"
Hạnh Nhân - Sohn Won-Pyung PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hạnh Nhân - Sohn Won-Pyung PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
ebook©vctvegroup
Sohn Won-Pyung
HẠNH NHÂN
Bích Ngọc dịch
Phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản Hà Nội 2019
LỜI TỰA
• Alexithymia, hay Chứng mất khả năng diễn đạt cảm xúc là một dạng khuyết tật về cảm xúc, được báo cáo lần đầu vào năm 1970. Theo đó, chứng bệnh này thường xảy ra ở người gặp khó khăn trong giai đoạn phát triển cảm xúc hay gặp phải sang chấn về tâm lý thời nhỏ, hoặc có kích thước hạch hạnh nhân nhỏ bẩm sinh. Trường hợp kích thước hạch hạnh nhân nhỏ, trong số các cảm xúc, người bệnh đặc biệt không cảm nhận được nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, cũng có báo cáo chỉ ra rằng một phần của hạch hạnh nhân liên quan đến nỗi sợ hãi hay sự bất an có thể phát triển nhờ vào luyện tập thường xuyên. Trong tiểu thuyết này, tôi miêu tả bệnh Alexithymia dựa trên căn cứ thực tế có pha thêm một chút tưởng tượng của riêng mình.
• P. J. Nolan là nhân vật giả tưởng.
• Cuốn truyện cổ tích được nhắc đến ở chương 57 là cuốn The Littlest Dinosaurs của tác giả Bernard Most. Tôi miêu tả khủng long dựa theo nội dung cuốn truyện này, ngoại trừ kích thước thực tế của chúng là được miêu tả theo kết quả tôi nghiên cứu.
Gửi tặng Dan
MỞ
Tôi có hạch hạnh nhân.
Bạn cũng có.
Cả những người mà bạn trân trọng nhất hay căm ghét nhất cũng đều sở hữu hạch hạnh nhân. Nhưng không một ai có thể cảm nhận được.
Chỉ biết rằng có một thứ như vậy tồn tại.
Nói một cách ngắn gọn, đây là câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa tôi - một con quái vật với một con quái vật khác. Tuy nhiên, tôi sẽ không tiết lộ ngay kết thúc câu chuyện này là bi kịch hay hài kịch. Thứ nhất, bởi lẽ khoảnh khắc kết thúc được phô bày, mọi câu chuyện đều trở nên vô vị. Thứ hai, tôi phải làm vậy thì khả năng các bạn đồng hành cùng câu chuyện này mới nhỉnh lên một chút. Thứ ba, chính vì vậy tôi xin đưa ra lời biện minh cuối cùng, trên thực tế cả tôi, cả bạn hay bất kỳ ai cũng mãi mãi không thể biết được một câu chuyện nào đó rốt cuộc là bi kịch hay hài kịch.
PHẦN 1
1.
Ngày hôm đó có sáu người chết và một người bị thương. Đầu tiên là mẹ và bà ngoại. Tiếp theo là một sinh viên liều mạng lao vào can. Sau đó là hai ông chú ngoài năm mươi đứng đầu hàng Cứu thế quân và một viên cảnh sát. Cuối cùng chính là người đàn ông ấy. Ông ta đã tự chọn bản thân làm nạn nhân cuối cùng cho cuộc thảm sát đẫm máu bằng dao. Người đàn ông tự đâm vào tim mình một nhát dao sâu hoắm ấy đã làm việc tương tự với các nạn nhân, khiến họ đều tắt thở trước khi xe cấp cứu tới. Còn tôi, chỉ đứng đó chứng kiến toàn bộ sự việc xảy ra ngay trước mắt.
Một cách vô cảm, như lúc nào cũng vậy.
2.
Sự kiện đầu tiên xảy ra hồi tôi sáu tuổi. Tuy điềm báo đã xuất hiện từ rất lâu trước đó nhưng phải đến năm tôi sáu tuổi, nó mới chính thức lộ diện. Vào độ tuổi muộn hơn dự đoán của mẹ. Phải chăng do mẹ tôi đã quá vô tâm? Ngày hôm đó mẹ không đến đón tôi. Sau này tôi mới biết hôm ấy mẹ đi thăm bố sau một thời gian dài, đúng hơn là sau mấy năm trời không ngó ngàng gì tới. Vừa lau bức vách ố màu cũ kỹ trong ngăn để hài cốt bố, mẹ vừa thủ thỉ rằng từ giờ sẽ quên bố, không phải để gặp gỡ người mới mà chỉ đơn giản là sẽ quên. Vào chính khoảnh khắc tình yêu của mẹ hoàn toàn kết thúc thì tôi, vị khách không mời mà đến từ thứ tình yêu non dại ấy, cũng hoàn toàn bị lãng quên.
Khi đám trẻ đều đã về hết, tôi thong thả rời trường mẫu giáo. Tất cả những gì một thằng bé sáu tuổi biết về vị trí nhà mình là nó nằm ở đâu đó phía bên kia cầu vượt cho người đi bộ. Tôi leo lên cầu, thò cổ ra ngoài lan can nhìn xuống dưới. Xe cộ bên dưới đang lướt vù vù như gió. Chợt nhớ ra một cảnh mình đã nhìn thấy ở đâu đó, tôi ra sức tiết nước bọt đầy miệng. Tôi nhổ nước bọt xuống dòng xe đang chạy qua. Nhưng nước bọt của tôi đã tan biến vào không trung trước khi kịp chạm xuống đất. Thấy vậy tôi càng cố nhổ thêm mấy lần nữa, tới mức hoa mày chóng mặt như đang lơ lửng giữa không trung.
“Làm cái gì thế hả? Bẩn quá đi mất.”
Tôi ngẩng đầu lên, một bà cô đi ngang qua đang quắc mắt nhìn tôi. Cũng giống những chiếc xe bên dưới đang băng băng chạy về đích đến của riêng mình, bà cô chỉ buông đúng một câu như vậy rồi đi thẳng, để tôi lại một mình, cầu thang nối từ cầu vượt xuống dưới tỏa ra bốn hướng, tôi không biết phải đi theo hướng nào. Nhìn kiểu gì thì phong cảnh dưới chân cầu thang cũng đều xám xịt một màu như nhau, dù là bên trái hay bên phải. Mấy con chim bồ câu vỗ cánh phành phạch, bay vút lên phía trên đầu tôi. Tôi quyết định đi theo hướng bay của đàn chim.
Khi nhận ra mình nhầm đường thì tôi đã đi quá xa rồi. Hồi đó ở lớp mẫu giáo tôi được học bài hát “Tiến về phía trước”. Theo lời bài hát đó thì trái đất tròn, cứ đi đi mãi kiểu gì cũng về tới nhà. Tôi tin vậy nên cứ bướng bỉnh bước từng bước ngắn tủn kiên định về phía trước.
Đi hết đường lớn thì đến một con ngõ nhỏ, hai bên san sát những căn nhà cũ kỹ. Không hề thấy bóng dáng con người. Đâu đó trên những bức tường xi măng trông như sắp đổ sập, tôi nhìn thấy những con số không rõ ý nghĩa và dòng chữ “Nhà hoang” màu đỏ quạch.
Đột nhiên có ai đó khẽ kêu “á”. Tôi cũng không rõ là “á” hay “ớ” hay “a a a” nữa. Đại khái đó là tiếng kêu rất nhỏ và đứt đoạn. Tôi đi về phía phát ra tiếng kêu. Dần dần tiếng kêu trở nên gần hơn, khi là “ư” khi lại là “i i i”. Âm thanh phát ra từ phía sau góc đường. Tôi không ngần ngại rẽ theo hướng đó.
Một đứa trẻ đang nằm dưới đất. Đó là một thằng bé nhỏ con mà tôi cũng không đoán nổi nó tầm mấy tuổi. Phía trên nó là những bóng đen chốc quây xung quanh chốc lại tản ra. Thằng bé đang bị đánh. Tiếng kêu rời rạc khi nãy không phát ra từ thằng bé mà đồng thanh phát ra từ những
cái bóng vây quanh nó. Bọn chúng dùng chân đạp và nhổ nước bọt vào người thằng bé. Mãi sau này tôi mới biết bọn chúng chỉ là học sinh cấp hai, còn khi ấy trong mắt tôi, những cái bóng của chúng cao lớn như bóng người trưởng thành.
Bị đánh một lúc lâu mà thằng bé không phản kháng cũng chẳng kêu tiếng nào. Nó chỉ lật người qua lại như một con búp bê vải. Một trong số những cái bóng giẫm mạnh lên sườn thằng bé như giáng đòn chốt hạ cuối cùng. Sau đó bọn chúng biến mất. Cả người thằng bé nhuốm đầy máu như thể bị đổ một thứ nước màu đỏ thẫm lên người vậy. Tôi tiến lại gần thằng bé. Trông nó có vẻ hơn tuổi tôi. Tầm mười một hoặc mười hai tuổi, như vậy là gấp đôi tuổi tôi. Nhưng dù vậy tôi cũng không hề nghĩ nó là anh lớn mà vẫn thấy nó chỉ là một đứa trẻ. Ngực nó phập phồng những hơi thở gấp gáp khẽ khàng như chú chó nhỏ vừa mới chào đời. Tôi có thể đoán được tình hình đang khá nguy cấp.
Tôi quay lại khúc ngoặt ban nãy. Vẫn không thấy một bóng người, những dòng chữ đỏ chóe trên bức tường xám xịt đập vào mắt tôi nhức nhối. Sau một hồi đi lòng vòng tôi cũng thấy một tiệm tạp hóa nhỏ. Tôi kéo cửa đi vào, nói với ông chú chủ tiệm.
“Chú ơi.”
Ti vi đang chiếu chương trình “Giải trí gia đình”. Ông chú đang bận xem ti vi cười khinh khích nên dường như không nghe thấy tiếng tôi gọi. Trò chơi đang diễn ra trên ti vi là trò mà người chơi sẽ đeo nút bịt tai và nhìn miệng người đang ra sức giải thích trước mặt mình để đoán câu. Câu cần đoán lúc đó là “run như cầy sấy”. Không hiểu sao tôi lại nhớ câu đó nữa. Thậm chí khi ấy tôi còn không biết “run như cầy sấy” nghĩa là gì. Đại khái, cô gái trẻ tham gia chơi đang liên tục đoán những từ rất kỳ cục khiến khán giả và cả ông chú chủ tiệm bật cười ha hả. Cuối cùng cũng hết giờ và đội của cô gái đã lỡ mất câu đó. Ông chú chép miệng tiếc nuối. Tôi lại lên tiếng.
“Chú ơi.”
“Hả?”
Ông chú ngoái cổ lại.
“Có ai đó bị ngất trong hẻm ạ.”
Tôi liền nói.
“Vậy hả?”
Ông chú tỏ vẻ nghiêm trọng. Trên ti vi sắp diễn ra cuộc chiến giành trả lời một câu hỏi điểm cao có thể lật ngược tình thế giữa hai đội. “Có thể sẽ chết đó ạ.”
Tôi đưa tay mân mê hộp caramen được xếp ngay ngắn trên kệ. “Vậy sao?”
“Vâng, đúng thế ạ.”
Ông chú đưa mắt dò xét tôi.
“Chuyện đáng sợ như thế mà nhóc bình thản ghê. Nói dối là không được đâu đấy.”
Tôi im lặng một hồi để tìm từ thuyết phục ông chú. Tuy vậy một đứa trẻ như tôi có vốn từ không mấy phong phú, dù nghĩ nát óc tôi cũng không tìm được lời nào nghe nghiêm túc hơn câu vừa nãy.
“Có thể sẽ chết đấy ạ.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành lặp lại.
3.
Trong lúc ông chú chủ tiệm tạp hóa xem nốt chương trình ti vi sau khi khai báo sự việc với cảnh sát, cả lúc ông ta vì ngứa mắt khi thấy tôi cứ đứng mân mê mấy hộp caramen mãi mà đuổi tôi biến ra ngoài nếu không định mua gì, và rất lâu trước khi cảnh sát tới hiện trường, tôi vẫn liên tục nghĩ tới đứa trẻ đang nằm trên nền đất lạnh lẽo. Đứa trẻ đó đã trút hơi thở cuối cùng.
Vấn đề ở chỗ đứa trẻ đó chính là con trai của ông chú chủ tiệm tạp hóa.
Tôi ngồi trên băng ghế trong sở cảnh sát, liên tục đung đưa hai chân không chạm tới sàn. Đôi chân chuyển động tới lui của tôi khơi lên làn gió lạnh. Trời đã tối mịt và cơn buồn ngủ kéo tới. Cuối cùng, đúng lúc tôi sắp ngủ gật, mẹ đẩy cửa sở cảnh sát bước vào. Mẹ nhìn tôi rồi bắt đầu khóc lóc, tay
xoa đầu tôi tới mức đau điếng. Niềm vui tương phùng của hai mẹ con tôi còn đang dạt dào thì cánh cửa lại mở ra lần nữa. Ông chú chủ tiệm tạp hóa mặt giàn giụa nước mắt, mặc cho cảnh sát đỡ lấy mình, vừa tiến vào vừa kêu gào thảm thiết. Biểu cảm của ông chú khác hoàn toàn với lúc xem ti vi. Ông chú bỗng quỳ sụp xuống như thể ngất xỉu, vừa run lẩy bẩy vừa đấm tay xuống sàn. Đột nhiên ông ta gượng dậy lao thẳng về phía tôi chỉ tay thét lớn. Tuy không thể nghe rõ từng lời nhưng theo những gì tôi hiểu thì ý ông ta là:
“Nếu mày nói nghiêm túc hơn một chút thì đã không muộn rồi.” Viên cảnh sát đứng bên cạnh khó nhọc đỡ ông chú đang chuẩn bị té nhào dậy, nói trẻ con mẫu giáo thì biết cái gì. Tôi khó có thể đồng ý với lời của ông chú chủ tiệm. Tôi đã rất nghiêm túc. Không hề cười hay quá khích dù chỉ một lần. Tôi không thể hiểu nổi vì sao mình bị trách cứ như vậy. Tuy nhiên với vốn từ vựng của một đứa trẻ sáu tuổi, tôi không thể diễn đạt nổi nghi vấn trong lòng nên đành im lặng. Mẹ đã lên tiếng thay tôi. Trong giây lát, sở cảnh sát biến thành đấu trường hỗn độn giữa một người vừa mất con và một người vừa tìm được con.
Buổi tối hôm ấy, tôi vẫn ngồi chơi xếp hình như thường lệ. Đó là bộ xếp hình hươu cao cổ nhưng chỉ cần uốn chiếc cổ dài xuống dưới thì hươu sẽ biến thành voi. Tôi cảm nhận được ánh nhìn của mẹ chạm vào từng ngóc ngách trên cơ thể mình.
“Con không sợ à?”
Mẹ hỏi.
“Không ạ.”
Tôi đáp.
Không hiểu bằng cách nào mà sự việc đó, tức việc tôi nhìn thấy người khác bị đánh tới chết mà mặt vẫn trơ trơ không chút biểu cảm, đã nhanh chóng được lan truyền. Kể từ ấy những chuyện mẹ tôi lo lắng bắt đầu xảy ra liên tiếp.
Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn khi tôi lên lớp Một. Một hôm trên đường về nhà, đứa con gái đi phía trước tôi bỗng vấp ngã. Con bé ngã chắn ngay đường đi của tôi nên tôi chỉ biết đợi nó đứng dậy và ngắm cái chun buộc tóc hình chuột Mickey đằng sau gáy nó. Thế nhưng con bé chỉ nằm tại
chỗ khóc. Thình lình mẹ con bé xuất hiện đỡ nó dậy. Sau đó cô ta liếc xéo tôi và tặc lưỡi.
“Bạn bị ngã đau mà cháu không biết đường hỏi bạn có sao không à? Cô nghe người ta nói nhiều rồi, cháu đúng là không bình thường.” Tôi chẳng nghĩ ra phải nói gì nên cũng không mở miệng. Bọn trẻ hóng được có biến đang xảy ra liền bu lại xung quanh, tiếng xì xào bàn tán quanh quẩn bên tai tôi. Lời nói khó hiểu của mẹ con bé đó cũng văng vẳng mãi trong đầu tôi. Khi ấy người cứu tôi là bà ngoại. Không biết từ đâu bà bỗng xuất hiện như một nữ anh hùng rồi bế tôi lên.
“Cô đừng ăn nói tùy tiện. Con bé không may nên bị ngã thôi, sao lại đổ lỗi cho người khác chứ?”
Tôi không sao quên được hình ảnh bà ngoại nghiêm mặt mắng lũ trẻ. “Có gì hay mà nhìn hả? Đám ranh con xấu tính.”
Một lúc khá lâu sau khi rời đám đông hỗn loạn đó, tôi ngước lên nhìn gương mặt bà ngoại. Miệng bà ngậm chặt, môi bà hơi dẩu ra. “Bà ơi, tại sao người ta đều bảo cháu không bình thường vậy?” Bà mím môi rồi nói.
“Chắc do cháu đặc biệt thôi. Người ta vẫn thường dè bỉu những ai khác mình mà. Ôi, con quái vật đáng yêu của tôi.”
Bà ôm ghì tôi vào lòng làm xương sườn tôi đau điếng. Trước giờ bà vẫn thi thoảng gọi tôi là quái vật. Và chỉ khi được cất lên từ miệng bà thì từ đó mới không mang nghĩa xấu.
4.
Sự thật là phải khá lâu sau tôi mới hiểu được ý nghĩa biệt danh mà bà ngoại đặt cho mình hồi bé. Những con quái vật tôi nhìn thấy trong sách không hề đáng yêu. À chính xác hơn thì, những thứ không đáng yêu mới bị gọi là quái vật. Vậy tại sao bà lại gọi tôi là quái vật đáng yêu nhỉ? Ngay cả sau này, khi biết đến khái niệm “nghịch ngữ”, một cách diễn đạt được hình thành bằng cách ghép những khái niệm mâu thuẫn với nhau để cho ra một ý
nghĩa khác, tôi vẫn hoang mang không hiểu bà muốn nhấn mạnh vào “đáng yêu” hay “quái vật”. Dù thế nào thì bà gọi vậy cũng vì yêu quý tôi thôi, nên tôi quyết định tin tưởng bà.
Nghe bà kể lại câu chuyện về con bé có dây buộc tóc chuột Mickey, mẹ tôi giàn giụa nước mắt.
“Con biết trước sẽ thế này mà… Nhưng vẫn không ngờ nó đến sớm thế…”
“Tao không muốn nghe! Nếu mày định than vãn thì vào phòng khóa cửa lại mà than.”
Trong tích tắc mẹ ngừng khóc nhờ câu quát đó, nhưng rồi mẹ lại liếc nhìn bà và òa khóc to hơn. Bà chép miệng lắc đầu, thở dài đánh thượt một cái rồi lơ đãng nhìn lên trần nhà. Đó là khung cảnh thường thấy trong mối quan hệ giữa bà ngoại và mẹ.
Đúng như câu nói “đã biết trước mọi chuyện sẽ thế này” của mẹ, mẹ đã lo lắng về tôi từ rất lâu trước đó rồi. Không lâu sau khi chào đời, tôi đã bắt đầu khác những đứa trẻ khác. Nếu bạn thắc mắc tôi khác ở điểm nào thì đó là:
Tôi không hề cười.
Ban đầu mọi người nghĩ rằng tôi chỉ chậm phát triển một chút. Tuy nhiên sách dạy trẻ lại viết rằng thường chỉ ba ngày sau khi chào đời trẻ sơ sinh đã bắt đầu cười rồi. Mẹ bấm ngón tay đếm từng ngày một. Đã gần một trăm ngày trôi qua.
Giống như nàng công chúa dính phải lời nguyền không cười, tôi chẳng mảy may động tĩnh. Còn mẹ làm đủ mọi cách lấy lòng công chúa như các hoàng tử nước láng giềng vẫn hay làm. Từ vỗ tay đến mua lục lạc đủ màu để lắc, rồi cả nhảy tấu hài theo bài hát đồng dao. Mỗi khi kiệt sức, mẹ lại ra ban công hút một điếu thuốc, thứ mẹ đã khó nhọc cai khi biết tin mang thai tôi. Tôi đã từng xem những đoạn băng mẹ quay lại hồi ấy. Mẹ mồ hôi nhễ nhại, phía trước là tôi nhỏ xíu, chỉ chăm chăm nhìn mẹ. Ánh mắt quá xa xăm và điềm tĩnh so với một đứa trẻ.
Tóm lại, mẹ đã thất bại trong công cuộc chọc cười tôi. Phía bệnh viện cũng không nói gì đặc biệt. Chỉ là tôi không cười chứ mọi kết quả kiểm tra cho trẻ sơ sinh như chiều cao, cân nặng, chỉ số phát triển hành vi đều bình thường không khác gì đám trẻ sinh cùng lứa. Bác sĩ khoa nhi trong khu phố coi vấn đề này không hề nghiêm trọng, bảo mẹ cứ yên tâm ra về, đừng quá lo lắng vì tôi vẫn đang lớn lên khỏe mạnh. Mẹ cũng cố gắng an ủi bản thân rằng tôi chỉ hơi khô khan so với những đứa trẻ khác thôi. Vậy nhưng có một chuyện thực sự đáng lo đã xảy ra sau lễ thôi nôi của tôi.
Một hôm, mẹ tôi để cái ấm màu đỏ đựng nước sôi trên mặt bàn. Trong lúc mẹ quay lưng bận pha sữa, tôi quờ tay khiến cái ấm rơi xuống. Ấm đổ nghiêng, nước nóng chảy lênh láng khắp sàn. Đến giờ trên người tôi vẫn còn vết bỏng mờ, chính là chiến tích từ thời đó. Tôi khóc rống lên, còn mẹ cứ ngỡ rằng sau này tôi sẽ sợ nước nóng hay ấm nước đỏ. Như mọi đứa trẻ khác. Nhưng không. Tôi chẳng sợ cả nước lẫn ấm nước. Dù bên trong là nước nóng hay nước lạnh thì hễ nhìn thấy ấm nước màu đỏ là tôi lại vươn tay ra.
Không chỉ có vậy. Ngay cả ông lão chột mắt nhà bên dưới hay con chó đen to ngồng buộc ở vườn hoa nhà ông đối với tôi cũng chẳng phải thứ gì đáng sợ hết. Tôi vẫn thường nhìn chằm chằm vào tròng mắt trắng đục của ông lão và chỉ cần mẹ lơ là một chút thôi là tôi lại tiến tới chạm vào con chó đang nhe nanh nhọn hoắt, sủa inh ỏi đinh tai. Kể cả sau khi chứng kiến con chó đó cắn đứa bé nhà hàng xóm chảy cả máu, tôi vẫn không chừa. Không biết bao nhiêu lần mẹ đã phải cuống quýt chạy theo tôi.
Sau khi trải qua một vài chuyện như vậy, mẹ đã lo lắng không biết có phải tôi chậm phát triển trí tuệ hay không, thế nhưng chỉ nhìn ngoại hình hay hành động thì không đủ căn cứ để phán đoán. Mẹ vẫn luôn bối rối không biết phải hiểu một đứa trẻ như tôi thế nào, vì thế mẹ quyết định sẽ phân tích theo chiều hướng tích cực, như mẹ vẫn thường vậy.
“So với bạn cùng lứa, nó là đứa trẻ dũng cảm và điềm tĩnh.” Mẹ đã miêu tả tôi như vậy trong nhật ký.
Ấy thế nhưng tôi vẫn không biết cười dù đã qua bốn tuổi, và đương nhiên nỗi lo của mẹ cũng lên tới cực điểm. Mẹ dắt tay tôi đến một bệnh viện lớn hơn. Và ngày hôm đó, với những khung cảnh khi thì mờ ảo lúc lại sống
động như được nhìn qua làn nước, đã trở thành ngày đáng nhớ đầu tiên trong cuộc đời tôi.
Người đàn ông mặc áo blouse trắng đang ngồi trước mặt tôi. Với nụ cười luôn nở trên môi, ông ta lần lượt cho tôi xem đủ thứ đồ chơi. Ông ta còn đích thân lắc thử vài cái cho tôi xem. Rồi thì ông ta dùng một chiếc búa nhỏ gõ cốc cốc vào đầu gối tôi. Chân tôi vô thức đá thẳng lên trời giống y lúc chơi xích đu. Sau đó ông ta lấy ngón tay chọc vào nách tôi. Vì hơi buồn nên tôi cười. Tiếp đến ông ta cho tôi xem ảnh và hỏi tôi một vài câu hỏi. Trong đó câu mà tôi nhớ rõ nhất là:
“Em bé trong ảnh đang khóc. Vì không thấy mẹ đâu cả. Tâm trạng của em bé này thế nào nhỉ?”
Tôi không biết câu trả lời nên ngước lên nhìn mẹ đang ngồi cạnh. Mẹ nở nụ cười rồi đưa tay xoa đầu tôi, răng mẹ cắn nhẹ vào môi dưới.
Không lâu sau mẹ đưa tôi đi đâu đó, nói rằng đi du hành vũ trụ. Thế nhưng nơi mẹ đưa tôi đến lại là bệnh viện. Tôi hỏi vì sao tôi không bị ốm mà lại phải đến đây nhưng mẹ không trả lời. Tôi phải nằm xuống một chỗ nào đó rất lạnh rồi bị đưa vào một cái thùng trắng xóa. Ti ti ti. Có tiếng động lạ phát ra. Chuyến du hành vũ trụ kết thúc một cách vô vị.
Cảnh tượng lại thay đổi, giờ đây số lượng người đàn ông mặc áo blouse đã tăng lên. Người lớn tuổi nhất trong số đó đưa chúng tôi xem một tấm ảnh đen trắng mờ mịt và nói rằng đó là ảnh chụp trong đầu tôi. Nói dối. Nhìn một cái là biết ngay không phải đầu tôi. Thế nhưng mẹ lại gật đầu lia lịa như thể rất tin vào lời nói dối tầm phào đó. Mỗi khi người đàn ông mở miệng nói là những chàng trai trẻ tuổi đứng bên cạnh lại ghi chép gì đó. Tôi ngồi đung đưa chân vì quá chán. Rồi tiện chân, tôi đá vài phát vào bàn của ông bác sĩ. Mẹ đặt tay lên vai tôi bảo đừng làm vậy nữa. Tôi ngước lên nhìn, thấy má mẹ đẫm nước mắt.
Trong những ký ức của ngày hôm đó, điều đọng lại rõ nét nhất trong tôi là gương mặt giàn giụa nước mắt của mẹ. Mẹ khóc mãi, chỉ khóc và khóc. Cả khi ra ngoài phòng chờ mẹ cũng khóc mãi không nín. Ti vi chiếu một bộ phim hoạt hình mà tôi không thể nào tập trung xem, vì mẹ. Ngay cả khi các chiến binh vũ trụ đã chiến thắng phe ác thì mẹ vẫn chỉ ngồi khóc. Rốt cuộc, mẹ khiến ông lão đang ngủ gật bên cạnh cũng phải bật dậy quát lên.
“Đừng tỏ ra đáng thương nữa, ồn ào chết đi được!” Tới lúc đó mẹ mới mím chặt môi co rúm người lại như một nữ sinh trung học vừa bị ăn mắng.
5.
Mẹ cho tôi ăn rất nhiều hạt hạnh nhân. Nói tới hạnh nhân, tôi đã ăn đủ các loại cả hạnh nhân trồng trong nước lẫn hạnh nhân nhập khẩu từ Úc, Trung Quốc, Nga. Loại của Trung Quốc có vị đắng rất khó chịu, loại của Úc không hiểu sao vừa có vị chua chua lại có mùi như mùi bùn. Tuy hạnh nhân cũng được trồng phổ biến ở Hàn Quốc và cũng khá ngon nhưng với riêng tôi thì loại của Mỹ, đặc biệt là hạnh nhân California mới ngon nhất. Sau đây tôi sẽ giới thiệu cho các bạn phương pháp ăn hạnh nhân California của riêng tôi, thứ hạt ánh nâu nhờ thỏa thuê đón nắng mặt trời.
Đầu tiên, bạn hãy cầm túi hạnh nhân lên rồi đưa tay cảm nhận từng hạt hạnh nhân bên trong. Những hạt hạnh nhân cứng bướng bỉnh có thể sờ được qua mặt dưới túi bọc. Sau đó bạn xé viền trên túi đựng và mở khóa zipper bên dưới. Bạn phải thực hiện tất cả các bước trong khi nhắm mắt. Rồi bạn hít thở chầm chậm và đưa mũi vào bên trong túi. Nín thở một chút rồi lại hít vào. Sao cho kéo dài được lâu nhất thời gian hương hạnh nhân đi vào cơ thể. Khi hương thơm đã len lỏi vào sâu trong cơ thể, bạn hãy bốc nửa nắm hạnh nhân bỏ vào miệng. Bạn hãy ngậm và đưa đẩy hạnh nhân trong miệng một lúc, dùng lưỡi cảm nhận từng đường vân trên mình hạt, chạm lưỡi vào đầu nhọn của hạt, liếm những rãnh nhỏ trên bề mặt hạt. Nhưng cũng đừng ngậm quá lâu. Bởi hạnh nhân sẽ không còn ngon nếu ngấm nước bọt. Đó mới chỉ là quá trình chuẩn bị trước khi lên tới cực điểm. Quá trình này, nếu vội vàng sẽ không có hiệu quả, nếu quá dông dài lại đánh mất vị ngon. Đích thân bạn phải tìm ra khoảng thời gian thích hợp. Khi bạn dần tiến tới cực điểm, hãy tưởng tượng rằng hạt hạnh nhân đang to dần lên. Hạt hạnh nhân vốn bé như cái móng tay dần phình to bằng quả nho, quả kiwi, quả cam rồi quả dưa hấu. Giờ thì hạt hạnh nhân đã to bằng quả bóng bầu dục. Ngay chính lúc này. Hãy cắn đốp một cái. Khi ấy cùng
với âm thanh rôm rốp, bạn sẽ cảm nhận ánh mặt trời miền California xa xôi đang lan tỏa trong miệng mình.
Lý do khiến tôi thi hành nghi lễ này chẳng phải vì tôi thích hạnh nhân đâu. Trên bàn ăn của tôi ba bữa đều có hạnh nhân. Tôi không có đường thoát thân. Chỉ còn cách tìm ra phương pháp ăn cho dễ chịu. Mẹ nghĩ rằng nếu ăn nhiều hạt hạnh nhân thì hạnh nhân trong đầu tôi cũng sẽ to dần lên. Đó là một trong những hy vọng mong manh mà mẹ có thể bám lấy.
Trong đầu mỗi người đều có hai hạch hạnh nhân. Nó nằm cố định đâu đó khoảng từ sau tai tới đỉnh đầu. Cả kích thước lẫn hình dáng đều giống hạt hạnh nhân. Cũng có người cho rằng nó giống hạt đào nên gọi là “hạch amygdala”.
Khi có kích thích từ bên ngoài, trong hạch hạnh nhân sẽ xuất hiện một ngọn đèn màu đỏ. Dựa theo tính chất của kích thích, hạch hạnh nhân sẽ giúp chúng ta nhận thức được nỗi sợ hãi, cảm thấy tồi tệ, hoặc cảm nhận được những cảm xúc yêu, ghét.
Thế nhưng có vẻ như hạch hạnh nhân trong đầu tôi đã hỏng hóc ở đâu đó. Dù bị kích thích đến mấy thì đèn vẫn không đỏ. Chính vì thế tôi không hiểu vì sao người khác lại cười hay khóc. Đối với tôi niềm vui hay nỗi buồn, tình yêu hay nỗi sợ hãi đều rất mông lung. Cả những từ như “cảm tình” hay “đồng cảm” với tôi cũng chỉ là những khái niệm mơ hồ.
6.
Tôi được các bác sĩ chẩn đoán là mắc chứng mất khả năng biểu đạt cảm xúc, hay có tên gọi khác là Alexithymia. Triệu chứng của tôi khá nặng nhưng do tôi còn nhỏ nên không thể coi đó là hội chứng Asperger[1], các kỹ năng khác của tôi vẫn phát triển bình thường nên cũng không thể kết luận là tôi bị bệnh tự kỷ. Tuy gọi là mất khả năng biểu đạt cảm xúc nhưng nói là không cảm nhận được thì đúng hơn là không biểu đạt được bất kỳ cảm xúc nào. Không giống như những bệnh nhân tổn thương vùng ngôn ngữ vận
động Broca hay vùng hiểu ngôn ngữ Wernicke, tôi không gặp khó khăn gì trong việc diễn đạt lời nói hay hiểu lời người khác. Tôi chỉ không thể cảm nhận được những cảm xúc, không thể đọc được cảm xúc của người khác và nhầm lẫn tên gọi của những cảm xúc. Các bác sĩ nói rằng từ khi sinh ra, kích thước hạch hạnh nhân trong đầu tôi đã rất nhỏ, hơn nữa tiếp xúc giữa thùy trán và hệ viền không liền mạch nên mới thành ra như vậy.
Một trong những triệu chứng xuất hiện khi hạch hạnh nhân quá nhỏ là bệnh nhân không hề biết sợ hãi. Nếu bạn cho rằng như vậy là dũng cảm thì bởi bạn thiếu hiểu biết đấy thôi. Nỗi sợ hãi là cơ chế phòng vệ giúp duy trì sự sống. Không biết sợ không phải là dũng cảm mà là ngốc nghếch tới mức ô tô lao tới cũng chỉ biết đứng im. Nhưng số tôi còn đen đủi hơn ở chỗ, có rất ít người vừa chai lì trước nỗi sợ hãi vừa mất hoàn toàn khả năng diễn đạt cảm xúc như tôi. Tuy nhiên trong cái rủi cũng có cái may, vì ít nhất tôi cũng sở hữu hạch hạnh nhân, dù nhỏ xíu, nên không bị cho là thiểu năng trí tuệ.
Các bác sĩ nói rằng trường hợp của tôi cần phải được theo dõi thêm vì não của mỗi người đều khác nhau. Họ cũng đưa ra một đề nghị nghe khá bùi tai, đó là dự án khám phá bí ẩn của não bộ mà tôi có thể sẽ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Những nhà nghiên cứu tại bệnh viện trường Đại học đã tỏ ý mong muốn tôi chấp thuận tham gia vào dự án dài hạn bao gồm các hoạt động thí nghiệm lâm sàng và báo cáo lên Hội đồng khoa học cho đến tận khi tôi trưởng thành. Đương nhiên chúng tôi sẽ được trả công tham gia thí nghiệm lâm sàng và tên của tôi có thể sẽ được gắn với một bộ phận nào đó của não giống như Broca và Wernicke. Vùng não bộ Seon Yoon Jae. Tuy nhiên, mẹ đã thẳng thừng từ chối lời đề nghị đó với thái độ vô cùng khó chịu.
Trước tiên, vấn đề nằm ở chỗ mẹ tôi đã biết trước Broca và Wernicke không phải đối tượng thí nghiệm mà là các nhà khoa học. Bởi lẽ mẹ đã rất chăm chỉ đến thư viện quận gần nhà và đọc nhiều loại sách liên quan tới não. Mẹ không hài lòng với việc các bác sĩ chỉ coi tôi như một cục thịt thú vị thay vì một con người. Mẹ đã tự dập tắt hy vọng rằng các bác sĩ sẽ điều trị được cho tôi. Chắc họ cũng chỉ thực hiện mấy thí nghiệm kỳ dị và cho tôi uống những loại thuốc chưa được kiểm chứng, sau đó quan sát phản ứng của tôi rồi đến Hội đồng khoa học khoe khoang chứ gì. Đó là suy nghĩ
của mẹ. Vì thế mẹ đã sổ toẹt một câu nói thiếu tính thuyết phục mà các bà mẹ vẫn thường đưa ra khi tức giận.
“Nó là con tôi nên tôi hiểu nó nhất.”
Vào ngày quyết định không quay lại bệnh viện nữa, mẹ đã nhổ một bãi nước bọt vào chậu hoa phía trước cổng bệnh viện rồi nói với tôi. “Rặt một lũ đến trong não mình có gì cũng chẳng biết.”
Thi thoảng đột nhiên mẹ lại ăn nói hùng hồn như vậy.
7.
Mẹ vẫn thường hối hận vì khi mang thai tôi mẹ hay bị căng thẳng và còn lén hút một hai điếu thuốc, rồi thì vào những tháng cuối mẹ đã không nhịn nổi mà uống vài ngụm rượu. Nhưng trên thực tế, lý do não tôi ra nông nỗi này rất dễ hiểu. Đó là do số tôi đen đủi. Trên đời này có nhiều thế lực bí ẩn đang điều khiển thế giới hơn chúng ta nghĩ, kiểu như cái gọi là số mệnh ấy.
Dù gì sự đã rồi, có lẽ mẹ cũng từng ôm hy vọng rằng bù vào việc thiếu khả năng biểu đạt cảm xúc linh hoạt như người khác, tôi sẽ có trí nhớ siêu phàm cỡ máy tính hay năng khiếu hội họa vượt bậc tới mức vẽ được những bức tranh thiên tài khó tin. Nếu thực sự như vậy thì biết đâu tôi có thể xuất hiện trong chương trình thực tế và mỗi bức tranh tôi vẩy chút màu vẽ cũng có thể bán được hàng chục triệu won. Thế nhưng tôi lại chẳng có tí năng lực thiên tài nào cả.
Sau vụ con bé buộc tóc bằng chun Mickey, mẹ chính thức bắt tay vào “giáo dục” tôi. Bởi không đơn thuần chỉ là vấn đề bất hạnh hay đáng thương, việc không thể cảm nhận được đã khiến tôi đối mặt với rất nhiều nguy hiểm.
Người khác có mắng mỏ bằng vẻ mặt đáng sợ thế nào cũng chẳng có tác dụng gì đối với tôi. Vì họ quát tháo, la hét, hay xếch ngược lông mày lên… tôi cũng chẳng hiểu tại sao những hành động ấy lại mang ý nghĩa đặc
biệt. Vì thế, tôi không thể biết rằng cùng một hiện tượng có thể hàm ẩn tới hai mặt nghĩa. Tôi chỉ đón nhận thế giới này một cách thẳng đuột mà thôi. Mẹ đã viết rất nhiều công thức bằng các màu khác nhau rồi dán từng câu lên tờ giấy lớn. Trên tờ giấy lớn dán trên tường có những dòng chữ thế này.
Xe đến gần → tránh ra xa, nếu xe ở quá gần thì chạy
Người đến gần → đứng tránh sang một bên để không va phải
Đối phương mỉm cười → mỉm cười y như vậy
Phía dưới là dòng chữ:
° Ghi chú: Về biểu cảm, nhớ rằng mình chỉ cần biểu cảm giống đối phương là được.
Nhưng đối với một đứa trẻ tám tuổi như tôi, câu văn dài thế này thật không dễ hiểu.
Những công thức được viết vào giấy rồi dán lên tường nhiều vô cùng tận. Trong khi các bạn cùng lứa ê a học bảng cửu chương thì tôi ngồi học thuộc đống công thức này, ghép từ miêu tả cảm xúc ở cột này với hành động tương ứng ở cột khác như thể đang học niên đại các triều vua vậy. Tôi vẫn thường được mẹ kiểm tra định kỳ. Những quy tắc “mang tính bản năng” mà người thường có thể dễ dàng tiếp nhận thì tôi lại phải ngồi học thuộc từng cái một. Bà ngoại tặc lưỡi không hiểu rốt cuộc cách giáo dục nhồi nhét này có hiệu quả không nhưng tay vẫn cắt các mũi tên để tôi dán lên tờ giấy ghi các công thức. Bà ngoại phụ trách các mũi tên.
8.
Mấy năm trôi đi, đầu tôi đã to ra nhưng kích cỡ của hạch hạnh nhân trong đầu thì vẫn dậm chân tại chỗ. Các mối quan hệ dần trở nên phức tạp và tôi bắt đầu gặp khó khăn trong việc đương đầu với chúng chỉ bằng những công thức mẹ đã dạy, càng ngày tôi càng trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý. Vừa khai giảng được một ngày, tôi đã để lại ấn tượng là một đứa kỳ quặc và bị gọi ra sau sân vận động làm thứ mua vui trước mắt chúng bạn. Đám bạn thi nhau hỏi những câu kỳ quặc, còn tôi thì không biết nói dối nên cứ có sao trả lời vậy. Tôi cũng không hiểu vì sao chúng nó lại ôm bụng cười. Cứ thế, mỗi ngày tôi đều vô tình đâm một nhát dao vào lòng mẹ.
Tuy nhiên mẹ không hề bỏ cuộc.
“Đừng gây chú ý. Chỉ cần làm vậy sẽ ổn.”
Ý mẹ là đừng để bị phát hiện, rằng tôi khác người. Bị phát hiện tức là tôi đã gây chú ý và trở nên nổi bật trong mắt người khác, và một khi đã như vậy, tôi sẽ trở thành bia hứng đạn. Những công thức đơn giản như xe đến thì phải tránh không thể dùng trong trường hợp này. Rồi sẽ đến lúc tôi cần trổ tài diễn xuất đỉnh cao nếu muốn tự che giấu bản thân khác biệt. Và mẹ đã không ngừng phát huy trí tưởng tượng, thêm thắt hội thoại cứ như nhà biên kịch thực thụ. Giờ đây tôi phải ghép và học thuộc những hàm ý ẩn sâu trong lời nói của đối phương cùng cách đối đáp phù hợp tương ứng.
Ví dụ như khi các bạn cho tôi xem đồ dùng học tập hay đồ chơi mới và giải thích về món đồ đó, điều ấy không có nghĩa chúng thực sự muốn giải thích về đồ vật đó mà chỉ đang “khoe khoang” thôi.
Theo mẹ thì đáp án mẫu tôi cần nói khi đó là:
“Cậu sướng thật đấy.”
Và cảm xúc tôi cần biểu đạt khi nói câu đó là “ghen tị”.
Nếu có ai đó nói với tôi những câu mang nghĩa tích cực như “Đẹp trai quá” hay “Làm tốt lắm” (đương nhiên tôi cũng phải ghi nhớ những câu dạng nào thì được liệt vào hạng mục “tích cực”) thì
“Cảm ơn.”
hoặc
“Cũng bình thường thôi.”
là những câu trả lời đúng.
Mẹ nói rằng “Cảm ơn” là câu trả lời chuẩn mực nhất còn “Cũng bình thường thôi” là câu trả lời thể hiện phong thái ung dung tự tại, mang ý tôi sẽ còn trở thành đứa trẻ giỏi giang hơn nữa. Tất nhiên tôi luôn chọn câu trả lời đơn giản nhất.
9.
Vốn là người viết chữ siêu xấu được cả thế giới và chính mình công nhận nên mẹ đã lên mạng tìm các chữ Hán “Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục” rồi in từng chữ thật to lên tờ giấy A4. Chẹp chẹp. Bà ngoại lại tặc lưỡi khi nhìn thấy xấp giấy đó. Bà càu nhàu rằng làm việc gì cũng phải có tâm một chút chứ. Vì thế mặc dù mù tịt chữ Hán, bà vẫn vẽ theo những chữ to tướng đó như cách người ta thường chép tranh. Mẹ đem chữ bà vẽ dán khắp nơi trong nhà như thể đó là khẩu hiệu của gia đình hay một loại bùa chú vậy.
Khi tôi đi giày, chữ “Hỉ” mỉm cười với tôi trên tủ giày, mỗi lần mở tủ lạnh tôi đều phải chạm trán chữ “Ái”. Trước khi đi ngủ, chữ “Lạc” từ trên đầu giường dòm xuống tôi. Những chữ đó đều được dán ngẫu nhiên không liên quan gì tới địa điểm, tuy nhiên theo sự mê tín của mẹ, những chữ mang nghĩa xấu xa như “phẫn nộ, buồn rầu, ghét bỏ” thì đều phải dán hết ở trong nhà vệ sinh. Theo thời gian những tờ giấy dán trong nhà vệ sinh nhăn nhúm lại và chữ cũng mờ dần đi vì bị ẩm. Khi chữ mờ, bà lại vẽ và dán lại chúng. Có lẽ vì thế mà cuối cùng bà đã thuộc lòng mấy chữ đó và thậm chí gần như đạt tới cảnh giới viết thư pháp luôn rồi.
Mẹ còn sáng tác cả trò chơi “hỉ nộ ái ố ai lạc dục”. Mẹ sẽ đưa ra tình huống và tôi phải đoán chính xác cảm xúc tương ứng. Khi được người nào đó cho thức ăn ngon thì cảm xúc của tôi là? Đáp án là vui và biết ơn. Khi ai đó làm tôi đau thì tôi phải cảm thấy thế nào? Đáp án là tức giận. Kiểu như vậy.
Một lần tôi hỏi mẹ nếu có ai đó cho mình đồ ăn không ngon thì phải cảm nhận ra sao. Có vẻ như câu hỏi nằm ngoài dự đoán nên mẹ phải nghĩ mất một lúc mới trả lời được. Sau một hồi trăn trở, mẹ đáp rằng ban đầu tôi có thể cảm thấy tức giận vì đồ ăn không ngon. (Tôi đã chứng kiến cảnh
mẹ chê bai đồ ăn dở và “bắt lỗi” nhà hàng mấy lần.) Tuy nhiên do khẩu vị mỗi người mỗi khác nên dù được cho đồ kém ngon tôi vẫn có thể vui vẻ cảm ơn. (Những lúc đó bà ngoại đều đốp lại mẹ rằng được cho ăn còn cảnh vẻ, hãy cảm thấy biết ơn mà ăn đi.)
Thời gian thấm thoắt trôi và tuổi của tôi đã lên hai con số, số lần mẹ không thể trả lời ngay lập tức hoặc ngập ngừng lúng túng trước những câu hỏi của tôi cũng dần tăng lên. Rốt cuộc, mẹ đối phó bằng cách bảo tôi hãy học nằm lòng những khái niệm cơ bản “hỉ nộ ái ố ai lạc dục” trước đi đã.
“Con không biết những thứ phức tạp cũng được nhưng nhất định phải hiểu rõ những điều căn bản. Nhờ vậy thì dù người ta chỉ trích con khô khan, con vẫn có được cuộc sống bình thường.”
Thực tế tôi chẳng quan tâm những điều ấy. Giống như việc không thể phân biệt được sự khác biệt tinh tế giữa các từ ngữ chỉ cảm xúc, tôi cũng chẳng thấy việc mình bình thường hay khác thường có ảnh hưởng gì lớn lao tới chính bản thân tôi cả.
10.
Nhờ những nỗ lực không ngừng cùng quá trình dạy dỗ đều đặn và nghiêm túc mỗi ngày của mẹ, dần dần tôi đã thấm nhuần phương pháp sống sót an toàn qua những tháng ngày cắp sách tới trường. Từ sau năm lớp Bốn, tôi đã có thể chơi chung được với một nhóm bạn và gần như hoàn thành mong ước của mẹ, là không gây chú ý. Phần lớn thời gian tôi chỉ im lặng là đủ. Khi cần tức giận mà tôi im lặng thì người ta sẽ nghĩ tôi có sức chịu đựng cao, khi cần cười mà im lặng thì họ nghĩ tôi đang tập trung và khi cần khóc mà im lặng thì tôi trở thành đứa trẻ mạnh mẽ. Im lặng quả thực là vàng. Bù lại tôi luôn phải nói “Cảm ơn” và “Xin lỗi” như một thói quen. Đó là hai câu thần chú giúp tôi vượt qua vô vàn những tình huống khó xử. Đến đây vẫn còn dễ. Giống như việc đối phương trả cho tôi một nghìn won và tôi thối lại ba trăm won tiền thừa vậy.
Khó nhằn hơn cả là khi tôi phải trả một nghìn won trước. Tức, làm thế nào để thể hiện tôi muốn một thứ gì, muốn làm một việc gì hay thích một
cái gì. Khó là bởi tôi phải tiêu tốn quá nhiều năng lượng để làm những việc đó. Tôi phải trả tiền trước trong khi chẳng muốn mua gì cả, tôi cũng không biết mình phải trả bao nhiêu. Nó tốn công và phiền phức như việc phải tạo sóng cho mặt hồ yên ả vậy.
Như việc phải nói “tớ cũng muốn ăn” rồi tươi cười hỏi “cho tớ một miếng nhé?” khi nhìn thấy cái bánh chocopie mà tôi không hề thích. Hay việc vặn hỏi người khác “tại sao lại làm như vậy?” khi họ đi ngang qua huých phải tôi hoặc cho tôi leo cây. Cả việc giơ nắm đấm và rơi nước mắt nữa.
Đó là những việc khó khăn nhất đối với tôi. Tôi hoàn toàn không muốn làm nhưng mẹ nói rằng nếu cứ lặng yên như mặt nước hồ cũng có thể bị nhận xét là đứa trẻ kỳ lạ. Vì thế “rất thi thoảng” tôi cũng phải làm những việc đó.
“Con người là thành quả của giáo dục. Con làm được mà.”
Mẹ nói rằng mẹ làm tất cả cũng chỉ vì tôi, hay nói cách khác đó là “tình yêu” mẹ dành cho tôi. Nhưng theo tôi thấy mẹ chỉ đang cố gồng mình để tránh tự làm tổn thương chính mẹ mà thôi. Nếu đúng như lời mẹ nói thì tình yêu chỉ là việc mẹ nhìn tôi bằng đôi mắt ầng ậng nước, nói tôi phải làm gì vào lúc này, nên làm sao vào lúc khác và càm ràm đủ thứ chuyện. Nếu đó là tình yêu thì chi bằng khỏi yêu và được yêu luôn đi cho khỏe. Tất nhiên tôi không nói những lời đó ra miệng. Trong số những phương châm hành động của mẹ, tôi đã thuộc làu tới mức mòn cả miệng câu “nếu quá thành thực sẽ làm tổn thương đối phương”.
11.
Theo cách diễn đạt của bà ngoại thì tôi “hợp cạ” với bà hơn là với mẹ. Thực ra, ngoài việc cùng thích kẹo vị mận thì bà và mẹ tôi khác nhau hoàn toàn từ ngoại hình đến sở thích, tính cách.
Bà kể rằng hồi mẹ tôi còn nhỏ, thứ đầu tiên mẹ ăn trộm là kẹo mận. Khi nghe thấy từ “đầu tiên”, mẹ liền lớn giọng sửa lại rằng đó là lần đầu cũng là lần cuối. Thế nhưng bà chỉ cười nhẹ và nói thế này.
“Thật may đứa trộm kim lớn lên không thành kẻ trộm bò.” Lý do thích kẹo mận của bà và mẹ cũng khá đặc biệt. Đó là khi ăn “có thể cảm nhận được vị ngọt và vị máu cùng một lúc”. Thứ kẹo màu trắng sáng kỳ lạ được gạch một vạch đỏ ở giữa. Ngậm viên kẹo đó trong miệng là một trong những niềm vui quý giá của cả hai. Vạch màu đỏ đó tan rất nhanh nên thường khiến người ăn bị rát lưỡi.
“Nhưng mà rất kỳ diệu nhé, cảm giác như đang nếm vị mằn mặn của máu hòa quyện với vị ngọt ấy.”
Trong khi mẹ đi tìm thuốc Oramedy[2] thì bà ngồi ôm túi kẹo vừa nói vừa cười ha hả. Kỳ lạ thay nghe bà ngoại nói như vậy bao nhiêu lần cũng không chán.
Bà ngoại đột ngột xuất hiện trong cuộc đời tôi. Trước khi mẹ kiệt sức tới mức phải cầu cứu đến bà thì mẹ và bà đã cắt đứt liên lạc gần bảy năm. Người chia rẽ mối quan hệ huyết thống đó chính là một người đàn ông ngoài cuộc, tức bố tôi.
Ông ngoại mất vì bệnh ung thư từ khi mẹ vẫn còn nằm trong bụng bà, bà đã dành cả tuổi thanh xuân để mẹ không bị gọi là đứa trẻ không bố. Chính xác hơn là cả đời bà chỉ sống vì con. May mắn thay con gái bà tuy không quá xuất sắc nhưng vẫn học hành giỏi giang và đỗ vào một trường đại học nữ trên Seoul. Đứa con gái bà đã vất vả nuôi lớn như vậy lại đi phải lòng cái thằng vô tích sự, đây là danh xưng bà dùng để chỉ bố tôi, kê bàn bán đồ trang sức trước cổng trường đại học. Chắc cái thằng vô tích sự ấy đã đeo cho mẹ một chiếc nhẫn rẻ tiền trong đống trang sức bày đầy trên bàn rồi hứa hẹn ba cái thứ tình yêu vĩnh cửu. Bà nói trước khi xuống mồ sẽ không chấp nhận chuyện tình bố mẹ tôi nhưng mẹ cãi lại rằng tình yêu nào phải thứ hồ sơ phê duyệt đâu mà cần ai cho phép với không cho phép, kết cục mẹ ăn một cái tát của bà.
Mẹ thậm chí còn uy hiếp bà rằng nếu bà cứ tiếp tục phản đối thì mẹ sẽ mang thai trước. Đúng một tháng sau, lời uy hiếp đó trở thành hiện thực.
Bà đưa ra tối hậu thư rằng nếu mẹ đẻ đứa bé ra thì đừng nhìn mặt bà nữa và mẹ đã thực sự bỏ nhà đi. Bà và mẹ đã “tạm thời” đoạn tuyệt vì chuyện đó. Tôi chưa từng nhìn thấy bố. Tôi chỉ xem ảnh ông vài lần. Khi tôi còn đang ở trong bụng mẹ, đã có một người say rượu lái xe máy đâm thẳng vào kệ hàng của bố. Bố tôi chết ngay tại chỗ, để lại đống trang sức màu mè rẻ tiền. Sự thành ra như vậy nên mẹ lại càng không thể liên lạc với bà. Mẹ không muốn đèo bòng gánh nặng trở về sau khi đã vì tình mà đùng đùng bỏ nhà ra đi. Cứ thế bảy năm trôi qua. Cho đến khi mẹ không thể bám trụ thêm được nữa. Cho đến khi mẹ nhận ra không thể một mình cáng đáng tôi thêm nữa.
12.
Bà và tôi gặp nhau lần đầu ở McDonald’s. Hôm đó mẹ gọi tới hai suất hamburger mà ngày thường chẳng bao giờ mua cho tôi, rồi không thèm đụng tới một miếng. Mắt mẹ luôn hướng về phía cửa, mỗi khi ai đó bước vào là mẹ lại mở to rồi nheo mắt lại trong giây lát, hết rướn thẳng người lên lại khom xuống. Sau này hỏi lại tôi mới biết đó là một trong những hành động mẹ thường làm khi trong lòng cảm thấy vừa sợ hãi lại vừa an tâm.
Đúng lúc mẹ quyết định bỏ cuộc, chuẩn bị nhấc mông khỏi ghế thì cửa ra vào mở toang và một làn gió ùa tới. Tôi vừa nghển cổ lên thì thấy một người phụ nữ cao lớn hiên ngang tiến vào. Chiếc mũ tím đội trên mái tóc muối tiêu của bà được cắm thêm vài sợi lông vũ. Trông dáng dấp bà tựa như Robin Hood trong truyện cổ tích. Người phụ nữ đó chính là mẹ của mẹ tôi.
Bà ngoại rất to lớn. Ngoài từ to lớn tôi chẳng nghĩ ra từ nào thích hợp hơn để miêu tả bà. Nếu phải so sánh thì bà giống một cây sồi cổ thụ bất tử. Cả thân hình lẫn giọng nói, thậm chí cả cái bóng của bà cũng to hết sức. Đặc biệt là đôi bàn tay, tay bà đồ sộ hệt như tay một người đàn ông cường tráng. Bà ngồi đối diện với tôi, khoanh tay, miệng mím chặt không nói một
lời. Mẹ cụp mắt, đang ấp úng tính bắt chuyện trước thì bà ra lệnh bằng giọng trầm thấp.
“Ăn trước đi đã.”
Không còn cách nào khác, mẹ bắt đầu nhét đống hamburger nguội ngắt vào miệng. Cho tới tận lúc miếng khoai tây chiên cuối cùng biến mất cả bà ngoại lẫn mẹ tôi vẫn không nói với nhau câu nào. Tôi mút đầu ngón tay, nhặt từng vụn khoai tây trên chiếc khay nhựa màu hạt dẻ bỏ vào miệng, chờ đợi diễn biến tiếp theo. Trước bà ngoại ngồi ưỡn ngực khoanh tay, mẹ chỉ biết cắn chặt môi, chăm chăm nhìn xuống mũi giày. Mãi đến khi trên khay nhựa không còn sót chút gì mẹ mới đặt tay lên hai vai tôi, cất giọng lí nhí như tiếng muỗi vo ve.
“Nó đây ạ.”
Bà thở dài một hơi rồi ngả người ra sau, đoạn “Hứ” một tiếng. Sau này hỏi bà tôi mới biết, tiếng “Hứ” đó mang nghĩa “Sống thế à, con nhỏ thối tha.” Bà lớn tiếng nói cho cả quán McDonald’s nghe thấy. “Đẹp mặt nhỉ.”
Mọi người đều quay nhìn chúng tôi, mẹ bắt đầu òa khóc. Qua kẽ môi thoáng mấp máy, mẹ kể lại tất cả những sóng gió đã xảy đến trong cuộc đời mình suốt mấy năm qua. Từ đầu chí cuối tôi chỉ nghe thấy tiếng khóc rưng rức xen lẫn tiếng hỉ mũi của mẹ, may mắn thay có vẻ như bà vẫn hiểu toàn bộ. Hai cánh tay bà khoanh khư khư trước ngực như then cửa cài chặt đã hạ xuống đầu gối tự lúc nào, khuôn mặt bóng láng của bà cũng trở nên khô sắt. Trong lúc mẹ liên tục giải thích về tôi, biểu cảm của bà chốc chốc lại biến đổi giống y chang mẹ. Sau khi câu chuyện của mẹ kết thúc, bà giữ im lặng một hồi lâu rồi đột ngột thay đổi nét mặt.
“Nếu lời mẹ cháu là thật thì cháu quả là một con quái vật.” Mẹ há hốc miệng nhìn bà. Bà đưa mặt lại sát mặt tôi rồi bật cười ha hả. Khóe môi bà nhếch lên hết cỡ còn khóe mắt thì cong xuống khiến cho nụ cười của bà cứ như cuộc gặp gỡ giữa mắt và miệng vậy.
“Con quái vật đáng yêu nhất thế giới. Chính là cháu!”
Nói rồi bà lấy tay xoa đầu tôi đau điếng. Từ đó trở đi, ba người chúng tôi bắt đầu sống cùng nhau.
13.
Công việc mới mà mẹ chọn làm sau khi chuyển về sống cùng bà ngoại là bán sách cũ. Đương nhiên nhờ sự giúp đỡ của bà. Nhưng theo lời mẹ thì bà là một “quả bom nổ chậm”, hễ có dịp lại càm ràm đủ điều.
“Hy sinh cả đời cho đứa con gái duy nhất đi học, giờ nó học hành chẳng ra sao lại đi bán sách cũ. Con nhỏ thối tha.”
Nếu phân tích chính xác cụm từ “con nhỏ thối tha” thì nó mang ý nghĩa vô cùng đáng sợ nhưng cứ hở ra là bà gọi mẹ như vậy.
“Sao mẹ cứ gọi con gái là con nhỏ thối tha thế? Cái gì mà con nhỏ thối tha chứ!”
“Tao nói có gì sai? Ai chết đi mà chẳng biến thành cái xác thối cả thôi. Đây không phải câu chửi mà là sự thật.”
Sau khi chuyển về sống chung với bà ngoại, chúng tôi không phải liên tục chuyển nhà như trước nữa mà đã có nơi ở cố định. Ít nhất bà cũng không tra tấn mẹ bằng câu hỏi “Sao không làm nghề gì đó ra tiền hơn?” Từ xưa bà đã luôn tôn thờ con chữ. Vì thế dù nhà không mấy khá giả, bà vẫn mua nhiều sách cho mẹ đọc và mong muốn mẹ trở thành một “cô gái học rộng biết sâu đam mê đọc sách”. Thực ra bà ngoại từng mong mẹ sẽ trở thành nhà văn, xa hơn là trở thành nhà văn “nữ cường” không lập gia đình, sống một mình thật oách tới già. Đó chính là cuộc đời bà muốn sống nếu có thể quay ngược thời gian. Chính vì thế bà đã đặt cho mẹ cái tên “Ji Eun[3]”.
“Ji Eun à, Ji Eun, mỗi khi gọi tên mày, tao đều nghĩ mày sẽ có khả năng viết lách thật hay, tao cho mày đọc sách cũng vì mong mày thông minh lanh lợi hơn. Vậy mà tất cả những gì mày học được từ sách là rơi vào lưới tình của một thằng không học hành gì. Ôi giời ơi…”
Thi thoảng bà lại ca cẩm như vậy.
Trong thời đại mọi thứ đều có thể giao dịch trên Internet, chẳng ai nghĩ rằng hiệu sách cũ sẽ ăn nên làm ra cả. Dù thế mẹ vẫn khăng khăng đòi mở hiệu sách đến cùng. Hiệu sách cũ là quyết định phi thực tế nhất của một
người thực tế như mẹ. Đó cũng là ước mơ mẹ đã ấp ủ từ lâu. Có thời mẹ cũng từng mơ ước trở thành nhà văn đúng như nguyện vọng của bà. Thế nhưng mẹ nói không thể đặt bút viết về những vết xe chạy ngang cuộc đời mình. Mẹ không đủ tự tin để rao bán chuyện đời mình, và theo mẹ đó không phải là tố chất của một nhà văn. Thay vào đó, mẹ quyết định bán sách người khác viết. Những cuốn sách đã nhuốm màu thời gian. Không phải những ấn bản mới nhất mà là những cuốn sách mẹ có thể đích thân chọn lựa. Ấy là sách cũ.
Hiệu sách nằm trong con hẻm thuộc khu nhà riêng phường Su Yu. Tôi nghĩ làm gì có ai vào tận đây mua sách cũ, nhưng mẹ lại rất tự tin. Mẹ nói mình có con mắt chọn sách cũ thần sầu và biết cách mua được số lượng lớn những loại sách mà đám mọt sách ưa thích với giá hời. Nhà chúng tôi nằm ngay phía sau hiệu sách. Căn nhà có hai phòng, bao gồm phòng khách và nhà vệ sinh không có bồn tắm, đủ dùng cho ba người chúng tôi. Đang ngủ mà có khách gọi vẫn có thể ra tiếp luôn được, hoặc khi không có hứng mở hiệu thì chỉ cần khóa cửa vào là xong. Trên kính cửa sổ lấp lánh dán dòng chữ “Hiệu sách cũ” và treo biển hiệu ghi “Hiệu sách Ji Eunie[4]”. Vào đêm trước hôm mở hiệu sách, mẹ phủi tay và nở nụ cười mãn nguyện.
“Từ giờ chúng ta sẽ không cần chuyển nhà nữa. Vì đây sẽ là nhà chúng ta.”
Câu nói đó của mẹ đã trở thành sự thật. Lúc nào bà cũng lẩm bẩm “quả là chuyện lạ”, nhưng chúng tôi thực sự đã đủ sống nhờ số sách bán được.
14.
Tôi thấy nơi này rất thoải mái. Nếu là người khác có thể họ sẽ nói là “thích” hay “hài lòng” nhưng với vốn từ vựng của tôi, “thoải mái” là hợp lý nhất. Nói chính xác hơn thì tôi đã quen với mùi sách cũ. Ngay từ lần đầu ngửi mùi sách cũ, tôi đã cảm thấy vô cùng thân thuộc, như thể chúng tôi
quen biết từ rất lâu. Hễ rảnh là tôi lại mở sách ra hít hà. Bà thường cằn nhằn tôi ngửi mùi mốc meo đó làm cái gì.
Sách đã đưa tôi đến những nơi tôi không thể đặt chân tới mà chẳng tốn một giây. Giúp tôi lắng nghe lời bộc bạch của những người tôi không thể gặp gỡ, âm thầm dõi theo những mảnh đời tôi không thể lại gần. Những cảm xúc mà tôi không thể cảm nhận, những sự kiện mà tôi chẳng thể kinh qua được đan cài thật kín đáo trong từng trang sách. Điều này, ngay từ đầu đã khiến sách khác với ti vi và phim ảnh.
Thế giới trong phim điện ảnh, truyền hình hay truyện tranh đều quá cụ thể, vì thế chẳng còn kẽ hở nào cho tôi chen vào. Những câu chuyện trên màn ảnh đều chỉ tồn tại theo cách người ta quay nó hay vẽ nó. Ví dụ như câu văn trong sách “Một cô gái tóc vàng đang ngồi vắt tréo chân trong căn nhà hình lục giác chứa những chiếc gối màu nâu” khi được dựng thành phim hay vẽ thành tranh thì mọi thứ từ da dẻ, biểu cảm đến cả độ dài móng tay cô gái đều sẽ được đóng khung định sẵn. Trong thế giới đó, tôi không thể thay đổi được gì.
Sách thì khác. Vì trong sách có rất nhiều khoảng trống. Giữa các từ cũng có khoảng cách và giữa các dòng cũng vậy. Tôi có thể bước vào trong đó để ngồi hay đi bộ, hay thậm chí viết ra cả những suy nghĩ của mình. Dù tôi không hiểu hết ý nghĩa của những câu chữ trong sách cũng chẳng sao. Chỉ cần mở một trang bất kỳ là tôi đã thành công một nửa rồi.
Tôi sẽ yêu em.
Dù không thể biết thứ tình yêu đó là tội lỗi hay độc dược, hay chính là mật ngọt, thì tôi cũng sẽ không bao giờ ngừng lại.
Tôi không hề hiểu ý nghĩa của câu đó, nhưng tôi chẳng quan tâm. Chỉ cần bám theo những con chữ là đủ rồi. Cảm nhận mùi hương của sách, chầm chậm dõi mắt theo dáng hình và đường nét của từng chữ từng chữ. Việc này đối với tôi cũng thần thánh như nhai hạnh nhân vậy. Khi nghĩ rằng đã tỉa tót đủ cho từng con chữ bằng mắt, tôi bắt đầu đọc chúng thành lời. Tôi, sẽ yêu, em. Dù không thể biết, thứ tình yêu đó, là, tội lỗi, hay, độc dược, hay, chính là, mật ngọt, thì tôi, cũng sẽ, không bao giờ, ngừng lại.
Tôi nếm thử vị của từng con chữ như thể đang nhai rồi nhả ra bằng lời nói. Cứ như vậy, lặp đi lặp lại tới khi thuộc lòng. Nếu lặp lại một câu quá nhiều lần thì sẽ tới lúc nghĩa của câu đó trở nên mơ hồ. Rồi đến một lúc nào đó, con chữ sẽ vượt qua ranh giới các con chữ, từ ngữ sẽ vượt qua ranh giới từ ngữ, nghe vô nghĩa như tiếng người ngoài hành tinh. Và khi ấy, những khái niệm tôi thấy khó hiểu như tình yêu hay vĩnh cửu đều trở nên thật gần gũi. Tôi giới thiệu với mẹ trò chơi thú vị đó. Mẹ liền nói:
“Thứ gì lặp lại quá nhiều lần đều trở nên vô nghĩa. Ban đầu con tưởng như nó đang phát triển nhưng sau một thời gian, nó sẽ dần biến đổi hoặc phai nhạt đi. Cuối cùng ý nghĩa thực sự sẽ biến mất. Trắng xóa.”
Tình yêu. Tình yêu. Tình yêu. Tình yêu. Tình yêu. Tình. Yêu. Tìnhhh yêuuu. Tình yêu. Tình yêu tình. Yêu tình. Yêu tình. Mãi mãi. Mãi mãi. Mãi mãi. Mãi. Mãi. Mã ãi mã ãi.
Nào, giờ thì ý nghĩa đã biến mất. Giống như một tờ giấy trắng, như những gì hiện hữu trong đầu tôi lúc ban sơ.
15.
Đông qua xuân lại đến, bốn mùa cứ thế xoay vòng như thể chỉ quanh quẩn trong một khuông nhạc đánh dấu nhắc lại. Mẹ và bà luôn chí chóe về mọi sự rồi thoáng chốc lại cùng nhau bò lăn ra cười, ấy vậy nhưng hễ trời sẩm tối là cả hai đều kiệm lời hẳn. Rồi khi mặt trời nhuốm đỏ không gian, bà thường nhấp chén soju rồi “Khà” một tiếng, mẹ liền đệm thêm câu “Đã quá” bằng một giọng như đã rút ruột rút gan. Theo mẹ thì “Khà, đã quá!” nghĩa là “hạnh phúc”.
Mẹ được rất nhiều người thích. Sau khi về sống chung với bà, mẹ cũng đã hẹn hò mấy lần. Bà nói lý do đàn ông theo đuổi một người hư hỏng như mẹ cũng bởi mẹ trông giống bà ngày trẻ. Những lúc ấy mẹ lại bĩu môi nhưng rốt cuộc vẫn phải thốt ra cái câu giờ đã không thể kiểm chứng “Mẹ con cũng xinh lắm chứ bộ.” Tôi chưa từng tò mò về các bạn trai
của mẹ. Nhưng kiểu hẹn hò của mẹ thì trăm lần đều như một. Mẹ chưa bao giờ là người tiếp cận trước nhưng cuối cùng người níu kéo lại luôn là mẹ. Theo bà ngoại lý do là bởi bọn đàn ông chỉ muốn hẹn hò đơn thuần thôi còn mẹ lại cần một người có thể trở thành bố của tôi.
Mẹ tôi sở hữu một thân hình mảnh mai. Mẹ luôn kẻ viền mắt nâu, có lẽ vì thế mà đôi mắt vốn đã đen tròn của mẹ trông càng đen và to hơn. Tóc mẹ dài đến hông, đen nhánh như rong biển. Đôi môi mẹ luôn được đánh son đỏ chót làm người khác liên tưởng tới ma cà rồng. Thi thoảng tôi mở ảnh ngày xưa của mẹ ra xem, thực sự tuy đã gần bốn mươi rồi mà trông mẹ vẫn y hệt trong ảnh, chẳng thay đổi gì. Từ quần áo tới kiểu tóc, cả vóc dáng cũng vẫn vậy. Mẹ mãi không thay đổi, cũng chẳng già đi, bất quá có chiều cao là nhỉnh hơn chút xíu. Vì không muốn mẹ buồn bởi câu nói cửa miệng “con nhỏ thối tha” của bà mà tôi đã đặt cho mẹ một biệt danh khác, “người phụ nữ không thối tha”. Ấy vậy mà mẹ chỉ bĩu môi, nói không thích biệt danh đó.
Bà ngoại tôi cũng chẳng hề già đi. Mái tóc muối tiêu không đen hơn cũng chẳng bạc thêm, ngay cả thân hình to lớn hay thói quen uống rượu bằng bát cũng không thay đổi theo năm tháng.
Ngày đông chí hằng năm, chúng tôi đều lên sân thượng dựng máy ảnh vào tường đá để chụp ảnh gia đình. Chỉ có mình tôi, đứng giữa ma cà rồng mẹ trẻ mãi không già và người khổng lồ bà ngoại, là lớn lên trông thấy giữa hai người phụ nữ không hề biến đổi theo thời gian.
Năm ấy. Năm xảy ra chuyện ấy. Mùa đông năm ấy. Trước khi tuyết đầu mùa rơi không lâu, tôi đã phát hiện một điểm lạ trên khuôn mặt mẹ. Ban đầu tôi tưởng đó là sợi tóc dính trên mặt mẹ. Tôi đưa tay định phủi nó đi. Nhưng hóa ra đó không phải sợi tóc mà là nếp nhăn. Không biết nó đã xuất hiện tự bao giờ mà khá sâu và dài. Lần đầu tiên tôi nhận ra mẹ đã già.
“Mẹ cũng có nếp nhăn cơ đấy.”
Mẹ mỉm cười trước câu nói của tôi, nếp nhăn càng vươn dài hơn. Tôi cũng từng thử tưởng tượng mẹ già đi sẽ thế nào nhưng thực rất khó hình dung. Việc mẹ già đi quả là không thể tin nổi.
“Từ giờ mẹ chỉ có già đi thôi.”
Không hiểu sao khi nói câu ấy, nụ cười trên khuôn mặt mẹ vụt tắt. Mẹ nhìn về nơi xa xăm rồi chợt nhắm nghiền mắt lại, gương mặt không biểu lộ cảm xúc gì. Mẹ đã nghĩ gì nhỉ? Mẹ đã tưởng tượng ra mình khi già đi sẽ cười hô hô giống bà chăng? Nhưng mẹ sai rồi. Đến cơ hội để già đi mẹ cũng chẳng còn nữa.
16.
Mỗi khi rửa bát hay lau sàn, bà thường lẩm bẩm hát theo một giai điệu nào đó không rõ ràng.
Mùa hè có ngô, mùa đông có khoai lang.
Ngon lắm, ngọt lắm, mọi người mau tới mà ăn.
Đó là những thức quà bà từng bán tại bến xe khách hồi còn trẻ. Những món bà từng lom khom ngồi cạnh cửa ga chào bán cho khách qua lại. Thời còn trẻ, thứ xa xỉ duy nhất bà ngoại tôi được tận hưởng bằng mắt là quang cảnh mỗi khi đi lang thang trong bến xe khách hun hút sau một ngày dài làm việc. Khung cảnh ngày lễ Phật đản và lễ Giáng sinh luôn hớp hồn bà nhất. Những ngày cuối xuân đầu hè, đèn lồng được giăng khắp ngoài bến, mùa đông tới, trong bến xe lại treo kín đồ trang trí Giáng sinh sặc sỡ. Tuy làm việc ở bến xe hằng ngày nhưng nó vẫn là thế giới đáng ngưỡng mộ đối với bà. Những chiếc đèn lồng được cắt dán cẩu thả, những cây thông Giáng sinh giả rẻ tiền, bà đã mong muốn có chúng tới nhường nào. Sau khi mở quán bánh gạo xào cay bằng số tiền tích cóp nhờ bán ngô và khoai lang, thứ đầu tiên bà mua là một chiếc đèn lồng thật đẹp và một cây thông Giáng sinh nhỏ. Mặc kệ tiết trời, trong quán bánh gạo xào cay ngày ấy, đèn lồng và đồ trang trí Giáng sinh được treo quanh năm. Cả khi bà đóng cửa quán bánh gạo và mẹ mở hiệu sách cũ, bà vẫn luôn có một nguyên tắc là bất kể thế nào cũng phải đón lễ Phật đản và Giáng sinh thật tử tế.
“Giê-su và Bồ Tát quả là những vị sáng suốt. Thế nào mà lại chọn mùa ra đời khéo thế, không trùng nhau tẹo nào. Nhưng nếu nhất định phải chọn một trong hai thì đương nhiên là Giáng sinh rồi.”
Bà vừa nói vừa xoa đầu tôi.
Tôi ra đời vào đúng đêm vọng lễ Giáng sinh. Hễ tới sinh nhật tôi, ba người chúng tôi lại ra ngoài ăn mừng. Đêm vọng lễ Giáng sinh năm ấy, ba người chúng tôi cũng chuẩn bị ra ngoài. Đó là một ngày lạnh lẽo và ẩm ướt. Bầu trời sầm sì, không khí đầy hơi nước thấm vào da. Tôi vừa chỉnh lại áo khoác vừa nghĩ, đâu cứ nhất thiết phải ra ngoài để mừng sinh nhật tôi cơ chứ. Quả thật, đáng lẽ chúng tôi nên chọn phương án không ra ngoài.
17.
Thành phố như một biển người. Giáng sinh năm nay khác với mọi năm ở chỗ chúng tôi vừa xuống xe buýt không lâu tuyết đã bắt đầu rơi. Mọi con đường đều tắc, đài phát thanh đưa tin có thể đây là lễ Giáng sinh trắng đầu tiên trong vòng mười năm nay và bão tuyết sẽ kéo dài tới ngày hôm sau. Theo tôi nhớ thì đó cũng là lần đầu tiên tuyết rơi vào sinh nhật mình.
Những bông tuyết thi nhau rơi không ngừng như muốn nuốt chửng cả thành phố. Thành phố xám xịt đã trở nên êm dịu hơn. Không biết có phải vì thế mà những người mắc kẹt trên chuyến xe buýt cũng chẳng bất mãn tẹo nào. Hệt như bị thôi miên, tất cả đều hướng mắt ra ngoài cửa sổ hoặc giơ điện thoại lên chụp ảnh.
“Phải ăn mì lạnh mới được.”
Bà ngoại đột nhiên nói.
“Với hoành thánh nhân thịt nóng hổi.”
Mẹ chép miệng.
“Với thêm một bát nước xuýt nóng ạ.”
Tôi vừa dứt lời thì bà và mẹ nhìn nhau cười hề hề. Có vẻ hai người đang nhớ lại câu tôi từng hỏi cách đây không lâu, rằng tại sao mọi người lại không hay ăn mì lạnh vào mùa đông. Chắc bà với mẹ nghĩ tôi hỏi vậy vì “muốn ăn” mì lạnh.
* * *
Sau mấy chập gà gật trên xe buýt, cuối cùng chúng tôi cũng xuống đi bộ dọc suối Cheong Gye Cheon. Giờ đây cả thế giới chỉ độc một màu trắng toát. Vừa ngửa cổ lên tôi đã thấy những bông tuyết trắng xóa đang rơi với tốc độ chóng mặt. Mẹ reo to, đoạn ngẩng đầu lên trời thè lưỡi đón tuyết ăn như một đứa trẻ. Quán mì lạnh truyền thống nằm sâu trong ngõ mà bà từng đến ăn đã biến mất. Mãi tới lúc gấu quần ngấm dần nước và bắp chân trở nên tê cứng, chúng tôi mới đặt chân đến một quán mì lạnh mà mẹ đã cật lực tìm qua điện thoại. Đó là quán mì lạnh thuộc chuỗi nhà hàng nhượng quyền giữa một dãy phố san sát các quán cà phê.
Ngoài việc sợi mì vừa chạm đến răng đã bở bùng bục đúng như dòng chữ to tướng “phong cách Triều Tiên” in trên biển hiệu thì quán này chẳng còn gì đặc biệt. Nước dùng thì đượm mùi khét lẹt, hoành thánh thì cháy, mì lạnh lại có vị nước ngọt có ga. Ngay cả người lần đầu nếm thử mì lạnh cũng sẽ nhận ra món này ở đây được chế biến hết sức hời hợt và không có tâm tí nào. Ấy vậy mà bà với mẹ vẫn chén sạch sành sanh. Đôi khi, bầu không khí khiến chúng ta có cảm giác thèm ăn hơn là vị của chính món ăn đó. Đương nhiên lý do của ngày hôm ấy là bởi tuyết. Trên miệng bà và mẹ luôn nở nụ cười. Tôi bỏ một viên đá thật to vào mồm ngậm.
“Chúc mừng sinh nhật cháu.” Bà nói.
“Cảm ơn con vì đã sinh ra đời.”
Mẹ nắm lấy tay tôi nói thêm. Chúc mừng sinh nhật. Cảm ơn vì đã sinh ra đời. Tôi từng nghĩ đó là những câu nói khiến người ta chán ngấy. Nhưng quả thực vẫn có những ngày cần dùng đến.
Chúng tôi đứng dậy khi vẫn chưa quyết sẽ đi đâu tiếp theo. Trong lúc bà và mẹ thanh toán, tôi đã nhìn thấy kẹo mận trong chiếc giỏ đặt trước quầy.
Nói đúng hơn, có ai đó ăn xong đã vứt một cái vỏ kẹo vị mận vào trong giỏ. Tôi vừa chạm vào cái vỏ thì nhân viên quán mỉm cười với tôi và nói sẽ đi lấy kẹo, bảo tôi đợi một chút.
Bà và mẹ ra ngoài trước. Tuyết vẫn lả tả rơi, không hiểu sao mẹ vui tới mức nhảy cẫng lên vươn cả tay ra cố bắt mấy bông tuyết. Bà đứng nhìn mẹ, lúc ôm bụng cười lúc lại quay về phía tôi nở nụ cười rạng rỡ. Nhân viên quán quay lại, xé một túi kẹo thật to. Chiếc giỏ nhỏ xíu dần đầy ắp kẹo như một giỏ đựng quà.
“Không sao chứ ạ? Hôm nay là Giáng sinh mà.”
Tôi vừa bốc hai nắm kẹo đầy vừa hỏi nhân viên. Người nhân viên lưỡng lự một chút rồi mỉm cười gật đầu với tôi.
Bên ngoài, bà và mẹ vẫn đang đứng cười. Một đoàn hợp xướng dài vừa biểu diễn vừa diễu hành về phía hai người. Tất cả đều đội mũ ông già Noel màu đỏ, mặc áo choàng đỏ và hát to những bài ca Giáng sinh. Noel Noel Noel Noel. Born is the King of Israel. Tôi đút hai tay vào túi áo, cảm nhận góc nhọn của đống vỏ kẹo đâm vào tay, rồi tiến ra cửa.
Khoảnh khắc đó rất nhiều người cùng đồng thanh la hét. Tiếng hát mừng Giáng sinh chợt lắng xuống. Sau đó là một vài tiếng hét thất thanh. Đoàn hợp xướng cũng tản ra. Mọi người đều lấy tay che miệng rồi bắt đầu bỏ chạy tán loạn.
Qua khung cửa kính, tôi nhìn thấy một người đàn ông đang cầm gì đó đâm thẳng lên trời. Chính là kẻ mặc âu phục cứ lởn vởn phía ngoài cửa trước khi chúng tôi bước vào quán mì. Không chút liên quan tới bộ quần áo trên người, ông ta một tay cầm dao, tay còn lại đang cầm búa. Ông ta hung hăng vung hai tay lên như thể muốn đâm tất cả đám tuyết đang rơi xuống. Rồi ông ta tiến về phía đoàn hợp xướng, một vài người đang vội vã rút điện thoại.
Đột nhiên ông ta ngoái cổ lại. Ánh mắt dừng lại ở mẹ và bà. Người đàn ông đổi hướng. Bà kéo mẹ đi. Ngay sau đó là một cảnh tượng không thể tin nổi. Người đàn ông dùng búa đập vào đầu mẹ. Một nhát, hai nhát, ba nhát, bốn nhát.
Máu mẹ nhỏ xuống nền đất, mẹ ngã gục xuống. Tôi đẩy cửa định chạy ra ngoài nhưng bà đã hét lên rồi chặn cửa lại. Người đàn ông vứt búa xuống đất, cầm dao lên đâm nhiều nhát vào không khí. Tôi đấm thùm thụp
vào cửa kính nhưng bà vẫn lắc đầu quầy quậy, dồn toàn bộ sức lực chặn cửa lại. Bà như thể sắp khóc, liên tục nhắc đi nhắc lại với tôi điều gì đó. Giữa lúc đó người đàn ông đã tiến lại phía sau bà. Bà quay lại nhìn ông ta và hét lên một tiếng rất to. Nhưng chỉ duy nhất một tiếng. Tấm lưng khổng lồ của bà che trước mắt tôi. Máu bắn lên mặt kính. Đỏ. Rồi đỏ hơn. Những gì tôi có thể làm khi ấy là đứng trơ ra nhìn tấm cửa kính ngày một thẫm đỏ. Suốt quãng thời gian đó, không một ai tiến lên cả. Tôi nhìn thấy khung cảnh đằng xa đang ngừng chuyển động. Như thể người đàn ông đó, mẹ và bà đang diễn một vở kịch, và tất cả mọi người đều chỉ đứng xem không hề nhúc nhích. Tất cả đều là khán giả. Trong đó có tôi.
18.
Những người thiệt mạng đều không có liên quan gì tới người đàn ông đó. Theo nguồn tin sau này, người đàn ông chỉ là một tiểu thị dân điển hình, từng sống cuộc sống hết sức bình thường. Ông ta tốt nghiệp Đại học hệ bốn năm, vào làm tại một doanh nghiệp tầm trung trong suốt mười bốn năm. Đột nhiên ông ta bị cho thôi việc vì công ty phải cắt giảm nhân lực do khủng hoảng kinh tế. Bằng tiền lương hưu, ông ta mở một tiệm gà rán nhưng đã phải đóng cửa sau hai năm. Trong khoảng thời gian đó ông ta nợ nần chồng chất, gia đình cũng bỏ rơi ông ta. Sau đó ông ta chỉ sống thui thủi trong nhà, ít cũng phải được ba năm rưỡi. Ông ta sống tại một căn phòng bán hầm, ngoài những lúc đi mua đồ ở siêu thị hay ghé qua thư viện quận thì chẳng ra ngoài bao giờ.
Những cuốn sách mà ông ta mượn ở thư viện đều là sách liên quan tới võ thuật, võ phòng thân, cách sử dụng dao. Ngược lại, những gì được tìm thấy ở nhà ông ta lại toàn là sách về nguyên tắc thành công, phát triển bản thân bằng các phương pháp tạo thói quen tích cực. Trên cái bàn tồi tàn của ông ta còn sót lại dòng chữ to đùng viết bằng tay.
“Ngày hôm nay, bất cứ ai đang cười sẽ phải đi cùng ta.”
Trong nhật ký của người đàn ông vẫn còn lưu lại dấu tích căm thù thế giới. Ông ta đã nhiều lần viết ám chỉ việc mình có ý định giết những người luôn nở nụ cười trên môi giữa cuộc sống chẳng có chút vui thú này. Khi những ghi chép liên quan tới cuộc đời của ông ta được công bố, mối quan tâm của đại chúng không còn nằm ở bản thân vụ án nữa mà quay ngoắt sang vấn đề mang tính xã hội: “Tại sao người đàn ông không còn sự lựa chọn nào khác?” Lớp đàn ông trung niên thở dài xót xa vì cho rằng cuộc đời của người đàn ông kia chẳng khác gì mình. Dư luận bắt đầu đồng cảm với người đàn ông, tiêu điểm vụ việc chuyển sang hiện thực xã hội Hàn Quốc khắc nghiệt đã để xảy ra một vụ việc như vậy. Còn ai đã chết thì chẳng mấy quan trọng nữa.
Vụ án đã trở thành công cụ trang trí cho các cơ quan ngôn luận trong một thời gian, các báo thi nhau giật tít kiểu “Ai đã biến người đàn ông đó thành kẻ giết người”, “Hàn Quốc, đất nước cười là phải chết”… Chẳng bao lâu sau, không một ai nhắc tới vụ án đó nữa, nó tự tan biến như bong bóng xà phòng. Mọi việc xảy ra trong vỏn vẹn mười ngày.
Người duy nhất còn sống là mẹ. Tuy nhiên não của mẹ đã chìm sâu vào giấc ngủ và khả năng mẹ tỉnh lại là rất thấp. Cho dù có tỉnh lại mẹ cũng sẽ không còn là mẹ mà tôi biết nữa. Số người thiệt mạng được chia làm đôi để tổ chức tang lễ chung. Trừ tôi ra tất cả mọi người đều khóc, với cùng cử chỉ và biểu cảm mà bất cứ ai cũng sẽ như vậy nếu có người thân đột ngột chết một cách thảm thương.
Sau lễ tang, một nữ cảnh sát dự đám tang đã rơi nước mắt trong lúc quỳ lễ trước gia đình các nạn nhân, những giọt nước mắt một khi đã rơi thì không thể ngừng lại. Một lúc sau tôi nhìn thấy cô ấy bị một nam cảnh sát lớn tuổi mắng ở ngoài hành lang. “Sau này sẽ còn chứng kiến nhiều vụ như vậy. Phải học cách chai lì với nó đi.” Trong một khoảnh khắc, ánh mắt tôi và ông ta gặp nhau. Ông ta im bặt. Tôi cúi chào như không có chuyện gì rồi bước vào nhà vệ sinh.
Trong suốt ba ngày diễn ra tang lễ, tôi đã nghe thấy rất nhiều lời xì xầm tại sao tôi không thay đổi cảm xúc chút nào. Bọn họ bàn tán và suy đoán rất nhiều. Chắc do nó sốc quá thôi, nó còn bé thế thì biết gì, mẹ nó khác nào đã chết đâu, chắc nó vẫn sốc vì trở thành trẻ mồ côi.
Hình như người ta chỉ mong đợi thấy tôi buồn rầu, cô đơn hay đau khổ. Thế nhưng trong đầu tôi chỉ toàn những câu hỏi, không hề có một gợn cảm xúc.
Tại sao khi đó mẹ và bà lại phấn khích tới mức cười không ngớt như thế? Nếu như chuyện đó không xảy ra thì chúng tôi sẽ đi đâu sau khi rời quán mì lạnh?
Tại sao người đàn ông đó lại làm vậy?
Tại sao không đập vỡ ti vi hay phá nát gương mà lại đi giết người? Tại sao không ai ra tay giúp trước khi quá muộn?
Tại sao?
Hằng ngày, hàng vạn hàng vạn câu hỏi cứ nối đuôi nhau xuất hiện trong đầu tôi, quay về điểm xuất phát rồi lại ùn ùn kéo tới. Thế nhưng tôi chẳng tìm được đáp án cho bất kỳ câu hỏi nào. Tôi đã thử hỏi cảnh sát và bác sĩ tâm lý, những người luôn đeo biểu cảm lo âu trên mặt. Bởi lẽ họ bảo tôi có thể nói bất cứ điều gì với họ. Thế nhưng cũng không một ai trả lời được những câu hỏi của tôi. Đa số bọn họ chỉ im lặng, thi thoảng họ định nói gì đó xong lại ngậm chặt miệng. Cũng phải, vì làm gì có ai biết câu trả lời đâu. Cả bà ngoại và người đàn ông đó đều đã chết. Mẹ thì mãi mãi chẳng bao giờ nói được nữa. Những người có thể trả lời được câu hỏi của tôi đều đã vĩnh viễn biến mất. Tôi quyết định không hỏi những câu đó ra miệng nữa.
Một điều chắc chắn duy nhất, mẹ và bà đã không còn nữa. Cả tâm hồn lẫn thể xác của bà đều đã biến mất, mẹ thì còn lại cái vỏ. Giờ đây ngoài tôi ra, sẽ chẳng một ai nhớ đến cuộc đời hai người nữa. Chính vì thế tôi phải sống.
Sau khi đám tang kết thúc, chính xác là tám ngày sau sinh nhật tôi, tôi đã lớn thêm một tuổi. Tôi đã mười bảy tuổi. Giờ thì tôi hoàn toàn một mình. Những gì còn sót lại là vô số sách chất đầy trong hiệu sách cũ của mẹ. Ngoài chúng ra thì hầu như mọi thứ đều biến mất. Tôi không cần treo đèn lồng và giăng đèn nhấp nháy khắp nhà nữa, không cần học thuộc hỉ nộ ái ố ai lạc dục nữa, đến cả lý do để băng qua biển người vào tận nội thành ăn mừng sinh nhật cũng chẳng còn.
PHẦN 2
19.
Ngày nào tôi cũng tới bệnh viện. Mẹ chỉ nằm một chỗ và thở. Mẹ nằm ở phòng điều trị đặc biệt chẳng được bao lâu đã bị chuyển sang phòng bệnh dành cho sáu người. Mỗi ngày tôi đều đến ngồi bên mẹ, sưởi nắng rồi về.
Bác sĩ lạnh lùng nói rằng mẹ không còn hy vọng tỉnh lại. Sau này họ cũng chẳng làm được gì hơn ngoài kéo dài sự sống của mẹ. Các y tá ngày ngày đến thay vệ sinh cho mẹ với biểu cảm thờ ơ. Thỉnh thoảng họ cùng tôi hợp sức lật người mẹ lại để cơ thể mẹ nằm lâu không bị lở loét. Tựa như vật lộn với một chiếc vali to đùng. Bác sĩ bảo tôi sau khi quyết định xong hãy báo lại với họ. Tôi chẳng hiểu câu đó nghĩa là gì nên hỏi lại. Bác sĩ giảng giải lại rằng không biết tôi định tiếp tục trả viện phí ở đây hay chuyển sang một viện điều dưỡng tiết kiệm hơn ở vùng ngoại ô.
Số tiền bảo hiểm tử vong của bà cũng đủ giúp tôi tạm thời sống yên ổn. Giờ tôi mới biết mẹ đã chuẩn bị sẵn những thứ đó đề phòng trường hợp tôi có thể bị bỏ lại một mình bất cứ lúc nào.
Tôi đi khai tử cho bà. Nhân viên ở ủy ban nhân dân tặc lưỡi, lẳng lặng quay mặt đi. Cách đây không lâu có một nhà phúc lợi xã hội từ ủy ban nhân dân đến tìm tôi. Người đó nói rằng vì tôi là trẻ vị thành niên nên có thể được bàn giao tới cơ sở của họ và hỏi ý kiến của tôi thế nào. Đó là nơi giống như trại trẻ hay trung tâm bảo trợ trẻ em. Tôi xin thêm thời gian suy nghĩ. Nhưng xin thời gian suy nghĩ cũng không có nghĩa là tôi sẽ suy nghĩ trong khoảng thời gian đó. Tôi chỉ đơn giản là xin thêm thời gian thôi.
20.
Nhà rất hiu quạnh. Cả ngày chỉ nghe thấy tiếng thở của tôi. Những dòng chữ của bà ngoại và mẹ vẫn dán trên tường nhưng giờ chẳng ai dạy tôi nữa nên chúng chỉ còn là vật trang trí, chẳng có chút ý nghĩa gì. Tôi biết thừa nếu tới trung tâm bảo trợ thì đời mình sẽ thành ra thế nào. Tôi thì không có vấn đề gì nhưng còn mẹ thì sao.
Tôi tò mò không biết mẹ sẽ khuyên mình thế nào. Nhưng mẹ lại chẳng thể cất lời. Tôi đành tìm kiếm manh mối trong những câu mẹ vẫn thường nói. Tôi nhớ ra câu mẹ nói nhiều nhất. Hãy sống thật “bình thường”.
Tôi đành tìm kiếm các ứng dụng trong điện thoại. Ứng dụng “trò chuyện với điện thoại” lọt vào mắt tôi. Tôi vừa mở ứng dụng thì một cửa sổ nhỏ nhảy ra và xuất hiện một biểu tượng.
Xin chào.
Tôi vừa nhấn vào nút gửi thì đáng sợ thay câu trả lời đến ngay tức khắc.
Xin chào.
Tôi viết.
Bạn khỏe chứ?
Tôi cũng vậy.
Tốt.
Bình thường tức là sao?
Là giống với người khác.
Lặng im một hồi. Lần này tôi quyết định viết dài hơn.
Giống với người khác là thế nào?
Mỗi người đều khác nhau vậy lấy ai làm tiêu chuẩn?
Nếu là mẹ thì mẹ sẽ nói gì với mình nhỉ?
Xong cơm rồi. Ra ăn đi.
Không biết có phải bên kia chạm nhầm nút gửi không mà một câu trả lời cụt lủn xuất hiện. Tôi thử thêm vài lần nữa nhưng chỉ toàn nhận lại những câu trả lời vô nghĩa. Tôi bỏ cuộc tìm kiếm manh mối, liền tắt ứng dụng không thèm gõ lại một lời tạm biệt.
Vẫn còn một thời gian nữa mới phải đi học. Từ giờ tới lúc đó tôi phải làm quen với cuộc sống một mình.
Sau nửa tháng tôi mở lại hiệu sách. Tôi đi giữa những kệ sách, phủi bụi trên giá. Thi thoảng lại có khách đến. Cũng có những người đặt hàng qua trang web trên mạng. Có một bộ truyện cổ tích mà mẹ đã định mua từ trước khi sự việc xảy ra, tôi mua lại nó với giá khá tốt rồi xếp ở nơi dễ nhìn thấy nhất.
Kể ra một ngày chỉ phải nói vài câu cũng khá thoải mái. Chẳng cần suy nghĩ, không cần đau đầu đối đáp cho hợp với hoàn cảnh. Chỉ cần nói với khách hàng những câu như “Vâng”, “Không ạ”, “Đợi một chút” là được. Ngoài ra thì tôi quẹt thẻ, đếm tiền, và nói vài ba câu “Mời vào, Tạm biệt” như một cái máy.
Một hôm, có bà cô quản lý phòng đọc sách thiếu nhi gần đó ghé qua. Ngày trước thi thoảng bà ngoại tôi vẫn thường chuyện trò với bà cô này. “Nghỉ hè nên cháu làm thêm đấy à? Bà đâu rồi?”
“Chết rồi ạ.”
Bà cô há hốc miệng. Hai hàng lông mày nhíu lại.
“Cô biết trẻ con ở tuổi cháu vẫn hay đùa cợt như vậy, nhưng dù sao cũng không nên nói câu đó. Bà cháu sẽ nghĩ sao chứ?”
“Cháu nói thật mà.”
Bà cô khoanh tay lại, cao giọng nói.
“Vậy cháu nói xem. Bà đã mất khi nào, mất như thế nào?” “Bà cháu bị đâm dao, vào đêm Giáng sinh ạ.”
“Ôi trời…”
Bà cô lấy hai tay che miệng.
“Thì ra là cái vụ đã lên thời sự. Ông trời sao thật nhẫn tâm…” Sau khi đưa tay làm dấu thánh, bà cô vội vã chạy ra ngoài. Như thể phải chạy thật nhanh trước khi bị lây bệnh gì đó từ tôi. Tôi gọi với theo. “Đợi một chút, cô chưa thanh toán ạ.”
Mặt bà ta đỏ lựng.
Một lúc sau khi bà cô rời khỏi, tôi thử nghĩ xem nếu là mẹ thì mẹ sẽ muốn tôi nói gì trong hoàn cảnh vừa rồi. Nhìn thái độ của bà cô thì chắc chắn tôi đã phạm sai lầm gì đó. Thế nhưng tôi không hề biết mình sai ở chỗ nào và phải sửa thế nào để không mắc lại sai lầm ấy. Lẽ nào tôi nên nói bà ngoại đã đi du lịch nước ngoài? Không được. Nếu tôi làm vậy thì bà cô thích tọc mạch đó nhất định sẽ liên tục dò hỏi. Hay đáng lẽ tôi không nên nhận tiền sách. Nhưng việc đó cũng chẳng bình thường tẹo nào. Im lặng là vàng. Tôi quyết định tiếp tục lấy câu thành ngữ đó làm kim chỉ nam. Tôi sẽ không trả lời những câu hỏi không đâu nữa. Thế nhưng tiêu chuẩn của sự “không đâu” đó cũng thật dễ nhầm lẫn.
Đột nhiên tôi nhớ đến một cuốn sách. Cuốn sách mà bà tôi, người thường chỉ đọc cùng lắm là biển hiệu các tòa nhà, đã đọc và tấm tắc khen hay. Tôi rất vất vả mới tìm ra cuốn sách nhỏ bằng lòng bàn tay được bán với giá 2500 won vào năm 1986. Tuyển tập truyện ngắn Hyun Jin Gun. Trong đó có truyện “Quản lý[5] B và bức thư tình”.
Nửa đêm nửa hôm, quản lý B trộm thư tình của học sinh rồi tự giả giọng một nam một nữ độc diễn. Có ba nữ sinh lén xem được cảnh tượng đó và phản ứng theo những cách hoàn toàn khác nhau. Một nữ sinh cười nhạo và chế giễu quản lý B. Một nữ sinh lại rùng mình vì sợ quản lý B. Nữ sinh còn lại thì thấy quản lý B thật đáng thương và rơi nước mắt.
Tôi thấy kết thúc đó không tệ tuy nó đi ngược lại lời dạy của mẹ, rằng mọi thứ chỉ có một đáp án duy nhất. Có lẽ câu chuyện muốn truyền tải ý nghĩa cuộc đời này chẳng có đáp án nào được định sẵn. Vì thế ta không nhất thiết phải có một phản ứng nhất định với một lời nói hay hành động của người khác. Bởi mọi người đều khác nhau nên những “phản ứng khác thường” của tôi cũng có thể là đáp án đúng cho một ai đó.
Khi tôi nói vậy, mẹ hết sức bàng hoàng. Sau một hồi băn khoăn, mẹ cũng đưa ra câu trả lời. Vì câu chuyện kết thúc bằng cảnh nữ sinh thứ ba khóc nên phản ứng phù hợp với hành động của quản lý B là “rớt nước mắt” như nữ sinh thứ ba.
“Thế nhưng cũng có kiểu văn diễn dịch mà. Phản ứng của nữ sinh đầu tiên cũng có thể đúng chứ.”
Mẹ lắc đầu. Tôi không chịu thua, liền hỏi.
“Vậy mẹ cũng sẽ giống nữ sinh thứ ba, khóc nếu nhìn thấy quản lý B diễn kịch một mình sao?”
Bà ngoại bên cạnh chợt xen vào.
“Mẹ cháu một khi đã ngủ thì có ai bế đi giữa đêm cũng chẳng biết đâu. Thế nên mẹ cháu chắc chắn đóng vai phụ, là một trong số nữ sinh đang ngủ khò khò trong phòng rồi.”
Nói đoạn bà cười khà khà.
Đột nhiên một bóng đen phủ xuống cuốn sách. Một người đàn ông trung niên đang đứng trước mặt tôi. Sau đó bóng đen liền biến mất. Ông ta để lại một tờ giấy nhớ trên bàn thanh toán. Tờ giấy viết “Hãy đi lên tầng hai.”
21.
Hiệu sách nằm ở tầng một của tòa nhà hai tầng khá thấp. Tầng hai là tiệm bánh. Hiếm có tiệm bánh nào ở trên tầng hai như vậy. Không những thế trên tấm biển tồi tàn còn chẳng ghi nổi tên cửa tiệm cho đàng hoàng, chỉ viết mỗi hai chữ “Bánh mì”. Lần đầu nhìn thấy tấm biển, bà đã nói “trông chẳng ngon gì cả”. Tôi thực không hiểu bằng cách nào bà lại đoán được vị bánh khi chỉ nhìn tấm biển hiệu.
Tiệm bánh chỉ bán bánh mì bơ đậu phộng nhân kem, bánh sữa và bánh kem. Không hiểu sao tiệm bánh tự tin tới mức ngày nào cũng đóng cửa vào lúc bốn giờ chiều. Nhưng tiệm khá đông khách, mấy lần tôi đã thấy khách xếp hàng xuống tận tầng một. Cũng nhờ vậy mà thi thoảng những khách xếp cuối có chút thời gian ghé qua hiệu sách chúng tôi.
Đôi khi mẹ cũng mua bánh ở đó. Trên túi bánh có ghi “Tiệm bánh Shim Jae Young”. Shim Jae Young là tên chủ tiệm, mẹ luôn gọi ông ấy là tiến sĩ Shim. Sau khi được nếm thử, bà cũng không chê bánh ở đó thêm lần nào nữa. Tôi thì, ừ cũng được. Trước giờ với tôi đồ ăn món nào cũng như món nào. Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào bên trong tiệm bánh.
Tiến sĩ Shim cho tôi một cái bánh kem. Tôi vừa cắn một miếng, lớp kem đặc sệt vàng óng trào ra. Tiến sĩ Shim mới chỉ ngoài năm mươi nhưng tóc bạc trắng như tuyết nên trông như đã ngoại lục tuần.
“Có ngon không?”
“Cũng được ạ.”
“May quá, cháu không chê chán.”
Tiến sĩ Shim cười nhẹ.
“Bác làm một mình ở đây ạ?”
Tôi nhìn quanh rồi hỏi. Chẳng có ai trợ giúp cả. Trong gian tiệm trống hoác chỉ có một chiếc máy tính tiền, một giá bày bánh và một cái bàn. Có một vách ngăn ở giữa, có lẽ đằng sau là nơi nhào bột và nướng bánh.
“Ừ, ta vừa là chủ vừa là nhân viên duy nhất ở đây. Làm vậy tiện hơn. Cũng chẳng có vấn đề gì xảy ra cả.”
Một câu trả lời dài quá mức cần thiết.
“Thế bác gọi cháu đến có việc gì ạ?”
Tiến sĩ Shim rót sữa cho tôi.
“Ta rất tiếc khi biết chuyện xảy ra với cháu. Ta đã băn khoăn rất lâu, vì muốn giúp đỡ cháu chút gì đó nên mới gọi cháu lên đây.” “Giúp thế nào ạ?”
“Xem nào. Lần đầu gặp mặt nên ta cũng không biết phải nói thế nào, cháu có cần thứ gì hay nhờ vả điều gì không?”
Từ nãy tiến sĩ Shim vẫn gõ ngón tay liên tục xuống bàn. Có vẻ đó là thói quen của ông nhưng tôi hơi khó chịu khi phải liên tục nghe âm thanh ấy.
“Cháu mong bác đừng phát ra tiếng đó nữa.”
Tiến sĩ nhìn tôi qua cặp mắt kính và nở nụ cười.
“Cháu đã nghe chuyện Đại đế Alexander và Diogenes bao giờ chưa? Tự nhiên bác nhớ tới câu chuyện đó. Khi Đại đế Alexander nói sẽ thực hiện mọi lời thỉnh cầu của Diogenes thì Diogenes đã yêu cầu Đại đế đứng tránh sang một bên vì ngài đang che mất ánh mặt trời của ông.”
“Nhưng nhìn bác cháu chẳng thấy có dáng dấp Alexander Đại đế gì cả.”
Lần này Tiến sĩ bật cười ha hả.
“Ta đã nghe mẹ cháu kể. Rằng cháu là đứa trẻ đặc biệt.”
Đặc biệt. Tôi đang đoán xem mẹ dùng từ đó với ý nghĩa gì. Tiến sĩ nắm tay lại.
“Bác có thể dừng việc gõ xuống bàn bây giờ nhưng nó đã thành thói quen rồi, thật chẳng dễ bỏ chút nào. Bác muốn giúp đỡ cháu về lâu về dài.” “Về lâu về dài ấy ạ?”
“Sống một mình chắc gặp nhiều khó khăn, cháu có thể cần sự giúp đỡ về kinh tế.”
“Cháu vẫn còn tiền bảo hiểm, trước mắt thì không sao ạ.” “Mẹ cháu vẫn thường nhờ bác giúp đỡ nếu có chuyện gì xảy ra với cháu. Bác với mẹ cháu từng khá thân thiết đó. Mẹ cháu là người luôn khiến người khác vui vẻ.”
Tôi để ý ông luôn dùng thời quá khứ.
“Bác tới bệnh viện thăm mẹ cháu rồi ạ?”
Tiến sĩ Shim gật đầu. Khóe miệng ông hơi trễ xuống. Thêm người cùng buồn chuyện của mẹ có lẽ sẽ khiến mẹ vui hơn một chút. Mẹ đã từng dạy
tôi như vậy. Khi có người cùng san sẻ nỗi buồn thì đó chính là một chuyện vui. Âm với âm sẽ tạo thành dương mà.
“Thế nhưng sao mọi người lại gọi bác là tiến sĩ ạ?”
“Vì bác từng là bác sĩ. Tuy giờ không phải nữa.”
“Bác đã chuyển sang nghề thú vị hơn rồi.”
Tiến sĩ lại bật cười lần nữa. Dần dần tôi nhận ra, ông luôn cười bởi những câu nói mà tôi chẳng hề có ý định chọc cười.
“Cháu có thích sách không?”
“Có ạ. Trước đây cháu cũng từng giúp mẹ công việc ở hiệu sách.” “Vậy thì thế này đi. Cháu cứ tiếp tục mở hiệu sách nhé. Bác là chủ tòa nhà này. Hãy coi đó như một công việc làm thêm, bác sẽ trả lương cho cháu. Tiền bảo hiểm sẽ dùng khi cháu học đại học hoặc khi có việc quan trọng, trước mắt hãy dùng tiền lương để chi trả sinh hoạt phí. Chỉ cần cháu đồng ý, bác sẽ xử lý trước những chuyện phức tạp.”
Cũng giống khi trả lời nhà phúc lợi xã hội, tôi lại bảo sẽ suy nghĩ. Bởi tôi được dạy phải xin thêm thời gian khi nhận được đề nghị bất thường từ ai đó.
“Bất cứ lúc nào gặp chuyện khó khăn cháu cứ nói với bác. Bác khá bất ngờ vì nói chuyện với cháu thú vị hơn bác nghĩ. Và một khi đã làm thì hãy cố gắng bán được nhiều sách nhất có thể nhé.”
Trước khi về tôi hỏi lại tiến sĩ Shim.
“Bác có từng hẹn hò với mẹ cháu không?”
Tiến sĩ Shim mở to mắt rồi lại nheo lại.
“Cháu nghĩ vậy sao? Chúng ta từng là bạn. Bạn khá thân.” Nụ cười thường trực trên khuôn mặt ông dần biến mất.
22.
Tôi chấp nhận lời đề nghị của tiến sĩ Shim, một lời đề nghị có lẽ cũng chẳng nguy hiểm gì với tôi, về nhiều mặt. Cuộc sống của tôi cứ thế tiếp
diễn, không còn biến cố nào xảy ra nữa. Để giữ lời hứa tăng doanh thu với tiến sĩ Shim, ngày nào tôi cũng dành thời gian tìm hiểu những đầu sách mới đang được yêu thích và cả những tài liệu ôn thi công chức, cố gắng tăng lượng sách. Cũng có những ngày mùa đông lạnh lẽo không một khách ghé hiệu sách, vào những hôm đó tôi chẳng mở miệng lấy một lần. Tới mức khi mở miệng uống nước, hơi nóng trong miệng xộc lên tận mũi.
Trong khung ảnh dựng ở góc bàn, ba người chúng tôi vẫn chẳng thay đổi tẹo nào. Bà ngoại và mẹ cười rạng rỡ, còn tôi không cảm xúc. Đôi khi tôi thường tưởng tượng rằng mẹ và bà chỉ đang đi du lịch thôi. Và đương nhiên tôi biết đó là chuyến du lịch không có ngày trở về. Bà và mẹ từng là cả thế giới đối với tôi. Thế nhưng sự vắng mặt của hai người cũng đã cho tôi biết, thế giới này vẫn còn tồn tại những người khác. Từng người, từng người dần dần xuất hiện trong cuộc đời tôi. Đầu tiên là tiến sĩ Shim. Thi thoảng tiến sĩ Shim có ghé qua hiệu sách cho tôi bánh mì hay nắm vai động viên tôi hãy mạnh mẽ lên. Mà tôi có khi nào yếu đuối đâu.
Tôi thường tới thăm mẹ lúc trời chạng vạng. Mẹ chỉ lặng yên nằm đó như công chúa ngủ trong rừng. Nếu nhận thức được tình cảnh của mình liệu mẹ sẽ trông đợi gì ở tôi nhỉ? Liệu mẹ có mong tôi ngồi túc trực bên giường, cứ vài tiếng lại lật người mẹ một lần? Không đâu. Mẹ sẽ muốn tôi đi học. Bởi lẽ, đó là việc “bình thường” mà ở tuổi tôi ai cũng làm. Vì thế tôi quyết tâm đi học.
Những đợt gió lạnh đã dịu dần. Tết đang đến gần, ngày Lễ Tình yêu cũng đã qua và mọi người đều mặc áo khoác mỏng hơn. Tôi cũng đã tốt nghiệp cấp hai. Trên đài phát thanh hay ti vi người ta thi nhau than vãn không hiểu sao tháng Một, tháng Hai lại trôi qua nhanh đến vậy.
Thế là tháng Ba đã tới. Học sinh mẫu giáo sẽ lên lớp Một, và học sinh tiểu học sẽ lên cấp hai. Tôi cũng vậy, tôi cũng tới một ngôi trường mới để trở thành học sinh cấp ba. Lại phải gặp giáo viên và bạn bè hằng ngày. Thế nhưng mọi chuyện bắt đầu thay đổi.
23.
Ngôi trường tôi mới theo học được xây dựng cách đây hai mươi năm và là trường chung dành cho cả nam lẫn nữ. Tuy không thuộc top những trường có tỉ lệ đỗ Đại học cao nhưng cũng không phải trường nhiều tai tiếng hay có học sinh hư hỏng.
Tiến sĩ Shim nói sẽ cùng tôi tới dự lễ khai giảng nhưng tôi từ chối. Tôi đứng một mình từ xa, ngắm nhìn khung cảnh lễ khai giảng bình thường như bao lễ khai giảng khác. Ngôi trường vốn dĩ màu đỏ nhưng mới đây đã được sửa sang lại nên vẫn còn nồng mùi sơn và vật liệu xây dựng. Những bộ đồng phục cũng cứng đơ, chẳng vừa với người.
Ngày hôm sau, khi học kỳ mới chính thức bắt đầu, giáo viên chủ nhiệm đã gọi tôi ra. Cô là giáo viên dạy Hóa, đã công tác ở trường này được hai năm, trông cô chỉ hơn tôi chừng chục tuổi. Trong phòng tư vấn, cô chủ nhiệm ngồi phịch xuống chiếc xô pha màu tím cũ kỹ, khiến bụi tán loạn bay lên. Cô đưa nắm tay lên che miệng, húng hắng ho rồi e hèm khe khẽ. Ở trường tuy là giáo viên chủ nhiệm nhưng chắc ở nhà cô vẫn là con gái út được chiều chuộng. Khi tôi bắt đầu khó chịu với tiếng e hèm mãi không dứt ấy thì cô nhẹ nhàng gợi chuyện.
“Khó khăn lắm phải không? Cô giúp gì được em nhỉ?”
Cô chủ nhiệm đã biết trước chuyện của tôi. Có vẻ như các chuyên gia tâm lý và luật sư của gia đình những người thiệt mạng đã liên lạc với trường.
“Không sao đâu ạ.”
Tôi nhanh nhảu đáp hòng ngắt gọn cuộc đối thoại. Có vẻ câu trả lời không như mong đợi nên hai khóe môi cô chủ nhiệm nhệch sang hai bên, lông mày cô cũng hơi nhướn lên.
Mọi chuyện bắt đầu vào giờ tan học ngày hôm sau. Cô chủ nhiệm có vẻ đã rất khó khăn mới học thuộc hết tên học sinh trong lớp, nhưng chẳng một ai cảm động vì điều đó. Bởi lẽ cô chỉ dùng những cái tên mình đã vất vả học thuộc vào việc ra lệnh cho ai đó im lặng hoặc ngồi xuống. Rõ ràng cô chẳng có chút tố chất thu hút sự chú ý của học sinh. Không biết có phải do thói quen không mà hễ ba giây cô lại húng hắng ho, rồi chốc chốc lại e hèm.
“Nào, còn chuyện này nữa.”
Đột nhiên cô lên tông giọng.
“Trong lớp chúng ta có một bạn đã phải trải qua chuyện hết sức đau lòng. Giáng sinh vừa rồi bạn ấy đã mất cả gia đình. Cả lớp hãy dành cho bạn ấy một tràng vỗ tay khích lệ. Seon Yoon Jae, đứng dậy nào.” Tôi làm theo lời cô.
“Yoon Jae à, mạnh mẽ lên.”
Cô chủ nhiệm làm mẫu trước, đưa hai tay lên cao vỗ mạnh vào nhau. Giống một đạo diễn sân khấu đang hướng dẫn các khán giả vỗ tay khi ghi hình một chương trình truyền hình.
Phản ứng của đám bạn cùng lớp rất thờ ơ. Loáng thoáng có một vài đứa giả bộ làm theo cô chủ nhiệm, vỗ tay cho có. May nhờ mấy đứa vỗ rất nhiệt tình nên đại khái cũng nghe ra tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ dần lắng xuống. Sau đó là bầu không khí yên ắng tới tịch mịch, chỉ còn hàng chục con mắt đang chằm chằm chĩa vào tôi.
Tôi đã sai khi nói rằng mình không cần cô chủ nhiệm giúp gì cả. “Cô đừng quan tâm đến em là giúp em lắm rồi.”
Đáng lẽ ra tôi nên nói vậy.
24.
Chẳng mấy chốc tin đồn về tôi đã được lan truyền. Chỉ cần gõ bốn chữ “vụ án Giáng sinh” là tự động một loạt các bài báo về đứa trẻ mười sáu tuổi mất cả bà ngoại lẫn mẹ ruột sẽ hiện ra. Những bức ảnh chụp trong lễ tang đều được bôi mờ mặt, bằng trình độ dở tệ tới mức bất kỳ ai quen biết đều có thể nhận ra ngay đó là tôi.
Phản ứng của đám bạn học cùng trường rất đa dạng. Có đứa chỉ đứng từ xa chỉ trỏ, nhưng cũng có đứa công khai bàn tán mỗi khi tôi đi ngang qua hành lang. Lại có những đứa đến ngồi cạnh và bắt chuyện với tôi trong giờ ăn trưa. Nếu tôi bất chợt quay đầu lại trong giờ học thì y như rằng sẽ bắt gặp ánh mắt một ai đó đang nhìn mình chằm chằm.
Một hôm, có một đứa đã nói ra miệng điều mà tất cả cùng thắc mắc. Đó là khi tôi đang quay trở về lớp sau giờ ăn trưa. Tôi nhìn thấy một cái bóng nhỏ lấp ló ngoài cửa sổ hành lang. Từ bên ngoài cửa sổ, một cành cây đang chấp chới vươn vào trong. Phía đầu cành cây nhú một nụ hoa liên kiều nhỏ xíu. Tôi mở cửa sổ và quay cành cây ấy về hướng ngược lại. Vì tôi cho rằng hoa phải đón ánh mặt trời mới tốt. Khi đó chợt có giọng nói lanh lảnh. “Này, khi mẹ mày chết trước mặt mày, mày thấy sao?”
Tôi xoay người nhìn về phía phát ra tiếng nói. Đó là một thằng nhóc nhỏ con. Thằng nhóc vẫn thường nói leo trong giờ học và luôn muốn thu hút sự chú ý. Đi đâu cũng luôn có những thằng như vậy.
“Mẹ tao không chết. Người chết là bà tao.”
Tôi vừa trả lời thì thằng nhóc kinh ngạc “ồ” lên. Tôi nhìn lướt xung quanh, có mấy đứa đang cố nhịn cười.
“À vậy sao? Xin lỗi. Để tao hỏi lại. Cảm giác của mày khi thấy bà ngoại chết ngay trước mặt thế nào?”
Thằng nhóc liền hỏi lại. Mấy đứa con gái vây quanh lên tiếng “Ôi, sao lại hỏi thế?” bằng giọng đầy giễu cợt.
“Chúng mày sao vậy? Chúng mày cũng muốn biết còn gì.” Thằng nhóc đưa hai tay lên, vừa vươn vai vừa nói. Giọng nó lớn hơn ban nãy một chút.
“Có muốn biết không?”
Không một ai trả lời. Bọn chúng chỉ đứng yên tại chỗ.
“Chẳng có cảm giác gì.”
Tôi đóng cửa sổ hành lang rồi đi vào lớp. Ngay lập tức xung quanh lại trở nên ồn ào, nhưng không còn là cái ồn ào của một phút trước.
25.
Sau ngày hôm đó, tôi càng nổi tiếng hơn nhưng không phải kiểu nổi tiếng thông thường mà mọi người ưa thích. Mỗi khi tôi đi qua hành lang, bọn học sinh lại rẽ sang hai bên như mặt biển rẽ làm đôi. Tôi cũng nghe thấy tiếng
xì xào bàn tán ở khắp nơi. Nó đó, chính nó. Trông cũng bình thường đấy chứ. Những câu như vậy. Không ít học sinh lớp 11, 12 xuống tận hành lang của khối 10 để nhìn tôi. Cái thằng đã trực tiếp có mặt ở hiện trường vụ giết người. Cái thằng đã tận mắt chứng kiến người thân bị đâm chết. Cũng chính cái thằng ấy đã nói “chẳng có cảm giác gì” mà không hề chớp mắt.
Tin đồn ngày càng lan rộng. Liên tục xuất hiện những đứa tự nhận học cùng cấp một cấp hai với tôi và từng tận mắt chứng kiến rất nhiều hành động kỳ quái của tôi. Mọi tin đồn đều được phóng đại lên hết mức. Nào là tôi sở hữu IQ 200, nào là nếu lại gần tôi sẽ bị đâm chết lúc nào không biết. Thậm chí còn có cả tin đồn chính tôi đã giết chết mẹ và bà ngoại mình.
Mẹ thường nói trong một tập thể bao giờ cũng có người phải trở thành vật hiến tế. Trước kia mẹ dạy tôi những công thức ứng phó trong giao tiếp xã hội cũng bởi khả năng tôi trở thành vật hiến tế vô cùng cao. Giờ đây, khi bên tôi không còn bà và mẹ, thì sự tiên đoán ấy của mẹ đã thành hiện thực. Bọn trẻ sớm nhận ra việc tôi không hề có phản ứng gì trước mọi lời nói của chúng, vì thế bọn chúng thường bất chợt ném cho tôi một câu hỏi nào đó hoặc lôi tôi ra làm trò cười. Những tình huống như vậy ngày càng nhiều hơn trong khi mẹ, người giúp tôi luyện tập những tình huống giao tiếp giả tưởng, đã không còn nữa, tôi thực sự bị dồn tới đường cùng.
Chuyện về tôi xuất hiện trong cả cuộc họp của các thầy cô trong trường. Có vẻ phụ huynh bọn trẻ đã gọi điện tới phản ánh, dù tôi chẳng làm gì bất thường nhưng với họ, chỉ riêng sự tồn tại của tôi thôi đã khiến bầu không khí trong lớp trở nên kỳ quái rồi. Các giáo viên không biết rõ về tình trạng của tôi. Không lâu sau tiến sĩ Shim đến trường gặp cô chủ nhiệm và nói chuyện rất lâu. Tối hôm ấy tôi và tiến sĩ Shim ngồi đối diện nhau, cùng ăn mì tương đen ở một quán án Trung Quốc. Khi mì trong đĩa đã được vét sạch, tiến sĩ Shim mới đi vào câu chuyện. Ông nói lòng vòng một hồi nhưng tóm gọn lại ý ông là môi trường học đường có thể không phù hợp với tôi.
“Ý bác là cháu nên nghỉ học ạ?”
Tiến sĩ Shim lắc đầu.
“Không một ai có thể nói với cháu câu đó. Ý bác là liệu cháu có thể chịu đựng được sự đối đãi đó cho đến khi trưởng thành hay không.”
“Cháu không quan tâm lắm. Bác cũng biết tình trạng của cháu mà. Nếu như bác đã nghe mẹ cháu kể.”
“Mẹ cháu cũng không muốn cháu phải sống như vậy đâu.” “Mẹ mong cháu sống thật bình thường. Dù đôi khi cháu cũng không hiểu bình thường là như thế nào.”
“Nói cách khác thì không phải mẹ muốn cháu có một cuộc sống yên bình sao?”
“Yên bình…”
Tôi lẩm nhẩm. Cũng không sai. Cuộc sống yên bình giống như bao người. Không có biến cố gì lớn. Đến trường một cách bình thường, tốt nghiệp một cách bình thường và nếu may mắn thì đỗ đại học, kiếm được một công việc ổn định, kết hôn với cô gái mình thích, lập gia đình và sinh con… Kiểu như vậy. Không khác gì câu “đừng gây chú ý” mẹ vẫn hay căn dặn tôi.
“Bố mẹ thường mong đợi rất nhiều điều từ con cái. Nhưng nếu con mình không đạt được những điều đó thì họ cũng chỉ mong chúng sống cuộc sống thật bình thường thôi. Vì họ cho rằng đó là điều cơ bản nhất. Thế nhưng chính cuộc sống được coi là bình thường đó, lại là thứ khó với nhất.”
Nghĩ lại thì có khi bà ngoại cũng chỉ mong mẹ tôi có một cuộc sống thật bình thường. Vì mẹ đã không thể có một cuộc sống như thế. Theo lời tiến sĩ Shim thì “bình thường” là một từ rất phức tạp. Mọi người đều coi thường nó và dễ dàng thốt nó ra miệng nhưng có mấy ai thực sự được sống trọn vẹn với ý nghĩa của từ đó đâu. Nhất là với tôi điều đó lại càng khó hơn nữa. Bởi lẽ tôi không được trời phú cho sự bình thường. Và cũng không hề có năng lực gì phi thường. Tôi chỉ là đứa trẻ kỳ lạ lạc lối ở giữa, không thuộc về bên nào. Vì thế tôi quyết định sẽ thử sức một lần. Thử trở nên bình thường hơn.
“Cháu sẽ đi học tiếp.”
Đó là kết luận của tôi ngày hôm đó. Tiến sĩ Shim gật đầu. “Vấn đề là ‘như thế nào’. Bác chỉ có thể khuyên cháu thế này. Đầu óc là thứ càng dùng sẽ càng phát triển. Nếu cháu dùng theo hướng xấu thì nó sẽ ngày càng xấu đi nhưng nếu dùng theo hướng tốt thì nó sẽ ngày càng tốt
lên. Bác biết cháu có một phần không phát triển bằng mọi người. Tuy nhiên nếu cháu luyện tập thì sẽ thay đổi được ít nhiều.”
“Cháu đã luyện tập nhiều rồi. Ví dụ như thế này.”
Tôi nhếch khóe môi lên hai bên. Thế nhưng tôi biết nụ cười của tôi vẫn khác với nụ cười của mọi người.
“Cháu hãy thử nói chuyện với mẹ xem.”
“Gì cơ ạ?”
“Nói rằng cháu đã trở thành học sinh cấp ba và đang đi học bình thường. Mẹ cháu hẳn sẽ rất vui.”
“Không cần đâu ạ. Mẹ cháu chẳng nghe thấy gì đâu.”
Tiến sĩ Shim không nói thêm câu nào nữa. Theo tôi thì ông không thể phản bác lại câu tôi vừa nói.
26.
Mưa rơi tí tách bên cửa sổ. Là mưa xuân. Mẹ rất thích mưa. Mẹ nói rằng mẹ thích mùi mưa. Nhưng giờ đây mẹ chẳng thể nghe thấy tiếng mưa, cũng chẳng thể ngửi được mùi mưa nữa. Mùi mưa ư? Thực ra chỉ là thứ mùi ngai ngái bốc lên từ mặt đường nhựa khô roong. Tôi lặng lẽ ngồi cạnh nắm tay mẹ. Da mẹ ngày càng thô ráp. Tôi bôi sữa dưỡng hương hoa hồng lên má và mu bàn tay cho mẹ. Tôi ra khỏi phòng bệnh, bắt thang máy đi xuống nhà ăn. Đúng khoảnh khắc cửa thang máy mở, tôi chạm phải ánh mắt một người đàn ông. Người đã khiến tôi gặp con quái vật đó. Người đã đưa con quái vật đó vào cuộc đời tôi.
Đó là một người đàn ông trung niên với mái đầu xám bạc. Ông ta ăn mặc rất gọn gàng nhưng hai vai lại chùng xuống, đôi mắt còn ngân ngấn nước. Nếu biểu cảm tươi sáng hơn một chút thì khuôn mặt đó cũng được coi là đẹp trai. Thế nhưng trông ông ta phờ phạc và u ám.
Khoảnh khắc nhìn thấy tôi, hai con ngươi của ông ta liên tục đảo sang hai bên. Không hiểu sao tôi có dự cảm sẽ gặp lại ông ta lần nữa. Tôi biết từ “dự cảm” không hợp với tôi cho lắm. Vì nói cho đúng thì tôi đâu có thể “cảm nhận” được dự cảm.
Nhưng phân tích kỹ hơn thì dự cảm không phải là thứ “tự nhiên cảm nhận được”. Những việc bản thân trải nghiệm hằng ngày thường sẽ được lưu lại, đúc rút thành các yếu tố điều kiện và kết quả. Đến khi nào gặp phải tình huống tương tự, ta sẽ vô thức dự đoán được kết quả. Vì thế dự cảm thực chất rất có tính nhân quả. Giống như khi ta bỏ hoa quả vào máy xay sẽ cho ra sinh tố hỗn hợp. Ánh mắt người đàn ông đó nhìn tôi khiến tôi có “dự cảm” như vậy.
Về sau, mỗi khi đến bệnh viện tôi lại gặp người đàn ông đó. Dù ở nhà ăn hay ở hành lang, hễ khi nào tôi quay ra vì cảm thấy có ánh mắt đang nhìn mình thì đều là người đàn ông đó. Dường như ông ta có điều gì muốn nói nhưng cũng có vẻ như chỉ đang quan sát tôi. Vậy nên ngay cả khi ông ta tìm đến hiệu sách, tôi vẫn chỉ chào như không có chuyện gì.
“Xin mời vào.”
Người đàn ông gật nhẹ đầu rồi bắt đầu đi vòng quanh dãy giá sách. Bước chân ông ta nặng trĩu. Sau khi bước qua gian sách Triết học, ông ta dừng chân tại gian Văn học một hồi lâu rồi nhặt một cuốn mang ra bàn thanh toán.
Tuy đang cười rạng rỡ nhưng không hiểu sao ông ta không dám nhìn thẳng vào tôi. Điều đó, như mẹ nói, có nghĩa là ông ta đang cảm thấy “bất an”. Ông ta chìa quyển sách ra và hỏi giá.
“Một triệu won ạ.”
“Đắt hơn bác nghĩ nhiều thật.”
Người đàn ông lật xem hai mặt bìa cuốn sách.
“Cuốn sách này có giá trị tới vậy sao? Cũng không phải bản in đầu tiên. Mà nó còn là sách dịch nên dù là bản in lần đầu thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.”
Tựa đề cuốn sách là Demian.
“Dù thế nào thì nó cũng có giá một triệu won ạ.”
Đó là cuốn sách của mẹ. Cuốn sách mẹ vẫn giữ trên giá sách từ thời trung học. Cuốn sách khiến mẹ ấp ủ ước mơ viết lách. Đó là cuốn sách tôi
không định bán. Ông ta cũng thật có mắt nhìn khi chọn đúng cuốn sách này. Người đàn ông hít sâu. Chắc mấy ngày chưa được cạo nên cằm ông ta lún phún râu.
“Trước tiên chú phải giới thiệu về mình đã. Chú là Yoon Kwon Ho. Chú đang dạy môn Kinh doanh ở trường đại học. Cháu tìm kiếm trên mạng sẽ thấy. Không phải chú đang khoe khoang đâu, chú chỉ muốn nói chú là người có thân phận rõ ràng thôi.”
“Cháu biết mặt chú. Cháu gặp chú mấy lần ở bệnh viện rồi.” Mặt người đàn ông giãn ra.
“Cảm ơn cháu đã nhớ chú. Chú cũng từng gặp tiến sĩ Shim, người bảo hộ của cháu. Chú đã nghe qua chuyện đáng tiếc xảy đến với cháu. Cả chuyện cháu là một đứa trẻ đặc biệt. Tiến sĩ Shim bảo chú nên đến nói chuyện trực tiếp với cháu. Chú đến đây vì có chuyện muốn nhờ cháu.”
“Chuyện gì ạ?”
Người đàn ông im lặng một lúc lâu.
“Chú không biết phải nói từ đâu nữa…”
“Chú nói có chuyện muốn nhờ còn gì ạ. Vậy chú cứ nói chuyện đó ra là được.”
“Cháu thẳng thắn thật, đúng như những gì chú nghe được.” Người đàn ông bật cười.
“Mẹ cháu vẫn ổn chứ? Vợ chú đang ốm nằm một chỗ. Chắc cô ấy sắp đi rồi. Có khi chỉ trong vài ngày tới thôi…”
Người đàn ông cúi người về phía trước, lưng còng xuống như lưng tôm. Ông ta hắng giọng rồi mở miệng.
“Chú có hai việc muốn nhờ cháu. Một là cháu cùng chú đến gặp vợ chú. Hai là…”
Ông ta tiếp tục lấy hơi và nói tiếp.
“Cháu có thể hành động giống như con trai chú trước mặt vợ chú không. Không có gì khó cả. Cháu chỉ cần nói theo những lời chú bảo thôi.” Không phải một lời nhờ vả thông thường. Đó là lời nhờ vả tôi chưa từng nghe thấy, nói đúng hơn là kỳ lạ. Tôi hỏi lý do. Người đàn ông đứng dậy rồi đi một vòng quanh hiệu sách. Có vẻ ông ta là người luôn cần thời gian trước khi nói ra bất cứ điều gì.
“Mười ba năm về trước, nhà chú đã mất con trai.”
Người đàn ông tiếp tục nói.
“Nhà chú đã làm đủ mọi cách để tìm đứa bé nhưng không có tác dụng. Gia đình chú thuộc loại khá giả, chú đi du học về và trở thành giảng viên đại học khi còn khá trẻ. Sự nghiệp của vợ chú cũng rất xán lạn. Cả chú và vợ chú đều nghĩ cuộc đời mình thế là thành công. Thế nhưng sau khi mất con, mọi thứ đều thay đổi. Mối quan hệ giữa hai vợ chồng trở nên gượng gạo, vợ chú sau đó đã mắc bệnh. Đó cũng là những tháng ngày khó khăn đối với chú. Chú cũng không hiểu sao mình lại nói ra những điều này nữa…”
“Rồi sao ạ?”
Tôi hỏi với mong muốn người đàn ông đừng quá dài dòng. “Thế nhưng cách đây không lâu, chú đã nhận được một cuộc gọi. Rằng có một đứa trẻ có vẻ là con trai chú. Và chú đã đi gặp thằng bé đó…” Người đàn ông ngừng lời rồi im lặng một hồi lâu.
“Chú muốn trước khi mất, vợ chú được gặp lại con trai. Đó là đứa con vợ chú vẫn luôn mơ ước được gặp lại…”
Ông ấy nhấn mạnh vào từ “mơ ước”.
“Đứa bé tìm thấy không giống với mơ ước của vợ chú sao?” “Cũng không đến mức vậy. À không, việc này rất khó giải thích.” Người đàn ông cúi đầu.
“Vậy sao lại là cháu?”
“Cháu nhìn tấm ảnh này xem.”
Ông ta lấy ra một tấm ảnh. Đó là tờ rơi tìm trẻ lạc. Trong ảnh là khuôn mặt một đứa bé tầm ba, bốn tuổi và bên cạnh là ảnh phác họa khuôn mặt hiện tại. Dường như có nét gì đó giống tôi thật. Không phải đường nét chi tiết trên khuôn mặt mà là thần thái.
“Đứa trẻ tìm thấy không giống thế này ạ?”
Tôi không hiểu nên hỏi lại.
“Không, thằng bé khá giống với bức ảnh. Nên cũng có thể nói trông nó cũng giống cháu nữa. Thế nhưng hiện tại thằng bé không thể gặp mẹ nó được. Chú xin cháu đấy. Hãy giúp chú một lần thôi. Chú sẽ giúp chuyển
mẹ cháu tới một phòng bệnh tốt hơn. Chú cũng sẽ thuê y tá riêng cho mẹ cháu, ngoài ra cháu muốn gì, chỉ cần làm được chú sẽ làm hết.” Người đàn ông chực trào nước mắt. Như thường lệ, tôi lại nói sẽ thử suy nghĩ.
* * *
Người đàn ông không hề nói dối. Tôi dễ dàng tìm thấy thông tin về công việc, quan hệ gia đình cũng như câu chuyện về đứa con mất tích của ông ta trên mạng. “Nếu không có gì hại tới cháu thì vẫn nên giúp người khác.” Tôi nhớ đến lời khuyên của bà ngoại. Ngày hôm sau người đàn ông đó lại tìm đến, tôi gật đầu nhận lời.
Thế nhưng nếu biết trước đó là Gon thì tôi sẽ không chọn làm vậy. Bởi lẽ vì lựa chọn đó, tôi đã mãi mãi cướp đi thứ gì đó từ Gon, một cách vô thức.
27.
Phòng bệnh được trang trí bởi nhiều loại hoa. Đèn được bật khắp nơi, ấm áp chiếu sáng khắp căn phòng. Mọi thứ đều khác hẳn với phòng bệnh sáu người mẹ tôi nằm. Đây không giống phòng bệnh mà giống phòng khách sạn hay xuất hiện trên phim hơn. Có vẻ như vợ người đàn ông rất thích hoa. Tôi thấy hơi váng đầu vì hương hoa. Ngay cả giấy dán tường cũng in họa tiết hoa làm tôi hoa cả mắt. Tôi nghe nói theo nguyên tắc các bệnh viện thường cấm hoa, nhưng dường như vẫn có những trường hợp đặc biệt.
Ông chú nắm lấy cánh tay tôi, từ từ kéo lại phía giường. Người phụ nữ đó nằm giữa một rừng hoa, trông như đang nằm trong quan tài vậy. Nhìn gần hơn thì khuôn mặt cô ấy giống của bệnh nhân mắc bệnh nan y trong phim. Ngay cả ánh nắng rực rỡ bên ngoài cửa sổ cũng không xóa hết được màu xám tro u ám trên khuôn mặt ấy. Người phụ nữ giơ cánh tay khẳng
khiu như cành cây về phía tôi. Bàn tay chạm vào má tôi. Bàn tay không còn chút sự sống nào.
“Con đây rồi. Đúng con rồi. Yi Su à. Con trai mẹ. Con trai đáng yêu của mẹ. Sao bây giờ con mới về…”
Người phụ nữ khóc sướt mướt. Thật thần kỳ khi cơ thể đó vẫn còn đủ sức để khóc như vậy. Mỗi khi người phụ nữ nấc lên, tưởng chừng cơ thể đó sắp vỡ vụn thành bột rồi tan biến.
“Mẹ xin lỗi. Mẹ, mẹ thực sự muốn cùng con làm rất nhiều điều. Thực sự đó. Cùng con ăn cơm, cùng con đi du lịch, ở bên con cả quãng thời gian con lớn lên… Thế nhưng cuộc sống không dễ dàng như mẹ nghĩ. Vậy mà con mẹ vẫn lớn lên thế này, cảm ơn con.”
Người phụ nữ nói câu cảm ơn và xin lỗi thêm khoảng mười lần nữa rồi tiếp tục khóc. Thế nhưng cô ấy vẫn cố gắng cười. Trong suốt ba mươi phút, cô chỉ cầm tay rồi lại vuốt má tôi. Dường như cô ấy đang dốc toàn bộ chút sức lực hiếm hoi còn sót lại cho tôi vậy.
Tôi chẳng nói gì mấy. Chỉ khi người phụ nữ ngưng lời trong giây lát và ông chú ra hiệu thì tôi mới nói vài câu đã được dạy trước. Rằng tôi đã lớn lên khỏe mạnh trong một gia đình có điều kiện tốt, từ giờ tôi sẽ học hành chăm chỉ bên cạnh bố, vì thế mong mẹ đừng lo lắng. Và tôi nhẹ nhàng nở nụ cười. Sau khi đã dùng hết chút sinh lực cuối cùng, người phụ nữ chuẩn bị nhắm mắt lại.
“Mẹ ôm con được không?”
Đó là câu cuối cùng người phụ nữ nói với tôi. Hai cánh tay khẳng khiu như cành cây khô ôm chặt lấy lưng tôi. Như bị rơi vào một cái bẫy vững chãi, tôi không thể nào thoát ra được. Nhịp tim của người phụ nữ truyền đến tôi. Nóng hổi. Cánh tay dần nới lỏng rồi buông xuống. Y tá bên cạnh nói rằng cô ấy đã ngủ.
28.
Người phụ nữ đó từng là một phóng viên rất giỏi. Với ngòi bút tràn đầy sinh lực, cô đã viết nên những bài báo rắn rỏi mạnh mẽ, khiến đối phương phải bối rối bởi những câu hỏi đanh thép chưa ai dám đưa ra. Chỉ có điều do công việc quá bận rộn, cô luôn áy náy vì phải giao con mình cho người khác trông nom.
Ngày hôm đó, cô đã dành một ngày nghỉ hiếm hoi để cùng con trai đến công viên giải trí. Cô bế con cùng chơi trò ngựa gỗ quay. Đó là một ngày nắng ấm và hạnh phúc. Chợt điện thoại rung lên. Đứa trẻ đòi chơi tiếp nhưng người phụ nữ nắm tay con bước xuống rồi nghe điện thoại. Chỉ là một cuộc điện thoại rất ngắn. Thế nhưng khi ngắt máy, cô không thấy đứa bé đâu nữa. Người phụ nữ cũng không nhớ mình đã buông tay con lúc nào.
Thời đó camera không được lắp ở khắp mọi nơi như bây giờ, hơn nữa lại có rất nhiều góc chết. Sau nhiều ngày điều tra, cảnh sát vẫn không tìm ra tung tích đứa trẻ. Hai vợ chồng dồn tâm sức tìm con nhưng hy vọng ngày càng mong manh. Họ chỉ còn biết cầu nguyện đứa trẻ còn sống và được một gia đình tử tế nhận nuôi. Thế nhưng ngày cũng như đêm, những ý nghĩ đáng sợ luôn hành hạ họ. Người phụ nữ không ngừng trách cứ bản thân, cô nhận ra thành công mà mình hằng theo đuổi cũng chỉ là những ảo ảnh bóng bẩy bề ngoài.
Suy nghĩ đó dần khiến người phụ nữ sinh bệnh. Người đàn ông cũng phần nào trách vợ vì để lạc mất con, nhưng giờ ông ta không muốn mất thêm vợ nữa vì bản thân ông đã đủ cô đơn lắm rồi. Thế nhưng cũng từ rất lâu rồi, người đàn ông không còn nói với người vợ bệnh tật rằng con trai họ sẽ quay trở về nữa.
Trước khi gặp tôi không lâu, người đàn ông, tức giáo sư Yoon đã nhận được liên lạc từ một trung tâm bảo trợ. Nghe tin có một đứa bé có thể là con mình, ông ta đã tìm đến trung tâm và gặp lại con trai mình sau mười ba năm. Tuy nhiên thằng bé hiện đang ở trong tình cảnh không thể gặp mẹ ngay được. Bởi lẽ thằng bé đó, không phải ai khác mà chính là Gon.
29.
Lẽ nào người phụ nữ đó thực sự đã dồn toàn bộ hơi sức cuối cùng cho tôi? Ngay sau hôm gặp tôi, cô ấy rơi vào trạng thái hôn mê sâu và trút hơi thở cuối cùng vài ngày sau đó. Giáo sư Yoon thông báo về cái chết của vợ bằng giọng trầm và nhẹ bẫng. Chỉ những người bị khiếm khuyết thứ gì đó giống tôi hay những người đã sớm từ biệt người thân của mình từ trước cả khi họ chết mới có thể làm vậy. Giáo sư Yoon là kiểu thứ hai.
Tôi cũng không hiểu vì lý do gì mình lại đến đám tang. Thực tế tôi không cần làm vậy. Thế nhưng tôi lại đến. Có lẽ bởi người phụ nữ đó đã ôm tôi quá chặt.
Đám tang của cô ấy rất khác với cảnh tượng tôi thấy trong đám tang của bà ngoại. Hồi đó do tổ chức đám tang chung nên mọi thứ rất lộn xộn, bên cạnh linh cữu của bà cũng chỉ có mình tôi. Thế nhưng đám tang của người phụ nữ làm tôi liên tưởng tới cuộc gặp mặt lâu ngày giữa những người thân. Mọi người đều ăn mặc gọn gàng và tươm tất. Từ giọng nói đến nghề nghiệp của tất cả bọn họ đều toát ra vẻ “có văn hóa”. Tôi thường nghe thấy bọn họ gọi nhau bằng những danh xưng như giáo sư, bác sĩ, chủ tịch, giám đốc.
Trong ảnh thờ người phụ nữ nhìn như một người khác. Đôi môi đỏ mọng, mái tóc dày, hai má phính và đôi mắt sáng bừng tựa nắng mặt trời. Khuôn mặt cô ấy trông rất trẻ. Vì sao lại phải dùng ảnh hồi chớm ba mươi của cô ấy để làm ảnh thờ nhỉ? Có vẻ giáo sư Yoon đã đọc được thắc mắc đó của tôi.
“Đó là ảnh trước khi cô ấy lạc mất con. Kể từ đó, chú không tìm được bức hình nào cô ấy có biểu cảm như vậy nữa. Vợ chú cũng muốn lấy tấm ảnh đó làm ảnh thờ.”
Tôi thắp hương rồi quỳ lễ. Vậy là mong muốn thiết tha của cô ấy trước khi chết đã được thực hiện. Mong muốn gặp lại con trai. Ít nhất cô ấy cũng nghĩ mình đã gặp được con trai trước khi ra đi. Nếu như biết được sự thật, liệu cô ấy có bất hạnh hơn chút nào không?
Tôi nghĩ đến đây là mình đã hết trách nhiệm. Khoảnh khắc tôi quay bước định rời đi thì đột nhiên một luồng khí lạnh ở đâu thổi tới. Luồng khí đó nhanh chóng lan tỏa khắp căn phòng. Tất thảy mọi người đều đồng loạt ngậm miệng, hoặc há hốc miệng, như thể bị tấn công bởi sự im lặng có sức
mạnh khủng khiếp ngang một con quái vật. Ánh mắt của bọn họ không hẹn mà gặp ở cùng một điểm. Là thằng nhóc ấy.
30.
Thằng nhóc gầy nhẳng đứng im một chỗ, hai tay nắm chặt. Chân và tay nó quá dài so với thân người ngắn tủn. Người nó khá săn chắc. Trông nó từa tựa nhân vật Joe trong phim hoạt hình Ngày mai của Joe[6]. Thế nhưng thân hình đó khác với thân hình của một người chăm chỉ luyện tập thể dục. Nó giống với thân hình lũ trẻ ở thế giới thứ ba mà tôi từng thấy trong các bộ phim tài liệu. Một thân hình được rèn luyện trong quá trình đấu tranh sinh tồn, giống như những đứa trẻ vẫn ngày ngày đi bới móc bãi rác hay lẽo đẽo theo chân du khách xin từng đồng đô la lẻ. Khuôn mặt nó đen sạm, khô sắt. Dưới hàng lông mày rậm như sâu róm là đôi mắt đen láy như quân cờ vây, ánh mắt ranh mãnh đang quét khắp tứ phía. Ánh mắt đó đã khiến tất thảy đều im bặt. Nó hệt như ánh mắt một loài mãnh thú nhe nanh giơ vuốt giết chết chính đứa con của mình trước những người không hề có ý định làm hại nó.
Thằng bé nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn. Dường như nhổ nước bọt là cách chào hỏi của riêng nó. Cách đây không lâu, trong lần đầu tiên tôi gặp Gon, nó cũng hành động y chang như vậy. Nói chính xác hơn thì lần gặp nhau ở lễ tang là lần thứ hai tôi gặp Gon.
Vài ngày trước lớp tôi có học sinh chuyển đến. Cửa lớp vừa mở, cô chủ nhiệm bước vào, theo sau là một thằng nhóc nhỏ thó. Đó chính là Gon. Hai tay nó khoanh trước ngực, một chân chùng xuống, điệu bộ chẳng hề sợ sệt khi đứng trước những đứa trẻ lạ mặt. Cô chủ nhiệm ngập ngừng giới thiệu Gon là học sinh mới rồi giục nó tự giới thiệu bản thân. Thằng bé đổi chân nghỉ rồi nói.
“Cô nói hộ luôn đi.”
Đâu đó vang lên tiếng cười. Loáng thoáng cả tiếng vỗ tay.
Cô chủ nhiệm lấy tay quạt quạt gương mặt đỏ bừng.
“Đây là Yoon Yi Su. Giờ thì em hãy chào các bạn trong lớp đi.” Nghe xong câu đó, Gon cứng nhắc nghiêng đầu ra chiều phiền toái lắm, nó đảo lưỡi qua lại khiến hai bên má phồng lên. Rồi nó bật cười, đầu nghiêng sang một phía, nhổ toẹt một bãi nước bọt.
“Được chưa ạ?”
Lác đác có tiếng ré lên. Khác với ban nãy, trong tiếng xì xào lần này lẫn thêm nhiều câu khó nghe hơn. Trong trường hợp như vậy, đáng lẽ giáo viên chủ nhiệm phải nhắc nhở hoặc đưa học sinh lên phòng giáo vụ. Vậy mà không hiểu sao cô chủ nhiệm lại quay đầu đi không nói câu nào. Chỉ có khuôn mặt cô đang dần đỏ ửng do phải kìm nén những lời chực trào ra miệng. Một giờ sau khi kết thúc màn giới thiệu, Gon đã trốn về.
Ngay lập tức công cuộc điều tra tiểu sử bắt đầu. Chỉ chưa đầy ba mươi phút, cả lớp đã biết Gon là ai, từ đâu đến. Vài thông tin hay ho đến từ anh họ của một thằng trong lớp.
Thằng nhóc đó đã gọi điện cho anh họ nó, hiện đang học tại trường cũ nơi Gon từng theo học sau khi rời trung tâm bảo trợ trẻ em. Cuộc gọi được mở loa ngoài nhằm tường thuật trực tiếp theo yêu cầu của những đứa khác. Cả lớp lâu lắm mới quây quần ngồi lại với nhau. Có những đứa ngồi hẳn lên bàn để nghe cho rõ. Tôi ngồi phía xa nhưng vẫn đủ nghe thấy.
“Thằng đó cực kỳ lưu manh luôn. Ngoài giết người ra thì gì nó cũng dám làm.”
Đứa nào đó nhìn tôi cười chế nhạo.
“Này, thằng bệnh. Làm sao giờ? Mày hết thời rồi.”
Ngày hôm sau khi Gon mở cửa bước vào, cả lớp nhất loạt lặng thinh. Gon không nói không rằng đi về chỗ. Bọn trẻ giả vờ ngó nghiêng chỗ khác hoặc cắm đầu vào sách. Những tưởng Gon sẽ ngoan ngoãn ngồi yên, ngờ đâu nó thình lình ném bụp cặp sách về phía trước.
“Đứa nào?”
Dường như nó đã để ý thấy bầu không khí nhộn nhạo ngày hôm qua. “Thằng nào đã điều tra về tao? Biết điều thì mau đứng dậy.” Căn phòng bỗng im phăng phắc. Thằng nhóc đưa tin run rẩy đứng dậy.
“À, chả là… anh họ tao bảo biết mày nên…”
Giọng thằng nhóc ngày càng nhỏ dần. Gon đảo lưỡi phồng má một lúc rồi mới mở miệng nói.
“Cảm ơn. Nhờ mày mà tao khỏi cần giới thiệu nữa. Tao đúng là thằng như thế đấy.”
Gon ngồi phịch xuống ghế.
* * *
Ngày tôi nhận được cáo phó của người phụ nữ đó, Gon đã không đến trường. Nó nói rằng nhà có người chết. Thế nhưng tôi không thể ngờ được. Gon lại chính là thằng bé đó. Con trai thật sự của người phụ nữ đã chết sau khi tưởng rằng tôi là con trai mình.
31.
Gon bước vào giữa dòng người, đứng làm lễ trước linh cữu mẹ. Không có chuyện gì đặc biệt xảy ra. Nó làm theo chỉ đạo của giáo sư Yoon, tất cả mọi việc như thắp hương, dâng rượu và cả quỳ lạy cũng diễn ra chóng vánh. Mọi động tác của nó đều rất nhanh, nó chỉ lạy đúng một lần rồi đứng phắt dậy, hờ hững cúi đầu xuống. Giáo sư Yoon đẩy lưng nó ý bảo làm thêm lần nữa. Nhưng thằng bé giãy người khỏi tay bố rồi cứ thế lủi mất.
Theo lời mời của giáo sư Yoon, tôi ở lại ăn cơm rồi mới đi. Bữa cơm có nhiều món giống với những món mẹ hay làm vào các dịp lễ tết. Canh nóng và bánh bột mì chiên, bánh gạo tẩm mật ong cùng nhiều loại hoa quả. Không biết có phải do đói bụng hay không mà tôi ăn rất ngon miệng.
Mọi người thường quên mất mình đang nói to cỡ nào khi bàn tán chuyện của người khác. Cả khi người nói nghĩ rằng mình đang nói rất nhỏ thì những lời đó vẫn dễ dàng lọt vào tai người khác. Trong suốt bữa cơm, chuyện về Gon được mọi người lôi ra bàn luận sôi nổi. Nào là ngày để tang thứ hai Gon mới xuất hiện là vì nó đã từ chối đến, rồi thì vừa ra khỏi trung
tâm bảo trợ nó đã gây rắc rối, tốn bao nhiêu tiền cho nó chuyển trường, rồi còn có một thằng bé đóng giả Gon, những câu chuyện gây nhức đầu đó cứ lởn vởn quanh tai tôi. Tôi ngồi trong một góc quay lưng lại với mọi người, im lặng. Tôi không biết mình có đang làm đúng không nhưng tôi nghĩ mình nên làm vậy.
Vào lúc trời sẩm tối, khách viếng đã về bớt thì Gon đột nhiên xuất hiện. Ánh mắt nó nhìn như muốn chọc thủng người tôi, rồi nó tiến về ngồi ngay đối diện tôi. Chẳng nói chẳng rằng, nó chén sạch hai bát canh thịt bò hầm cay rồi đưa tay lau mồ hôi trên mặt, hỏi tôi.
“Là mày hả? Thằng đóng vai con trai thay tao.” Tôi không trả lời. Vì Gon đã ngay lập tức tiếp lời.
“Từ giờ mày xác định chịu đau nhé. À mà, cũng sẽ thú vị đấy.” Gon cười khẩy rồi đứng dậy. Ngày hôm sau, mọi chuyện chính thức bắt đầu.
32.
Có hai thằng nhóc luôn bám theo Gon. Một thằng gầy nhẳng như xác ve, làm nhiệm vụ thư ký chuyển lời của Gon đến những đứa khác, thằng còn lại vai u thịt bắp, nhìn qua là biết đảm nhiệm vai trò phô trương sức mạnh. Trông ba thằng chẳng có vẻ gì là thân thiết. Như thể chúng nó chỉ tụ tập lại vì một mục đích hay hợp đồng nào đó hơn là thực sự kết bạn với nhau.
Dù sao thì Gon cũng bắt đầu coi việc bắt nạt tôi là sở thích mới. Thi thoảng nó lại xồ ra trước mặt tôi, hệt như con búp bê bật lên mỗi khi mở nắp hộp. Nó thường mai phục ở đâu đó trước căng tin rồi đột ngột đánh tôi một cái hay đứng phía cuối hành lang để chờ ngáng chân tôi. Mỗi khi thực hiện thành công một kế hoạch vặt vãnh nào đó Gon lại cười sung sướng như thể nhận được một món quà bự, hai đứa bên cạnh cũng bấm nhau cười phụ họa.
Tôi chẳng bao giờ có phản ứng gì. Nhiều đứa bắt đầu sợ Gon và thương hại tôi. Thế nhưng chẳng ai mách với giáo viên nửa lời. Chắc hẳn chúng nó ước chừng được bản thân sẽ gặp rắc rối thế nào nếu mở miệng,
hơn nữa tôi cũng không hề tỏ ý muốn cầu cứu chúng nó. Tất cả đều thống nhất với nhau rằng chỉ nên yên lặng quan sát hai thằng kỳ quái chúng tôi. Tôi biết thừa Gon mong đợi phản ứng gì từ tôi. Hồi tôi học cấp một hay cấp hai luôn có những thằng như vậy. Những thằng chỉ mong nhìn thấy khuôn mặt khổ sở của đứa bị bắt nạt. Chúng chỉ ước đối phương vừa khóc lóc vừa van xin chúng dừng lại. Những đứa như vậy đều luôn dùng sức mạnh để đạt được điều chúng muốn. Thế nhưng tôi biết. Nếu như điều Gon muốn là trông thấy một chút thay đổi biểu cảm trên gương mặt tôi thì nó mãi mãi chẳng bao giờ thắng được tôi. Và cuối cùng người hao công tổn sức cũng chỉ có mình Gon thôi.
Không lâu sau, Gon có vẻ đã nhận ra mục đích của nó không dễ gì đạt được. Tuy nó vẫn liên tục gây sự với tôi nhưng không còn thái độ ngông nghênh như trước nữa. “Không lẽ chịu thua rồi sao? Chắc nó cũng mất kiên nhẫn rồi.” Bọn trẻ thì thầm sau lưng Gon. Tôi càng không có phản ứng, càng không cầu cứu ai thì bầu không khí trong lớp càng trở nên căng thẳng.
Được một thời gian dường như đã thấm mệt, thay vì ngáng chân cho tôi ngã hay đánh vào gáy tôi, Gon quyết định “tuyên chiến” một trận cuối cùng. Sau khi cô chủ nhiệm kết thúc buổi học„ thằng xác ve chạy phăm phăm lên trước bảng và bắt đầu viết gì đó. Những dòng chữ nguệch ngoạc hiện lên.
“Ngày mai sau giờ ăn trưa. Trước sân đốt rác.”
Giọng nói ngạo mạn của Gon vang lên.
“Tao đã cảnh cáo rồi nhé. Vì thế tùy mày lựa chọn. Nếu không muốn ăn đòn thì tránh đi. Nếu mày không xuất hiện, tao sẽ coi như mày chạy trốn vì sợ, từ giờ sẽ không làm phiền mày nữa. Còn nếu mày xuất hiện thì hãy chuẩn bị sẵn tinh thần đi.”
Tôi không trả lời, chỉ đeo cặp rồi đứng dậy. Gon ném sách vào lưng tôi. “Có nghe thấy không, thằng bệnh? Tao bảo mày trốn kỹ đi, nếu không muốn ăn đòn.”
Gon hét lên. Mặt nó đỏ bừng bừng vì không nén được cơn giận. Tôi chậm rãi hỏi.
“Tại sao tao phải tránh mày? Tao vẫn sẽ đi đường của tao. Nếu mày không ở đó thì tao với mày chẳng có lý do gì chạm mặt, còn nếu mày ở đó thì đương nhiên sẽ gặp nhau.”
Bỏ lại những lời chửi bới sau lưng, tôi đi ra khỏi lớp. Tôi chỉ nghĩ rằng Gon đang tự làm khổ mình bằng những trò phiền toái đó.
33.
Cả trường đều biết trận quyết đấu giữa Gon và tôi. Từ sáng lũ học sinh đã nhốn nháo cả lên, thi thoảng lại có đứa bóng gió chuyện sẽ xảy ra vào buổi trưa, những câu kiểu như “Sao thời gian trôi chậm thế nhỉ?” hay “Lẽ nào Shin Yoon Jae lại đến đó thật?” Có đứa còn cá cược xem ai sẽ thắng. Tôi vẫn ngồi trong lớp như không có chuyện gì xảy ra. Đối với tôi thời gian trôi qua như bình thường, không nhanh cũng không chậm. Hết bốn tiết học, chuông báo giờ ăn trưa vang lên.
Không ai ngồi cạnh tôi ở nhà ăn. Đến đây thì mọi chuyện vẫn chẳng có gì khác thường. Ăn cơm xong, tôi vừa đứng dậy thì thấy một vài đứa đứng dậy theo. Khi tôi bắt đầu di chuyển, đám đông bu theo lớn dần. Có một lối tắt để về lớp, đó là đi qua sân đốt rác. Tôi uể oải bước. Gon đang đứng đó. Không nhìn thấy hai thằng tay sai đâu, chỉ có mình nó. Gon đang đá đá vào gốc cây thì dừng khựng lại khi nhìn thấy tôi. Dù cách khá xa nhưng tôi vẫn thấy hai bàn tay nó đang nắm chặt. Khoảng cách giữa tôi và Gon càng ngắn lại thì phía sau tôi đám hóng hớt càng bu đông như kiến.
Gon đeo một bộ mặt rất phức tạp. Môi nó mím quá chặt so với biểu cảm tức giận, hai mắt lại quá xếch so với biểu cảm buồn rầu. Tôi biết phải phân tích vẻ mặt này thế nào đây.
“Sợ rồi, sợ rồi. Trông nó hoảng chưa kìa, thằng ranh Yoon Yi Su.” Ai đó hét lớn.
Lúc này khoảng cách giữa tôi và Gon chỉ còn mấy bước chân. Tôi vẫn bước từng bước với tốc độ không đổi. Hễ ăn cơm xong là buồn ngủ, nên giờ tôi chỉ muốn về lớp gục xuống bàn đánh một giấc thôi. Trong khoảnh khắc lơ đãng, tôi đã đi sượt qua Gon như thể nó chỉ là một khung cảnh vô nghĩa. Có đứa nào đó hô lên “Ô” rồi gáy tôi chợt đau nhói. Có lẽ Gon đánh trượt nên tay nó chỉ sượt qua gáy tôi, tôi cũng không thấy đau. Thế nhưng trước khi tôi kịp ngoái đầu lại, người tôi đã đổ về phía trước vì cú đạp của Gon.
“Tao đã bảo mày trốn đi cơ mà! Mẹ kiếp, đây là mày chọn đấy nhé!” Mỗi lời của nó tương ứng với một cú đạp vào người tôi. Càng về sau nó càng đạp mạnh hơn. Tôi đã ngã ra đất từ lúc nào, miệng phát ra những tiếng rên nhỏ. Máu dồn lại phía trong má tôi. Thế nhưng rốt cuộc tôi vẫn không thể làm giúp điều nó muốn.
“Mày là cái chết tiệt gì thế? Thằng khốn này!”
Gon hét lên với biểu cảm như sắp khóc. Bọn trẻ vốn chỉ đứng xem cũng bắt đầu náo loạn. “Cứ thế sẽ lớn chuyện mất. Này, đứa nào gọi chủ nhiệm đi!” Vừa nghe thấy ai dõng dạc lên tiếng giữa vòng hỗn độn ấy, Gon liền quay đầu lại nhìn cả lũ.
“Đứa nào? Đừng có nhấm nhẳng sau lưng tao, có giỏi thì bước ra đây! Bọn chó!”
Gon bắt đầu ném bất cứ thứ gì nó vớ được trong tầm tay về phía bọn trẻ. Can nhựa, cành cây, chai thủy tinh cứ lần lượt bay lên không trung rồi hạ cánh xuống đất. Bọn trẻ vừa hét vừa chạy tán loạn. Khung cảnh này chẳng có gì lạ lẫm. Bà ngoại. Mẹ. Cái ngày xảy ra chuyện đó, những người trên đường cũng giống như vậy. Giờ tôi phải ngăn nó lại. Trong mồm tôi đầy máu. Vì thế tôi nhổ một bãi nước bọt rồi nói.
“Dừng lại đi. Tao không làm được điều mày muốn đâu.”
“Mày nói gì?”
Gon gào lên.
“Để làm được điều mày muốn, tao phải diễn. Việc đó đối với tao rất khó khăn. Tao không làm được. Vì thế mày dừng lại đi. Bọn nó chỉ giả vờ sợ mày thôi, thực chất bên trong bọn nó đang chế giễu mày đấy.”
Gon đảo mắt nhìn xung quanh. Bầu không khí lặng im như thể thời gian đã ngừng trôi. Lưng Gon gồng lên hệt như chú mèo đầy uất hận.
“Chúng mày chết hết đi!”
Rồi Gon bắt đầu hét lớn. Mỗi câu buột ra khỏi miệng đều là câu chửi. Những lời lẽ điên rồ vượt khỏi ranh giới của nguyền rủa và chửi bới.
34.
Tên thật của Gon là Yi Su. Đó là tên mẹ nó đặt cho. Thế nhưng Gon nói không nhớ mình từng được gọi là Yi Su. Với lại cái tên Yi Su nghe quá yếu đuối nên nó không thích. Trong số nhiều tên được gọi thì nó thích nhất tên Gon.
Ký ức đầu tiên của Gon là một nơi lạ lẫm với rất nhiều người nói những ngôn ngữ kỳ lạ. Gon còn quá nhỏ để biết tại sao nó lại ở đó. Nó chỉ thấy đám đông nhốn nháo và lộn xộn. Gon từng sống cùng một đôi vợ chồng già người Trung Quốc ở khu ổ chuột phường Daerim. Họ gọi Gon là Jjeo Yang. Trong vài năm liền nó không bước chân ra khỏi nhà. Đó cũng là lý do ban đầu bố mẹ Gon không thể tìm thấy tung tích của nó.
Khi có người ở Cục quản lý xuất nhập cảnh đến điều tra, đôi vợ chồng già lẩn mất không để lại dấu vết, Gon bị chuyển hết nhà này tới nhà khác rồi cuối cùng tới trung tâm bảo trợ trẻ em. Mọi người đều nghĩ Gon là cháu ruột của đôi vợ chồng già, mà giờ không có giấy tờ hành chính nào cho biết họ đã quay lại Trung Quốc nên cũng không thể tiếp tục điều tra hay tìm bố mẹ ruột cho nó.
Sau một thời gian sống ở trung tâm bảo trợ, Gon được một cặp vợ chồng không có con nhận nuôi. Ở đó Gon được gọi là Dong Gu. Gia đình đó cũng không mấy khá giả, vì thế sau khi sinh được một đứa con, họ đã gửi trả lại Gon sau hai năm nuôi nấng. Gon lại tiếp tục sống ở trung tâm bảo trợ, sau đó nó thường xuyên phải đến trại giáo dưỡng vì làm loạn ở trung tâm. Cái tên Gon cũng là tên nó tự xưng khi ở trung tâm bảo trợ Hy vọng.
“Có Hán tự không?”
“Không, tao không biết mấy thứ phức tạp ấy. Tự nhiên nghĩ ra nó thôi.”
Gon cười khì. Gon là đứa như vậy. Tôi cũng cho rằng cái tên Gon thực sự hợp với nó hơn hẳn mấy cái tên như Jjeo Yang, Dong Gu hay Yi Su.
Gon bị đình chỉ học một tuần sau vụ việc ở sân đốt rác. Hôm đó, nếu không có đứa mách để cô chủ nhiệm đến kịp thời thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Giáo sư Yoon bị gọi đến trường và phải đối mặt với tiến sĩ Shim, người bảo hộ chính thức của tôi. Bằng giọng trầm thấp, tiến sĩ Shim tức giận trách mắng giáo sư Yoon, ông hết sức hối hận vì ngay từ đầu đã khuyên giáo sư Yoon trực tiếp đến gặp tôi. Trước lời cảnh cáo của nhà trường rằng nếu Gon không thay đổi thái độ sau khi bị đình chỉ học thì chỉ còn cách cho nó chuyển trường, giáo sư Yoon ngậm ngùi gật đầu.
Vài ngày sau, tôi và Gon ngồi đối diện nhau trong quán pizza. Ánh mắt nó không còn rực lửa như trước. Không rõ có phải vì giáo sư Yoon đang ngồi cạnh không. Sau này tôi mới biết, lần đầu tiên giáo sư Yoon đánh đòn Gon là sau khi nghe tin nó gây rối ở trường. Vì giáo sư Yoon vốn là người lịch thiệp nên ông cũng chỉ ném cái cốc đang nắm trong tay lên tường, sau đó dùng roi đánh vài cái vào bắp chân Gon. Thế nhưng hành động này đã làm vấy bẩn hình tượng “trí thức” mà ông luôn gìn giữ, không những thế còn khiến mối quan hệ cha con vốn gượng gạo càng trở nên xa cách.
Tâm trạng Gon như thế nào nhỉ? Gặp lại bố ruột sau mười mấy năm xa cách, chưa kịp tìm hiểu hay thân thiết với bố đã bị chính ông bố ấy đánh cho một trận.
Theo lời tiến sĩ Shim thì giáo sư Yoon là người cứng nhắc. Ông luôn giữ phương châm không bao giờ làm hại người khác, vì thế đã không thể khoanh tay đứng nhìn đứa con ruột đột ngột quay trở về lại đi ngược hoàn toàn với phương châm sống của mình. Chưa nói đến việc buồn lòng về Gon, giáo sư Yoon cảm thấy tức giận vì đứa con mình mong đợi bấy lâu lại xuất hiện với “bộ dạng như thế”. Vì thế ông đã chọn phương án đánh đòn Gon và đi xin lỗi tất cả mọi người. Xin lỗi cô giáo, xin lỗi toàn bộ học sinh, và xin lỗi tôi.
Ngay cả việc để tôi và Gon ngồi đối diện nhau trong quán pizza rồi gọi món đắt nhất trong menu cũng là một hình thức xin lỗi. Giáo sư Yoon để
hai tay lên đầu gối, nói thật to một câu tới mấy lần như cố sức để cho Gon nghe rõ. Ông không dám nhìn thẳng mặt tôi, giọng run rẩy. “Chú xin lỗi vì để cháu gặp phải chuyện như thế. Tất cả là lỗi của chú…”
Tôi hút từng ngụm coca bằng ống hút. Có vẻ ông ấy không hề có ý định kết thúc câu chuyện. Giáo sư Yoon càng nói thì gương mặt Gon càng tối sầm lại. Bụng tôi sôi sùng sục và miếng pizza trước mặt đã cứng đơ.
“Thôi chú đừng nói nữa ạ. Cháu không đến đây để nghe chú xin lỗi đâu. Nếu xin lỗi thì nó mới là người phải xin lỗi, vì thế chú hãy để bọn cháu ngồi riêng với nhau đi.”
Giáo sư Yoon ngạc nhiên tròn mắt. Gon cũng nhướng mắt nhìn tôi. “Sẽ không sao chứ?”
“Vâng, nếu có chuyện gì xảy ra cháu sẽ liên lạc với chú.” Gon nhếch mép cười khẩy. Giáo sư Yoon ho khan vài cái rồi chậm rãi đứng dậy.
“Yoon Jae à, Yi Su cũng cảm thấy có lỗi lắm.”
“Nó có mồm để nói mà chú.”
“Được rồi, hai đứa ăn ngon miệng. Có việc gì thì gọi chú.” “Vâng.”
Trước khi rời đi, giáo sư Yoon nặng nề đặt tay lên vai Gon. Gon không phản kháng nhưng khi giáo sư vừa rời khỏi, nó liền lấy tay phủi phủi vai.
35.
Cốc coca sủi bọt sùng sục. Gon liên tục thổi vào ống hút. Mắt nó hướng ra ngoài cửa sổ. Khung cảnh bên ngoài chẳng có gì đặc biệt, ngoại trừ thi thoảng có một vài chiếc xe qua lại. Trên bậu cửa sổ ngay trước chấn song đặt một lọ đựng hạt tiêu bằng inox. Với đường cong hết sức hoàn hảo, lọ tiêu hệt như một thấu kính rộng phản chiếu ánh sáng ra xung quanh. Tôi soi thấy gương mặt mình ở chính giữa. Những cục máu tụ bầm tím lại, trông
tôi giống hệt một võ sĩ boxing vừa thua trận. Gon nhìn khuôn mặt tôi phản chiếu trên lọ tiêu. Ánh mắt chúng tôi gặp nhau tại đó.
“Trông đẹp đấy.”
“Nhờ mày cả.”
“Mày nghĩ tao sẽ xin lỗi mày sao?”
“Mày xin lỗi hay không tao cũng chẳng quan tâm.”
“Vậy sao mày lại muốn ngồi riêng với tao?”
“Vì bố mày nói nhiều quá. Tao muốn ở yên một lúc.”
Gon khẽ khịt mũi sau khi nghe tôi nói. Dường như nó giả vờ ho để giấu đi tiếng cười vừa bật ra.
“Nghe nói mày bị bố đánh.”
Tôi chẳng biết bắt đầu câu chuyện thế nào nên đành nghĩ sao nói nấy. Có lẽ cách này của tôi chưa đúng lắm, Gon trợn ngược mắt. “Ai nói thế?”
“Bố mày trực tiếp kể cho tao.”
“Im đi thằng khốn. Tao chẳng có bố biếc gì cả.”
“Dù thế cũng chẳng có cách gì khiến bố mày không phải là bố mày cả.” “Mày muốn chết hả? Ngậm mồm lại, thằng khốn.”
Gon chộp lấy lọ tiêu. Lực trên người nó dồn hết xuống bàn tay, móng tay nó trắng dã.
“Sao? Mày lại định làm loạn hả?”
“Có lý do gì khiến tao không được làm thế hả?”
“À không, tao chỉ tò mò thôi. Biết trước tao còn chuẩn bị tinh thần.” Dường như bỏ cuộc, Gon kéo cốc coca về trước mặt. Coca lại sủi sùng sục. Tôi cũng bắt chước Gon, thổi vào ống hút. Gon lấy một miếng pizza đưa lên mồm cắn, nó nhai trệu trạo bốn lượt rồi nuốt ực. Sau đó nó ợ nhẹ một tiếng. Tôi làm y theo những gì nó làm. Nhai trệu trạo bốn lần rồi nuốt. Rồi ợ.
Gon quắc mắt nhìn tôi. Giờ nó mới nhận ra tôi vừa bắt chước nó. “Thằng điên.”
Gon lẩm bẩm.
“Thằng điên.”
Tôi bắt chước theo. Gon hết nhếch mép lại nhệch miệng, và nó thấy tôi cũng làm theo y chang. Gon trưng ra những biểu cảm quái đản rồi lầm bầm những từ như “pizza, phân, bồn cầu, chết đi”. Và tôi, cũng lại bắt chước theo nó, hệt như một con vẹt hay chú hề. Ngay cả nhịp thở ra hít vào của Gon cũng bị tôi nhái lại.
Trò chơi bắt chước quái đản này dần dà khiến Gon trở nên kiệt sức. Sau khi ngừng cười, nó câu kéo thời gian như thể đang vắt óc nghĩ xem có động tác hay biểu cảm nào đó khó hơn không. Nó muốn làm gì tôi cũng không quan tâm, tôi vẫn tiếp tục bắt chước tiếng “pư pư pư” phát ra giữa hai môi Gon hay cả điệu khẽ nhíu mày của nó. Cái sự bắt chước dai như đỉa của tôi có vẻ đã đẩy lùi những “sáng kiến” của Gon.
“Dừng lại đi.”
Nhưng tôi vẫn không dừng lại.
“Dừng lại đi.”
Tôi chỉ nhại lại y hệt.
“Tao bảo dừng lại, thằng khốn.”
“Tao bảo dừng lại, thằng khốn.”
“Buồn cười lắm hả, thằng bệnh?”
“Buồn cười lắm hả, thằng bệnh?”
Gon ngừng nói rồi bắt đầu gõ tay xuống bàn. Tôi vừa bắt chước theo thì nó vội ngừng lại. Im lặng. Nó chăm chăm nhìn tôi không nói câu nào. Mười giây, hai mươi giây, khoảng một phút trôi qua. Rồi nó chỉnh lại tư thế, tôi cũng vậy.
“Tao ấy mà.”
“Tao ấy mà.”
“Bây giờ nếu tao lật đổ cái bàn này, làm vỡ hết bát đĩa thì mày cũng sẽ làm theo hả?”
“Bây giờ nếu tao lật đổ cái bàn này, làm vỡ hết bát đĩa thì mày cũng sẽ làm theo hả?”
“Cả khi tao dùng những mảnh vỡ ấy đâm chết mọi người ở đây thì mày cũng làm theo tao hả, thằng chó?”
“Cả khi tao dùng những mảnh vỡ ấy đâm chết mọi người ở đây thì mày cũng làm theo tao hả, thằng chó?”
“Được thôi.”
“Được thôi.”
“Mày nhớ rõ nhé. Trò này là mày bắt đầu trước đấy.”
“Mày nhớ rõ nhé. Trò này là mày bắt đầu trước đấy.”
“Nếu mày dừng lại thì mày không bằng con chó, biết chưa?” “Nếu mày dừng lại thì mày…”
Tôi chưa nói dứt câu thì Gon đã gạt toàn bộ thức ăn trên bàn xuống đất. Rồi nó đá thật lực vào cái bàn, miệng bắt đầu chửi đổng tất cả mọi người. “Nhìn cái gì, lũ điên. Có ngon không? Tao hỏi có ngon không? Lũ thần kinh, đớp cho nhiều vào!”
Gon chộp lấy miếng pizza cùng lọ nước xốt ném về tứ phía. Người phụ nữ ngồi phía đối diện bị miếng pizza phi thẳng vào chân, nước xốt bắn tung tóe lên cả đầu đứa bé bên cạnh.
“Sao mày không làm theo hả thằng bệnh? Sao mày không bắt chước tao?”
Gon nhìn tôi gào lớn.
“Mày bắt đầu trước còn gì. Sao mày không làm theo tao nữa?” Nhân viên quán vội chạy tới, nói vài ba câu yếu ớt không đủ khả năng ngăn Gon lại, kiểu như “Quý khách không được phép làm vậy.” Gon giơ tay lên như thể chuẩn bị đánh cô nhân viên đó. Một vài khách hàng giơ điện thoại lên chụp ảnh còn một nhân viên khác đang gọi điện thoại tới đâu đó. “Làm theo tao đi, thằng khốn.”
Gon tiếp tục gào lên, nhưng tôi đã ra ngoài cửa tự lúc nào. Tôi gọi điện cho giáo sư Yoon như đã hứa. Trước cả khi có tiếng bắt máy, giáo sư Yoon đã xuất hiện. Ông lo sẽ có chuyện xảy ra nên vẫn loanh quanh ở con hẻm gần đó. Giáo sư Yoon đẩy cửa bước vào. Qua tấm cửa kính, tôi dõi mắt quan sát khung cảnh náo loạn bên trong quán. Tấm lưng của giáo sư Yoon run lên, đôi bàn tay to lớn của ông giáng xuống gương mặt Gon, một cái, hai cái, ba cái… Mái đầu Gon bị hai tay ông nắm lấy, lắc tới lắc lui. Tôi chỉ xem đến đây rồi quay bước. Khung cảnh không lấy gì làm thú vị.
ẳ
Vừa nãy chẳng ăn được miếng pizza nào nên bụng tôi trống rỗng. Tôi ăn một bát mì udon ở tiệm mì cạnh ga tàu điện ngầm rồi tới thăm mẹ. Mẹ lúc nào cũng vậy, yên lặng ngủ. Dây vệ sinh thò ra, đung đưa ở chân giường. Nước tiểu màu vàng đang nhỏ tong tỏng. Tôi gọi y tá nhờ xử lý giúp. Khuôn mặt mẹ bóng nhẫy dầu. Giờ mà nhìn vào gương chắc chắn mẹ sẽ giật nẩy mình. Tôi đổ nước hoa hồng ra bông rồi lau mặt cho mẹ, sau đó bôi sữa dưỡng.
Thăm mẹ xong, tôi trở về nhà. Đó là một buổi tối yên ắng. Tôi vớ lấy một cuốn sách. Cuốn sách có nội dung hết sức bình thường, kể về quá trình trở về nhà sau khi bị đuổi khỏi trường của một cậu thiếu niên. Cậu bé muốn trở thành người canh gác bảo vệ một bầy trẻ con chơi một trò chơi gì đó trong một đồng lúa mạch thật to, cậu sẽ bắt tất cả những đứa trẻ nào chạy tới gần mỏm đá. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh cậu bé đứng trông em Phoebe của mình, khi em đang chơi vòng xoay ngựa trong chiếc áo choàng xanh.
Bỗng khuôn mặt Gon hiện lên giữa những trang sách. Khuôn mặt Gon khi bị bố nó nắm tóc. Nhưng tôi không đoán được biểu cảm của Gon mang ý nghĩa gì.
Tôi đang định đi ngủ thì giáo sư Yoon gọi điện đến. Chốc chốc ông lại ngừng nói, im lặng và thở dài. Chung quy lại, giáo sư muốn nói với tôi là ông sẽ chịu toàn bộ chi phí chữa trị và hứa không bao giờ để Gon ở gần tôi nữa.
36.
“Không có người nào là không thể cứu được. Chỉ có những người từ bỏ nỗ lực cứu giúp người khác thôi.” Đó là câu nói của nhà văn người Mỹ P. J. Nolan, xuất thân là một tử tù. Ông ta bị tuyên án tử hình do tình nghi giết hại con gái riêng của vợ. Suốt quá trình điều tra ông ta khăng khăng mình vô tội và trong những ngày ngồi tù đã viết tự truyện. Rất lâu sau cuốn sách trở thành bestseller nhưng P. J. Nolan mãi mãi không biết được sự thật đó. Án tử hình vẫn được thi hành theo đúng dự kiến.
Sau khi ông ta chết được mười bảy năm, hung thủ thực sự mới ra đầu thú và P. J. Nolan được minh oan. Chính lão hàng xóm nhà bên mới là người thực hiện hành vi đồi bại với con gái ông ta.
Cái chết của P. J. Nolan đã thổi bùng lên nhiều cuộc tranh cãi. Tuy P. J. được minh oan tội sát hại con gái nhưng trước đó ông ta đã từng có nhiều tiền án nghiêm trọng như sử dụng bạo lực, ăn cắp hay giết người không thành. Nhiều người gọi ông ta là quả bom hẹn giờ, dù được tuyên trắng án đi chăng nữa thì sớm muộn gì cũng sẽ gây chuyện tày trời. Tuy nhiên trong lúc mọi người tự ý phán xét một người đàn ông đã chết thì sách của P. J. Nolan vẫn bán chạy như tôm tươi.
Phần lớn nội dung cuốn sách miêu tả trần trụi tuổi thơ bất hạnh cùng tuổi trẻ đầy phẫn uất của P. J. Nolan. Từ cảm xúc của ông ta khi dùng dao đâm hay cưỡng hiếp người khác đến cả phương thức làm những chuyện đó cũng được miêu tả hết sức chi tiết, vì thế ở nhiều bang cuốn sách đã bị liệt vào hạng sách cấm. Ông ta miêu tả những hành vi tội ác quá sức chân thực và bình thản, chẳng khác gì cách mọi người vẫn hướng dẫn phương pháp phân loại thức ăn để cho vào tủ lạnh hay sắp xếp tài liệu bỏ vào túi. Chỉ có những người từ bỏ nỗ lực cứu giúp người khác thôi… Ông ta viết vậy là có ý gì nhỉ? Đó là ám hiệu cầu cứu sự giúp đỡ sao? Hay chỉ đơn giản vì ông ta quá uất hận?
Phải chăng người đàn ông vung dao vào mẹ và bà tôi, cả Gon nữa, đều chung hoàn cảnh với P. J. Nolan? Hay rốt cuộc tôi mới chính là người giống với P. J. Nolan?
Tôi muốn hiểu hơn về thế gian này. Vì lý do đó, tôi cần Gon.
37.
Tiến sĩ Shim lúc nào cũng điềm đạm, ngay cả đối với những câu chuyện dễ khiến người khác nhảy dựng lên, như khi nghe tôi kể về sự việc xảy ra giữa tôi và Gon chẳng hạn. Đó cũng là lần đầu tiên tôi kể lể dài dòng về bản thân đến thế. Tôi kể về hạch hạnh nhân nhỏ bẩm sinh trong đầu tôi, về vỏ
đại não nhận thức kém hơn người thường, cả những bài học mẹ đã dạy tôi. Tiến sĩ Shim cảm ơn tôi vì đã kể cho ông nghe tất cả.
“Xem ra cháu không hề sợ hãi khi bị Gon đánh. Nhưng cháu cũng biết việc đó chẳng có gì là dũng cảm phải không? Bác đã nói rồi, nếu chuyện như vậy tái diễn lần nữa, nhất định bác sẽ không bỏ qua đâu. Đó cũng là trách nhiệm của bác. Nói tóm lại, tốt hơn hết cháu vẫn nên tránh đi thì hơn.”
Tôi thừa nhận. Đó cũng là điều mẹ luôn dạy tôi. Thế nhưng khi không có người giám sát tôi sẽ sao nhãng ngay tức khắc. Não của tôi chỉ hoạt động theo đúng trạng thái vốn có của nó.
“Dĩ nhiên việc cháu tò mò về người khác rất đáng hoan nghênh. Nhưng cá nhân bác không vui lắm vì đối tượng của cháu lại là thằng bé đó.” “Người bình thường sẽ nói cháu không nên chơi với Gon phải không ạ?”
“Cũng có thể. Mẹ cháu sẽ nói như vậy, chắc chắn.”
“Cháu muốn hiểu hơn về nó. Như vậy không tốt ạ?”
“Ý cháu là cháu muốn thân thiết với nó?”
“Thân thiết tức là sao ạ?”
“Ví dụ như hai đứa ngồi đối diện nói chuyện như bác với cháu thế này, cùng ăn gì đó và tâm sự với nhau, dành thời gian cho nhau mà không cần tính toán đến vật chất. Đó chính là sự thân thiết.”
“Cháu không hề biết cháu với bác thân nhau.”
“Ha ha, cháu đừng nói không phải nhé. Tóm lại là, tuy hơi sáo mòn một chút nhưng chuyện gì đến ắt sẽ đến. Mối quan hệ giữa cháu và thằng bé đó sẽ trở nên thế nào, thời gian sẽ cho cháu câu trả lời.”
“Cháu có thể hỏi vì sao bác lại không ngăn cản cháu không?” “Bác rất thận trọng trong việc ngăn cản người khác làm việc gì. Bởi lẽ mỗi người đều khác nhau. Tuổi của cháu càng như vậy.”
Tiến sĩ Shim vốn là bác sĩ khoa tim mạch của một bệnh viện trực thuộc trường đại học. Ông đã từng nhiều lần cầm dao mổ, các bệnh nhân của ông luôn phục hồi tốt. Thế nhưng trong lúc ông đang bận bịu chăm sóc cho trái tim những người khác, một khối u đã xuất hiện trong trái tim chính vợ ông. ẳ
Bà ngày một kiệm lời, còn ông vẫn chẳng có thời giờ quan tâm tới vợ. Một ngày nọ, sau những chuỗi ngày trì hoãn, cuối cùng hai vợ chồng cũng có cơ hội đi du lịch cùng nhau. Họ tới một khu nghỉ dưỡng nhìn ra biển nằm ở một hòn đảo tít ngoài khơi xa. Tiến sĩ vừa nhâm nhi một ly rượu vang vừa ngắm hoàng hôn buông xuống. Tâm trí ông ngập tràn những suy nghĩ về công việc phải làm sau khi trở về. Rồi ông chìm vào giấc ngủ, ngay trước khi mặt trời lặn xuống biển. Một lúc sau, ông bỗng tỉnh giấc vì tiếng thở hổn hển. Vợ ông mở to hai mắt, tay đang siết chặt lồng ngực. Tín hiệu điện tim vợ ông báo lỗi. Đột nhiên nhịp tim của bà tăng lên tới 500 lần một phút. Mọi thứ xảy ra chỉ trong chốc lát, điều duy nhất tiến sĩ Shim có thể làm là khóc và nắm lấy tay vợ mình, nói rằng sẽ không sao đâu, bà chỉ cần chịu đựng một lát thôi.
Sau một hồi đập điên loạn, trái tim vợ ông bỗng ngừng đập. Ở đó không có máy sốc tim, ông nhấn nút gọi tín hiệu xanh[7] cũng không ai tới. Tiến sĩ Shim điên cuồng dùng tay ép ngực vợ trong vô vọng, động tác lóng ngóng như người nghiệp dư. Phải một giờ đồng hồ sau xe cấp cứu mới tới, thân thể vợ ông đã lạnh ngắt và đông cứng lại. Vợ ông đã mãi mãi ra đi, và cũng kể từ ấy tiến sĩ Shim bỏ nghề y. Ông dằn vặt bản thân tại sao yêu thương vợ đến thế mà chẳng biết cách thể hiện tình yêu ấy. Ông không còn tự tin dùng dao rạch lồng ngực rồi nhìn trái tim đang đập của một ai đó nữa.
Hai người không có con. Tiến sĩ chỉ còn lại một mình. Mỗi khi nhớ đến vợ, ông lại ngửi thấy mùi bánh mì nướng thơm ngào ngạt. Vợ tiến sĩ Shim luôn tự mình nướng bánh cho chồng, vị bánh thơm ngon ấy luôn khiến ông nhớ về những kỷ niệm đẹp đẽ. Có khi là thời thơ ấu đã bị lãng quên, hay một cảnh tượng nằm trong mảnh ký ức nào đó thật khó diễn tả bằng lời. Ngay cả những sáng bận rộn nhất, trên bàn ăn nhà tiến sĩ Shim vẫn luôn sẵn ổ bánh thơm phức nóng hổi. Tiến sĩ Shim bắt đầu học làm bánh. Bởi ông cho rằng đó là điều duy nhất ông có thể làm vì vợ mình, về lý thuyết thì chuyện này thật khó hiểu. Người vợ có thể thưởng thức bánh mì ông làm đã ra đi mãi mãi, vậy thì còn ý nghĩa gì nữa?
Tiến sĩ Shim và mẹ đã chia sẻ rất nhiều chuyện, dù tôi không hề biết về điều đó. Từ người mới chuyển đến, mẹ đã trở thành khách hàng ruột của tiệm bánh mì và thường xuyên trò chuyện với tiến sĩ. Một người vốn chẳng bao giờ kể chuyện của mình cho bất cứ ai như mẹ, lại thường xuyên
nhờ tiến sĩ giúp đỡ con trai mình đến tận khi nó trưởng thành nếu mình có mệnh hệ gì. Mẹ đã luôn nỗ lực hết sức để giữ bí mật về tình trạng của tôi. Một người mẹ như thế lại đi giãi bày câu chuyện về cuộc đời tôi và mẹ cho người khác thật quá đỗi xa lạ với tôi. Cũng may mắn thay, trong mẹ vẫn tồn tại một người như vậy.
38.
Theo cách nói của bà ngoại, hiệu sách là nơi tập trung mật độ dân số cao vì ở đây có đủ thể loại sách của hàng nghìn hàng vạn tác giả, cả còn sống lẫn đã chết. Vậy nhưng sách rất yên lặng. Trước khi được mở ra, nó vẫn luôn ở trạng thái chết. Thế nhưng kể từ giây phút được lật mở, những câu chuyện cứ thế tuôn trào. Từng chút từng chút một, vừa đủ với mong muốn của tôi.
Có bóng người chợt lướt qua, một thằng bé nhỏ người, hai cổ áo dựng thẳng thớm, lưỡng lự một chút rồi biến mất sau dãy giá sách. Tôi thoáng thấy đầu nó có một mảng hói hình ngôi sao. Lát sau, nó ném một cuốn tạp chí người lớn lên bàn thanh toán. Cô gái có mái tóc vàng óng xoăn tít như bờm sư tử đang ngồi trên xe máy, khổ sở kéo áo khoác da che đi bộ ngực ngồn ngộn như thể sắp nổ tung của mình. Miệng cô nàng hé mở, lưng ngả về phía sau.
“Chán vãi. Tự nhiên tao muốn sưu tầm đồ cổ nên mua giúp cho mày một cuốn đấy. Bao nhiêu?”
Là Gon.
“Hai mươi nghìn won. Như mày nói, nó là đồ cổ nên giá không rẻ.” Gon lầm bầm gì đó rồi móc trong túi ra một đống tiền giấy lẫn xu thả như vứt xuống bàn.
“Mày.”
Rồi nó tì khuỷu tay lên mặt bàn, chống cằm ngước mắt lên nhìn tôi. “Nghe nói mày là rô bốt? Không cảm nhận được gì hết?” “Cũng không hoàn toàn như thế.”
Gon khịt khịt mũi.
“Tao đã điều tra về mày. Chính xác hơn là về cái đầu hỏng của mày.” Gon đưa ngón tay gõ vào đầu mình. Tôi nghe tiếng kêu phát ra giống như khi tôi gõ vào trái dưa hấu chín.
“Bảo sao tao cứ thấy có gì đó là lạ. Đúng là tao đã phí công vô ích rồi.” “Bố mày dặn tao gọi điện nếu mày tìm đến đây.”
“Không cần đâu.”
Trong thoáng chốc mắt Gon ánh lên tia lửa.
“Tao phải gọi, vì tao đã hứa rồi.”
Tôi cầm ống nghe nhưng chưa kịp đưa lên tai thì nó đã rơi bụp xuống sàn.
“Mày nghe không rõ à thằng chó. Đừng có gọi, tao không thèm động vào mày đâu.”
Gon lượn một vòng quanh hiệu sách, lục lọi mấy quyển sách. Rồi nó đứng cách tôi một đoạn xa, miệng hét lớn.
“Chỗ bị đánh có đau không?”
“Đau chứ.”
“Sao bảo mày là rô bốt, hóa ra cũng không hẳn là gỗ đá nhỉ.” “Ừm…”
Tôi tính mở miệng nhưng lại thôi. Thật khó để giải thích về tình trạng của tôi. Nhất là sau khi mẹ, người luôn giúp tôi giải thích, đã không còn nữa.
“Ví dụ như khi lạnh hay nóng, đói bụng hay bị đau ở đâu, tao đều cảm nhận được. Nếu không thì làm sao tao sống được.”
“Chỉ vậy thôi á?”
“Tao cũng biết nhột nữa.”
“Khi nhột mày có thấy buồn cười không?”
“Có lẽ là có. Lâu lắm rồi tao không bị ai đùa kiểu đó nên không chắc lắm.”
Gon thở hắt khi nghe câu nói của tôi. Rồi thình lình nó đã đứng ngay phía trước bàn thanh toán.
“Tao hỏi câu này được không?”
"""