"Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Hạnh Phúc Không Đắt Như Bạn Nghĩ Tác giả: Tammy Stroebel Người dịch: Uông Xuân Vy - Trần Đăng Khoa Nhà Xuất Bản Phụ Nữ Năm xuất bản: 2015 Ebook: HockeyQ TVE4U “Bạn cần gì để hạnh phúc? Không nhiều như bạn nghĩ đâu. Hãy đọc quyển sách này và chuẩn bị cho sự thay đổi.” - CHRIS GUIEBEAU, tác giả quyển The $100 Startup HẠNH PHÚC KHÔNG ĐẮT NHƯ BẠN NGHĨ Làm Thế Nào Đơn Giản Hóa Cuộc Sống Của Bạn TAMMY STROBEL Dịch giả: Uông Xuân Vy - Trần Đăng Khoa NXB PHỤ NỮ HẠNH PHÚC KHÔNG ĐẮT NHƯ BẠN NGHĨ Làm Thế Nào Đơn Giản Hóa Cuộc Sống Của Bạn TAMMY STROBEL Đội ngũ thực hiện Uông Xuân Vy Trần Đăng Khoa Vi Thảo Nguyên Lê Ngọc Song Thu In lần thứ 1 TGM BOOKS NXB PHỤ NỮ MỤC LỤC HẠNH PHÚC KHÔNG ĐẮT NHƯ BẠN NGHĨ LỜI GIỚI THIỆU PHẦN 1 [NGHỊCH LÝ CỦA CỦA CẢI VẬT CHẤT] CHƯƠNG 1: Mua Sắm Không Mang Đến Hạnh Phúc CHƯƠNG 2: Những Thứ Bạn Sở Hữu Sở Hữu Bạn PHẦN 2 [ĐI TÌM HẠNH PHÚC BẰNG CÁCH SỐNG GIẢN ĐƠN] CHƯƠNG 3: Thay Đổi Mối Quan Hệ Giữa Bạn Và Của Cải Vật Chất CHƯƠNG 4: Sức Nặng Của Nợ Nần CHƯƠNG 5: Bán Đi Những Thứ Có Thể Bán, Cho Đi Những Thứ Còn Lại CHƯƠNG 6” Hạnh Phúc Của Ngôi Nhà Nhỏ CHƯƠNG 7 Thay Công Đổi Việc PHẦN 3 [MUA HẠNH PHÚC] CHƯƠNG 8 Thời Gian Là Món Tài Sản Duy Nhất Có Thực CHƯƠNG 9 Tiền Bạc So Với Trải Nghiệm CHƯƠNG 10 Quan Trọng Là Các Mối Quan Hệ, Chứ Không Phải Của Cải Vật Chất CHƯƠNG 11 Nghệ Thuật Xây Dựng Cộng Đồng CHƯƠNG 12 Sức Mạnh Của Những Niềm Vui Nhỏ LỜI KẾT: Yêu Cuộc Sống, Chứ Không Yêu Của Cải VỀ TÁC GIẢ LỜI GIỚI THIỆU Ngẫm Lại Những Điều Vốn Dĩ Bình Thường Chúng ta vẫn còn mê muội trước phiên bản con người mà lẽ ra ta nên trở thành. WILLIAM JAMES Bạn đã từng trải qua một bước ngoặt nào đó trong đời chưa? Khi giông bão vừa qua đi, và bạn bắt đầu nghĩ tới một hướng đi hoàn toàn mới? Vào ngày 31 tháng 12 năm 2007, tôi đã trải qua một bước ngoặt - một ý tưởng nảy ra khiến tôi bừng tỉnh, thoát khỏi màn sương mù dày đặc. Tất cả bắt nguồn từ một đoạn video ngắn trên YouTube về Dee Williams. Trong đoạn video, Dee trình bày một ý tưởng sống đơn giản, hay cái mà cô gọi là “sống-đơn-giản-thông-minh”, và lý do cô quyết định xây một chỗ trú ngụ bé nhỏ, ấm cúng lưu động. Xem xong đoạn video, tôi liền ấp ủ ý tưởng đơn giản hóa cuộc sống của mình, và ngay sau đó, tôi tìm đọc nhiều bài viết khác về Dee và ngôi nhà nhỏ bé ấy. Trong một bài báo, cô mô tả chuyến đi đến Guatemala giúp xây dựng trường học. Trở về nhà, cô chợt nhận ra rằng có quá nhiều thứ cô hoàn toàn chẳng cần đến trong cuộc sống. Trong một tập san nhỏ có tên The Little House (Căn Nhà Nhỏ), Dee mô tả chuyến đi của mình qua lời kể, “Tôi gặp những con người thật đáng kinh ngạc. Họ rộng rãi, tốt bụng, và rất, rất nghèo. Trong nhà họ, không có ống nước, không có điện. Họ nấu ăn ngoài sân và sử dụng chung nhà tắm với hàng xóm xung quanh. Nhưng mà họ có vẻ sống hạnh phúc.” Khi Dee trở về Portland, Oregon, cô bán đi “ngôi nhà khang trang rộng rãi”, và thu nhỏ kích thước chỗ ở một cách đáng kể bằng cách xây một ngôi nhà nhỏ xíu lưu động, chưa đầy 26 mét vuông, bằng cỡ những ngôi nhà mà cô đã thấy ở Guatemala, để làm chỗ trú ngụ. Câu chuyện của Dee tác động đến tôi ở một chừng mực nào đó. Cô thuộc dạng người mà tôi muốn trở thành; cô biết ưu tiên cho điều quan trọng nhất trong cuộc sống, như thiết lập các mối quan hệ bền vững, cống hiến cho cộng đồng và làm công việc yêu thích để kiếm sống. Cô không dành tâm sức tích cóp của cải, mà sống thật với những lý tưởng của mình. Trên hết, dường như cô lấy làm hạnh phúc vì điều ấy. Câu chuyện của Dee gợi cảm hứng để tôi đi từ những việc nhỏ bé và bắt đầu nghĩ lớn. Sau khi đọc qua mấy trang blog và nhiều quyển sách viết về cuộc sống giản đơn, hai vợ chồng tôi quyết định thu hẹp không gian sống của mình. Chúng tôi cho đi hầu hết đồ đạc trong nhà. Thú vị ở chỗ là, càng cho đi, chúng tôi càng cảm thấy vui vẻ hơn. Các nhà nghiên cứu về niềm vui gọi đây là “trạng thái phấn khích của người giúp đỡ”, theo đó, việc giúp đỡ người khác bằng cách xung phong tình nguyện hoặc cho đi sẽ làm giảm căng thẳng và giải phóng chất endorphin. (Endorphin còn được gọi là "hormone hạnh phúc" vì nó giúp cải thiện tâm trọng, mang đến cám giác vui vẻ, yêu đời.) Trước bước ngoặt này, tôi từng sống một “cuộc đời bình thường” và chẳng lấy gì làm vui vẻ. Logan và tôi nợ 30 ngàn đô-la, “có đồng nào xào đồng nấy” và cảm thấy mình đang sống mòn. Phải thay đổi điều gì đó, nhất là khi chúng tôi muốn biến ước mơ thành hiện thực. Lúc đang nghiên cứu thông tin để viết quyển sách này, tôi đã tự hỏi ở cái xứ này thì một “cuộc đời bình thường” là như thế nào. Rồi tôi phát hiện ra vài xu hướng bất ổn. Lấy ví dụ, tháng 9 năm 2011, tỷ lệ nghèo đói trong nước tăng 15,1%, mức cao nhất trong vòng 17 năm qua. Theo Cục Thống kê Dân số Mỹ, mức thu nhập hộ gia đình sụt giảm giữa năm 2009 và 2011, và số người không có bảo hiểm y tế gia tăng. Vào tháng 9 năm 2011, Đài Phát thanh Mỹ báo cáo, “Thu nhập của tất cả mọi người đều sụt giảm, thật sửng sốt, giảm còn nhanh hơn so với năm 2008, khi mà tình trạng suy thoái ở đỉnh điểm.” Thêm nữa, bản báo cáo còn chỉ ra bình quân mỗi người Mỹ nợ thẻ tín dụng 8.000 đô-la và có 6,5 thẻ. Giống như nhiều người Mỹ khác, Logan và tôi có nhiều ý định tốt đẹp - muốn trả bớt nợ nần, cải thiện sức khỏe, và đóng góp cho cộng đồng. Chúng tôi chẳng thực hiện được điều nào trong số này mãi cho đến khi thay đổi hẳn lối sống. Sống đơn giản giúp chúng tôi hiện thực hóa ước mơ của mình. Thay đổi lối sống giúp chúng tôi cải thiện đời sống hôn nhân và các mối quan hệ với bạn bè người thân. Chẳng hạn, bằng cách bán đi hai chiếc xe hơi, chúng tôi đã giảm được cân - bây giờ chúng tôi di chuyển bằng xe đạp - và chẳng còn lo lắng đến chuyện phải kiếm đủ tiền để trả phí xe hơi hàng tháng. Thay vì vậy, chúng tôi dùng khoản phí xe hơi đó để trả nợ. Chúng Ta Đang Đi Đâu Trong cuốn The Art of Non-conformity (Nghệ Thuật Lập Dị), Chris Guillebeau viết, “Tôi theo triết lý tự do. Tôi không khẳng định mình có tất cả các câu trả lời.” Tôi đồng ý với Chris. Tôi không phải là chuyên gia hạnh phúc hay là chuyên gia giản đơn, và tôi không biết hết mọi thứ. Như một độc giả đói chữ, tôi học được nhiều từ những câu chuyện. Suốt quá trình viết quyển sách này, tôi kể nhiều chuyện đời tôi và chuyện đời của những người mà tôi phỏng vấn. Tôi đưa ra “những hành động nhỏ” để hiện thực hóa ý tưởng. Ngoài ra, tôi còn chia sẻ một số bài học gợi cảm hứng mà tôi đã tiếp thu được, gồm có: - Hạnh phúc bắt nguồn từ việc kết nối với cộng đồng và xây dựng các mối quan hệ bền vững. - Tiền có thể mua được hạnh phúc nhưng còn tùy vào cách chi tiêu. - Dư dả của cải không khiến bạn hạnh phúc về lâu dài. - Học cách “cổ ít hơn mà vui hơn” là một phương pháp tìm kiếm hạnh phúc, giành lại thời gian và sống theo chuẩn mực của riêng bạn. - Bất cứ hình thức thay đổi cuộc sống nào cũng đòi hỏi nỗ lực, lòng kiên nhẫn và thái độ sẵn sàng tiếp nhận quan điểm mới. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cụ thể những bài học trong quyển sách này. Về cơ bản, quyển sách này là lời mời gọi bạn suy ngẫm về các mối quan hệ với tiền bạc, thời gian và của cải vật chất, đồng thời cân nhắc lại những thứ mang đến hạnh phúc cho bạn. Quyển sách đưa ra một quan điểm khác biệt, một góc nhìn khích lệ bạn xem xét những ý tưởng và những lựa chọn mới mẻ so với lẽ thông thường. Ý tưởng sống giản dị đi kèm với nhiều tên gọi và xu hướng; ví dụ như xu hướng sống đơn giản, xu hướng ngôi nhà nhỏ, sống đơn giản tự nguyện, chủ nghĩa thu nhỏ, và tối giản. Ý tưởng cốt lõi đằng sau đó chính là chủ ý lựa chọn của bạn. Ví dụ như nếu bạn ủng hộ xu hướng ngôi nhà nhỏ, bạn không bị buộc phải sống trong một ngôi nhà nhỏ theo một kích cỡ quy định. Chuyển đến sống trong một ngôi nhà nhỏ có thể là mục tiêu dài hạn của bạn, song bạn vẫn có thể ủng hộ xu hướng trên mà không cần phải làm vậy. Sống giản dị là một triết lý sống, chứ không phải những gì bạn sở hữu. Cuộc Sống Ngắn Ngủi Dịp Giáng sinh năm 2010, tôi tình cờ bắt gặp vài lá thư cũ của bà dì Mamie. Thường thì tôi không phải kiểu ủy mị về mấy thứ này. Nhưng lần đó tôi rất vui khi nhìn thấy xấp thư giấu trong tủ quần áo hồi bé. Vừa bắt đầu đọc thư, mắt tôi đã đẫm lệ, bởi tôi nhớ bà quá đỗi. Vừa đọc, tôi vừa nhớ lại cái cách bà luôn đi ngược lại những quan niệm xã hội lúc bấy giờ. Bà sống bình dị và chẳng khi nào chi nhiều tiền sắm sửa những món đồ không cần thiết. Thêm nữa, bà không lập gia đình, sinh con, hay có một chiếc xe hơi nào. Bà thích đi du lịch, bắt xe buýt và đi bộ khắp nơi. Kết quả là bà đã thực hiện một chuyến đi dài xuyên đất nước, và bà luôn biên thư cho gia đình bạn bè để kể cặn kẽ về những chuyến phiêu lưu của mình. Đối với một phụ nữ sống trong thời Đại Suy Thoái thì sự chọn lựa này quả là bất thường. Tập tục văn hóa khi ấy định rằng phụ nữ là phải lấy chồng, sinh con, chứ không phải đi thăm thú hết mọi miền đất nước hoặc chuyển từ một tỉnh hẻo lánh nhỏ bé ở Washington để đến sống ở một thành phố lớn thuộc San Francisco. Qua những lá thư, bà dạy tôi về hạnh phúc, tình yêu, và về một cuộc sống tươi đẹp. Trong một lá thư, bà miêu tả những công việc đời thường có vẻ bình dị, như tưới hoa, đi bộ ra cửa hàng tạp hóa, và trò chuyện cùng hàng xóm láng giềng. Gần cuối thư, bà viết đôi ba dòng khiến tôi bất ngờ. Bà bảo, “Hãy nhớ lấy, Tammy, cuộc sống ngắn ngủi lắm. Hãy làm những gì con thích và giúp đỡ người khác nữa. Nếu con cho rằng mình sẽ hạnh phúc khi tuân theo những chuẩn mực thông thường thì cũng dễ hiểu, nhưng bà nghĩ điều đó không đúng. Hãy là chính mình. Bà chỉ nhắc con nhớ một câu: Đừng để lạc những ước mơ.” Tôi nhận được lá thư này hồi còn học phổ thông, và những câu chữ của bà là những gì tôi cần nghe. Lúc đó tôi không hạnh phúc và cảm thấy suy sụp, bởi tôi không có bạn trai và chẳng có gì nổi bật. Tôi tìm đến sự thừa nhận ở bên ngoài để chứng tỏ mình cũng “bình thường như ai”. Việc tìm kiếm kiểu thừa nhận đó không khiến tôi thấy vui hơn, bởi chẳng có ai “bình thường” cả. Thế mà, các thông điệp từ các nhà quảng cáo lại khác hẳn. Khi tôi xem ti-vi hoặc quảng cáo trên Internet, những thông điệp ấy cứ xúi giục tôi cần phải mua một sản phẩm nào đó để được hạnh phúc, mãn nguyện và hòa nhập với cộng đồng. Trực giác cho tôi biết điều này là không đúng, bởi ta không thể nào mua được hạnh phúc ở các khu mua sắm. Tuy nhiên, các mẩu quảng cáo này rất thuyết phục. Norman MacEwan, tác giả đồng thời là học giả, từng nói, “Hạnh phúc không phải sở hữu, mà là sẻ chia. Chúng ta kiếm sống bằng những thứ ta có, nhưng chúng ta sống bằng những thứ ta cho.” Câu nói của MacEwan phản ánh những việc bà dì Mamie của tôi đã cố gắng làm qua những bức thư bà kể lại. Quyển sách này, cũng tựa như những lá thư của bà dì tôi, đưa ra những góc nhìn khác nhau và những câu chuyện. Tôi không muốn các bạn mộng du trong cuộc sống như tôi đã từng. Chúng ta hãy cùng bắt đầu nào! PHẦN 1 [NGHỊCH LÝ CỦA CỦA CẢI VẬT CHẤT] CHƯƠNG 1: Mua Sắm Không Mang Đến Hạnh Phúc Ai cũng nói chúng ta đang đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Tôi nghĩ không hẳn là như vậy. Tôi nghĩ cái chúng ta đang tìm kiếm là trải nghiệm của việc sống. JOSEPH CAMPBELL Những cái móc kim loại va leng keng khi tôi lướt qua thanh treo đồ. Tôi đang đi cùng cô bạn Lisa, và chúng tôi lại đi mua sắm trong giờ ăn trưa. Tôi chẳng có nhiều bộ quần áo chỉn chu, còn Lisa luôn ăn mặc có phong cách, thế nên tôi nhờ cô ấy giúp tôi làm mới tủ đồ. Ngoài ra, mua sắm vào giờ ăn trưa là cơ hội hoàn hảo để chúng tôi chuồn khỏi “trường”. Trường là tên gọi mà các trụ sở doanh nghiệp đặt cho văn phòng của chúng tôi. Có bốn tòa nhà khổng lồ, mỗi tòa chứa khoảng bốn trăm con người. Khối phức hợp không hề có nét riêng, khiến tôi liên tưởng đến một bãi sa mạc, bởi những cấu trúc ấy quá đơn điệu và tẻ nhạt. Nhìn bên ngoài, nó giống như một ngôi trường nhộn nhịp với những con người hạnh phúc. Nhưng bên trong thì không. Để thoát khỏi môi trường ấy, Lisa và tôi lái xe đến khu thương mại này mua sắm vào giờ nghỉ trưa hàng tuần. Khu mua sắm cũng chẳng khá khẩm hơn ngôi trường kia là mấy. Được ở chỗ, dọc theo các lối đi trong khu thương mại có trồng dăm bụi cây và mấy khóm hoa rực rỡ sắc màu. Những bông hoa tươi thắm là thế, nhưng dòng người lại có vẻ toát ra nguồn năng lượng tiêu cực. Ai nấy đều cuống cuồng, vội vã. Đặc biệt vào mùa giảm giá, nơi đây nhốn nháo như bầy voi đang tháo chạy tán loạn. Tôi cũng ở trong bầy đàn ấy, bởi tôi chỉ có rất ít thời gian để lựa đồ. Tôi phải trở về khu rừng được ngăn thành từng ô nhỏ trước 1 giờ đúng, không được muộn hơn. Thông thường, tôi sẽ mua một cái áo kiểu dễ thương để mặc chung với bộ com-lê, và sau đó tôi luôn thấy vui hơn - ít ra là tạm thời. Cảm giác hưng phấn mà tôi có được từ những chuyến mua sắm chẳng kéo dài lâu. Tôi rơi vào trạng thái mà Sonja Lyubomirsky trong quyển The How of Happiness (Cách Thức Hạnh Phúc) gọi là “máy chạy bộ vui thú”. Đây không phải là loại máy chạy bộ giúp bạn có vóc dáng cân đối. Nếu cứ chạy mải miết trên đó, bạn sẽ thấy kiệt sức, trĩu gánh nợ nần và đầy nỗi lo âu. Lấy ví dụ, toàn bộ số quần áo mua được ở khu thương mại mang đến cho tôi cảm giác thích thú trong thoáng chốc, nhưng rốt cuộc, nhìn riết rồi quen nên tôi đâm chán, về bản chất thì tôi chẳng thu được lợi ích tốt đẹp gì từ việc đầu tư này. Tôi luôn cho rằng mua sắm đồ đạc sẽ làm cho tôi hạnh phúc dài lâu. Nhưng thật sai lầm. Những nghiên cứu về chủ đề này cho ra những kết quả khác. Trong quyển The High Price of Materialism (Cái Giá Đắt Đỏ của Sự Đề Cao Chủ Nghĩa vật Chất), Giáo sư Tim Kasser của Đại học Knox viết rằng, năm 1957, khoảng 35% người Mỹ tự nhận mình “vô cùng hạnh phúc”. Kể từ lúc ấy đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt đến ngưỡng hạnh phúc đó, và đó là điều bất ngờ, nhất là khi chúng ta đang kiếm nhiều tiền hơn bao giờ hết và đồ đạc thì chất đầy nhà. Thậm chí ngay cả những người Mỹ có nhiều của cải vẫn không hạnh phúc như bạn tưởng. Theo Chỉ số Hành tinh Hạnh Phúc (HPI) do Quỹ Kinh tế Mới quản lý, Mỹ xếp thứ 114 trong số 143 quốc gia được khảo sát. Cuộc khảo sát HPI là “một thước đo tiên tiến thể hiện mối tương quan giữa môi trường sống với hạnh phúc của con người trên khắp thế giới. Đó là chỉ số đầu tiên đo đạc mức độ tác động của môi trường sống lên cảm giác hạnh phúc, trên từng quốc gia, nhằm biết được môi trường sống nào giúp người dân sống thọ sống vui.” Những quốc gia như Costa Rica, Malta, và Malaysia, cũng như hầu hết các quốc gia ở châu Âu và tất cả các nước châu Mỹ La-tinh, đều xếp trên Mỹ. Một lý do giải thích hợp lý cho kết quả kém này của Mỹ là quan niệm lầm lạc xem của cải vật chất như là chỉ số hạnh phúc. Một cuộc nghiên cứu mở rộng đã tìm ra mối liên hệ giữa nỗi buồn chán và cảm xúc tiêu cực với những nếp nghĩ thiên về của cải vật chất. Ví dụ, vào năm 1976, các nhà nghiên cứu đã khảo sát 12 ngàn tân sinh viên ở lứa tuổi 18 và sau đó đánh giá mức độ hài lòng của họ đối với cuộc sống một lần nữa vào năm họ 38 tuổi. Những sinh viên nào bày tỏ ham muốn của cải vật chất năm 18 tuổi thì 20 năm sau, họ cảm thấy ít hài lòng với cuộc sống hơn. Tim Kasser lập luận rằng “sự coi trọng giá trị vật chất có liên quan đến tình trạng suy yếu cảm giác hạnh phúc của con người ở khắp mọi nơi, từ không hài lòng với cuộc sống và kém hạnh phúc, đến chán chường và lo âu, đến những vấn đề về thể chất như đau đầu, đến việc rối loạn tính cách, ái kỷ và hành vi chống đối xã hội.” Kasser chỉ ra rằng những kết quả tiêu cực này dẫn đến lối sống tiêu thụ ngày càng nhiều - chẳng hạn như trường hợp của tôi. Thêm nữa, những người đề cao của cải vật chất đặt nhiều kỳ vọng vào tính năng và công dụng của món đồ đối với họ. Tóm lại, đề cao của cải vật chất khiến chúng ta quên đi hai khía cạnh quan trọng tạo ra hạnh phúc trong cuộc sống - các mối quan hệ bền vững và làm công việc mình yêu thích. Tin vui là ngày càng có nhiều người không còn đặt nặng của cải vật chất và lựa chọn cuộc sống giản đơn hơn. Hai nhà nghiên cứu Samuel Alexander và Simon Ussher của Viện Nghiên cứu Simplicity thực hiện một cuộc khảo sát Online đa quốc gia về phong trào tình nguyện sống đơn giản vào năm 2011. Họ phân tích dữ liệu từ 1.748 người được phỏng vấn lý do vì sao họ chọn cách sống bình dị và những nguyên nhân sâu xa ẩn sau quyết định đó. Cụ thể, Alexander và Ussher muốn xem nhóm người này có hạnh phúc hơn nhiều không. Như dự đoán, nhóm người tự nguyện bớt đi của cải, giảm thiểu nợ nần và tận tâm làm việc quả thật hạnh phúc hơn. Nhóm tham gia khảo sát cũng chỉ ra rằng họ chọn cách sống đơn giản không hẳn vì hạnh phúc bản thân. Họ có động lực đơn giản hóa cuộc sống, bởi họ muốn dành nhiều thời gian hơn cho gia đình, bạn bè, theo đuổi những hoạt động sáng tạo, và góp sức giúp ích cho cộng đồng. Nhìn chung, 87% người được khảo sát cho biết họ “cảm thấy hạnh phúc hơn khi sống một cuộc đời bình dị”. Alexander và Ussher cho biết “kết quả không nhằm mục đích ‘chứng minh’ lối sống đơn giản sẽ khiến con người hạnh phúc hơn, mà để thấy rằng phần lớn những người tham gia trong cuộc nghiên cứu quy mô lớn này thấy hạnh phúc hơn vì sống đơn giản hơn.” Dĩ nhiên, nếu hỏi họ có thấy “hạnh phúc hơn” không thì chẳng khác nào hỏi bọn trẻ con đang đứng trong cửa hàng kẹo có thích kẹo ngọt không - nhiều khả năng họ đều đồng lòng nói có. Tuy nhiên, kết quả trên khiến nhiều người phải suy nghĩ, đồng thời nó cũng gợi lên ý niệm rằng không màng đến của cải vật chất là tốt, nhất là khi bạn cân nhắc đến tác động của tư duy tiêu dùng lên trẻ nhỏ. Câu Chuyện Của Kathy: Lớn Lên Trong Nhung Lụa Trong lúc đợi ở đầu cầu thang, mẹ tôi vân vê mái tóc và nhìn chằm chằm vào mảng giấy dán tường cũ kỹ vẽ một con khỉ nâu đang chuyền cành. Đây là thói quen hàng tuần của bà hồi còn nhỏ. Thời đó, bà thường nhón chân ra khỏi phòng ngủ, ngồi xuống ở đầu cầu thang đợi cha về. Bà cảm thấy sợ trong lúc đợi, bởi vì đã quá giờ đi ngủ và lỡ như bị phát hiện, bà sẽ gặp rắc rối to. Rốt cuộc, cha bà cũng về đến nhà, nhưng bà chưa bao giờ có can đảm trò chuyện với ông. Việc này hóa ra lại tốt, bởi cha mẹ bà thể nào cũng cãi nhau chuyện tiền nong. Mẹ tôi, Kathy Hettick, sinh năm 1948, lớn lên ở Loudonville, New York - một cộng đồng ít người ở Albany hẻo lánh. Gia đình bà có mọi thứ bạn muốn hoặc cần: du thuyền, xe hơi, một ngôi nhà hai tầng đồ sộ ở Loudonville và hai căn nhà ở Hồ Geojrge. Người ngoài nhìn vào sẽ đánh giá cuộc sống gia đình bà thật hoàn hảo. Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên trông thấy ngôi nhà thời thơ ấu của bà. Mẹ và tôi đã làm một chuyến “thị sát”. Ngôi nhà to sừng sững làm tôi nhớ đến một cảnh phim. Tường sơn màu xanh nhạt, những ô cửa chớp màu trắng, chỉ thiếu mỗi hình ảnh một người đang đứng trước cửa nhà, tay cầm khay bánh quy. Mỗi lần chúng tôi ghé thăm New York, mẹ lại tìm đến những nơi trong ký ức. Chúng tôi lái xe ngang qua ngôi nhà thời thơ ấu của bà, đến Hồ George và ngó nghiêng trại hè một thuở bà từng tham gia. Những ngôi nhà rộng lớn, những chiếc xe hơi hào nhoáng, những câu lạc bộ thể thao ngoài trời, và cả trại Hồ George dành riêng cho các quý cô, đều đã xa rồi. Thế mà mẹ vẫn quay về dĩ vãng, thăm lại những hồi ức tốt đẹp thuở hoa niên, như bộ quần áo lộng lẫy của mẹ bà và khiếu hài hước của cha bà. Mẹ miêu tả về bà ngoại của tôi, bà Mary Jane, là “một quý bà tầng lớp thượng lưu, có nhiều nét giống Elizabeth Taylor”. Bà ngoại cao dong dỏng, có đôi mắt xanh thẳm, to tròn, lúc nào cũng ăn vận thật đẹp, đeo găng tay, vòng ngọc trai, và mặc những bộ váy sang trọng dài gân hoặc chạm đất, có đính hạt trang trí. Còn ông ngoại Lance hẳn là bản sao của Jackie Gleason, cả về ngoại hình lẫn cái duyên pha trò. ông là một người quảng giao và là một thương gia. Ông thích được mọi người vây quanh, ông bà Lance và Mary Jane dư dả về tiền bạc. Ông bà dành thời gian nhàn rỗi chơi gôn, giải trí ở các câu lạc bộ, hoặc tại Hồ George. Trong lúc hàn huyên về ông bà ngoại, tôi hỏi mẹ, "Mẹ có cho rằng tất cả của cải, nhung gấm lụa là này làm cho ông bà ngoại cảm thấy hạnh phúc không? Còn mẹ? Hồi nhỏ, mẹ có thấy vui không?” Mẹ trả lời, “Có thể nói có, mà cũng có thể nói không, ông bà ngoại con uống say rồi cãi nhau về chuyện tiền bạc, lúc nào cũng vậy. Mẹ nghĩ hồi đầu, ông bà yêu thương nhau, nhưng những ưu tiên trong cuộc sống của ông bà khác nhau, nhất là về việc chi tiền mua sắm của cải và trải nghiệm.” Mẹ giãi bày, “Chuyện này khiến mẹ mệt mỏi, và không cảm thấy vui. Những nhu cầu thiết yếu của mẹ đều được đáp ứng đầy đủ, nhưng thời điểm duy nhất mẹ thấy thật sự vui khi còn nhỏ là ở trại hè. Được đi trại hè và thoát khỏi căn nhà đó đã cứu vớt cuộc đời mẹ. Mẹ nghĩ chắc mẹ đã phát điên lên nếu không có nơi để xả.” Trong lần trò chuyện khác, mẹ kể với tôi rằng ông ngoại Lance đã tiêu xài hoang phí khoản tiền thừa kế của bà ngoại. Bà ngoại có chừng một triệu đô-la trong quỹ; quỹ này rót vào công việc kinh doanh gỗ xẻ của ông ngoại. Mẹ giải thích thêm, “Bà ngoại cảm thấy bị ông lợi dụng, bởi vì ông ngoại ra ngoài làm việc cả ngày, hiếm khi về nhà dùng bữa tối. Xong việc, ông đi uống rượu ở các câu lạc bộ và tán tỉnh những người phụ nữ khác. Nhiều trận cãi vã về tiền bạc và cả chuyện hôn nhân cũng từ rượu mà ra.” Cuộc trò chuyện về thời thơ ấu của mẹ gợi cho tôi nhớ đến bài nghiên cứu của Madeline Levine. Bà đã quan sát, tìm hiểu những đứa trẻ bất hạnh trong suốt mấy chục năm và là chuyên gia về sức ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đối với sự phát triển của trẻ. Trong quyển The Price of Privilege (Cái Giá của Đặc Quyền), bà lập luận, “Nhóm trẻ mới đây được xác định là có nhiều rủi ro ở Mỹ là các em lứa tuổi nhi đồng và vị thành niên xuất thân từ những gia đình giàu có, trí thức.” Bà trình bày tiếp, “Mặc dù nhóm này có nhiều thuận lợi về vị thế xã hội và kinh tế, song lại thuộc nhóm mắc các chứng suy nhược, lạm dụng thuốc, rối loạn lo âu, đau nhức cơ thể, và không hạnh phúc trong cuộc sống xếp tỷ lệ cao hơn bất kỳ nhóm trẻ em nào khác ở đất nước này.” Tôi thấy có nhiều nét tương đồng giữa các triệu chứng mà Levine mô tả với thời thơ ấu của mẹ tôi. Như cậu ruột tôi cả đời vật vã với chứng nghiện rượu. Mẹ tôi kể, “Sau những bữa đại tiệc ở ngôi nhà bên hồ, cậu của con lại lau dọn mớ hỗn độn. Cậu nhặt mấy ly rượu lên và uống hết số rượu thừa còn sót lại. Lúc đó cậu chỉ mới mười hai tuổi thôi và đó là lúc cậu bắt đầu nghiện rượu.” Bài học lớn nhất mà tôi rút ra từ câu chuyện của mẹ là lớn lên trên một núi tiền không nhất thiết là tấm vé mở ra một cuộc sống hạnh phúc. Khi còn bé, mẹ tôi không vòi vĩnh món này món nọ; cái mà bà mong muốn là sợi dây kết nối bền chặt với cha mẹ. Về bản chất, bà muốn được cha mẹ để mắt đến và lắng nghe. Câu Chuyện Của Jenna: Ít Hơn Là Nhiều Hơn Khác với câu chuyện của mẹ tôi, Jenna là con một, và khi cô còn nhỏ, gia đình cô không có nhiều tiền. Tuy nhiên, Jenna khẳng định họ “cũng không hề nghèo”. Jenna lớn lên ở khu ngoại ô Portland, Oregon, và mẹ cô thích mua sắm. Đúng là vậy, bà “vung tay quá trán” đến nỗi thường xuyên xài lố hạn mức thẻ tín dụng. Jenna không tài nào hiểu nổi tại sao mẹ mình lại mua sắm nhiều như vậy, bởi lẽ bà đã có quá nhiều đồ rồi. Tủ đồ của bà gần như chứa đầy quần áo, giày dép, hành lý, còn các kệ phòng tắm thì ngập ngụa mỹ phẩm. Lớn lên, Jenna cho biết, “Tôi luôn cảm thấy nhà cửa bừa bộn, bẩn thỉu, bởi đồ đạc chất thành núi khắp nơi trong nhà. Hết chồng này đến chồng khác - không có ai dọn dẹp, mỗi lần cần kiếm đồ dùng hàng ngày là tôi toát mồ hôi hột. Đơn cử, nhà tôi không bao giờ có bút chì. Tôi biết điều này nghe có vẻ hơi lạ, nhưng mà tôi cần bút chì để làm bài tập về nhà và dự án mỹ thuật. Mọi thứ dường như mất tăm mất tích trong đống đồ của mẹ tôi, vô cùng nản. Mẹ tôi không phải kiểu người cái gì cũng giữ lại - bà chỉ không ngăn nắp và có quá nhiều đồ đạc thôi.” Jenna nói cô có một “tuổi thơ tươi đẹp”, nhưng quả thật khó khăn khi cứ phải nghe cha mẹ cô liên tục gây gổ về tài chính. Cô kể, “Cha mẹ tôi cố giữ kín chuyện tiền bạc, nhưng rõ ràng là có vấn đề. Nhiều vấn đề bắt nguồn từ chứng nghiện mua sắm của mẹ tôi. Gia đình tôi thường xuyên ‘lên voi xuống chó’. Chúng tôi từng cạn kiệt tiền bạc, có khi lâm vào cảnh phá sản.” Trong lúc Jenna kể chuyện gia đình, tôi nghĩ về năm 2003, năm tôi lấy chồng. Đó là một năm tốt, nhưng tôi sống đắp đổi qua ngày, với khoản vay tiền học từ thời sinh viên còn lơ lửng. Thay vì dành dụm tiền để trả dứt nợ nần, tôi lại đến trung tâm mua sắm để “xả hơi”. Tôi có thể hiểu được những gì Jenna đã trải qua. Gắn kết thúc buổi nói chuyện, Jenna bày tỏ, “Thật buồn khi thấy cha mẹ phải vất vả xoay sở vì chứng nghiện mua sắm của mẹ. Mặc dù vậy, cả hai người đều ổ bên cạnh tôi. Họ dành thời gian, yêu thương và quan tâm đến tôi. Tôi thấy mình được chở che và được thương yêu - chỉ cần có vậy thôi.” Tôi phỏng vấn Jenna hồi tháng 7 năm 2011, và cứ mải nghĩ về lời bình luận của cô, bởi tôi tin rằng hầu như ai cũng muốn gia đình và bạn bè dành thời gian, tình yêu thương và sự quan tâm cho mình. Tôi biết đó là điều tôi muốn. Thật thú vị, bằng cách đơn giản hóa cuộc sống của mình, tôi biết cách cho đi những thứ đó hơn, và đến lượt tôi được nhận lại; điều này khiến tôi hạnh phúc hơn nhiều. Tôi cũng phát hiện ra rằng không có một công thức sống bình dị nào phù hợp cho tất cả. Các khái niệm như sống tối giản, sống thu gọn, sống đơn giản tự nguyện và ngay cả hạnh phúc cá nhân đều mang ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau. Và điều này không sao cả. Bảy năm qua, tôi dần phát triển định nghĩa riêng về lối sống giản đơn và hạnh phúc. Với tôi, sống như vậy có nghĩa là sống mà không cần đến xe hơi, trả hết nợ nần, ở trong một căn nhà nhỏ, và đồ đạc cá nhân ở mức tối thiểu. Mục đích tôi viết quyển sách này là giúp bạn phát triển định nghĩa riêng của bạn về lối sống giản đơn và hạnh phúc. Bên cạnh đó, tôi có ý tránh đề cập đến những khía cạnh rộng lớn hơn về chính trị và xã hội của những lựa chọn này. Với một số người, sống đơn giản là được chủ động lựa chọn về môi trường và chính trị, một phần vì niềm tin lớn lao rằng xã hội cần được thay đổi. Dù tán thành mục đích xã hội này, nhưng tôi không phải là chính trị gia, và cũng chẳng thích trở thành người như vậy. Mục tiêu của tôi là kể những câu chuyện dựa trên trải nghiệm của minh và đưa ra những lựa chọn mới để bạn suy xét. Ý tưởng sống đơn giản hơn có khiến bạn hứng thú? Nó có khiến bạn suy ngẫm lại những quan điểm và lựa chọn của mình? Nếu có thì làm thế nào sử dụng những kỹ năng và khả năng độc đáo của bạn để tạo ra sự khác biệt trong đời sống cá nhân và cộng đồng? Đây là những câu hỏi lớn mà mỗi người chúng ta phải tự trả lời lấy. Riêng tôi dành nguồn năng lượng chính trị của mình vào các công việc tình nguyện ở địa phương. Tôi tin mình giúp ích cho cộng đồng thông qua các hoạt động cá nhân, sự lưu tâm trong cách hành xử và nỗ lực vì mục đích cuộc đời mình. Trong mọi khía cạnh, tôi tiếp tục sống bình dị. Những Hành Động Nhỏ Những hành động nhỏ, dễ thực hiện giúp quy trình cho đi đồ đạc, trả hết nợ nần, thậm chí thay đổi nghề nghiệp của tôi diễn ra suôn sẻ hơn. Tôi thấy có thêm sinh lực thay vì cảm giác quá tải. Cuối mỗi chương, tôi sẽ đưa ra một danh sách những hành động nhỏ giúp bạn thực thi các ý tưởng, cho nên trong lúc đọc sách, hãy chuẩn bị tinh thần viết, nói, nghĩ và làm. Khi bạn bắt đầu, một trong những bước đầu tiên là xác định phiên bản hạnh phúc và giản dị của riêng bạn. Với bạn, hình ảnh này trông ra sao? Khi bắt đầu đơn giản hóa cuộc đời mình, tôi tự hỏi bản thân hai câu hỏi lớn: Điều gì khiến tôi hạnh phúc? Và tôi có thể đơn giản hóa cuộc sống như thế nào để hạnh phúc hơn? Dưới đây là một số cách xem xét lại các mối quan hệ giữa bạn với của cải vật chất và cách bạn định nghĩa hạnh phúc. Viết ra định nghĩa hạnh phúc của bạn. Hãy viết về kiểu hạnh phúc của riêng bạn trong sổ nhật ký hoặc trên một tờ giấy. Khi viết, hãy hồi tưởng vài kỷ niệm vui vẻ, đáng nhớ nhất. Ghi chú lại địa điểm, những người xung quanh bạn, khung cảnh, âm thanh và mùi vị. Hãy nắm bắt toàn bộ trải nghiệm ấy, và tìm hiểu lý do vì sao giây phút đó khiến bạn hạnh phúc. Với tôi, hạnh phúc là những kỷ niệm gắn liễn với các mối quan hệ bén vững tổn tại trong suốt cuộc đời. Vậy, điều gì khiến bạn hạnh phúc? Bạn đơn gián hóa cuộc sống như thế nào? Ngay bây giờ, hãy viết ra mọi cách bạn có thể nghĩ đến để làm cho cuộc sống đơn giản. Lúc viết, hãy suy xét xem: Mình có thể thay đổi thói quen sinh hoạt hàng ngày như thế nào để cảm thấy tự do, và có nhiều thời gian hơn? Những thay đổi đó khiến bạn hạnh phúc hơn ra sao? CHƯƠNG 2: Những Thứ Bạn Sở Hữu Sở Hữu Bạn Từ căn phòng ký túc xá đông đúc, chúng ta chuyển đến sống trong một căn hộ chung cư, đến một căn nhà, và nếu phất lên, ta chuyển đến một biệt thự. Chúng ta cho rằng mình đang tiến lên từng bước, song thật sự ta đang tự xây tường ngăn cách chính ta. ERIC WEINER Có một thời tôi thích sắm sửa đủ thứ. Tôi thích tặng quà, được tặng quà, và mua sắm. Hóa ra, đây gần như là cảm giác chung của người Mỹ. Bạn có biết một trong những điểm du lịch được ưa chuộng nhất ở Mỹ là Trung tâm Thương mại không? Những điểm tham quan truyền thống như Tòa nhà Empire State, Disneyworld, núi Rushmore và Grand Canyon vẫn thu hút hàng triệu người, nhưng khu Trung tâm Thương mại rộng 40 hecta thì ai cũng biết đến, với hơn 40 triệu lượt khách mỗi năm. Trước khi đơn giản hóa cuộc sống, tôi từng mua sắm điên cuồng đến nỗi căn hộ nơi tôi ở muốn nổ tung vì hết chỗ chứa. Tôi gần như gia nhập đội ngũ hàng ngàn người thuê kho chứa mỗi năm. Năm 2009, có hơn 50 ngàn kho chứa cá nhân ở Mỹ. Mang con số đó ra so sánh trong bối cảnh lúc bấy giờ, Mỹ có chưa tới 13 ngàn cửa tiệm McDonald’s và chỉ khoảng 11 ngàn cửa tiệm Starbucks. Năm 2009, Hiệp hội Kho chứa Cá nhân cho biết năm trước đó, người Mỹ trả hơn 22 tỷ đô-la để chứa đồ trong 213 triệu mét vuông kho. Khó mà hình dung ra con số lớn đến như vậy. Hãy nghĩ theo hướng này - giờ đây mỗi một người dân Mỹ, nam có, nữ có, và cả trẻ con, đều có thể đứng vừa trong kho chứa cùng lúc. So sánh kho chứa này với các nước khác trên thế giới thì còn rõ hơn. Nước Mỹ có hơn 50 ngàn kho chứa, Canada khoảng ba ngàn, và Úc khoảng một ngàn. Năm nào cũng vậy, vào ngày Black Friday, hàng triệu người Mỹ dậy sớm xếp hàng bên ngoài các trung tâm mua sắm, thậm chí dựng lều ngủ trước một đêm, chỉ để mua được đồ với giá hời nhất. Tháng 11 năm 2010, mặc cho Đại Suy Thoái và số người thất nghiệp ở mức cao, số người Mỹ đi mua sắm vào cuối tuán sau Lễ Tạ ơn đạt mức kỷ lục. Có hơn 212 triệu người đến các trung tâm mua sắm vào ngày Black Friday, và bình quân mỗi người tiêu 365 đô-la. Đáng lưu ý, có hơn một ngàn người xếp hàng trước cửa hàng Gucci ở California, hơn bảy ngàn người xếp trước cửa hàng Macy’s ở Manhattan, và hàng ngàn người đứng đợi trước các cửa hàng như Victoria’s Secret, Best Buy, Kmart, và Walmart trên toàn quốc. Năm đó, hàng trăm người dựng lều bên ngoài cửa hàng Best Buy ở California, và sáng hôm thứ Sáu, bãi đậu xe vương vãi đáy rác bao gồm hộp thức ăn nhanh và ly cà phê. Quản lý cửa hàng Nick Ramos nói với tờ New Times, “Ngoài kia nhìn như một khu ổ chuột vậy.” Có người bị thương trong ngày Black Friday là chuyện thường tình. Bạn có còn nhớ Jdimytai Damour, nhân viên của Walmart, bị giết chết hồi tháng 11 năm 2008 không? Tờ New York Times có viết, “Damour cố ngăn dòng người cuồn cuộn tì vào cánh cửa hai lớp kính trượt của cửa hàng. Sát giờ mở cửa là 5 giờ sáng, cánh cửa bị vỡ nát dưới sức nặng của đám đông, ông Damour bị xô ngã xuống sàn và bị giẫm đạp.” Năm 2010, một người đi mua sắm tên là Target ở Buttalo, New York, được chờ thẳng đến bệnh viện sau khi bị đám đông giẫm đạp trong ngày Black Friday. Cửa hàng mở cửa lúc 4 giờ sáng và đám đông lao vào, hoàn toàn mất kiểm soát. Keith Krantz một người đi mua sắm bị thương, khi được đài truyền hình địa phương phỏng vấn, đã nói, “Ngay giây phút đó, tôi đã nghĩ là mình không muốn chết ở đây, trên cái sàn này. Chính xác là tôi đã nghĩ như vậy.” Tại sao người Mỹ lại mua sắm nhiều như vậy? Nhất là khi hậu quả mang lại là nợ nần chồng chất? Nhiều người nghĩ mình không bị quảng cáo tác động, song nghiên cứu cho thấy bình quân mỗi năm, người Mỹ xem hơn ba ngàn mẩu quảng cáo, và bị những thông điệp ấy ảnh hưởng một cách sâu sắc. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng mua sắm khiến chúng ta cảm thấy hạnh phúc, tuy nhiên, đó chỉ là cảm giác vui sướng trong thoáng chốc. Điều đó có nghĩa là khi bạn mua một đôi giày mới, một chiếc áo mới, một bộ ghế da đắt đỏ, hoặc bất cứ thứ gì lọt vào mắt, thì chẳng bao lâu sau, niềm vui bạn có được từ việc mua sắm đó sẽ lụi tàn. Rồi bạn quay lại trung tâm mua sắm để mua thêm thứ khác. Kết quả thế nào? Rốt cuộc là chúng ta mua lấy nợ nần, theo đúng nghĩa đen. Lấy ví dụ, với mức lãi suất thẻ tín dụng trung bình là 14%, các gia đình Mỹ chi trả 2.240 đô-la hàng năm chỉ để giữ cho khoản nợ không bị phình to ra. Đừng nói đến chuyện trả dứt nợ. Như nhiều người Mỹ khác, tôi từng rơi vào cảnh nợ nần, cố gắng làm việc nhiều giờ hơn, chăm chỉ hơn, cũng chỉ vừa đủ sống vì đã trót chi tiêu quá nhiều cho xe cộ, nhà ở. Lúc ấy, tôi mới nhận ra, những thứ mình sở hữu sở hữu mình. Chi Phí Cảm Xúc Của Nợ Nần Con đường đưa tôi trở thành nô lệ của của cải vật chất đi xuyên qua nợ nần. Tôi mua sắm bằng thẻ tín dụng - như mua thêm bình cắm hoa tô điểm cho cái bàn cà phê mới. Tôi sớm nhận ra mỗi lần mua một ít nhưng cộng dồn lại thành ra rất nhiều, cả về số tiền lẫn thời gian bỏ ra. Giữ gìn mấy món đồ mới đó cũng thật mất công sức. Rồi đến lúc nhận hóa đơn thẻ hàng tháng, tôi lại hốt hoảng sợ hãi. Bụng sôi òng ọc còn đầu nhức như búa bổ. Logan và tôi luôn thanh toán hóa đơn thẻ tín dụng. Nhưng rồi chúng tôi chẳng còn lại gì trong tài khoản ngân hàng, và vòng quay cứ thế lặp lại mỗi tháng. Hàng loạt nghiên cứu đã chứng minh rằng nợ nần gây tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần con người. Tiến sĩ Sonja Lyubomirsky chỉ ra trong quyển The How of Happiness (Cách Thức Hạnh Phúc), “theo đánh giá, khả năng con người mắc bệnh trầm cảm ngày nay cao gấp mười lần so với thế kỷ trước.” Bà tiếp tục, “15% dân số Mỹ (và 21% nữ giới) sẽ bị trầm cảm vào một thời điểm nào đó trong đời.” Dĩ nhiên, có một số yếu tố dẫn đến trầm cảm, nhưng vào năm 2007, Viện Tâm thần học ở London đã nghiên cứu mối liên kết giữa nợ nần với chứng trầm cảm và phát hiện ra rằng nợ nần có thể gia tăng nguy cơ mắc chứng trầm cảm và lo âu, bất kể thu nhập cao hay thấp. Chuyện này thì cũng dễ hiểu. Áp lực làm việc không ngừng nghỉ để trả hết nợ nần, khoản vay mua xe, và các khoản thế chấp là vô cùng mệt mỏi. Thêm vào đó, cảm giác thiếu thốn, thất vọng và xấu hổ thường gắn liền với nợ nần. Vào tháng 7 năm 2008, một phụ nữ 53 tuổi ở Massachusetts tên là Carlene Balderrama đã suy sụp khi căn nhà bị tịch thu. Bà giấu nhẹm vấn đề tài chính với chồng và tự trách mình về khả năng quản lý ngân sách gia đình yếu kém. Một tiếng rưỡi trước khi căn nhà bị mang ra bán đấu giá, bà đã dùng súng săn của chồng để tự sát. Cũng trong tháng đó, một người đàn ông 62 tuổi ở New Jersey tên là Emilio Saladriagas đã quá hoang mang trước thông báo chậm thanh toán mà ông vừa nhận được đến nỗi ông vào cửa tiệm Rent-A-Center ở địa phương và châm lửa tự thiêu. Đây là những phản ứng cực đoan, song quả thật, chính cảm giác căng thẳng do mắc nợ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của chúng ta. Trong quyển The Gifts of Imperfection (Món Quà của Sự Không Hoàn Hảo), Tiến sĩ Brené Brown thu thập hơn mười ngàn câu chuyện về sự hổ thẹn và dễ bị tổn thương. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Brown, khi không mở lòng chia sẻ về những vấn đề của mình, chúng ta trở nên “tê liệt vì tuyệt vọng, hoang mang, bất an, ngờ vực bản thân đến nỗi không tài nào hành động theo cách mà ta biết là tốt nhất cho mình.” Chẳng hạn, tôi biết rõ cách thức quản lý tiền hiệu quả - tôi có bằng cử nhân kinh tế học và từng làm việc ở vị trí quản lý đầu tư - nhưng trong nhiều năm, tôi quản lý tài chính cá nhân quá kém. Thay vì chia sẻ về vấn đề của mình, tôi kìm nén cảm xúc bằng cách mua sắm, dẫn đến việc khủng hoảng tinh thần và cãi vã liên miên với chồng. Như Tiến sĩ Brown đề cập, ngay cả khi bạn biết điều gì tốt nhất cho bản thân, thì cũng khó mà hành động theo đó. Chúng ta đang sống trong nền văn hóa tiêu dùng vốn tác động đáng kể đến kiểu mẫu hành vi của chúng ta. Trong quyển Branded Nation (Xứ sở Thương James Twitchel có viết, “nhiều điều chúng ta học được về chính ta và nền văn hóa của ta đến từ những câu chuyện quảng cáo mang tên thương hiệu” và “mười phán trăm trong số từ vựng của đứa trẻ lên hai là tên các nhãn hàng.” Bệnh trầm cảm và những hệ lụy của nó chỉ là một trong những cái giá phải trả của việc mua sắm quá khả năng thanh toán. Một cái giá phải trả nữa ẩn đằng sau đó là sự lựa chọn hạn hẹp, bắt nguồn từ việc làm dài giờ hơn và vất vả hơn để trả nợ. Bill McKibben, trong quyển Deep Economy (Nền Kinh Tế Ẩn Sâu) chỉ ra rằng “càng làm nhiều giờ, bạn càng ít hài lòng với cuộc sống cho dù kiếm được nhiều tiền hơn.” Vì sao như thế? Bất luận chúng ta kiếm được bao nhiêu tiền chăng nữa, nền văn hóa tràn ngập quảng cáo cũng sẽ khiêu khích ta mua sắm ngày càng nhiều và nhiều hơn nữa, cuốn ta vào vòng xoáy nợ nần. Thật vậy, trong quyển The Overworked American (Người Làm Quá Sức), Juliet Schor cho thấy con người phản ứng với “cuộc sống làm việc căng thẳng bằng cách mua sắm thả ga... Hơn 30 năm qua, mức tiêu thụ bình quân trên đầu người đã tăng gấp đôi.” Mua sắm “thả ga” có cái giá của nó - không còn được tự do lựa chọn. Một khi đã rơi vào vòng xoáy làm việc-ăn xài, bạn sẽ khó mà thoát ra được. Bạn muốn đổi nghề ư? Muốn bớt thời gian làm việc để huấn luyện cho đội bóng của con? Quay lại trường học? Tham gia tình nguyện ở hội bảo vệ động vật địa phương? Nghỉ phép dài ngày? Dành ra mỗi ngày một tiếng đồng hồ để tập thể dục? Có thêm thời gian ở bên gia đình và bạn bè? Nếu bạn vướng vào nợ nần và đang cật lực làm việc để có tiền thanh toán đống hóa đơn chất cao từ tháng này sang tháng khác, thì những thứ kể trên cũng trở nên xa xỉ vượt quá khả năng của bạn. Một cái giá phải trả khác nữa là tác hại đối với cộng đồng và các mối quan hệ cá nhân. Trong quyển Bowling Alone (Chơi Bowling Một Mình), Robert Putnam chỉ ra rằng các hoạt động cộng đồng của người dân khắp nước Mỹ đang suy giảm đáng kể, chủ yếu là do tăng giờ làm việc và tình trạng dân cư chuyển ra sống ở vùng ngoại ô. Nếu bạn đang dành hai tiếng mỗi ngày để đi đến sở làm và về nhà, giống như tôi trước kia, và làm thêm giờ để thanh toán nợ nần, thì thật khó mà vun đắp tình bạn, gắn kết mật thiết tình cảm gia đình, hoặc tham gia các hoạt động xã hội. Putnam cũng lập luận rằng khi ít tham gia vào các hoạt động cộng đồng, con người có khuynh hướng giải trí một mình, như chơi video game, xem ti-vi - những hoạt động làm bào mòn xã hội hơn nữa. Câu Chuyện Của Tôi: Nợ Nần, Đơn Giản Hóa Cuộc Sống, Và Ước Mơ Từ hồi còn bé, tôi đã muốn có một ngôi nhà ở ngoại ô với máy giặt và máy sấy khô quần áo riêng, một căn bếp rộng rãi để nấu những bữa ăn thịnh soạn, và một phòng cho khách ngủ lại. Mùa xuân năm 2003, khi mới hơn 20 tuổi, tôi khao khát mãnh liệt một ngôi nhà như thế; nên tôi và chồng mới cưới, Logan, đã nói với nhau rất nhiều về ngôi nhà mơ ước ấy. Tôi nghĩ sở hữu một ngôi nhà sẽ là một kế hoạch nghỉ hưu tuyệt vời, và các đồng nghiệp của tôi cũng nghĩ như vậy. Trong suốt hai năm 2003 và 2004, tôi tham gia chương trình đào tạo quản lý trong ngành quản lý đầu tư, và tất cả đồng nghiệp cũng như giám sát viên làm chung với tôi đều cho rằng mua nhà là sự đầu tư xứng đáng. Để theo đuổi ước mơ và cơ hội đầu tư này, Logan và tôi bắt đầu tìm đọc các tạp chí nhà đất trong vùng và xem quảng cáo trên các trang mạng để tìm nhà. Một người bạn và cũng là đồng nghiệp của tôi, Janet, mới vừa xây xong một ngôi nhà tuyệt đẹp ở ngoại ô thành phố Sacramento, California. Màu sắc và thiết kế cực kỳ ấn tượng. Tôi muốn thứ mà Janet có. Căn hộ nhỏ bé của chúng tôi dường như quá nhỏ và chẳng là gì so với ngôi nhà hoàn hảo của Janet, với tủ quán áo đồ sộ, phòng làm việc trong nhà, và nhà bếp hiện đại. Tôi nôn nóng muốn trở thành thành viên câu lạc bộ những người có nhà riêng. Thế nhưng, kế hoạch của chúng tôi có vấn đề. Khi tính toán tài chính, chúng tôi nhận thấy không thể mua nổi kiểu nhà tôi muốn. Trước khi tôi tốt nghiệp đại học năm 2005, chúng tôi đã mắc nợ 30 ngàn đô-la - bao gồm khoản nợ tiền học và tiền mua xe - và lãi suất mua nhà còn cao hơn tiền thuê nhà hiện tại của chúng tôi nữa! Chúng tôi không hề đơn độc. Theo một khảo sát về các khoản vay, sinh viên thường tốt nghiệp đại học với khoản nợ 24 ngàn đô-la, chưa tính nợ thẻ tín dụng. Ví dụ, tờ USA Today cho biết bình quân, mỗi sinh viên chưa tốt nghiệp gánh khoản nợ thẻ tín dụng hơn 3.000 đô-la. Năm 2008, “sinh viên năm cuối có ít nhất một thẻ tín dụng trung bình thường mắc nợ 4.138 đô la khi tốt nghiệp, tăng 44% so với năm 2004.” Khi hiểu được tình thế trước mắt, tôi hoàn toàn suy sụp. Tôi thấy mình thất bại, bởi lẽ chúng tôi không thể nào mua nổi ngôi nhà mơ ước. Tôi cũng cảm thấy tức giận, bởi tôi đã tự đào hố nợ chôn mình cho dù cố gắng làm việc cật lực. Mặc dù có việc làm, nhưng Giấc mơ Mỹ dường như quá xa vời với chúng tôi. Suốt hai năm 2003 và 2004, tôi vẫn tràn trề tinh thần lạc quan, nếu không muốn nói là hào hứng. Làm việc trong ngành quản lý đầu tư không phải là thứ tôi luôn ao ước, song đó là cơ hội để tìm hiểu thêm về mảng kinh tế tài chính. Thêm nữa, công việc ấy còn giúp tôi trả bớt nợ tiền học. Đó là công việc mà một người trưởng thành có trách nhiệm sẽ chấp nhận làm, và gia đình cũng khuyến khích tôi tiếp tục làm cho công ty ấy. Nhưng mà, di chuyển quá nhiều, ngồi xe quá lâu khiến tôi bị đau lưng, tăng cân và thụ động. Môi trường văn phòng cũng gây ảnh hưởng tiêu cực, và tự bản thân công việc không cho tôi cảm giác mình đang tạo sự khác biệt trong thế giới này. Lúc tan sở về nhà, tôi chẳng buồn nhấc tay chân ra ngoài đi dạo. Thay vào đó, tôi chỉ ngồi ì trên ghế xem ti-vi hoặc đi mua sắm. Tôi cảm thấy đỡ mệt hơn khi thả lỏng và không nghĩ đến muộn phiền. Tôi biết mình phải cảm thấy hạnh phúc và cực kỳ may mắn. Tôi lấy được người mình yêu, có một căn hộ hai phòng ngủ tuyệt vời trong một khu an ninh, một tủ đầy quần áo, và một chiếc xe tốt. Tôi không thể hiểu được lý do tại sao mình lại cảm thấy quá đỗi chán chường như vậy. Tôi không còn biết vui sống là gì nữa. Khi bắt đầu học đại học năm 1998, mục tiêu của tôi là làm việc cho một tổ chức thiện nguyện. Kiếm thật nhiều tiền không phải là ưu tiên hàng đầu của tối. Tôi chỉ muốn giúp đỡ những ai có hoàn cảnh kém may mắn hơn. Nhưng giờ đây, tôi đang ở một nơi mà của cải vật chất và nợ nần đang làm chủ cuộc đời tôi. Tôi luôn cho rằng mình thông minh và có năng lực, nhưng tôi bắt đầu nghi ngờ liệu mình có thật sự như vậy không. Nếu thông minh, sao tôi lại mắc kẹt trong vòng xoáy làm việc-tiêu xài, với một căn hộ khổng lồ chất đầy những món tôi không thật sự mong muốn? Như Will Rogers nói, “Quá nhiều người tiêu tiền họ chưa kiếm được, mua sắm những thứ họ chẳng muốn có, gây ấn tượng với những người họ không ưa.” Lời nhận xét đó miêu tả về tôi một cách hoàn hảo. Tôi đang sống để phụng sự cho của cải vật chất. Hậu quả là tôi đánh mất tự do, nguồn năng lượng, và cảm giác được là chính mình, bởi tôi ít kết nối với cộng đồng và gia đình. Chuyện Này Xảy Ra Thế Nào? Nghiên cứu chỉ ra rằng con người ngày càng quan tâm sâu sắc đến việc người khác nghĩ gì về mình. Tôi cũng bị lệ thuộc vào địa vị và của cải vật chất hơn tôi nghĩ. Người ta muốn chứng minh cho mọi người xung quanh thấy họ thành đạt, và tài sản là minh chứng cho địa vị xã hội của họ. Tác giả Juliet Schor cho biết nhà cửa, quần áo và xe cộ là “bộ ba hữu hình” của của cải vật chất. Đây là những thứ chúng ta thấy được khi gặp gỡ người khác, và một cách vô thức, ta dùng của cải vật chất để đánh giá địa vị của một người. Trong quyển Luxury Fever (Cơn sốt Xa Hoa), Robert Frank cho rằng cơn mê của cải vật chất của chúng ta vượt xa hơn mục đích “bằng chị bằng em”. Frank và các học giả khác cho rằng con người sắm sửa nhà cửa, xe cộ, và quần áo không chỉ để gây ấn tượng với người khác mà còn để tưởng thưởng cho mình vì đã nỗ lực làm việc và để chiều chuộng bản thân. Bảy năm trước, tôi đã làm đúng điều mà Frank nói: mua đồ để tự thưởng cho mình vì đã chăm chỉ làm việc và để tạo ấn tượng với người khác. những người hàng xóm, đồng nghiệp, và bạn bè của tôi, ai ai dường như cũng có một cuộc sống không chê vào đâu được. Họ có thu nhập kép, sống trong những ngôi nhà bề thế, sở hữu những chiếc xe sang trọng; vẻ ngoài của họ toát lên sự vương giả, hạnh phúc, giao thiệp rộng. Tôi cũng ao ước những thứ đó. Ngưỡng mộ những người thành công chẳng có gì là sai. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ rõ rằng việc “nhìn lên” (như “Cô ta kiếm nhiều tiền hơn tôi”, “Anh ta có con xe tốt hơn”) có thể dẫn đến cảm giác thiếu tự tin, chán nản và khổ sở. Nghiên cứu chứng minh rằng bạn không thể nào cảm thấy vừa ganh tỵ vừa hạnh phúc cùng lúc, và chắc chắn là tôi không hạnh phúc. Tôi cảm thấy mình xứng đáng được thưởng vì đã làm việc hết mình. Nhưng tự thưởng bằng của cải vật chất lại chẳng khiến tôi vui, bởi tôi không xử lý những cảm xúc ẩn sâu bên dưới. Thật vậy, trong quyển Stuff (của cải Vật Chất), tác giả ước lượng 6% người Mỹ trưởng thành nghiện mua sắm. Số liệu đó cho thấy có hơn 14 triệu người Mỹ đến các cửa hàng mua sắm để giải tỏa cơn giận, sự căng thẳng, nỗi chán chường, những suy nghĩ dằn vặt, cảm giác lo âu, và nỗi cô đơn. Tôi không mắc chứng nghiện mua sắm, nhưng tôi xem việc mua sắm là cách trốn tránh những rắc rối mà tôi đang phải đối mặt. Lấy ví dụ, năm hai mươi mấy tuổi, tôi chết mê chết mệt kim cương, vấn đề này càng trở nên tệ hơn khi Logan và tôi bàn chuyện kết hôn. Tôi dành hàng giờ ngắm nhìn những cuốn quảng cáo trang sức, rồi lén đi đến trung tâm mua sắm để tìm ra chiếc nhẫn đính hôn hoàn hảo. Cuối cùng, Logan mua cho tôi một chiếc nhẫn đính hôn nạm một viên kim cương tuyệt đẹp, nhưng tôi vẫn thèm muốn chiếc nhẫn khác to hơn đính ba viên kim cương. Một người bạn vừa kết hôn có chiếc nhẫn kim cương lớn hơn cái của tôi, thế là tôi khao khát có một chiếc đẹp giống vậy. Tôi thuyết phục Logan rằng mua một chiếc nhẫn mới cũng không quá đắt, và tôi sẽ lấy làm hạnh phúc vì điều đó. Thế là chúng tôi đổi chiếc nhẫn đính một viên kim cương sang chiếc đính ba viên, và mua cả nhẫn cưới kim cương nữa! Không đủ tiền mua nhẫn, chúng tôi phải cà thẻ tín dụng - tổng cộng là bốn ngàn đô-la. Chúng tôi tính là sẽ trả tiền thẻ tín dụng sau này. Kể lại chuyện chiếc nhẫn kim cương làm tôi thấy ái ngại. Sao tôi lại muốn chiếc nhẫn đến mức đó cơ chứ? Ngẫm lại, tôi cho rằng hẳn là do tôi khao khát muốn cho người khác thấy chúng tôi “có khả năng” chi trả và rằng tôi “xứng đáng” có chiếc nhẫn này. Tôi đã làm việc cật lực, thế nên tôi cho rằng việc “chiều chuộng” bản thân bằng một chiếc nhẫn kim cương to đùng thì cũng hợp lẽ. Tuy nhiên, lần mua sắm quá tay đó khiến chúng tôi đã nợ càng thêm nợ; nó trói tôi vào công việc tôi không thích; và nó khiến vị hôn phu của tôi có cảm giác anh không mua nổi cho tôi niềm vui mà anh thấy tôi xứng đáng có được. Bây giờ, khi nhìn chiếc nhẫn cưới, tôi không nghĩ đến ngày vui trọng đại của cuộc đời mình và tình cảm vợ chồng son sắt. Thay vào đó, tôi nghĩ đến cái cách tôi chạy theo của cải vật chất thuở ấy. Tôi không đeo chiếc nhẫn ấy nữa, bởi nó gợi tôi nhớ đến một “Tammy xưa cũ”. Sau vài năm cân nhắc, rốt cuộc tôi cũng quyết định bán chiếc nhẫn đi. Số tiền bán được chúng tôi sẽ gởi vào tài khoản tiết kiệm hoặc làm từ thiện. Lối Thoát Để thoát khỏi vòng xoáy làm việc-tiêu xài, Logan và tôi tự vấn bản thân: Chúng tôi muốn nhận được gì từ cuộc đời này? Chúng tôi sẽ trả hết nợ bằng cách nào? Điều gì khiến chúng tôi hạnh phúc? Chúng tôi có thể giúp đỡ người khác ra sao? Chúng tôi bắt đầu bàn đến việc đơn giản hóa cuộc sống để tăng cường sức khỏe và cải thiện tình hình tài chính. Logan thật sự hào hứng về cách sống giản đơn, và tôi có thể thấy anh suy nghĩ rất nhiều. Một tối nọ, lúc đang trò chuyện thân mật ở bàn ăn, Logan đề nghị, “Sao mình không chuyển sang căn hộ một phòng ngủ nhỉ? Nếu chuyển đến sống gần chỗ làm của em hơn, em sẽ không phải lái xe hoặc lo đón tàu. Vợ chồng mình sẽ tiết kiệm được rất nhiều tiền.” Tôi chậm rãi đặt ly rượu xuống bàn rồi nói, “Một phòng ngủ sao mà vừa chứ! Đồ đạc của mình nhiều lắm! Với lại, cha mẹ đến thăm thì ngủ ở đâu? Ngủ ngoài phòng khách sao? Không được đâu!” Nỗi thất vọng hiện rõ trên gương mặt Logan. Anh thở dài, bình tĩnh nói, “Cứ thử đi em, để xem mình có muốn sống trong một căn hộ nhỏ hơn hay không. Không có chuyện gì xảy ra đâu. Chúng ta sẽ để dành được một khoản tiền, và sẽ bỏ bớt một số món khi dọn nhà. Ngoài ra, mình cũng ít khi có khách đến ngủ qua đêm. Khi chuyển đến chỗ mới, mình sẽ nhường phòng ngủ của mình cho khách, còn hai vợ chồng mình sẽ ngủ ở phòng khách.” Cuộc đối thoại này diễn ra hồi cuối năm 2004, ngay trước khi tôi nghỉ việc trong ngành quản lý đầu tư. Thời điểm đó, tôi không hứng thú với việc đơn giản hóa cuộc sống, cũng chưa từng nghe đến những ngôi nhà nhỏ. Tôi phản đối ý tưởng bỏ bớt đồ đạc và thay đổi một số thứ để trả bớt nợ nần, nhưng Logan liên tục thúc đẩy tôi. Những lời Logan nói nghe hợp lý, nhưng nghĩ đến việc tối giản cuộc sống khiến tôi bất an. Người khác sẽ nghĩ gì? Tôi không muốn họ nghĩ chúng tôi nghèo (dù chúng tôi nghèo thật), và tôi cảm thấy sống đơn giản là một bước lùi thật dài. Tôi vẫn còn mơ mộng mua được một ngôi nhà ở vùng ngoại ô. Ý tưởng mang đồ đi cho hội từ thiện nghe có vẻ ngớ ngẩn. Chúng tôi tốn biết bao nhiêu tiền để tậu mấy thứ này - sao lại mang đi cho cơ chứ? Nhưng trên hết, tôi không tin là chúng tôi có thể sống được trong căn hộ một phòng ngủ. Căn hộ hiện giờ đã chất đầy đồ đạc. Để giúp tôi bớt lo, Logan đề nghị mang đi cho tất cả ngăn chứa đồ trong tủ quần áo của anh, cái bàn vẽ, và cả bàn làm việc xấu xí của anh nữa, thứ mà tôi rất muốn quẳng đi từ ngày đầu tiên bước chân vào căn hộ. Không cần nói, ý tưởng mang đồ của Logan đi cho cũng hấp dẫn đó chứ. Tôi cảm tưởng như Logan mới chính là người dư thừa đồ đạc và khiến nhà cửa chật chội. Tôi nhanh chóng nhận ra sự thật ngay khi phân loại đồ đạc. Tôi cũng có cả đống đồ không dùng đến. Chẳng hạn như hồi còn học trung học và đại học, tôi thường xuyên đi trượt tuyết và có cả một bộ sưu tập áo len dài tay. Đếm nhanh thì có hơn 50 cái cả thảy, xếp đầy một bên tủ. Tôi nhủ thầm, cái quái gì thế này - 50 cái áo len dài tay? Tôi cần mỗi ngày một cái áo khác nhau trong gần hai tháng liền ư? Mà tôi có còn đi trượt tuyết nữa đâu. Trong lúc dọn đồ, tôi bắt đầu có cảm giác như đang sống trong một kho chứa khổng lồ. Chúng tôi thậm chí còn không sử dụng hết những thứ mình có. Nó chỉ làm choáng chỗ trong nhà. Nhà có một tủ đựng bộ chén dĩa Trung Hoa và một tủ khác đựng tách cà phê. Chúng tôi ít khi dùng tới bộ chén dĩa, và thật sự thì một cặp vợ chồng cần bao nhiêu tách cà phê chứ? Dù đã bàn đến việc dọn bớt đồ đạc nhiều lần, nhưng tôi vẫn chưa yên tâm rằng căn hộ một phòng ngủ có đủ chỗ cho chúng tôi. Trước lúc chuyển đi, chúng tôi quyết định xem căn hộ hai phòng ngủ như là căn hộ một phòng ngủ trong vài tháng. Giống kiểu rèn luyện để chạy đường dài. Và tôi hết sức bất ngờ khi chúng tôi thật sự làm được! Sau một thời gian, căn phòng trống trở nên thừa thãi. Nếu chúng tôi không dùng đến, sao phải trả tiền cho nó? Giành Lại Sự Tự Do Cuối năm 2004, tôi bỏ ngành quản lý đầu tư và học cao học ngành giáo dục. Năm 2005, tôi tham gia các hoạt động tình nguyện một cách đều đặn, và đầu năm 2006, tôi nhận công việc mới, tư vấn cho nạn nhân của các vụ phạm tội. Trong suốt giai đoạn này, chúng tôi mang hết món này đến món kia đi cho và đến năm 2006, chúng tôi chuyển từ căn hộ rộng 111 mét vuông hai phòng ngủ sang căn hộ 74 mét vuông một phòng ngủ ở Davis, California. Chuyển đến sống ở một nơi nhỏ hơn giúp chúng tôi tiết kiệm hai trăm đô-la mỗi tháng và có động lực dọn dẹp chỗ ở gọn gàng, ngăn nắp. Chúng tôi phát hiện ra rằng mang đồ đi cho và sống trong một không gian nhỏ hơn giúp chúng tôi có thêm tự do khi không bị ngụp lặn trong đống đồ tạp nham thừa thãi. Mang đồ cho hội từ thiện còn mang đến cảm giác mãn nguyện hơn nữa. Logan thậm chí bán chiếc xe Ford Ranger nhỏ màu xanh dương của anh vào mùa xuân năm 2004. Nhiều người họ hàng tưởng chúng tôi bị điên và ngăn chúng tôi không cho đi đồ đạc trong nhà. Một người nói, “Con không nên làm như vậy, vì con có nhiều thứ đáng giá. Cứ để đó, phòng khi con cần dùng đến.” Lúc chuẩn bị chuyển nhà lần đầu năm 2006, chúng tôi lưỡng lự không biết nên giữ lại hay cho đi một số thứ. Khi không quyết định được, Logan và tôi động viên lẫn nhau. Chúng tôi hỏi nhau: lần gần nhất anh mặc cái quần này là khi nào? Cái này có làm em vui không? Em có định đan len nữa không? Chúng tôi lập hẳn một danh sách những điểm hữu ích/không hữu ích cho món đồ đó. Quan trọng hơn, chúng tôi nhắc nhau nhớ rằng đơn giản hóa cuộc sống là hướng đến sự tự do: không vướng bận của cải và không lâm vào cảnh nợ nần. Ngày nay, Logan và tôi sống đơn giản hơn những gì tôi mường tượng được, hơn những gì tôi nghĩ mình có thể. Nhưng đó là cả một quá trình; không phải chuyện xảy ra trong một ngày một đêm. Giai đoạn đầu, tôi tìm đọc nhiều về cách sống giản đơn và cách người khác bỏ đi những thứ không cần thiết trong cuộc đời họ. Việc làm này giúp tôi phá vỡ lớp vỏ bọc chủ nghĩa tiêu thụ. Sau cùng, phải mất 5 năm bỏ bớt đồ và ba lần chuyển chỗ ở, chúng tôi mới vui sướng đến được đây - một ngôi nhà trên xe, rộng khoảng 12 mét vuông. Khi mới bắt đầu cuộc hành trình này, căn hộ của chúng tôi rộng hơn chỗ ở hiện tại gấp năm lán. Có thể bạn tự hỏi, sao lại cực đoan đến thế? Tôi tán thành suy nghĩ của Jay Shafer về việc thu nhỏ không gian sống. Shafer điều hành công ty Tumbleweed Tiny House, và trong bộ phim TINY, anh nói, “Tài sản lớn nhất ta có được khi sống trong một ngôi nhà nhỏ là sự tự do. Thế giới trở nên rộng lớn hơn nhiều khi ta thu hẹp không gian sống, bởi ta có khả năng làm được nhiều thứ hơn bằng tiền và thời gian. Giờ đây, cả thế giới chính là phòng khách của tôi.” Vào dịp Lễ Tạ ơn năm 2011, tôi và mẹ có một cuộc trò chuyện thú vị về của cải vật chất. Theo một cách nào đó, bà nghĩ lối sống của chúng tôi là “cực đoan”, nhất là khi chúng tôi tham gia vào cái gọi là Thử Thách 100 Món. Vài năm trước, Dave Bruno khởi xướng thử thách này (và viết sách về nó), ông muốn giảm đồ đạc cá nhân xuống còn ít hơn 100 món. Con số 100 nghe có vẻ nhiều, cho đến khi bạn cộng tất cả quần áo, sách báo, chén dĩa, dao nĩa, giày dép, v.v. lại với nhau, về cơ bản, mục tiêu của Dave khi đề xuất dự án này là hướng mọi người đến một cuộc sống giản dị, đồng thời suy xét về cái cách mà chủ nghĩa tiêu thụ tác động đến lựa chọn hàng ngày của chúng ta. Như tôi giải thích với mẹ, tôi đã có đủ. Tôi không còn muốn tự thưởng mình những chuyến mua sắm nữa. Dĩ nhiên, “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, số lượng đồ đạc bạn có sẽ khác với những thứ tôi có. Do vậy, thu nhỏ và đơn giản hóa cuộc sống đối với bạn cũng mang ý nghĩa khác. Điểm mấu chốt không phải là đếm số lượng đồ mà là chú tâm đến những thứ bạn mang vào cuộc sống và những thứ bạn dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Chẳng hạn, tôi mê đọc sách và mua sách mới liên tục. Trước đây, tôi giữ lại hết số sách đó. Nhưng giờ đây, tôi tặng hoặc bán lại sách sau khi đọc xong. Quy tắc này tôi gọi là nhập-một-xuất một. Mỗi khi mua một món mới, tôi mang một món cũ cho hội từ thiện. Bạn không cần phải buộc mình ở trong một căn hộ bé xíu xiu hoặc chỉ có dăm ba món đồ để sống giản đơn. Thay vì vậy, hãy tìm hiểu cách thức kết hợp những quy tắc sống bình dị vào cuộc sống. Nếu bạn muốn “tự thưởng” cho mình vì đã làm việc chăm chỉ, đừng mua sắm thêm nữa; hãy chi tiền vào những trải nghiệm hoặc quyên góp cho từ thiện. Tôi từng đấu tranh với quan điểm sống này trong nhiều năm liền. Mãi cho đến khi đọc được một quyển sách kinh điển có tên là Your Money or Your Life (Bạc Tiền Hay Cuộc sống) của Joe Dominguez và Vicki Robin, tôi mới xem lại cách mình tiêu tiền, hoặc, như hai tác giả gọi là “năng lượng cuộc sống”. Họ nói rằng khi bạn bỏ tiền ra mua bất kỳ sản phẩm nào, hãy nghĩ xem bạn sẽ phải làm việc bao lâu để trả cho món đó. Thay vì để đồ đạc chất bừa trong nhà, đánh cắp thời gian, và làm bạn rỗng túi, hãy để chúng phục vụ cho một mục đích cụ thể và mang đến cho bạn niềm vui. Nếu không như vậy, thì tức là của cải sở hữu bạn. Những Hành Động Nhỏ Sau đây là vài hành động nhỏ giúp tôi bỏ bớt được đồ đạc. Hy vọng nó giúp ích được cho bạn. - Tránh xa khu trung tâm mua sắm. Tôi biết điều này nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng nó khó hơn bạn tưởng, nhất là khi bạn thích mua sắm. Với tôi, tránh xa khu mua sắm là hành động then chốt. Khi không đi mua sắm nữa, tôi thôi mang về nhà những thứ không cần thiết hoặc không thật sự muốn. Nếu phải đến khu mua sắm, tôi lên danh sách các thứ cần mua và cứ thế mà làm. - Phân loại đồ đạc, một cách chậm chạp. Nếu muốn dọn dẹp nhà cửa, quan trọng là bạn phải tiến hành từng bước nhỏ mỗi ngày. Tôi đề nghị là dọn một phòng trước, rồi chia đồ đạc vào nhóm bạn muốn giữ lại và nhóm bạn muốn cho đi. Quá trình này tốn thời gian nhưng hiệu quả. Thay đổi từ từ giúp bạn hình thành thói quen mới, và thói quen này có khả năng tồn tại lâu hơn là khi bạn thay đổi cái rụp. - Tham gia Thử Thách 100 Món. Thử thách này giúp tôi nhận ra đâu là thứ mình thật sự cần trong cuộc sống. Bất luận bạn có bao nhiêu thứ, nó sẽ buộc bạn kiểm kê những thứ bạn sở hữu và xem xét chi tiết thói quen mua sắm của mình. Thử thách lớn nhất khi thực hiện việc này là cái gì nên tính và cái gì không nên tính. Nếu bạn tham gia, hãy nhớ rằng đây là thử thách của bạn và bạn có thể tạo ra nguyên tắc của riêng mình. Dave Bruno, người khởi xướng ra thử thách này, đã tính thư viện là một món! Ý tưởng này hoàn toàn ổn. Chủ yếu là bạn biết cách làm sao cho phù hợp với cuộc sống và nhu cầu của bạn. - Viết xuống danh sách nỗi sợ của bạn. Ví dụ, khi mới đơn giản hóa cuộc sống, tôi sợ những điều người khác nghĩ về chúng tôi. Tôi không muốn tách biệt khỏi những người thân quen chỉ vì tôi không có lấy một chiếc xe, không có một ngôi nhà bình thường, hoặc không có nhiều vật dụng trong nhà. Nỗi sợ này chẳng bao giờ thành hiện thực. Ban đầu, gia đình và bạn bè không biết nên nghĩ sao về quyết định của tôi, nhưng sau nhiều lẩn nói chuyện, họ đã ủng hộ tôi. - Tìm kiếm mạng lưới ủng hộ. Đơn giản hóa cuộc sống là một chặng đường dài. Đừng làm khó bản thân nếu bạn đang gặp trở ngại trong việc giảm bớt đồ đạc. Hãy kiên nhẫn và tìm kiếm mạng lưới ủng hộ giúp bạn quyết tâm thực hiện. Viết blog về cuộc hành trình giúp tôi bám sát mục tiêu, bởi tôi có trách nhiệm với toàn bộ độc giả theo dõi trang blog. Họ ủng hộ tôi, và tôi muốn thành công! Bạn hãy cân nhắc việc viết blog kể về chuyến hành trình của bạn. PHẦN 2 [ĐI TÌM HẠNH PHÚC BẰNG CÁCH SỐNG GIẢN ĐƠN] CHƯƠNG 3: Thay Đổi Mối Quan Hệ Giữa Bạn Và Của Cải Vật Chất Tôi tin việc xem xét tác động ngầm của tất cả những món đồ chúng ta sở hữu trong cuộc sống... là bước khởi đầu để thay đổi mọi thứ. ANNIE LEONARD Khi ngồi trong lớp Kinh tế học Cơ bản, tôi cựa quậy liên hồi trên ghế, cố ngăn cảm giác thôi thúc muốn chạy vòng quanh lớp. Thầy đang giảng về luật thương mại với chất giọng đều đều, dễ gây lơ đãng. Tuy thầy dạy thiếu nhiệt tình, trí tò mò trong tôi vẫn trỗi dậy khi thầy đề cập đến Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Thầy định nghĩa GDP là “chỉ số đo lường sự tăng trưởng kinh tế”. Annie Leonard, tác giả quyển The story of stuff (Câu chuyện của Vật Chất), định nghĩa tăng trưởng một cách đơn giản là có mọi thứ nhiều hơn, “Nhiều của cải hơn. Nhiều tiền hơn. Đọc sao hiểu vậy, tăng trưởng có nghĩa là bành trướng ra.” Mặc dù ông thầy dạy Kinh tế học Cơ bản của tôi giảng bài một cách thờ ơ, nhưng chủ đề mà thầy trình bày thách thức tôi và khiến tôi muốn tìm hiểu thêm thông tin. Tôi bắt đầu đăng ký học thêm nhiều lớp kinh tế học cho vui, và cuối cùng, tôi tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế học. Khi nghiên cứu sâu hơn, tôi nhận thấy một điều. Các thầy cô giảng giải rất nhiều về tầm quan trọng của việc tăng trưởng kinh tế, song họ ít khi nhắc đến hạnh phúc - những “vị giáo sư u sầu” dường như chẳng quan tâm gì lắm đến hạnh phúc. Tuy nhiên, khoa kinh tế học vẫn có một trường hợp ngoại lệ. Một trong những người thầy mà tôi yêu quý, Giáo sư Michael Perelman, đã khuyến khích sinh viên chất vấn về những chính sách “bình thường”. Thầy tập trung vào các chủ đề như hạnh phúc và chủ nghĩa tiêu thụ, và thầy biện luận rằng mô hình kinh tế dựa vào sự tăng trưởng liên tục không phải là một chính sách tốt. Vì sao ư? Giáo sư Perelman cho rằng GDP đã bỏ qua một vài chỉ số vô cùng quan trọng. Chính trị gia Robert Kennedy đã lý giải vấn đề một cách thuyết phục, ông cho rằng GDP không tính đến “sức khỏe của con cái chúng ta, chất lượng giáo dục, hay niềm vui của bọn trẻ khi được vui chơi. Nó không bao hàm vẻ đẹp của thi ca hay sự bền vững của hôn nhân; trí tuệ sâu sắc của các cuộc tranh luận công khai hay tính liêm chính của các công chức. Nó không đo được tính dí dỏm cũng như lòng dũng cảm; trí khôn ngoan cũng như việc học hỏi tiếp thu; lòng trắc ẩn cũng như sự tận trung của chúng ta dành cho tổ quốc; tóm lại, nó đo lường mọi thứ, trừ những thứ khiến cuộc đời này đáng sống.” Vậy thì GDP đo cái gì? Sự tăng trưởng kinh tế dựa trên năng suất, sức tiêu thụ, dịch vụ, và thương mại dẫn đến những thứ như chiến tranh ở Iraq, tình trạng tràn dầu, phá rừng, chi phí đầu đạn hạt nhân, và tất cả những món đồ chúng ta mua ở trung tâm mua sắm. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn: Đo lường sự tăng trưởng để làm gì khi chúng ta không hề hạnh phúc? Trong quyển The End of Growth (Kết Cục của Sự Tăng Trưởng), Richard Heinberg viết, “Các nhà kinh tế học hầu như đều tránh nhắc đến chủ đề hạnh phúc vì thiếu phương pháp đo lường hữu hiệu; tuy nhiên, trong những năm gần đây, ‘các nhà kinh tế học hạnh phúc’ đã tìm ra cách thức kết hợp khảo sát chủ quan với dữ liệu khách quan (dựa trên độ tuổi, thu nhập, trình độ học vấn) để cho ra kết quả nhất quán, tạo ra một chỉ số hạnh phúc quốc gia thiết thực.” Richard Heinberg tiếp tục giải thích rằng ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các hộ gia đình ở Mỹ “chi gần 19% mức thu nhập sau thuế để trả nợ. Tổng nợ gia đình đạt mức cao nhất vào năm 2008 ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính là 14 ngàn tỷ đô-la, so với giá trị toàn bộ nền kinh tế nước Mỹ trong cùng năm đó là 14,3 ngàn tỷ đô-la.” Hèn chi mà các chứng căng thẳng, trầm cảm, lo lắng và phiền muộn ngày càng gia tăng. Không có gì ngạc nhiên khi biết rằng ngày nay mỗi hộ gia đình bình quân dành khoảng 20% mức thu nhập sau thuế để trả nợ. Như Tim Kasser nói, “Các học giả từ hầu hết mọi ngành triết học và tôn giáo đều tuyên bố giống nhau rằng sự chú trọng vào của cải vật chất cũng như địa vị xã hội đã làm bào mòn những thứ có ý nghĩa trong cuộc sống.” Thế nhưng, các thông điệp văn hóa luôn bảo mọi người rằng “nhiều hơn là tốt hơn” và rằng việc tiêu dùng hàng hóa sẽ khiến chúng ta cảm thấy mình thành công và quyền lực. Kết quả là chúng ta tận dụng bản thân hết cỡ. Tôi đã từng như thế, và tôi thấy bạn bè, người thân của tôi cũng vậy: dùng hết hạn mức thẻ tín dụng, thế chấp tài sản, và vay nợ lãi cao để mua sắm du thuyền, xe hơi, nhà ở, v.v. Logan và tôi lần đầu tiên suy xét về cách sống của mình ngay khi chúng tôi lấy nhau năm 2003. Nhưng mãi cho đến khi tôi đến Chiapas, Mexico vào năm 2005, tôi mới thay đổi tư duy. Tôi thấy được mối liên kết giữa hành động cá nhân và nền kinh tế hạnh phúc được bàn luận trong các khóa học kinh tế mà mình tham gia. Hướng Đi Mới Một năm trước khi chuyển đến sống ở căn hộ mới nhỏ hơn, tôi quyết định nghỉ công việc trong ngành quản lý đầu tư. Logan và tôi lúc ấy mới đang bàn bạc về việc thu gọn và đơn giản hóa cuộc sống, nhưng tôi đã nhận ra rằng chìa khóa để nâng cao hạnh phúc cá nhân là đổi nghề và tìm một công việc ý nghĩa hơn. Vì lẽ đó mà đầu năm 2005, tôi tham gia công tác tình nguyện ở Mexico Solidarity Network (MSN) - một tổ chức ủng hộ dân chủ, công bằng kinh tế và quyền con người ở cả hai phía biên giới Mỹ-Mexico. Văn phòng chính của họ đặt ở Chicago, nhưng họ có tình nguyện viên khắp nước Mỹ, và tôi liên lạc với giám sát viên qua email và điện thoại. Với vai trò là một tình nguyện viên, tôi bán những món hàng thủ công do nhóm Zapatista, một cộng đồng bản địa, làm ra. Chúng tôi làm việc với một nhóm thợ nữ, được gọi là Women of Dignity (Phụ nữ Tự trọng), chuyên sản xuất bằng tay các mặt hàng như vòng tay, áo, túi xách, bao gối và chăn. Người ta gọi nhóm Zapatista bằng nhiều cái tên, từ cộng sản cho đến người hùng thời hiện đại, tùy vào quan điểm và tư tưởng chính trị. Kể từ năm 1994 đến nay, Zapatista không ngừng đấu tranh giành quyền kiểm soát nguồn tài nguyên địa phương, đặc biệt là đất đai, và họ được một số tổ chức như MSN ủng hộ. Mỗi sáng thứ Bảy, tôi đều uể oải bò khỏi giường, pha cà phê và chất lên chiếc Honda station Wagon một va-li đầy những món hàng thủ công đẹp mắt, rồi lái thẳng đến khu chợ quê, bày hàng lên chiếc kệ nhỏ để bán các thứ như cà phê, quần áo may tay, trang sức kết tay, sách truyện, và một số mặt hàng thủ công khác. Tiền bán hàng được gởi lại cho nhóm Zapatista để chi tiêu vào các chương trình cộng đồng, bao gồm giáo dục và chăm sóc y tế. Logan ủng hộ các hoạt động tình nguyện của tôi và thường giúp tôi bán hàng. Rồi một ngày nọ, tôi nói với anh rằng tôi muốn đến thăm Mexico một chuyến. “Em muốn đi đâu?!” Logan kêu lên. “Đến bang Chiapas phía nam Mexico. Em mới nhận được email của một thành viên MSN. Cô ấy nói họ sắp dẫn một phái đoàn đến Oventic, một trong những cộng đồng Zapatista. Nó gần San Cristobal de las Casas. Em thấy chuyến đi này sẽ rất tốt cho công việc tình nguyện mà em đang làm.” Logan thở dài nói, “Anh không biết nữa, Tammy à. Anh biết em rất quan tâm đến các nền kinh tế khác nhau, và anh ủng hộ hầu hết những triết lý của nhóm Zapatista, nhưng Chiapas là một bang được quân sự hóa cao. Anh nghĩ em đi đến đó chẳng an toàn chút nào. Với lại, mình còn một khoản nợ khá lớn từ hồi sinh viên. Em không nghĩ mình nên trả hết nợ nần trước khi bỏ tiền cho một chuyến đi xa sao?” Tôi tròn mắt nói, “Sao cũng được. Em không quan tâm đến khoản nợ ấy. Lúc nào mà mình chẳng mắc nợ, nên thôi, cứ đi. Đây là cơ hội có một không hai, và em thấy nó không nguy hiểm như anh nghĩ đâu. Ngoài ra, em đã quyết định rồi. Anh đi hay không thì em cũng đi.” Mặc dù cãi nhau về chuyến đi, nhưng tôi nghĩ là anh sẽ đi cùng tôi. Và tôi đã đúng. Tôi còn nhớ như in những lời anh nói với tôi, “Nhiều lúc em cứng đầu ghê gớm. Anh thấy lo về chuyến đi này, nhưng nếu ở nhà thì anh còn lo lắng hơn, nên thôi anh đi cùng em vậy.” Nếu suy nghĩ thực tế, chắc hẳn chúng tôi nên ở nhà và tập trung dọn bớt đồ, trả bớt nợ. Nhưng Logan bảo tôi rằng từ trước tới nay, anh chưa bao giờ thấy tôi để dành tiền cho bất cứ việc gì. Càng hiểu thêm về nhóm Zapatista, tôi càng xét lại mối quan hệ giữa mình với của cải vật chất, với hạnh phúc, và với cả cách tôi dùng các kỹ năng của mình để tạo nên sự khác biệt cho thế giới. Một Thế Giới Khác Khi chúng tôi bay đến thành phố Mexico, cuối cùng tôi cũng hiểu được điều mà Logan muốn nói khi anh bảo Mexico là một bang được quân sự hóa cao - chưa đến Chiapas mà chúng tôi đã thấy cảnh sát đeo súng máy rảo khắp sân bay. Hồi còn bé tôi từng ra khỏi nước Mỹ, nhưng lúc lớn thì chưa. Nhìn thấy vũ khí quân đội xuất hiện nhan nhản đúng là sốc thật. Trong lúc đợi chuyến bay rời thành phố Mexico, chúng tôi gặp một số tình nguyện viên khác và trò chuyện với nhau. Chẳng mấy chốc, chuyến bay cất cánh, và trước khi kịp nhận ra, chúng tôi đã đáp xuống Tuxtla Gutiérrez, Mexico. Jennifer, một thành viên MSN, cho biết taxi sẽ đón chúng tôi ở sân bay. Chúng tôi đợi ở đó ít nhất là một tiếng đồng hồ, nhưng không có chiếc taxi nào xuất hiện. Emilio, một anh chàng bác sĩ thực tập nói thạo tiếng Tây Ban Nha, trấn an chúng tôi. Cậu ấy bảo chúng tôi có thể đón xe buýt đến San Cristobal để gặp nhóm tình nguyện viên còn lại; chỉ cần đón xe từ sân bay ra trạm xe buýt thôi. Emilio trình bày hoàn cảnh với một người đàn ông lớn tuổi; ông ấy đồng ý chở chúng tôi đến trung tâm thành phố mà chỉ lấy ít tiền. Ông len lỏi vượt qua mấy chiếc xe khác trên đường như tay đua thứ thiệt, và tôi tưởng mình sắp chết đến nơi. Để tự làm mình phân tâm, tôi tập trung vào luồng không khí ấm áp, trong lành đang phả vào mặt. Quan sát kỹ hơn khi đi xuyên qua thành phố, tôi thấy những túp lều cũ nát người ta gọi là nhà và lũ trẻ chừng 5 tuổi đang bán kẹo và mấy món hàng thủ công hai bên đường. Tất cả điều này làm tôi muốn khóc, bởi tôi chợt nhận ra trước đây mình ích kỷ biết bao. Là một phụ nữ Mỹ da trắng, thuộc tầng lớp trung lưu, được hưởng nhiều quyền lợi, tôi đã dành nhiều năm tháng cuộc đời mình để chạy theo của cải vật chất và không ngừng thèm muốn nhiều hơn. Tôi quá quan tâm đến hạnh phúc của riêng mình đến nỗi quên rằng còn bao nhiêu người trên thế giới đang chịu đau khổ vì thiếu thốn đủ bề. Chiếc xe đột ngột dừng lại, kéo tôi ra khỏi luồng suy nghĩ. Đã đến lúc phải chuyển sang xe buýt. Trên xe buýt ngột ngạt, trán và lưng tôi lấm tấm mồ hôi, nhưng cảnh đồng quê thì đẹp tuyệt vời. Chiếc xe từ từ ôm cua qua đường núi. Càng lên cao, địa hình càng dốc. Khi xe bò lên núi, chúng tôi băng qua những trang trại nhỏ. Tôi ngạc nhiên khi thấy những người nông dân nơi đây sáng tạo đến mức nào; họ trồng bắp thành từng hàng trên sườn đồi dốc, và những chú bò đứng gặm cỏ ngay chỗ dốc cheo leo. Lúc tiến vào San Cristobal, tôi càng thêm biết ơn Emilio. Logan và tôi chỉ biết lõm bõm tiếng Tây Ban Nha, và nếu không có Emilio, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ đến được đây. Chúng tôi gõ cửa, Jennifer xuất hiện. Cô nói, “Tôi bắt đầu thấy lo cho các bạn đây. Taxi đến trễ à?” Emilio có vẻ bối rối, “Tài xế taxi không hề xuất hiện. Chúng tôi đi nhờ xe vào thành phố, rồi đón xe buýt.” “Ồ không! Tôi đã trả tiền cho tài xế trước khi ông ta rời San Cristobal mà. Chắc lão lấy tiền rồi trốn luôn rồi. Tôi rất xin lỗi các bạn. Cũng mừng là các bạn đã đến nơi an toàn. Vào nhà đi nào!" Chúng tôi vào nhà họp bàn về lịch trình tuần sau. Kế hoạch là ở lại San Cristobal ít ngày tới, nghe vài bài giảng rồi đến làng Zapatista ở Oventic. Đêm đầu tiên ở San Cristobal, chúng tôi chủ yếu đi bộ vòng vòng, khám phá và ngắm người qua lại. Thành phố này là một khối kiến trúc cổ kính, đậm chất Tây Ban Nha. Những ngôi nhà mái ngói đỏ, những con đường lát sỏi, và nhiều căn hộ khách sạn hai tầng có ban công sắt trồng hoa. Trong chuyến đi, tôi nhận ra rằng đây là lần đầu tiên tôi đi “du lịch bụi”. Dầu cho cuộc hành trình chỉ vỏn vẹn vài tuần, nhưng nó mở ra cho tôi một thế giới mới và một cách sống mới. Tôi nhận ra việc buông bỏ đồ đạc cá nhân dễ dàng biết mấy. Tôi không cần nhiều như tôi tưởng, và tôi thấy biết ơn vì chỉ mang theo một cái ba-lô bên mình. Trước chuyến đi, Logan và tôi bàn bạc rất nhiều về những thứ cần mang theo. Khi tôi cho Logan xem cái túi cắm trại tôi muốn đem theo, anh nhìn tôi nói, “Em không mang nó theo được!” Tôi ấp úng. “Sao lại không?” “Em yêu à, mình sẽ phải đi bộ rất nhiều. Em có thật sự muốn mang theo một cái túi khổng lổ để rồi phải kéo lê kéo lết nó trên đường không?” Nghe theo lời khuyên của anh, tôi quyết định chi tiền mua một cái ba-lô, hơi tốn tiền một chút, nhưng mà rất xứng đáng. Bây giờ, ba-lô nằm trong nhóm những món đồ yêu thích của tôi, cùng với xe đạp, máy tính, máy ảnh. Nhiều tình nguyện viên khác mang vác rất nặng nề. Bạn của tôi, Rosalie, phải lôi cái va-li to đùng qua mấy con đường lát sỏi; bánh xe va-li không giúp ích gì nhiều trong hoàn cảnh này. Những tình nguyện viên đem theo nhiều hành lý khác cũng kêu ca, phàn nàn, bởi họ cảm thấy giống như “dân Mỹ”, mang túi chất đầy những thứ không dùng đến. Rốt cuộc cũng đặt chân đến Oventic, và tôi không biết điều gì đang chờ mình phía trước. Nghe những người Zapatista kể về cuộc đấu tranh giành các quyền cơ bản như sở hữu đất đai, chăm sóc y tế, giáo dục, thì khô khan. Tuy nhiên, bất chấp hoàn cảnh khó khăn, họ có vẻ hạnh phúc, thậm chí vui sướng. Tôi không muốn lãng mạn hóa cuộc đấu tranh của họ, song họ có sự kết nối mạnh mẽ với cộng đồng khiến tôi thấy ganh tị. Lúc này, đây là thứ tôi muốn. Ở Chiapas, tôi nhận thức rõ những quyền lợi kinh tế của mình. Người Zapatista còn không có lấy những “thứ cơ bản” trong cuộc sống của tôi, bao gồm căn hộ xa hoa, xe hơi, trang phục đắt tiền, ti-vi. Nếu người Zapatista có thể sống giản dị, vẽ những bức tranh tường tuyệt mỹ, và hạnh phúc ngay giữa cuộc chiến quân sự và chính trị chống lại chính phủ, thì một điều gì đó trong tôi phải thay đổi. Trở Về Nhà Được đặt chân đến Chiapas là một đặc ân. Không phải ai cũng có có cơ hội bay đến Mexico chỉ để “suy ngẫm lại” thế giới quan của mình. Nếu không ghé thăm Zapatista, tôi nghĩ chắc không đời nào tôi chịu sống một cuộc đời đơn giản và nghe lời Logan bỏ bớt đồ đạc. Chuyến đi này là bàn đạp hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống coi trọng sức khỏe, hạnh phúc và cống hiến cho cộng đồng, chứ không phải tích lũy của cải vật chất. Dĩ nhiên, bạn không cần đi khắp thế gian để nghiền ngẫm lại thế giới quan. Bạn chỉ cần quyết tâm trở thành sự thay đổi bạn muốn nhìn thấy trên thế giới. Nghe hơi “sáo rỗng” nhưng đó là cách duy nhất để tạo ra sức tác động. Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi nhận thấy việc chuyển sự tập trung từ của cải vật chất sang cộng đồng đã làm thay đổi nhận thức của tôi về thế giới. Lúc đến Zapatista, tôi đã gặp một nhóm người ý thức rõ chỗ đứng của họ, những thứ thuộc về họ; và họ tin tưởng mãnh liệt vào việc kiến tạo một nền kinh tế địa phương vững mạnh. Họ không cần bất cứ thứ gì ngoài những gì họ đã có để thực hiện điều này. Cộng đồng Zapatista gợi tôi nhớ đến quan niệm sống tốt của Alan Durning. Một câu mà Durning nói trong bản báo cáo của Viện Worldwatch đã ám ảnh tôi. Ông nói, “Chấp nhận và sống đủ, thay vì sống thừa mứa, giúp ta quay về cái gọi là, nói theo khía cạnh văn hóa, ngôi nhà của nhân loại: trở về truyền thống gia đình, cộng đồng, công việc tốt và cuộc sống tươi đẹp; trở về việc xem trọng kỹ năng, óc sáng tạo và sáng chế; trở về nhịp sống thư thái đủ để ngắm hoàng hôn và dạo chơi bên bờ biển; trở về một cộng đồng đáng gắn bó suốt đời; và trở về những nơi chốn đầy kỷ niệm về bao thế hệ sinh ra và lớn lên.” Những Hành Động Nhỏ Khi bạn bắt đầu ngẫm lại mối quan hệ với của cải vật chất, hãy cân nhắc đưa những việc làm sau vào danh sách cần làm. - Mang gọn nhẹ khi đi du lịch. Thay vì mang theo một va-li chất đầy đồ đạc cho chuyến đi hai ngày cuối tuần hay kéo dài cả tuần, hãy thử thách bản thân bằng cách chỉ mang một cái ba-lô thôi. Ghi nhận lại cảm xúc của bạn trong trải nghiệm này và những chuyện xảy đến trong chuyến đi. Nghe hơi “sến” nhưng hiệu quả đấy. - Đợi ba mươi ngày trước khi mua sắm. Giờ đây, nếu quyết định mua một món đồ mới, tôi sẽ chờ khoảng ba mươi ngày (có lúc lâu hơn). Khoảng thời gian chờ này giúp tôi tránh việc mua theo cảm tính và thật sự suy xét là mình có thật sự cân nó hay không. Ví dụ, gần đây tôi mới mua iPhone. Ngay từ lúc nó mới ra mắt vào năm 2007, tôi đã muốn lao ra khỏi nhà mua ngay một cái. Nhưng tôi đợi đến năm 2012! - Áp dụng quy tắc “nhập-một, xuất-một”. Ngoài việc chờ ba mươi ngày trước khi mua bất cứ thứ gì mới, tôi còn tuân thủ chặt chẽ quy tắc nhập-một, xuất một. Mỗi khi mua một món mới, tôi đem một món gì đó cho hội từ thiện. Dù là mua một quyển sách, một cái áo len, hay một cái áo sơ-mi mới, tôi luôn tìm một món khác để cho đi. CHƯƠNG 4: Sức Nặng Của Nợ Nần Để thay đổi cuộc sống của một người, hãy bắt đầu ngay lập tức, làm hết sức, không có ngoại lệ. WILUAM JAMES Lúc ngồi trong xe và nhìn chằm chằm vào đuôi xe phía trước, tôi muốn hét lên. Tôi thấy chán chường, bế tắc, theo đúng nghĩa đen. Cơ thể và tâm trí tôi nặng trĩu, tựa như một cục gạch khổng lổ. Tôi đang tự giết mình do ngồi quá lâu, uống rượu quá nhiều, căng thẳng quá mức và nợ nần chồng chất. Hơn một năm qua, tôi cứ bị tắc đường tại cùng một chỗ, và cũng giống như những món nợ mà tôi đang gánh, việc này ngăn cản tôi đi đến nơi mong muốn. Tôi chỉ còn biết cười chua chát trong tình cảnh này. Tôi đang làm việc trong ngành quản lý đầu tư, một công việc đề cao tầm quan trọng của việc đầu tư dài hạn, lập quỹ dự phòng khẩn cấp, trả dứt nợ thẻ tín dụng và nhận biết những chi phí vượt trội. Tôi chẳng làm theo bất kỳ lời khuyên cơ bản nào trong đây. Đời sống tài chính của chúng tôi giống một tủ quần áo chật cứng. Chúng tôi có quá nhiều tài khoản ngân hàng và quá nhiều thẻ tín dụng. Mọi thứ đều vô tổ chức và vượt tầm kiểm soát. Logan và tôi đều cảm thấy quá tải và căng thẳng cực độ. Chất lượng cuộc sống của chúng tôi ngày càng giảm sút. Đó là vào năm 2004, và tôi hoàn toàn không thấy lối thoát. Món nợ 3.000 bảng Anh khi chúng tôi quyết định mua xe mới chính là giọt nước tràn ly buộc chúng tôi phải tuyên chiến với nợ nần. Chiếc Xe Mới Toanh Thời điểm đó là vào mùa hè ở Davis, bang California. Không khí nóng ẩm, nóng đến ngột ngạt. Trời nóng gắn 39°C và máy điều hòa bị hỏng. Không chịu nổi khi ở trong một căn hộ nóng hầm hập, Logan và tôi quyết định đi dã ngoại, bất chấp thời tiết. Nếu may mắn có gió thổi qua sân, chúng tôi sẽ thấy mát mẻ hơn. Khu chung cư nơi chúng tôi ở có vài khoảng sân trồng cỏ để sẵn bàn ghế, nhưng chúng tôi chọn ngồi trên cỏ. Tôi trải tấm bạt (mới mua trong đợt quyên góp) ra rồi bày biện thức ăn lên, gồm bánh mì nóng, mấy quả dâu, việt quất, táo, phô-mai và một ít bánh quy. Ăn uống no nê, chúng tôi nằm trên tấm bạt, ngắm nhìn bầu trời xanh thẳm không một gợn mây. Ngoại trừ trời nóng ra thì đây là một buổi chiều thứ Bảy tuyệt vời. Thế rồi, tôi nói đến chuyện mua một chiếc xe hơi mới, và báu không khí giữa chúng tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi đã có hai chiếc xe, nhưng xe tôi đi đã cũ và không an toàn, nên tôi muốn đổi chiếc mới. Nhưng một chiếc xe mới sẽ khiến chúng tôi nợ càng thêm nợ. Vợ chồng tôi bắt đầu cãi nhau. Tôi nói, “Chúng ta cũng có thể mua xe mới mà. Dù sao mình cũng mắc nợ cả đời còn gì. Chẳng có cách nào để em trả hết món nợ hồi sinh viên. Với lại, ai cũng bảo mình cần một chiếc xe mới đó thôi. Ngay cả bố em cũng nói mình nên xem xét chuyện mua xe!” Logan đáp, “Lý do mua xe mới nghe thật hết nói nổi.” “Nhưng còn công việc của em thì sao? Em cần một chiếc xe an toàn để đi làm.” “Anh không biết, Tammy à. Mình tính thử chi phí xem rồi quyết định nhé em.” Tối đó, chúng tôi so sánh chi phí mua xe mới với chi phí giữ lại xe cũ, rồi kết luận rằng mua xe mới đỡ tốn hơn chạy xe cũ. Xe cũ đã qua hai đời chủ, dàn lạnh hư rồi, và còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Những chuyện này làm chúng tôi tốn thời gian, công sức và tiền bạc. Hơn nữa, có một lần xe cũ bị hư trên đường cao tốc, làm tôi phải đứng bên vệ đường dưới trời nắng nóng để đợi xe tải đến kéo. Tôi chẳng còn dám lái chiếc xe này nữa. Mua chiếc mới nghe hợp lý hơn. Ít ra, đó là cách chúng tôi biện minh cho số tiền sẽ bỏ ra. Thay vì tiếp tục tranh cãi về các chi phí, chúng tôi quyết định thử một cách khác. Để cảm thấy yên tâm về khoản nợ, chúng tôi viết ra mục tiêu của mình. Chúng tôi vô tình thực hiện một hành động có ý thức gọi là “Những Cái Tôi Tốt Nhất Có Thể” - viết mục tiêu vào sổ tay. Theo các nhà nghiên cứu, viết ra mục tiêu giúp bạn hình dung rõ cuộc sống tương lai. Chúng tôi nhận ra việc theo đuổi ước mơ mà không nặng gánh nợ nần sẽ dễ dàng hơn nhiều. Ví dụ, tôi muốn nghỉ việc, nhưng chỉ khi nào trả được hết nợ, mơ ước ấy mới trở thành hiện thực. Liệt kê các khoản chi phí là một phần quá trình triển khai kế hoạch trả nợ. Khi chốt ngân sách và thói quen tiêu dùng, chúng tôi nhận ra khoản hao tốn nhiều nhất, còn hơn cả tiền thuê nhà, chính là chi phí xe hơi. Con số thật sự gây sốc! Tổng số tiền trả góp, trả lãi, bảo hiểm và phí bảo trì là mười ngàn đô-la mỗi năm, trên mức trung bình quốc gia. Câu lạc bộ xe hơi AAA ước tính hàng năm, bình quân mỗi người Mỹ dành khoảng chín ngàn đô-la, tức 20% tổng thu nhập, để trả các khoản phí liên quan đến xe hơi. Bỏ xe hơi là phần khó nhất trong quá trình thu gọn cuộc sống, và chúng tôi đã làm việc đó qua nhiều giai đoạn. Trước hết, Logan bán chiếc Ford Ranger cũ của anh vào cuối năm 2004; sau đó, sang năm 2006, tôi bán chiếc Honda station Wagon cũ, và chúng tôi mua chiếc Honda Fit màu xanh. Việc mua xe mới, trớ trêu thay, lại là nguyên nhân khiến chúng tôi đi đến quyết định rằng để thay đổi cuộc sống và hiện thực hóa ước mơ, chúng tôi phải không dùng tới xe hơi. Đạp Xe Đến Tự Do Tài Chính Tôi tưởng không có xe hơi chắc sẽ khổ sở lắm, nhưng hóa ra không đến nỗi tệ. Logan đạp xe đến trường, và tôi bắt đầu ghen tỵ khi thấy anh vui thích với việc đó. Nhờ vậy mà tôi ít lái xe hơn. Từ năm 2006 đến đầu năm 2007, lúc chúng tôi còn sống ở Davis, tôi bắt tàu điện Capitol Corridor Amtraks xuống Sacramento, rồi đi bộ khoảng 1,5 km đến văn phòng. Đi như vậy thì chậm hơn 15 phút, nhưng đó là một cách tuyệt vời để khởi đầu một ngày mới. Tôi vận động được một chút và còn tiết kiệm 200 đô-la phí đậu xe hàng tháng! Thay vì không nhúc nhích được vì kẹt xe, tôi đi bộ và đạp xe, nhờ thế mà tôi vui vẻ hơn, thoải mái hơn, và còn nâng cao lòng tự trọng. Các nghiên cứu đã chứng minh những gì tôi trải nghiệm. Vận động vừa đủ làm giảm căng thẳng và khiến bạn thấy hạnh phúc hơn. Thật vậy, chúng tôi lái xe ít đến nỗi tôi bắt đầu gọi AAA thường xuyên để được hướng dẫn khởi động xe. Bởi vì xe vẫn còn tương đối mới, nên tôi không hiểu được vì sao nó không nổ máy vào buổi sáng. Người thợ máy ở đại lý phân phối trong vùng giải thích rằng thời gian tôi lái xe không đủ để sạc pin. Có vẻ là tôi cần lái ra xa lộ nhiều hơn. Bước tiếp theo dần trở nên rõ ràng. Vào năm 2007, chúng tôi chuyển đến Sacramento, bán chiếc Honda Fit, và chuyển sang cuộc sống không có xe hơi. Để đáp ứng nhu cầu đi lại hàng ngày, Logan và tôi đi xe đạp hoặc sử dụng phương tiện công cộng. Lúc tôi còn học đại học hoặc mới chân ướt chân ráo vào ngành quản lý đầu tư, đạp xe để được tự do tài chính chưa bao giờ gọn lên trong tâm trí tôi. Tỏi luôn cho rằng sở hữu xe hơi là nhu cầu cơ bản. Tôi “cần” xe hơi để đi làm và về nhà. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng đến cảnh mình ghé cửa hàng tạp hóa bằng xe đạp, đi cắm trại cũng bằng xe đạp, và tìm thấy niềm vui thú mà không nhờ đến động cơ đốt trong. Mặc dù giờ đây, chúng tôi không có xe hơi nhưng vẫn thuê xe khi đi đâu đó dài ngày. Zipcar là một dịch vụ dùng xe chung. Để lái xe, chúng tôi chi trung bình khoảng 1.500 đô-la mỗi năm cho Zipcar (bao gồm phí hàng tháng và tiền thuê xe). Không sở hữu xe hơi không phải là sự lựa chọn dành cho tất cả mọi người, nhưng giảm bớt việc sử dụng xe hơi (và gánh nặng tài chính) bằng cách sở hữu ít xe hơn hoặc sử dụng dịch vụ thuê xe thì đáng để cân nhắc. Ý tưởng dùng chung, thú vị thay, được giới kinh doanh tán đồng. Tôi hỏi Lisa Gansky, tác giả quyển The Mesh: Why the Future of Business is Sharing (Mắt Lưới: Vì Sao Tương Lai của Kinh Doanh Là Dùng Dịch Vụ Chung) về lý do tại sao việc dùng dịch vụ chung lại quan trọng đến vậy. Cô bình luận, “Những công ty chuyên cho thuê phương tiện chuyên chở như RelayRides, GetAround và Spride ở Mỹ, cũng như WhipCar ở Anh, đều sử dụng công nghệ cho phép bạn sử dụng và thuê xe của hàng xóm trong lúc họ không dùng xe. Điều này tạo ra nhiều tiện ích hơn cho cộng đồng vì sẽ giảm đi lượng xe đậu ở bãi. Thứ hai, dùng chung xe tạo ra mối ràng buộc giữa người sở hữu và người thuê. Thứ ba, những người sử dụng dịch vụ này sẽ có thêm một khoản thu nhập khoảng 300 đến 750 đô-la mỗi tháng.” Gansky nói tiếp, “Cùng một chiến lược này áp dụng cho nhà ở, văn phòng, cửa hàng, đất đai, mái nhà, dụng cụ, và thời trang cao cấp... Sự hấp dẫn của lối sống ít thiên về vật chất hơn được thúc đẩy khi chúng ta chỉ có thể sử dụng hàng hóa và dịch vụ vào lúc ta muốn và cần đến nó. Chúng ta đang xếp giá trị của vật chất ngang hàng với chi phí sử dụng. Sự cân bằng này tự nhiên sẽ tạo ra một lối sống ít thiên về vật chất hơn, so với lối sống tích trữ cao độ mà ta vẫn đang cố gắng khắc phục.” Quyết định di chuyển bằng xe đạp và các phương tiện đi lại khác đã thay đổi cuộc sống của chúng tôi theo hướng ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, đó là một quá trình từng bước một, bắt đầu bằng việc đánh giá tình huống, rồi tìm ra những phương thức hiệu quả, sáng tạo để giảm bớt các chi phí nổi trội. Nếu bạn mắc nợ, đừng quá khắt khe với bản thân. Bạn không hề đơn độc. Khi Logan và tôi đi từng bước nhỏ, tôi bắt đầu viết blog về lối sống giản đơn. Tôi tìm thấy một trang blog có tên Zen Habbits của Leo Babauta; tác giả cũng đang cố gắng trả hết nợ nần, sống đơn giản và đổi nghề. Câu chuyện của anh giúp tôi viết nên một câu chuyện mới. Leo Babauta: Phương Pháp Hòn Tuyết Nợ Leo nói rằng năm 2005 là một năm tồi tệ nhất trong đời anh. Leo thổ lộ, “Thời gian đó, tôi sống đắp đổi qua ngày. Tiền tôi kiếm được không đủ xài.” Leo phải xoay sở vừa nợ lớn lẫn nợ nhỏ: hóa đơn khám bệnh, tiền trả góp xe và nợ thẻ tín dụng. Chủ nợ còn gọi đến nhà yêu cầu anh thanh toán, và anh chẳng bao giờ trả kịp. Anh cho biết, “Hóa đơn cứ chất cao dần, và chúng tôi còn phải nuôi con nhỏ. Đó là khoảng thời gian u ám trong đời tôi. Một trong những khoảnh khắc tồi tệ nhất là khi tôi cạn sạch tiền trong ngân hàng và chúng tôi cần thức ăn. Thế là tôi đành phải lấy tiền trong ống heo tiết kiệm của bọn trẻ. Dĩ nhiên là sau đó tôi trả lại tiền cho con, nhưng cảm giác đó thật kinh khủng. Tôi biết nhiều người còn khổ hơn thế, nhưng với tôi, đó là khoảng thời gian thật sự tệ hại.” Tôi hỏi Leo cách anh xoay sở để thoát khỏi nợ nần. Anh giải thích, “Khi mới bắt đầu đơn giản hóa cuộc sống, tôi bỏ hút thuốc, nhưng tôi cũng xử lý các món nợ trong khoảng thời gian ấy. Khi viết ra chi phí và thu nhập, tôi thấy rõ ràng là thu nhập không đủ. Vì thế, chúng tôi bắt đầu liệt kê mọi khoản nợ. Đáng sợ nhưng là một việc cần thiết. Tôi phải cầm máu [tài chính].” Leo và vợ theo dõi chặt chẽ các khoản chi tiêu, cắt bỏ những khoản thừa. Họ không ra ngoài ăn nữa, pha cà phê ở nhà thay vì mua bên ngoài, cắt luôn thuê bao truyền hình cáp và các dịch vụ khác. Tất cả những hành động nhỏ này là bước đi đúng hướng tạo tác động lớn sau này. Leo cùng vợ cũng bán bớt một trong số hai chiếc xe. Việc này khó hơn nhiều so với việc cắt thuê bao. Nhà Babauta có sáu đứa trẻ và đi lại bằng một chiếc xe thoạt đâu cũng bất tiện, nhưng rồi mọi việc trở nên dễ dàng hơn khi họ quen với thói quen mới. Cuối cùng, họ quyết định bán luôn chiếc xe còn lại, và giờ đây, cả nhà Leo chẳng cần đến chiếc xe nào cả. Gia đình Babauta bỏ hết xe hơi được là vì họ sống ở San Francisco, nơi có lợi thế về hệ thống giao thông công cộng. So ra, những cư dân ngoại thành không dễ đón xe hay đi bộ, nên họ sẽ tốn một khoản phí. Theo một bài báo đăng trên tạp chí The Atlantic hồi năm 2011, “Gia đình nào sống gần các khu di chuyển chủ yếu bằng xe hơi phải chi một số tiền nhiều hơn đáng kể cho phương tiện đi lại, dẫn đến việc còn ít tiền dùng vào dịch vụ chăm sóc y tế, thức ăn và các chi tiêu trong nhà khác.” Tôi hỏi Leo việc chuyển từ lối sống vật chất sang lối sống đơn giản ảnh hường bọn trẻ ra sao. Leo phát hiện “việc sống đơn giản và tìm cách tằn tiện chi tiêu làm gắn kết lại tình cảm gia đình một cách bất ngờ. Ngay cả khi không mắc nợ, tôi vẫn sẽ đơn giản hóa cuộc sống. Tất thảy những gì chúng tôi mang đến cho gia đình mình là tự do và bình dị.” Thay vì mất thời gian ở khu mua sắm, hai vợ chồng anh chơi đùa với các con ở ngoài trời. Họ chơi đá bóng ở sân sau, đọc sách và chơi cờ cùng nhau. Leo đúc kết, “Bạn sẽ luôn xài tiền nếu đến khu mua sắm. Đó là nơi được thiết kế để bạn phải móc hầu bao ra.” Leo nói rằng đơn giản hóa cuộc sống cho bọn trẻ thì “dĩ nhiên là khó hơn, nhưng không phải là ‘không thể’. Nếu bạn không tin mình làm được, thì chắc chắn bạn sẽ không làm được. Tôi có sáu đứa con nhỏ và bỏ đi được rất nhiều thứ - chúng tôi thường xuyên nói chuyện với các con về việc có quá nhiều đồ đạc và những thứ chúng thật sự cần dùng.” Với Leo, đơn giản hóa cuộc sống là một quá trình diễn ra từ từ, có tác dụng nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình cũng như giảm chi phí sinh hoạt. Anh nhấn mạnh, “Bạn trao đổi với con, ngày qua ngày, chứ không phải là một sớm một chiều. Tôi cũng cố gắng làm gương và cho các con thấy rằng không cần phải có nhiều đồ đạc mới thấy hạnh phúc. Quan trọng nhất, bạn không nên xếp lịch dày đặc cho bọn trẻ - chúng không cần đến lớp, chơi thể thao, tham gia câu lạc bộ và các hoạt động khác để bận rộn cả ngày. Tốt hơn là hãy dành nhiều thời gian cho bọn trẻ mặc sức chơi đùa, tưởng tượng và thư giãn. Những lúc gia đình quây quần bên nhau, với tôi, cũng quan trọng - hãy giảm bớt công việc để có thời gian dành cho gia đình.” Leo đã đơn giản hóa cuộc sống và thoát khỏi nợ nần ra sao? Ngoài việc theo dõi và cắt giảm chi phí sinh hoạt, Leo còn áp dụng “phương pháp hòn tuyết nợ”. Anh học phương pháp này từ Dave Ramsey, tác giả sách và là người dẫn chương trình trên radio. Phương pháp hòn tuyết nợ khá đơn giản, về cơ bản, bạn trả mỗi lúc một khoản nợ, bắt đầu với khoản nợ nhỏ, rồi dần chuyển sang khoản nợ lớn hơn. Sức đẩy từ việc trả hết mỗi khoản nợ mang đến cho gia đình Leo niềm hy vọng và những bước hành động cụ thể để tiếp tục nỗ lực. Leo cũng tăng thêm thu nhập bằng cách làm việc tự do. Khi trang blog của anh bắt đầu hái ra tiền, anh trả được nợ nhanh hơn. Trang blog Get Rích Slowly (Làm Giàu Từ Từ) của J. D. Roth viết về để tài “tài chính cá nhân hợp lý”, là một trong những nguồn cảm hứng lớn nhất của Leo. Leo nói, “Nếu bạn đang cố gắng trả hết nợ, hãy kết nối với một hoặc hai blogger cũng đang gặp phải trở ngại này. Trang blog của J.D đã đưa ra những lời khuyên hợp tình hợp lý. Bằng cách chia sẻ câu chuyện của bản thân trên trang Zen Habits, tôi đã đền đáp điều mà J.D. trao tặng cho tôi.” Leo khích lệ mọi người chia sẻ câu chuyện của mình bằng cách viết blog, và tôi tán thành. Viết về cuộc hành trình của mình thật sự hữu ích, bởi câu chuyện sẽ tiếp sức cho bạn và giúp ích cho người khác, đồng thời đó còn là cách nhìn lại những lựa chọn trong cuộc sống của bạn. Như Leo nói, “Thoát khỏi nợ nần và đơn giản hóa cuộc sống là hai mặt của một đồng xu. Thoát khỏi nợ nần nhờ sống đơn giản, sống đơn giản giúp tôi thoát khỏi nợ nần. Sống đơn giản là một lối sống tuyệt vời, bởi bạn chú trọng vào những thứ có ý nghĩa nhất với bạn, và bạn nhận ra rằng những thứ khác - như nhà cao cửa rộng, xe mới và những bộ quần áo hợp mốt - đều không quan trọng. Mua sắm những thứ ấy chỉ là cách gây ấn tượng với người khác, và khiến bạn chuốc lấy lo âu, căng thẳng, hao tốn thời gian, tiền bạc. Giờ đây, tôi sống một cuộc sống mà tôi làm những thứ mình đam mê, bao gồm viết lách, đọc sách và quây quần bên vợ con. Tôi giàu có về thời gian và các mối quan hệ. Vì có thêm thời gian, các mối quan hệ của tôi tốt đẹp hơn nhiều. Hiện tại tôi hạnh phúc hơn nhiều.” Những Hành Động Nhỏ Sau khi áp dụng vài bí quyết và phương pháp trong chương này, Logan và tôi đã trả hết món nợ ba mươi ngàn đô-la và còn dành dụm mua được ngôi nhà nhỏ mà chúng tôi hiện sống. Trong suốt quá trình ấy, tôi trở nên vui vẻ hơn nhiều. Hãy xem xét áp dụng những bí quyết sau vào cuộc sống của chính bạn, sử dụng những bí quyết hiệu quả và loại bỏ những cái không hiệu quả. Như Mark Twain từng nói, “Hai mươi năm sau, bạn sẽ thấy thất vọng bởi những việc bạn không làm hơn là những việc bạn đã làm. Vậy nên, hãy tháo dây thừng. Hãy chèo thuyền ra khỏi bến cảng an toàn. Hãy căng buồm đón gió. Hãy thám hiểm. Hãy mơ ước. Hãy khám phá.” - Sử dụng tiết kiệm hoặc thôi sử dụng thẻ tín dụng. Bỏ bớt thẻ, chỉ chừa lại một hoặc hai thẻ thôi, và chớ nên sử dụng cho các chi phí hàng ngày. Mức độ tiện dụng của thẻ có thể khiến bạn lắm đường lạc lối, vì thế, nếu phải dùng đến thẻ tín dụng, hãy chắc rằng bạn đã suy xét kỹ càng về khoản chi tiêu ấy. Ví dụ, bạn khó mà thuê được xe nếu không có thẻ tín dụng. - Xóa bỏ những chi tiêu không cần thiết, cắt giảm các chi phí lớn là cách nhanh nhất để bạn trả hết nợ nần, nhưng lại là cách khó nhất. Tuy nhiên, loại bỏ những thứ không cần thiết nhưng ít tốn kém hơn cũng quan trọng và hữu ích tương đương. Có thể bạn khó mà sống thiếu xe hơi/xe máy, nhưng bạn còn tiết kiệm được bằng nhiều cách khác như thôi ăn tiệm, ngưng mua sắm quần áo, cắt các dịch vụ thuê bao. Hãy thay đổi các thói quen của bạn: thay vì ngồi xem truyền hình cáp và uống rượu ở quán bar, hãy đi bộ, đọc sách ở thư viện và tự nấu ăn ở nhà khi tiếp đón bạn bè. - Lập bảng dự toán chi tiêu. Bạn cần biết mình chi cho việc gì và làm thế nào để trả hóa đơn hàng tháng. Việc lập bảng dự toán chi tiêu giúp giảm bớt căng thẳng và gia tăng hạnh phúc; ít nhất thì bạn cũng biết mình hy sinh những thứ nhỏ để đạt được mục đích lớn - kiểm soát tài chính. Hãy bắt đầu bằng cách xem lại các khoản chi phí cốt lõi và lên kế hoạch chi tiêu cho những thứ ấy. Hãy đảm bảo bạn tính tiền nhà, tiền chợ, tiền điện nước, rồi bạn mới biết mình có thể chi thêm (hoặc để dành) bao nhiêu mỗi tháng. Đừng quên xem xét các chi phí đặc biệt, hoặc những chi phí phát sinh mỗi năm một lần, đại loại thế. Một số tháng sẽ tốn kém hơn những tháng khác, chẳng hạn như chúng ta cần để dành tiền để đi thăm họ hàng vào dịp lễ Giáng sinh. - Coi lại thái độ của bạn đối với tiền bạc. Mỗi người có những thái độ khác nhau về tiền bạc, nợ nần và thu nhập. Thái độ đó ảnh hưởng đến chuyện bạn khó hay dễ thực hiện một cuộc sống đơn giản, sạch nợ. Những nguyên tắc hàng đầu về tiền bạc của bạn là gì? Tiền đóng vai trò ra sao trong cuộc sống của bạn? Mức thu nhập của bạn có nói lên con người bạn và quan điểm của bạn về thành công không? - Tăng thu nhập. Rõ ràng là nếu thu không đủ chi, thì chỉ có một giải pháp là bạn phải kiếm thêm tiền. Hãy tìm cách để kiếm thêm một ít. - Lập quỹ dự phòng. Hãy nghĩ đến việc gửi tiết kiệm một số tiền nhỏ hàng tháng. Đó là một chính sách bảo hiểm tuyệt vời. Ví dụ, khoản “bảo hiểm” này giúp tôi bớt căng thẳng, kể từ bây giờ, bất cứ khi nào có chi phí phát sinh bất ngờ, tôi biết mình có thể thanh toán thay vì ghi nợ thẻ. - Tự thưởng. Trả dứt nợ mất một khoảng thời gian dài, vì thế hãy tự thưởng cho mình trong quá trình ấy, như đạp xe đi dạo, tản bộ hoặc mua một ly cà phê. Hãy đặt ra những cột mốc và có những món quà đặc biệt dành cho mình khi đạt được nó. CHƯƠNG 5: Bán Đi Những Thứ Có Thể Bán, Cho Đi Những Thứ Còn Lại Tôi vẫn đang cho đi những thứ mình có và thấy nhẹ nhàng hơn mỗi ngày. COURTNEY CARVER Tôi hiện sống trong một ngôi nhà nhỏ di động, rộng chưa tới 12 mét vuông. Hãy thử đo diện tích tương đương trong nhà bạn, và hình dung cảnh sống trong khoảng không gian đó, chưa nói đến việc nhét hết đồ đạc của bạn vào. Khi Logan và tôi lần đầu bàn đến việc chuyển sang sống trong một ngôi nhà bé xíu hồi năm 2007, tôi còn không biết việc đó có khả thi hay không. Nhưng tôi đã làm được. Trong suốt quá trình, tôi phải bỏ đi rất nhiều thứ, và tôi biết việc từ bỏ những món đồ mình sở hữu khó khăn đến nhường nào. Ngay cả bây giờ, trong tôi vẫn văng vẳng tiếng nói, “Đừng có cho thứ đó! Có ngày sẽ cần đến thôi!” Vấn đề là, cái “ngày sẽ cần đến” đó có thể chẳng bao giờ đến, và trong lúc chờ đợi, những món đồ đó làm giảm giá trị ngày hôm nay của bạn. Một phần quan trọng trong quá trình đơn giản hóa cuộc sống là giảm bớt đồ trong nhà. Hãy nghĩ đến việc bạn mất bao nhiêu thời gian để tích góp, giữ gìn đồ đạc. Hãy nghĩ đến việc bạn mất bao nhiêu thời gian để lau chùi, dọn dẹp và sắp xếp đồ đạc. Ngay cả khi bạn chỉ dành khoảng 10 tiếng mỗi tuần để làm việc đó, thì mỗi năm cũng mất đến 520 tiếng. Thay vì thế, bạn có thể sử dụng thời gian ấy vào việc gì? Công tác tình nguyện? Hay ở cạnh những người thân yêu? Hay tập trung làm những gì mình thích? Khi bỏ đi những thứ thừa thãi, bạn sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, tự do hơn. Bạn sẽ có thêm thời gian cho những người và những việc thật sự làm bạn hạnh phúc. Hồi năm 2005, khi mới bắt tay thực hiện lối sống đơn giản, tôi không chịu bỏ bớt đồ đạc trong nhà, nhưng rồi tôi lại thấy yêu thích việc này bởi nó mang đến cho tôi niềm hạnh phúc vô ngần. Khi dọn bớt đồ đạc, bạn sẽ thấy vui vẻ, cho dù bạn có sống trong một ngôi nhà nhỏ hay không. Cuộc Chiến Miếng Ăn Khi chúng tôi đi bộ đến Zipcar, trời chỉ còn mưa lất phất, mặt trời bắt đầu lấp ló vén màn mây. Nắng chói đến mức chúng tôi buộc phải nheo mắt mới thấy đường đi khi rẽ qua Đại lộ 23 North-west ở Portland, Oregon, nơi đám đông đang nháo nhào bên trong và ngoài các cửa hàng cao cấp như Pottery Barn và William & Sonoma. Con phố này có hàng chục cửa hàng ăn uống, mua sắm và nhà hàng lớn nối thành dãy. Hồi mới lấy nhau, Logan và tôi thường ghé qua đây ngắm nghía rồi mua vài món cho ngôi nhà (tương lai). Giờ thì hết rồi. Đến năm 2011, Logan và tôi đã quyết tâm bỏ bớt đồ đạc và mong mỏi xây một ngôi nhà nhỏ hơn nhiều lần căn hộ mà chúng tôi đang ở vào thời điểm đó. Chúng tôi đang đến gặp Michelle, bạn của một người bạn. Michelle vừa mới xây một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô Portland. Cô sống ở đó cùng chú mèo mướp màu cam tên George, chú chó Alley và người yêu của cô. Cô đề nghị đưa chúng tôi đi tham quan một vòng sau khi uống trà xong cũng như tư vấn cho chúng tôi về cách thiết kế, xây nhà và sống trong một ngôi nhà nhỏ. Ban đầu, chúng tôi định đi xe đạp, nhưng nhà của Michelle cách căn hộ của chúng tôi 32 km, và tôi vừa mới hết cảm. Chúng tôi đăng ký dịch vụ dùng chung xe Zipcar cho những tình huống như thế này. Chúng tôi chọn chiếc Prius đỏ tên Paine. Zipcar đặt tên cho mấy chiếc xe nghe vui tai. Chẳng mấy chốc, chúng tôi lái chiếc Paine tiến vào một thế giới lạ lẫm trải dài những nông trại, những con đường nhỏ uốn khúc quanh co, và những căn nhà cũ kỹ rộng thềnh thang. Vào mùa hè, một vài nông trại trong số này cho phép bạn tự hái (có tính phí) dâu tây, mâm xôi, việt quất, dâu tằm, những quả đào chín trĩu cành, bắp ngọt, lê, xuân đào, cà chua và tiêu. Khung cảnh đồng quê quá đỗi thanh bình và tĩnh lặng. Cả vùng đất tuyệt đẹp sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời sau cơn mưa vừa tạnh. Nhưng mà, tôi không thể không nghĩ đến cảnh nếu chuyển về đây sống, chúng tôi sẽ mất nhiều thời gian đi tới đi lui xuống Portland. Khi chạy trên lối đi dẫn vào nhà của Michelle, tôi chết sững khi nhìn thấy ngôi nhà. Nơi trú ẩn nhỏ bé đó có vách dựng bằng gỗ tuyết tùng thô, mái lợp tôn, và cả cánh cửa sơn đỏ bé xíu xiu! Rồi tôi để ý thấy chiều dài chiếc xe Zipcar chúng tôi đang lái có lẽ bằng với chiều dài của ngôi nhà của Michelle, và tôi phá lên cười. Khi tôi còn đang ngẩn ngơ trước vẻ đáng yêu của ngôi nhà thì George, chú mèo của Michelle, nhảy lên mui xe kêu meo meo. Có lẽ đó là lời chào tuyệt vời nhất mà tôi từng nhận được. Michelle xin lỗi về hành vi của mèo George, rồi chúng tôi tán gẫu một chút ở bên ngoài. Rồi Michelle mời chúng tôi vào trong. Trong lúc cô đi pha trà, chúng tôi ngồi ở góc cửa sổ thích thú ngắm mèo George leo thang lên gác xép đánh một giấc trưa ngon lành. Khi mèo George đang say giấc, chúng tôi trò chuyện sôi nổi về hạnh phúc, gia đình, sự chấp nhận, cả việc thiết kế và xây một ngôi nhà nhỏ tương tự. Michelle tự nhiên, cởi mở và chân thành, nên chúng tôi nhanh chóng làm thân được với nhau. Cô nói rằng cô quyết định bán đi hầu hết đó đạc và cho thuê ngôi nhà rộng 185 mét vuông để xây ngôi nhà bé xíu lưu động này, bởi cô muốn có thêm thời gian dành cho đam mê, đó là dạy học (chứ không phải lau dọn). Cô nói quá trình dọn bớt đồ đạc để có một cuộc sống đơn giản như bây giờ không khó như cô nghĩ, và giờ đây, cô thấy hạnh phúc hơn rất nhiều. Michelle quả thật có khả năng truyền cảm hứng. Đến khi chúng tôi lái xe quay lại Portland, tôi đã trở nên hào hứng và thích thú khi Logan và tôi bàn đến việc xây một ngôi nhà nhỏ của chính chúng tôi. Thế rồi, ý nghĩ lo lắng quen thuộc lại lóe lên: Còn đồ đạc của hai vợ chồng thì sao? Nhà nhỏ vậy thì làm sao mà có đủ chỗ để đồ. Tôi càng lo hơn khi kiểm lại tất cả mọi thứ chúng tôi có, và ngay sau đó, Logan và tôi to tiếng với nhau về kho chứa lương thực. Bạn biết đó, khoảng bốn năm về trước, khi sống ở Davis, California, Logan bắt đầu mua thức ăn theo số lượng lớn. Anh lý giải rằng mua số lượng lớn tiết kiệm hơn và phòng trường hợp xảy ra thiên tai. Anh bảo tôi rằng Cơ quan Liên bang Đặc trách Tình huống khẩn cấp Mỹ (FEMA) khuyên mọi người cẩn chuẩn bị để sống sót mà không cần đến sự trợ giúp trong ít nhất 72 tiếng đồng hổ, nhưng sau cơn bão Katrina, nhiều chuyên gia thông báo nên chuẩn bị cho từ một đến hai tuần. Tôi tán thành ý tưởng mua thức ăn số lượng lớn cho đến lúc anh bảo chúng tôi nên để dành thức ăn tận sáu tháng. Một công ty đặt tại Idaho có thể gởi đến mấy thùng thức ăn. Ý tưởng này không chỉ hơi quái đản và kỳ quặc, mà tôi cũng chẳng hứng thú gì khi nghĩ đến hàng tá thùng ngũ cốc và thùng gạo khổng lồ choán hết chỗ trong căn hộ vốn đã bừa bộn của chúng tôi. Nhưng tôi đồng ý vì muốn tỏ ra ủng hộ anh. Logan đặt hàng với công ty Survival Acres (Cánh Đồng Sống Sót) vào ngày 11 tháng 8 năm 2007, và độ một tháng sau đó, 12 thùng trắng toát, mỗi thùng nặng gần 23 ký được chuyển tới căn hộ chúng tôi. Chúng tôi phải bảo đảm với ông chủ nhà rằng chúng tôi không có bị điên - rằng mấy cái thùng đó chỉ chứa thức ăn chứ không phải nguyên vật liệu cung cấp cho tổ chức trồng cần sa bí mật nào. Cũng may, toàn bộ thùng thức ăn được nhét gọn vào kho, và tôi không còn nhớ gì tới chúng nữa. Ít nhất cho đến khi chúng tôi chuyển nhà từ Davis đến Sacramento. Những thùng thức ăn đó vẫn theo chân chúng tôi, ngay cả khi không gian sống thu hẹp lại còn có 37 mét vuông. Ngay sau khi chuyển nhà, tôi thuyết phục Logan gửi một số thùng thức ăn ở nhà bố mẹ anh. Rốt cuộc, chúng tôi giảm từ 12 thùng xuống còn 6 thùng, nhưng 6 thùng thức ăn ấy vẫn phải đi cùng chúng tôi đến Portland, và bây giờ, có vẻ như đó là bề nổi của một vấn đề lớn hơn mà tôi không diễn tả được. Trên đường từ nhà Michelle trở về, Logan nói, “Anh không hiểu sao em ghét mấy cái thùng thức ăn đến thế. Để nó trong nhà, anh thấy yên tâm. Nếu thảm họa xảy ra, chúng ta sẽ có cái để ăn trong một thời gian. Anh tưởng em tán thành ý tưởng đó?” Tôi ngó mông lung ra ngoài cửa sổ và nói, “Em cũng tưởng vậy. Em không hiểu sao em cực kỳ khó chịu với mấy thùng thức ăn đó. Có lẽ là do vài lý do. Thứ nhất, mấy cái thùng quá choáng chỗ. Thứ hai, em muốn ăn thức ăn trong thùng. Chúng ta chỉ mới ăn một vài thứ thôi. Một nửa vẫn còn nằm trong kho. Mình không có nhiều đồ đạc, nhưng có vẻ như mình đang giữ một lượng thức ăn không cần thiết.” Cuộc bàn luận biến thành cuộc chiến đúng nghĩa. Tôi nói Logan giống mấy con sóc khoái trữ đồ, còn anh bảo tôi vô trách nhiệm. Vài tuần tiếp theo, Logan và tôi vẫn thao thao bất tuyệt về chuyện đó, và tôi chợt nhận ra rằng nỗi lo về mấy thùng chứa thức ăn của tôi bắt nguồn từ nỗi sợ. Tôi muốn xây một ngôi nhà nhỏ, nhưng lại sợ không đủ chỗ ở. Giờ đây nhìn lại, tôi thấy những cuộc chiến như vậy gần như là khó tránh khỏi, và nó buộc chúng tôi phải nói rõ cảm xúc của mình một cách thẳng thắn. Bất cứ khi nào đụng đến chuyện dọn bớt đồ - quần áo cũ, sách vở và những mớ lộn xộn khác - cho trống chỗ là chúng tôi lại cãi nhau về thùng chứa thức ăn. Chúng ta luôn giữ lại đồ đạc vì những lý do mà chúng ta cảm thấy quan trọng; và trút bỏ những lý do ấy, hoặc thay đổi góc nhìn, cũng là một phần của quá trình thu gọn cuộc sống. Cuối cùng, chúng tôi quyết định đem cho hầu hết các thùng thức ăn chưa mở ra, chỉ giữ lại một ít lương thực cần dùng hàng tuần như gạo, diệm mạch và bột mì để làm bánh mì và bánh quy. Giờ đây, chúng tôi vẫn trữ thức ăn phòng trường hợp khẩn cấp, nhưng chỉ đủ dùng cho hai tháng, vừa vặn với không gian sống của chúng tôi. Sống Gọn, Nghĩ Rộng, Tránh Tồn Trữ Trong lúc dọn kệ sách, một loạt câu hỏi lướt nhanh như điện xẹt trong đầu khiến tôi buột miệng: “Anh Logan, làm sao mình có thể sống được trong một ngôi nhà bé tí chứ? Mình có điên không khi muốn làm điều đó? Rồi biết để dụng cụ, thùng thức ăn, và đồ cắm trại ở đâu? Liệu mình có quyết định sai lắm không anh?” “Tammy à, em đừng lo. Mình có thể cất nhiều thứ ở bên dưới ngôi nhà mà. Sẽ đủ chỗ thôi. Em đang cuống lên rồi. Với lại, anh cũng định bỏ bớt mấy thứ nữa. “Thật sao anh?” tôi hỏi. “Thật chứ. Anh biết anh có hơi lơ là. Lâu rồi anh không kiểm kê đồ đạc.” Tôi thở phào, nhăn trán và nói, “Nghe vậy em cảm thấy nhẹ nhõm hơn chút. Em nghĩ mình nên làm theo đề nghị của Dee và đo sàn phòng khách. Chiều dài nhà lưu động chắc cỡ 2,5 X 3 mét. Mình thử hình dung chỗ ở mới, rồi dựng lên một ngôi nhà nhỏ giả trong căn hộ này. Để hết đồ vào sẽ giúp mình có thêm động lực mang cho hội từ thiện nhiều hơn.” Tháng 6 năm 2011, Logan và tôi ký hợp đồng với công ty dịch vụ nhà nhỏ Portland Alternative Dwellings và hạ """