" Hà Nội Cũ Nằm Đây - Ngọc Giao PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hà Nội Cũ Nằm Đây - Ngọc Giao PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HÀ NỘI CŨ NẰM ĐÂY TUYỂN TẬP TẢN VĂN Tác giả: Ngọc Giao Nhà xuất bản Phụ Nữ Text: WAKA —★— Ebook: nguyenthanh-cuibap Mấy Lời Của Người Làm Tuyển HHàà NNộộii CCũũ NNằằmm ĐĐââyy S au khi cha tôi qua đời, đọc lại những di bút của cha tôi, nhà văn Ngọc Giao, một nỗi ân hận xót xa và xúc động dâng trào trong tôi. Từng dòng chữ cho tôi thấy những mong ước thiết tha đến cháy bỏng của ông là được in lại các tác phẩm của mình, vừa mãnh liệt lại vừa tuyệt vọng. Trong một bức thư dự định gửi gắm việc in tác phẩm cho một người bạn, ông dăn dò: “Thưa bác, trang bìa sau, dưới ảnh in mấy dòng này thì trang bìa đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Tôi rất tiếc. Đêm khó ngủ, mơ thấy sách bán được, và được tái bản, ta sẽ in thêm bài về ông Vũ Đình Long và một số gương mặt nhà văn khác, cuốn sách sẽ đỡ mỏng manh. Nhưng đó chỉ là một điều mơ ước.” Qua bút tích để lại của cha tôi sau năm 1990, có thể thấy sinh thời ông đã có rất nhiều dự định trong sáng tác, có những dự định đã thành tác phẩm, có những dự định còn dang dở. Tôi đọc và bật khóc. Mãi lo sinh kế cho gia đình, tôi đã để cha tôi cô đơn đến thế. Giữa cái guồng máy xã hội mà ai nấy đều quay cuồng đến chóng mặt cho cuộc mưu sinh và mưu cầu danh - lợi, một ông già ngoài tám mươi bút run, sức yếu làm sao lo nổi cái chuyện in sách và ra sách. Cha tôi là một con người nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc. Càng già càng hiu hắt, càng tiếc thương từng áng mây chiều, từng đoá hoa sớm héo, từng làn gió nhẹ xuân thu. Từ sau 1954, trải qua biết bao thăng trầm sóng gió, ông đã gác bút triệt để. Ông không còn gì nữa, như ông đã nói trong môt bài ký, “ngoài dăm ba khóm trúc gầy, mươi khóm hoa hèn cỏ dại, mọc lẫn vào thanh thảo. Đôi khi cố công ngồi tỉa xén một hai búi cây hoang dại bờ rào do một ông già nông thôn mang đến nửa bán nửa cho… Âu đó cũng vui tuổi già, sau những ngày dài, chập tối, ngõ vắng lên đèn, một mình, bước thấp bước cao, lê đầu gậy, dạo một quãng cho đỡ đau xương cốt”. Kể từ đó, ông sống những ngày tàn không tác phẩm. Nhưng từ năm 1990 cho đến khi qua đời, 1997 – như chính ông thổ lộ - ông cũng “cố ngồi, cố viết, tay quá run, chữ không thật nét, coi như làm cái việc rửa bút cùn, lau kiếm gỉ, viết với tâm tình băng giá của một ông già. Viết nhiều, viết ít, viết gì đi nữa, chỉ là những dòng chữ biệt li…”. Những bài ký của ông viết rải rác trong giai đoạn này, gần đây tôi đã tuyển lại thành một tác phẩm dưới nhan đề Hà Nội cũ nằm đây - sức bút của ông vẫn dồi dào và trí tuệ vẫn mẫn tiệp. Ông hay suy tư, những người hay suy nghĩ sâu xa thì lại càng hay buồn. Nỗi buồn, nỗi đau lớn nhất của cuộc đời ông, với tư cách một nhà văn, là không được viết và bị quên lãng quá lâu. Nhiều lúc, ông giật mình ngơ ngác vì thấy mình vẫn tồn tại khi các bạn ông như Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Long, Lan Khai, Lê Văn Trương, Tam Lang, Thuỵ Chương, Lê Bái Leiba, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyễn Bính đã ra đi từ lâu – như ông viết trong bài ký Người phun kiếm: “Các ông bạn cầm bút của tôi, cùng thời với tôi, tất cả đều đã ra khỏi cái quá khứ văn bút đau thương kệch cỡm này”. Từ năm 1989, tôi đã vào Thư viên Quốc gia (Hà Nội) để sưu tầm các truyện ngắn của cha tôi đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ Bảy. Ngay năm đó, Nhà xuất bản Văn học đã ấn hành tập truỵện của ông, nhan đề Cô gái làng Sơn Hạ, cuốn sách mỏng manh, chỉ ngót 200 trang, in rất xấu, tôi sợ cha tôi buồn, vậy mà ông vui lắm. Năm 2001, Nhà xuất bản Hội nhà văn lại ấn hành tiếp Ngọc Giao, truyện và ký, do tôi tuyển. Cuốn sách này dày dặn và tuyển chọn có hệ thống. Nhưng ông đã qua đời từ 1997, không được gặp lại đứa con tinh thần của mình. Cuối năm 2009, nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình, tử tế của Thư viện Khoa học Tổng hợp (thành phố Hồ Chí Minh) đối với em rể tôi, tôi đã có trong tay 249 truyện ngắn, ký và tản văn của cha tôi viết từ 1934 đến 1949 đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy. Trên cơ sở tư liệu này, tôi đã tiến hành tuyển để cho ra mắt tập ký và tạp văn Quan báo (H., Nxb Hội nhà văn, 2010, 340 tr.) ; và tập truyện ngắn Phấn hương (H., Nxb Văn học, 2010, 390 tr.). Riêng tập truyện và ký Hà Nội cũ nằm đây, nội dung và bố cục đã được sắp đặt dựa trên ý nguyện trong bức thư kể trên của cha tôi. Sinh thời, ông còn viết cho các báo Tri tân, Sinh lực, Tao đàn, Phổ thông, Lẽ sống, Lên đường, Công tội. Hiện giờ tôi đang tiến hành sưu tầm những gì ông đã viết cho các báo này, để tập hợp thành một tập truyện ngắn mới. Và khi có đủ điều kiện thuận lợi, tôi sẽ cho tái bản các tác phẩm chính sau đây của cha tôi: Cô gái làng Sơn Hạ (truyện ngắn, tuyển lại, có bổ sung); Nhà quê (tiểu thuyết, 1944); Quán gió (tiểu thuyết, 1949); Cầu sương (tiểu thuyết, 1953); Xóm Rá (tiểu thuyết, 1953)… để rồi tiến tới một Tuyển tập Ngọc Giao. Và tin rằng ở một nơi xa lắm, ít nhiều Cha tôi cũng thấy được. Hà Nội, mùa Đông năm 2015 Nguyễn Tuấn Khanh Đời nó thế Đ ã lâu lắm, tôi không tiếp được tin tức của anh Thông, một người bạn hiền có đức hạnh mà thầy mẹ tôi vẫn răn tôi nên lấy làm khuôn mẫu. Anh người trong Thanh, hồi ấy ra Hà Nội trọ tại nhà tôi. Chúng tôi cùng học một trường, một lớp, ăn một bàn, ngủ chung một chiếc giường tây. Chúng tôi ít khi có sự bất bình, tuy chúng tôi vốn chẳng ưa nhau lắm, chỉ đôi lần xảy ra cuộc cãi lý trong vài phút lại hòa ngay. Anh rất đứng đắn, rất lễ phép và điều hơn hết đối với thầy mẹ tôi, anh coi như cha mẹ đẻ. Có lần mẹ tôi bị ốm xoàng, anh tỏ vẻ âu sầu lo lắng, và hi sinh một ngày học để ở nhà sắc thuốc, bóp đầu, nâng giấc mẹ tôi. Rồi nhằm vào lòng mê tín của các cụ anh bàn nên cúng “dâng sao giải hạn” thì bệnh tất lui. Thế là anh khăn áo chỉnh tề, bày vàng hương, thắp đèn, thắp nến, lăng xăng như một anh cung văn vậy. Thầy mẹ tôi cảm động lắm, thế mà trong khi các ngài đang cảm động, đang nức nở khen anh là người tử tế hiếm có thì tôi lại ngồi vắt vẻo ở rạp chiếu bóng vỗ tay cười một vai ngộ nghĩnh khéo khôi hài. Vô phúc cho tôi, cái tin ấy thầy mẹ tôi đều biết. Tôi bị một trận mắng nên thân. Nghĩ anh Thông mách, tôi thù ra mặt. Nhưng chúng tôi vốn có lệ không được giận nhau quá ba giờ. Thầy tôi cũng thương anh hết sức. Bởi vì anh khéo chiều chuộng, khéo nói, khéo cả chân tay. Buổi sáng, mặc tôi ngủ say, anh dậy sớm nhất, pha trà sen mời thầy tôi uống và đón lúc thầy tôi muốn hút thuốc lào, anh vê thuốc, đánh diêm, vắt chiếc cần trúc vào tận miệng thầy tôi, như thế, một cụ già khó tính đến đâu, cũng phải đem lòng cảm mến. Cả nhà khen anh có hiếu. Đối với thầy mẹ tôi anh còn tha thiết thế, huống hồ đối với các cụ sinh ra anh thì còn hiếu thảo gấp trăm phần. Anh lại được cả cái đức tốt là ghét ái tình. Đừng ném cuốn tiểu thuyết văn chương mơ mộng, đĩ thõa trước mắt anh ấy. Đừng kể cho anh ấy nghe chuyện những tấm thân trắng như bột bánh trôi của các cô đào chiếu bóng. Đừng vớ lầm cái cán bút trong sạch của nhà đạo đức ấy mà viết những dòng trai lơ để “thuốc” một ả nào. Đó là những điều nghiêm cấm mà vẻ mặt lạnh lùng, và đôi mắt sâu sắc của anh Thông đã dọa thầm tôi. Không bao giờ anh chịu bỏ chiếc khăn xếp với chiếc áo the vá khuỷu. Các bạn ở trường chế giễu, anh chỉ mỉm cười. Anh là một cái “thái cực” ở bên tôi: một thằng chí ngoan, chí hiếu, nhũn nhặn, keo kiệt, khúm núm như lão hủ nho, thế mà ông Trời sao lại bắt chung đụng với một thằng như tôi, ham chơi, nghịch ngợm, hiếu để tâm, lễ độ tùy lúc, lại hay làm đỏm, hay vòi tiền đi xem chiếu bóng. Thành thử, tôi bị thầy mẹ tôi ghét, mà anh càng ngày càng được các cụ yêu, thường xì xào bàn kín rằng sẽ gả anh cho con Mùi, em gái tôi hiện là lưu học sinh năm thứ ba trường nữ sư phạm. Anh Thông có lẽ thám thính được cái tin mừng đó, lại càng cố mua chuộc lòng tin yêu của các cụ, đến nỗi nịnh hót quá, lễ phép quá, khiến anh có vẻ nô lệ như một con lừa vậy. Có ai dám ngờ anh có gan khoác tay gái chơi đêm? Thế mà tôi đã gặp anh đi cùng người đẹp, một đêm kia, trên bờ Hoàn Kiếm. Người đẹp ấy... thì ra là cô bán kem, nước đá, mà các bạn trai đều nhẵn mặt và tôi nhớ đích là con yêu tinh ấy đã khiến một người bạn thân thiết của tôi phải sáu tháng kêu trời, sau một đêm để tia nọc độc của nàng tự do chạy thẳng vào mạch máu. Thấy hiển nhiên con rắn độc ấy sắp quấn chặt vào cổ anh Thông, tôi rùng mình muốn kéo anh ra khỏi hoạn nạn. Nhưng sực nghĩ đến những nỗi căm hờn cũ, những lúc vì tấm gương sáng của anh mà tôi bị đòn, bị mắng thì lòng thương bạn không còn nữa. Tôi đã lánh đường, để mặc anh đi suốt đêm hôm ấy. Thế rồi, mấy ngày sau, tình cờ tôi lại tóm được tập thư xanh tím của anh, lại tóm được mấy chiếc ảnh chụp các cô đầm hở đùi, hở ngực, mà anh giấu tận lần trong một chiếc gối bông. Đúng một tuần lễ, kể từ đêm anh phạm tội “ngoại tình”, người anh gầy rộc hẳn đi, mặt xanh như tầu lá, ngày nào cũng lên cơn sốt. Tuy thế, anh không dám đưa con ở giặt quần áo của mình. Thầy mẹ tôi thương xót, bảo mời ông lang đến xem mạch. Anh van vỉ xin đừng mời đến. Các cụ cứ yên trí là anh chỉ bị cảm xoàng, tự nhiên sẽ khỏi. Sau không đành tâm trông thấy anh gầy yếu quá, mẹ tôi lập đàn cúng, mời ông thầy đến, chiêng trống suốt một đêm. Mà bệnh vẫn tăng lên dữ dội. Thầy tôi định viết thư vào Thanh mời ông thân anh ra, song anh nằng nặc xin đừng để ông thân anh biết, vì nếu biết, cụ buồn. Cả nhà không hiểu căn bệnh của anh. Duy có một mình tôi hiểu. Nhưng tôi không dám nói ra. Thấy nhiều lúc anh nằm đậy chăn thút thít khóc, tôi hối hận về cái tội ác của tôi. Nếu tôi can ngăn anh đừng đi với ả hàng kem thì đâu có bệnh tật này. Có lẽ Trời run rủi cho tôi ác thế để trừng phạt cái thói đạo đức giả của anh chăng! Hai ba tháng ròng, người anh gầy như một cành cây khô sắp gẫy. Thương hại, tôi mách anh đến một lão lang. Quả nhiên, anh khỏi sau một thời kỳ trị bệnh khá lâu. Từ đấy, chịu ơn tôi, anh sợ tôi như sợ vía cô hàng kem vậy. Cách ít độ, đến kỳ thi, anh trượt; còn tôi không ngờ, lại đỗ! Cùng vụ thi ấy, con em gái tôi cũng đỗ. Anh Thông xấu hổ, không chờ thầy me tôi nhắc đến việc nhân duyên tốt đẹp của anh với em Mùi, anh đã lẳng lặng xếp áo quần, sách vở vào va li, từ biệt chúng tôi về Thanh để hầu hạ ông thân sinh, bù lại những tháng ngày xa xôi, không thể quì dưới gối phụng thờ. Bảy năm cách biệt, bây giờ tôi mới được thư anh gửi ra mời tôi vào chơi. Tôi vui vẻ nhận lời. Xe vừa đỗ ngoài cửa, anh đã chạy ra niềm nở đón. Tôi la lên mừng rỡ, và rung hai cái vai đầy thịt, vỗ cái bụng bành trướng của anh mà cười. Anh béo như con lợn quay, mình mặc bộ tây vải vàng, chân đi “ghệt” tựa như một ông Tây chủ đồn điền, hay một người săn bắn, - thiếu chút nữa tôi không thể nhận ra ông đồ lễ phép, khúm núm, gầy oặt, đã trọ ở nhà tôi năm nọ. - Anh khá lắm hể? Thông híp mắt, bạnh má ra cười, giơ tay giới thiệu tòa nhà tây, chiếc xe ô tô mới và khu vườn đầy hoa thơm, cỏ lạ, đoạn thân ái xóc cánh tay tôi lôi sềnh sệch vào nhà. - Joseph! Jean! Ra chào bác Kim, bạn của ba đi, các con! Tức thì, hai thằng bé, một thằng mặt vàng ệch, ngớ ngẩn như thằng khách con, mặc bộ áo quần lính thủy, một thằng đen trũi, tóc quăn, mặc quần đùi vải đỏ, sơ mi cụt tay bám đầy đất cát, dắt nhau vào, bắt tay tôi rối rít. Sau cuộc giới thiệu tên tuổi các quí tử, anh mời tôi dùng “áp-pê-rô”1. Tôi hỏi thăm vợ anh. Anh bảo: - Nhà tôi đang giở cuộc “xì” ở bên vợ chồng chú Sênh, lát nữa sẽ về. Ồ, “en” nói chuyện có duyên, buồn cười ra phết, tôi đố anh nhịn được mới tài. Tôi lại hỏi thăm ông thân anh ngồi đâu để tôi chào. Thì anh chặc lưỡi, lôi tôi ra vườn thăm hoa, rồi kéo tôi vào nhà, kể huyên thuyên rằng anh mới tậu thêm được hai cái nhà tây nữa, vị chi là sáu cái. Mai kia anh sẽ bán cái đồn điền đáng giá chín ngàn của anh cho một người Pháp, vì anh chán đồn điền lắm. - Mùi phú quý, anh ạ, nếm mãi cũng không còn thấy thú. Bây giờ tôi chỉ thèm sự an nhàn. Thỉnh thoảng sai đánh xe đưa vợ con đi chơi các nơi xa lạ. Mình thì bàn đèn sẵn đấy, gái đẹp chỉ vẫy một cái là bay đến như bươm bướm. Hôm nào trời êm ả, lại vác súng đi bắn mấy con mòng, con két về nhắm rượu... Tôi đang thầm ca tụng hạnh phúc của người bạn sung sướng thì tên bồi gõ cửa vào mời chúng tôi sang phòng ăn. Chúng tôi kéo ghế ngồi. Hai thằng con ở ngoài vườn, xô nhau chạy vào nhảy lên bàn, lên ghế, chấm những ngón tay đầy đất cát vào các đĩa ăn. Thông mắng yêu các con rồi nhìn tôi cười sằng sặc: - Bác xá cho các cháu. Chúng nó nghịch ngợm, tự nhiên chẳng khác con tây. Ấy thế cũng hay! Chả lẽ bắt chúng nó đần độn, hiền lành, nhút nhát, như các trẻ An nam thì hỏng hết. Tôi chưa kịp khen các ông quí tử và chưa kịp trả lời câu nói có nghĩa lý, lạ lùng, trái ngược của ông đồ nhu nhược, hủ lậu ấy thì có tiếng chửi đầy tớ, mắng con chó săn, rủa chú Sênh ăn non... nhiếc anh lính Tây chạy làng, vang động cả gian phòng khách. Giữa lúc tôi ngơ ngác, gót giầy mang cá đã cồm cộp gõ trên nền gạch hoa, rồi một người đàn bà mặt còn đầy nộ khí bước vào. Thông vội đẩy ghế nhỏm mình, giới thiệu tôi với người đàn bà ghê gớm đó. - A! Vợ hiền anh! “Nàng” dịu nét mặt, nhe bộ răng trắng, cúi đầu đáp lễ, đoạn ngồi xuống ghế, rót thêm rượu, vồn vã mời nâng cốc. Ba chúng tôi chạm cốc, hai thằng con cũng bắt chước làm theo. Vẫn không quên ông thân anh, nên tôi nhắc anh mời cụ ra dùng cơm tiện thể cho vui. Vợ anh vội đáp: - Cụ tôi đã ăn từ sớm. Bác... mặc cụ tôi. Thông nói tiếp: - Anh cứ xơi rượu đi, ông cụ càng già càng khó tính, ăn vặt luôn, không có giờ nào cả. Tôi không hiểu câu nói nghĩa lý của nhà đạo đức. Mà vợ chồng anh cũng không cần cho tôi hiểu, cứ nhồm nhoàm, nhai, uống, nuốt, rồi lại gắp, cười, đùa, sung sướng như cặp vợ chồng mới cưới. Chợt có tiếng ho khù khụ, tiếng ho của một người ốm yếu hình như không còn sức mà ho nữa, - rồi một ông già gầy tựa bộ xương hom của anh thợ mã, mặc chiếc áo đũi nâu vá đụp, một tay chống gậy, một tay chống đầu gối, cố bước lên thềm. Không cần giới thiệu, tôi cũng có thể biết ông già ấy là ông thân anh, là một người tốt phúc đã được anh - trước mặt thầy me tôi, - hằng nhắc nhủ, thở than, ân hận rằng không được quì dưới gối phụng thờ, chỉ vì đi “du học”! Tôi đã biết vợ hiền anh. Tôi đã biết thân phụ anh. Và tôi đã hiểu anh. Tôi đứng dạy chào. Ông cụ gật đầu, thở hổn hển, rồi men vào kéo một chiếc ghế ngồi, nhìn lấm lét các món xào thơm ngạt mũi, như thèm thuồng lắm. Hai thằng nhãi tru tréo lên, tựa như thấy một lão ăn mày hóa hủi. - Ghế này của Jean. “A-lê”, sang kia ngồi với thằng Jacques. - Bẩn lắm, ngồi cạnh lây cả rận chấy sang quần áo mới của người ta, “San bu-ru”2! Chúng nó lùi, chúng nó nhổ, chúng nó tránh xa, mà khốn nạn, ông già có hiểu gì đâu! - Kìa, anh cạn cốc đi, ông cụ tôi câm đấy. - Lại điếc mới khổ người ta chớ! Rồi bộ môi son toét nở: - Thật là của nợ! Tôi không thể trả lời. Lòng tôi đau như bị một vết thương. Ông cụ run tay cầm đũa, nhìn cái bát rỗng mà người con dâu quí còn đang bận gậm chiếc đùi gà quay, chưa muốn xới cho lão một thìa cơm. - Anh Kim, cạn cốc đi! - Bác xơi tự nhiên cho. Chém cha cái thằng bếp nhé! Nó làm món xào mặn quá... Lương những sáu đồng một tháng mà chẳng làm trò gì nên thân cả. À, kìa bác Kim, sao ăn yếu thế? Mấy đầu ngón tay móng đỏ, trắng mịn như thoa phấn, cầm thìa tiếp thức ăn vào bát tôi. Tôi ngượng ngùng nhìn bát ông già chỉ dính vài hột cơm mà chẳng có một miếng thịt, một lá rau. Tôi nhìn cặp mắt cụ, cặp mắt hiền từ mấy mươi năm nay vẫn âu yếm nhìn các con thân mến, lúc ấy đỏ ngầu như có mấy giọt lệ ngập ngừng không dám trào ra trước vẻ mặt tàn ác của con. - Mời anh! - Mời bác! Chỗ tình thân, xin đừng làm khách. - Anh lưu ở chơi đây vài ngày. Tối ta đi hát, mai ta đi săn. Ở đây nhiều cảnh thú lắm. - Lát nữa, em sai mời vợ chồng anh ký bên cạnh chú thím Sênh đầu phố, và người bạn Tây ở trong trại đến chơi “xì” tiêu khiển. Ăn xong, vợ chồng Thông cùng tôi đi bách bộ trong vườn. Anh trỏ cho tôi trông cái chuồng con bằng gỗ sơn xanh, treo trên cành cây bưởi lớn, lá rủ xuống lòa xòa: - Anh coi, đây là “tòa biệt thự” của đàn chim bồ câu giống. Tháng trước thả bay thi đã giật giải nhất đấy. Có người khách giả tôi chín mươi đồng cả đàn, mà tôi không bán, đủ biết giá trị đến đâu! Rồi vợ anh vỗ vai tôi, nheo mắt, nháy: - Đây là con đực, kia là con cái. Cặp vợ chồng ấy đẻ mắn lắm. Mà lại mớm mồi khéo nữa. Bầy chim con chóng lớn lạ. Vợ chồng anh khoan khoái cười ầm ĩ trong khi ngắm con chim đực đang tha rác bay lên kết ổ, và con chim cái lục sục mớm thóc cho đàn chim non kêu ríu rít. Tôi ngoảnh nhìn ông cụ già, thân sinh anh, đang ngồi lẻ loi, ủ rũ dưới bậc thềm, vạch áo ra tìm rận bỏ lên mồm cắn. Đã hiểu rõ người bạn xưa kia làm khuôn mẫu cho tôi về khoa luân lý; đã ghê tởm cái cảnh giầu sang sung sướng của người bạn thâm giao, - tôi ngay chiều hôm ấy, vội cắp mũ ra ga, dẫu rằng vợ chồng anh giận dỗi vì không giữ được tôi ở lại chơi để cùng anh nếm mùi phong lưu, phú quí trong cái cảnh gia đình êm ấm: tiền sẵn, vợ đẹp, con ngoan, và mai kia anh sẽ đặt tiệc mừng thượng thọ cho ông cụ thân sinh tốt số đã được vợ chồng anh đêm ngày nâng giấc phụng thờ, và trước khi bị điếc, bị câm, đã để lại cho vợ chồng anh cái gia tài khá lớn. Tiểu thuyết thứ Bảy, 1942 1 Rượu khai vị. 2 Con cú rù bẩn. Người đưa thư K ính tặng lớp bạn già Hà Nội cũ Đường Hà Nội sáng choang lửa điện Quanh Hồ Gươm xe điện cao su... Tản Đà đã nhập đề bài thơ Vợ chồng người bán than bất hủ bằng hai câu quá nôm đến mức phải dùng cái danh từ “cục gạch” mà phê phán. Nhưng tôi hiểu rằng đó là thâm ý của nhà thơ ngang ngạnh ném vào cõi lầm than cát bụi, ồn ào này câu thơ mộc mạc nôm na ấy chính là để ngạo nghễ cười thế sự và để dồn cả thi tứ vào cuộc sống an nhàn, ẩn dật của đôi vợ chồng người bán than chốn lâm tuyền: Rừng đêm sương khói mịt mù Gió đêm lạnh lẽo cây lù dù đen. Đã từ lâu lắm rồi, tôi vẫn thường ngâm ngợi bài thơ đó. Mỗi lần bắt đầu câu “Đường Hà Nội...”, lòng tôi lại bâng khuâng nhớ đến một cái bóng gù gập như một lưỡi liềm, một cái bóng già nua ốm yếu đã hiện ra và đã khuất rồi trong băm sáu ngả đường Hà Nội thời xưa cũ. Đó là người đưa thư. Chao ôi, vẫn cái con người cần cù, nhẫn nhục, lặng lẽ như cánh lá run trong bóng tối. Tôi nhớ đến ông ta, như là nhớ đến một kinh thành cổ kính. Thuở đó cứ chiều chiều, tôi lại đứng ngây mặt nhìn con la cao lớn kéo chiếc xe phun nước tưới những đường lát đá gồ ghề, lồi lõm. Con la không có tuổi, tai vểnh cao như hai chiếc mo nang, lông loăn xoăn đỏ, bốn chân điểm trắng, uể oải gõ móng sắt xuống nền đá bụi. Người phu đi kèm con vật, tay cầm đoạn roi mây, mỗi khi đến ngã tư đường, lại vụt vào đầu la mấy cái ra hiệu cho nó rẽ. Nhưng cái xe phun nước ấy chưa thấm gì với cái xe chở gỗ cây. Chúng ta hãy nhớ lại để hình dung một đôi càng xe to dài như hai cây tre bương đầu nhọn hoắt lừ đừ đưa về phía trước dữ dội như cặp ngà voi để dẹp đường. Dưới lòng xe hai ba cây gỗ lớn được buộc ghì vào thân xe bởi những sợi xích sắt to, mà đầu xích thừa buông thõng xiết xoang xoảng xuống mặt đường đá dăm lởm chởm, ăn nhịp với tiếng nghiến rào rạo của đôi vành bánh xe vĩ đại, đường kính chừng hai thước rưỡi. Xe gỗ đi nghênh ngang trên đường phố hẹp nồng mùi cống rãnh và bụi cát, nếu gặp phải xe tưới nước khổng lồ kia hay chạm mũi vào chiếc xe ô tô lọc cọc từ xa tới thì thật là không biết tránh thế nào. Chiều Hà Nội xưa còn có tiếng chuông gõ nhịp nhàng ở những cỗ xe bán dầu tây. Cỗ xe nho nhỏ, đôi bánh xinh xinh với cái thùng sắt sơn vàng hình thùng rượu, có rôbinê tháo dầu xuống cái thùng con treo lủng lẳng mà khách hàng đã hứng sẵn chai và phễu. Ngày ấy tôi trọ học ở nhà cô tôi. Cái thằng nhỏ tóc gọng màn gài hai bên tai, suốt ngày ra máy nước đầu phố chen thùng trổ tài ba của đệ tử Tư - Dậu, Hàn - Bái, và để chim các chị vú chị sen - cứ cách vài ba ngày nó lại bắt tôi vác chai ra đầu phố đón mua dầu. Phải nhận làm việc đó bởi vì tôi sợ nó. Nó luôn luôn tự khoe giỏi võ, nó hứa truyền cho tôi vài miếng để chơi nhau với những thằng bạn gà tồ vẫn quen bắt nạt tôi ở nhà trường và tôi cũng thích làm việc đó, bởi vì tôi thích ngửi mùi dầu tây. Hà Nội xưa lại có những chiếc xe ngựa của hãng bánh mì Thano chạy lóc cóc khắp ngả đường chật chội. Những chiếc xe bọc kẽm cao lênh khênh sơn vàng chóe, chỉ có việc giao bánh tháng cho các nhà phong lưu, khá giả. Thời ấy mà ăn chơi đến thế là sang lắm. Mỗi sáng rất đúng giờ, anh xà ích áo cánh, quần chúc bâu trắng nõn gò cương hãm ngựa cạnh vỉa hè, thổi một tiếng còi, bọc bánh bằng mảnh giấy bóng trao cho kẻ gia nhân của khách hàng. Anh nhỏ, chị sen nhận bánh và nhận sổ đem vào cho chủ kí rồi lại mang sổ ra trả anh xà ích. Anh xà ích giật cương con ngựa gày gò có hai miếng da che nửa mắt lại gõ móng lọc cọc trên đường đá mấp mô. Ngày ấy, bà cô tôi dọn hàng đồng. Tiền trinh Khải Định kể hàng bao nhiêu thúng xếp đầy các gậm giường. Cô tôi đau mắt, và trong khi đau mắt cô tôi đã hết lòng làm việc thiện, bắc cầu, tạc tượng, đúc chuông, ấy thế mà cô tôi vẫn bị mù. Mang mục tật, cô vẫn chăm buôn bán và cô càng giàu có bao nhiêu, tôi càng phải bỏ cả sách đèn để suốt ngày ngồi đếm tiền Khải Định. Cứ mỗi cọc nhỏ là một hào: hai mươi đồng trinh vàng chóe. Mỗi chuỗi dài là đủ một đồng: 200 đồng trinh lóng lánh nằm trong thùng, như từng khúc rắn quấn vào nhau. Đếm tiền hoa cả mắt, tôi vẫn không dám bỏ đi chơi. Bởi vì cô tôi mắt không nhìn thấy tiền, nhưng tai cô thính lắm, có thể nghe mà ước lượng được những chuỗi trinh Khải Định, xu đồng reo lách cách trên tay tôi. Chờ lúc nào cô tôi nghe tiền mỏi mệt chợp ngủ đi một lát, tôi mới dám rón vội hai đồng Khải Định, chạy vèo ra đón đầu chiếc xe ngựa sơn vàng cao lênh khênh kia để năn nỉ anh xà ích áo quần trắng lốp mua cho được cái bánh tây có bọc giấy bóng vàng. Tôi vội trở vào nhà. Cái thân hình xanh xao gầy oắt của tôi lại lọt thỏm giữa những thúng tiền đầy ắp, tôi vừa nhai bánh vừa gieo mạnh những đồng trinh vàng chóe, những đồng xu đỏ ối, cốt cho tiếng kim khí xô xát làm át tiếng bánh tây kêu ròn trong hàm răng tôi, bên đôi tai rất thính của bà cô mù tần tiện. Thế rồi cô tôi đã chết, chỉ vì một lá thư, chỉ vì cái người đưa thư ấy. Tôi nhớ một sáng mùa đông ông ta đã ho lụ khụ, bước xuống cái xe nhà cũ kĩ sơn đen kẻ chỉ đỏ cao ngất ngưởng, đôi bánh vành sắt vẹt mòn vì bao tháng năm lăn mãi trên băm sáu ngả đường đá sắc. Người phu trạm ấy đã vừa ho vừa lau nước mũi, mở cái hộp da trâu to tướng nhuộm nhiều cát bụi, mồ hôi, có sợi dây da đeo lên cổ, lấy ra một phong thư xanh, lặng lẽ ném vào thúng tiền Khải Định trước mặt tôi, rồi quay ra. Chiếc xe nhà đen cao ngất ngưởng lại lăn trên đôi vành sắt vẹt mòn, tiếng sắt cọ nghiến đá đường lồi lõm kêu ghê rợn trong mưa lạnh. Lắng nghe tiếng động ở đầu càng xe bọc đồng chạm ngoài hè, và nghe tiếng ho quen thuộc của người đưa thư bà cô mù vội hỏi: - Có thơ đấy à? Thơ anh cả mày phải không? Tôi quen lệ như mọi khi đọc thư người anh cả, con cô tôi ở ngoài mỏ Uông Bí gửi măng đa về, nên từ từ bóc phong bì. Nhưng đấy là bức thư chữ đàn bà dưới kí tên chị tôi tức là cô con gái quý của cô tôi. Tôi đọc. Hỡi ơi đó là bức thư tuyệt mệnh, viết bằng máu và hoen nhòe nước mắt. Thì ra cô con gái quý của cô tôi đã trẫm mình ở Hồ Tây chỉ vì chị ấy đã thất trinh, đã có mang và gã sở vốn là một ông đốc học một trường tư thục đã ra roi giục truy phong phi nước đại. Thời ấy gái thâm nghiêm chỉ còn cách gỡ danh dự bằng thuốc độc, nước hồ, mỗi khi bị phụ tình, bị cưỡng hôn hay chán đời bởi chẳng được cùng ai tròn duyên kiếp. Cô tôi nghe xong thư chết ngất đi, rồi ốm, rồi chết thật. Rồi sau đó, tôi được giải phóng khỏi cái ngục tù tiền Khải Định vàng chóe, tiền xu đồng đỏ ối xếp cao như núi bấy lâu đè trĩu mái đầu xanh tội nghiệp của tôi. Tôi ôm bọc áo, mớ sách, đi ở nhờ nơi khác. Nhưng ngày ngày dù ở đâu, dù đi đâu, quanh cái thành phố băm sáu phố phường chật hẹp này, tôi vẫn gặp người đưa thư ấy. Ông ta vẫn âm thầm lặng lẽ làm cái công việc của con chim câu sứ giả. Ông ta vẫn nhẫn nhục cần cù, câm nín, cùng chiếc xe nhà đen cũ kĩ cao ngất ngưởng, hàng ngày đi khắp hang cùng ngõ hẻm, phân phát những chuyện buồn vui, sầu não của muôn vạn mối tình duyên thiên hạ, những chuyện lọc lừa xảo trá, tóc tang bỉ ổi của muôn vàn con thú dữ đã nhờ mảnh giấy con tem, chiếc dấu bưu điện để, dẫu cách xa nhau nghìn dặm, cũng có thể cắt hầu cắt họng nhau vì một mưu thần chước quỷ, vì một mánh khóe sâu độc gian hùng. Tôi đã nhớn lên dần, tôi đã bị guồng máy thời gian nhào lộn theo luật phù trầm gớm ghiếc và tôi đã già đi trước tuổi. Vậy mà ông ta, người đưa thư ấy, người sứ giả vô cùng nhẫn nại ấy, vẫn tháng ngày ngồi dựng đứng trên chiếc xe nhà sơn đen cũ kĩ mòn bánh và long trục, lọc cọc lăn hoài trên các ngả đường. Ông ta vẫn đội chiếc mũ thuộc địa bọc vải vàng, vẫn mặc bộ tây vải ka ki, áo cổ cứng ôm lên gáy, một dãy khuy đồng có mỏ neo và đôi chân chữ bát vẫn lê đôi giầy săng đá. Mỗi khi đeo cái hòm da kếch sù trước ngực, bước từ hè bên này sang hè bên kia, đế giầy săng đá lại gõ rào rạo trên đường đá khiến trẻ con hai dãy phố xúm xít chạy theo, như là chạy theo lão Hai Tây làm quỷ thuật, đóng đinh hai mươi phân vào lỗ mũi trước bãi chợ Hàng Da. Lũ trẻ xúm lấy ông ta, ông ta chẳng gạt chúng ra, cũng chẳng lộ một chút cảm tình chi hết, bộ mặt xương xẩu, đen bóng lúc nào cũng lạnh lẽo khác thường. Cái lưng khom gập xuống, phía ngực lủng lẳng cái hòm da, hai cánh tay dài có khi buông lõng thõng có khi ôm đỡ chiếc hòm thư, ông ta gục đầu mà bước trông thảm hại như con đười ươi già cô độc. - Cám ơn ông ạ. Mời ông hãy vào xơi chén nước. - Đa tạ ơn ông. Mời ông hãy vào nhà ăn miếng trầu cau tươi cho ấm áp. Trời rét quá, rét buốt xương buốt tủy thế này! Đi đâu mà vội thế. Nhưng lời dịu ngọt của cụ già đạo mạo và bà quả phụ tình duyên còn lóe sáng trong đuôi mắt bồ câu kia cũng chẳng đủ sức đậm đà để mời được người đưa thư âm thầm, câm nín đó uống chén nước trà, ăn miếng trầu cau. - Ái chà, một bức thư màu hi vọng. Thư ân thư ái của cô vợ chưa cưới của tôi đây mà! Cảm ơn ông nhé! Ông xơi điếu thuốc đã nào! Đó là một gã con trai đang tựa cửa đỏ mắt chờ cái xe nhà sơn đen kẻ chỉ đỏ, cao ngất ngưởng đúng chín giờ sáng và bốn giờ chiều từ xa lại, để nhận một lá thư tình, và để cảm ơn ông ta. Nhưng người đưa thư câm nín và lạnh lẽo kia chỉ mỉm cười, khẽ lắc đầu. Và đây là cô gái đào tơ e lệ nép mình sau bức mành viền vải tây điều hồi hộp giơ mấy ngón tay trắng nõn ra đón chiếc phong bì tím, chưa kịp cảm ơn đã giấu phong thư vào túi, chạy vội vào trong bếp, má còn ửng hồng. Người đưa thư lúc nào cũng thản nhiên làm phận sự, đã mấy chục năm trời. Trong quãng thời gian dằng dặc ấy, người đưa thư đã phân phát gửi gắm biết bao nhiêu tóc tang sầu muộn, hờn tủi, sướng vui vào cõi thế gian hỗn độn này mà tựu chung con người nhỏ bé, câm nín ấy, chẳng nghĩ gì, chẳng biết gì đến việc mình làm. Thời thế như tấn tuồng đời, đã bao phen thay trò, đổi lớp, ngổn ngang như lá thu vàng rụng và cũng nhẹ nhàng như ức triệu phong thư do đôi bàn tay đười ươi già nua ấy rải rắc vào thiên hạ. Tôi đã qua thời thơ ấu và niên thiếu và cũng đã qua rồi những buổi sáng buổi chiều tựa cửa phòng quán trọ, hồi hộp mong chờ những lá thư tình, thư bạn ở gần ở xa, do người sứ giả kia đưa đến tận tay tôi. Bây giờ tuổi đã xế chiều, ấy thế mà tôi vẫn còn thấy ông lão đưa thư của cái “Hà Nội xưa cũ” ấy một chiều kia, lang thang trong “Hà Nội mới” chói lòe đèn nê ông, nhộn nhịp người năm châu bốn biển và hằn sâu vết xe chinh chiến... Thời thế đã đổi thay nhiều. Cho nên cái xe nhà đen cao ngất ngưởng của người sứ giả kia, theo định luật phế hưng, đã bị tiêu diệt tự bao giờ. Ông ta vẫn mang nghiệp cũ, nhưng mà cái hòm da trong đó đã đựng bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu tiếng cười của con người, giờ đây cái hòm da lịch sử đó tôi không còn được thấy trên cái lưng gù gập kia nữa. Rồi trong những ngày tiếp theo, ông già khốn khổ đã còng lưng đạp chiếc xe đạp gỉ nát, bánh cao su đặc, xích rão kêu ken két như là xương xẩu ông trên các nẻo đường rải nhựa. Ông già cô độc ấy, gần đây, đã biến đi đâu mất hút. Tôi thương tôi nhớ hình bóng Hà Nội cũ bao nhiêu, lại càng thương nhớ bấy nhiêu con người khổ não câm nín ấy. Đã có lúc, tôi chợt nghĩ rằng con người ấy đã âm thầm len lỏi vào muôn vàn định mệnh của thế gian, chia sẻ buồn, vui cho nhân thế... Ngày nay, tôi không còn trông thấy ông lão đưa thư đó. Hà Nội đã thay hình thoát xác, ai còn lưu giữ cái lão lưng còng mắt toét, lom khom như con khỉ già vô dụng ấy làm chi nữa cho thêm chật chội phố phường thanh lịch. Tiểu thuyết thứ Bảy, 1951 Người xưa cảnh cũ bây giờ... N ói đến đồ cổ và cây cảnh là nói đến cái vạn niên vạn đại của trời đất, của thiên nhiên. Trời đất đã không cùng thì lời nói cũng không cùng. Những nhà cổ học uyên bác trên thế giới, qua nhiều thế kỉ, đã tốn nhiều giấy mực. Riêng ở cái xứ sở mình, trừ số rất ít nhà hiếu cổ, đã quan tâm đến đồ cổ vào khoảng nửa sau thế kỉ XX, còn quần chúng thì chẳng mấy ai coi nó là những thứ kỳ trân bảo vật đáng thương tiếc, đáng sưu tầm, nếu không nói là đáng thờ kính. Từ kỉ nguyên đồ đá, đồ đồng, ở Trung Quốc, chín cái đỉnh vĩ đại đồng vàng đời Đông Chu đã đánh dấu lịch sử phương Đông về kĩ thuật sử dụng kim loại. Trong khi ấy, trên thế giới, Cổ Hy Lạp, Ai Cập... cũng đã cho nhân loại thấy những tác phẩm thần kỳ, siêu thánh. Đến bây giờ, hầu hết những công trình ấy đang nằm dưới đáy đại dương, trong lòng trái đất, kể cả bao nhiêu lầu vàng gác ngọc, thành trì sắt đá của những kỉ nguyên đế bá ngàn xưa. Không còn gì hết! Có chăng còn rơi rớt lại một số đồ nhỏ bé thuộc loại gia dụng của cổ nhân Trung Quốc, Việt Nam (thường kể tự Lý, Trần) mà ta đôi khi được may mắn gặp, thêm hoài nghi là thứ bậc cổ đại, trung đại, cận đại, hay “hiện đại Đài Loan”, mặc dù có hoặc không dấu ấn. Quả vậy, nói đến đồ cổ là nói đến cái không cùng. Vấn đề thuộc loại “bất khả tri”, ta dành riêng và tôn trọng công việc của các nhà khảo cổ. Hãy nhìn cái trước mắt, nói câu chuyện hôm nay. Chuyện về thiên nhiên, cây cảnh. Thiên nhiên cũng là cái không cùng. Hiểu được đôi chút về nó cũng là khó lắm rồi. Người Việt vốn yêu tạo vật, chủ về cỏ, cây, hoa đá. Thời xưa, tình người gắn bó với tạo vật thắm thiết hơn nhiều so với thời này. Bởi cái vui buồn của con người sẵn sàng được chia sẻ với cỏ cây, bất cứ ở đâu cũng có cỏ, cây, hoa, đá, núi, rừng, sông, biển. Không gian không chật hẹp, thắt bó như thời đại mới này. Cái thú điền viên tồn tại trong bất cứ người mưu sinh nào đã quá thăng trầm, mệt mỏi. Nhà nào cũng cố thu vén kỳ được một mảnh vườn con, trồng rau đỗ xen lẫn trồng hoa. Nhà nho về già, bất đắc chí, càng cần bầu bạn cùng hoa lá. Rượu lưng bầu, thơ dăm bạn. Trồng hoa, cố nhân ưa nhất là hoa cúc. Yêu hoa gì đẹp bằng yêu cúc Cúc đã tàn rồi thật hết hoa. Trong trời đất, không còn cúc, chẳng còn hoa gì nữa. Yêu cúc mà sùng bái đến như vậy, kể thật quá si, quá đáng. Bởi nó hợp với người quân tử - “Diệp bất li thân, hoa vô lạc địa (lá chẳng lìa cành, hoa không rớt đất). Cao Bá Nhạ gặp lúc thời thế đảo điên, lẩn trốn về nơi hoang dã, nằm yên trong cảnh bần hàn “Cúc dăm ba khóm, mai vài bốn cây”, vậy thôi, mà cũng chẳng được yên, đầu vẫn rụng, không thể đọ cùng hoa cúc. Bình sinh, tôi ngày còn là anh học trò nghèo, trọ nhà một cụ đồ nho, ngày ngày đỡ cụ tưới hoa, chậu cảnh ở tỉnh Đông (Hải Dương). Cụ giảng giải cho nghe cái thú chơi cây cảnh, chủ yếu là lan, gần như đủ loài lan quý. Sau đó, rời vườn hoa nhà cụ, tôi về Hà Nội, lao vào cuộc sống, dần dần quên đi cái mộng điền viên. Cho đến năm tuổi đã xế chiều, tôi lại thấy thèm cái thú cây cỏ cũ. Tôi tìm đến mấy nhà chơi cây cảnh ở Hà Nội. Duyên may được gặp cụ Vĩnh (thường gọi là cụ Vĩnh Hàng Trống). Lần đầu tới viên môn bậc lão thành, tôi bất giác giật mình, bỡ ngỡ, tưởng như mình là anh chàng Từ Thức lạc Đào Nguyên. Mấy gốc mai già hoa lá kín nửa sân, lối đi lát đá phiến trắng, kẽ đá hở cho cỏ mọc. Hàng hàng chậu cảnh, mặt giàn, bể lớn, bể bé, đủ màu men xanh rêu, xanh bí, tím than, trong đó thạch lan, thạch cúc, thạch trúc, cùng các loại cây thế hình thù kỳ lạ. Cây dưới nhà trồng trong những bể, những chậu to. Cây trên sân gác, nhiều đến không đếm xuể, cũng chậu, bể, đủ hình đủ dáng, mỗi cây một vẻ, một bố cục riêng. Tranh của danh họa, tĩnh vật hay phong cảnh đẹp biết mấy thì cũng chỉ là phiến diện - một mặt phẳng thôi - Vĩnh lão gia ở đây, qua cách chơi cây, tài sáng tạo còn được người xem ưa thích hơn xem tranh vẽ. Tác phẩm của cụ Vĩnh - không nói phù điêu - đều nổi thành hình khối, phô trương màu sắc, đường nét ra bốn mặt. Người chơi cây cảnh bình thường thì cây thế nào cứ thế cắm vào lòng chậu, lấp gốc tưới hàng ngày, cây không chết là mãn nguyện rồi. Vĩnh tiên sinh trồng cây là sáng tạo. Cụ cắt xén cây, lột xác cây, biến dạng cây, trồng nghiêng, trồng ngả, ngọn xấu cắt đi, kéo cành lên thay ngọn, thân gốc bé lấy vỏ cây khác đắp vào cho gốc to hơn, kĩ thuật đắp gốc cây khéo đến không ai biết là gốc giả. Qua một cơn đau nhức, cây được nằm trong chậu, chờ được sống. Ngồi nhìn cụ cắt xén thân cây bé nhỏ mà cảm thấy xót cho cây, bởi tôi nghĩ nó cũng biết đau như con bệnh dưới dao giải phẫu. Tình cờ, tôi được trông thấy trong một góc sân kín một đống xác cây đã chết khô. Tôi lẩm bẩm: “Đống xương vô định đã cao bằng đầu”. Cái tò mò của tôi phạm đến tự ái nhà chơi cây bậc thầy. Cụ cười gượng, bảo tôi: “Tự cổ, mỹ nhân khó sống lâu. Bao Tự, Tây Thi, Hạ Cơ, Ly Cơ... đều yểu mệnh. Tôi giết cây kể đã nhiều. Tôi không tiếc. Thà hưởng cái đẹp của ngọc mỹ nhân dăm ba ngày còn sướng hơn chịu nhìn cái xấu nửa đời người”. Tài cắt xén cây, chọn cây, am hiểu tính nết cây, nhớ thời vụ hoa tàn nở, chúng tôi, môn đồ cụ, đều bái phục. Duy có điều không giấu được là cụ Vĩnh đôi khi xuất hiện nguyên hình là bạo chúa đối với cây. Tôi không thể quên lần xem cụ trồng một cây cực đẹp. Tôi đánh giá cây đó đứng vào bậc nhất vườn nhà cụ. Đột nhiên, cụ mài sắc lưỡi dao con, rồi cắt đứt ngọn cây, chẻ nát nó ra, bôi tí thuốc nâu vào. Tôi kinh ngạc nhìn cụ. Cụ bảo: “Đó là cây trời đánh. Nó mà sống thì mới lạ”. Thật lòng, tôi thương cái cây xấu số. Vậy mà nó cũng cố bám lấy cuộc đời được hơn một tháng. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: “Cụ ác tay quá. Mình lo ngại cho tuổi thọ của cụ ít lành”. Người chơi cây đã đọc Hồng lâu mộng, tất không thể không đọc kĩ vườn Đại Quan của Phủ Vinh, Phủ Ninh. Phải là Tào Tuyết Cần, một phong lưu công tử thi thư, con trai một nhà quan đã suy tàn, mới biết được cái đẹp của kiến trúc một vùng thượng uyển, cả cái mỹ quan, cái hùng vĩ của thiên nhiên được ngòi bút ông nhẹ phẩy trên mặt giấy như hoa như gấm, thực hơn cả thực. Sau Tào Tuyết Cần, còn một phụ nữ Mãn Châu, cô gái nghèo con một ông thợ giặt, biết tận hưởng cái đẹp thiên nhiên. Đó là Từ Hi Thái hậu cuối triều Mãn Thanh. Vườn nghỉ mát của Từ Hi chỉ cách Bắc Kinh năm dặm, phòng khi có biến thì kịp chạy về thủ đô, khi đó Anh, Pháp, Mỹ lăm le nuốt sống Trung Hoa... Vườn Đại Quan của Tào Tuyết Cần là kỳ quan vô nhị, qua một bức tranh vẽ trên thiên tiểu thuyết nổi danh văn học Trung Quốc. Còn Di Hòa Viên của bạo chúa Từ Hi Thái hậu là có thật. Cuối triều Mãn Thanh, quân Anh, Pháp, Mỹ đã xô nhau phá cướp báu vật, hủy diệt cây cảnh Di Hòa Viên. Nữ chúa lại bắt dân làm lại, y như cũ, do tự ái và hiếu thắng. Di Hòa Viên, người ta bảo hiện nay vẫn còn đẹp lắm. Mấy chục năm qua rồi, chơi cây vườn, tôi thích nhiều hơn các loại là mai, trúc, nhất là trúc, các loại trúc. Trúc trồng rất khó. Nói riêng về giống trúc mềm, cao, thân có chỉ xanh, người sành điệu mệnh danh nó là Tiêu Tương trúc, hoặc Nga Mi trúc. Chuyện kể: Vũ Vương ra trận bị tử vong (trận đánh lớn Tần Vương diệt Tây Chu, rồi diệt Đông Chu, rời chín đỉnh núi về Tần). Vũ Vương nhà Chu chết bên bờ sông Tương dưới chân núi Nga Mi. Hai bà vợ là Nga Hoàng, Nữ Anh đến đấy khóc chồng mấy ngày liền. Nước mắt hai bà nhỏ đến đâu, trúc mọc lên đến đấy. Thân trúc vàng, có ngấn xanh, bảo rằng đó là nước mắt. Người ta nói chơi rằng giống trúc này vốn hồng nhan. Mỗi lần đánh trúc lên, chuyển vội từ hố đất này sang hố khác cách nhau vài gang tấc, chỉ hôm sau là cây héo chết liền. Ngày xưa chơi vườn phải đủ tứ quý: thông - mai - cúc - trúc. Cao hơn nữa, còn đủ danh hoa, dị thảo, quái thạch, kỳ thư. Các bạn chơi cây, cố sao đạt được tiêu chuẩn siêu đẳng này của làng chơi ở thời buổi khó khăn này. Vườn cụ Vĩnh còn lưu sâu trong tôi, không thể nào quên: Một rừng đỗ quyên, hoa nở ngút ngàn. Trong rừng quyên, bên dòng suối, hai pho tượng nhỏ: ông trạng vinh quy ngồi ngựa, bà trạng đẹp tuyệt vời nằm võng. Bất cứ chậu cảnh nào của cụ cũng mang một chủ đề. Kia, một rừng thông trồng lối bạt phong, tưởng đâu rừng cây đang nổi gió. Đây, gã trò nghèo, theo sau một bé con quảy gánh sách trên vai lũn cũn chạy theo thầy trong rừng trúc, trèo non, vượt suối, nhập Tràng An. Hãy nhìn kĩ một tảng đá ong đặt trên đĩa nước. Trong đá gài bốn năm mầm chuối non, một chú bé dắt trâu qua đoạn cầu tre ngắn. Chỉ có vậy thôi mà người xem phải ngẩn ngơ suy nghĩ, nhớ về thôn xóm cũ. Nếu lại là một kiều bào, chỉ cần hòn đá cô thôn ấy đặt trên bàn, nỗi sầu xứ khôn nguôi, khó cầm nước mắt. Chậu cây cụ Vĩnh, đều có thơ, có họa, có nhạc, gợi người xem ít nhiều phải băn khoăn, vui lẫn nỗi buồn. Chơi cây hoa, nhất định không bỏ đỗ quyên. Loại danh hoa này xuất xứ tại làng Trình Xuyên, hữu ngạn dòng Trà Lý xuôi gần Nam Định. Ba loại: hồng quyên, tử quyên, bạch quyên, nở độ thu đông, không ưa nhiều nước, sợ nắng như lan, giữ gìn rất khó. Tôi mới chỉ nói qua về lối chơi ngoại cảnh, cây vườn. Còn cách trang trí nội thất thì cụ Vĩnh quả là một bậc thầy. Cũng như về chơi đá, cụ là một lão sơn nhân, sành sỏi về đá cứ như một đạo sĩ sống cùng với đá. Cụ hiểu đá hơn hiểu mọi vật trên đời. Nhân câu chuyện vui cạnh khay trà, cụ buông cây đàn xuống chiếu, lặng nhìn chúng tôi một lúc, rồi cất tiếng cười: “Tôi hiểu đá, tôi yêu đá... có thể ba kiếp trước, tôi là Bảo Ngọc trong truyện Hồng lâu mộng, từ hòn đá Nữ Oa mà chui ra nhập kiếp trần. Mai đây, tôi lại về với đá”. Cụ nói thêm: Xưa, kẻ hiền sĩ gặp xa giá Thiên tử ngoài đường, không biết cúi đầu vái lạy. Nhưng đi qua rừng núi, ngẩng trông thấy đá đẹp, hiền sĩ vội quỳ vái lại, gọi là “bái thạch vi huynh”. Không chơi đá, không thể được. Bao nhiêu cổ vật trên cõi đời này, thọ lắm cũng chỉ dăm ba ngàn năm. Còn đá, nó là thần khí của vũ trụ, tổng thể cả ngũ hành, đã trải hàng triệu triệu năm phơi mưa nắng, suối, thác đục rũa thành thủng nát, mài gọt nhẵn như tơ lụa. Đá này gọi là đá lũa. Đá lũa mới là đá quý. Hình dáng phải là cổ quái. Đá gai, nếu đẹp, chỉ là đá quý. Không thể là quái thạch so cùng đá lũa. Riêng về hoa đào, không chơi đào bích, màu đỏ chói như xôi gấc. Người thanh lịch chơi đào phai - cũng gọi là đào Vân Nam - có nhiều cánh, khác với đào ta cũng phai nhưng chỉ có năm cánh, mau tàn, Vĩnh lão gia gọi đào phai là “cung phấn nữ”, cùng chung tên với một giống trà. Cung phấn nữ, bởi nó phơn phớt má đào như các cung phi. Tôi vẫn ham muốn say nồng trong men tạo vật, mặc dù tuổi đã quá già, ham thích mọi sự coi như đã hết. Càng già càng hiu hắt, càng tiếc thương từng áng mây chiều, từng đóa hoa sớm héo, từng làn gió nhẹ xuân thu. Không còn gì nữa, ngoài dăm ba khóm trúc gầy, mươi khóm hoa hèn cỏ dại, mọc lẫn vào thanh thảo. Đôi khi cố công ngồi tỉa xén một hai búi cây hoang dại bờ rào do một ông già nông thôn mang đến nửa bán nửa cho. Sực nhớ bài thơ cũ, viết phúc đáp ông bạn hiền Đồ Đức ở thành Nam hồi sau năm 1954, khi ông gửi thư hỏi tôi độ này sống ra sao. Một mảnh sân con Một gian phòng nhỏ Dăm cành xuân cỗi Chơi với nước non. Có một may mắn lớn trong cuộc đời tôi. Kể từ bấy đến nay, ở đâu tôi cũng được sống cùng cỏ, cây, hoa, đá. Trước, ở phố Đặng Dung và nay ở đất Trung Tự. Âu đó cũng vui tuổi già; sau những ngày dài, chập tối, ngõ vắng lên đèn, một mình, bước thấp bước cao, lê đầu gậy, dạo một quãng cho đỡ đau xương cốt. Gần đây, tình cờ, đọc trang báo cũ, thấy câu thơ cổ do ông nào đó dịch, tôi lấy làm tâm đắc: Cảm thương khóm trúc bên khe đá Vẫn đứng trong mưa đợi chủ về... Tôi hình dung một ông già áo vải, dép cỏ, từng lê gót cả tám phương, công không thành, danh chẳng đạt, lại quay về khe đá, bạn cùng khóm trúc. Tôi cũng lại sực nhớ ông bạn thơ đất Vị Hoàng (cũng đã chết rồi) năm xưa gửi cho tôi: Ngõ trúc trăng vàng nhớ cố nhân... Thưa bạn đọc, ông bạn ở Hội cây cảnh Quyết Bội, Tây Hồ, có nhã ý đến thăm tôi, cậy tôi viết một bài trong dịp xuân này. Tự xét mình già yếu quá không còn sức viết, song quá yêu ông bạn trẻ, bữa nay cố ngồi nguệch ngoạc ít dòng theo kí ức. Viết theo thể tùy bút, nghĩ gì viết nấy, không bố cục, không văn hoa gì hết. Xin bạn đọc thể tất cho một cây bút về già. Sinh vật cảnh Hà Nội, 1992 Mối tình của Cựu hoàng C on người cõi thế gian này, qua nửa đời hay trọn kiếp, đều mang nặng muôn vàn thế sự, có khi ôn lại tưởng như sắp vỡ óc ra. May mà sức óc không có khả năng lưu giữ hết, nhiều sự kiện buồn vui lành dữ, theo dòng thời gian tuần tự trôi đi. Riêng tôi cũng vậy, biết bao nỗi thăng trầm, quên đi đã nhiều theo tuổi tác. Duy có một kí ức còn phảng phất trong đầu, hơn nửa thế kỉ qua rồi vẫn khó quên, nhất là sau một buổi coi bộ phim Ông hoàng đế cuối cùng - Phế đế Phổ Nghi cuối triều Mãn Thanh, Trung Quốc. Tôi sực nghĩ đến câu chuyện, hay là mối tình giữa ông phế đế Việt Nam Bảo Đại với cô ả Lý Lệ Hà. Thời phong kiến, sau bức rèm nhung, gấm vóc, có hoàng hậu, nguyên phi, quý phi, ái phi, cuối cùng là cung nữ. Tôi xếp Lý Lệ Hà vào loại ái phi của phế đế cuối cùng triều Nguyễn. Xưa mỹ nữ Tây Thi chỉ là cô gái quê đập lụa bến Trữ La, thì ở cuối thế kỉ này, ái phi của cựu hoàng Việt Nam cũng là một cô gái xuất thân lam lũ tại miền biển Chợ Cồn, Văn Lý thuộc Thái Bình. Tây Thi xưa còn có Phạm Lãi đi tìm, đem về nước Việt, dạy làm đẹp, dạy múa hát rồi chính yêu nữ ấy đã giết vua Ngô, kẻ thù của vua Việt, đốt cháy Cô Tô trên mười dặm, ba tháng liền không hết lửa. Thời ấy, ái phi Lý Lệ Hà, tự tìm đường lên Hà Nội, tự lột hình cô thôn nữ, trở thành một mỹ nhân, ăn nói vô cùng giảo hoạt, đi đứng kiêu kỳ, trang phục hơn một cô gái xuất thân quý tộc, lẹ hơn nữa là cô ả tự học ra sao mà nói tiếng Pháp như đầm trong khi không hề đọc được một chữ Pháp. Bước đầu vào Hà Nội, Lệ Hà tạm náu mình trong xóm Bình Khang tức Khâm Thiên. Chỉ một thời gian ngắn, Lệ Hà bỏ nghề kĩ nữ, thuê căn gác khá sang trọng 15 ngõ Trạng Trình (nay là ngõ Liên Trì). Căn gác này vụt trở thành một thứ mê cung chứa đủ mặt nhân vật văn, võ Pháp, Việt cao cấp của chính phủ quốc gia. Trong những ngày quốc trưởng Bảo Đại ở Huế, Đà Lạt, mải mê săn bắn và tửu sắc thì hoàng thân Vĩnh Cẩn luôn luôn ra Hà Nội tìm thú chơi bời. Ông hoàng bé nhỏ, loắt chắt, láu lỉnh như con khỉ Tôn Hành Giả này, qua một đêm khiêu vũ đã chìm đắm nơi mê cung Lý Lệ Hà. Chỉ ít ngày sau, Vĩnh Cẩn dâng nộp Lệ Hà cho quốc trưởng. Thế là ông vua hiếu sắc mê say ả Lý, luôn tìm cách ra Bắc, gặp con yêu nữ. Chuyện này, cả Hà Nội biết, và cũng bay đến tai Từ Cung Thái hậu và bà hoàng Nam Phương ở kinh đô Huế. Mối tình Bảo Đại - Lý Lệ Hà nửa âm thầm, nửa ầm ĩ kéo dài cho đến năm 1945, năm dữ dội của lịch sử Việt Nam. Bảo Đại từ năm ấy, rời vương miện, trở thành công dân Vĩnh Thụy, cùng Lệ Hà tạm trú tại ngôi nhà lớn 51 Trần Hưng Đạo. Một đêm, Lý Lệ Hà, xuân đã bắt đầu tàn, thủ thỉ kể tôi nghe về nỗi vinh nhục trong mối tình vương giả ấy. “Qua mấy tháng tạm trú tại 51 Trần Hưng Đạo - Lệ Hà nói vậy - lão ta rất buồn (Lệ Hà lúc nào cũng gọi Bảo Đại là lão ta). Lão chỉ thở dài, không nói năng gì hết. Ăn, uống cho gì nhận cả không hề kêu ca, nhăn nhó. Ngày ấy là 30 Tết âm lịch. Lão ta, càng lì lợm, ra bao lơn đứng nhìn xuống phố. Lão khẽ vỗ vai tôi: “Buồn lắm Hà ơi! Biết làm sao được bây giờ?” Giọng Huế khó nghe, nhưng mình đã cố học nghe và học nói giọng kinh đô với lão. Lúc đó, trời đổ tối. Mình chợt nghĩ ra và reo lên: “Có cuộc vui rồi. Theo phong tục người Hà Nội thì hàng năm, cứ đêm 30 Tết, sắp giao thừa, mọi người kéo nhau đến đền Ngọc Sơn làm lễ, đông vui lắm. Chúng mình chờ gần giao thừa, sẽ cuốc bộ đến Ngọc Sơn”. Lão mỉm cười gật đầu. Gần 12 giờ khuya, mình và lão, mặc rất bình thường, tản bộ giữa dòng người đến Ngọc Sơn. Lão vua này dừng lại, ngơ ngác ngắm cảnh Hồ Hoàn Kiếm, ngơ ngác nhìn cây Bút Tháp đồ sộ, ngơ ngác ngắm cầu son Thê Húc nổi danh của đất Thăng Long. Lão lẩm bẩm khen là đẹp. Có thể đây là lần đầu tiên ông vua đất nước Việt Nam lưu ý đến cái đẹp kỳ lạ của cố đô lịch sử, cũng ngơ ngác, cũng ngẩn ngơ xa lạ như một người ngoại quốc từ đâu mới đến đây lần thứ nhất. Cầu Thê Húc chật người. Mình nắm chặt tay lão, cố gạt nhẹ mọi người, giúp lão lách được cái thân hình to béo. Vào tới đền, thốt nhiên lão bảo mình, giọng nói cao hơn mọi lúc: “Cô vào đốt cho tôi một nắm hương, đem mau ra cho tôi”. Mình mang vội nắm hương đã đốt cháy, đưa qua tay lão. Lặng lẽ, trịnh trọng, như là những khi lão hoàng đế trẻ này quỳ trên đàn Nam Giao, làm lễ cùng bá quan, lạy trời đất. Mặt quay về phương Nam, lão lẩm nhẩm khấn lạy linh hồn tiên vương tiền đế, cúi lạy cả đức Từ Cung Thái hậu (còn sống) và gửi lời chúc tụng cả cho Nam Phương Hoàng hậu. Mình cố gắng nghe lão vua khấn khứa, quả tình mình cảm thấy lòng xúc động. Cái đêm 30 Tết, đêm giao thừa, con người, không kể gì quý tiện, tà chánh, đều có một lúc thay đổi hồn xác. Lưu lạc giang hồ bấy lâu nay, chính mình cũng muốn khóc, nghĩ đến cái vùng biển chợ Cồn nghèo khổ, nơi mình cũng đi mò cua bắt ốc nuôi thân. Dòng người mỗi lúc thêm đông, tiếng ồn ào dữ dội quá, mình vội thúc lão khấn khứa ít thôi. Lão gật đầu, ném bó hương xuống nước Hồ Gươm. Mình lại cố gạt nhẹ mọi người, kéo được lão qua cầu, đến chân Bút Tháp, chợt thấy ông thầy bói, đeo kính đen, chẳng biết mù thật hay mù giả. Mình bấm lão ngồi thụp xuống trước ông thầy bói. Lão to béo, khó khăn lắm mới ngồi xuống cạnh mình. Đặt tiền xem quẻ xong mình khẽ nói với ông thầy: “Ông hãy xem tướng tay ông bạn tôi đây, coi xấu tốt ra sao. Chỉ cần thế thôi!” Lão vua không chịu đưa bàn tay ra, sợ bẩn. Mình phải nài ép, kéo bàn tay lão đặt vào tay ông thầy. Ông mù này, vừa nắm bàn tay mềm nhũn như bông của ông vua sờ sờ nắn nắn, bỗng ông ta rụt vội mấy ngón tay lại như bị bỏng. Giọng ông thầy bói thều thào, nói nhỏ: “Ngài là quý nhân. Tôi không dám nói gì hơn. Chỉ xin thưa rằng ngài sắp đi xa, xa lắm, khỏi đất này”. Mình và lão đưa mắt nhìn nhau. Mình vội đứng lên, kéo lão đứng theo rồi lại len lỏi trong dòng người, cuốc bộ về Trần Hưng Đạo. Suốt dọc đường lão vua như con chim sắp sổ lồng, cúi đầu bước, mình cũng vậy, không nói một câu nào. Quả nhiên, ít ngày sau, cố vấn Vĩnh Thụy được tuyên bố câu: “Làm dân một nước độc lập tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”; rồi đó, phế đế Bảo Đại được bay sang Hồng Kông, theo sau đó cựu thần thủ tướng Trần Trọng Kim và mình. Đến đất Hồng Kông giàu có, mình bị ngợp, lo sợ quá, bởi không có nhiều tiền, lão và mình thuê một khách sạn tồi tàn. Trần Trọng Kim cũng ở một khách sạn nghèo nàn khác. Ở nơi đất khách càng buồn, lão và mình ăn uống kham khổ, chiều tối ra đường phố, nhìn ngắm cái giàu sang người thiên hạ. Có một đôi lần thấy lão quá sầu, mình dắt lão vào cái bar nho nhỏ, loay hoay tìm một cái bàn ở góc tối tăm, kín đáo. Thế mà, chưa kịp ngồi, làm sao mà ban nhạc bar lại nhận ra cái bộ mặt rầu rĩ của anh vua xa nước. Tức thì một bài “Valse royale” (bài nhảy nghênh giá, theo phong tục phương Tây) vang lên. Ban nhạc sống vô cùng trang trọng chơi bài đó; đồng thời ông chủ khách sạn bước ra cúi rạp đầu, cung nghinh vị phế vương. Lão và mình cố giấu vẻ luống cuống, cố gắng lấy bộ thản nhiên vương giả giả tạo, nhưng vẫn không bỏ cái bàn nhỏ ở góc tối tăm sau khi lão và mình cố gắng gượng nhảy hết điệu vũ cung đình ấy. Ngồi mấy phút, mình kéo lão rời phòng nhảy. Ra đường, mình toát mồ hôi lạnh, xót món tiền vừa phải xổ ra trả giá chai sâm banh thượng hạng và tiền thừa trên đĩa “Đức vua” rộng thưởng cho ban nhạc. Đói quá, trong túi mình không còn lấy một xu, lão thì chẳng bao giờ có một tí tiền. Thì từ thời xưa cũng vậy, chưa có một ông vua nào có tiền trong túi. Nhưng khủng khiếp nhất là sự kiện đã xảy ra: nhịn đói, đội rét, bò được về tầng thứ 13 của khách sạn thì lão và mình hết thở. Tuy mệt, theo thói quen, cứ đi đâu về là linh tính bảo mình phải mở ngay tủ áo, rút ở một góc kín chiếc giày cao gót của mình ra xem. Ôi chao, trời nghiêng đất lệch. Cái gót giày tám phân rỗng, trong đó mình giấu tất cả tế nhuyễn riêng tây, vàng, kim cương, đã biến hết cả rồi. Mình bỏ rơi chiếc giày xuống thảm, ngã lăn ra đệm đi văng, ngất xỉu đi. Lúc sau, mở mắt ra, thấy lão đang gục xuống vai mình. Lạ hơn nữa là lão khóc. Ôi, lão khóc thật sự, một điều không bao giờ mình chờ đợi ở con người lầm lì, chai đá ấy. Cũng kể từ tai nạn ấy, lão càng buồn phiền hơn trước. Lão ghé tai mình: “Vụ này, tôi đoán, không phải là điệp viên Pháp lấy cắp đâu. Mà chính tụi Pháp thuê điệp viên Intelligence Service của Anh làm đây. Mục đích: “Bần cùng hóa” một anh vua khốn khổ để rồi phải tìm đường quay về với chúng”. Đây, lần đầu tiên, lão vua lầm lì tỏ ra sáng trí và nói hơi nhiều như vậy. Một buổi tối trời rét cực kỳ, hai đứa mình theo thường lệ, lang thang mãi mỏi nhừ chân. Lão vua dừng gót trước tủ kính sáng choang của một hiệu bán đủ loại đàn. Lão ngắm nghía với cặp mắt thèm thuồng, rồi ngần ngừ khẽ nói: “Ước chi có tiền mua cây đàn gảy chơi cho đỡ buồn”. Thật là tội nghiệp! Mình đành phải vét hết túi trong đến túi ngoài, liều mua cây guitare loại đẹp nhất. Từ bữa đó, lão từ chối không ra phố, nằm miết hoặc ngồi lì bên cửa sổ khách sạn, gẩy đàn. Mình thiệt không ngờ lão có tài âm nhạc, không những chơi các bản cổ kim danh tiếng của Tây phương, mà còn chơi cả nam bằng, nam ai... xứ Huế. Mình khen ngợi, lão mỉm cười: “Tôi là học trò của nhạc sư đệ nhất thần kinh, đó là ông Ngũ Đại. Tôi vẫn thường gẩy đàn hầu Thái hậu. Người rất vui lòng”. Lão trọng thần tòng vong Trần Trọng Kim, lâm vào cảnh đói nghèo, vô phương cầu cứu, vài ba lần mò đến hỏi xin mình. Tất nhiên mình buộc phải khước từ. Mình đã bán đến chiếc nhẫn cuối cùng, chờ sống chết, lấy đâu ra tiền đưa ông. Sau đó, tuyệt nhiên không thấy vị lão thần đến vấn an cựu hoàng như trước nữa...”. ... Thì ra, sau thời gian ngắn sống lưu vong ở Hồng Kông với ái phi Lý Lệ Hà, Bảo Đại tìm đường qua Pháp, ông Trần Trọng Kim tìm đường về nước, sống ít ngày tàn trong căn nhà cũ phố Hàng Chuối Hà Nội, rồi nhắm mắt xuôi tay trong niềm phẫn hận, cô đơn, đời không ai nhớ đến. Lệ Thần! Một học giả, một sử gia. Mỗi lần ngó tới cuốn Việt Nam sử lược, và cuốn Nho giáo tôi không khỏi chạnh lòng nhớ ông già cô trung ấy. Và tôi cũng không thể quên cái sống oan chết uổng của Tử Trường Tư Mã Thiên triều Vũ Đế... “Lão vua vẫn mộ đờn, quên mọi sự. Về tình dục, lão vốn nổi danh là quỷ vương không mệt mỏi. Vậy mà, ở giai đoạn này, lão tỏ ra thờ ơ lạnh lẽo với tôi, với những mỹ nhân đất Hồng Kông”. Cột báo có hạn. Tôi tiếc không viết được trọn câu chuyện Mối tình của Cựu Hoàng, ít nhất phải ngót 300 trang với nhiều biến cố có ít nhiều tính chất sử liệu. Cho phép tôi dừng bút. Để kết thúc, tôi xin nhắc đến việc này: Cũng một buổi đêm, Lý Lệ Hà (Trà Hoa Nữ của tôi) đưa tôi xem mảnh giấy - một bức thư tuy đã ố vàng qua bán kỷ, vẫn còn thoang thoảng hương thơm. Tôi đọc: “Em Lý Lệ Hà thân quý. Chị ở xa đức Cựu Hoàng hàng mấy vạn dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng hết sức chăm sóc Cựu Hoàng ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi Cựu Hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung Thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị Nam Phương”. Cửa Việt, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị, số 12 Xuân Nhâm Thân, 1992 Cái kiểu người Hà Nội T rời rét ngọt. Đài báo thế. Tôi tự cho mình có cái thói quen lẩm cẩm là cứ thích ra đường dưới những cơn mưa, cơn gió. Phố phường có một bộ mặt riêng khi trời mưa gió. Nó âm u, buồn bã mang một nỗi buồn mênh mang man mác, gợi nhớ gợi thương. Nhớ những người thân ở các nẻo chân trời xa, xa lắm. Thương những người thân yêu đã khuất mà ta đã tiễn đưa trong cơn mưa bất chợt, sấm chớp lóe trời. Nhớ thương được phơi rãi ngoài mưa gió mọc cánh mà bay, hơn là giam giữ nó trong xó buồng kín mít nặng tiếng thở dài. Tôi, già yếu lắm rồi vậy mà cái tính lẩm cẩm ấy vẫn đang mang. Tôi nghe có tiếng người ngồi trong nhà, né tránh mưa dưới mái hiên khúc khích: “Cái lão già kia trời đày, không sợ ốm chết à!”. Tôi không hề cảm sốt. Phơi mưa gội gió về vẫn như thường, con cháu rất ngạc nhiên. Đôi vế đùi đi bước nặng, như có chì đeo, tôi vẫn đều đều bước. Đến một phố có nhiều nước từ lá cây rơi xuống đầu, không cần nhìn biển phố, tôi cũng biết đó là phố Phan Thanh Giản (nay đổi là Nguyễn Hữu Huân). Tôi dừng bước, ngắm nhìn một chú bé mươi mười hai tuổi, gày gò bé choắt, áo quần mong manh ướt sũng đang dang vòng tay ngắn ngủi ôm thân cây lớn bên hè, ngoi lên nhanh thoăn thoắt. Đôi bàn tay nó và bàn chân nó dính chặt vào thân cây như có đanh đóng chặt vào, nó bật người lên như con khỉ rừng, chớp mắt đã biến mất trên những cành lá um tùm. Nó leo lên cành đại thụ ấy làm gì? Những người đứng dưới mái hiên tránh mưa, tôi cũng vậy, đều đưa mắt hỏi nhau, không ai đoán được cái trò chơi này của nó. Một ông già bỗng bật cười, nói bâng quơ, không ai nghe, ai đáp: “Thằng oắt này lớn lên sẽ làm to. Nó sẽ tận dụng cái tài leo cây này leo lên “cây danh vọng”, tất nhiên sẽ trúng, sẽ đạt, không cần ai dạy dỗ, con cháu mình thua nó, sẽ thờ nó là thầy. Thằng này bé đã biết thời cơ, luyện leo trèo tự bây giờ. Giỏi lắm!” Tôi mỉm cười, thầm thưởng thức câu nói đùa của ông già. Chợt từ một ngôi nhà cũ kỹ, có lẽ xây từ thời bạch chủng cướp chiếm Thăng Long, bay ra một mùi thơm quen thuộc, gợi cho người ta quên cái rét gió mưa. Đó là mùi thơm của cà phê rang. Tôi vốn nghiện cà phê, nhưng bệnh ruột bắt tạm bỏ cà phê ít tháng. Nay lại đột nhiên gặp bạn tri âm, người tôi nóng hẳn lên, huyết mạch xốn xang trong cơ thể. Ngó nhìn vào trong nhà, ánh điện tranh tối tranh sáng, tôi biết là tiệm cà phê, dứt khoát bước vào. Mưa lưu giữ khách. Có đến hơn chục đầu người đang sát kề nhau tán dóc. Không còn một ghế ngồi. Tôi ngơ ngác nhìn vào căn phòng trong, cũng tranh tối tranh sáng, nhưng một linh cảm cố hữu trong tôi nó báo tôi biết đây là một phòng tranh lớn, một kho tác phẩm hội họa, chủ nhân có lẽ là một nhà sưu tầm, một danh họa nào đây. Tôi chào cô gái nhỏ bán hàng sau cửa sổ, xin phép vào thăm hỏi chủ nhân. Cô gái tươi vui nhanh nhảu mời tôi: - Xin bác cứ vào, bố cháu ngồi trong ấy. Tôi vào. “Bố cháu” là một người không già, chẳng trẻ, một người không có tuổi, cơ thể gầy còm, quần áo xềnh xoàng, ngồi bó gối trên chiếc ghế gỗ khá to, cắm cúi trên một tập sách dày, vẻ đăm chiêu suy nghĩ, không ngẩng lên nhìn khách lạ. Tôi đằng hắng, lúc đó mới được trông mặt chủ. Ông từ tốn đứng lên, vái chào tôi. Tôi đảo mắt nhận xét nhanh toàn bộ phòng tranh thầm nhủ đây là một tay chơi tranh có cỡ. Ai vậy? Phải chăng là cái ông “Lâm cà phê” gì đó, mình nghe người ta đồn đại cái tên ông đã lâu ngày. Chủ thủng thẳng mời khách ngồi, pha nước. Tay bưng tách trà mời khách, mắt ông hé mở nhìn thẳng mặt tôi, chợt bật tiếng khẽ reo lên: - Ơ, tưởng ai hóa ra ông... Tôi sững sờ, cắt tiếng ông. - Tôi cũng vậy, hóa ra nhờ mưa đưa đẩy tôi đến ông tướng chơi tranh. Ông Lâm, cái tên tôi đã quen tai, và mắt thì chưa thấy. Vẻ vui mừng hiện trên mặt chủ nhân. Ông không gọi con gái bưng cà phê khách uống ngoài hàng, mà đứng dậy lấy bộ “phin” mới, trắng tinh, tự tay pha mời tôi thứ cà phê đặc biệt với thuật nhà nghề. Trong lúc ông loay hoay tìm chai rượu tây quý giá trong tủ sách, cũng có thể gọi là kho sách quý đủ loại, tôi nhìn cái lưng còm cõi của ông, nhìn cái tách mà cà phê đang rỏ giọt, tai nghe tiếng mưa nặng hạt ngoài hiên, cảm khái nhớ câu thơ cổ: Sông hồ lần lữa thôn dâu Giọt rồng xuân điểm, ngày thâu chìm chìm. Tôi thưởng thức tách cà phê nóng, pha một thìa rượu rum. Cái hương vị vạn thuở này mất đi mới một thời gian vài tháng mà tưởng như đã qua đi vài thế kỷ ở trong tôi, giây phút gió mưa rét mướt này, tưởng như sống lại. Cái nghệ thuật (hay là cái đạo) pha trà, pha cà phê, nấu rượu ta thưởng thức thì được, nói ra thì khó. Cái khó ấy, các cụ tổ ta, đã qua nhiều thời đại, nói đến rồi. Ta học lỏm các cụ, chỉ thực hiện được phần nhỏ đấy thôi, sánh sao được cái phong lưu tiền bối. Tách cà phê cho tôi tỉnh táo. Lúc này, chúng tôi mới nói tới tranh, mà đề cập đến tranh tức là làm lễ chiêu hồn một số đông nghệ sĩ tài hoa mệnh mỏng đã từ lâu, hoặc mới gần đây, ném bút nghiên, giã từ cõi tạm này về nơi cảnh ảo. Lẫn tâm trạng như tôi, ông Lâm đột nhiên vẻ mặt buồn rầu, ít nói. Phòng dưới nhà, phòng trên gác có chừng tới ngót nghìn tranh, đủ loại, đủ đề tài, trường phái, kỹ thuật khác nhau. Đây là một kho báu ngọc, tụ hội gần trọn vẹn cả một kỷ nguyên hội họa, kể từ đầu thế kỷ hai mươi. Trẻ xưa hát: Rồng vàng lấy nước được mùa Cọp trắng giữ nước chúa vua đi cày. Tiếng trẻ nít hát vui, thế mà bạch quỷ một dạo nhân Cần Vương văn thân nổi khắp, đã nhộn lên bắt bớ, tra hỏi ai dạy chúng! Tri kỷ thân tình dễ buộc. Chỉ trong chốc lát, ông Lâm đã dễ tỏ lòng gắn bó với tôi. Hai căn nhà đồ sộ chất đầy tranh các danh họa (phần lớn là bạn tôi); tranh treo dưới nhà, trên gác không phân loại trường phái, chất liệu sơn mài, lụa, giấy, cũ, mới. Có tranh Tardieu, Jonchères, Ingembety - “thầy của những bậc thầy”, chính các ông này tự phong mình như vậy. Jonchères tự đắc rằng: Các anh họa sĩ Việt chỉ đủ sức vẽ tranh lụa, sơn mài. Còn tranh sơn dầu phải có tài cao mới vẽ nổi. Họa sĩ Việt ức lắm, không dám cãi. Duy có Tô Ngọc Vân dám viết báo Volonté một bài dài: “Các ông đừng tự phụ, họa sĩ Việt Nam chúng tôi đủ sức sáng tác những tác phẩm lớn với đủ chủng loại, có thể nói là còn làm những cái khó hơn các ông đang làm, đó là điêu khắc, phù điêu...” Jonchères tức lắm, nhưng không làm gì nổi Tô Tử (tức bút hiệu Tô Ngọc Vân). Thời cũ, trong số họa sĩ, Tô Tử có học thức hơn cả, dám bút chiến với thầy Tây ba bài liền bằng Pháp ngữ phong phú của ông. Lâm kéo ghế gần tôi. Vui câu chuyện, tôi ngắm con người yêu nghệ thuật bé nhỏ lành hiền, đĩnh đạc này, tự nhiên nảy ra ý nghĩ tâm sự về đời riêng kín của ông. Một cuộc phỏng vấn không cố ý: - Ông có thể vui lòng cho tôi biết chút ít về thân thế chìm nổi của ông kể từ ngày thơ ấu. Giọng Lâm ngậm ngùi, nén tiếng thở dài: - Tôi sinh năm 1930, chính quê Hà Nội. Tổ tiên tôi ở phố Nối, Hưng Yên, huyện Mỹ Văn, ra Hà Nội sinh sống tới tôi là bảy đời, ở vùng An Giám, cạnh Văn Miếu. Ông nội tôi ra Hà Nội dạy học, dời thôn xóm đưa cả cháu con ra đấy. Pháp lấy đất gia đình tôi đang ở làm sân vận động Hàng Đẫy. Bố mẹ tôi phải ra ở bãi Phúc Tân. Nhà quá nghèo tôi không được đi học đành xin học ở mấy trường làm phúc buổi tối, như trường Nguyễn Du, Khai trí tiến đức, Hàng Quạt... Mười lăm tuổi, tôi theo anh ruột vào Sài Gòn tìm việc kiếm cơm, nhưng bé quá, không ai thuê mướn. 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, tôi ra Bắc, ngày ấy lên tàu hỏa trốn vé, vì không có một xu, nhịn đói và trốn lẩn trên các toa tàu đã ba ngày đêm, tưởng chết. Năm 1945, vừa lúc Nhật làm dân Việt Nam chết đói, tôi vẫn ở cùng bố mẹ tại bãi Phúc Tân, Hà Nội. Bố mẹ tôi chạy loạn trước một tuần cùng các em về Yên Đổ huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, quê ngoại. Nơi đó, mẹ tôi là cháu xa cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Đầu 1949, gia đình vào huyện Nho Quan, Ninh Bình tìm kế sinh nhai. Tôi theo bà con đi làm các nghề nhỏ mọn chẳng đủ ăn. Sau phải đi làm tiều phu kiếm củi ở Nho Quan, vác ra chợ bán, chạy bom chí chết. 19-2-1949, gia đình theo bà con hồi cư về Hà Nội, ở 3C phố Hàng Vôi. Ngày 1-1-1950, tôi đóng cái gánh gỗ, bán cà phê. Sau đóng xe gỗ có bốn bánh đẩy từ sớm đến khuya, ngồi ở gốc đa Sở Kho bạc trông ra vườn hoa Chí Linh. Sau đó vợ chồng tôi lại quẩy gánh ra đỗ ở bờ sông cạnh nhà máy nước đá. Các nghệ sĩ như Thái Thanh, Thái Hằng... chiều thứ Bảy hàng tuần ra hát ở vườn hoa Chí Linh uống cà phê với các văn nghệ sĩ. Tôi nghèo khổ, túng thiếu, lại được bẩm sinh cái tính yêu tranh, yêu các văn nghệ sĩ đến uống cà phê. Các ông ấy quá mến tôi, bỏ công sưu tầm tranh cho tôi. Tôi đã sung sướng có trong tay tranh cụ Nam Sơn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Sĩ Ngọc, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Thường Huân. Các họa sĩ đã tặng tranh, lại tìm thêm cho tôi các đồ cổ, sách cổ. Ông Nguyễn Tuân, Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan... cũng cho tôi sách với những lời đề tặng quá thân yêu khiến tôi đưa tay nhận sách mà đỏ mặt. Tôi thường nói với các ông Sáng, Phái: “Sau này, khi chúng ta chết cả, sẽ có người đến 60 Nguyễn Hữu Huân hỏi lại đời sống của họa sĩ các ông”. Tôi tin như vậy, vì người nước ngoài bước chân đến Việt Nam đều phải kinh ngạc về văn hóa, văn học Việt Nam. Trước mình “khép cửa” nhiều năm, tiếc quá. Nay đến ngày “mở cửa” thì các ông đã đi rồi. Khá nhiều đại biểu, du khách nước ngoài đến gian nhà đầy tranh của tôi xem kỹ từng bức, hỏi kỹ về tiểu sử, đức tính, tài năng, sinh hoạt của từng ông với tấm lòng kính phục. Lâm nói một hơi dài, say sưa với cái phác họa dĩ vãng thăng trầm của mình. Tôi để ông nghỉ ngơi với tách cà phê nóng rồi hỏi tiếp: - Ông có vẻ đã luống tuổi, nghe sức sống ra sao, và nghĩ gì về cái gia tài quý giá này khi lưu truyền cho con cháu. - Tôi nghe đã yếu rồi. Tôi đã di chúc cho con trai tôi là Nguyễn Văn Tùng. Nó cũng có máu yêu nghệ thuật, có khả năng lưu giữ cái kho tàng sách, tranh, đồ cổ dưới mái nhà cổ lỗ này. Tôi hi vọng vậy, trong vạn vật đổi thay... Rồi tiếp: - Riêng từ 1960 đến giờ, tôi nghiên cứu đạo Phật và kín đáo làm việc thiện như giúp các nhà sư tu sửa chùa chiền cũ nát. Lâm ghé tai tôi đỏ mặt thầm thì: “Ông Nguyễn Tuân, Văn Cao, Sáng, Phái, Liên đã có lần bảo tôi là Mạnh Thường Quân của văn nghệ sĩ”. Câu chuyện đến đây ngừng lại, vì có hai người ngoại quốc đến xem tranh. Tôi vốn là người yêu hội họa, gặp được người cũng yêu tranh, nhất là người ấy lại là một cậu bé nghèo, vô cùng nghèo, sống lầm than khổ hạnh với đủ nghề, đi ở, kiếm củi rừng, quạt nước sôi đầu phố tối ngày, pha cà phê tuyệt hảo, hết lòng kính trọng, phục vụ các văn nghệ sĩ, rồi từ tay không nhờ cà phê mà trở nên chủ nhân danh tiếng một kho tàng văn hóa... Người bé mà chí lớn. Đấy, cái kiểu lập thân, lập trí, lập danh, lập nghiệp của con người Hà Nội là như vậy. Người Hà Nội, số 8-9 / 1996 Bóng đá Việt Nam thời xưa P hong trào bóng đá ở Việt Nam thịnh hành vào những năm 1925, từ Sài Gòn đến Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Hồi ấy tôi còn ít tuổi, mê đá bóng hơn là học chữ. Cứ đến ngày cụ Đồ Tốn tới trường dạy chữ Nho là lũ quỷ ham bóng đá bỏ học, nhét sách vào cạp quần, kéo đến bãi cỏ Măng Danh, quần nhau với trái bóng cao su, gọi là “bóng xanh”. Suốt dọc các phố lúc đông người cũng như lúc vắng xe cộ, lũ trẻ làm nhộn thiên hạ bằng quả bóng làm bằng giẻ rách, chân đá miệng thét vang “bắt này, gôn Nhuận đây, thách đấy!” Gôn Nhuận có tài bắt bóng cao, bóng sệt, nhảy nhót như con vượn. Các đội bóng Tây, ta đều phải bó tay, không sao đưa được bóng vào khung thành của Nhuận. Thời ấy, luật bóng đá rất đơn giản, trọng tài, cả Tây lẫn ta không thổi phạt việt vị như bây giờ. Mỗi khi năm bảy cầu thủ dẫn bóng vào vòng cấm địa, đưa bóng đến cửa thành đối phương, là lao vào người giữ gôn, kẻ húc đầu, kẻ đánh khuỷu tay vào mặt gôn, kẻ đạp cho gôn ngã. Người giữ gôn như gôn Nhuận, lanh lẹ, khôn khéo, tránh né đòn địch thủ, tung người nhảy vút lên hắt bóng sút góc cao, hoặc lăn mình trên mặt cỏ ôm bóng gọn vào lòng, chịu ăn đòn, rồi lại vùng đứng lên, không hề nhăn nhó hoặc nằm ăn vạ trong những tràng pháo vỗ tay rầm rộ của hàng vạn khán giả trước nay vẫn tôn sùng gôn Nhuận là Vua Nhuận, vô địch trong số đông thủ thành Sài Gòn, Cao Miên, Lào, Gia Định. Ở Hà Nội, đội bóng đàn anh là Stade Hanoien, đội cao giá nhất, rồi đến đội Eclair với thủ quân có tài năng rõ rệt là ông Trần Văn Quý, làm giáo học, người cao gầy, rất đạo đức, không hề cho phép cầu thủ đồng đội chơi dữ, lấy nghệ thuật làm trọng, rất được lòng khán giả. Bên bờ sông Hồng hồi ấy (gần Viện Bác Cổ) có một bãi đất bỏ hoang. Đội Eclair lấy nó làm bãi tập, cũng là bãi đấu những trận lớn, khi tiếp đội bóng trong Nam ra, khỏi phải nhờ bãi Măng Danh thường gọi là “bãi nhà binh” của quân đội Pháp. Đội Eclair là địch thủ đáng gờm của Stade Hanoien. Thủ quân Trần Văn Quý, hậu vệ thành trì của toàn đội, nhiều pha nóng mắt, một mình dẫn bóng xông đến cửa gôn Nhuận, sút như trái phá, cố tình đè bẹp gôn Nhuận, nhưng trái bóng dù ác hiểm bậc nào vẫn nằm trong bàn tay mềm mại của Văn Đức Nhuận, vua gôn. Dân Hà Nội giữ truyền thống yêu chuộng thể thao từ thuở xa xưa ấy. Mong chờ mỏi mắt ngày Chủ nhật, bàn tán về bóng đá, chê khen không biết mệt các danh thủ của từng đội mà người ta có cảm tình đặc biệt. Dân chúng mê đá bóng ngang với mê tài tử lừng danh màn bạc. Bóng đá là tất cả. Cả Hà Nội sôi lên mỗi khi được tin một đội bóng nổi danh từ Pháp quốc đang trên đường sang Hà Nội. Sân cỏ Măng Danh ngày ấy là sân bóng duy nhất, một bãi cỏ hoang tàn, gồ ghề, lồi lõm, một phía sân trồng mấy cây hoa phượng, có tí bóng mát cho dân chen chúc với các gánh bánh tôm, mấy bà bán quả me, quả sấu. Lũ trẻ con thì trèo lên tận ngọn phượng vĩ làm khán giả nỏ miệng reo hò khi đội ta thắng và chửi rủa đội Tây phần đông là lính lê dương đủ màu da chơi đểu hoặc bại trận. Cũng có buổi đấu lớn, Tây bán vé, nhiều buổi cho khán giả vào, không lấy tiền. Cửa vào cứ đi thẳng từ cổng chính, gọi là cổng tỉnh, vào bãi. Chúng không hề canh gác về an ninh, trật tự đối với dân bản xứ mà chúng coi thường là không dám nổi loạn, không dám giở trò gì trước sức mạnh lính lê dương, súng đạn của chúng. Tôi nhớ một buổi tranh hùng giữa đội bóng đầu bò của Hà Nội là đội bóng Nội Châu, đội thứ nhì đứng sau Stade Hanoien với đội Tây gọi tắt là đội Service. Đội Nội Châu là tập thể mười lăm cầu thủ làm đủ các nghề, nghèo lắm. Có một anh thương gia tư sản cực giàu, chủ cửa hàng sắt, tên gọi Đặng Văn Học, cũng có máu yêu bóng đá. Anh còn trẻ, thích cái tiếng “Mạnh Thường Quân”. Anh triệu tập cầu thủ danh tiếng sẵn như Luyến hói, Tòng đen, Lựu lùn, Ung, Cư, Hợi... bỏ tiền may quần áo, mua giầy, mua bóng da, đặt lập tên đội, rồi lập tức ra quân, thách đấu với đội Pháp trong đó phần đông là Tây lai lành nghề mật thám và đánh bốc. Một trận đấu nảy lửa, so tài, đua sức và thi chịu đòn. Chúng to, khỏe hơn đội mình, tất nhiên. Trọng tài là ông Huy Khôi Kinh Kông. Tiếng còi của ông vô tư, cương quyết. Công chúng và cầu thủ rất kính mến ông. Trong bóng đá thời ấy có một điều lạ, rất lạ: suốt hai hiệp, 90 phút, khán giả không hề thấy một cầu thủ nào bị thương, dù nặng hay nhẹ, chịu bỏ bóng, nằm lăn ra bãi cỏ cố ý hay không trong tiếng còi trọng tài phạt đối phương, dù ở ngay giữa vòng cấm địa, mười lăm thước trước cửa gôn. Trọng tài ít thổi những tiếng còi vặt vãnh khi đội bóng lợi thế đang lên bóng. Trừ khi hậu vệ cố tình chơi dữ định tâm “vô hiệu hóa” một tiền vệ vốn có cú đánh đầu hoặc sút như trái phá, trọng tài bắt buộc thổi còi phạt “pênanti”. Ngày nay, “pênanti” mười một thước. Thời xưa, phạt cú sút giết người này là sáu thước. Thủ thành, trụ hai chân, thản nhiên chờ trái bóng chết người ấy ở ngay trước mắt. Thủ gôn ngày ấy, phần đông rất giỏi... gần tài với Văn Đức Nhuận. Luật quyết định khi đối phương chuẩn bị sút, thủ gôn không được cựa mình, phải đứng yên (bây giờ gôn được quyền động chân, động tay, chờ cản bóng). Cả bãi đấu nín thở, chờ đạn “đại bác” bắn vào gôn, như xé gió. Thủ môn đội bóng của Hà Nội quăng cả cơ thể ra đón bóng, ôm trái bóng trước ngực. Đấu trường như pháo nổ vang trời vỗ tay hoan nghênh ca ngợi. Thủ gôn Nội Châu nằm chết lịm. Anh em ùa đến nâng anh dậy, nhưng theo bản năng một chiến sĩ tưởng mình trúng đạn song không chịu chết, vẫn cố ngồi lên nhìn kẻ địch, anh thủ gôn, gan dạ, trái tính, dũng cảm của ta đã vùng dậy, giấu cái đau nhức ở ngực bụng và đôi cánh tay tê dại, nhìn đồng đội cố mỉm cười. Sau đó, anh thủ gôn, người anh hùng trận đấu trẻ tuổi nằm lịm một lúc mới trở ra sân. Tôi xin trở lại đội nổi danh số một là đội Stade Hanoien với vua lưới Văn Đức Nhuận. Ông Nhuận có ba anh em nổi danh Hà Nội. Người anh cả là Văn Đức Điều, một phong lưu công tử Hà thành hoa lệ. Ông làm tham tá kho bạc thời Pháp. Người cao, mặc âu phục đúng mốt (như hoàng tử Anh quốc), mặt lạnh như tiền. Chiều thứ Bảy, Chủ nhật, ông vác “can” dạo chơi phố Tràng Tiền. Thấy ông dáng người, vẻ mặt, y phục đúng mốt hơn cả người Âu, Tây đầm đều ngắm nhìn, tưởng ông là dân Anh Cát Lợi. Người thứ hai là Văn Đức Nhân, dạy học trường tư thục. Thời ấy những trí thức nhà giàu không thích làm công chức cho Nhà nước, mất tự do. Họ làm cho các hãng buôn lớn, hoặc dạy học trường tư, lúc nào chán nghề thì bỏ, ngồi nhà. Người thứ ba tên Phú, chơi hữu biên, chạy nhanh như vận động viên 100 thước, sút vô lê như búa bổ. Ông Nhuận người cũng cao lớn như người Âu, rất đẹp trai, hoạt bát, vui vẻ với mọi người, thân mật với học trò. Tôi học Pháp văn của thầy Nhuận tại trường Quảng Văn (nay là phố Nguyễn Siêu). Những năm xưa, chơi thuốc phiện coi là cái thú chơi kín đáo, thanh nhã, rẻ tiền. Thầy Nhuận cũng thích cái thú “ken cờ”. Đôi khi, tình cờ gặp tôi ngoài phố, thầy khẽ gọi tên tôi, tươi cười nói nhỏ: “Giao có một hào đấy không. Đưa thầy, thầy buồn quá, hôm nay không có trận đấu bóng nào. Thầy muốn đến thăm mụ Đức Trinh một lát (tiệm hút sang nhất Hà Nội là của mụ me Tây Đức Trinh, sau đền Bà Kiệu). Ngày các chiến sĩ ra trận, ông bầu tự bỏ tiền túi ra mở tiệc khao quân, sang thì ăn ở Đại Tửu Gia Đông Hưng Viên, vừa thì nhậu tại Mỹ Kinh, Tự Hung Lâu, Tây Nam Tửu Gia... Xong, hàng chục xích lô, hợp thành đám rước phóng như bay chở mười lăm chiến sĩ rượu say xuống xóm. Thế là Khâm Thiên đã ran tiếng trống phách lại thêm những đấu thủ này đua nhau hành lạc, tiếng cười, tiếng kêu, kéo dài cho đến sáng. Chả biết ở cõi bồng lai về các đấu thủ có ngủ được không sau một đêm rượu bò ra chiếu. Đúng hai giờ, toàn đội đã đủ mặt theo ông bầu lên bãi Măng Danh. Địch thủ là đội bóng lê dương da màu của quân đội viễn chinh. Đứng trước kẻ địch quá mạnh về chiến thuật, về sức khỏe, đội ta, mười một “chiến sĩ” sau đêm trác táng rượu mạnh, xì ke không bảo nhau mà tự bừng tỉnh cơn sa đọa, trở lại với bản năng Hạng Võ, đã xuất hiện giữa đấu trường, chơi hiệp đầu cực kỳ hay. Gôn Văn Đức Nhuận trổ hết tài bắt bóng nổi, cản bóng chìm, né tránh những đợt sóng xung phong rồi thì lấy thủ làm công, trung phong, tả hữu, chỉ thiếu có gôn phải giữ khung thành, ào ạt như giông tố kéo lên đè bẹp địch, uy hiếp địch. Ba chàng dũng sĩ hồi ấy là Thông, Hối, Viễn được mệnh danh là ba chàng ngự lâm, chuyền bóng cho nhau bật tường, sút tung lưới đội lê dương. Thủ môn đội Tây nổi tiếng là Dereras tung người lên cao, xuống thấp như con khỉ độc trên rừng mà chịu không cản được bóng chọc thủng lưới của bộ ba Thông, Hối, Viễn. Đối phương rất sợ ba con gấu Thông, Hối, Viễn, còn sợ không kém một quái kiệt tả biên là “Kế cụ ngả bàn đèn”. Có danh hiệu ấy là vì ông dắt bóng đến góc phạt của đối phương, ông phải nằm ngả xuống sút vô lê, quả bóng bay ngoắt nghéo, gôn không sao bắt được. Cái thời xưa bóng đá thịnh hành đến vậy mà Tổng cục Bóng đá ít khi treo cúp. Toàn là đá hữu nghị, được thua ăn ở cái bắt tay chặt chẽ hoặc lỏng lẻo của nhau. Nói đến bóng đá Hải Phòng, gọi là State Haiphonaise. Tài nghệ của đội Cảng này cũng là mối gờm của các đội nổi danh Hà Nội. Nếu Stade Hanoien có hậu vệ vững như bàn thạch là Văn Đức Vịnh (anh thủ môn Văn Đức Nhuận) thì Stade Haiphonaise có hậu vệ là kiện tướng có một không hai trong làng bóng Việt Nam thuở ấy. Đó là danh thủ công tử Trọng. Mỗi lần công tử Trọng xuất hiện trên bãi cỏ, cả vạn người vỗ tay. Mà địch thủ dù Việt, hay Pháp đều thấy ngán, biết trước mình đang chọi sức với con hổ dữ. Toàn đội Cảng khỏe như voi. Bóng mà đến chân hữu vệ Tài thì đối phương phải thay nhau dốc sức mà thi chạy dắt bóng với Tài, và thủ môn cũng vất vả mới vồ được trái bóng Tài vừa chạy, vừa sút, ít khi quá xà ngang xà dọc một gang tay. Sẽ lỗi lầm, nếu quên ca ngợi đội bóng nhà máy dệt Thành Nam, do ông bầu tài hoa Mộng Lân dìu dắt. Trụ cột của đội Cotonkin là Khoa, Huân, Khuê, Tấn... Mỗi lần bãi Măng Danh được nhận trận đấu Cotonkin Thành Nam đấu nghiêng ngửa với đội Hà Nội Nội Châu là một ngày hội lớn Olympique. Kỳ phùng địch thủ. Hai đội ngang tài ngang sức, không ai chịu nhường ai một ngọn cỏ trên bãi chiến. Trận đấu diễn ra bằng sức mạnh và trí tuệ. Không hề có chuyện đấu ăn thua như bây giờ. Thua, được, kết cục ôm nhau với tình bằng hữu. Thời xưa, mười một cầu thủ ra sân không hề có dự bị, chơi hết mình từ đầu đến cuối hiệp hai, không có lệ thay cầu thủ đang giữa cuộc chơi. Một cầu thủ bị thay, cúi đầu lủi thủi về ghế ngồi dự bị, tự coi là cái nhục, xấu hổ cùng khán giả. Một cầu thủ chỉ va chạm nhẹ vào đối phương, ôm chân cẳng, để y tá khiêng lên cáng, cũng coi là điều đáng ngượng, tỏ cho người xem thấy chỗ yếu kém về sức khỏe của mình. Hồi xưa, cầu thủ bị đau, cố nghiến răng chịu đựng, cứ chơi như thường, cố giấu vết thương do địch thủ gây nên. Nhân nói đến cử chỉ, tư cách mất dạy của cầu thủ trên sân, tôi nhớ lại trận đấu của Nội Châu với đội nhà binh Pháp Tổng hành dinh (Service). Nội Châu hạ một bàn. Tổng hành dinh không gỡ được, mặc dầu ba tên đầu gấu chuyên chơi dữ là trung phong Privet, Jouvenceau, Réale nổi cơn điên xông vào phá khung thành Nội Châu, nhưng hai hậu vệ Luyến hói, Tòng đen ép chúng bật ra ngoài vòng cấm địa. Tỷ lệ Pháp thua 1 vẫn giữ nguyên vẹn. Còi tan cuộc. Công chúng reo vang, tên Privet to như trâu mộng, cáu tiết đứng giữa bãi vạch quần quay bốn phía đái vung lên, vừa đái vừa vẩy, vừa chửi tục hết sức thô lỗ. Trời! Ngay lập tức, cả bốn phương tám hướng tiếng hò hét, tiếng Tây lẫn tiếng Việt, lẫn cả “tửu hà ma” của ngót vạn người nổi lên như có trận phá thành đoạt lũy. Phong trào và tài năng bóng đá của Việt Nam nói chung, của cầu thủ tài danh Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định như vậy đấy. Cách đây không xa, một đại diện FiFa đến Việt Nam phê phán gọn: Việt Nam chưa biết đá bóng (?). Những danh thủ Việt Nam nói trên đây đã xuất hiện có thể còn trước Pêlê, trước cả rất nhiều nước thế giới mãi đến tận ngày nay ta mới thấy lên trên báo chí và trong đại hội thể thao quốc tế. Người Hà Nội, số 11 / 1997 Hà Nội xưa - Nghề in ấn Đ ề cập đến vấn đề văn hóa, văn học của một dân tộc trước hết phải nói đến nghề in ấn. Tôi bắt đầu nhắc tới những chuyển biến của ngành này với cái mốc năm 1936. Thời đó, nền văn học Việt Nam đã có cơ phát triển. Nhiều tác phẩm Pháp, Trung Hoa được dịch ra Việt ngữ. Đại biểu cho dịch giả Pháp văn là Nguyễn Văn Vĩnh, Dương Phương Dực (học trò cụ Vĩnh), Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Giang (con cả cụ Vĩnh)... Đại diện dịch giả tác phẩm Trung Hoa là các cụ Bùi Kỷ, Sở Bảo Doãn Kế Thiện, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Mai Đăng Đệ, Cử Can... Giai đoạn ấy, một số công tử nhà giàu ganh nhau đẩy mạnh phong trào Tây du, cốt lấy cái tiếng cậu cử, cậu tú để cưới gái đẹp, đào mỏ vàng. Họ trở thành những ông Tây An Nam, không cậu nào dịch nổi một cuốn sách Pháp văn. Tựu trung du nhập sách văn học Pháp vào Việt Nam chỉ có một Nguyễn Văn Vĩnh. Cụ Vĩnh đã dịch những tác phẩm nào, tài năng dịch ra sao tôi tin bạn đọc đã biết, khỏi kể. Cùng thời kỳ ấy, văn học lãng mạn Trung Quốc tràn ngập vào Việt Nam qua những tác phẩm tình yêu của Từ Trẩm Á. Hoàng Ngọc Phách chịu ảnh hưởng nhà văn nước Tàu này qua truyện Tố Tâm, Bóng trăng soi... Nhưng nước mắt của nhà văn bi lụy này làm ngập lụt nền văn học Việt Nam chưa được bao lâu đã vội khô tàn. Sức sống của dân tộc Việt Nam đã chuyển mình. Nhà văn Việt Nam tự vạch một hướng đi riêng trong đó cái hơi thở căm hờn thực dân Pháp đã nổi lên cơn gió lốc qua Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc và những lời kêu gọi đồng bào thức tỉnh của Ký Con, Thái Học, cô Bắc, cô Giang, Sứ Nhu... Cùng với cơn gió lốc Chiêu hồn nước, những lá truyền đơn bay khắp đất nước Việt Nam. Đẩy mạnh cơn giông tố ấy nghề in ấn âm thầm phát triển, mạnh nhất là ở Hà Nội. Nhà in lớn, nhà in nhỏ ra đời. Công cụ sản xuất vô cùng khiêm tốn. Một hai cái máy nho nhỏ, gọi là máy Minerrve (máy công tử, đạp chân, như thợ may máy khâu) mặt máy chỉ mang nổi từ 6 đến 8 bát chữ. Việc chính của máy công tử là in hóa đơn cho nhà buôn, in thiếp cưới, danh thiếp. In xong một cuốn sách 200 trang phải hàng tháng mới hoàn thành. Còn in báo, hồi ấy, chủ nhà in có vốn mới dám mua máy lớn, mỗi khuôn chữ có thể chứa được hơn 30 bát chữ. Thợ sắp chữ làm ban ngày, cố sao cho kịp giờ buổi sáng để lên khuôn thử cả 4 trang, rồi dập hai bản thử (morasse) đem đến Nha Thông tin, Phòng Báo chí trình kiểm duyệt. Lấy được con dấu và chữ kí nhận của kiểm duyệt rồi, đến 2 giờ đêm hai công nhân đứng máy (machiniste) mới bắt đầu cho máy chạy, đến 5 giờ sáng thì in xong từ 3000 đến 5000 tờ, phát hành vào lúc tinh mơ, trẻ con lĩnh báo, chạy rao khắp tỉnh. Giấy sách, giấy báo phải mua của Pháp, tại nhà máy giấy Đáp Cầu. Ngoài cơ sở này, không đâu có giấy. Chiến tranh Việt - Pháp nổ ra, nhà máy giấy Đáp Cầu đổ vỡ. Ngành in không còn có giấy. Phải tìm đến cứu tinh là giấy Bưởi, rất đắt và rất hiếm. Hồi đó, có một ông già công nghệ trong xóm “Bưởi giấy” là ông Lại Viện sáng chế ra giấy dó. Loại giấy này dày lắm, in sách và cũng cung cấp cả cho triều đình Huế dùng làm giấy sắc viết biểu nhà vua, có triện thiên tử, đó là sắc phong của hoàng đế trị vì. Thực dân cũng mở một nhà in lớn, gọi là nhà in Taupin, viết tắt IDEO (nhà in Viễn Đông). Taupin không hề cạnh tranh với các nhà in người Việt. Nó in báo Pháp và các thứ sổ sách giấy tờ cho nhà binh và công sở Pháp. Hà Nội có mấy nhà xuất bản, nhà in lớn. Đáng kể nhất: Minh Sang, TB Cay, Ngô Tử Hạ, Lê Văn Tân, Tân Dân... Nhà in nhỏ là Tân Việt, Cộng Lực. Được cái, dễ bảo nhau, không có cạnh tranh, kiện cáo. Vấn đề nhà in mua chữ quá khó khăn. Phải gửi Commande sang Pháp mua mỗi bận ít ra vài ba tấn các loại, các cỡ chữ. Chữ cỡ lớn làm titre (đầu bài) gọi là Europe gras (Ơ rốp béo), chữ nhỏ - Europe maige (Ơ rốp gầy), chủ nhà in tính đắt tiền là chữ Chetteman (Sentoman) cỡ 8, nét sắc. Loại chữ này dùng in sách đắt tiền, in lên loại giấy hảo hạng, gọi là giấy Boufflant (bút-făng). Loại hạng nhất, soi tờ giấy lên mắt ta nom rõ trong giấy có sợi chỉ nước (lignefeau) giá trị như tờ giấy bạc ngân hàng. Còn chữ dùng in báo, in sách thì dùng loại chữ đứng thông thường cỡ 9, 10 (romain) và chữ ngả. Từ sách đến báo in ấn còn ấu trĩ. Sau này, văn hóa theo đà sống của quần chúng ngày một trưởng thành, luồng thông tin sáng sủa hơn nhờ vào nguồn cung cấp của hãng thông tin Pháp (Agence France Presse - AFP) và Tân Hoa Xã của Trung Quốc. Quần chúng Việt Nam đã nhận thức được sự ích lợi văn minh của sách vở, báo chí. Thêm vào đấy, một động lực lớn của văn hóa, văn học Pháp, Trung đã gây cho dân mình tinh thần yêu sách, yêu báo. Mà muốn có sách báo đẹp, phải phát triển nghề in ấn. Do đấy, một thanh niên thức giả không giàu nhưng cố xoay tiền, xin được Pháp cấp giấy sang “mẫu quốc” học nghề in. Đó là ông Đỗ Văn. Qua ba năm học nghề in, chủ yếu nghề đúc chữ, nhà kỹ sư thứ nhất của Việt Nam hồi quốc. Ông Đỗ Văn quả là một nhân tài. Tuy nhiên, một thời gian, không ông chủ nhà in nào dám sử dụng chàng kỹ sư nhanh nhẹn, tháo vát, thông minh ấy. Người ta chê ông là một kỹ sư cao giá, không trả nổi lương ông. Ngày ấy ông nghị Nguyễn Văn Luận, chủ nhà in và nhật báo Trung Bắc Tân Văn, khước từ Đỗ Văn, cứ khư khư ôm cái nhà in khốn khổ phố Phùng Hưng. Đỗ Văn thất nghiệp với cái nghề quý hơn vàng là cái nghề đúc chữ mà cả nước Việt Nam chưa có. Cái kỹ thuật bậc thầy bị xếp xó không một ai nhìn đến. Thế rồi, sau đó con ngựa xích thố ấy đã có Quan Văn Trường nhảy được lên lưng, phi ngàn dặm. Nhà học giả Nguyễn Văn Vĩnh đã rời căn nhà nhỏ bé trên con đường hẻo lánh dẫn lên chợ Bưởi mà xuống phố tìm kiếm nhà kỹ sư thất nghiệp. Tri kỉ gặp nhau, như Tào Tháo gặp Lưu Bị ngồi luận chuyện anh hùng bên đĩa mơ xanh... Đỗ Văn dốc hết kiến thức, luận về nghề in, sẽ nhờ nghề in làm nên nghiệp lớn. Nguyễn Văn Vĩnh cũng dốc túi càn khôn, cho Đỗ Văn biết về kế hoạch. Nhờ một nhà in hiện đại, mở nhà xuất bản sách Âu Tây tư tưởng (dãy nhà hiện nay còn đứng sừng sững ở bờ Hồ Gươm trông thẳng sang nhà Thủy Tạ), ông Vĩnh đã ký khế ước với Tây, có quyền sở hữu nó hết 20 năm sẽ trả lại. Trước nó là đất hoang. Ông Vĩnh bỏ tiền túi ra xây dựng. Nay, nó là nhà hàng kem Hồng Vân gì đó. Nhà kỹ sư ấn loát Đỗ Văn trổ hết tài, hết trí, kể từ nay là một nhân tài làm công ăn lương tháng cho ông Vĩnh. Cụ Nguyễn Văn Luận được cụ Vĩnh thuyết phục, cũng trọng đãi Đỗ Văn. Nhà in ở Phùng, hàng ngày in nhật báo Trung Bắc Tân Văn, sổ sách linh tinh. Còn một nhà in nữa, đồ sộ hơn, ông Vĩnh và Đỗ Văn dựng nó thành một xí nghiệp hiện đại thuê toàn thợ giỏi, thợ máy có tay nghề vững, máy thì vào hạng nhất Việt Nam. Nó chiếm một gian nhà rộng, đào sâu ngót một thước để chân móng máy. Máy này gọi là Rotative, giá đắt như hồng ngọc. Đỗ Văn cùng làm với thợ, chỉ huy hết thảy. Chỉ nhận in sách quý, chữ mới, giấy thượng hạng. Nhà in danh tiếng này tọa ngự trên phố Hàng Buồm. Các tuần báo, tạp chí ở Hà Nội, được bàn tay kiệt xuất của Đỗ Văn mó vào, quả là những trái đào vườn thượng uyển, đẹp đến nỗi mấy tờ báo Pháp phải ngợi khen. Mấy tuần báo Việt như Nhật Tân của Phùng Tất Đắc, Con Ong của Huyến Voi (bố vợ Văn Cao), Báo Mới của Trương Tửu, Đông Tây của Hoàng Tích Chu... làm cho báo giới Việt Nam khởi sắc. Ngựa hay thường có tật. Hàng tháng, cụ Nguyễn Văn Vĩnh vui vẻ trả lương Đỗ Văn trong khi cụ nghị Nguyễn Văn Luận thì nhăn nhó về sự hoang phí của ông công nhân Âu hóa họ Đỗ. Mỗi lần ông rửa tay dầu mỡ, bàn tay một phong lưu công tử, chớ chẳng phải bàn tay thợ nhà in, mất đi một lít cồn 90 độ, có khi hơn thế. Cụ nghị Luận phải kêu to: - Trời sinh ra Đỗ Văn chỉ có Nguyễn Văn Vĩnh mới có gan sử dụng. Sau đó nhà in Lê Văn Tân cũng như họa mi tức nhau tiếng hót, nóng mắt và ngứa tiết, cho con trai là Lê Văn Hân sang Pháp thụ giáo nghề in và đúc chữ. Hân, có trí có gan của bố, cũng qua ba năm thành tài, về lập lò đúc chữ tại nhà xuất bản Lê Văn Tân phố Hàng Bông. Từ đấy, hầu hết nhà in miền Bắc mua chữ của Lê Văn Hân, không phải đặt mua tại Pháp. Chữ người Việt sản xuất chẳng kém gì chữ của Tây. Người Hà Nội số 12/1996 Hà Nội cũ vui buồn sân khấu B ài ký này, tôi hãy nói đến tuồng cổ khoảng thời gian cận đại 1930- 1940. Tuồng hồi ấy là hát bộ. Diễn viên tả bằng trụ bộ, động tác, nhiều hơn là hát. Phải là tuồng Nam Bộ, nói gọn là tuồng Sài Gòn, mới được khán giả Hà Nội hoan nghênh, tuồng Trung Bộ, Bắc Bộ coi như bỏ. Người Hà Nội, tất cả mọi giới làm ăn vất vả suốt ngày mong tối xuống đèn lên, xô nhau tới rạp Quảng Lạc ngõ Sầm Công, chen nhau lấy vé. Rạp Quảng Lạc, hiện nay còn tồn tại, duy có hình dáng là đổi thay, khó nhận ra. Chủ Quảng Lạc là viên Phủ Trọng, làm quan tỉnh Bắc Ninh, vừa làm quan vừa kinh doanh làm giàu bằng gánh hát uy danh lẫy lừng này. Cạnh rạp Quảng Lạc đột xuất dựng lên một rạp nữa gọi là Đồng Lạc, bé nhỏ hơn Quảng Lạc. Diễn viên Đồng Lạc kém tài thua sắc, ghế ngồi ít, cửa ra vào chật hẹp, vì thế, chỉ ngót một năm rạp Đồng Lạc chịu thua, tan đám. Không địch thủ, Quảng Lạc xưng vương. Phủ Trọng tung tiền và thủ hạ vào Nam Bộ, tìm mua hết diễn viên tuồng cổ kiệt xuất, mua những vở tuồng pho rút ra từ những bộ truyện quen thuộc, danh tiếng của cổ thời Trung Quốc mà người Việt Nam, nhất là người Hà Nội, vốn đã thuộc lầu. Kể như tuồng Tam Quốc, Chinh Đông chinh Tây, Ngũ hổ bình Liêu, Càn Long du Giang Nam, Thí võ Lý Nguyên Bá - Võ văn Thành đô, Võ Tam Tư chém cáo, Thục Quý Anh viên môn thục tội, Tây Sương ký, Tiết Đinh Sơn nhất bộ nhất bái, Tây du, Mổ gan Tỉ Can, Thôi Oanh Oanh - Trương Quân Thụy... Cái vốn bổn tuồng Quảng Lạc quá giàu, diễn viên nam nữ toàn nổi danh về tài sắc. Những kép bậc thầy như Sáu Phú chỉ chuyên đóng một vai Quan Vân Trường, mỗi tháng diễn vài buổi, ngồi chơi ăn lương tháng cao nhất rạp. Sáu Phú được mẽ người cao lớn, mặt to, tiếng to, trụ bộ oai phong, không kép nào địch nổi, được Phủ Trọng quý nể, trọng đãi, có phần sợ hãi như sợ chính linh hồn Hán Thọ Đình hầu Quan Vũ hiển linh. Những kép khác cũng được Phủ Trọng quý yêu, chiêu đãi như kép Tám Ngân rất đẹp trai, võ tuồng điêu luyện, cùng với kép Đĩnh, hai người chuyên sắm vai Triệu Tử Long, Lã Bố, Mã Siêu. Phủ Trọng sắm ba bộ giáp trụ, giáp trắng, mũ gài hai lông đuôi chim trĩ vút dài. Mỗi lần hai kép Tám Ngân, kép Đĩnh mặc giáp trắng, đội mũ lông trĩ xuất hiện trên sân khấu, khán giả hò reo, đốt pháo tay vang rạp. Còn các đào trứ danh, phải kể đào Tám Long, mình cao, giọng rất sang, hát không có vẻ gì là lấy hơi, vậy mà âm thanh lanh lảnh vang xa như tiếng chuông ngân, khách ngồi ghế nghèo hạng bét nghe cũng rõ. Những năm xa xưa ấy không có micro. Tám Long có một tài nghệ phi thường lại thêm nhan sắc tuyệt hảo, nghiêm nghị tùy từng vai, lẳng lơ tùy theo nhân vật trong vở hát. Thứ đến đào Kim Đính, đẹp không thua kém Tám Long, thêm võ thuật tuy là võ thuật tuồng, cũng sắc sảo trong đường cung kiếm, biến sân khấu thành một võ trường thời Chiến quốc Trung Hoa cổ đại. Phải kể tiếp đến đào Chín Cưỡng. Đào Cưỡng tài dưới Tám Long, Kim Đính nhưng cái lẳng lơ khiến khán giả mê say thì không thể tìm một đào khác thay thế Chín Cưỡng trong vai Điêu Thuyền làm tình với Lã Bố, khó hơn nữa là vai Hồ Nguyệt Cô cũng làm tình ngay giữa sân khấu với Võ Tam Tư (kép Tám Ngân đóng) trong vở Võ Tam Tư chém cáo. Xin lỗi bạn đọc. Cho tôi bổ sung thêm những kép trứ danh Quảng Lạc là kép Ba Niên, chuyên sắm những vai đại lực sĩ nguyên nhung, trụ giáp cực đẹp, võ nghệ cao cường, múa cây họa kích che gần kín cả thân, khán giả ngỡ Ba Niên là một võ sĩ Thiếu Lâm. Đi kèm kép Ba Niên là kép Lộ, tài năng không thua Tám Ngân trong vai Triệu Tử “toàn thân toàn là đảm” - lời khen của Khổng Minh. Không thể quên tài kép Cẩn trong vai Trương Phi thét đổ cầu Trường Bản. Nhưng trội hơn kép Cẩn, cũng trong vai Trương Phi, còn kép Ba Bồi. Khi Trương Dực Đức - Ba Bồi vuốt râu xồm phóng mình ra sân khấu cùng với giọng hát tẩu mã, roi ngựa tung vun vút thì cả rạp phải rung lên vì cái giọng sấm sét, làm thủng màng tai khán giả, phụ nữ phải nhắm mắt, trẻ em phải khóc đòi về: “Con sợ lắm!”. Danh tuồng võ Sài Gòn lừng danh, vô địch, ngự trị đỉnh cao nghệ thuật sân khấu thời ấy, không thể quên thắp nén hương tưởng niệm một vua hề, một quái kiệt thúc thiên hạ chết cười. Đó là kép Tín. Ôi chao! Chuỗi cười đứt ruột, chuỗi cười ngạt thở, chuỗi cười gây sức sống, chuỗi cười làm thằng ngốc trở nên khôn, thằng gian ác trở thành lương thiện, chuỗi cười quý hơn chuỗi ngọc. Ông vua hề kép Tín tuồng Quảng Lạc, suốt từ ngày Quảng Lạc làm mê say người Hà Nội cho đến ngày Quảng Lạc bị thời gian đào thải, tối nào cũng xuất hiện trên cái thế giới vạn thuở ngàn năm, cái thế giới đồ vương tranh đế muôn vàn nhục vinh. Thời ấy châu Âu đang phát triển phim câm. Vua hề Charlot, Busten, Katoon, Toufou... làm cho thế giới Tây phương điên lên vì cười. Nhưng cái thứ phim câm ấy, cái cười của mấy ông vua cười kể trên vẫn không thể nào sánh ngang với cái kiểu bán cười, gây cười của ông vua cười kép Tín. Tối tối, khán giả chỉ mong kép Tín ra trò. Ông vừa thò mặt ra, cái bộ mặt cực kỳ ngộ nghĩnh, không hiền, không ác, không say, không tỉnh, nửa người, nửa khỉ, nửa đười ươi, với cái quạt giấy lớn hơn quạt nông dân quạt thóc mà ông móc ở cạp quần sau lưng ra, xòe rộng, che toàn thân thể, là khán giả đã bò ra mà cười. Phủ Trọng làm giàu, vơ tiền dân mộ tuồng Hà Nội, chính nhờ cây cười kép Tín. Cái lạ là kép Tín không chỉ là vua cười mà còn dư tài sắm những vai khác như Na Tra, Hồng Hài Nhi, Lý Nguyên Bá, ba cậu bé có phép thần, tài võ động trời động đất. Vậy mà khi sắm vai ba cậu bé này không ai hiểu Tín hóa trang biến thể cách nào để thành những cậu bé nhỏ chừng mười lăm, mười sáu tuổi? Cả rạp phải trố mắt ngạc nhiên. Đặc biệt nhất là khi kép Tín chơi vai Đại thánh Tôn Hành giả. Tín hoàn toàn biến thành con khỉ. Khỉ từ động tác đi, nhảy múa, hay hàng ma phục quái, đánh nữ yêu tinh, đến bàn tay luôn gãi thân hình không quần áo sang đẹp như phim Tàu ngày nay, mà chỉ quấn có manh vải giả da hổ, cố ý thò ra cái đuôi dài. Tín cứ giữ cái đuôi cho khỉ thật là khỉ. Hồi ấy chưa có cái trò một nhà báo phỏng vấn, mà chỉ là một cuộc gặp gỡ giữa một ông nhà báo với một nhân vật nào đó nơi trà đình nghèo, chuyện vui. Tôi, vẫn ở tuổi một thư sinh nghèo, tình cờ có mặt ở cái hiệu cao lâu phố Hàng Buồm, lắng nghe ông nhà báo hỏi ông vua cười: - Vì lẽ gì ông yêu thích cái đuôi con khỉ Tề Thiên như vậy. Không lần diễn nào ông chịu bỏ cái đuôi? Vua cười cười khẽ: - Tôi giữ cái đuôi con khỉ là vì tôi không muốn con khỉ giống người. Nó cứ mãi là con vật, nhưng là con vật đầy nhân tính, phục tùng Như Lai Phật Tổ, sống chết một lòng chung thủy với thầy, với bạn đồng hành sang tận Tây Trúc cầu kinh. Nhưng Đường Tăng Tam Tạng, tuy được tiếng là một thánh tăng, một cao tăng, nhưng lại là một con người đầy thú tính, ưa xiểm nịnh, đạo đức dở hơi, chẳng biết gì là ngay gian, thiện ác, mấy lần đuổi tôi về Hoa Quả Sơn, nhiều lần đốc Khôn tiên thắng làm tôi khổ sở ở dọc đường, bất nhân bạc nghĩa, không hề có chút tình cảm gì gọi là nhân tính. Vậy mà, đức Như Lai, một con người hóa Phật nhìn thông suốt việc hạ giới, người thế gian, cũng vẫn thiên vị phong Tam Tạng là La Hán! Cho nên tôi yêu cái đuôi con vật của tôi, tôi tự hào là con vật đầy nhân tính. Tôi còn mong ước trong cuộc sống giữa xã hội con người như thế này, tôi được phép, cho đến chết, sinh hoạt bình thường, tự nhiên, như con khỉ có đuôi này mà không bị người ta bỏ tù, bắt tội. Nói đến đây, ông vua cười không cười. Ông đứng lên nghiêng mình lịch sự chào ông nhà báo. Tối hôm ấy, Quảng Lạc đại diễn vở Quan Vân Trường thụ Hạ Bì. Các báo hàng ngày đăng quảng cáo: “Tối nay Quan Vũ sử dụng thanh long đao thật”. Tôi vốn sùng bái kiểu viết chữ quảng cáo tích hát bằng bút lông phấn nước của họa sĩ Trần Phềnh. Chữ lạ, chữ đẹp như rồng mây, như hoa sóng. Tối tối, tôi nghiện đến cửa rạp Quảng Lạc ngồi xổm ngắm chữ Trần Phềnh trong khi người có tiền, người nghiện tuồng tung tiền ra lấy vé. Thường thì bảy rưỡi khai diễn. Người mê Trần Phềnh vào rạp sớm nửa giờ, ngồi ngắm không chán mắt bức phông ông vẽ cầu Thê Húc, Tháp Rùa trên Hồ Hoàn Kiếm. Bức phông ấy, tài hội họa ấy của Trần Phềnh, người họa sĩ cao tài đầu tiên tốt nghiệp trường Cao đẳng Nghệ thuật Đông Dương làm vẻ vang họa sĩ Việt Nam. Đến lúc mở màn. Cả rạp hồi hộp lắng chờ. Kép Tín, vua hề, đóng vai Châu Sương. Châu Sương mặt mày hung dữ, ra sân khấu với tất cả điệu bộ nhà nghề, chiếc roi ngựa tượng trưng cho con xích thố vươn mình, hí, nhảy. Kép Tín tay cầm roi điều khiển thiên lí mã, tay vác câu uyển nguyệt đao, đèn hai bên sân khấu chiếu vào thanh đao bằng đồng loáng chói. Rồi đó, Quan Vân Trường từ hậu trường hét vang mấy tiếng cực oai nghiêm. Sau tiếng hét, Quan Vũ giáp trụ lẫm liệt, lững thững ra sân khấu, không hát, chỉ biểu diễn trụ bộ, rồi ngồi xuống ghế thiếp vàng, bên mấy cây nến đỏ. Đây là Quan Vũ khán thư, tay phải, bằng hai ngón, vén chòm râu từ thái dương rủ xuống, chòm râu ấy, theo tiếng nhạc, được hất lên cùng với ánh mắt đưa theo. Động tác đọc sách vuốt râu, tuyệt nghệ. Các bà khán giả thành kính chắp tay vái lạy Quan ngài Sáu Phú trên sân khấu, miệng xuýt xoa: “Nam mô a di đà Phật”; “Lạy thánh mớ bái, mớ lạy!”... Sáu Phú theo lệnh Phủ Trọng, trước tối diễn tích Quan ngài, phải ngủ ở rạp, ăn chay ba ngày, không được về với vợ. Xin âm dương, ngài cho được, mới dám công bố lên các báo. Quảng Lạc tàn rồi. Nhiều năm sau, nghệ sĩ Sỹ Tiến, bỏ nhiều ngày tháng công phu khổ luyện vai Quan Vũ, Sáu Phú mười phần, thì đồ đệ Sỹ Tiến thành công được bảy phần. Có khác là Sáu Phú đóng Quan Công tuồng cổ Sài Gòn. Còn Quan Công Sỹ Tiến là cải lương, Sỹ Tiến cùng với Anh Đệ, Ái Liên, Kim Chung, Lam Phương, Bích Hợp, Huỳnh Thái là những ngôi sao sáng của cải lương miền Bắc. Sỹ Tiến vốn là một diễn viên chịu học hỏi, cầu tiến, muốn trở nên một đàn anh. Anh được bạn đồng nghề quý nể vì đạo đức và năng khiếu. Anh càng khiến khán giả thương yêu với vai Chu Du ba lần hộc máu. Muốn hộc máu, phải có phép riêng. Tối diễn, cần ăn no những chất dễ nôn ra. Đến rạp, Sỹ Tiến thể hiện vai Chu Du tức giận vì thua tài kém trí Khổng Minh, Chu Du nhào lộn để hộc máu, nhưng tối ấy Sỹ Tiến không thành công. Anh vỗ bụng, ngoảnh mặt vào hậu trường móc cổ, vẫn không ọe được. Cuối cùng, mệt quá anh nhào lộn về phía trước sân khấu, bao nhiêu thứ trong dạ dày anh phun như xe nước tưới đường xuống dãy ghế hàng đầu sang trọng nhất. Trước buổi diễn anh ốm, nhưng chủ rạp đã đăng quảng cáo rồi, anh phải nghiến răng vừa diễn vừa rên. Nỗi đau đớn của nghề! Không diễn, phải đền chủ rạp. Quảng Lạc đã cáo chung ngót nửa thế kỷ nay. Các danh tài hát bộ nam và nữ chết hết cả rồi! Tôi cần nói rõ duyên cớ cái chết của Phủ Trọng cùng cái tài sản nghệ thuật tuồng Quảng Lạc danh vang đất nước. Một tối rạp diễn vở đặc biệt Vua Trụ mổ gan đại trung thần Tỷ Can do kép Cưỡng đóng. Rạp chật người Hà Nội. Vở đang diễn thì một cảnh éo le, không thể tưởng tượng được xảy ra: Phủ Trọng bắt kép Giò mặc triều phục thái sư ra sân khấu, ngửa mặt lên tầng gác, trên đó có thượng khách Toàn quyền A. Sarraut ngồi. Kép Giò sụp xuống lạy viên Toàn quyền bốn lạy. Phủ Trọng mặc áo gấm đỏ, đội khăn tím đứng bên kép Giò thái sư, cũng sụp lạy theo. Cả rạp, trước cảnh sỉ nhục ghê tởm ấy lặng hẳn đi. Sau đó mấy phút tất cả khán giả xô ghế đứng lên, ào ạt kéo ra khỏi rạp với nhiều tiếng chửi. Qua tối ấy, Quảng Lạc vắng dần, để rồi chết hẳn. Các diễn viên cũng bỏ rạp vô Nam hết. Phủ Trọng mang cái nhục. Kép Giò được Phủ Toàn quyền ban cho cái mề đay cửu phẩm. Người Hà Nội, số 16 / 1996 Hà Nội cũ nằm đây N gày ấy, Hà Nội chưa vào cuộc chiến, nhưng lòng dân đã sẵn sàng củi lửa cho một lò thiêu xác quân thù. Suốt một dải bãi bờ sông Nhị, đầu là An Dương đến cuối là Hàm Tử Quan, thành nơi ngụ cư của giang hồ tứ chiếng. Lũ văn nghệ chúng tôi chọn bãi An Dương, nơi địa đầu cát lở làm đất trụ, có thể giữ yên thân khi bình lại có thể rút lui khi biến, lấy Tây Hồ làm lá chắn. Anh quân sư nhỏ con Gia Cát Thâm Tâm qua cơn lầm lì khá nhiều ngày, một đêm mưa, bỗng mở miệng bảo chúng tôi như vậy đấy. Thế là chúng tôi kéo đến bãi An Dương trống vắng lưu trú với một đám ba bốn chục người nghèo khổ, sống đụng đầu dưới mấy túp lều tạm dựng xơ xác, mái vẹo, tường xiêu, một hố đất đào đủ tầm sâu thành giếng lấy nước ăn. Ngày ngày họ đi làm, thôi thì đủ nghề khốn khổ và khốn nạn. Cứ thế, lâu dần, rừng lành khỉ đến. Bỗng một ngày Hà Nội gió mưa, chúng tôi choáng váng vì thấy có đến hơn trăm nhân mạng không biết từ cõi đất trời nào kéo đến, tìm chúng tôi xin trú ngụ. Trong số cư dân ấy nam nữ đủ cỡ tuổi, cỡ người, ai nấy đều cao lớn, nói năng bặt thiệp, đứng ngồi nhanh nhẹn. Người nào cũng có cặp mắt sáng, vầng trán rộng, miệng cười tươi. Chúng tôi hỏi họ về nghề nghiệp. Cả nam, nữ đều thấp giọng: “Nghề khuân vác. Đêm thì chúng tôi tập trung ở An Dương này. Ngày thì tiến xuống Phà Đen làm phu bốc vác”. Chúng tôi thấy không nên hỏi kỹ. Cứ theo cách nhìn tướng mặt, nghe giọng nói, chúng tôi đã đoán biết họ là ai, nhưng để bụng, và tỏ lời hoan nghênh, mời họ sống chung bãi, chung đời. Cứ vậy qua đi ít ngày đêm, tri kỷ gặp tri kỷ, dang rộng cánh tay mà ôm ấp nhau, dốc tâm can ngỏ tình, ngỏ trí với nhau. Thì ra họ đều là tàn quân của Hoàng Hoa Thám, Tán Thuật, Cai Vàng, và nghĩa quân của sứ quân núi rừng Việt Bắc. Giặc Pháp truy lùng ráo riết, những anh hùng tráng sĩ này tìm cách vào thủ đô Hà Nội, nhìn thẳng mặt kẻ thù. Với họ, chúng tôi đang nhanh chóng trở nên bạn chí thân, không có rượu thề, mà có thể sinh tử cùng nhau. Tất cả bọn họ, nam như nữ, đều võ thuật cao cường. Chúng tôi được họ truyền cho dăm ba miếng phòng thân cực kỳ đơn giản và hữu dụng. Còn côn kiếm thì xin miễn. Anh Bảy Thụ, người thầy, bậc đàn anh của họ, nhìn chúng tôi lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi đáp: - Chúng tôi lúc nào cũng sẵn côn kiếm ở đây rồi. Mà tất phải học thêm. Tôi vung chiếc bút máy lên theo đường kiếm. Anh Bảy Thụ cười vang. Chúng tôi với họ chung sống đã một năm qua không thấy xảy ra việc gì khác lạ, ngoại trừ trường hợp một vài người trong bọn họ vắng mặt, lần này vài ba tháng, khớp với những tin báo chí đăng rùm beng: vụ anh công sứ miền Trung bị treo cổ, anh tổng thư ký phủ toàn quyền miền Nam vừa bị ám sát hay bị bắt cóc, hoặc lần khác, viên thanh tra mật thám Pháp công cán ở Sài Gòn, bị một lưỡi dao găm cắm trúng lưng giữa phố phường đông như hội. Chúng tôi, trước những biến cố ấy, không hề han hỏi, mà chỉ theo dõi tâm tư anh Bảy Thụ qua ánh mắt sáng ngời, nụ cười bí hiểm của anh. Cuộc chung sống này không được dài ngày. Rồi sự chia tay cũng đến, tất nhiên và bình thường như mọi cuộc chia tay trên vạn nẻo đường chinh chiến. Lại một ngày mưa. Bọn tráng sĩ ấy nắm chặt tay chúng tôi rồi dũng mãnh lên đường. Họ vào Nam chiến đấu. Bãi cát An Dương này lại chìm vào yên lặng rùng rợn của cái chết từ trời đổ xuống hay từ dưới đất nhô lên. Trước kia, dốc đê đổ xuống bãi An Dương cũng to như bây giờ. Giặc Tây đề phòng dân bãi mà chúng luôn nghi là cộng sản nổi dậy thì chúng sẵn sàng lao xe quân sự xuống dẹp liền bằng sức mạnh. Trên hai đoạn đê bị cắt xén, chúng ngày đêm đặt hai tên lính lê dương, trung liên sẵn cầm tay, xả đạn xuống người dân nếu ban đêm không cầm chiếc đèn gió hoặc đèn hoa kỳ ở tay lủng liểng giơ cao lên khỏi đầu đủ ba lần. Và ban ngày, đạn trung liên cũng xé xác người dân bãi, nếu tên lính đã ra lệnh cho người dân đứng lại mà không líu ríu tuân theo. Tôi đã chứng kiến cảnh một người đàn bà đau đẻ, tay ôm bụng, tay cầm cây đèn hoa kỳ cạn dầu khô bấc, lập cập run rẩy loạng choạng tiến đến chân tên lính, tay chưa kịp giơ lên thì một trận gió to thổi tắt ngọn đèn, và tiếp đến một tràng đạn xé trời khuya, người sản phụ ôm bụng trên vũng máu. Tên lính lê dương mặt đen ngòm trong bóng tối, thản nhiên giương đôi mắt trắng nhìn cái xác cười. Chờ đến sáng hôm sau, chúng tôi lặng lẽ đào hố chôn mẹ con người xấu số. Chị có chồng, một người đàn ông, tiểu công chức, không văn hóa, nghiện cả thuốc phiện lẫn rượu, thịt chó, hay đánh vợ. Tối hôm ấy, ngày lãnh lương anh ta được bạn đồng nghề rủ nhau đi đánh chén say bí tỉ, rồi kéo nhau sang Gia Quất hát cô đầu. Người vợ chết đúng lúc anh chồng đang say rượu, phiện trong vòng tay gái hồng lâu. Tội lỗi ngoài ngưỡng cửa. (Âu cũng là tiền định, tôi viết truyện Ở bãi, truyện Tội lỗi ngoài ngưỡng cửa đăng Tiểu thuyết thứ Bảy, cách đây hơn 50 năm rồi). Ngày nay, tôi lại tái hồi dải bãi sông oan trái An Dương. Nhưng tôi không hề oán giận bãi cát mát mịn màng, những bóng cây xanh rờn trên dòng nước Nhị Hà lặng lẽ từ thượng nguồn ngàn dặm xa xôi chảy về xuôi rung lên tiếng hát ngàn năm đất Việt. Tôi tự hào vì bãi đất An Dương. Tôi tưởng tượng xưa kia chính bãi An Dương này là bến Bình Than mà đại danh tướng Trần Quốc Tuấn cùng các quan văn võ hội quân và họp bô lão xin ý kiến toàn dân hòa hay chiến. Cờ chiến nhà Trần bình Nguyên Mông kéo đỏ bến nước Bình Than. Ngựa hí, quân reo, bước đi rầm rập của các danh tướng Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng đã khua vang trời nước An Dương kín đáo. Và cũng chính ở khúc sông Nhị Hà này, sau đó danh tướng Trần Khánh Dư đã thủy chiến, chặn quân Nguyên, cướp hết lương thực. Nguyên Mông đại bại, lưu lại mấy ngàn xác chết trên dòng sông Hồng đã đỏ lại pha thêm máu đỏ. Khúc sông mang dấu ấn lịch sử này, ngày nay không còn những đám mây xây thành soi bóng nước vỗ bờ lau, không còn vang vọng tiếng thét oai hùng của cậu bé Trần Quốc Toản vừa bóp nát trái cam vì tức giận lệnh cấm ra quân của phụ hoàng, nhưng tiểu chiến tướng vẫn ra quân dưới lá cờ thêu kim tuyến dòng chữ lớn: “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Bài ký ngắn ngủi này mang nặng nỗi quan hoài thắm thiết của tôi đối với dải bãi bến phù sa An Dương kể từ ngày tôi cùng mấy anh em văn nghệ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Nguyệt Hồ, Viễn Khách - sống ẩn náu ở đây ngót hai năm tránh Tây, tránh Nhật, nghe thiên hạ sự. Thế rồi lại chia tay! Chiến sự bùng nổ vang trời. Người lên Việt Bắc, kẻ vô Nam, kẻ về tề. Viết, vẫn viết, viết trước họng súng, đầu lê, lặng lẽ, nghiến răng mang cái tị hiềm khó giải, tề nhân. Tôi đã là tề nhân gần hai năm chui bờ rúc bụi, viết Đất, Xã Bèo, Người của đất đồng thời viết cả trường thiên phóng sự về đời sống khốn nạn của văn quan, võ tướng xã hội Sài Gòn, với nhan đề Xóm Rá (1953). Viết xong Đất, Xã Bèo, tôi viết một cụm hai truyện dài Cầu Sương, Quán Gió. Nội dung đề cập đến số phận hẩm hiu của người phụ nữ giai cấp tư sản trong ngày chiến. Cô gái khuê môn không hiểu lòng chồng, dẫn đến phụ chồng. Xin trở về với bãi bến An Dương. Hồi mấy mái tóc xanh còn chụm vào nhau chung đèn chung bóng. Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, ba nhà thơ sục sôi lòng cách mạng, ngày đêm bàn cách lên chiến địa. Trần Huyền Trân khẽ nói lên cái day dứt của lòng mình: Nằm đây thép gỉ sơn mòn Cái đi đi mất, cái còn lần khân Thẫn thờ thẹn gối, e chăn... Các anh đã lên chiến địa. Các anh đã làm những cánh chim thỏa chí lớn hải hồ. Các anh đã vì nghĩa cả. Tôi cũng từ lâu, xoa mái tóc bạc này, nhằm câu chiêu niệm. Thế sự vãn du du, rồi cũng đi vào ảo giác. Tôi mệnh chưa cho chết, sống quá đủ rồi. Mong đi. Đi về đâu? Về đâu? Nào biết. Giờ thì tôi lại ở bến bãi An Dương “Cây đa bến cũ, con đò khác xưa”. Về đây ở với lũ con trai. Cả ngày nằm giữa Hồ Tây, Nhị Hà đọc sách. Đầu óc mỏi rồi, trí nhớ thui rồi, mắt mờ rồi. Sợ đọc, viết, cố ngồi, cố viết, tay quá run, chữ không thật nét, coi như làm cái việc “rửa bút cùn, lau kiếm gỉ”, viết với tâm tình băng giá của một ông già. Viết nhiều, viết ít, viết gì đi nữa, chỉ là những dòng chữ biệt li. Tôi nghe như sắp ra khỏi kiếp tục gửi trong cõi tạm. Ngòi bút lê đến đây, ngậm ngùi tưởng như những cành lá khô rơi rụng cuối nẻo đường văn nghiệp. Tôi sực nhớ câu thơ trong thiên trường ca của Lý Thương Ẩn, danh sĩ Thịnh Đường. Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu Tôi đắc ý với ý thơ, lời thơ tuyệt hảo này. Mỗi lần nhắc đến, lệ hoen má hóp. Xin mượn câu thơ họ Lý khép bài ký ngắn ngủi này và cũng luôn thể kính chào bạn đọc cố hữu cáo chung nghề cầm bút của tôi. Kể từ nay, tôi sống những ngày tàn không tác phẩm nhưng bù vào cái bất hạnh ấy, xin được phép vui mừng báo với quý vị là tôi làm cha một lũ năm trai, một gái, làm ông nội, ông ngoại một đàn mười lăm, mười sáu cháu. Chỉ còn hận chưa có mống chắt nào. Thì tháng trước, giữa mùa xuân cô cháu dâu, trưởng tộc của tôi cho ra chào đời một thằng chắt khỏe mạnh kháu khỉnh. Tôi mừng và nghĩ đến cái truyện ngắn, rất ngắn, rất hay của nhà văn Nga M. Gorki. Truyện rằng: Một đoàn người đi phá hoang. Trong đoàn có một người đàn bà đau đẻ khi đi qua bãi bể sóng gió ầm ầm. Người sản phụ đau quá, ngã gục trên bãi sông. Ai giúp đỡ bà? Không ai cả. May, trong đoàn có nhà văn Gorki. Ông xoay trần giúp sản phụ cho ra chào đời một chú bé thiên thần. Chú bé khỏe mạnh, cứng cáp, quẫy đạp, khóc vang. Nhà văn hào ôm chú bé thiên thần, nhảy xuống sông, dìm chú xuống làn sóng nước mặn nồng, nhấc lên, dúng xuống đủ ba lần. Chú bé khóc to hơn, vang vọng cùng tiếng sóng liên hồi vỗ vào đất nước Đại Nga. Còn thằng chắt nhỏ của tôi, thưa các vị, cũng khôi ngô tuấn tú, cụ và chắt rất hợp nhau. Cụ già rồi, nhưng cũng cảm hứng như văn hào Gorki muốn ẵm chắt lội xuống dòng sông Nhị, ba lần dúng nước, tắm rửa chắt ở Trường Giang, chào mừng đất nước Việt Nam anh hùng đổi mới. Người Hà Nội, số 19/1996 Người phun kiếm H ôm nay nói đến nghề xuất bản sách báo, cách in ấn và phát hành sách báo tại Hà Nội những năm trước cách mạng, tôi nhân danh một người đã cộng sự với một tài năng lớn trong nghề này là ông Vũ Đình Long, không ngần ngại gì mà không nhắc đến tên ông với tấm lòng chân thật và cũng không thiếu ít nhiều suy nghĩ đắng cay. Qua nhiều năm nay, mỗi lần có dịp nói đến cái nghề xuất bản cao quý này, tôi lại ngậm ngùi nhớ tới ngôi nhà 93 phố Hàng Bông, trong đó có một người tầm vóc to lớn, da ngăm đen, bước những bước đi lạch bạch quanh bàn giấy đồ sộ luôn tỏ ra bực bội, đăm chiêu, tính toán. Đó là ông Vũ Đình Long, một trí thức bỏ vốn ra kinh doanh văn chương chữ nghĩa, làm giàu. Ông Long từ đâu đến trong cái Hà Nội ngàn năm văn vật quay cuồng qua bao cuộc hưng vong lịch sử này? Lúc còn là một ông giáo dạy lớp phổ thông, không ai biết đến ông. Ông giáo họ Vũ đang an phận gõ đầu trẻ nhỏ, bỗng có lệnh đổi ông lên tận Hà Giang tiếp tục “Godautre” (gõ đầu trẻ - nhà văn Nguyễn Công Hoan, bạn đồng nghiệp của ông Long, chơi chữ). Ông Long ở Hà Giang tận dụng mấy năm sống với núi rừng, ngày đêm trau dồi chữ Hán. Ông bắt đầu thử năng khiếu văn chương, dịch pho tiểu thuyết Tàu Anh hùng náo. Pho truyện kiệt tác. Sách gửi về Hà Nội, xuất bản, được độc giả nhiệt liệt hoan nghênh. Sau đó, đến Mảnh trăng thu, một truyện tình nổi tiếng của nhà văn lãng mạn Tàu là Từ Trẩm Á. Ông Vũ Đình Long nổi danh trong làng văn bút Hà thành hoa lệ. Rồi thì, gió đã lên, cờ đến tay Vũ, Tây lại chuyển ông giáo Long về Hà Nội. Ông tự thấy ngấm say men văn học, xin thôi nghề dạy học, bắt đầu mở nhà in. Họ Vũ vẫn bản chất cơ mưu, nói chắc nịch, làm ăn cũng chắc nịch lại thêm cái nết điềm đạm, khiêm tốn, vui vẻ với mọi người, luôn lấy câu “thu phục nhân tâm” làm chuẩn đích trong nghệ thuật xã giao. Khởi đầu, vừa làm, vừa nghe ngóng, thử sức mình, nhà in Tân Dân chỉ vẻn vẹn có một máy in cỡ nhỏ, vài máy công tử đạp chân, nhận in thiếp cưới, danh thiếp, sổ sách nhà buôn... Công việc chạy đều, có thu có nhập. Họ Vũ nghĩ ngay đến việc làm lớn. Ông lân la bước vào nghề xuất bản. Hãy làm chú mèo con bắt chuột chí, ông cho ấn loát loại sách ít trang, giá rẻ - 25 xu một cuốn: sách Phổ thông bán nguyệt san. Số lượng 2.000 cuốn, bán quanh Hà Nội. Chỉ độ mươi hôm, sách bán hết. Ông Long xuýt xoa thầm nhủ: “Thế này thì phi xuất bản bất phú”. Loại phổ thông bán nguyệt san ra đều, cứ nửa tháng cái máy in cũ kĩ chạy “cà xịch cà tàng” lại thòi ra một quyển, số lượng nhích dần lên. Thời vận đến rồi. Họ Vũ đã ngồi phác họa một xí nghiệp ấn loát, một xưởng in cỡ lớn, với một máy hiện đại Minerve gửi mua bên Pháp quốc. Cứ như một trận đổi đời. Một sớm, nhà in cũ bị phá, cái máy cũ thảm hại như chú ngựa già, chưa bị chủ nhân mổ thịt, vẫn được chủ tận dụng sức tàn, khiêng vào một xó chạy đều đều. Máy hiện đại Minerve từ Pháp đã đến Việt Nam, chủ nhân được giấy hải quan mời xuống cảng Hải Phòng nhận máy, xe về Hà Nội. Họ Vũ phải thuê hai chục thợ phá nền nhà, đào móng, hạ bệ cái máy tối tân, to như hai cỗ xe tăng chập lại. Tây không quên cử một kĩ sư Tây theo sang Hà Nội lắp máy, thu một số bạc trả công rất lớn. Cái máy xe tăng bắt đầu khoe oai lực. Nó chạy êm như ru. Một phút nhả ra năm chục tờ giấy in khổ báo, tự nó gấp rất ngon lành. Như đã nói, ông Vũ Đình Long lắm cơ mưu, lại giỏi cả Hán văn lẫn Pháp văn. Về tài giao dịch thì ít ai bì kịp. Ông vén tay áo, dồn cả trí tuệ vào công việc: chính thức dựng nhà xuất bản. Nhưng muốn tung hoành trên mặt trận văn hóa, văn học, phải có tướng quân, đó là những con người văn nghệ, con người trí thức, những con người áo vải, dễ nắm tóc đấy, mà cũng khó chơi, khó trị. Họ Vũ tự tin bản lĩnh của mình, như Tống Giang Lương Sơn Bạc, chịu khom mình vái lạy thì tức khắc thu nạp được hầu hết anh hùng hảo hán bốn phương. Quả vậy, họ Vũ đã công thành như Tống Công Minh. Muốn thu phục bọn áo vải kiếm ăn bằng cây viết, ông chủ nhà xuất bản phải có tài chiếm lĩnh lòng tin bọn người hàn sĩ qua thư từ trao gửi. Thời cũ, người mua văn, kẻ bán chữ, thoạt đầu ít khi tiếp diện. Giao dịch bằng thư từ, chữ nghĩa. Có cảm tình với người mua chữ, thì viết cái chơi, không cảm tình thì... hoa rơi lá rụng! Thế đấy! Cái bệnh chung của người áo vải bán văn, sống nghèo, chết thảm, không chịu ai cưỡng chế. Vũ Đình Long sinh hoạt khắc khổ, không thích xuống xóm “Kính thiên” (Khâm Thiên), không ưa gái nhảy. Rất thích chơi bát đũa thượng hạng của Trung Quốc, khoe bát đĩa lạ với khách mời dự tiệc, ăn món lạ, uống rượu lạ. Thật vậy, ông hào phóng trong việc mời khách ăn. Thực khách đó, tất nhiên không phải các anh nhà văn áo vải đủ danh, đủ tài, đủ đức như Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương, J.Leiba Thanh Tùng Tử, Hiên Chi... Chỉ có một bạn văn, một bạn cùng nghề “Godautre” mỗi lần từ Thái Bình, Nam Định lên chơi Hà Nội là được Vũ Đình Long cho xe hơi đi đón về dự tiệc vô cùng thịnh soạn, đó là Nguyễn Công Hoan. Nhà in mang danh hiệu Tân Dân, nhà xuất bản Tân Dân đứng ngạo nghễ ở phố Hàng Bông, như thách thức đọ kiếm với mọi nhà in lớn, như nhà in TB Cay của Hoa kiều ở phố Sinh Từ, nhà in Minh Sang ở Bờ Hồ, nhà in Ngô Tử Hạ phố Nhà Thờ, nhà in Lê Văn Tần phố Hàng Bông, nhà in và cũng là nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh 112 Hàng Bông và còn chục nhà in nhỏ khác. Nhưng địch thủ ghê gớm nhất của những nhà in Việt này là xí nghiệp in của người Pháp IDEO (Imprimerie d'Extrême Orient - Nhà in Viễn Đông). Nói là địch thủ ghê gớm là nói về ấn loát tân kỳ của nhà in Pháp. Ngoài ra, họ không hề cạnh tranh gì với nhà in người Việt. Ông Vũ Đình Long có đầu óc làm ăn lớn và ấn loát tối tân, tổ chức nhà xuất bản có khoa học. Xu hướng của ông là cố gắng noi theo tổ chức văn học của Editions Flammarion và Librairie Hachette, nhà xuất bản vĩ đại, kỳ cựu của Pháp. Đã có trí cầu tiến như vậy, họ Vũ duy trì cách đối xử khéo với đội ngũ nhà văn hồi ấy đã tỏ ra khá mạnh. Đội ngũ nhà văn của nhóm Tân Dân (đối lập với Tự Lực văn đoàn mà chủ lực chỉ có bốn anh em họ Nguyễn Tường) gồm hai thành phần: bút lông và bút sắt, đào tạo bởi hai thế hệ. Bút lông: Cụ bảng Mai Đăng Đệ, cụ cử Phan Kế Bính, sở bảo Doãn Kế Thiện, các ông Nhượng Tống, Nguyễn Can Mộng, Phan Khôi, Tản Đà, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Nguyễn Đỗ Mục... Các ông không khoa bảng như Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc, thi sĩ Lê Bái (bút danh: J.Leiba Thanh Tùng Tử, tuổi trẻ tài cao Hán học, Pháp học đều uyên bác)... Bút sắt: Hiên Chi Nguyễn Văn Chất (viết báo Pháp nhiều hơn báo Việt), Lan Khai (tiểu thuyết gia nổi tiếng), Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Như Phong, Tchya, Phùng Tất Đắc (Hán học, Pháp văn cũng vào bậc uyên thâm), Lê Văn Trương (tiểu thuyết gia, người hùng, viết khỏe nhất, nhiều độc giả nhất miền Nam cũng như miền Bắc), Lưu Trọng Lư, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân và tôi. Còn lạ gì trò đời ghen ăn, ghét ở. Hai tờ báo tuần Phong hóa và Ngày nay của nhóm Tự lực văn đoàn thẳng tay lôi Vũ Đình Long lên mặt báo. Họ sử dụng tranh trào phúng, thơ văn hài hước để đả kích ông. Đặc biệt bức biếm họa vẽ Vũ Tiên ông hếch mũi lên trời, kiếm ở hai lỗ mũi phun ra tơi tới, bạc tiền như nước vỡ đê ào ào chảy vào tay áo thụng của Vũ Tiên ông... Nhưng ông Vũ không những không giận nhóm Nhất Linh, mà còn tỏ ra thích thú. Tôi, tuổi thọ khá cao rồi, cầm bút viết hồi kí này, bút rời tay, cảm thấy lòng buồn. Cho đến ngày nay, tôi còn tồn tại. Các ông bạn cầm bút của tôi, cùng thời với tôi, tất cả đã ra khỏi cái quá khứ văn bút đau thương kệch cỡm này. Người Hà Nội, số 29 / 1996 """