" Hai Cõi Người Ta - Jodi Picoult PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hai Cõi Người Ta - Jodi Picoult PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HAI CÕI NGƯỜI TA Tác giả: Jodi Picoult Người dịch: Trần Nguyên Hương Phát hành & NXB Trẻ 01/2020 —★— ebook©vctvegroup Dành tặng Sammy, độc giả kiêm nhà văn Mẹ yêu con hơn mọi thứ trên đời XOXO, Mẹ Nếu như bạn ngủ? Và trong giấc ngủ, bạn nằm mơ? Và trong mơ, bạn đến được thiên đường ngắt một đóa hoa lạ tuyệt đẹp ở đó? Và nếu như, khi tỉnh giấc, bông hoa ấy nằm trong tay bạn? À! Vậy rồi sao nhỉ? — SAMUEL TAYLOR COLERIDGE Phần Một Năm 2001 Tình yêu đích thực tựa như ma Ai ai cũng nhắc đến Có mấy người trải qua — FRANCOIS, CÔNG TƯỚC XỨ LA ROCHEFOUCAULD, CHÂM NGÔN THỨ 76 Chương Một L ần đầu tự đẩy mình vào chỗ chết, Ross Wakeman suýt thành công, nhưng lần thứ hai và thứ ba chết hụt thì không phải do anh. Lần thứ hai, anh ngủ gục trên tay lái nên phóng xe lao qua thành cầu và rớt xuống hồ nhưng được đội cứu hộ tìm thấy. Khi chiếc Honda nửa chìm nửa nổi được trục vớt, cửa xe đều còn khóa kín, kính cửa sổ cường lực rạn như mạng nhện mà vẫn nguyên vẹn. Sau vụ tai nạn chẳng ai hiểu làm sao anh ta thoát khỏi xe mà không hề trầy xước. Lần thứ ba, Ross bị cướp ở New York. Tên cướp trấn lột ví tiền, đập Ross một trận nhừ tử, nã một phát vào lưng anh rồi trốn mất dạng. Với cự ly gần như thế, viên đạn lẽ ra phải khiến xương vai vỡ vụn và đâm thủng phổi. Vậy mà như có phép thần, viên đạn kẹt lại ngay khi vừa chạm xương. Mẩu đạn chì bé tẹo giờ đang được Ross dùng làm móc chìa khóa. Còn lần đầu tiên suýt chết là vài năm trước, khi Ross mắc kẹt giữa một trận bão sét. Tia sét màu xanh tuyệt đẹp bất chợt xuất hiện trên nền trời rồi phóng thẳng trúng tim anh. Mấy bác sĩ đều nói anh đã chết lâm sàng khoảng bảy phút. Họ nói rằng tia sét không đánh trúng Ross trực tiếp. Nếu dòng điện mạnh 50,000 ampe thực sự truyền thẳng vào lồng ngực, nó sẽ làm nước trong tế bào bốc hơi và khiến anh nổ tung đúng theo nghĩa đen. Tia sét chỉ sượt qua, tạo ra dòng điện cảm ứng khiến nhịp tim anh rối loạn. Mấy tay bác sĩ đều trầm trồ cái gã này sao mà may mắn quá. Mấy gã đó đều sai bét. Lúc này, Ross chẳng buồn cẩn trọng khi dò dẫm trên mái nhà đen thui ướt nhẹp của gia đình O’Donnells’ Oswego vào ban đêm. Trời đã vào tháng Tám mà gió lùa vào từ hồ Ontario vẫn còn lạnh buốt, thổi mấy sợi tóc dài vào mắt khi anh khéo léo rướn mình qua ô cửa sổ xiêu vẹo. Nước mưa vỗ xuống gáy khi anh loay hoay gắn mấy cái kẹp vào máng xối và chỉnh lại máy quay phim chống thấm nước hướng vào tầng gác mái. Đôi ủng của anh trượt một phát, khiến vài tấm ván lợp cũ mèm rơi xuống. Ông O’Donnel che ô đứng dưới đất, nheo mắt dõi theo anh. “Cẩn thận đấy,” ông ta hét lên. Ross ngầm hiểu lời O’Donnel muốn nói: Chừng ấy hồn ma là đủ lắm rồi. Nhưng Ross sẽ chẳng làm sao cả đâu. Anh sẽ không trượt chân; anh sẽ không ngã. Đây là lý do vì sao hết lần này đến lần khác, anh sẵn sàng lao vào nguy hiểm và liều mạng như nhảy bungee, leo núi và hút ma túy. Anh vẫy tay với ông O’Donnell, ra hiệu rằng mình đã nghe thấy. Nhưng Ross biết mặt trời sẽ mọc sau tám tiếng nữa, cuộc sống của anh vẫn tiếp diễn, và dù muốn đến đâu thì mình cũng không chết được. Tiếng trẻ con khiến Spencer Pike tỉnh giấc và loay hoay ngồi dậy. Tất cả phòng trong Viện Dưỡng Lão Shady Pines đều bật đèn ngủ, nhưng ông biết dù có bật điện hết công suất đủ để chiếu sáng cả thành phố Burlington này thì mình cũng chẳng thấy gì quá phạm vi chân giường. Bệnh đục thủy tinh thể khiến ông chẳng nhìn được gì. Những lúc bước ngang qua gương soi để vào phòng vệ sinh, ông loáng thoáng thấy ai đó đang nhìn mình - một anh chàng với hàng lông mày chưa lốm đốm ngả vàng; một người hoàn toàn khác với làn da nhăn nheo bọc ngoài khung xương hiện tại. Nhưng bóng dáng Spencer một thời trẻ trung vụt tan biến, bỏ lại ông với những mảnh vụn sót lại của đời mình. Dù vậy, đôi tai ông vẫn còn rất thính. Khác với mấy lão già lẩm cẩm ở đây, Spencer chưa bao giờ cần đến máy trợ thính. Quỷ thật, ông còn nghe được những thứ ông chẳng buồn quan tâm. Trời ơi, đứa nhỏ lại khóc nữa rồi. Ông vén chăn, bấm nút bên cạnh giường. Một lúc sau, y tá trực đêm bước vào hỏi, “Ông Pike, có việc gì sao?” “Có đứa nhỏ cứ khóc mãi.” Cô y tá nhanh nhẹn xoay gối và nâng cao đầu giường sau lưng ông. “Ông Pike, chẳng có đứa trẻ nào ở đây cả. Đó chỉ là mơ thôi.” Cô vỗ nhẹ lên bờ vai một thời rắn rỏi của Spencer. “Bây giờ thì ông nên ngủ tiếp đi. Ngày mai sẽ bận rộn lắm đấy. Ông có hẹn đúng không?” Ông tự hỏi vì sao cô ta nói chuyện như đang dỗ con nít vậy? Vì sao ông lại ngoan như một đứa con nít - mặc cô đỡ ông nằm xuống giường và kéo chăn lên ngực? Một loạt ký ức chực chờ dâng trào nơi cổ họng, tiếp đó là một cảm giác mơ hồ khiến ông rơm rớm nước mắt. Cô y tá ân cần hỏi: “Ông có cần vài viên Naproxen cho dễ chịu không?” Spencer lắc đầu. Từng là nhà khoa học, ông biết rõ chẳng có phòng thí nghiệm nào bào chế được loại thuốc xoa dịu nỗi đau này. Curtis Warburton ngoài đời trông nhỏ con hơn trên truyền hình. Nhưng chuyện này chẳng hề ảnh hưởng đến sức quyến rũ của anh, thứ khiến chương trình Đêm Rùng Rợn trở thành một trong những tiết mục ăn khách nhất. Mái tóc đen ngắn với vệt tóc bạc trông như lông chồn hôi - anh thành ra thế từ chín năm trước, khi hồn ma của ông nội hiện về ngay chân giường. Sau đêm ấy, anh ta bắt đầu dấn thân vào lĩnh vực điều tra hiện tượng tâm linh. Maylen vợ anh ta có dáng người thấp bé nhưng khả năng ngoại cảm vang danh đến tận sở cảnh sát Los Angeles. Cô đang ngồi bên cạnh và mải miết ghi chép khi Curtis đặt câu hỏi cho ông bà chủ nhà. “Đầu tiên là tại nhà bếp,” bà Eve O’Donnell thì thào, và chồng bà gật gù. Hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu. Hai người mua căn nhà bên hồ này làm nơi nghỉ hè, nhưng suốt ba tháng ở đây, họ gặp nhiều hiện tượng kỳ quái ít nhất hai lần mỗi tuần. “Khoảng mười giờ sáng, tôi khóa hết cửa, đặt chuông báo động và đi đến bưu điện. Lúc về nhà, chuông báo động vẫn đang bật… nhưng tất cả tủ bếp trong nhà đều mở toang, mấy hộp ngũ cốc nằm la liệt trên bàn và vương vãi xung quanh. Tôi gọi tên Harlan vì nghĩ rằng ông ấy mới về nhà và là thủ phạm của đống lộn xộn này.” “Tôi ở câu lạc bộ Elks suốt buổi sáng,” chồng bà ngắt lời. “Chưa từng về nhà. Nhà chẳng ai làm chuyện đó cả.” “Lúc hai giờ sáng, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn calliope vọng lại từ tầng gác mái. Nhưng khi chúng tôi bước lên đó thì tiếng nhạc ngừng lại. Lúc mở cửa ra, chúng tôi thấy một chiếc đàn piano đồ chơi không hề gắn pin nằm ngay giữa sàn.” “Chúng tôi không có cây đàn piano đồ chơi nào,” ông Harlan nói thêm. “Nhà cũng chẳng có trẻ con. “Khi chúng tôi thử gắn pin vào thì tiếng nhạc phát ra từ cái đàn lại không giống với âm thanh kia.” Bà Eve ngập ngừng. “Anh Warburton, tôi hy vọng anh hiểu rằng chúng tôi không phải là những người tin… tin vào những thứ như thế. Chỉ là… chỉ là nếu như không phải là nó thì có lẽ tôi đang mất trí rồi.” “Bà O’Donnell, bà không bị mất trí đâu.” Curtis khẽ nắm tay bà ra vẻ cảm thông. “Đến sáng mai là chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về chuyện gì đang diễn ra tại nhà hai vị.” Anh ngoái đầu ra sau để đảm bảo Ross ghi lại đoạn phim này. Tùy vào việc xảy ra sau đó, nhà O’Donnells có thể xuất hiện trên chương trình Đêm Rùng Rợn. Nếu vậy thì thước phim này rất quan trọng. Mỗi ngày, nhóm Warburtons nhận được hơn ba trăm thư điện tử từ những người tin rằng nhà họ bị ma ám. Tám mươi lăm phần trăm vụ việc hóa ra là những trò chơi khăm hoặc do chuột trên nóc nhà. Những vụ còn lại thì - theo kinh nghiệm của Ross - không thể giải thích một cách đơn giản được. “Ông bà từng thấy ma chưa?” Curtis hỏi. “Hoặc là cảm giác nhiệt độ thay đổi đột ngột?” “Phòng ngủ hai vợ chồng tôi đột nhiên nóng như địa ngục khoảng một phút, sau đó lại lạnh đến rùng mình,” ông Harland trả lời. “Ông bà có cảm thấy đặc biệt không thoải mái với chỗ nào trong nhà không?” “Tầng gác mái. Còn cả phòng tắm trên lầu nữa.” Curtis đưa mắt nhìn từ tấm thảm thủ công đậm chất Đông phương đến chiếc bình cổ trên bệ lò sưởi. “Tôi phải khuyến cáo hai vị rằng bắt ma là công việc rất tốn kém đấy.” Là nhà nghiên cứu thực địa trong nhóm Warburtons, Ross được cử đến thư viện, khu tư liệu báo chí để tìm tài liệu về căn nhà hay vụ giết người hoặc tự tử từng xảy ra ở đó. Công tác điều tra của anh chẳng mang lại thông tin gì đáng giá, nhưng Curtis không hề muốn bỏ cuộc. Dù sao thì ma quỷ có thể ám cả người lẫn nhà. Lịch sử luôn để lại vết tích, như mùi nước hoa nhàn nhạt hay vệt ký ức in đậm sau ánh mắt. “Cứ tiến hành thôi,” bà Eve O’Donnell đáp. “Tiền bạc không thành vấn đề.” “Tất nhiên là vậy rồi.” Curtis vừa cười vừa vỗ tay đánh bốp lên đầu gối. “Tốt lắm. Chúng tôi có vài việc phải làm.” Đó là ám hiệu của Ross. Trong quá trình điều tra, anh chịu trách nhiệm thiết lập và giám sát các thiết bị điện từ, máy quay video kỹ thuật số, nhiệt kế hồng ngoại. Bất chấp lợi nhuận kếch xù do chương trình truyền hình và những vụ làm ăn kiểu này mang lại, Ross làm việc với mức lương rẻ mạt. Chín tháng trước, sau khi đọc về nhóm Warburtons trên tờ tạp chí L.A. Times vào ngày lễ Halloween, Ross đã phải nài nỉ họ nhận mình vào làm. Khác với Curtis và Maylene, dù rất muốn nhưng anh chưa từng thấy một linh hồn nào cả. Anh hy vọng khả năng ngoại cảm có thể lây qua đường tiếp xúc giống như bệnh đậu mùa và in lại dấu ấn vĩnh viễn trên người anh. “Tôi nghĩ mình nên kiểm tra tầng gác mái,” Ross đề nghị. Anh đứng giữa hành lang, đợi bà Eve O’Donnel dẫn đường. Dù anh chẳng hề thắc mắc nhưng bà vẫn thừa nhận, “Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, từng tuổi này rồi mà còn thấy ma Casper.” Ross mỉm cười. “Ma có thể làm bà rùng mình một tí, hoặc khiến bà nghĩ mình bị mất trí nhưng sẽ không làm hại bà đâu.” “Ồ, tôi cũng không nghĩ cô ấy sẽ hại tôi.” “Cô ấy?” Bà Eve ngập ngừng. “Harlan dặn tôi không được chia sẻ quá nhiều thông tin để tránh việc các anh hiểu sai vấn đề.” Bà rùng mình, liếc mắt về phía cầu thang. “Em gái tôi mất hồi tôi bảy tuổi. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi… liệu ma có tìm được người nào đó nếu nó muốn?” Ross hướng mắt ra chỗ khác. “Tôi không biết nữa,” anh đáp, thầm ước giá mà mình có thể đáp lời bà ấy với một câu trả lời cụ thể hay chia sẻ trải nghiệm cá nhân. Mắt anh sáng lên khi nhìn thấy cánh cửa nhỏ ngay trên bậc cầu thang. “Ở đây à?” Bà gật đầu, để anh vượt lên trước và mở cửa. Chiếc máy quay phim Ross gắn ngoài cửa sổ trông như con mắt của người khổng lồ Cyclops đang dõi theo hai người. Eve sợ đến rúm ró cả người. “Bước vào đây là tôi thấy ớn lạnh.” Ross dời mấy cái hộp để tránh trường hợp hình bóng kỳ lạ nào đó xuất hiện trong thước phim bị nhận nhầm. “Curtis nói đó là cách tìm ra họ, chỉ cần nghe theo cảm giác mách bảo.” Mắt anh nhìn trúng thứ gì đó lấp lánh trên sàn nhà. Anh khuỵu gối nhặt lên vài đồng xu. “Tất cả có 6 xu.” Anh mỉm cười. “Kỳ quái thật.” “Thỉnh thoảng cô ấy vẫn làm vậy.” Bà Eve lùi dần về phía cửa, hai tay ôm lấy vai. “Luôn để lại cho chúng tôi mấy đồng xu lẻ ấy.” “Con ma đấy sao?” Ross xoay người lại thắc mắc nhưng bà Eve đã chạy xuống lầu. Hít một hơi thật sâu, Ross đóng cửa phòng gác mái lại và tắt hết đèn, để bóng tối tràn ngập căn phòng nhỏ. Anh lách mình sang góc phòng, tránh khỏi tầm máy quay phim rồi khởi động nó bằng điều khiển từ xa. Sau đó Ross cố tập trung vào bóng tối bủa vây trước ngực và sau hai đầu gối, giống như chỉ dẫn của Curtis Warburton. Ross thả lỏng tất cả giác quan, chờ đến khi sự hoài nghi giảm dần và khoảng không xung quanh mở rộng. Anh thầm nghĩ, có lẽ chính là cảm giác này. Cảm giác khi những bóng ma vây quanh giống như cổ họng lúc nấc nghẹn. Bên trái có tiếng bước chân, kèm theo tiếng leng keng không lẫn vào đâu được của mấy đồng xu rớt trên sàn. Ross bật đèn pin rọi quanh phòng, đến chỗ đôi ủng của mình thì thấy có ba đồng xu nằm đó. “Aimee?” anh thì thào với khoảng không trống trải. “Có phải em không?” Thị trấn Comtosook bang Vermont nằm giữa nhiều ranh giới tự nhiên: vùng trũng dẫn nước chảy vào hồ Champlain, vách núi dựng đứng bao quanh mỏ đá granite nơi nửa số dân thị trấn đang làm việc. Dường như có một giới tuyến vô hình ngăn giữa vùng nông thôn bang Vermont và thành phố Burlington liền kề. Nhà thờ thuộc Tự trị giáo đoàn ở trung tâm thành phố có treo một bảng hiệu ca ngợi Comtosook là vùng đất đẹp nhất tiểu bang do tạp chí Đời Sống Vermont trao tặng năm 1994. Thật không sai. Có những ngày, Eli Rochert chỉ biết nín thở ngắm nhìn tán lá đang chuyển màu, nào là màu hồng ngọc, màu hổ phách và cả màu ngọc lục bảo. Nhưng dù khách du lịch có nghĩ gì về Comtosook thì đây vẫn là quê hương Eli. Đã từng, và mãi mãi. Anh vẫn cho là vậy. Tất nhiên, với cương vị là một trong hai cảnh sát của thị trấn, anh biết rõ những gì du khách thấy chỉ là ảo ảnh. Từ lâu Eli đã biết có những thứ dù có cố nhìn chằm chằm thì cũng không thấy được những gì nằm ẩn sâu dưới mặt ngoài. Anh lái xe dọc con phố Nghĩa Trang. Anh vẫn hay tuần tra vào những đêm trăng tròn vành vạnh tỏa ra ánh vàng như mắt diều hâu. Mấy cửa sổ xe đều kéo xuống nhưng chẳng có ngọn gió nào thổi qua. Phần tóc đen ngắn ngủn sau gáy Eli nhớp nháp dính vào gáy. Ngay cả Watson, chú chó săn của anh, cũng đang thở hổn hển trên ghế sau. Mấy tấm bia mộ cũ kỹ nằm ngả nghiêng như những chiến binh với đôi chân rệu rã. Bên trái khu nghĩa trang, gần chỗ cây sồi, là bia mộ kỳ quặc nhất của thị trấn Comtosook. Bia đề, WINNIE SPARKS. SINH NĂM 1835. QUA ĐỜI NĂM 1901. QUA ĐỜI NĂM 1911. Truyền thuyết kể rằng khi đang trên đường đưa tang cho bà lão cay nghiệt có tiếng ra khu nghĩa địa thì mấy con ngựa kéo lồng lên, khiến quan tài rớt xuống. Sau đó nắp quan tài bật ra, bà Winnie ngồi dậy, leo ra khỏi đó rồi khạc nhổ điên cuồng. Mười năm sau khi bà chết - thêm một lần nữa - thì ông chồng tội nghiệp đã đóng đến 150 chiếc đinh trên nắp quan tài để phòng chuyện trước kia. Câu chuyện đó dù có thật hay không thì cũng chẳng liên quan gì tới Eli. Nhưng mấy đứa choai choai trong thị trấn lại nghĩ rằng chuyện bà Winnie sống dậy sau khi chết là lý do để bọn nó mang bia rượu đến nghĩa trang. Eli duỗi thân hình cao lớn ra khỏi chiếc xe tải. “Mày đi chứ?” anh hỏi chú chó của mình, nhưng nó ngồi phịch xuống ghế thay cho câu trả lời. Eli lắc đầu, len lỏi ngang qua nghĩa trang rồi dừng bước trước ngôi mộ của bà Winnie. Ngay chỗ đó là bốn cậu nhóc đã say xỉn đến mức chẳng nghe thấy tiếng bước chân anh. Bọn nhóc đang vây quanh ngọn lửa màu xanh nhỏ xíu được đốt bằng cồn khô. “Ê,” Eli cộc lốc. “Cảnh sát đến!” “Chết rồi!” Tiếng giẫm đạp của mấy đôi giày sneaker, tiếng chai bia đập vào nhau lanh canh khi bọn nhóc nháo nhào bỏ chạy. Dĩ nhiên Eli có thể tóm gọn chúng ngay tức khắc nhưng lần này anh quyết định tha cho chúng. Anh rọi đèn vào cậu nhóc cuối cùng đang chạy trốn, sau đó lia đèn xuống đống lộn xộn dưới đất. Bọn nhóc để lại làn khói mang hương vị ngòn ngọt và hai chai bia Rolling Rock chưa mở. Eli có thể hưởng chúng sau giờ làm việc. Eli cúi người xuống, hái cành hoa bồ công anh mọc dưới bia mộ của bà Winnie. Ngay khi cành hoa bồ công anh rời khỏi đất, một từ lóe lên trong tâm trí anh: chibaiak... nghĩa là hồn ma. Thứ thổ ngữ của bà ngoại khé cháy trong cổ họng Eli như kẹo bạc hà. “Làm gì có thứ ấy,” anh nói to lên rồi quay về xe để tiếp tục tuần tra. Sau một ngày ngủ li bì, Shelby Wakeman mệt nhoài tỉnh giấc. Cô lại mơ giấc mơ đó. Cô lại mơ thấy Ethan vừa đứng cạnh cô tại sân bay, nhưng lúc quay sang thì cậu bé đã biến mất. Cô điên cuồng chạy từ nhà ga này sang nhà ga khác để tìm con trai. Cuối cùng, khi rượt tới cửa dẫn ra đường băng trải nhựa, cô nhìn thấy đứa con chín tuổi đứng chắn ngay trước chỗ máy bay phản lực đang hạ cánh. Cảnh tượng đó làm Shelby khiếp sợ, dù đã tự nhủ với bản thân không biết bao nhiêu lần rằng chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra - cô sẽ không bao giờ dẫn Ethan đến sân bay vào ban ngày, lại càng không rời mắt khỏi cậu bé. Nhưng điều khiến cô hãi hùng nhất chính là hình ảnh con cô đứng đó, hai tay dang rộng, khuôn mặt non nớt búng ra sữa hướng về phía mặt trời. “Mẹ ơi dậy đi… Mẹ ơi?” “Xin lỗi con.” Shelby mỉm cười. “Chỉ là giấc mộng ngày thôi.” Ethan dùng nước tráng sơ qua đĩa thức ăn rồi để vào máy rửa bát. “Mẹ vẫn nghĩ đó là giấc mộng ngày khi mơ thấy nó ban đêm sao?” Trước khi cô kịp trả lời, cậu bé đã túm lấy chiếc ván trượt như vật bất ly thân. “Gặp mẹ ngoài kia nhé?” Cô gật đầu nhìn theo hình bóng Ethan chạy ào ra sân trước. Chẳng biết đã bao nhiêu lần cô phải dặn Ethan giữ im lặng - mới 4 giờ sáng, người ta còn đang ngủ nên cậu bé không được nghịch ngợm bằng ván trượt như thế. Ethan thường quên mất, và Shelby cũng chẳng buồn nhắc nhở con trai nhiều. Ethan mắc bệnh khô da sắc tố. Đây là một căn bệnh di truyền hiếm gặp khiến cậu bé cực kỳ mẫn cảm với tia cực tím từ mặt trời. Trên thế giới chỉ có khoảng hơn 1000 trường hợp mang bệnh này. Nếu như mắc phải, người đó sẽ mang bệnh từ khi sinh ra và phải chịu đựng nó suốt đời. Khi Ethan mới được 6 tuần tuổi, Shelby đã để ý con mình có gì đó không ổn, nhưng phải sau hơn một năm mới chẩn đoán được cậu bé bị bệnh khô da sắc tố. Theo lời giải thích của bác sĩ thì tia cực tím sẽ gây hại đến ADN của con người. Hầu hết mọi người đều có khả năng tự hồi phục… nhưng người bệnh khô da sắc tố thì không. Bởi cuối cùng tia cực tím sẽ ảnh hưởng đến việc phân chia tế bào và dẫn đến bệnh ung thư. Bác sĩ cho rằng Ethan may ra sống đến tuổi thiếu niên. Nhưng Shelby nghĩ nếu ánh mặt trời có thể giết chết con mình thì những gì cô cần làm là duy trì bóng tối. Cô ở trong nhà cả ngày. Cô kể chuyện đêm khuya cho Ethan dưới ánh nến. Cô dùng khăn tắm và rèm cửa che hết cửa sổ. Nhưng đêm nào cũng vậy, chồng cô về nhà là lại giật phăng chúng xuống và khăng khăng lý luận, “Làm gì có ai bị dị ứng với ánh nắng mặt trời kia chứ.” Lúc hai người ly hôn, Shelby đã học được rất nhiều về các loại ánh sáng. Cô biết rằng có nhiều thứ khác còn đáng sợ hơn ánh sáng ngoài trời. Cửa hàng bách hóa và văn phòng bác sĩ đều có đèn huỳnh quanh tỏa ra tia cực tím. Ethan có tới 22 cái mũ để đội thay đổi hằng ngày như những đứa trẻ khác thay đồ lót vậy. Tối nay cậu bé đội một cái mũ có dòng chữ “BÊN CẠNH TÔI LÀ THẰNG NGU”. Vành mũ vểnh lên như vỏ ốc sên. Ethan đã tạo ra hình dạng đó bằng cách gài vành mũ vào khe chỉnh độ rộng phía sau. Khi Shelby thấy mấy cái mũ được gài thế này, cô thường nhớ đến cảnh bầy thiên nga rúc đầu dưới cánh; hay tưởng tượng ra những đôi chân nhỏ bé bị bó chặt của người Trung Quốc. Cô dọn bếp, rồi ngồi xuống cạnh con đường nhỏ dẫn vào nhà với một quyển sách. Mái tóc đen dài được búi thành một túm dày như nắm tay, vậy mà cô vẫn cảm thấy nóng nực. Làm thế nào mà Ethan có thể chạy nhảy lắm thế? Cậu bé điều khiển ván trượt chạy trên dốc gỗ tự tạo rồi thực hiện động tác nhảy lật khá khó. “Mẹ! Mẹ ơi? Mẹ thấy không? Con làm giống y như Tony Hawk ấy.” “Mẹ thấy rồi,” Shelby tán thưởng. “Mẹ không nghĩ rằng sẽ rất tuyệt vời nếu như chúng ta…” “Ethan, mẹ con mình sẽ không xây đường trượt hình ống trên khúc đường này đâu.” “Nhưng…” “Xì. Thôi sao cũng được.” Và cậu bé lại bắt đầu trượt ván trượt, tiếng bánh xe vang lên ầm ầm. Shelby cười thầm trong lòng. Cô yêu dáng vẻ ngang bướng dần xuất hiện ở Ethan. Cô thích lúc cậu bé tưởng cô đang ở đâu đó trong nhà nên bật chương trình Buổi tối với Conan O’Brien rồi cố gắng hiểu được tất cả những lời bóng gió ẩn dụ của người ta. Những điều này làm cậu bé… thật bình thường. Nếu mặt trăng không phải đang tỏa sáng trên bầu trời, và gương mặt Ethan không tái nhợt đến mức mạch máu dưới da nổi lên như những con đường cô đã quá quen - nếu không có mấy thứ vụn vặt đó, Shelby đã tin rằng cuộc sống của cô chẳng khác gì với cuộc sống của những bà mẹ đơn thân khác. Ethan thực hiện một cú đảo trọng tâm, rồi một cú kiểu Casper. Shelby nhận ra cô chẳng thể nào phân biệt được một cú xoay kiểu helipop với cú xoay chữ G. Nhiều lần Shelby nhìn con, ngẫm phận mình rồi cảm thấy chua xót. Nhưng Shelby chẳng nhớ nổi cuộc sống trước kia, trước khi căn bệnh bủa vây lấy hai mẹ con. Thật ra, quãng thời gian mà cô trải qua trước khi có Ethan chẳng đáng được gọi là cuộc sống tí nào. Cậu bé trượt đến trước mặt cô. “Con đói rồi.” “Con vừa mới ăn đấy!” Ethan nháy mắt với cô như tìm lý do. Shelby thở dài. “Con có thể vào trong ăn vặt nếu muốn nhưng trời đã chuyển hồng rồi đấy.” Ethan quay về phía bình minh từ phía chân trời đang vươn móng vuốt. “Cho con đứng đây ngắm mặt trời nhé,” cậu bé nài nỉ. “Chỉ một lần thôi mà.” “Ethan…” “Con biết rồi.” Giọng cậu bé chùng xuống. “Ba lần trượt nữa nhé.” “Chỉ một thôi.” “Hai nhé.” Không đợi cô cho phép - hai mẹ con đều biết Shelby sẽ thỏa hiệp - Ethan lại phóng đi lần nữa. Shelby mở cuốn tiểu thuyết của mình, những dòng chữ trượt qua tâm trí cô như dãy xe ô-tô trên con tàu chở hàng - nối đuôi nhau nhưng chẳng hề để lại ấn tượng gì khác biệt. Lúc lật sang trang, cô nhận ra ván trượt của Ethan không còn di chuyển nữa. Ethan giữ chiếc ván trượt in hình Người Sói lấm tấm đốm trắng thăng bằng dưới chân. “Mẹ ơi?” Cậu bé thắc mắc. “Tuyết rơi sao?” Bang Vermont vẫn thường có tuyết rơi, nhưng không phải vào tháng Tám. Một đốm trắng bay qua và mắc kẹt giữa gáy sách; nhưng đây đâu phải bông tuyết. Cô nhặt cánh hoa lên và ngửi. Cánh hoa hồng. Shelby từng nghe về những hiện tượng thời tiết kỳ lạ như ếch bị hút lên không trung rồi rơi xuống biển như mưa; cô cũng từng chứng kiến bão châu chấu. Nhưng chuyện này là sao…? Cơn mưa cánh hoa tiếp tục rơi, đọng lại lên tóc cô và Ethan. “Ngộ ghê”, cậu bé thở hổn hển rồi ngồi xuống cạnh Shelby, chiêm ngưỡng hiện tượng tự nhiên kỳ lạ. “Tiền xu à.” Curtis Warburton lật lật đồng xu mà Ross đưa. “Còn gì khác không?” Ross lắc đầu. Đã ba giờ trôi qua, cơn bão đang gào thét ngoài trời tạo ra nguồn năng lượng mạnh, nhưng chẳng có hiện tượng tâm linh nào xảy ra. “Tôi tưởng mình thấy bóng tròn gì đó nhưng hóa ra là thiết bị báo cháy gắn sau gác mái.” “Ừ, còn tôi thì chẳng cảm nhận được cái gì cả,” Curtis thở dài. “Lẽ ra chúng ta nên nhận vụ ở Buffalo.” Ross cất cuộn phim đã dùng vào hộp đựng rồi nhét vào túi. “Bà vợ, bà Eve ấy? Bà ta nhắc đến cô em gái đã qua đời hồi bà ấy bảy tuổi.” Curtis nhìn anh. “Thú vị nhỉ.” Hai người xuống lầu. Trong bóng tối, Maylene đang ngồi trên băng ghế dài trong phòng khách với nhiệt kế hồng ngoại. “Cậu thấy gì không?” Curtis hỏi. “Không. Căn nhà này bất động như người thực vật ấy.” “Mọi việc sao rồi?” Bà Eve O’Donnell cắt ngang. Bà đứng ngay hành lang phòng khách, tay nắm lấy cổ áo đầm. “Tôi cho rằng bà không cô đơn trong căn nhà đâu. Vì,” Curtis giơ ra đồng xu mà Ross đưa anh, “tôi tìm thấy cái này.” “Vâng… thỉnh thoảng có mấy đồng xu vương vãi xung quanh. Tôi đã kể với Ross rồi.” “Vậy sao?” Ross quay sang chỗ khác và nhăn mặt. Nhưng trước khi anh kịp chất vấn Curtis vì sao lại chơi trò giả vờ, sếp anh tiếp tục liến thoắng. “Mấy con ma thường thích trêu đùa kiểu này. Đặc biệt là hồn ma trẻ con.” Ross cảm thấy không khí căng lên khi bà Eve O’Donnell dồn hết niềm tin vào Curtis. “Tôi phải nói với bà điều này,” Curtis nói tiếp. “Tôi cảm nhận được có gì đó mãnh liệt ở đây. Có ai đó hiện diện, đó là người mà bà biết và người đó cũng biết bà.” Curtis nghiêng đầu qua một bên và nhíu mày. “Đó là một cô bé… tôi có cảm giác đó là một cô bé và tôi cảm nhận được con số… số bảy. Bà có em gái đã qua đời sao?” Ross chôn chân sững sờ. Kinh nghiệm nói cho anh biết 85% tin báo là mấy trò dựng lên bởi đám người rỗi hơi muốn giết thời gian, muốn xuất hiện trên truyền hình quốc gia hoặc chứng minh mấy vụ điều tra tâm linh này chẳng có chút gì khoa học. Anh không thể đếm nổi bao nhiêu lần họ tìm thấy loa giấu trong bức tường phát ra tiếng than khóc; dây cước quấn quanh cái đèn chùm hay rung lắc. Nhưng anh không hề nghĩ nhóm Warburton cũng bày trò bịp như vậy. “Tất nhiên sẽ tốn thêm phí,” Curtis lại nói, “nhưng tôi thấy nên thực hiện một buổi cầu hồn.” Đầu Ross đau nhói. “Curtis, tôi có thể nói chuyện riêng với anh được không?” Họ mặc áo khoác và đi ra ngoài, đứng dưới mái hiên của ga-ra khi cơn mưa tầm tã trút xuống. “Phải có lý do chính đáng đấy,” Curtis hằm hè. “Cậu cắt ngang khi tôi đang dụ bà ta.” “Anh không nghĩ là có ma cỏ gì ở đây. Lý do duy nhất anh biết về em gái bà ta là do tôi nói với anh.” Curtis châm một điếu thuốc, đầu thuốc cháy lên như một con mắt hí. “Thì sao?” “Thì… anh không thể nào nói dối trước mặt bà ta chỉ để kiếm thêm vài đồng và quay được phản ứng của bà ấy được.” “Tất cả những gì tôi làm là nói cho hai ông bà O’Donnel những gì họ muốn nghe. Mấy người này tin rằng nhà họ có ma. Họ muốn tin rằng nhà họ có ma. Thậm chí nếu chẳng có gì khác thường diễn ra trong đêm nay thì không chừng do con ma chịu yên tĩnh khi có khách đến thăm nhà.” “Đây không phải chỉ là một con ma vớ vẩn,” Ross run giọng đáp. “Đây là một người có ý nghĩa với bà ta.” “Tôi không nghĩ cậu là một kẻ khờ khạo như vậy. Sau chừng ấy tháng, cậu phải hiểu rõ thông lệ làm việc chứ.” Ross không nghĩ mình là kẻ khờ khạo. Suốt cả đời mình, anh đã trải nghiệm và va chạm để luôn tìm kiếm những điều có thực, vì anh thường thấy mình không hề như thế. “Tôi biết rõ thông lệ làm việc. Tôi chỉ không biết rằng tất cả những chuyện này đều là giả dối.” Curtis quăng điếu thuốc xuống đất. “Tôi không phải là kẻ bịp bợm. Bóng ma của ông tôi hiện ra trước mắt tôi, Ross à. Tôi đã chụp được tấm hình đó khi ông tôi đứng dưới chân giường. Cậu tự suy diễn rồi đấy. Khỉ thật, cậu có nhớ đến bức hình cậu chụp được về gương mặt xuất hiện trong hồ không? Cậu nghĩ tất cả là do tôi sắp đặt sao? Tôi thậm chí khi đó còn chẳng ở cùng một tiểu bang với cậu nữa kìa.” Curtis hít một hơi để trấn tĩnh. “Nghe này, tôi không phải đang lừa hai ông bà O’Donnells. Ross à, tôi là một nhà kinh doanh, và tôi hiểu khách hàng của mình.” Ross không thể trả lời được. Tất cả những gì anh biết là chính Curtis đã lén thả đồng xu anh ta tìm thấy dưới cái giá ba chân. Tất cả những gì anh biết là khoảng thời gian chín tháng vừa qua hoàn toàn lãng phí. Anh chẳng hơn gì ông bà O’Donnell - anh chỉ thấy những thứ mà mình muốn tin. Có lẽ Maylene đúng là có khả năng ngoại cảm, vì ngay lúc ấy cô ta bước ra ngoài. “Curtis? Chuyện gì thế?” “Ross ấy mà. Cậu ta đang quyết định xem nên về bằng đường nào – I 81 hay Moral High Ground.” Ross bỏ đi luôn dù đang mưa. Mặc kệ hai người kia muốn nghĩ sao cũng được; họ chắc chắn cũng muốn Ross làm điều tương tự. Anh cũng chẳng buồn quay lại để lấy máy quay phim kỹ thuật số hay ba lô của mình; đó là những thứ anh có thể mua lại được, khác với sự bình tĩnh đang chực chờ biến mất. Anh mở máy sưởi trong xe ở số lớn nhất, cố đánh bay cảm giác lạnh buốt lởn vởn xung quanh. Anh lái xe khoảng một dặm đường rồi nhận ra đèn xe chưa bật. Sau đó anh tấp xe vào lề đường, thở dốc và cố gắng hồi phục lại nhịp tim. Ross am hiểu phương pháp ghi lại những hiện tượng tâm linh một cách khoa học và giải thích kết quả. Anh từng quay được những đốm sáng lướt qua khu nghĩa trang; anh đã từng ghi âm giọng nói trong mấy căn hầm trống rỗng; anh từng cảm thấy lạnh buốt tại những nơi chẳng hề có gió. Trong chín tháng, Ross nghĩ rằng mình đã tìm thấy cánh cửa bước vào thế giới nơi mà Aimee đang ở… và nó hóa ra lại biến thành cánh cửa giả sơn trên tường. Khỉ thật, anh coi như hết cách. Az Thompson thức dậy, trong miệng nhét đầy mấy hòn đá nhỏ và trơn mịn như hạt ô liu. Ông phải vỗ mười lăm lần vào lòng bàn tay nhăn nheo trước khi tin rằng mình vẫn thở được mà không bị nghẹn. Ông sải chân bước qua bên cạnh chiếc giường quân đội. Ông cố gắng dẹp tan ý nghĩ rằng nếu bị chôn dưới lớp đất nén chặt dưới đôi chân trần của mình ngay lúc này đây, thì mớ đá cuội này sẽ tích tụ thành một bụi cây độc địa đen thui, giống như rừng cây bao quanh lâu đài trong câu chuyện cổ tích của người Da Trắng về một cô gái không bao giờ tỉnh giấc nếu chưa nhận được một nụ hôn. Ông không ngại cắm trại ngoài trời. Ông vẫn nhớ một chân mình đặt giữa thiên nhiên còn chân kia bước vào thế giới của người Da Trắng. Az ló đầu ra khỏi cửa lều. Có mấy người đang tụ tập ăn sáng bên ngoài. Dấu hiệu của họ - mấy miếng kim loại đeo trên cổ, vài tấm áp phích dán trên gỗ - nằm rải rác như đống hình nộm của mấy tay nghệ sĩ biểu diễn. Mớ hình nộm ấy có vẻ vô hại vì chẳng có hồn ma nào phía sau chúng. “E hèm,” ông tằng hắng rồi bước về phía lửa trại, biết rõ sẽ có chỗ dành cho mình. Mấy người kia đối xử với ông giống như cách mà họ sẽ xử sự nếu gặp được Abe Lincoln sống dậy và bước ra khỏi lều - với sự kính trọng và ngưỡng mộ vì vẫn thấy ông còn sống sau chừng ấy thời gian. Az sinh sau Abe, nhưng không thua kém mấy. Chừng 102, 103 tuổi gì đó, ông đã ngừng tính tuổi từ lâu. Ông được tôn trọng như một người thầy vì thông thạo ngôn ngữ bộ lạc vốn đang lụi tàn. Chỉ cần tính đến tuổi tác thì ông đã xứng chức vị già làng. Chức vị này lẽ ra rất có vai vế nếu bộ lạc Abenaki được chính quyền công nhận. Ngồi lên ghế xếp, Az nghe tiếng từng khớp xương sống kêu cót két. Ông cầm lấy ống nhòm đặt bên đống lửa, dõi mắt nhìn ra lô đất tại giao lộ Tây Bắc của đường Montgomery và đường Otter Creek Pass. Phía trên đỉnh núi là ngôi nhà trắng to đến chướng mắt. Az biết căn nhà đó sẽ là thứ bị dỡ bỏ đầu tiên. Ông hiểu vanh vách về mảnh đất này, từ những số đo trắc địa của nhân viên khảo sát đến những số liệu ghi chép trên bản đồ quy hoạch. Ông biết rõ khi mùa đông tới, chỗ nào bị đóng băng đầu tiên và khu vực nào cây cối không mọc nổi. Ông biết cửa sổ nào của căn nhà hoang bị lũ trẻ con nghịch ngợm đập vỡ; góc nào của mái hiên rơi xuống trước, tấm ván nào trên cầu thang đã mục nát. Ông cũng biết rõ biển số từng chiếc xe của tập đoàn Redhook đã đỗ trên khoảnh đất này. Có tin đồn rằng Newton Redhook muốn xây dựng một trung tâm thương mại lớn đầu tiên tại thị trấn Comtosook. Ngay trên một trong những khu nghĩa trang của họ. “Tôi nói với anh rồi,” Charlie Béo cất tiếng, “Đây là hiện tượng El Niño.” Winks lắc đầu nguầy nguậy. “Mọi thứ bị đảo lộn hết cả. Mưa hoa hồng đúng là bất thường như đồng hồ chạy ngược hoặc nước giếng chuyển sang màu máu vậy.” Charlie Béo cười ngặt nghẽo. “Winks, ông nên chuyển sang xem chương trình của Letterman đi. Mấy chuyện kinh dị đang khiến ông ám ảnh đấy à.” Az nhìn xung quanh và thấy cánh hoa vương vãi trên đất. Ông tặc lưỡi cảm nhận mấy viên sỏi lần nữa. “Ông nghĩ sao, ông Az?” Winks thắc mắc. Az thầm nghĩ cứ cố giải thích hiện tượng cánh hoa từ trên trời rơi xuống đúng là vừa vô ích vừa hết sức vớ vẩn vì những chuyện xảy ra đã được sắp đặt hết rồi. Ông cho rằng là hiện tượng ấy chỉ là vấn đề cỏn con nhất với họ. Az lấy ống nhòm dõi theo chiếc xe ủi đất đang bình bịch leo dốc. “Tôi nghĩ các cậu không thể nào xới tung mặt đất,” ông lớn tiếng, “mà không khai quật được cái gì đó.” Đây là cảnh tượng khi Ross đã gặp Aimee: Tại góc đại lộ Broadway và đường 112, dưới bóng tòa nhà trường Đại học Columbia, anh tông thẳng vào cô, khiến đống sách của cô rơi vào vũng bùn. Cô là sinh viên y khoa đang ôn tập cho bài thi cuối kỳ môn giải phẫu. Cô lên cơn thở dốc khi nhìn thấy tất cả công sức vất vả của mình đều tiêu tan. Ngay cả lúc ngồi bệt giữa đường phố New York, cô vẫn là người con gái đẹp nhất mà Ross từng gặp. “Tôi sẽ giúp cô,” Ross hứa hẹn, mặc dù anh còn chẳng phân biệt nổi xương mác và đốt ngón tay. “Xin hãy cho tôi cơ hội.” Còn đây là cách Ross cầu hôn Aimee: Một năm sau đó, anh bỏ tiền thuê taxi chở họ qua góc đường cũ để ăn tối tại nhà hàng. Như đã dặn trước, anh chàng lái taxi tấp vào lề đường, sau đó Ross mở cửa xe và bước xuống khuỵu gối trên lề đường bẩn thỉu. Anh bật mở chiếc hộp nhẫn nhỏ xíu và nhìn vào đôi mắt căng thẳng của cô. “Lấy anh nhé,” anh cất tiếng, rồi mất thăng bằng và chiếc nhẫn kim cương rơi thẳng xuống cống. Aimee há hốc mồm. “Hãy nói với em rằng,” cô cuối cùng cũng nói thành lời, “là việc vừa nãy chưa từng xảy ra nhé.” Ross nhìn xuống ống cống đen ngòm và nhìn vào cái hộp rỗng. Anh ném luôn cái hộp xuống cống rồi móc chiếc nhẫn khác ra, chiếc nhẫn thật, từ túi quần mình. Anh nói, “Cho anh cơ hội thứ hai nhé.” Lúc này, anh dốc ngược chai bia trong bãi đỗ xe vắng hoe. Thỉnh thoảng Ross muốn cào tróc hết da mình ra xem thử bên trong có gì. Anh muốn nhảy cầu rớt xuống bãi bê tông. Anh muốn la hét tới khi cổ họng chảy máu; muốn chạy tới khi gót chân rách toác. Những lúc thất bại như thủy triều dâng cao, cuộc sống của anh giống như một đoạn thẳng chặn đầu chặn đuôi, mà nực cười ở chỗ giới hạn tận cùng lại là thứ mà anh không cách nào với tới. Ross lên kế hoạch tự tử rất bài bản, tập trung đến từng chi tiết giống như người ta lên kế hoạch mua sắm. Có những ngày anh cảm thấy thoải mái. Cũng có những ngày anh thống kê bao nhiêu người đang hạnh phúc và bao nhiêu người đau khổ. Có những ngày anh cảm thấy cũng có lý lắm nếu chọn chết bằng cách uống nước sôi, chết ngộp trong tủ lạnh hay trần truồng đi ngoài đường cho tới khi gục xuống mà ngất đi. Ross đã đọc về các vụ tự tử và trầm trồ vì sự sáng tạo. Phụ nữ thì quấn mái tóc dài của mình thành dây thừng thắt cổ. Đàn ông thì tiêm sốt mayonnaise vào người. Bọn nhóc trẻ trâu thì nuốt pháo. Nhưng mỗi khi sít sao cái ngưỡng tự mình thử xem xà nhà chịu được bao nhiêu sức nặng hay rạch một đường máu me bằng con dao cạo, anh đều nghĩ đến mớ lộn xộn mình để lại. Anh không biết cái chết sẽ mang lại điều gì. Nhưng anh biết thứ mà cái chết mang lại không phải là cuộc sống. Vậy là đủ. Anh chẳng còn tí cảm xúc nào từ ngày Aimee qua đời. Chính là cái ngày khi anh chọn làm người hùng, kéo vị hôn thê của mình ra khỏi nơi xảy ra tai nạn, rồi quay lại cứu tài xế xe kia trước khi nó bốc cháy. Lúc anh quay lại với Aimee, cô đã tắt thở. Cô ra đi trong lẻ loi và cô độc, khi anh đang lăng quăng đóng vai Siêu Nhân ở đâu đó. Anh là một thằng anh hùng cứu nhầm người. Anh ném cái chai rỗng lên sàn xe Jeep, đạp chân ga phóng ra khỏi bãi đậu xe như một đứa trẻ trâu. Chẳng thấy cảnh sát ở quanh đây. Cảnh sát thì có bao giờ xuất hiện khi người ta cần đâu. Thế là Ross tăng tốc cho tới khi vượt quá tốc độ 80 cây số trên làn đường cao tốc. Anh dừng xe trên một cây cầu đường sắt, ngay đúng chỗ rào chắn chầm chậm hạ xuống như diễn viên đang múa ba lê. Tâm trí anh không nghĩ gì cả ngoài việc nhích chiếc xe của mình tới trước cho đến khi tông vỡ rào chắn, để chiếc xe Jeep nằm trên đường ray như vật hiến tế. Xe lửa chạy xình xịch. Đường ray bắt đầu xướng lên bản giao hưởng thép. Ross mặc cho cái chết đến gần, cắn răng thì thầm lời trăn trối trước khi va chạm xảy ra: Kết thúc rồi. Âm thanh tuyệt vời đến điếc tai. Vậy mà xe lửa vẫn lướt qua anh, chạy xa dần, tới khi Ross đủ can đảm mở mắt. Mui xe bốc khói nhưng vẫn hoạt động. Chiếc xe khập khiễng như có một bánh xe bị xì hơi. Đầu xe chĩa về hướng ngược khi nãy, hướng anh vừa đi qua. Chẳng có chuyện gì xảy ra cả: Nước mắt đầm đìa, Ross lái xe đi. Rod van Vleet sẽ không về nhà nếu chưa ký được hợp đồng. Lý do đầu tiên là Newton Redhook đã giao cho anh trách nhiệm giành bằng được khoảnh đất rộng mười chín mẫu Anh bao gồm khu nhà của gia đình Pike. Lý do thứ hai là phải mất sáu tiếng mới đến được viện dưỡng lão khỉ ho cò gáy này, và Rod không có ý định quay trở lại đây trong tương lai gần. “Ông Pike,” Rod chào hỏi, mỉm cười với lão già xấu đến mức chắc anh sẽ phải gặp ác mộng cả tuần liền. Trời đất, nếu lúc chín mươi lăm tuổi mà Rod trở nên giống vậy thì thà có ai đó cho mình một liều móc-phin trước khi ngủ rồi đem chôn luôn cho rồi. Cái đầu hói lốm đốm như trái dưa hồng; hai tay co quắp như thắt nút; còn dáng người thì chẳng khác gì dấu phẩy. “Như ông đã biết, tập đoàn Redhook đã chuẩn bị thỏa thuận hôm nay bằng cách gửi một tấm séc có trị giá 50 ngàn đô la cho ông. Đây là thiện ý của chúng tôi trong khi chờ chữ ký.” Lão già nheo đôi mắt trắng đục. “Tôi phải quan tâm tới tiền làm cái quái gì?” “Ồ. Ông có thể đi nghỉ mát. Ông và cô y tá.” Rod cười với người phụ nữ đứng khoanh tay trước ngực sau lưng ông Pike. “Không đi du lịch được. Lệnh của bác sĩ. Gan có thể… ngừng hoạt động.” Rod cười gượng, thầm nghĩ gã nghiện rượu sống gần cả thế kỷ kia cứ lên máy bay tới đảo Fiji, còn hậu quả sau đó thì ai quan tâm làm quái gì. “Ồ.” “Cậu lại nói chữ đó rồi. Cậu bị đãng trí à?” “Không hề, thưa ông.” Rod tằng hắng. “Tôi hiểu khu đất này thuộc về gia đình vợ ông qua nhiều thế hệ rồi?” “Đúng vậy.” “Ông Pike, chúng tôi tin rằng tập đoàn Readhook có thể đóng góp cho sự phát triển của thị trấn Comtosook bằng cách quy hoạch khu đất để thúc đẩy kinh tế địa phương.” “Các người muốn xây cửa hàng ở đó.” “Đúng vậy, thưa ông, chúng tôi sẽ làm thế.” “Các cậu sẽ mở tiệm bán bánh mì vòng ở đó chứ?” Rod nháy mắt, lúng túng. “Tôi nghĩ ngài Redhook chưa biết tới việc này.” “Xây đi. Tôi thích bánh mì vòng lắm.” Rod đẩy tấm séc qua lần nữa, kèm theo bản hợp đồng. “Ông Pike, tôi không thể xây dựng thứ gì cho tới khi có được chữ ký của ông ở đây.” Ông Pike nhìn chằm chằm vào anh một lúc, sau đó vươn tay cầm bút. Rod thở phào một hơi. “Quyền sở hữu đứng tên vợ ông sao? Bà Cecelia Pike đúng không?” “Khu đất đúng là thuộc về Cissy.” “Và có tin đồn… rằng bộ lạc Abenaki vẫn luôn tranh chấp quyền quản lý khu đất này… Có căn cứ gì không?” Ngón tay của ông Pike trở nên trắng bệch vì siết chặt. “Khu đất đó không phải là nghĩa trang của đám thổ dân đâu.” Ông liếc nhìn Rod. “Tôi không thích cậu.” “Tôi cũng thấy vậy, thưa ông.” “Lý do duy nhất tôi ký vào hợp đồng là vì tôi thà bán đi thay vì nhìn khu đất đó bị sung công.” Rod cuộn bản hợp đồng và gõ gõ lên bàn. “Ồ!” Anh lặp lại từ đó, khiến ông Pike nhướng mày. “Chúng tôi sẽ thực hiện quy trình thẩm tra và hy vọng hoàn tất bản hợp đồng này sớm nhất có thể.” “Ý cậu là trước khi tôi chết chứ gì,” ông Pike lạnh nhạt đáp khi Rod đang khoác áo. “Cậu không muốn ở lại chơi đố chữ sao? Hoặc ăn trưa chẳng hạn… Tôi nghe nói chúng ta có món thạch Jell-O vị cam đấy.” Ông cười, tiếng cười như lưỡi cưa chĩa vào lưng Rod. “Cậu van Vleet… cậu sẽ làm gì với căn nhà đó?” Rod biết đây là một chủ đề nhạy cảm. Đây vẫn luôn là chủ đề nhạy cảm với tập đoàn Redhook vì họ luôn tháo dỡ nhà cửa trước khi xây trung tâm thương mại hiện đại. “Thực sự căn nhà không phải là hình mẫu tốt nhất,” Rod lựa lời giải thích. “Chúng tôi có thể phải… chỉnh sửa một chút. Nhiều phòng hơn, như ông biết đấy, cho cửa hàng bán pizza của ông chẳng hạn.” “Bánh mì vòng mới đúng chứ.” ông Pike cau mày. “Vậy có nghĩa là các cậu sẽ tháo dỡ căn nhà đó chứ gì.” “Không may là đúng vậy.” “Thế cũng tốt,” ông nói. “Nhiều hồn ma quá rồi. ” Trạm xăng duy nhất trong thị trấn Comtosook nằm gần cửa hàng bách hóa. Hai máy bơm xăng từ những năm 1950 được đặt trong bãi đỗ xe. Rod mất tới năm phút để nhận ra rằng ở đây cơ bản là không có khe nhét thẻ tín dụng. Anh nhét đầu bơm vào bình xăng và rút điện thoại ra bấm phím tắt. “Mỏ đá Angel xin nghe,” một giọng nữ trả lời. Rod bỏ điện thoại ra khỏi tai và cúp máy. Anh có lẽ đã gọi nhầm số lúc muốn liên hệ văn phòng công ty để thông báo cho Newton Redhook biết rào cản đầu tiên đã vượt qua. Anh nhăn mặt quay số lần nữa. “Mỏ đá Angel xin nghe. Tôi có thể giúp gì được cho ngài?” Rod lắc đầu. “Tôi đang gọi cho số 617-569…” “Ồ, ngài nhầm số rồi.” Tít. Cảm thấy bối rối, anh nhét điện thoại vào túi và bơm thêm xăng. Anh móc ví ra và tiến tới quầy thanh toán. Một người đàn ông trung niên với mái tóc đỏ như củ cà rốt đang đứng dưới hiên quét cánh hoa hồng trên sàn. Rod ngước nhìn bảng hiệu - Trạm xăng và tạp hóa của Abe - rồi quét mắt qua chủ tiệm. “Ông là ông Abe hả?” “Ừ.” “Có điện thoại trả phí ở đây không?” Abe chỉ vào góc mái hiên nơi có bốt điện thoại quay về phía rào chắn, ngay cạnh ông già say rượu cố ý không muốn đi ra chỗ khác. Rod vừa quay số vừa cảm nhận ánh mắt chủ tiệm đang nhìn chằm chằm. Một lúc sau anh nghe được, “Mỏ đá Angel xin nghe.” Anh dập máy, nhìn chằm chằm vào bốt điện thoại. Abe quét một, hai, ba nhát, dọn sạch đường đi giữa mình và Rod. “Có vấn đề gì sao?” ông hỏi. “Hình như đường dây điện thoại có vấn đề gì đó.” Rod móc tờ hai mươi đô la từ trong ví để trả tiền xăng. “Có lẽ vậy. Cũng có thể những gì mà đám thổ dân bàn tán là sự thật - Nếu họ không lấy lại được đất của mình, cả thị trấn sẽ bị nguyền rủa.” Rod đảo mắt. Đi nửa đường thì anh sực nhớ lời ông Spencer Pike nói về mấy con ma. Anh quay lại định hỏi Abe về việc đó nhưng ông ta đã biến mất. Dưới mái hiên, chiếc chổi đang dựa vào lan can gỗ trông như rào chắn; khi gió thổi qua, đống cánh hoa được chất gọn gàng lại bay tung lên như ban phước lành. Đột nhiên một chiếc xe tấp vô máy bơm xăng còn lại. Một người đàn ông với mái tóc nâu dài ngang vai và đôi mắt xanh nước biển bước ra, vươn vai khiến lưng kêu răng rắc. “Xin lỗi,” anh hỏi, “anh có biết đường đến nhà Shelby Wakeman không?” Rod lắc đầu. “Tôi không phải dân vùng này.” Lúc bước vào trong xe, Rod không hiểu vì sao mình cứ nhìn vào kính chiếu hậu. Người đàn ông vẫn đứng đấy như không biết phải làm gì tiếp theo. Điện thoại bỗng reo lên. Rod móc điện thoại từ túi áo trước ngực và trả lời. “Van Vleet xin nghe.” “Mỏ đá Angel đây,” giọng người phụ nữ cất lên ở đầu dây bên kia cứ như anh đúng là người cần liên lạc; cứ như đây là chuyện hết sức hợp lý vậy. “Vâng, tôi đến đây,” Shelby cằn nhằn khi tiếng gõ cửa mạnh hơn. Mới có 11 giờ sáng mà. Nếu cha già ngớ ngẩn nào đó mà đánh thức Ethan thì… Cô túm tóc thành kiểu đuôi ngựa, chỉnh lại áo quần mặc ở nhà và liếc nhìn mặt trời khi mở cửa. Trong phút chốc, ánh mặt trời hắt vào khiến cô không nhận ra anh ta là ai. “Shel?” Đã hai năm trôi qua kể từ khi cô gặp Ross. Hai người rất giống nhau - cùng vóc dáng khẳng khiu, cùng ánh mắt sắc sảo khiến người ta khó lòng dời mắt. Nhưng Ross đã ốm đi và còn để tóc dài. Quầng mắt anh còn thâm hơn cô. “Em làm chị thức giấc sao,” anh rối rít xin lỗi. “Em có thể…” “Vào đây,” Shelby ngắt lời, ôm chầm lấy đứa em trai bé bỏng của mình. “Chị đi ngủ lại đi,” Ross giục, sau khi Shelby đã dành hơn một giờ hỏi anh đủ chuyện. “Ethan sẽ cần chị đấy.” “Ethan sẽ cần em đấy,” Shelby chỉnh lại. “Cứ chờ đến khi cậu nhóc gặp được em thì quên việc nghỉ ngơi đi.” Chị anh đặt một chồng khăn tắm lên giường tại phòng cho khách và ôm anh. “Em có thể ở lại bao lâu tùy thích.” Anh dúi mặt vào vai chị và nhắm mắt lại. Shelby vẫn có mùi thơm dễ chịu như hồi còn bé. Đột nhiên cô lùi lại. “Ồ, Ross.” Cô thì thào, luồn tay vào trong cổ áo của anh rồi kéo ra một sợi dây chuyền. Bên dưới sợi dây có treo một chiếc nhẫn kim cương hình ngôi sao băng. Tay Shelby siết chặt chiếc nhẫn. Ross đột nhiên lùi lại, khiến sợi dây chuyền bị đứt. Anh chộp lấy cổ tay Shelby, giằng mạnh cho tới khi cô thả chiếc nhẫn ra, để nó nằm an toàn trong lòng bàn tay anh. “Đừng làm vậy,” anh nghiến răng cảnh cáo. “Đã qua…” “Chị nghĩ em không biết đã qua bao lâu rồi sao? Chị nghĩ em không biết chính xác?” Ross quay lưng đi. Tại sao không ai nói rằng sự quan tâm cũng có thể đâm vào lòng người ngọt như dao sắc? Khi Shelby nắm tay anh, Ross không phản ứng. Cô không muốn làm căng thêm nên chỉ khẽ chạm vào rồi quay người ra khỏi phòng. Shelby nói đúng - Ross cần một giấc ngủ nhưng lại không chợp mắt được. Anh quen dần với bệnh mất ngủ. Nhiều năm qua, chứng ấy cứ khiến anh cứ thao thức nhìn đồng hồ điện tử mãi tới khi con số báo hiệu đến giờ rời giường. Nằm trên giường, anh ngước mắt nhìn lên trần nhà. Anh siết chặt chiếc nhẫn đến mức cảm nhận được mấy mấu nhọn cứa vào da. Anh phải tìm sợi dây khác để luồn chiếc nhẫn này vào. Anh hướng tầm mắt đến đồng hồ, nhìn những con số nối tiếp nhau; 12:04; 12:05; 12:06. Anh còn đếm hết mấy bông hoa in trên chăn bông và cố nhớ cách đánh vần cụm từ “Waltzing Matilda.” Ross không thể tin được anh giật mình tỉnh giấc lúc 5:58. Anh chớp mắt và cảm thấy tràn trề năng lượng hơn mấy tháng vừa rồi. Anh vung chân bước xuống giường và đứng dậy tự hỏi Shelby còn dư bàn chải đánh răng nào không. Cảm giác trống trải trên ngực làm anh nhớ đến chiếc nhẫn. Ross duỗi tay ra trong hoảng loạn. Chiếc nhẫn kim cương nắm chặt trong tay lúc thiếp đi giờ lại không thấy đâu cả - không có dưới chăn, không có dưới thảm, bên kia giường cũng không. Ross nghĩ mình đánh mất cô ấy rồi. Anh trừng trừng nhìn vào vật thể bí ẩn trong lòng bàn tay mình khi thức dậy: một đồng xu năm 1932 vẫn còn ấm. Chương Hai M ới tám tuổi mà Lucy Oliver đã biết rất nhiều thứ. Cô bé có thể liệt kê thủ phủ của từng bang, giải thích mây dông hình thành như thế nào và còn biết đánh vần từ RHYTHM xuôi ngược. Cô bé còn biết nhiều điều mà trường học chưa từng dạy. Ví dụ chuyện tháng trước bà cố đi khám bệnh về liền giấu mấy viên thuốc màu trắng vào mũi giày chỉnh hình đặt trong tủ quần áo. Cô bé biết cần phải chăm chú lắng nghe khi người lớn bắt đầu hạ giọng. Cô cũng biết người thông minh nhất thế giới cũng sợ hãi những thứ mình không hiểu được. Lucy còn biết chắc rằng việc một trong số họ tóm được cô bé chỉ là vấn đề thời gian. Hình dạng của họ luôn biến đổi mỗi đêm. Đôi khi họ là những họa tiết di động trên rèm cửa. Có lúc họ biến thành mảng sàn gỗ lạnh toát mà Lucy phải băng qua để trèo lên giường. Thỉnh thoảng họ chính là mùi hương khiến Lucy mơ về lá cây, bóng đêm và xác chết. Tối nay cô bé đóng vai một con rùa. Không gì có thể xuyên qua lớp vỏ cứng đó được, kể cả thứ mà cô bé chắc chắn đang thở phập phồng trong tủ quần áo. Lucy mở trừng mắt nhìn bóng đêm biến đổi. Vài hình bóng dần trở nên sắc nét, những nét khác lại mơ hồ… cho đến khi hình thành gương mặt một người phụ nữ mờ ảo mang vẻ đau buồn đến nhói lòng. Lời bà ta nói hiện lên trong đầu Lucy: Ta sẽ tìm đến con. Lucy trùm chăn kín đầu, cố không thét lên vì sợ đánh thức bà cố. Ngực cô bé phập phồng hổn hển. Nếu bà ta có thể tìm thấy Lucy ở bất kỳ chỗ nào thì cô bé biết trốn nơi đâu đây? Mẹ có biết con bị bắt hay không nếu chỉ thấy vết lõm để lại trên giường? Cô bé len lén cầm lấy điện thoại đặt trên kệ rồi bấm phím tự động gọi đến phòng thí nghiệm của mẹ. Lucy tưởng tượng một đường dây vô hình kết nối từ điện thoại này đến điện thoại mẹ. Chắc giống như sợi dây rốn vô hình nhỉ. Hình ảnh tưởng tượng đó đó khiến cô bé thấy yên lòng ấm áp đến mức không nói nên lời. “Ôi, Lucy,” mẹ cô thầm thở dài. “Chuyện gì thế con?” “Không khí,” Lucy thì thào. Cô bé ghét bỏ giọng nói nghe vừa lí nhí vừa hốt hoảng giống như lũ chuột đang sợ hãi của mình. “Không khí ngột ngạt quá.” “Con đã dùng ống hít chưa?” Lucy đã dùng ống hít. Cô đã đủ lớn để biết phải làm gì khi lên cơn hen suyễn. Nhưng đây không phải ngột ngạt kiểu đó. “Không khí như sắp ép nát con.” Lúc này, tình trạng còn tệ hơn nữa. Lucy nằm dưới bóng tối nặng nề, dè dặt từng hơi thở để kéo dài thời gian tiêu hao lượng ô-xy trong phòng. “Con yêu.” Giọng mẹ khiến Lucy nhớ đến đám chai thủy tinh đựng thuốc lạnh lẽo trên quầy thuốc trắng toát dài vô tận. “Con biết trọng lượng không khí không thể thay đổi mà, chuyện đó không thể xảy ra trong phòng con đâu. Con chỉ tưởng tượng thôi.” “Nhưng mà…” Lucy xoay người lùi xa khỏi tủ quần áo vì cảm thấy bà ta đang nhìn mình. “Mẹ, con không bịa chuyện đâu.” Lúc này, mẹ cô bé đã mất bình tĩnh. “Lucy. Chẳng có ma, yêu tinh hay quỷ dữ, hay… hay con quái vật vô hình nào đè ép không khí cả. Đi ngủ đi? Lucy vẫn giữ ống nghe sau khi kết nối bị ngắt. Đến khi giọng Tổng Đài máy móc yêu cầu Lucy gác máy nếu muốn gọi số khác thì cô bé đành giấu điện thoại dưới gối. Mẹ nói đúng; nếu suy luận theo lý trí thì trong phòng chẳng có gì nhảy ra bắt mình đi mất; đám quái vật đó không thể trốn trong tủ quần áo hay núp dưới giường, một người phụ nữ đang khóc không thể tự dưng xuất hiện được. Nếu không khí trở nên đặc quánh như món súp đậu thì sẽ có lý do theo vật lý và hóa học giải thích hiện tượng này. Dù vậy, vài giờ sau, khi về đến nhà, bà Meredith Oliver bắt gặp con gái ngủ trong bồn tắm được lót gối và chăn; phòng tắm bật đèn sáng trưng như ban ngày. Ross ngắm nhìn cháu trai thách thức trọng lực một lần nữa, chiếc ván trượt lơ lửng trong không khí dưới đôi chân thăng bằng của cậu bé. “Đây là một cú trượt kiểu năm mươi/ năm mươi nhé.” Ethan khoe khoang, má cậu ửng đỏ vì cố sức; chân tóc ướt đẫm dưới vành mũ bóng chày. Anh vờ nhấc chân Ethan lên. “Cháu không cột dây cước vào chân đấy chứ?” Ethan cười toét miệng phóng đi một lần nữa, rồi quay đầu trượt về chỗ cũ. “Cậu Ross?” cậu bé reo lên. “Có cậu ở đây đúng là tuyệt cú mèo.” Ngồi trên tấm chăn đặt cạnh Ross, Shelby tiện tay bứt mấy cọng cỏ. “Đây là lời khen đáng giá nhất rồi đấy.” “Em biết.” Ross nằm xuống, gối đầu lên hai tay. Một ngôi sao băng vừa vụt qua tầm mắt anh, vẽ nên một chiếc đuôi bạc trên bầu trời. “Cậu nhóc được quá, Shel à.” Mắt cô dõi theo Ethan. “Chị biết chứ.” Ethan phóng rầm xuống đoạn dốc gỗ. “Đủ giỏi để đi săn ma với cậu không?” cậu nhóc gào lên. “Ai bảo cháu là cậu đi săn ma?” “Cháu có nguồn tin riêng mà.” Ethan vừa xoay ván trượt vừa nhảy lên cao, cố dùng tay chộp lấy tấm ván. “Cháu nhanh nhẹn lắm, cậu thấy không? Còn nữa, cháu không buồn ngủ vào buổi tối… và khả năng giữ bí mật của cháu thì cậu không tin nổi đâu…” “Chắc rồi,” Ross cười phá lên. “Không, cậu Ross à, thật đấy, sao cậu không dẫn cháu theo?” “Để xem nào. Vì mẹ cháu sẽ lột da cậu; và cậu cũng nghỉ hưu rồi.” “Nghỉ hưu?” Cậu bé kéo dài giọng. “Nghĩa là cậu mệt mỏi vì việc săn ma rồi sao?” “Xét về mặt nào đó thì đúng là thế.” Ethan sững sờ vì tin này. “Vậy thì đúng là chán thấy bà.” “Ethan.” Shelby lắc đầu cảnh cáo. “Giờ thì cậu có khác gì người thường đâu,” cậu nhóc lầm bầm. Ross nhìn cậu nhóc trượt ván ra xa. “Đây là câu xỉ vả sao?” Shelby phớt lờ câu hỏi, quay qua nhìn chằm chằm vào Ross. “Vậy em ổn chứ?” “Ổn mà.” Anh mỉm cười với cô. “Hoàn toàn ổn ” “Em biết mà, chị hơi lo lắng khi em chẳng liên lạc gì. Suốt 6 tháng trời.” Ross nhún vai. “Em phải đi đây đi đó suốt với nhóm Warburton.” “Chị không biết em đã ngừng điều tra mấy hiện tượng tâm linh rồi.” “Chính em còn không ngờ. Nhưng em chán ngấy vì chẳng gặp được thứ mà mình muốn.” “Chuyện một nhà cổ sinh vật học không tìm thấy thứ mình muốn so với chuyện một nhà săn ma không gặp được thứ mà mình truy đuổi khác nhau rất xa,” Shelby trầm ngâm. “Ý chị là xương khủng long có đầy ngoài kia, vấn đề là em có gặp may để khai quật chúng hay không. Nhưng ma… nếu ma có ở khắp mọi nơi, vậy sao đến giờ vẫn chưa ai chứng minh được chuyện đó?” “Em đã từng đến một căn phòng mà nhiệt độ giảm xuống hai mươi độ chỉ trong vòng vài giây. Em ghi âm được bài đồng ca của nhà thờ vang lên trong dãy phòng trống rỗng bị khóa kín. Em từng thấy vòi nước tự động mở. Nhưng em chưa bao giờ thấy linh hồn nào xuất hiện. Trời đất, em biết là chuyện gì cũng có cách giải thích. Có lẽ là do Chúa Trời, yêu tinh, hay một thiên tài máy móc ở cách đó ba dặm vừa bấm nút điều khiển từ xa.” Shelby cười toét miệng. “Có phải giống như cậu nhóc nào đó đến năm mười lăm tuổi vẫn tin vào ông già Noel không?” “Em đã ngừng tin lúc mười tuổi rồi,” Ross đính chính. “Còn chị chắc không phải là người đặt bẫy trên mái nhà và bị bắt quả tang đâu nhỉ.” “Em còn vết sẹo thủy đậu nhỉ.” “Có dấu móng bò trên đó hẳn hoi.” Ross thò tay rút một điếu thuốc, nhưng lại nhìn sang Ethan và đổi ý. “Em nên từ bỏ việc này lâu rồi.” “Hút thuốc hả?” “Săn ma.” “Tại sao em lại không từ bỏ sớm hơn?” Ross nhớ đến lời Curtis Warburton nói: Một nửa công việc trong nghề này là phải nói với người ta những gì họ muốn nghe. Anh nhớ đến chiếc nhẫn đính hôn của Aimee lạc mất sau một đêm dù anh đã lật tung cả phòng lên. “Vì chuyện xảy ra toàn là những thứ em không hiểu… và em nghĩ phải điều tra cẩn thận thì mới hiểu được nguyên nhân.” “Có lẽ trước kia em nên theo ngành vật lý mới phải.” Ross nhún vai. “Khoa học không thể giải thích được tất cả mọi chuyện.” “Như không giải thích được Chúa Trời sao?” “Không đến mức cao siêu như vậy. Điều gì sẽ khiến một người vội lướt qua ba mươi nghìn người mà không ngoái đầu nhìn lại một lần, nhưng lúc nhìn đến người thứ ba mươi nghìn lẻ một, người đó lại nhận ra mình không thể rời mắt khỏi cô ấy lần nữa?” “Ross à, tình yêu đúng là không thể giải thích bằng lý trí, nhưng đó đâu phải hiện tượng tâm linh.” Ai nói? Ross nghĩ. “Ý em không phải vậy. Khi không thể nhìn thấy nhưng lại cảm nhận được thứ gì đó ngay trước mắt, vì sao chị sẵn sàng tin vào cảm giác của mình lúc đó nhưng lại không tin vào lúc khác?” Anh đứng dậy phủi quần. “Chị biết không, em đến những ngôi nhà đó… và tất cả những gì em cần làm là mở lòng lắng nghe người ta kể hết mọi chuyện. Họ không phải bị tâm thần, Shel…. Có những người là tiến sĩ hoặc giám đốc điều hành của mấy công ty nằm trong bảng xếp hạng Fortune 500. Khi một người nhìn thấy ma, người đó sẽ chỉ mong tìm được ai đó không cho là họ bị điên chỉ vì thừa nhận những điều cha mẹ dạy bảo là không đúng sự thật.” Đó là những gì Ross từng muốn tin. Anh đã gặp những nhà ngoại cảm tuyên bố rằng nhìn đâu cũng thấy linh hồn, rằng những hồn ma ấy liên tục thu hút sự chú ý của họ. Nhưng giờ đây anh lại nghi ngờ. Anh bắt đầu tin rằng khi ai đó qua đời, thì thế là hết. “Tiến sĩ hay giám đốc điều hành cũng có thể nói dối mà. Hoặc điên mà,” Shelby đáp lại. “Thế thì một đứa nhóc 4 tuổi thì sao?” Ross quay qua nhìn chị. “Có một cậu nhóc chạy tới ôm mẹ giữa đêm khuya và bảo có một ông cụ trong phòng bảo hai mẹ con phải rời khỏi xưởng để ông ta đóng một cái bàn thì sao? Sau đó chị vào thư viện tìm hiểu và phát hiện căn nhà được xây dựng trên nền một xưởng mộc hai trăm năm về trước thì sao?” “Chuyện đó… có thật sao?” Cậu nhóc bốn tuổi đó cuối cùng phải tự đánh vào đầu mình để khỏi nghe thấy giọng nói của con ma; phải dụi mắt để không thể thấy nó. “Đúng là trẻ con cũng có thể phát điên. Nhưng quan trọng là em từng tự mình chứng kiến.” Tuy vậy, chính Ross phải tự hỏi liệu anh đang cố gắng thuyết phục chị gái hay bản thân mình. Shelby vỗ vai anh. “Ross à, chị không biết nữa, nhưng nếu có ai đó tìm được bằng chứng về ma thì chị chắc chắn người đó sẽ là em.” Anh chần chừ nhìn cô, thọc tay vào túi, móc ví tiền rồi lôi ra một tấm hình. “Cậu đừng nói với chị là thứ này nhìn giống cái miệng và con mắt nhé.” Cô nheo mắt. “Còn có một bàn tay nữa này.” “Em chưa nói gì với chị. Là chị tự nói với em đấy nhé.” “Vậy cái này là cái gì?” “Curtis Warburton gọi chúng là vật thể duy linh, hay còn gọi là ngoại khí. Khi em chụp tấm ảnh này, trong hồ không có sương mù, không có hơi thở, không có bất kỳ thứ gì cả. Nhưng đây là hình ảnh hiện trên phim âm bản. Phim chụp nhạy đến nỗi có thể bắt được ánh sáng, nhiệt độ và năng lượng điện từ… nói chung là những nguồn năng lượng mà linh hồn sử dụng để hiện hình.” Ross đút tấm hình vào ví. “Nhưng nói cho cùng, đây cũng có thể là do trong phòng rửa ảnh người ta đổ nhầm hóa chất gì đó.” Anh không kể lúc chụp bức hình đó, không khí bỗng trở nên lạnh buốt, khiến lông tay, lông chân anh dựng đứng, rồi suốt cả ngày hôm đó, tay anh run rẩy còn mắt như không tài nào nhìn tập trung nổi. “Em chắc là không có sương khói gì khi chụp ảnh chứ?” Shelby hỏi lại. “Không có.” Cô cau mày. “Nếu thấy bức ảnh trên báo, chị sẽ nghĩ nó đã qua chỉnh sửa. Nhưng…” “… nhưng vì em là em trai chị nên chị phải tin em sao?” Ethan phóng đến trước mặt hai người và kêu lên. “Ở một mỏ đá trong thành phố có người đàn ông bị sát hại vào nhiều năm trước. Mọi người đều nghĩ mỏ đá đó bị ma ám. Chúng ta có thể đi và…” “Không” Ross và Shelby đồng thanh. “Ôi trời,” Ethan càu nhàu rồi lượn ra xa. Ross nhìn về phía chân trời, màn đêm đã bắt đầu ửng hồng. “Đến lúc vào nhà rồi đúng không?” Shelby gật đầu và bắt đầu thu dọn đồ đạc. “Vậy giờ em sẽ làm gì?” “Theo dấu vật thể bay không xác định.” Anh nhìn cô chị. “Giỡn thôi mà.” “Em có thể làm bảo mẫu khi chị đi làm. Mặc dù trông nom Ethan có thể còn đáng sợ hơn công việc trước kia đấy.” “Ma không hề đáng sợ,” Ross phản bác trước khi sực nhớ phải chọn từ cẩn thận hơn. “Họ là người. Họ từng là người mà.” Đang gấp chăn, Shelby khựng lại. “Nhưng em chưa từng thấy con ma nào.” “Đúng là vậy.” “Mặc dù em rất muốn.” Ross gượng cười. “Này, em chưa từng thấy một tờ mười ngàn đô la nhưng em vẫn luôn muốn thấy một tờ đấy.” Nghỉ việc lúc này đúng là sáng suốt. Anh chỉ phải tự thuyết phục bản thân yên lòng với quyết định đó. Sự thật là suốt chín tháng qua, anh chẳng tìm thấy thứ cần tìm. Anh chưa bao giờ nhìn thấy ma quỷ vì đâu có gì hiện hình lên mà nhìn. Nhưng có lần, một bức hình kỳ quái đốt cháy một lỗ sau túi quần anh; có lẽ hồn ma đó đã sử dụng sức mạnh từ nhiệt lượng, ánh sáng hoặc thậm chí từ pin của máy chụp hình, để hiện hình cho người ta nhìn thấy. Đối với Ross, chuyện này hoàn toàn hợp lý. Dù sao đi nữa, Aimee chính là người tiếp thêm sinh lực cho anh. Không có cô, anh chẳng khác gì một hồn ma, sống vô định lay lắt qua ngày. “Tôi chưa hề ủi vào anh ta!” viên đốc công đang trong ca trực hét lên. Gương mặt ông ta bóng lưỡng đỏ ửng như quả mận. Từ trên xe ủi, ông ta trừng mắt nhìn xuống Eli, hai khoanh tay lại trước cái bụng phệ. “Ông Champigny…” “Winks.” Người đàn ông nằm uể oải dưới đất cười gian trá với Eli. “Đấy là tên mọi người hay gọi tôi.” Chú chó của Eli đột nhiên nhảy ra và vồ lên ngực Winks. “Đi xuống, Watson,” Eli ra lệnh. “Ông Champigny tôi yêu cầu ông đứng dậy. Tập đoàn Redhook đã được cấp phép theo hợp đồng để thẩm tra khu đất này.” “Anh ta đang nói tiếng Anh đấy à?” Winks hỏi nhóm người đứng gác gần đó. “Anh không thể bắt giam bọn họ sao?” Rod van Vleet hỏi. “Họ chưa hề gây sự. Đây chỉ là tranh chấp dân sự thôi.” Đây là những gì ngài cảnh sát trưởng Follensbee đã ra lệnh cho Eli. Ông ta không hề muốn làm trầm trọng thêm chuyện vốn có thể bùng nổ thành cuộc tranh chấp sắc tộc. Eli biết bộ tộc Abenaki sẽ không làm to chuyện nếu họ không bị dồn ép quá mức. Đồng thời anh cũng chẳng có tâm trạng đâu ra cho chuyện này. Anh còn phải đi tóm một gã say tên là Abbott Thule ở cửa tiệm tạp hóa và đưa hắn tới phòng tạm giam để tỉnh rượu. Anh còn phải kiếm gì đó cho con Watson ăn. Anh lại càng không muốn phí thời gian với đám thổ dân sở hữu sự kiêu căng láo xược đủ để lấp đầy hồ Champlain. Anh xoa xoa gáy. Vào những lúc thế này, Eli tự hỏi tại sao mình không chuyển đến Florida sau khi mẹ qua đời. Mới ba mươi sáu tuổi mà anh đã quá vất vả. Quỷ sứ thật, anh lẽ ra có thể đi dạo cùng bố, đánh một trận golf chẳng hạn. Anh lẽ ra đang ngồi dưới gốc cây cọ. Chú chó Watson ngồi cạnh nhe răng như cười với anh. “Có người còn sống tại khu đất này,” Winks khăng khăng lý sự. “Thật thế sao?” Eli hỏi. Mặt Rod sa sầm. “Chưa tìm thấy thứ gì cả. Chỉ có một hộp thiếc nhỏ, mảnh vỡ đồ gốm và một đồng xu năm 1932.” “Một đầu mũi tên nữa,” Az Thompson nói to. “Đừng quên có đầu mũi tên đấy nhé.” Nhân viên quy hoạch đảo mắt. “Vâng, đúng vậy, họ tìm thấy một đầu mũi tên. Nhưng thứ này chẳng minh chứng được gì ngoài việc có một đứa con nít nào đó chơi trò Cao bồi và Thổ dân ở đây.” Az Thompson tiến về phía họ. “Chúng tôi cũng chẳng quan tâm tới những đầu mũi tên. Cái chúng tôi quan tâm là tổ tiên mình. Ông chưa từng xem bộ phim Quỷ Ám sao? Nếu các ông đào bới nơi yên nghỉ của họ, đảm bảo dù có xây dựng thứ gì ở đó thì cũng không yên ổn được đâu.” Eli tự hỏi lão già này có liên hệ quái gì đến khu đất. Theo như anh biết thì Az chuyển từ nơi nào đó ở phía tây đến thị trấn Comtosook. Phải công nhận là thời gian Az sống ở thị trấn cũng ngang ngửa với Eli, nhưng dường như ông ta chẳng liên quan gì đến khu đất. Chắc ông ta căm hận dự án quy hoạch không phải vì lý do cá nhân mà là vì nguyên tắc thôi. “Đây là lời đe dọa,” Rod tố cáo với Eli. “Cậu nghe ông ta nói rồi đấy.” Az cười lớn. “Tôi đe dọa anh cái gì?” “Nguyền rủa. Một… lời nguyền.” Ông lão thổ dân khum tay quanh tẩu thuốc và mồi lửa. Ông hít khói vào, từng chữ nhả ra theo làn khói. “Cậu nên tin vào những chuyện này trước khi nó thực sự ra tay với cậu. Cậu có tin vào mấy chuyện thế này không, cậu van Vleet?” “Nghe này, Az” Eli thở dài. “Tôi biết các người cảm thấy thế nào về công ty phát triển này. Nhưng nếu có khiếu nại gì thì nên đến tòa án là tốt nhất.” “Lần gần nhất hệ thống pháp lý này phán xét điều gì tốt nhất cho bộ tộc Abenaki, họ đã tiêu diệt gần hết bộ tộc chúng tôi,” Az mỉa mai. “Không, Thám tử Rochert, tôi nghĩ chúng tôi sẽ không khiếu nại với tòa án của anh đâu.” “Tòa án của anh?” Winks lập tức đứng dậy, khịt khịt mũi và phủi bụi trên quần jean. “Eli, ai nói với cậu rằng bộ đồng phục màu xanh đẹp đẽ sẽ làm làn da của cậu trông ít giống thổ dân hơn?” Không hề nghĩ ngợi, Eli lao đến tấn công Winks, túm lấy vạt áo và ném anh ta vào cạnh chiếc xe ủi đất. Watson lao theo ngay, nhe răng. Eli nghe thấy tiếng đầu Winks đập bốp vào khung sắt, sau đó lý trí quay lại với anh. Anh cảm thấy Az Thompson đang nhìn mình chằm chằm, không khí như nghẹn trong phổi. Khi Eli quay người đi và gọi chú chó của mình, anh nhớ tới chuyến câu cá bên hồ suốt mùa hè với người họ hàng của mẹ. Những cậu bé da nâu rám nắng đi chân trần, thích thú rượt đuổi nhau và dẫm bẹp đám cỏ cao trong phạm vi gần một dặm vuông. Lúc hơn mười tuổi Eli mới biết ra cái hồ tên Pitawbagw - nghĩa là vùng nước trung tâm - có tên trên bản đồ là hồ Champlain. Gật đầu với tay tài xế xe ủi, Eli ra hiệu tiếp tục. Anh cố ý quay lưng lại với đám thổ dân để tránh mất bình tĩnh. Một tuần sau khi đến Comtosook, Ross thơ thẩn dọc bờ hồ, lờ đi tiếng đá sỏi sột soạt dưới chân. Nước hồ lạnh - lạnh buốt quá mức so với tháng Tám - nhưng anh chẳng hề quan tâm. Chỉ cần còn có cảm giác, dù không thoải mái, cũng tốt rồi. Hồ Champlain dài đến nỗi không thể nhìn thấy cuối hồ bên kia từ đầu hồ bên này. Dãy núi Adirondacks thấp thoáng bên bờ đối diện trông như những người lính. Aimee được sinh ra bên kia hồ, tại vùng ngoại ô New York. Vào cái ngày bầu trời sụp đổ ấy, hai người đang trên đường lái xe đến nhà bố mẹ cô. Một lần nọ, tại hiệu sách ở Manhattan nơi Ross làm việc có một tác giả đến diễn thuyết về nghi thức tang lễ. Trong nghi thức chôn cất của người Tây Tạng, nhà sư sẽ xẻo thịt từ cái xác, cắt thành từng miếng để chim kền kền dễ ăn. Ở Bali, thi thể người chết được chôn trong nhiều năm để lên kế hoạch cho một nghi lễ hỏa thiêu đầy công phu. Nhưng trước khi mai táng, xác chết sẽ được đặt trên một tháp tre trang trí sặc sỡ, quay tròn, vẩy nước và lắc lư để linh hồn không tìm được đường quay về. Đêm đó, Ross phải quần quật xếp ghế cho khán giả rồi sắp xếp sách ký tặng lên bàn, lại còn phải đưa nước cho tác giả tại bục diễn thuyết. Đúng là đông khủng khiếp - mấy nhà xã hội học chen chúc giữa đám chơi style Goth tóc tai lỉa chỉa khoác áo đen. Ross đứng đằng sau lắng nghe, cảm thấy ngạc nhiên vì có quá nhiều cách để con người vĩnh biệt cuộc sống. Aimee vội vàng lách vào đám đông giữa bài diễn thuyết. Cô vẫn đang khoác áo bệnh viện. Ross nghĩ ngay rằng chắc cô lạnh cóng rồi. Lúc ở nhà Aimee vẫn mặc cái áo đó thay đồ mặc nhà mà còn thấy lạnh, huống chi cô lại vừa băng qua mấy con phố vào tháng Mười Hai. Ý nghĩ thứ hai của anh: có gì đó không ổn rồi. “Này.” Ross ôm chầm lấy Aimee khi cô suýt bước ngang qua anh để tiến vào khu giá sách. Cô nhào thẳng vào lòng anh rồi thút thít khóc. Vài khán giả quay lại, còn tay diễn giả thì liếc mắt vì bị phân tâm. Ross kéo Aimee vào khu sách làm vườn, nơi mà chẳng kẻ nào ở New York buồn ngó đến. Anh dùng tay ôm lấy gương mặt cô, tim anh đập thình thịch: Cô bị ung thư sao; hay có thai; hay là cô không còn yêu anh nữa. “Martin đi rồi,” cô nghẹn ngào thốt lên. Ross ôm cô, cố gắng nhớ cái tên. Từng đoạn ngắn thông tin hiện lên trong đầu anh - Martin Birenbaum, 53 tuổi, là nạn nhân vụ cháy ở nhà máy hóa chất. 85 phần trăm cơ thể ông bị bỏng cấp độ ba. Ca bệnh này được giao cho Aimee, một sinh viên y khoa năm ba đang làm việc ở phòng cấp cứu. Cô phải cố gắng giúp ông ấy cảm thấy dễ chịu bằng cách xử lý vết thương, giữ chúng sạch sẽ và bôi thuốc Silvadine. Khi ông hỏi mình sắp chết phải không, cô đã nhìn vào mắt ông ấy và trả lời là đúng. Martin là bệnh nhân đầu tiên chết trên tay Aimee, vì vậy cô chẳng thể nào quên được gương mặt ông ấy. “Em cố ở cạnh ông ấy vì biết mình không giúp được gì,” Aimee tâm sự. “Em biết thời gian có thể khiến mọi thứ dễ chấp nhận hơn. Nhưng cũng có thể không. Lẽ ra em không nên học y.” Cô đột nhiên nhìn chằm chằm vào anh. “Khi em chết, anh phải ở cạnh em nhé. Như hôm nay em đã làm với bệnh nhân.” “Em đâu phải là người sắp chết…” “Ross, lạy Chúa, em vừa trải qua một trải nghiệm đau đớn tột cùng… Anh không thể hứa với em sao?” “Không được,” anh trả lời thẳng thừng. “Vì anh sẽ là người ra đi trước.” Cô im lặng một lúc, rồi một tiếng cười nhỏ xíu vang lên. “Anh đặt vé chưa?” “Ngạ quỷ, hay còn gọi là ma đói,” tay diễn giả đang thao thao bất tuyệt, “là hồn ma của những người Trung Hoa chết bất đắc kỳ tử… nên họ mới lang thang khắp nơi gây họa cho người sống.” Aimee lập tức ngẩng đầu lên. “Chúng ta đang nghe thứ quái quỷ gì vậy, Ross?” “Đúng vậy,” anh trả lời. “Đúng là tào lao thật.” Sau đó, hai người không bao giờ nhắc đến Martin Birenbaum nữa. Ross đi cùng Aimee tới dự đám tang. Hồi Aimee còn sống, có những bệnh nhân khác nữa đã qua đời, nhưng anh chẳng nhớ cô có suy sụp thêm lần nào nữa hay không. Rốt cuộc, cô cũng như đa số bác sĩ đều hiểu cái chết chỉ là đoạn cuối của cuộc đời. Anh lia một hòn đá xuống hồ Champlain, hòn đá chìm xuống trước khi hòn đá thứ hai anh ném trượt trên mặt nước. Aimee được hỏa táng. Tro cốt của Aimee được rải ở đâu đó bên kia hồ, gần với cha mẹ cô ấy. Anh không biết bọn họ giờ ra sao. Ba năm sau khi Aimee qua đời, anh không nhận điện thoại và thư từ của họ vì quá đau khổ. Ross nhặt giày lên, định quay về xe. Lúc ngồi vào ghế lái, anh sực nhớ đến câu chuyện của nhà diễn thuyết tại hiệu sách. Người Mexico tin rằng hằng năm có một ngày bức màn âm phủ được vén lên và những linh hồn xa xưa có thể quay về thăm hỏi người mà họ đã bỏ lại sau lưng. Khi em chết đi, anh phải ở cạnh em nhé. Nhưng lúc đó anh chẳng ở cạnh cô. Và bây giờ anh cũng chẳng theo cô được. Văn phòng của Meredith Oliver tại Viện Nghiên Cứu Generra mang mã bưu điện của thủ đô Washington D.C. Nhìn từ cửa sổ văn phòng, người ta có thể thấy được Đài Tưởng Niệm Jefferson. Cô thấy đúng là mỉa mai khi đám nhà khoa học tại đây vẫn luyên thuyên mãi về tư tưởng con người sinh ra đều bình đẳng - nhưng trong mắt họ chỉ có tinh trùng và trứng khỏe nhất mới nên tồn tại. Ông bà De la Corria ngồi trước mặt cô đang lo lắng nắm chặt tay nhau. “Tin tốt đây,” Meredith mỉm cười thông báo. Hơn mười năm kinh nghiệm chẩn đoán di truyền tiền cấy phôi, cô hiểu chuyện khiến các cặp vợ chồng căng thẳng còn hơn quá trình thụ tinh trong ống nghiệm chính là việc chờ đợi kết quả kiểm tra trước khi thụ tinh. “Có ba phôi sống được.” Carlos De la Corria mắc chứng rối loạn đông máu. Vì sợ di truyền sang con, ông và vợ đã chọn phương án hỗ trợ sinh sản, nghĩa là Meredith sẽ tiến hành sàng lọc di truyền các phôi tạo ra từ tinh trùng và trứng của hai người. Trước khi phôi thai được cấy vào tử cung, bà mẹ biết chắc con mình sẽ không mắc chứng rối loạn đông máu. “Bao nhiêu phôi là con trai?” Carlos hỏi. “Hai.” Meredith nhìn thẳng vào mắt ông. Gene rối loạn đông máu nằm trên nhiễm sắc thể X. Điều này có nghĩa những bé trai sinh ra trong nhà De la Coria sẽ không tiếp tục di truyền căn bệnh của cha. Vậy nếu chúng tiếp tục có con trai, chứng rối loạn đông máu sẽ được xóa sổ khỏi thế hệ tương lai của gia đình. Carlos nhấc vợ khỏi ghế và xoay tròn bà quanh văn phòng nhỏ của Meredith. Tất cả những nhà đạo đức học luôn sợ hãi về hậu quả khi tác động lên gene đúng là nên chứng kiến những khoảnh khắc thế này. Trên bàn làm việc của Meredith là hai bức ảnh - một bức ảnh của Lucy và bức ảnh kia là bệnh nhân đầu tiên của cô, một người phụ nữ mắc bệnh xơ nang đang ôm con trai cười rạng rỡ. Nhờ có Meredith, con cô ấy sinh ra không mang căn bệnh đó. Bà De la Corria ngồi xuống ghế một lần nữa, vẫn chưa hít thở được bình thường. “Còn phôi nữ?” bà nhẹ giọng thắc mắc. “Phôi thai thứ 3 có nguy cơ truyền bệnh cho đời sau. Tôi rất tiếc,” Meredith trả lời. Ông Carlos siết tay vợ. “Vậy thì,” ông nói với vẻ lạc quan. “Có vẻ như chúng tôi sắp có hai cậu con trai sinh đôi.” Vẫn còn nhiều trở ngại cần vượt qua, và có khả năng phôi thai không phát triển được tới cùng - Nhưng Meredith đã hoàn thành trách nhiệm. Kể từ lúc này, những bác sĩ khác tại Viện Nghiên Cứu Generra sẽ đảm nhận việc cấy phôi cho người mẹ. Meredith đáp lại lời cảm ơn của vợ chồng nhà De la Corria rồi in ra lịch khám của mình. Còn hai ca hội chẩn khác, sau đó cô sẽ có nguyên buổi chiều làm việc trong phòng thí nghiệm. Meredith đeo kính đọc sách - vì chẳng muốn phô trương nên cô vẫn nhét kính trong túi - rồi kéo cây bút gài mớ tóc xoăn của mình. Mái tóc vàng hoe xoăn tít phủ ngang vai như có cá tính riêng nên lúc nào cũng lộn xộn. Đây đúng là trò đùa của Chúa dành cho Meredith Oliver, một người thích kiểm soát mọi thứ. Cô xoa tay lên mặt, dụi dụi đôi mắt nâu đỏ ngầu. “Tối nay,” cô tự nói thành tiếng với chính mình, “Tôi sẽ không làm việc nữa. Tôi sẽ về nhà, tắm nước nóng, và đọc cho Lucy nghe một bài gì đó không phải trích từ tạp chí Lý thuyết di truyền? Cô tự hỏi nếu nói thành lời thay vì nghĩ trong đầu chẳng biết có quyết tâm thực hiện hơn hay không. “Bác sĩ Oliver?” Tiếng gõ cửa vang lên, rồi cô thư ký xuất hiện. “Gia đình nhà De la Corria đã ký giấy xác nhận.” Không cần nhìn, Meredith cũng biết đây là cái gì - Giấy xác nhận để Viện Nghiên Cứu Generra loại bỏ phôi thứ ba của họ, phôi nữ. “Họ lẽ ra nên đợi đến khi cấy ghép xong, vẫn có khả năng không cấy được phôi, và sau đó…” Giọng cô nhỏ dần. Chuyện này cũng chẳng thay đổi được gì. Gia đình De La Corria thà không có con còn hơn sử dụng phôi thai bé gái này. Đứa con của họ vẫn có khả năng không di truyền chứng rối loạn đông máu… vẫn có khả năng cô bé sở hữu mái tóc bóng mượt của mẹ và đôi mắt màu hạt dẻ của cha sẽ lớn lên khỏe mạnh. Nhưng vì mang nguy cơ di truyền bệnh cho đời sau nên cha mẹ thà rằng không sinh ra bé thì hơn. Meredith ký vào giấy xác nhận rồi đặt sang một bên. “Vợ chồng nhà Albertsons đến rồi,” cô thư ký thông báo. “Chờ tôi một phút.” Ngay khi cánh cửa đóng lại, Meredith nhấc điện thoại gọi về nhà. Cô tưởng tượng ra cảnh con gái đang ngồi trên bàn ăn tập viết những từ bắt đầu bằng chữ U hay chữ V. Hai bím tóc xoăn xõa xuống lưng cô bé như mô hình hệ gene con người. Lucy nhấc máy. “Ai đấy ạ?” “Chào con, Cọng Mì Bé Bỏng.” “Mẹ! Mẹ đang ở đâu vậy?” “Mẹ đang ở trên sao Mộc. Còn con?” “Ở sa mạc Calamari.” Meredith mỉm cười. “Phải là Kalahari chứ.” “Khi nào mẹ về nhà thế?” “Sớm thôi con.” Bỗng dưng cô bé im lặng. “Trước khi trời tối được không mẹ?” Meredith nhắm mắt. “Mẹ sẽ về ăn tối,” cô hứa. “Nói với bà Ruby đi. Và không được ăn thêm bánh Oreo cho tới khi mẹ về nhà nhé.” Lucy nấc một cái. “Làm thế nào mà mẹ biết con đang…” “Bởi vì mẹ là mẹ của con. Yêu con.” Meredith gác máy, sau đó xoắn tóc cao lên đỉnh đầu. Cô mò mẫm tìm một sợi dây thun trong ngăn kéo, nhưng chỉ thấy mấy chiếc kẹp giấy có tác dụng như kẹp ghim. Mắt cô liếc qua giấy xác nhận của vợ chồng De la Corria đã ký. Trong cơn bốc đồng, Meredith nhét tờ giấy vào ngăn kéo dưới bàn làm việc. Tạm thời cô sẽ coi như tờ giấy này bị thất lạc, phòng khi có gì ngoài ý muốn. Meredith nhấn nút điện thoại nội bộ. Một khắc sau cánh cửa mở ra và vợ chồng nhà Albertson xuất hiện. Như hầu hết các cặp vợ chồng lần đầu tiên đến văn phòng của cô, hai người trông vừa chán nản vừa kiệt quệ. Meredith chìa tay ra, nói dứt khoát. “Tôi là bác sĩ Oliver. Tôi đã đọc qua trường hợp của hai vị. Và tôi có thể giúp.” Az biết trong trường hợp khẩn cấp, ông còn chẳng đuổi được một con sóc ra khỏi mỏ đá Angel, huống hồ là một kẻ đột nhập có vũ trang. Mấy ông chủ giữ Az lại làm bảo vệ chỉ vì lòng trắc ẩn hay thương hại, hoặc có lẽ vì ông chỉ lấy phân nửa tiền lương. May mắn thay, chỉ có một con đường dẫn đến khu mỏ, mà thật ra Az cũng chẳng buồn quan tâm đến chuyện đó. Ông ngồi trong căn lều nhỏ thắp đèn tại văn phòng khu mỏ. Thay vì phải theo dõi ba màn hình giám sát khắp nơi, ông lại dán mắt vào màn hình thứ tư đang chiếu trận đấu của đội tuyển bóng chày Red Sox. “Hả,” ông Az khịt mũi liên tục. “Người ta trả cho mấy đứa mười một triệu đô la một năm chỉ để vậy thôi sao?” Nơi này là một trong những mỏ đá granite ở bang Vermont. Vân đá in đậm vào vách núi như những nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt Az. Hồi trước, người ta khoan đá bằng cách thủ công, cho nổ tung rồi nghiền đá để xuất khẩu. Ngày nay hầu hết mọi công đoạn đều do máy móc điều khiển. Lúc làm việc một mình ban đêm, Az chưa từng thấy bóng dáng ai khác, dù giữa giờ làm cao điểm thì chỗ này cũng vắng ngắt như vậy. Đôi khi Az tự hỏi có phải mình là người duy nhất được thuê làm việc ở đây. Suốt ba mươi năm làm việc ở mỏ đá, ông chỉ trình lên hai bản báo cáo an ninh. Một bản liên quan tới cơn bão sét kích nổ một chỗ vốn dự kiến sẽ cho nổ vào ngày hôm sau. Bản thứ hai là về một người đàn ông muốn tự tử. Ông ta cố tình trèo lên bức tường bảo vệ rồi nhảy xuống đống đá nhọn bên dưới. Người đàn ông ngốc nghếch này bị gãy hai chân, rồi hồi phục và thành lập một công ty mạng. Ông Az thích làm việc một mình vào ban đêm. Nếu im lặng khi đi tuần xung quanh, ông có thể nghe thấy tiếng nụ hoa nở; ngửi thấy hương vị lúc giao mùa. Thỉnh thoảng ông còn nằm ngửa, gối đầu lên hai tay để ngắm những vì sao tự biến đổi thành những chòm sao tái hiện lại đời mình - chòm sao hình bò tót giận dữ, chòm sao cán cân công lý bị lệch, chòm sao sinh đôi đáng yêu mà ông đã đánh mất nhiều năm về trước. Ông tự hỏi điều gì đang diễn ra tại khu Otter Creek Pass này. Tuần vừa rồi, Rod van Vleet đến thẩm tra khu đất, sự kháng nghị của bộ tộc Abenaki trở nên căng thẳng, lôi kéo sự chú ý của dư luận. Có ích nhất là chuyện tên sâu rượu Abbott Thule của thị trấn tỉnh dậy vào buổi sáng với mái tóc thẳng trở nên xoăn tít. Gã ta đành phải dành cả ngày trong nhà thờ kể lể với Chúa và đổ tội cho ma quỷ vì việc xui xẻo của mình. Tin đồn lan khắp Comtosook như đám cánh hoa hồng lác đác rơi lên dãy xe đỗ tại cửa hàng Dairy Twirl và làm tắc ống cống phòng tắm ngoài trời của hồ bơi thị trấn. Nếu Rod van Vleet có chút đầu óc thì gã ta sẽ biết tranh thủ đêm khuya mà đưa mớ thiết bị xây dựng vào khu đất, khi đám thổ dân đang ngáy khò khò trong lều ở phía xa. May mắn là tên cầm đầu của tập đoàn Redhook đúng thiểu năng. Xét tới cuộc chống đối vô tổ chức của bộ tộc Abenaki thì hai phe đang ở vị thế cân bằng. Một con côn trùng phát sáng nhỏ xíu vụt qua mắt Az. Nhưng ông nhận ra đấy không phải là một con bọ mà là một đốm sáng trên màn hình quan sát tối đen như mực hướng đến bờ tường phía Bắc. Một cơn hưng phấn rùng cả hai vai của Az - Phải mất một lúc ông mới hiểu vì sao mình lại phấn khích đến thế. Az chỉnh lại chiếc mũ trên đầu rồi hướng về nơi phát ra đốm sáng. Dấu vết của tuổi già rơi rụng theo từng bước chân, khiến ông mạnh mẽ tiến tới với dáng đi thẳng tắp như cây sồi lao về phía bầu trời. Ross không biết nên trách ai nhiều hơn: Ethan đã gieo hạt giống tò mò vào đầu anh, hay do chính anh quá để tâm. Cậu cháu nói khu mỏ Angel bị ma ám, mọi người đều nói thế. Ross rảo bước dọc theo đường mòn đến khi thấy tóc gáy dựng đứng. Vậy anh sẽ bắt đầu điều tra từ nơi này. Bài học từ nhóm Warburton là không được sử dụng đèn pin. Chính quyền thường mặc kệ những người săn ma, nhưng đột nhập đất riêng vẫn là trái phép. Nếu muốn thăm dò nghĩa trang, phải biết cho xe đi thụt lùi và không bật đèn pha để nhanh chóng chạy trốn lúc cần. Nếu lẻn vào đất tư nhân thì càng phải làm mọi cách để tránh gây chú ý. Nỗi nhớ nhung về Aimee lúc chiều làm Ross muốn thử một lần cuối cùng, dù đã tuyên bố bỏ nghề. Vậy nên anh đi từ hồ Champlain đến Burlington, tìm tới cửa hàng điện tử hạ giá để mua một cái máy quay phim hồng ngoại mới toanh. Khi Shelby dọn bữa tối lên bàn, anh bảo với chị gái rằng tối nay mình có hẹn. “Thật sao?” Nụ cười rạng rỡ của Shelby mức khiến Ross cảm thấy chói mắt. “Ai thế?” “Không phải chuyện của chị.” “Ross,” Shelby đáp lại, “đây đúng là chuyện em cần.” Ross không thích nói dối Shelby. Ross ghét cách chị ấy với tay qua kính xe chỉnh lại cổ áo cho anh rồi nói rằng cửa sẽ để mở đến lúc anh trở về. Lúc này, khi Shelby đang tò mò rốt cuộc Ross đang hẹn hò với ai thì anh đang đặt đèn pin lên tảng đá, bắt tay lắp đặt đế ba chân cho máy quay phim. “Mình không cố ý đến tìm cái gì hết,” Ross nhìn qua ống ngắm và thì thầm. Anh do dự rồi lại tự nhủ. Anh đã bỏ nghề rồi. Anh không tin vào ma quỷ nữa, không còn nữa. Nhưng nếu cái gì đó xuất hiện bây giờ thì sao? Nếu anh lập tức bỏ đi mà không tìm hiểu cặn kẽ thì sao? Nếu Ethan nói đúng về chuyện có ai đó bị giết tại mỏ đá - thì chắc sẽ có một linh hồn không yên nghỉ quanh quẩn đâu đây. Nếu hồn ma không chịu lên thiên đường hay cõi nào khác vì có chuyện chưa hoàn thành - kiểu như những người chết tức tưởi hoặc tự tử mà không để lại lời nhắn nào. Cũng có thể họ ở lại vì không muốn xa rời người mình yêu. Ross biết nếu gặp may thì anh có thể bắt được một hay hai luồng sáng gì đó vụt qua. Anh có thể thu được vài hiện tượng giọng nói điện tử. Và nếu có bằng chứng về hiện tượng tâm linh ở khu mỏ này, thì Aimee chắc cũng đang quanh quẩn đâu đó. Mặc cho cảm giác dẫn dắt, Ross hướng máy quay vào một chỗ trong khu mỏ mà anh không tài nào rời mắt khỏi, dù chẳng biết có vụ giết người nào từng xảy ra hay không. Anh đổi qua cuộn phim mới, kiểm tra pin rồi ngồi xuống đợi. Đột nhiên anh lóa mắt trước ánh đèn pha. “Cho tôi giải thích,” anh thốt lên. Nhưng dù muốn nói gì thì Ross cũng cứng họng khi nhận ra mình đang đối mặt với một người tiền sử trong bộ đồng phục bảo vệ cũ kỹ; một người đàn ông với ánh mắt chứa chất đủ thăng trầm dâu bể, đến nổi Ross chắc chắn mình đang gặp một bóng ma. “Ông là ai?” anh lắp bắp. Dáng điệu lóng ngóng như chưa bao giờ thấy một người thổ dân nào của Ross khiến Az tức giận. “Cậu đột nhập trái phép,” Az gầm gừ. “Vùng đất này từng là của ông sao?” Chúa Jesus thân mến, thế là hai người bắt đầu tán gẫu về những người thổ dân bị treo trên cây xương rồng peyote. Az trông hom hem già nua trong bộ đồng phục đã mặc suốt hai mươi lăm năm, dù sao thì… Anh chàng này có vẻ bình thường với mái tóc dài đen nhánh đặc trưng của dòng máu tộc Abenaki. Chỉ thế thôi cũng đủ khiến Az mềm lòng. “Nghe này, tôi nói cho cậu biết. Cậu cứ thu dọn tất cả những gì đang làm và rời khỏi đây đi, tôi sẽ không kể với ai về việc bắt quả tang cậu đâu.” Ross gật đầu rồi tiến lại gần, định chạm vào Az. Giật mình, Az lùi ra sau và rút dùi cui ra. “Làm ơn! Tôi chỉ… tôi chỉ muốn hỏi ông vài câu thôi.” Chúa ơi. Nếu cứ kiểu này thì Az sắp bỏ lỡ cả hiệp đấu thứ mười bảy mất. “Ông sống ở đây sao?” “Không, và tôi cũng không sống trong lều thổ dân, nếu đó là câu hỏi tiếp theo.” Az chộp tay anh. “Giờ thì tắt cái thứ đó đi và…” “Ông có thể chạm vào tôi sao…?” “Tôi còn có thể đánh cho cậu ra bã nữa nếu cậu còn tiếp tục hành động như thế,” Az càu nhàu. “Đội Red Sox đang hòa với đội Yankee nên phải nhanh lên.” Gương mặt kẻ đột nhập héo đi thấy rõ. Lúc ngồi bên giường bệnh của bạn mình, Az từng thấy vẻ mặt ấy, cứ như sinh khí của cậu ta bỗng vụt tắt. “Đội Red Sox sao,” anh ta lẩm bẩm. “Vậy ông không phải ma rồi.” “Tôi có thể đã già nhưng tôi chắc rằng mình chưa chết.” “Tôi cứ nghĩ ông là…” Anh lắc đầu và vươn tay ra. “Tôi là Ross Wakeman.” “Cậu đúng là đồ điên, điên nặng rồi.” “Tôi cũng nghĩ vậy.” Ross vuốt tóc. “Tôi là một người nghiên cứu về các hiện tượng tâm linh. À, đúng ra khi trước có làm.” Az nhún vai. “Cậu từng tìm được gì chưa?” Ross khựng lại. “Vậy ở đây có gì để tìm không?” “Chưa từng thấy gì khác ngoài tôi ra. Dù sao thì ở đây cũng chẳng có gì.” “Vậy ông biết chỗ nào khác sao?” Az lảng tránh câu hỏi. “Cậu không được đến đây. Đất sở hữu tư nhân.” Ross vờ bận rộn lau chùi thiết bị nhằm tranh thủ chút thời gian. “Tôi nghe kể nhiều năm trước ở đây có vụ giết người.” “Người ta đồn thế thôi.” “Ông biết chuyện gì xảy ra không?” Az nhìn vào đường hầm của khu mỏ. “Chuyện này xảy ra trước khi tôi làm bảo vệ.” “Được rồi.” Ross nhấc túi đựng máy quay lên và đeo lên vai. “Xin lỗi về việc… nhận nhầm kia.” “Không có gì đâu.” Az tiễn chàng trai trẻ ra ngoài. Khi Ross đến chỗ đậu xe, Az vòng tay qua khung cửa bằng gang. “Cậu Wakeman,” ông gọi. “Những hồn ma cậu đang tìm đó? Không cách cậu quá xa đâu.” Ông quay lại phòng bảo vệ, bỏ mặc Ross bối rối nên xem đó là một lời hứa hẹn hay là đe dọa. • • • Vài tuần sau, cư dân thị trấn Comtosook cũng dần tin mấy chuyện quái lạ là có thật. Mấy bà mẹ sau khi ngủ dậy không tài nào gọi được tên con mình vì cổ họng tắc nghẹn. Vài doanh nhân soi gương mà không nhận ra được khuôn mặt mình. Còn có mấy cặp tình nhân trẻ tuổi hay đậu xe tại công viên Point để xoắn xuýt lấy nhau, thì thầm những lời thề thốt cháy bỏng, nhận ra từng câu chữ ấy nhanh chóng vỡ tan như bong bóng xà phòng. Shelby Wakeman thấy bọ rùa bám đầy mấy ô cửa sổ hướng ra phía bắc. Rod van Vleet không lái nổi xe của công ty quá một phần tư dặm đường vì hương quả mọng ùa vào khe thông gió làm không khí bên trong chiếc xe Taurus phát ngấy và đặc quánh như mứt. Ông Spencer Pike thò tay xuống gối đầu và phát hiện 3 quả trứng chim cổ đỏ màu xanh da trời. Ethan giờ đã khá hiểu bệnh mình, tự nhiên thấy mình với tay bắt những tia nắng. Đám mèo lũ lượt lẻn khỏi nhà và chạy ra sông tắm. Mực nước hồ Champain lên xuống hai lần một ngày như bị ảnh hưởng bởi thủy triều. Giàn hồng rụng sạch hoa, lá mọc thành một tầng dày lộn xộn. Các món trong bữa tối còn chẳng có vị bình thường. Mặc dù thời tiết tháng Tám vẫn ôn hòa, khu đất đang tranh chấp trên đường Otter Creek Pass lại đóng băng cứng ngắc, khiến cho công tác đào móng trở nên bất khả thi xét về mặt vật chất lẫn tâm linh. “Cậu nghĩ gì về chuyện này?” Winks Cáo Già thì thào thắc mắc lúc di chuyển dàn trống qua trái vài tấc. Mặt đất chỗ họ đang ngồi đều đóng băng. Nhưng trên đó, hoa bồ công anh vẫn nở. Xứ New Zealand từng ghi nhận hiện tượng mặt đất đóng băng suốt mùa hè. Vào năm 1794, Niên giám Nông nghiệp dự đoán có sương giá vào tháng Bảy vì lỗi in ấn. Vậy mà chuyện đó lại trở thành sự thật khi núi lửa Vesuvius phun trào. Khói bụi bay vào bầu khí quyển tạo nên mùa đông bất thường. Cứ vài năm sương giá sẽ lan tới bang Vermont, làm nhiệt động giảm xuống dưới mức đóng băng, khiến trái cây chết héo trên cành. Nhưng thiệt hại đều xảy ra trên diện rộng toàn thị trấn chứ không chỉ ở một khu đất nhỏ. “Anh nhớ những câu truyện về Azeban chứ?” Winks hỏi. “Mấy chuyện nghe hồi nhỏ? Tôi cứ nghĩ tới mãi.” “Azeban?” Charlie Béo hỏi lại. “Cái con gấu mèo lừa đảo ấy à?” “Ờ.” Winks gật gù. “Nhớ lúc nó ta bẫy người khác nhưng tự dính vào bẫy không? Có lần nó lén đi dập mất đống lửa mà Cáo đang ngủ kề bên, rồi chính đuôi nó bắt lửa.” “Bây giờ mà có đống lửa thật thì tốt quá, thật đấy, ngay bây giờ…” “Không, Charlie,” giọng ông Az vang lên từ phía sau. “ý của Winks là nếu cậu làm chuyện xấu với người khác, thì ác giả ác báo đấy.” Ông nhìn mấy người bạn chọn chỗ ngồi rồi cầm dùi trống lên. Họ thường giết thời gian kiểu vậy, cùng hòa giọng thành một giai điệu mạnh mẽ và dai dẳng. Nếu không nghe bài hát bằng tiếng mẹ đẻ mà họ mãi không quên dù thế nào, thì chẳng ai biết được những người này thuộc bộ lạc Abenaki. Họ đã học rất tốt từ những bài học của quá khứ, tổ tiên của họ phải thông hôn để có tên họ gốc Âu và diện mạo của dân da trắng. Winks có mái tóc vàng còn làn da của Charlie Béo thì trắng như người Ireland. “Ông nghĩ sẽ có chuyện nghiêm trọng hơn thế nữa không?” Winks thắc mắc. “Ý tôi là mấy chuyện quái lạ cứ tiếp diễn mãi.” Winks chẳng cần phải giải thích vì ai cũng biết ngoài chuyện mặt đất đóng băng thì còn có chuyện đám ve sầu làm nghẽn máy xúc đất, khiến ông chủ hãng vận tải phải dùng máy hút bụi để tống khứ bọn chúng. “Dân thị trấn đồn rằng nếu dân da đỏ không đuổi được tập đoàn Redhook ra khỏi khu đất thì các hồn ma sẽ ra tay,” Charlie Béo bổ sung. “Nếu mộ của tôi bị máy ủi xúc lên thì tôi cũng điên tiết. Hừ, không biết chừng cũng sẽ hiện về nổi cơn thịnh nộ ấy chứ.” Winks khịt mũi. “Ông thấy thằng cha chuyên gia khảo cổ chứ? Mỗi khi cho rằng người ta chẳng thèm lắng nghe là gã ta sẽ nhắc đến “cha ông chúng ta”. Chẳng cần biết hồn ma có thật hay không thì cái từ đó cũng dọa cho đám dân thường chết khiếp rồi.” “Không có thật sao? Hồn ma cụ tổ có viếng thăm tôi vào hè năm ngoái đấy,” Charlie Béo phản bác. “Ông cũng từng thấy ma rồi, đúng không Az?” “Những người đã siêu thoát rất khác với những linh hồn còn kẹt lại,” Az trả lời. Ông cầm dao vót nhọn một nhánh cây. “Ở quê tôi có một cô gái bị cha mẹ ngăn không cho phép cưới người cô ấy yêu. Vì thế cô ấy treo cổ lên cây sồi trên đỉnh đồi. Sau khi chôn cất cô ấy, anh bạn trai cũng đến chỗ cây sồi treo cổ tự tử. Nếu một người thổ dân treo cổ thì linh hồn không thể bay lên trời mà sẽ mắc kẹt trong cái xác.” Ông gại thử đầu nhọn của nhánh cây. “Sau khi họ chết, vào ban đêm thường có hai ngọn lửa màu xanh xuất hiện trên đỉnh đồi.” Winks chồm người về phía trước, khuỷu tay đặt lên đầu gối. “Có ai từng đến đó chưa?” Az vẫn tiếp tục gọt nhánh cây bằng con dao. Cảm nhận được Rod van Vleet đang ra sức giả vờ như không nghe thấy gì, ông đáp: “Chẳng có ai dại dột đi thử cả.” • • • “Ethan?” Đang núp ngay dưới rèm cửa sổ, Ethan sững người khi nghe tiếng mẹ gọi. Cậu bé lùi xa khỏi ô cửa sổ ấm áp rồi quẳng cặp kính râm của mình vào kẽ hở giữa giường ngủ và bước tường. Ethan cất tiếng khi mẹ cậu bé mở cửa phòng ngủ, “Chào mẹ.” Đôi mắt diều hâu của Shelby nhìn chằm chằm vào cái chăn nhàu nhĩ, cái mũ trên đầu Ethan, rồi liếc qua tấm rèm khép kín. Cô tiến lại gần cậu nhóc, nheo mắt và chỉnh lại ống tay áo sơ mi hụt một khúc so với cổ tay. “Mẹ sắp đi làm,” cô thông báo. “Lẽ ra con phải ngủ rồi chứ.” “Con không thấy mệt mà,” Ethan phân bua. Nhưng cậu nhóc biết mẹ mình rất mệt. Thức cùng cậu cả đêm mà còn làm việc bán thời gian ở thư viện vào ban ngày còn gì? “Mẹ ơi,” cậu nhóc hỏi, “Mẹ có mệt không?” “Lúc nào cũng mệt,” cô đáp rồi hôn tạm biệt cậu. Cậu nhóc đợi đến khi nghe thấy tiếng bước chân mẹ vọng ra từ sàn bếp. Mẹ và cậu Ross cứ đối đáp chan chát với nhau mỗi khi tranh luận về chuyện Ethan có thể thức đến mấy giờ và phải làm gì lúc khẩn cấp. Ethan với tay vào khe hở bên giường để tìm cặp kính râm gọng bạc. Cậu chỉnh mũ lưỡi trai sụp xuống lông mày, rồi nhấc rèm cửa và cuộn mình như chú mèo con ngồi bên bậc cửa sổ. Chỉ sau ít phút vài vết bỏng xuất trên lớp da tái nhợt, lại thêm vài đốm ửng đỏ trên mặt nhưng Ethan không quan tâm. Cậu nhóc tình nguyện chịu thêm vài vết sẹo nếu đó là thứ cần thiết để chứng tỏ mình là một phần của thế giới này. Mấy nhà nghiên cứu đến từ CRREL hay còn gọi là Đội Kỹ sư Quân Đội đã chạy xe từ Hanover, New Hampshire đến thị trấn Comtosook và cả ngày hôm đó khoan xuyên qua lớp đất đóng băng cứng như đá để thu thập mẫu vật. Bọn họ chỉ giải thích qua loa với Rod van Vleet rằng họ đến đây đơn thuần vì sự tò mò học thuật, rằng băng đá ảnh hưởng đến giao thông thế nào… nhưng không giải thích tại sao hoặc làm thế nào mà băng đá xuất hiện ngay thời điểm này, tại đây. Một gã đến từ Viện Nghiên Cứu Địa Cực Scott cho rằng chỗ này giống như đất đóng băng vĩnh cửu, một hiện tượng khí hậu xảy ra khi nhiệt độ mặt đất dưới mức đóng băng từ hai năm trở lên. Chẳng đúng gì với tình hình thực tế ở đây, vậy mà gã ta cứ thao thao bất tuyệt về hố băng, băng trôi, gò băng và còn dạy đời Rod rằng rất lâu về trước, cả vùng Burlington và khu vực lân cận đều bị băng bao phủ. Một nhóm nghiên cứu từ Đan Mạch đã liên lạc để hỏi việc vùng đất đột ngột đóng băng có ảnh hưởng tới tính chất hóa học của không khí và liệu Rod có cân nhắc bán khu đất lại cho mục đích nghiên cứu hay không? Tuy nhiên cả đám khoa học gia đó không một ai có thể giải thích được cơn thèm thuồng kỳ lạ - Cứ đặt chân đến Comtosook là bọn họ đột nhiên thèm ăn chuối sấy giòn, hoa violet tẩm đường và bánh pudding nhà làm vỏ mềm tan. Họ cũng không thể lý giải cảm giác cô đơn như đường dây điện thoại chùng xuống dưới sức nặng của con quạ. Bọn họ chỉ biết phán rằng thường ở những vùng khí hậu quá rét lạnh, người ta cũng khó lòng giao lưu với nhau hơn. Ngay khi họ quay lại phòng thí nghiêm và văn phòng, lấy các mẫu vật ra, phủi sạch mớ cánh hoa đọng trên ống nghiệm và bình giữ lạnh thì những lời đồn đại cũng bị lãng quên. Cũng như cư dân thị trấn Comtosook, bọn họ đã hiểu được một điều: Thế giới là nơi những thứ bất thường chỉ tồn tại cách những thứ bình thường một lằn ranh mỏng manh; dù môi trường có khắc nghiệt với con người đến đâu, nhiều sinh vật khác vẫn sinh sôi nảy nở. Thư viện công cộng trong thị trấn Comtosook thường chẳng có mấy độc giả. Đây đúng là một điều may mắn, bởi dãy phòng nhỏ xíu nối tiếp nhau như chuỗi ngọc trai có vẻ hợp làm nhà nghỉ đồng quê hơn là nơi lưu trữ văn thư. Thời điểm đông khách nhất là vào sáng thứ Năm hàng tuần, khi chừng ba mươi học sinh mẫu giáo đến nghe kể chuyện trong hai phòng nhỏ thuộc khu vực trẻ em. Mấy cô thủ thư phải chạy qua lại giữa các phòng với cuốn sách mở rộng trên tay để chỉ cho bọn trẻ xem. Một dãy kệ sách nằm trong góc, tràn ra đến giữa phòng, quay ngang quay dọc nếu cần, để chứa cho đủ sách vở trong không gian nhỏ hẹp này. Vào buổi sáng các ngày trong tuần, Shelby là nhân viên hỗ trợ tìm sách. Công việc của cô cần sự am hiểu không chỉ về hệ thống phân loại Dewey và những công cụ tìm kiếm khác nhau trên máy tính mà còn phải nắm rõ vị trí sách trên kệ. Nhưng hầu hết thời gian Shelby rảnh rỗi làm gì tùy thích, ví dụ như nghiên cứu từ ngữ. Shelby yêu ngôn ngữ như những người sành ẩm thực yêu thức ăn - Mỗi âm tiết là miếng ngon để cuốn vào trong cổ họng mà nhâm nhi thưởng thức. Thỉnh thoảng cô cầm quyển từ điển và hào hứng lần dò từng mục từ như người ta đọc truyện trinh thám. Griseous: lốm đốm. Kloof: hẻm núi. Nidicolous: (chim non) Được nuôi một thời gian trong tổ. Cô tưởng tượng một ngày nào đó mình được nhận một cuộc gọi từ Meredith Vieira trong chương trình Ai Là Triệu Phú, hay từ chương trình quà tặng âm nhạc trên radio thông báo sẽ tặng cô một món quà may mắn nếu biết nghĩa của một từ kỳ quái. “Pilose à?” Cô lặp lại và vờ như không biết để tạo không khí hồi hộp. “nghĩa là phủ đầy lông tơ.” Sau bốn năm đại học và hai năm cao học, cô đủ thông minh để hiểu rằng cách mình sử dụng ngôn ngữ giống như dân miền biển xài túi cát: tự tạo ra bức tường ngăn cách giữa cô và phần còn lại của thế giới. Cô biết mình có thể học hết cả cuốn từ điển nhưng vẫn không giải thích được vì sao đời mình lại thành ra thế này. Cô lo lắng hết cho Ethan rồi đến Ross. Cô tất bận quan tâm tới thế giới trước mắt đến mức không để ý đến chuyện dường như chẳng ai xung quanh buồn quan tâm tới cô cả. Thư viện vắng hoe vì mấy độc giả quen thuộc mấy hôm nay không lòng dạ nào mà liều ra đường trong khi bao nhiêu chuyện kỳ quái xảy ra ngay trước mắt. Nhưng với Shelby, mấy chuyện quái dị gần đây chỉ đồng nghĩa với việc cô phải quét dọn mớ cánh hoa trên bậc thang dẫn vào thư viện; cô chẳng hề lo lắng về Ngày Phán Xét sắp xảy ra, hiện tượng nóng lên toàn cầu hoặc hồn ma xuất hiện theo như tin đồn của dân trong trấn. Với một phụ nữ vun đắp được mái ấm trên nền móng khác thường thì những chuyện xảy ra gần đây chẳng đáng quan tâm tí nào. Shelby ngước lên khi cửa cót két mở ra. Một người đàn ông lạ mặt bước vào, trên người là bộ com-lê đắt tiền mà cô tin chắc rằng không có cửa tiệm nào trong bán kính năm mươi dặm quanh đây có bán cả. Tuy nhiên, có gì đó… khác thường. Cà vạt của lệch qua bên trái còn làn da thì trắng bệch như Ethan. Anh ta quét mắt một vòng từ sàn thư viện dốc kỳ cục đến mấy góc tường đây đó, rồi lướt qua dãy bách khoa toàn thư. “Đây là thư viện sao?” “Đúng vậy. Tôi có thể giúp gì được cho anh?” Ánh mắt anh đảo quanh như chim, rồi dừng lại chỗ Shelby. “Cô có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây hả?” Rhabdomancy, đó là từ mà Shelby nghĩ tới. Từ đó có nghĩa là thuật dò tìm mạch nước bằng que. “Còn tùy. Thế anh muốn tìm cái gì?” “Nghĩa trang của thổ dân da đỏ. Chuyện gì đã xảy ra khi có người xây nhà trên đó. Những tiền lệ mang tính pháp lý. Đại loại thế.” “Anh chắc là nhân viên quy hoạch rồi,” Shelby đoán. Cô dẫn anh ra phía sau, tới quầy vi phim đặt sau cái kệ thấp chứa sách dạy nấu ăn. “Khoảng một năm trước, ở vùng Swanton có tranh chấp xảy ra đấy. Chắc là anh muốn thử tìm đọc từ vụ đó trước.” “Cô không nhớ kết quả thế nào đúng không?” “Chính quyền mua lại khu đất đó.” “Ôi, tuyệt. Tuyệt cú mèo.” Anh thở hắt, uể oải ngả người lên ghế. “Vậy hóa ra khu đất ở Swanton đó cũng bị nguyền rủa à?” “Xin lỗi?” Anh ta có vẻ uất ức đến mức không nói nên lời mất một lúc. “Đám thổ dân đó, họ đã làm gì… chắc chỉ biết gọi hồn tổ tiên đã mất? Lại còn giở đủ trò để tống cổ chúng tôi ra khỏi thị trấn nữa sao?” Shelby khẽ cắn móng tay. “Chúng tôi muốn xây dựng một trung tâm thương mại, thề có Chúa. Tôi đã lấy được chữ ký của chủ đất trên giấy tờ rõ ràng và hợp lệ. Tôi đã chi hơn năm mươi ngàn đô la để khởi công. Tôi đã làm hết mọi thủ tục đúng luật, đổi lại nhận được chuyện nhiệt độ giảm xuống dưới không độ mà chẳng biết nguyên nhân vì sao; lại còn tiếng gào thét giữa đêm khuya. Tôi phải cho nhân công nghỉ việc. Chúa ơi… Sáng nay, tôi bị người ta đẩy một cái nhưng khi quay lại thì chẳng có ai!” Anh nhìn thẳng vào Shelby. “Tôi không có bị điên. Tôi thực sự không có.” “Tất nhiên là ông không bị điên,” cô thì thào. Người đàn ông vuốt mặt. “Tôi không biết tại sao mình lại phí thời gian đến đây. Cô đâu thể giúp được tôi.” “Đúng vậy,” Shelby trả lời. “nhưng tôi biết người có thể giúp anh.” Ross nằm dài trong phòng khách, chỉnh âm lượng tivi sao cho đứa cháu không thức giấc. Máy quay phim đang nối vào tivi, chiếu đoạn phim ngắn anh quay được tại khu mỏ. Anh dùng điều khiển từ xa dừng băng, tua đi tua lại và chồm ra trước để quan sát thêm lần nữa. Nhưng đốm sáng nhấp nháy tại góc màn hình chỉ do phản chiếu - chẳng có gì bất thường ở đây cả. Anh tắt tivi, ngả người ra sau và nhắm mắt lại. “Đúng là phí thời gian.” “Chán nhỉ?” Shelby bước vào và ném cuốn sổ tay lên ghế dài. “Ethan vẫn ổn.” “Chị đang nói về buổi hẹn hò của em. Em không định kể với chị cô bé ấy là ai sao, hay đây là bí mật quốc gia hử?” “Chị không biết ai đâu mà.” “Thì em cứ kể thử mới biết chứ?” Shelby ngồi xuống. “Máy quay phim gì đây?” Ross lật đật chuyển sang đề tài khác. “Công việc của chị thế nào?” “Thực ra hôm nay chị nghĩ mình tìm được việc cho em rồi.” “Cám ơn bà chị nhưng em không nghĩ làm việc tại thư viện hợp với em. Chị biết không đến Mùa Chay là em kiêng chữ nghĩa đó.” “A. Giờ đâu phải Mùa Chay. B. Cũng không phải là việc ở thư viện.” “Chị còn xếp vần nữa chứ,” Ross cười. Shelby co hẳn chân lên ghế. “Có một ông tên là Rod van Vleet đến thư viện hôm nay. Ông ta làm việc cho công ty đã mua mảnh đất tại khu vực Otter Creek Pass…” “Ở đâu?” “Ồ, chuyện đó không quan trọng. Điều quan trọng là ông ta sợ hãi vì cho rằng khu đất bị ma ám.” Shelby mỉm cười, đắc thắng. “Thử đoán em sẽ làm gì đi.” Ross mím môi. “Vì chuyện tiền nong à? Chị muốn em phải trả tiền thuê nhà…” “Ross, thôi nào. Chị giới thiệu em với ông ta vì nghĩ việc này có thể làm em hứng thú. Từ lúc đến đây em vẫn luôn ủ rũ và chẳng buồn ra khỏi nhà mấy tuần rồi.” “Chị cũng có mấy khi ra khỏi nhà đâu.” “Em biết đây là hai chuyện khác nhau mà.” Ross đứng bật dậy, giật mạnh dây cáp ra khỏi tivi và ném máy quay phim vào túi. “Em không nhận ra chị lại kỳ vọng nhiều đến thế,” anh nói một cách cay đắng. “Em không biết nghỉ xả hơi lại là chuyện sai trái.” “Nghỉ xả hơi à? Em có chắc đó là lý do em đến đây?” Shelby đứng đối mặt với Ross. “Hay là em tới kiếm chỗ để nghỉ thở luôn?” Ross nhìn chằm chằm vào mắt cô gần một phút. “Shel. Việc đó chỉ xảy ra một lần sau khi cô ấy mất thôi.” Shelby nắm lấy cổ tay Ross. Ngón tay cái của cô lướt dọc tay áo của cậu em như đang hồi tưởng chuyện gì đó. “Chỉ một lần sao. Hôm đó chị chỉ vào hỏi em có muốn ăn súp cho bữa trưa không, súp, thế mà lại thấy em máu me đầm đìa.” “Khi đó chị cứ mặc em thì hơn,” Ross khẽ rụt tay lại. “Đi chết đi.” Mắt Shelby ầng ậng nước. “Mỗi khi em đóng cửa phòng tắm chị lại lo em có đang lén uống thuốc ngủ không. Khi em lái xe, chị cũng hoang mang liệu em có đâm sầm vào cái cây nào đó không. Đã bao giờ em nghĩ đến việc mình không phải là người duy nhất từng mất người thân chưa? Aimee đã qua đời. Mà ai rồi cũng chết. Em vẫn còn sống thì phải sống cho ra sống chứ.” Ánh mắt anh trở nên lạnh lùng. “Vài năm nữa, nếu đến lượt Ethan, không biết chị có nghĩ vậy nữa không?” Một tiếng động nhỏ làm hai người quay lại nhìn về phía hành lang, Ethan đã kịp nghe hết và chạy mất. Ethan đang mặc áo len tay dài và quần dài, kèm chiếc mũ bóng chày nhưng mặt và bàn tay cậu để trần. Lúc Ethan chạy đến khu mỏ, chính là chỗ vách đá cao nhất thị trấn đang vươn thẳng về phía bầu trời - tay cậu đã sưng phồng như xúc xích, đỏ chét và nhức nhối theo từng nhịp tim. Có lẽ một chiếc xe tải sẽ tông phải cậu trên đường. Có lẽ cậu sẽ bị nướng giòn, bùng cháy như anh chàng trong cuốn sách Kỷ lục Guinness. Nếu chết đi lúc này thì có gì khác biệt đâu? Những gì Ethan biết được về thị trấn Comtosook đều học được từ bản đồ và mạng Internet. Cậu cũng có ra khỏi nhà, nhưng vào ban ngày mọi thứ trông thật khác lạ. Cậu không dời mắt khỏi những con đường tấp nập xe cộ và dòng người hối hả trên vỉa hè. Ethan không biết bình thường thị trấn phải đông gấp đôi, với cậu bé thì thế giới tràn ngập ánh nắng này vội vã đến ngột ngạt. Ethan biết mình sẽ chết. Cậu đã đến gặp các bác sĩ tâm lý, bác sĩ điều trị và nhân viên xã hội, họ giúp cậu hiểu thêm về chứng bệnh khô da sắc tố. Cậu có thể sống tới năm mươi tuổi, hay chỉ mười lăm tuổi. Tất cả đều phụ thuộc vào tốc độ hủy hoại tế bào. Ethan hiểu cái chết là một trong những điều ít ỏi khiến mình giống với những người khác. Một ngày nào đó, ai rồi cũng chết. Điều khác biệt ở chỗ nếu Ethan muốn ngày đó đến chậm hơn, thì cậu không được phép sống thực sự. Ethan biết chỉ còn vài dãy nhà nữa là đến khu mỏ đá vì vách đá lù lù càng lúc càng to dần. Cậu không biết mình sẽ làm gì khi đến được vách đá. Cởi áo thun ra, mặc cho cơn đau dữ dội khiến cậu ngất lịm. Hay nằm ngửa mặt nhìn trời cho tới khi giác mạc bỏng cháy. Cậu rẽ sang lối vào khu mỏ và khựng lại. Đứng dựa vào mui xe móp méo, tay khoanh trước ngực là cậu Ross. “Sao cậu tìm được cháu?” “Tìm cháu sao? Cậu đến đây trước mà.” Ross nhìn thấy khuôn mặt và các ngón tay cháy nắng của cậu cháu nhưng không nói lời nào mà chỉ đưa áo của mình cho Ethan mặc vào, tay áo dài phủ xuống hai bàn tay chắn tia cực tím. Sau đó anh nheo mắt nhìn trời. “Cậu cho là một cậu nhóc đối mặt với mặt trời thì sẽ chọn chơi chính diện. Đây là nơi cao nhất của thị trấn.” Anh quay về phía Ethan. “Mẹ cháu đang hoảng loạn đấy.” “Mẹ cháu đâu?” “Đang ở nhà chờ phòng trường hợp cháu chạy về đó trước.” Anh mở cửa xe. “Chúng ta kết thúc cuộc trò chuyện trong xe được không?” Một lúc sau Ethan gật đầu. Cậu chui vào trong xe, cởi mũ bóng chày và gãi đầu. “Có thật là cậu từng định tự tử không?” “Đúng vậy.” Ethan cảm thấy cổ họng tắc nghẹn. Cậu Ross là một trong số ít những người đàn ông mà Ethan đã từng tiếp xúc qua và cũng là người bảnh nhất. Cậu từng chơi những trò hay ho như nhảy dù hay leo núi băng. Nếu sống sót đến trưởng thành, Ethan muốn trở thành một người như cậu Ross. Nhưng cậu không thể hiểu tại sao người đàn ông mà mình hâm mộ nhất đời lại một mực muốn chết. “Vì sao cậu làm vậy?” Ross rướn qua người Ethan gõ mạnh lên tấm kính rồi nhấn nút điều khiển hạ cửa kính xuống; Ethan có thể ngửi thấy mùi liễu đắng mọc đều tăm tắp bên đường. “Để cậu có thể đến thế giới bên kia,” Ross giải thích. “Chúa ơi,” Shelby òa khóc rồi chạy xuống đường kéo Ethan ra khỏi xe. Ross ngắm nhìn khoảnh khắc hai mẹ con ôm nhau, chuyện không may rốt cuộc cũng qua đi. Hai mẹ con lảo đảo đưa nhau vào nhà, Shelby ôm con trai chặt cứng như muốn biến cậu nhóc thành một phần cơ thể mình. Ross tựa vào mui xe, tạ ơn Chúa vì linh cảm đi tìm Ethan tại đúng nơi đó. Rosss không dám nghĩ đến hậu quả nếu anh trở về nhà một mình, hay nếu Ethan phải phơi nắng quá lâu. Anh bước vào cửa chính, giật mình khi nhìn thấy một người lạ mặt đứng trước hiên nhà cạnh chị gái mình. “Đây là Rod van Vleet,” chị nói với chất giọng còn giận dỗi. ‘Anh ta ghé qua để trò chuyện với em.” Anh liếc chị gái với ánh mắt âm trầm nhất có thể vì bị đưa vào chuyện đã rồi. Người đàn ông này lùn hơn Ross, mảng hói trên đầu có hình như trái đậu phộng. Anh ta mặc bộ com-lê sang trọng, áo sơ mi hồ cứng phối với cà vạt chỉn chu. “Anh Wakeman,” anh ta mở lời với nụ cười ngập ngừng. “Tôi nghe nói anh là người săn ma.” Chương Ba C hỉ một lần duy nhất, nhưng cảm giác được mọi người chú ý đúng là tuyệt cú mèo. Ethan chẳng hề kêu ca dù phải vác chiếc máy quay phim nặng trịch. Dù sao cậu Ross của nó cũng đang phải khiêng hết tất cả đồ đạc còn lại, từ túi ngủ đến đồ ăn vặt (cậu Ross bảo đi điều tra giám sát phải đúng lệ bộ đàng hoàng, dù những người mà họ muốn điều tra đều đã ngủm củ tỏi). Hai cậu cháu đi ngang qua mấy tay chơi trống, chiếc xe ủi và đám thợ xây. Lúc hai người đi ngang qua, Ethan nhận ra ai cũng khựng lại một lúc. Ánh mắt ông lão thổ dân nhìn như đóng đinh vào gáy cậu bé. Nhưng cái nhìn đó không phải vì ông ta vốn lập dị, mà chỉ vì tò mò trước hai cậu cháu đường hoàng đi ngang khu đất như đi trong đất nhà họ. Ethan dừng chân, nhìn một cậu sinh viên đang sàng cát. Cậu ta chỉ mặc mỗi cái quần cộc, bờ vai và lưng rám nắng. Ethan nhìn xuống ống tay áo dài ngoằng cùng cái quần dài dày cộm của mình và khẽ trề môi sau lớp khẩu trang. “Này đi nào,” Ross quay lại gọi to, khiến Ethan cuống cuồng đuổi theo. Van Vleet sốt sắng chạy đến ngay khi nhìn thấy hai cậu cháu. Đôi giày kiểu doanh nhân thành đạt cứ khiến anh ta trượt chân trên mặt băng trải rộng khắp khu đất như lớp kem bơ quét trên mặt bánh. “Anh Wakeman,” Rod van Vleet lịch sự chào hỏi. “Anh nhớ tôi đã nói chuyện này nên… kín đáo chứ?” “Anh cũng nhớ tôi đã nói tôi sẽ tiến hành điều tra theo cách của mình chứ?” Ross đáp trả rồi quay lưng lại. Anh thận trọng bước lên mấy bậc thang trong căn nhà cũ kỹ. Một bậc thang gãy đôi ngay dưới chân anh. “Cẩn thận đấy,” anh dặn dò Ethan. Căn nhà trông như đang khóc lóc thảm thương, những cánh cửa chớp lặc lìa lủng lẳng trên bản lề như hàng mi dài đẫm lệ. Ethan lùi lại, rướn cổ lên nhìn dãy cầu thang dẫn lên lầu. Cầu thang khi xưa hẳn là màu trắng. Hầu hết cửa sổ đều bị mấy đứa trẻ xung quanh đập vỡ từ lâu. Cây thường xuân quấn quanh khung cửa sổ như bộ ria mép vểnh ngược lốm đốm. “Ethan!” Giật mình bởi tiếng gọi của cậu Ross, Ethan phóng nhanh lên bậc thang nhưng khựng lại ngay lối vào. Thạch cao rụng lả tả từ trần nhà, mặt sàn dày bụi. Giấy hoa văn dán tường in đầy dấu tay và chữ phun sơn: SARI LẲNG LƠ. Dưới cầu thang còn có dấu vết của lửa trại và tầm ba mươi chai bia rỗng. Ethan quét mắt từ ban công đổ nát đến căn phòng tối đen cạnh đó, rồi ngước nhìn lên trần nhà. Cậu thầm nghĩ, ớn lạnh thật. Nhưng thế thì sao. Ethan vươn vai tự nhủ nếu làm tốt chuyện này, cậu có thể được chọn tham gia chương trình Nhân Tố Kinh Dị hay mấy chương trình truyền hình thực tế khác. Cậu có thể xin cậu Ross dẫn mình theo trong những vụ sau. Dù sao thì Ethan chỉ được ra ngoài vào ban đêm. Phải thử mới biết được chứ. Cậu gan dạ hơn bất kỳ đứa bạn nào cậu biết… nhưng thật ra cậu cũng chẳng có mấy người bạn. Cứ thế Ethan tự luyên thuyên với bản thân cho tới khi có một bàn tay chạm vào gáy làm cậu nhảy dựng lên. Kerrigan Klieg là phóng viên của tờ báo New York Times, Anh là tác giả những bài viết kiểu hội chứng ma cà rồng trong lễ Halloween, bản chất hóa học của tình yêu trong lễ Valentine, phỏng vấn cha mẹ của những đứa trẻ sinh vào đúng thời khắc đầu thiên niên kỷ của thành phố này. Nói cách khác, anh thích nhàn hạ. Kerrigan chẳng có tham vọng hay hoài bão để theo dõi những vụ tham nhũng của cảnh sát hay tranh chấp chính trị; những bài viết của anh ta toàn là về thông tin tầm phào đại chúng mặc dù anh chẳng hề thích thú với mấy chủ đề đó. Vậy mà Kerrigan lại thích lang thang nghiên cứu ngoài thực địa, như viếng mộ Mercy Brown tại đảo Rhode để tìm cương thi hoặc đến bệnh viện Johns Hopkins để chứng kiến những nhà khoa học đo lường mối quan hệ giữa nồng độ của melatonin và cảm giác ham muốn tình dục. Kerrigan thích một thế giới khác bên ngoài ốc đảo Manhattan, nơi người ta thực sự bước ra phố và nhìn vào mắt nhau thay vì giả vờ mình đang ở nơi khác hay đóng vai người khác. Những nhân tố ở đây sẽ đảm bảo một bài báo bất bại: ông già da đỏ một trăm tuổi, đám dân thị trấn đang khiếp sợ, tay trùm bất động sản, và một hồn ma giận dữ. Đấy là mới những thứ diễn ra bên rìa của khu đất, chính là phần có căn nhà. Ai mà biết có cái gì ẩn khuất trong mấy mẫu rừng đằng sau? Kerrigan bước đến cạnh ông Az Thompson, người đã gọi cho biên tập viên mục điều tra. Anh tự hỏi làm cách nào một cụ già có thể sống lâu đến vậy. Ông ta ăn sữa chua như quảng cáo của hãng Dannon? Hay tập thiền? Chẳng lẽ là tiêm vitamin B-12? “Người ta đã cướp đi đất đai của chúng tôi mãi mãi,” Thompson nói. “Nhưng nếu chuyện này cứ tiếp diễn, thậm chí khi chúng tôi đã chết rồi, thì đúng là điên tiết.” Kerrigan bước ngang qua một chú chó đang gặm chiếc giày cũ. “Theo tôi được biết thì Spencer Pike, ông chủ đất đã không sống ở đây được một thời gian rồi.” “Không đến hai mươi năm đâu.” “Thế ông có nghĩ từ đầu ông ta đã biết khu đất này là nơi mai táng?” Ông lão dừng lại. “Tôi nghĩ Spencer Pike biết nhiều hơn những thứ mà ông ta tiết lộ.” Giờ thì mọi chuyện thú vị hơn rồi. Kerrigan tính mở miệng hỏi một câu khác thì bị phân tâm bởi người đàn ông và cậu bé đang dạo bên trong khu đất. “Họ là ai vậy?” “Có tin đồn rằng đó là người mà van Vleet thuê,” ông Thompson trả lời. “Để đảm bảo không có ma cỏ gì cả.” Ông quay sang tay phóng viên. “Anh nghĩ sao?” Kerrigan đã quen với việc phỏng vấn chứ không phải bị phỏng vấn. “Đó là toàn bộ yếu tố làm nên một câu chuyện ly kỳ,” anh dè dặt đáp. “Anh đã bao giờ thức giấc vì giấc mơ của người khác? Hoặc mang ủng rồi thấy bên trong đầy tuyết vào tháng Tám? Hay hoa bí thò ra từ lỗ thoát nước trong bồn rửa sau một đêm chưa, anh Klieg?” “Chưa, tôi chưa hề thấy.” Thompson gật gù, “Vậy thì cứ ở đây mà chứng kiến nhé.” Khi Ross đặt tay lên cổ Ethan, cậu nhóc giật thót. “Ethan”, Ross gọi, “cháu không sao đấy chứ?” Ethan vẫn còn run lẩy bẩy. “Vâng. Ồ, chắc mà, cháu hoàn toàn ổn mà.” “Cậu có thể đưa cháu về nhà. Không sao đâu.” Ross nghiêm nghị nhìn Ethan. “Cháu có thể nói với mọi người là chính cậu không cho cháu ở lại.” Đáp lại lời anh, Ethan nắm lấy lan can cầu thang gãy vụn và bắt đầu leo lên. Thở dài một cái, Ross cất bước theo sau. Có lẽ Ethan thực sự muốn đến đây, nhưng anh chả muốn tí nào. Khi van Vleet đề nghị điều tra mấy hiện tượng tâm linh tại khu đất của ông Pike, anh đã từ chối. Nhưng rồi anh thấy ánh mắt trông đợi của chị mình. Anh đặt ra bốn điều kiện. Một, chính anh phải là người phụ trách điều tra và không nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai, bao gồm cả người đứng đầu của Tập đoàn Redhook. Hai, chỉ có anh và trợ lý được phép vào khu đất lúc điều tra. Anh tuyên bố trợ lý không ai khác ngoài Ethan, trước sự ngạc nhiên và mừng rỡ vô hạn của cậu bé. Ba, anh không muốn biết bất kỳ thông tin lịch sử nào của khu đất cho tới khi mình yêu cầu - nếu không, suy luận của anh sẽ bị ảnh hưởng. Bốn, anh không nhận thù lao - không giống như nhóm Warburton vẫn thường vẽ ra cho từng khách hàng một con ma dựa vào mức thù lao. Đổi lại, Ross hứa sẽ giữ “im lặng” về cuộc điều tra này vì mấy sếp nắm quyền tại Tập đoàn Redhook không muốn cả thế giới biết họ tin vào vào hiện tượng tâm linh. Vậy nên anh ở đây, chuẩn bị cho buổi quan sát đêm và đắm mình vào công việc quen thuộc. Ethan đợi ngay trên bậc cao nhất của cầu thang như một chú chó con bắng nhắng. “Đặt máy quay phim xuống,” Ross ra lệnh. “Đi dạo xung quanh xem thử cháu có tìm thấy gì không?” “Tìm thấy gì à? Ví dụ như?” Ross khựng lại suy ngẫm vài phút. Anh phải giải thích cho một đứa nhỏ về cảm giác tâm trí chia nhỏ thành nhiều mảnh để từng mùi hương và hình ảnh được khắc sâu như thế nào? Làm sao để diễn tả cảm giác không khí trở nên nặng nề như tấm chăn bông thít chặt quanh sườn? “Nhắm mắt lại,” Ross hướng dẫn, “và nói cậu nghe xem cháu thấy gì.” “Nhưng…” “Cứ làm đi.” Ban đầu Ethan im bặt. “Ánh sáng… chiếu ra từ các góc.” “Được rồi.” Ross nhẹ nhàng xoay cậu bé một vòng rối nắm lấy vai Ethan. “Giờ… không nhìn trộm nhé… cầu thang ở đâu?” “Đằng sau cháu,” Ethan run rẩy đáp vì nhận ra sự kỳ diệu của giác quan thứ sáu. “Làm sao cháu biết?” “Vì… cháu cảm thấy có một lỗ hổng trong không gian phía sau.” Ross xoay Ethan lại rồi vỗ đầu thằng cháu cái bốp khiến cậu nhóc lập tức mở mắt. “Giỏi lắm, Cậu Nhóc Phi Thường. Đây là bài học số một.” “Vậy bài học số hai là gì?” “Là phải dừng thắc mắc về bài học.” Ross bước dọc hành lang. Những nội thất hay kỷ vật gia đình đã được chuyển đi từ lâu, chỉ còn mấy vệt sơn hay vết xước mờ trên mặt sàn lấm lem. Lầu trên có ba phòng ngủ và một phòng tắm. Thêm một cầu thang dẫn lên gác xép của người giúp việc. “Cậu Ross? Khi nào ma sẽ đến?” “Nếu có ma thì họ đã ở đây rồi.” Ross liếc vào phòng tắm. Bên trong là cái bồn tắm với chân đế hình móng vuốt đã nứt toác và bồn vệ sinh kiểu cũ với bồn chứa nước đặt phía trên. “Chắc là họ đang xem xét cậu cháu mình đấy. Nếu hứng thú thì họ sẽ cố gắng thu hút sự chú ý của chúng ta sớm thôi.” Ethan vặn vòi nước, một dòng nước đọng màu nâu chảy ra. “Họ có để ý tới việc chúng ta đang ở đây không? “Có thể đấy.” Ross rà soát dọc cửa sổ rồi kiểm tra dấu niêm phong. “Vài con ma cực kỳ muốn người ta chú ý tới nó. Nhưng một số khác thì không biết mình đã chết rồi. Họ thấy chúng ta và tự hỏi tại sao chúng ta lại ở trong nhà họ. Đó là nếu quả có ma trong nhà này,” anh khiêu khích nói to lên. Đến bắt tao đi, Ross thầm nghĩ. Anh bước xuống cầu thang, kiểm tra phòng bếp, phòng ăn, hầm rượu và phòng khách. Trong phòng làm việc nhỏ có cửa đôi với chiếc ghế bập bênh đặt phía trong và một đống da nát vụn đã biến thành nơi trú ngụ cho gia đình nhà chuột. Mấy tờ báo cũ vương vãi trên sàn, còn bức tường lấm đầy thứ gì như mỡ bôi trục bánh xe. “Cậu Ross? Cô Aimee là ma sao?” Anh cảm thấy tóc gáy dựng ngược. Nhưng điều này chẳng hề liên quan tới hiện tượng tâm linh nào mà chỉ do anh bị sốc. “Cậu không biết nữa, Ethan à.” Hình ảnh Aimee dâng trào trong tâm trí anh như nàng tiên cá hiện lên từ đại dương thế giới bên kia nhưng anh gạt nó sang một bên. “Cái chết sao… chú nghĩ giống như đi xe buýt vậy. Hầu hết mọi người đều tận hưởng chuyến đi và cứ thế đi tiếp đến trạm tiếp theo. Nhưng sẽ có vài người xuống xe trước khi đến được trạm cuối cùng.” “Có lẽ cô Aimee xuống xe để được gặp cậu.” “Có thể lắm đấy,” Ross đáp. Anh quay người lại, định bước lên cầu thang trước khi tự khiến mình xấu hổ trước mặt đứa cháu. “Tại sao cậu nghĩ những hồn ma ở đây xuống xe giữa chừng?” “Cậu không biết” “Giả sử như…” “Ethan,” Ross cắt ngang. “Suỵt.” Anh xoay một vòng cố nắm bắt ý nghĩ vừa lóe lên trong đầu nhưng áo vụt qua nhanh đến nỗi không tài nào nhìn rõ được. Anh tựa vào lan can, cố gắng tập trung, cau mày nhìn vào đống rác bẩn đọng ở chân cầu thang, rồi quét mắt qua mấy con vật gặm nhấm đang âm thầm run rẩy. Anh liếc thấy tổ ong bắp cày ngay trong góc. Dấu vết của sự sống rải rác đầy sảnh - nào là tơ nhện, xác ve, rong rêu và nấm mốc - đúng là tiêu biểu của sự hoang phế và ẩm thấp. Ross bước vào phòng ngủ phía sau. Trong phòng ngủ, sàn gỗ két bẩn đen xỉn, mảnh gốm vỡ cùng vỏ kẹo vương vãi khắp nơi. Nhưng trần nhà thì lại sạch bong như vừa được quét dọn sáng nay. Không mạng nhện, không nấm mốc, không côn trùng. Dù tình trạng của mấy phòng khác có ra sao thì rõ ràng lâu nay chẳng hề có sinh vật nào vào trong phòng này. Ross quay qua nhìn cậu bé và bảo. “Đây là nơi chúng ta sẽ dựng máy móc.” “Tôi không biết chuyện gì xảy ra nữa,” người quản lý trại hè của Lucy nói. Cô quản lý trẻ đến mức người ta nhầm cô là trẻ con. Cô vội vàng dẫn Meredith chạy dọc con đường dẫn tới kho chứa vật dụng. Lucy đã tự nhốt mình trong đó khoảng bốn mươi lăm phút trước. “Cô bé đang chơi bóng né, đột nhiên vừa bỏ chạy vừa la hét.” Giày cao gót của Meredith bị mắc kẹt trong kẽ đá khiến cô suýt tí nữa thì ngã nhào. Cô có nhớ mang theo thuốc của Lucy không nhỉ? Nếu con bé sợ hãi đến nỗi không chịu bước ra khỏi nhà kho tối thì con bé có thể lên cơn hen suyễn. “Chúng tôi đã gọi về nhà ngay,” người quản lý nói. """