu vang đỏ. Bà Gaunt xoa tay phủi bụi mấy cái, trước khi nhặt hai chai rượu lên và đưa cho chồng. Bà nói: – Đây. Chút quà chuộc lỗi vì đã làm tổn thương danh dự đàn ông của anh. Liếc nhìn nhãn chai, ông Gaunt nói: – Coi như là có thay đổi từ việc biến người thành chó. Chúng ta có gì đây nhỉ? Một chai Chateau Lafite Rothschild năm 1966. Và một chai năm 1970. Lựa chọn tuyệt vời đấy. Nhưng sao lại có sự khác biệt về năm thế, Layla? Vợ ông điềm tĩnh trả lời: – Đó là năm sinh của hai vị khách bất ngờ này. Tiến sâu vào trong thư viện, John hỏi: – Họ tìm gì vậy mẹ? Vừa gỡ một cái nút chai rượu ra và rót cho mình một ly đầy, ông Gaunt vừa nói với vợ: – Anh cũng đang thắc mắc điều đó đây. Cái hộp này là món quà mà một vị Đạt Ma Tây Tạng đã tặng cho cha anh. Không trả lời liền, bà Gaunt lẳng lặng gỡ cái dây chuyền bằng vàng mà bà luôn đeo trên cổ ra, và dùng cái chìa khóa treo trên đó mở khóa cái hộp tiền Tây Tạng. Khi nắp hộp mở ra, bà cầm lên một cái túi nhỏ bằng nhung xanh và dốc những thứ bên trong lên lòng bàn tay. Trong một giây, John nghĩ sẽ thấy vài hột kim cương hoặc vài đồng tiền vàng. Nhưng thay vào đó, cậu trông thấy tám cái răng. Nhận ra chúng, cậu nói: – Đó là răng khôn của con và Phil. Ai lại cần chúng chứ? Mà những người vừa rồi là ai vậy mẹ? Họ có phải djinn không? Djinn tộc Ifrit? Bà Gaunt lắc đầu: – Không, họ là mundane. Liếc thấy nụ cười rất chi là nhẫn nại của chồng, bà vội sửa lại: – Xin lỗi. Ý em là, họ là con người. Ông Gaunt nói: – Không sao. Đừng lo cho anh, Layla. Anh biết anh là ai, và anh không xấu hổ gì về điều đó. Và để chứng minh mình vẫn hoàn toàn vui vẻ, ông Gaunt nhấp một ngụm rượu, sục nó quanh miệng, răng và lưỡi như người ta súc miệng, trước khi nuốt trọn một hơi và nhoẻn miệng cười: – Ồ, ngon. Ngon tuyệt. Rồi nhấp thêm mấy ngụm đầy nữa, ông thở dài một tiếng đầy hài lòng và nhận xét: – Thứ rượu này xâm nhập vào, lục soát vòm miệng, chiếm đoạt cả miệng, và cướp đi nụ vị giác. À, và còn ít vị thuốc lá tẩu, vị thuốc nổ Gêlinhit, vị của giày đế mèm cũ, và vị rượu lý đen phết mứt. Hay đó là vị của dụng cụ nạy cửa nhỉ? Để ông Gaunt lại với thi hứng rượu của mình, bà Gaunt bỏ những cái răng vào lại trong túi và nói với John: – Tất cả là lỗi của mẹ. Lẽ ra mẹ phải để chúng vào két sắt an toàn từ lâu. Ngay khi chúng được nhổ ra. Nếu chúng rơi vào tay người xấu, mẹ thật không dám nghĩ tới chuyện gì sẽ xảy ra. John hỏi: – Ví dụ như chuyện gì mới được? Bà Gaunt chỉ nói: – Chúng ta sẽ nói chuyện này vào sáng mai nhé, con trai. Rồi rút một cuốn sách khỏi kệ - cuốn Những chiến lược An toàn cho Tự do Tài chính - bà mở nó ra. John trố mắt nhìn khi phát hiện ra bên trong cuốn sách là một khoảng rỗng, chứa một cái chìa khóa lớn. Cái chìa khóa mà bà Gaunt sau đó dùng để mở cái két sắt của gia đình họ. Bản thân cái két sắt là một vật rất đẹp. To cỡ một bộ ti vi lớn, màu xanh lá và đen, khảm vàng, nó từng thuộc về hoàng đế Pháp Napoléon đệ Tam. Bà Gaunt đặt cái túi nhung xanh vào trong két, đóng sập cửa, và khóa nó lại. Ông Gaunt vừa thưởng thức xong ly rượu thứ hai, tuyên bố: – Chúng sẽ an toàn trong đó. Cả một đạo quân cũng không thể xâm nhập vào trong cái két này. Bà Gaunt chau mày: – Biết là vậy, nhưng em nghĩ đã đến lúc phải tăng cường thêm một số biện pháp an ninh cho ngôi nhà này. Những biện pháp đặc biệt. Những biện pháp chí mạng. Những biện pháp theo kiểu djinn. * * * Sáng sớm hôm sau, Philippa kiểm tra hiện trường vụ trộm trong khi John mô tả lại thật chi tiết chuyện gì đã xảy ra tối hôm trước. – Mẹ biến họ thành cái gì cơ? Chỉ vào hai chai rượu vang đỏ đặt trên bàn thư viện, John trả lời: – Hai chai rượu vang đỏ. Philippa hoảng hốt nói: – Nhưng một chai chỉ còn phân nửa. – À, cha đã uống hai ly từ chai đó. Khịt mũi hít thử cổ cái chai đã mở, Philippa nói: – Không thể tin được. John nhún vai: – Thì em biết cha chúng ta thích rượu vang cỡ nào mà. Philippa phản đối: – Đúng, nhưng không phải chai rượu nào cũng biết đi lại năm phút trước khi cha uống. Rồi lắc đầu, cô nhận xét: – Phải chi mẹ đừng nóng tính quá thì đỡ. Anh không nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta có thể tìm hiểu thêm về hai người đàn ông đó sao? Mà anh vừa nói họ mặc đồ màu cam hả? – Ừ. Nhìn kỳ lắm. Mà họ còn sơn vàng vằn vện trên trán và hai bên má nữa. Rồi chỉ xuống sàn, cậu nói thêm: – Và họ đến ngay chỗ em đang đứng lúc bị mẹ úm ba la biến. Philippa quỳ sát xuống đất và bắt đầu săm soi tấm thảm trải sàn. John thắc mắc: – Em đang làm gì vậy? – Trên tivi cảnh sát vẫn thường làm vậy mỗi khi xảy ra vụ án. Người ta gọi là lục soát hiện trường để tìm chứng cứ. – Chứng cứ? Ví dụ như… – Ví dụ như cái này. Vừa nói, Philippa vừa đứng dậy với một thứ gì đó nắm trong lòng bàn tay. Đó là một phiến đá nhỏ dẹp hình tròn với một cái móc gãy ở ngoài rìa, như thể nó từng được móc vào một cái vòng cổ nào đó. Phía trên phiến đá có sơn hình một con rắn màu cam, và kế bên là một thứ nhìn giống dấu chấm hỏi nhưng thiếu dấu chấm bên dưới. Philippa hỏi anh: – Anh có thấy cái này bao giờ chưa? – Chưa. – Vậy thì chắc chắn một trong hai vị khách không mời của chúng ta đã làm rơi nó. Đi thôi. Chúng ta nên cho mẹ xem nó. Bà Gaunt đang ở trên phòng thay đồ của mình. Lúc John và Philippa bước vào, bà đang đứng nhìn một cái bể cá bằng kính đầy nhóc những con cá nhiệt đới gớm ghiếc nhất mà chúng từng thấy. Trông thấy hai đứa con, bà vui vẻ gọi: – Ồ, hai đứa lên đúng lúc lắm. Hai đứa thấy cái này thế nào? Đây là một trong những biện pháp an ninh mới cho nhà ta. Cá piranha. Nó ăn tất cả mọi thứ đến gần. Một đàn cá này dư sức lóc thịt một con cừu trong vài phút. John chỉ có thể trố mắt nhìn những con cá mắt lồi trong bể mà không nói được gì. Mẹ cậu giới thiệu tiếp: – Cái bể này làm bằng kính chống đạn, dĩ nhiên rồi. Và mẹ đã đặt một chú trói buộc djinn lên nó, để không djinn nào có thể đụng đến nó, trừ ba mẹ con ta. Thiếu điều đổ mồ hôi hột, Philippa rụt rè hỏi: – Ừm, chính xác mấy con cá này sẽ bảo vệ chúng ta như thế nào vậy mẹ? Ý con là tụi nó ở trong đó, còn chúng ta ở ngoài này. Bà Gaunt bảo: – Con thử nhìn kỹ hơn xem. Dí sát mặt vào lớp kính, Philippa nhận ra bên trong cái bể cá piranha còn có một cái bể khác nhỏ hơn. Thoạt nhìn, cái bể thứ hai này không chứa gì ngoài không khí. Nhưng sau khi nhìn kỹ hơn, Philippa cho biết: – Có một cái chìa khóa trong đó. Bên trong cái bể nhỏ hơn. Bà Gaunt nói: – Đó là chìa khóa két sắt. Có một cánh cửa nhỏ dạng nút không khí trên thành bể để có thế cất và lấy cái chìa khóa ra mà không để nước tràn vào. John gãi đầu hỏi: – Con không hiểu. Sao phải cần đến một cái bể nhỏ chứ? Không ai điên đến mức thò tay vào cái bể lớn mà. – Không à? Bà Gaunt hỏi lại, trước khi xắn tay áo lên và thò tay vào bể cá. Trông thấy vẻ mặt lo lắng của hai đứa con, bà trấn an: – Không sao đâu. Chúng sẽ không tấn công mẹ. Và chúng cũng sẽ không tấn công hai con. Nhưng những con vật bên trong cái bể thứ hai lại là một chuyện khác. Chúng ta cần cẩn thận hơn với chúng. John lắc đầu nói: – Nhưng trong cái bể thứ hai đâu có con gì đâu. Thò tay vào trong nước, bà Gaunt gõ nhẹ một cái vào phía trên cái bể thứ hai. Ngay lập tức, Philippa không ngăn nổi tiếng thét kinh hoàng khi hai con nhện lớn nhoi lên tấn công tay bà. Bà Gaunt cho biết: – Phoneutria fera. Loài Nhện Lang thang Brazil. Chúng có những cái nang đủ sắc để đâm thủng móng tay. Chỉ cần nửa miligam nọc độc của chúng là đủ để giết chết một người, hoặc một djinn, cho nên hai đứa cần phải chắc chắn chúng đã ăn no khi nào cần lấy chìa khóa. John thắc mắc: – Nhưng rốt cuộc chuyện này là sao mới được? Tại sao chúng ta lại phải tốn công như thế chỉ đế bảo vệ mấy cái răng cũ chứ? Mẹ cậu mỉm cười: – Con có nghe cổ tích về tiên răng chưa, John? Nguồn gốc của câu chuyện đó là một tín ngưỡng cổ đại chịu ảnh hưởng của luật lệ và phép trói buộc djinn. Tất cả mọi thứ trên người một djinn - tóc, máu, hay móng tay, móng chân - luôn có liên hệ với djinn đó. Nhưng đặc biệt nhất là răng khôn của djinn. Chúng cần được canh giữ cẩn thận vì liên hệ của chúng với djinn kéo dài đến hết đời. Có được chúng trong tay, một người biết cách có thể làm một tấm bùa bảo hộ họ khỏi sức mạnh của djinn đó. Hoặc tệ hơn nữa, họ có thể dùng chúng để làm bùa trói buộc djinn đó phải phục tùng họ. Ngừng mấy giây để John và Philippa thấm được tầm quan trọng của những gì bà vừa nói, bà Gaunt giải thích tiếp: – Và đó là lý do tại sao mẹ cần phải sử dụng các biện pháp an ninh mạnh như thế này. Đế bảo vệ cả hai đứa. Trước đây, mẹ cứ nghĩ chỉ cần hệ thống CCTV và báo động là đã đủ an toàn. Nhưng sau những gì xảy ra tối hôm qua, mẹ mới thấy mình đã lầm như thế nào. Chúng ta không được phép chủ quan dù chỉ một giây. Đặc biệt là sau chuyện của Dybbuk. John ngạc nhiên hỏi lại: – Dybbuk bị gì sao mẹ? – Cậu ấy đã biến mất. Ngay sau khi cậu ấy vừa trở về sau chuyến tham quan chiến trường Cuộc Nội Chiến với gia đình một người bạn học. Đó là lý do tại sao Dybbuk không đến dự sinh nhật các con hôm bữa. John nói: – Nhưng thế nào cậu ấy chẳng xuất hiện lại. Mẹ biết rõ về Dybbuk. Bà Gaunt khẽ lắc đầu: – Mẹ e là mọi chuyện không đơn giản như thế đâu, John. Người ta đã tìm thấy xác hai mundane đi cùng Dybbuk trong chuyến tham quan vừa rồi, ông Blennerhassit và con trai ông, Brad, tại nhà riêng của họ ở Palm Springs. Với nguyên nhân tử vong không xác định được. Có vẻ như cảnh sát đang nóng lòng muốn nói chuyện với Dybbuk. John trố mắt: – Ý mẹ là cảnh sát nghi ngờ cậu ấy giết họ? Bà Gaunt chỉ nhún vai thay cho câu trả lời. John lắc đầu lia lịa: – Không thể nào! Dybbuk có thể là một đứa thô lỗ, không đáng tin, ranh ma, quỷ quyệt, và hay đánh lừa người khác, nhưng cậu ấy tuyệt đối không thể là một kẻ giết người. Philippa nhăn mặt hỏi: – Nhưng không phải cậu ấy đã biến một bạn học thành gián sao? John thanh minh: – Chỉ là trong một ngày thôi. Bà Gaunt trán an: – Hiện giờ cảnh sát chỉ muốn nói chuyện với Dybbuk thôi. Mẹ nghĩ họ chỉ muốn chắc chắn là cậu ấy vẫn an toàn, và có thể loại ra khỏi vòng nghi vấn. Vậy thôi. Rồi khẽ lắc đầu, bà thở dài: – Tội nghiệp Jenny Sachertorte. Chuyện xảy ra vói con gái đã làm chị ấy buồn lắm rồi, thế mà giờ lại đến lượt Dybbuk. Philippa ngạc nhiên: – Dybbuk có em gái à? Bà Gaunt cho biết: – Có chị gái. Nhưng cô bé ấy cũng đã biến mất. Chuyện xảy ra lâu lắm rồi. Nhưng một người mẹ không bao giờ có thể vượt qua được nỗi buồn mất con, Philippa à. Hôn nhân giữa chị ấy và anh Sachertorte rạn nứt cũng bởi vì thế. Philippa lo lắng hỏi: – Chuyện gì đã xảy ra với chị ấy? Mẹ cô trả lời: – Không ai biết được chính xác chuyện gì đã xảy ra. Bị nhốt bên trong một cái chai hay một cây đèn. Bị trói buộc bởi một djinn hay một mundane nào đó. Không ai có thể nói. Nhưng hai đứa nhớ đừng bao giờ hỏi Dybbuk hoặc mẹ cậu ấy về chuyện đó nhé. Cặp sinh đôi gật đầu. Sau vài giây im lặng suy nghĩ, Philippa nhận xét: – Mẹ có nghĩ chúng hơi bị trùng hợp quá không? Chuyện Dybbuk mất tích và chuyện có người đột nhập vào nhà để trộm răng khôn của tụi con ấy? Con đang nghĩ, hay là chúng có liên hệ với nhau. Bà Gaunt hỏi: – Có liên hệ? Liên hệ như thế nào mới được? Philippa nhấn mạnh: – Để trả lời câu hỏi đó, con cần biết rõ hơn về chuyện đã xảy ra ở Palm Springs. Và con cần có nhiều manh mối hơn là một chai rưỡi rượu vang đỏ. Mỉm cười bẽn lẽn, bà Gaunt thừa nhận: – Dĩ nhiên con nói đúng, Philippa. Mẹ hơi nóng tính quá. Tối qua mẹ đã giận điên lên được. Giận hai gã đàn ông đó vì dám đột nhập vào nhà chúng ta, và giận chính bản thân mẹ vì thái độ cư xử của mẹ với cha các con. Người đàn ông nào cũng có quyền được đứng ra bảo vệ ngôi nhà của mình mà không bị vợ can thiệp. Thái độ của mẹ có thể làm cha các con cảm thấy tự ái. Cho nên mẹ đã nghĩ hai chai rượu yêu thích sẽ là một lời xin lỗi xứng đáng cho cha các con. John mỉm cười: – Con nghĩ cách của mẹ thành công rồi đấy. Mới có hai ly mà ba đã vui ra mặt mà. Bà Gaunt nói: – Dù gì thì Philippa cũng nói đúng. Nếu chúng ta có thể tìm hiểu thêm về hai gã đàn ông đó thì vẫn tốt hơn. Đưa cái mề đay bằng đá cho mẹ, Philippa nói: – Có thể cái này sẽ hữu ích. Con tìm thấy nó trên sàn thư viện. Chắc là một trong hai tên trộm đã làm rớt nó khi bị mẹ hô biến thành rượu. Cẩn thận nghiên cứu tấm mề đay, bà Gaunt nhận xét: – Nhìn giống một con rắn. Một con hổ mang. Mẹ không biết nhiều hơn thế. Nhưng mẹ biết một người có thể. Anh Rakshasas. Không có ai biết nhiều về những thứ này bằng anh ấy. Philippa gợi ý: – Vậy thì có lẽ chúng ta nên gửi nó cho ông Rakshasas. Bằng bưu điện chẳng hạn. Bà Gaunt lắc đầu: – Không cần tốn sức như thế. Mẹ có thể gửi trực tiếp cho cậu Nimrod của các con. Bằng mail nội bộ djinn. John thắc mắc: – Là cái gì mới được? – Hai đứa nhìn nhé! Rồi bà Gaunt bỏ tấm mề đay bằng đá nhỏ nhắn vào miệng và, không có vẻ gì là khó khăn, nuốt ực nó. Trong một giây, John và Philippa quá kinh ngạc để có thể hó hé gì. Bà Gaunt giải thích: – Nimrod sẽ ợ nó ra trong chưa đầy một tiếng nữa. Dĩ nhiên cách này chỉ áp dụng được giữa những djinn có họ hàng gần với nhau. Và chỉ djinn trưởng thành mới làm được. Nhưng rõ ràng nó tiết kiệm thời gian và tiền tem thư. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng vô cùng hữu ích của nó lên việc kiềm chế sự thèm ăn. Ở New York, một djinn lại càng không bao giờ có thể gầy nổi. Chương 3 Răng và Móng Đã lâu không sử dụng mail nội bộ djinn với cậu Nimrod nên bà Gaunt đã quên mắt quy tắc xã giao thông thường là phải gọi điện cho cậu Nimrod. Nếu được cảnh báo trước, cậu Nimrod sẽ có thể tìm một chỗ nào kín đáo một chút để nhận mail mà không bị xấu hổ. Thời điểm đó, ông đang ung dung nằm chờ đánh bóng răng tại phòng nha sĩ quen thuộc của mình trên đường Wimpole ở London - một thời điểm không có gì là tệ hơn để nhận mail nội bộ djinn. Mandy Mandibular, nhân viên phụ trách vệ sinh răng miệng, chỉ vừa mới xong việc với cái máy cạo trắng răng bằng sóng siêu âm. Bỗng cô đột ngột bước lùi lại, tay run rẩy kéo khẩu trang che mặt ra. Có thể thấy rõ khuôn mặt xinh đẹp của cô đang trắng bệch vì quá sốc. Cậu Nimrod, vốn rất sợ nha sĩ từ sau lần nhổ răng khôn mấy thập kỷ trước - những cái chân răng cắm sâu đến nối nha sĩ của cậu lúc bấy giờ, bà Jorrid, phải nhờ đến một bệnh nhân khác trong phòng chờ, một người biểu diễn thể lực trong rạp xiếc tên Belzoni, kéo giùm cái kìm nhổ răng - lo lắng nhìn Mandy Mandibular và hỏi vội: – Gì vậy? Lỗ mọt trong răng? Răng mẻ? Răng hư? Gì mới được? Nuốt nước miếng một cách khó khăn, cô Mandy chỉ vào miệng cậu Nimrod và lắp bắp nói: – Có cái gì đó đang trồi ngược lên khí quản của anh. Giống như một món đồ. Cậu Nimrod ngồi dậy trên ghế, giật mảnh vải che đang đeo ra, rồi bắt đầu ho khan như thể đang mắc nghẹn. Vừa ho khùng khục, ông vừa cố gắng nói được hai câu: – Một món đồ? Ờ, đúng thật. Đến giờ, cậu Nimrod đã đoán được chuyện gì đang xảy ra, cũng như làm sao mà một món đồ - dù nó là gì đi nữa - có thể xuất hiện trong khí quản của ông. Trong một giây, ông thầm rủa bà chị Layla vì đã sử dụng mail nội bộ djinn mà không thèm báo trước cho ông lấy một tiếng. Nhưng cùng lúc, ông lại thấy vui vui vì quan hệ giữa hai người đã trở lại bình thường, đủ để Layla thấy có thể gửi đồ cho ông bằng cách này. Lại một giây nữa trôi qua, và rồi cậu Nimrod bụm tay lên miệng, phun một vật lên lòng bàn tay, và cẩn thận kiểm tra nó. Mandy Mandibular, người nãy giờ tưởng tượng đó là một sinh vật ngoài trái đất dang ký sinh trong người cậu Nimrod như vẫn thường thấy trong phim khoa học giả tướng, rụt rè hỏi: – Cái gì thế anh? – Có vẻ như là một tấm mề đay bằng đá. – Thật à? Nhưng làm sao nó lại ở trong cuống họng anh được? Mỉm cười, cậu Nimrod cố nghi ra một lời giải thích họp lý nhất đối với con người: – À, cái này à? Hồi còn nhỏ tôi đã vô tình nuốt phải nó. Chắc nó """