"
Gọng Kềm Lịch Sử - Bùi Diễm full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gọng Kềm Lịch Sử - Bùi Diễm full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Trong Gọng Kềm Lịch Sử Bùi Diễm & Chanoff, David
vietmessenger.com
Phan Lê Dũng dịch
Thơ Dẫn
Success is counted sweetest
By those who ne'er succeed
To comprehend a nectar
Requires sorest need.
Not one of all the purple Host
Who took the Flag today
Can tell the definition
So clear of Victory
As he defeated -dying- On whose forbidden ear The distant strains of triumph
Burst agonized and clear!
Emily Dickinson, 1858
Thật ân sủng ngọt ngào chiến thắng
Chỉ nhiệm màu với kẻ lỡ vận đến sau Hiểu được Cam Lồ vi diệu,
Quả cần vết tận cùng đau.
Vả chẳng thuộc kẻ Chủ Tể,
Kẻ giữ cờ Tiên Cuộc cấp thời
Định nghĩa rõ ràng minh tỏ
Hào quang chiến thắng rạng ngời.
Thởi chỉ kẻ vong bại sắp lìa đời
Trọn nghe âm hưởng tuyệt vời cấm đoán, Nổ bùng trong nỗi tái tê
Ân huệ tột cùng Chiến Thắng
Phan Lê Dũng, 1988
Lời Người Dịch
Đã có nhiều quyển sách viết về Việt Nam trong những năm vừa qua, trong số này, không ít đã diễn tả tường tận những cảnh tượng đồi bại của chế độ cũ, những cuộc tranh chấp ngấm ngầm trong chánh phủ hay trên bàn đàm phán. Tất cả đều viết về những việc thật gần, thật cận, hoặc từ năm 1960–1975, hoặc từ những năm sau. Mỗi quyển đều nói lên cương vị của người viết hay về một giai đoạn đặc thù của lịch sử. Nhưng quyển Trong Gọng Kềm Lịch Sử, nguyên tác In The Jaws Of History của ông Bùi Diễm và David Chanoff có lẽ đã ám ảnh người đọc sâu xa hơn tất cả.
Chỉ nói riêng về chiều dài, tác giả đã đi ngược suốt từ thời Pháp Thuộc qua thời kỳ Bảo Đại, ông Diệm cho đến những ngày chót khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ và đề cập đến những nhân vật chìm, nổi trong chính trường từ lúc phôi thai như những học sinh ở trường Thăng Long cùng Ban Giảng Huấn cho đến những sảnh đường quyền lực ở Hoa Thịnh Đốn. Trong suốt 343 trang sách, ông Bùi Diễm, nguyên Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn, con ruột học giả Bùi Ưu Thiên và cháu ruột sử gia Trần Trọng Kim đã thuật lại cuộc đời của mình cũng như cuộc đời của những người cùng lứa tuổi trong một thế khóa oái oăm của lịch sử. Từ ngày biết nhận xét cho đến lúc đã thực sự bị cắt rời khỏi đất nước, cuộc đời tác giả được mở ra gần như trọn vẹn trong 36 chương sách: “Gọng Kềm, Hội Kín, Khủng Bố, Lập Trường… Đảo Chánh…” Tất cả những danh từ nói về những cảm quan cũng như các biến cố quá khứ đều nằm gọn “trong gọng kềm lịch sử,” một bầu không khí khắc nghiệt, mang tính chất định mệnh (Historical Determinism) chẳng khác nào bầu không khí của Chiến Tranh và Hòa Bình, kiệt tác của Leo Tolstoy. Quyển sách dù nặng phần chính trị nhưng mang đầy tính chất văn chương trong lời viết. Có lẽ lối viết là do nỗ lực cố đem cảm quan của riêng người kể (hoặc thế hệ người kể như đã minh xác trong lời mở đầu) đến với người đọc nên mặc dù quyển sách được viết từ lối nhìn chủ quan, chính cảm quan của người kể đã mang lại tính chất văn chương trong lối diễn tả.
Trong cái thế xiết chặt của lịch sử thì một cá nhân dẫu có vùng vẫy cách nào cũng không thể thoát ra khỏi bước kềm tỏa. Một cá nhân dầu ở cương vị nào, dẫu phấn đấu thế nào cũng không thể chuyển lay cả toàn cục diện.
Những cái buông, bắt ở một tư thế nào đó không còn thuộc phạm trù của tầm với đã biến con người thành một con ốc trong bộ máy to lớn của lịch sử. Có những lúc lịch sử đã thoát thai, thành một quái vật khổng lồ đuổi bắt những người trong cuộc một cách nghiệt ngã. Lịch sử đã không cho phép những người trong cuộc giữ phần lèo lái. Khi bánh xe lịch sử chuyển hướng những người trong cuộc thường phải sững sỡ vì lịch sử không còn đứng về phía họ. Trong cơn loạn đả, lịch sử đã trong một phút giây nào đó, bằng cách này hay cách khác, trở nên một con vật khổng lồ dồn họ về ngõ cụt. Dầu muốn, đầu không, bất thình lình những mộng ước cao xa, tuyệt vời bỗng chuyển thành những tăm tối bắt buộc. Những cơn phong ba của lịch sử đã dồn dần đám người nghiệt ngã vào một hố thẳm không cùng của tuyệt vọng. Trong cơn phẫn nộ điên cuồng, lịch sử đã dẫm nát mọi chướng ngại vật. Danh dự hoặc lương tâm. Tâm hồn hay thể xác. Tất cả đều bị nghiền nát vì gọng kềm lịch sử. Giữa phút thăng hoa cuồng dại, lịch sử đã chẳng cần nhớ đến luận lý. Lịch sử đã hoàn toàn thoát khỏi phạm vi của lý trí. Những vết hằn của những con người bị nghiền nát đôi khi tản mát dần đi qua những tiếng thở dài bi phẫn, những cơn ủ dột triền miên, nhưng đôi khi những vết hằn đó, ở những góc độ khốc liệt nhất bỗng cô đọng, phát ra thành những tiếng kêu bi thảm. Tiếng kêu của lịch sử. Những vết hằn đó đã điểm tô lịch sử, không phải bằng những vương miện của chiến thắng, không phải bằng những ân sủng không ngừng của danh dự, mà là điểm tô bằng những giòng máu, những giọt nước mắt, những cực nhục của những hòn đá xanh cục cằn không ai nhắc đến trong các đoạn đường lịch sử.
Kể từ thời khi lịch sử phát sinh cho đến hiện tại, có lẽ lúc nào người ta cũng chỉ nhìn về hào quang của những lúc chiến thắng. Người ta thường quên số phận của những kẻ kém may mắn hơn, số phận của những vết hằn.
Nhưng có một lúc nào đó, những vết hằn bỗng tỏa ra những hấp lực lạ kỳ, bỗng nhiên óng ánh, thiêng liêng trong bản chất chân thật cố hữu. Khi những tiếng ngợi ca chiến thắng đã trở thành một thứ “Tiếng Trống” bập bùng vô nghĩa, người ta bỗng phát hiện ra rằng những viên đá xanh đã góp phần không kém vào việc tạo dựng lịch sử. Lịch sử đã chối bỏ vinh quang đối với những vết hằn, nhưng những vết hằn đã điểm tô cho lịch sử. Những vết hằn, những cái nhìn từ những tư thế thảm khốc nhất, chẳng những chỉ điểm tô mà hóa thân trong lịch sử. Chính những vết hằn là âm hưởng rõ rệt nhất, là hình ảnh sinh động nhất của lịch sử. Những vết hằn là… lịch sử.
Đã 13 năm qua, lịch sử vẫn tiếp tục bằng những kế hoạch năm năm, bảy năm, bằng những trại học tập cùng khắp các miền xa xôi hẻo lánh bên nhà, bằng những hàng người lũ lượt theo nhau tản cư, bằng những đứa bé lớn lên hoàn toàn ngơ ngác, bằng những người lớn quật quã kinh hoàng hằng đêm. Còn, Mất, Xảo Trá, Bất Cận Nhân Tình, Mù Quáng, Hẹp Hòi, U Mê…, tất cả chỉ là những tên gọi khác nhau của những con người lỡ đứng về phía hố thẳm của trốn chạy. Lịch sử đã theo sát họ để ám ảnh. Ở bất cứ tư thế nào họ cũng nhìn thấy gọng kềm của lịch sử đang khép lại và họ phải u buồn nhận chịu những kiếp sống của một vết hằn. Ám ảnh của lịch sử là ám ảnh của đời sống. Chẳng những về một mặt mà là về mọi mặt.
Không phải chỉ là một lúc mà là mọi phút, mọi giây. Tâm hồn, thể xác, suy tư, nội tâm, ngoại cảnh. Số phận của những vết hằn là số phận của những phẫn khích truyền kiếp luôn luôn phải trốn tránh một sự thật hoàn toàn bất công.
Đã 13 năm qua lịch sử vẫn theo sát những kẻ sống sót, vẫn toan tính nghiền nát số phận của những kẻ bất hạnh. Bên nhà kẻ thắng cuộc nhất thời vẫn vẽ vời, tô son điểm phấn cho “Cuộc Đại Thắng Mùa Xuân.” Bên ngoài, từng loạt hồi ký của Neil Sheehan, của Frank Snepp, của David Halberstam, của… Khép giữa hai gọng kềm này là những vết hằn, những người khốn khổ trong cuộc đã ngàn đời im lặng hoặc vẫn thảm sầu trong im lặng của bất công. Hình như chẳng
có gì đáng nhớ. Hình như chẳng có gì cao đẹp. Hình như tất cả chỉ là những thủ đoạn thần sầu của những người lãnh đạo đã mù quáng vì uy quyền, đã mất hẳn nhân tâm. Hình như… Chẳng có gì đáng cần biết thêm. Chẳng có gì cần để học hỏi. Tất cả đều chỉ là lỗi lầm và tất cả đều là những việc đã qua, sẽ qua hoặc nên cho qua. Đã có lần người ta tin rằng sự thật chắc chắn phải nằm trong những quyển sách viết dài dằng dặc, đổ hất trách nhiệm về phía những vết hằn đang câm lặng. Nhưng người ta đã quá hấp tấp, vì những vết hằn đã lên tiếng. Tiếng nói thống khổ của những nạn nhân một đời đi tìm lý tưởng. Tiếng nói của tủi cực phải ấm ức phát ra từ tiềm thức vì tai nạn xảy ra chập chồng đã đẩy lui vào ký ức tầm mức quan trọng của những tai ương lần trước.
Câu chuyện bắt đầu bằng một ngôi trường và người kể vốn là một học sinh. Câu chuyện kéo dài, vô lý như những cuộc chiến tranh dài đến gần như bất tận. Câu chuyện là chuyện của một ông thày đi ruồng bố, tiêu diệt ngay chính đám học trò của mình. Câu chuyện là chuyện của một nhóm bạn bè, sát cánh bên nhau ở những bước thập tử nhất sinh bỗng ra tay tàn sát lẫn nhau. Câu chuyện là chuyện của một bầu không khí yên lặng thôi miên trong lớp học khi học sinh ngồi lắng nghe những bài giảng ly kỳ dần dà biến chuyển thành một bầu không khí đe dọa của những cuộc mất tích mà trong đó mỗi học sinh đã quen với thói quen “đưa tay sờ báng súng.” Câu chuyện là câu chuyện lan man từ buổi giao thời của chế độ phong kiến cho đến lúc bước sang chế độ quốc gia dân chủ. Mọi vật đều xoay chuyển và xoay chuyển với một tốc độ bàng hoàng, kinh dị. Tất cả những quan niệm về cuộc đời, về chính trị, về luân lý và về những điều cơ bản nhất đều biến đổi. Tiết tháo của những nhà Nho bị quật ngã vì những sự lừa đảo của Realpolitik. Những quan niệm Lão, Trang khách quan, trung dung bị đẩy vẹt đi vì những tiếng vọng thôi thúc từ thế giới bên ngoài. Những tiếng kêu gọi của luận lý bị xô ngã nhào bởi những vận động khéo léo bạo động hóa tình cảm của những kẻ đã quá lâu phải chịu bất công. Những cơn sóng tạo thành do những sự xung đột kịch liệt của suy tư và hiện trạng loan ra cùng khắp từ Hà Nội cho đến tận những vùng rừng rú hoang sơ như Bái Thượng. Khung cảnh cứ biến dần, biến dần từ những bài học lịch
sử của Napoleon, từ những nhì nhằng vớt vát của đế quốc Pháp khi chánh quyền thực dân đang ngã nhào cho đến những ngờ nghệch khiếp hãi của việc Hoa Kỳ can thiệp.
Câu chuyện thật dài là vì câu chuyện của một thế hệ, nhưng câu chuyện không thể kể một lúc mà phải chuyển thành hồi. Mỗi hồi mở ra và rồi từ từ khép lại. Không phải không còn gì để kể mà là vì câu chuyện phải khép lại để nhường chỗ cho những hồi kế tiếp. Thảm kịch to lớn nhất, ám ảnh nhất được đưa lên đầu và rồi màn ảnh to tát được khép dần, khép dần, đi sâu vào ký ức của người kể và lại từ từ mở ra nối kết điểm đầu với điểm cuối, từ thuở ấu thời cho đến những sự kiện sau cùng và rồi hình ảnh được hoàn toàn hợp nhất, hoàn toàn quyện lại với nhau như một bức tranh vĩ đại và bi thảm. Câu chuyện từ nhịp, từ nhịp như nhịp điệu của tâm hồn, của con tim. Câu chuyện vẽ qua vẽ lại như một đồ thị tuần hoàn của đời sống. Chuyện kể như ám ảnh của một bức tranh truyền thần khi đã ra khỏi tầm mắt thì để lại âm ba của một cái gì đứt đoạn. Đọc xong có lẽ không thể nhớ được chuyện được kể từ đoạn nào vì tất cả đều nối liền như một vòng tròn khép kín.
Có lẽ nhịp điệu tuần hoàn của người kể chứng tỏ người kể đã bị ám ảnh vì nhịp điệu tuần hoàn của sự bất công. Có lẽ người kể đã mong mỏi tìm kiếm một sự tuần hoàn của lịch sử trong suốt cuộc đời. Cuộc đời người kể luôn luôn phải đứng vào nghịch cảnh, phải tìm những gì không hiện hữu. Người kể đã đi tìm ảo ảnh trong suốt cuộc đời và dĩ nhiên ảo ảnh đó, nếu hiện hữu cũng không thực sự nằm trong tầm tay người kể. Có thể lịch sử sẽ đến cùng người kể trong tương lai, nhưng lịch sử đã không ở cùng người kể trong suốt cuộc đời. Có thể lịch sử sẽ tuần hoàn, nhưng chu kỳ tuần hoàn đó dài quá, dài hơn tầm với của thế hệ người kể. Câu chuyện của người kể là câu chuyện của một kẻ đi tìm và đã tìm suốt một cuộc đời. Mục tiêu của cuộc tìm kiếm có thể là ảo ảnh nhưng chính sự đi tìm đã tạo nên ý nghĩa.
Trong suốt cuộc đời người kể, dường như mỗi bước đi là mỗi bước gấp rút không thể trở về. Mỗi điều trông thấy là mỗi điều ám ảnh không quên. Những chỗ đi qua bỗng thình lình mất đi: “Phủ Lý
không còn nữa… Nó đã bị chính dân làng đốt cháy trong một cuộc chiến tranh tiêu thổ, dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.” Những người vừa mới trông thấy đã tự nhiên vĩnh viễn chẳng bao giờ còn được gặp: “Một khi chúng tôi đã ở hai bên làn ranh giới Pháp Việt thì không ai có thể quả quyết được ngày gặp lại… Định mệnh đã không bỏ qua cho gia đình chúng tôi cũng như đã không hề bỏ qua cho bao nhiêu những gia đình người khác.” Cuộc đời người kể là một cuộc đời luôn bị xô đẩy, dồn ép. Khi thì ngược mạn Lào Kay, lúc thì lênh đênh trên giòng sông Đáy. “Lúc đò lướt qua các vùng làng xóm, tâm sự của tôi cũng cay đắng như mùa đông bên ngoài… Mọi người đang tham gia trong một cuộc chiến mà chính tôi cũng rất muốn được góp phần. Nhưng 'họ' đã ép tôi… Je suis un Évadé… Tôi là kẻ phản bội.”
Trong khi vượt qua tất cả các đoạn đường tác giả đã không quên mà vẫn nhớ. Nhớ để kể. Từ chiếc máy bay P–38 năm 1945 cho đến cuộc tuyên án tử hình Việt Nam ở Capitol Hill. Từ thế giới tao nhã trừu tượng của những cơn đam mê toán học cho đến những xác chết đói dọc theo hai bên vỉa hè Hà Nội năm 44–45. Từ những mơ ước ngây thơ của những thiếu niên bên lửa trại bập bùng mơ tưởng về những luân lưu truyền thống lịch sử của dân tộc cho đến những cay đắng khi hoài bão dân chủ cuối cùng sụp đổ.
Trong cuộc chia cắt cuối cùng , người kể không còn dính liền được với đất nước. Đất nước trong cơn dãy chết đã xô đổ tan tành hoài bão của cuộc đời người kể. Như những vòng tuần hoàn bắt buộc, những giòng người lại đổ xô, dày xéo lên nhau, chẳng khác nào những giòng người tản cư đã xô đẩy nhau ra khỏi Hà Nội trong cuộc chiến tranh chống Pháp, nhưng lần này người kể không còn là người trong cuộc. Vẫn những quận lị nối tiếp theo nhau xóa tên trên bản đồ nhưng người kể đã chuyển thành một kẻ bàng quan bất lực ngồi lịm trước màn ảnh truyền hình. Người kể vẫn xem, nhưng xem ở phương vị tách rời, xem sự thật đang lên khuôn thành những màn bi kịch. Và lần này, cũng chẳng khác gì những lần trước đây, người kể lại bị hất vào những tư thế bàng quan bắt buộc.
Cả câu chuyện là câu chuyện của chết chóc. Cái chết của từng người như cái chết của Phúc, của Đặng Vũ Chu, của Trương Tử Anh. Cái chết của từng đoàn người như những đợt bạn bè người kể thi nhau ngã gục ở dọc sông Hồng Bắc Việt. Cái chết của các làng mạc, quận lị như Phủ Lý. Cái chết của những ước mơ, hoài bão trong tâm hồn các chính khách quốc gia như Bác Sĩ Duát. Cuộc đời của người kể dường như cuộc đời của một chứng nhân nhìn quê hương qua cơn hấp hối. Những giòng người xuôi Nam, những người cùng thế hệ, dường như tất cả đều chết, chỉ còn lại một nhân chứng khắc khoải với thời gian dài dằng dặc –Người Kể.
Câu chuyện ấp ủ một nỗi buồn triền miên vì là câu chuyện chết chóc của một thế hệ. Nhưng người kể luôn luôn tin tưởng ở tương lai. Cũng như những vòng tuần hoàn hoán chuyển trước mắt, người kể đã chờ, đã đỏ mắt tìm trông nhưng khi biết rằng việc chờ không nằm trong tầm với thì người người kể lại chấp nhận. Vì lẽ người kể tin rằng việc chờ sẽ xảy ra trong tương lai. Cũng như người kể không nắm rõ được những định mệnh trong quá khứ, người kể không thể cầm chắc trong tay việc xảy ra trong tương lai.
Trong gọng kềm lịch sử, máu và nước mắt của một thế hệ đã đổ ra thành một thiên bi kịch dài triền miên suốt một giòng đời và người kể kể lại bằng tâm thức từng cuộc sống của những vết hằn mà chính bản thân mình chứng kiến. Dua câu chuyện của người kể, những vết hằn quằn quại, di động trong khổ đau của hố thẳm im lặng, nhưng người kể không hề quên họ. Tất cả những gì đã mất, đã qua, đã khuất sâu trong âm ỉ của thời gian đều còn sống, mặc dầu chỉ còn sống trong ký ức và người kể vạch dần ký ức của mình để đưa ra những miểng đá hóa thạch cục cằn trong tâm tưởng. Trong thế kẹp ác liệt của lịch sử những vết hằn từ từ hiện rõ, chỗ đỏ ối, chỗ tím, chỗ thâm quầng, chỗ đen đủi, nhưng tất cả đều hiện diện. Và những vết hằn đứng đó mãi mãi điểm tô cho lịch sử.
Falls Church, Virginia, 1987.
Phan Lê Dũng
ầ
Lời Nói Đầu
Tôi viết quyển sách này vì cảm thấy có trách nhiệm với một bổn phận, bổn phận chẳng những đối với hàng trăm ngàn người đã hy sinh trên con đường đấu tranh giành độc lập và tự do cho Việt Nam, mà còn là bổn phận đối với hàng triệu người khác, quân cũng như dân, những người đã từng phải chịu đựng những nỗi khốn khó, cực nhọc của một cuộc chiến tranh dài dằng dặc mà nay vẫn phải trằn trọc, thống khổ vì những hậu quả khốc liệt của sự thảm bại.
Ngày trước, nghĩa trang quân đội nằm ở ngoại thành Sài Gòn là nơi an nghỉ của hàng ngàn chiến sĩ Việt Nam. Không khí thiêng liêng nơi đó đang bị hủy diệt. Tuy nhiên có một sự hủy diệt khác còn trầm trọng hơn. Sự hủy diệt của quên lãng. Nếu những hy sinh và thống khổ của tất cả những người mơ về Việt Nam như một quốc gia hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của cả thực dân lẫn cộng sản phải trở thành những vết bụi mờ của lịch sử thì quả thật không có gì tàn khốc hơn. Vinh danh những nạn nhân chiến cuộc Việt Nam, tôi xin được phép ngỏ lời tri ân hàng ngàn chiến hữu người Hoa Kỳ, người Úc, người Đại Hàn, và những chiến hữu đã nằm xuống trên ngả đường tranh đấu cho Việt Nam.
Quyển sách này là một phần của câu chuyện Việt Nam và các cuộc đấu tranh giành chủ quyền, độc lập và tự do. Tuy cả cuộc sống lẫn suy nghĩ của riêng bản thân đã khiến tôi cảm thấy bối rối khi phải chọn cách viết qua lối nhìn chủ quan, tôi vẫn thấy rằng đời sống của mình chẳng qua chỉ là một phần của những người Việt Nam bình thường khác trong cùng thế hệ. Vì vậy, để câu chuyện được sinh động hơn, tôi xin được phép mời độc giả cùng chúng tôi sống lại những biến cố đã qua bằng con mắt của chính những người trong cuộc.
Khi viết, tôi cũng hy vọng sẽ đóng góp được phần nào vào những công cuộc tìm tòi truy nguyên những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến Việt Nam. Tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam lúc nào cũng là một công việc khảo cứu khó khăn đầy chông gai, trắc trở. Những khó khăn phần nhiều thường là do quan niệm sai lầm của cả hai
phía Mỹ, Việt. Tôi cũng mong quyển sách sẽ diễn tả rõ rệt hơn những bài học đáng nhớ trong giai đoạn bi thảm nhưng cũng không kém phần anh dũng này. Vì thế, trong phần kết tôi đã không ngần ngại rút ra những kết luận bằng vào sự suy diễn chủ quan của chính tôi về sự thật, về những nỗ lực dung hòa và những giải pháp cho tương lai.
Sau đây tôi xin ngỏ lời tri ân ông Peter Braestrup, chủ bút báo The Wilson Quarterly, và ông Philip N. Marcus, cựu viện trưởng viện Giáo Dục Sự Vụ đã khích lệ và giúp đỡ tôi từ bước đầu khi tôi bắt tay vào việc viết.
Thành thật cảm tạ hai người bạn cũ đã cùng làm việc ở Việt Nam với tôi là ông Ogden Williams và ông George McArthur. Ông Ogden Williams đã giúp tôi lúc tôi thảo những bản nháp đầu và xếp đặt quyển sách. Ông George McArthur đã cho tôi rất nhiều ý kiến phê bình xây dựng và tóm tắt. Xin ngỏ lời tri ân bà Muriel Nellis, chuyên viên cổ động và quảng bá văn chương đã cho tôi những ý kiến nghề nghiệp đáng giá.
Tôi cũng xin cảm tạ các bạn người Hoa Kỳ, nhất là ông William P. Bundy, người đã cho tôi toàn quyền xử dụng tất cả những tài liệu chưa xuất bản riêng của ông về chiến tranh Việt Nam. Xin đặc biệt tri ân ông David Chanoff, với sự giúp đỡ tận tình trong công việc tìm tòi, viết lách và chọn lựa những bản thảo.
Sau cùng, tôi xin thành thật cảm ơn các viện Earhart Foundation, The Smith- Richardson Foundation, The Institute for Education Affairs, The Woodrow Wilson International Center for Scholars, và The American Enterprise Institute. Nếu không nhờ các viện kể trên giúp đỡ thì quả thật tôi chẳng bao giờ nghĩ đến việc hoàn thành quyển sách.
Như vậy, đã có nhiều người giúp đỡ tôi trên phương diện viết lách, nhưng những trách nhiệm do những kết luận và phán xét trong tất cả những trang sách này hoàn toàn thuộc phần tôi nhận lãnh.
Bùi Diễm
Chương 1
Gọng Kềm Lịch Sử
Một giọng nói yếu ớt, giục dã xuyên qua những tiếng ồ ồ ở đầu giây điện đàm: “Ông Diễm, Bob Shaplen đây, Bob Shaplen. Tôi đang gọi từ Hồng Kông.” Giọng nói lập đi lập lại tên người gọi, nhưng cơn ngủ say vùi vừa xong và những viên thuốc cho cơn cảm cúm khốc liệt vẫn làm tôi mù mờ về người đang gọi.
“Bob Shaplen đây, ông Diễm. Tôi vừa mới từ Sài Gòn về. Bạn bè ông đang cần gặp ông gấp. Họ rất hoang mang và đang muốn biết rõ tin tức của phía Hoa Kỳ. Chính phủ Sài Gòn đã cắt hẳn mọi liên lạc với dư luận bên ngoài. Chẳng ai biết ông Thiệu hoặc đại sứ Graham Martin suy nghĩ thế nào. Mọi người đều hoang mang. Chỉ còn ông. Ông phải về Sài Gòn cho mọi người biết rõ sự thật. Ông phải về ngay!”
Đầu óc tôi bắt đầu tỉnh táo hơn. Giọng nói đầy vẻ thúc giục của người gọi đã khiến tôi tập trung được tư tưởng phần nào. Đây là lần đầu tiên tôi nhận được tin trực tiếp của Sài Gòn. Khi ký giả Shaplen gác điện thoại, tôi đã hoàn toàn tỉnh táo. Tôi tin là nhận định của ông ta hoàn toàn chuẩn xác. Người ký giả lão thành chuyên tường trình các mục Viễn Đông của báo New Yorker là người hiểu biết và có nhận định chính xác. Ông không phải là người hấp tấp, hay bi thảm hóa vấn đề. Nếu không phải vì tình trạng bắt buộc thì chắc chắn ông đã không gọi tôi. Tôi vẫn còn nghe âm hưởng gấp gáp, giục dã trong giọng ông ta.
Tuy đã 2 giờ sáng ở Hoa Thịnh Đốn mà khi trở về giường tôi vẫn không tài nào chợp được mắt. Thật ra thì trong suốt tuần vừa qua, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề cần phải trở về Việt Nam. Tôi còn đang phân vân không biết có nên về hay không thì đột nhiên bị cúm nặng. Trong khi đó thì ở Sài Gòn những cơn hoảng hốt lại bùng ra thật bất ngờ. Những cơn hoảng hốt đó đã khiến quân đội Việt Nam mất tinh thần và trở thành hỗn loạn. Vào giờ phút này thì chẳng ai có thể đoán được liệu Sài Gòn còn có thể đứng vững được bao lâu nữa. Đầu óc tôi lại miên man nghĩ về vấn đề cần phải trở về Việt
Nam. Tôi tự hỏi phải chăng trở về lúc này không còn kịp nữa? Việt Cộng đã đến sát Sài Gòn và hẳn nhiên là tôi đã đoán trước được số phận của mình nếu chẳng may bị lọt vào tay đối phương.
Ba tuần trước, ông Thiệu gửi tôi sang thủ đô Hoa Kỳ, nơi tôi đã trú ngụ suốt từ năm 1967 tới năm 1972 khi phục vụ với chức vụ đại sứ Việt Nam. Kể từ năm 1973, khi tôi bắt đầu làm Đại Sứ Lưu Động thì Hoa Thịnh Đốn cũng là một trong những nơi tôi thường xuyên lui tới. Lần này chuyến đi của tôi nhằm mục đích thuyết phục quốc hội Hoa Kỳ thông qua số tiền viện trợ khẩn cấp 700 triệu đô la đang bị trì hoãn. Số tiền viện trợ đó sẽ được dùng vào việc mua thêm đạn dược và tiếp liệu cho quân đội Việt Nam. Lúc này, trước cơn thác của những sư đoàn Bắc quân tràn vào Miền Nam với tốc độ mỗi thành phố một ngày, quân đội Việt Nam đang hoang mang vì thiếu thốn quân cụ.
Nhưng giờ là 14 tháng 4. Tôi chẳng còn gì để làm ở Hoa THịnh Đốn. Ở vào giây phút khẩn cấp, khi Việt Nam đang trong vòng hiểm họa gian nguy, những nỗ lực của tôi từ trước đến nay gần như hoàn toàn vô dụng. Tôi đã kêu gọi đến gần như tất cả bạn bè và đồng nghiệp cũ của tôi để nhờ họ giúp đỡ mà vẫn thất bại. Tuy tôi đã phục vụ ở Hoa Kỳ trong suốt 7 năm mà những sự liên hệ của tôi với Hoa Kỳ trong quá khứ vẫn chẳng giúp tôi thuyết phục được quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam.
Vào lúc này, những biến chuyển ở Việt Nam đang dồn dập trong giai đoạn chót. Đã đến lúc tôi phải về. Mẹ tôi, 90 tuổi vẫn ở Sài Gòn cùng người chị ruột. Tôi phải cố đưa hai người cùng đi. Hơn nữa, ngoài việc phải trở về Việt Nam để gặp gia đình, tôi cũng muốn về để còn được thấy Việt Nam lần cuối. Đã ba mươi năm qua, cuộc sống của tôi cũng như cuộc sống của bao nhiêu người khác đã đi đôi với sự thăng trầm của chính trường Việt Nam nói chung, hoặc của Sài Gòn nói riêng. Trong suốt ba mươi năm đó, có lẽ không lúc nào là lúc tôi không tham gia vào các hoạt động chính trị. Trong tất cả mọi giai đoạn, nếu tôi không trực tiếp tham gia cộng tác với chính phủ thì cũng là tham gia vào những đoàn thể đối lập chống lại chính phủ. Lúc này tuy Sài Gòn đang lúc nguy kịch, nhưng tôi cho rằng Sài
Gòn vẫn là chỗ của tôi. Nào ai biết trước được, có thể tôi vẫn còn cứu gỡ được phần nào như lời Shaplen. Và dù rằng chẳng giúp đỡ gì được thì về vẫn hơn là ở đây làm một ông đại sứ lạc loài của một quốc gia đang hấp hối, nằm bẹp dí ở Hoa THịnh Đốn xem tin tức về giai đoạn kết thúc ở nước mình.
Hôm sau tôi vẫn giữ hẹn ăn trưa ở quán Empress với ông Ted Shackley, Trưởng phòng Tình Báo Viễn Đông của CIA. Shackley vừa mới từ Việt Nam trở về sau một sứ vụ đặc biệt dưới chỉ thị của Tổng THống Ford. Vì nghĩ rằng Trưởng Phòng Shackley có nhiều tin tức nên tôi muốn gặp ông để tìm hiểu thêm về tình hình Việt Nam trước khi về. Lời Shackley đầy vẻ ảm đạm. Sài Gòn đang nguy và ngày càng nguy hơn. Ông Thiệu hoàn toàn cô thế, và chẳng còn đủ sáng suốt để đối phó với tình hình. Trong cuộc gặp gỡ vừa qua với Trưởng Phòng Shackley và ông Federick Weyand, Tư lệnh quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam, ông Thiệu không còn đủ tâm trí để phân tích hoặc đàm luận nữa. Ông Thiệu đang chới với vì tầm mức lớn lao của sự đổ vỡ.
Sáng hôm sau, tôi chuẩn bị về Sài Gòn và định rằng trên đường đi sẽ ghé Hồng Kông để nói chuyện với ký giả Shaplen. Tôi chia tay nhà tôi và ba con ở phi trường Washington 's National. Các con tôi lúc đó vẫn còn nhỏ: Lưu, 24; Giao, 20; và Hân, mới tám tuổi, hãy còn quá bé chưa hiểu rõ được sự tình nhưng có lẽ đã đủ khôn để cảm thấy những sự khác biệt trong lần đưa tiễn này. Nhà tôi tuy lo nhưng cũng như mọi lần, cố gắng trấn tĩnh để chồng khỏi bận tâm. Mặc dù nhà tôi biết rằng chuyến về Việt Nam của tôi vô cùng nguy hiểm, nhưng nhà tôi cũng hiểu nếu không trở lại Việt Nam lần này thì tôi sẽ phải hối hận suốt đời.
Chuyến bay phản lực Pan Am về hướng Tây trong khi tôi chập chờn, kiệt lực cả về tinh thần lẫn thể xác, chỉ nhớ lờ mờ rằng chuyến bay có ghé San Francisco và Honolulu. Hai mươi bốn giờ sau tôi xuống máy bay tại phi trường Kai Tak ở Hồng Kông rồi lập tức đến thẳng nơi Shaplen cư ngụ. Khi tôi đến nơi thì trời đã về chiều. Đêm đó, tôi ngồi đến khuya nghe kể chuyện hỗn mang ở Việt Nam. “Ở Sài Gòn chẳng ai biết rõ tình hình, nhất là về ý định của Hoa Kỳ.
Tình trạng thật là khẩn trương. Tuy vậy mọi người vẫn cố bám vào những ảo tưởng về việc Hoa Kỳ sẽ viện trợ hoặc sẽ có một Giải Pháp Dung Hòa nào đó.”
Theo lời ký giả Shaplen thì có đến cả hàng triệu tin đồn. Người ta tin rằng Hoa Kỳ không thể khoanh tay đứng nhìn một đồng minh trong suốt hai mươi năm gục ngã trước mũi dùi của Cộng quân đang được tập đoàn Sô Viết đứng sau làm hậu thuẫn. Có lẽ Hoa Kỳ sẽ có cách gỡ rối. Các đội B–52 đang được lịnh bay đến đập tan các sư đoàn Bắc Quân đang hành quân vào Nam một cách lộ liễu. Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đang sửa soạn đổ bộ vào vùng đồng bằng Cửu Long để bảo vệ những khu vực sản xuất lúa gạo chính cần thiết cho nền kinh tế của Việt Nam. Ngoại Trưởng Kissinger đang đàm phán về việc phân chia lãnh thổ, cố thuyết phục cộng sản nhượng những tỉnh chính để đổi lại những viện trợ kinh tế khổng lồ. Đây mới chỉ là một trong vài câu chuyện đồn đãi, những tin đồn không những đã làm mất tinh thần dân chúng mà còn làm lung lạc cả tinh thần chính phủ trong lúc chính quyền đã trở nên mù quáng, tê liệt và bám víu vào ảo ảnh. Shaplen kết luận: “Họ cần phải biết sự thật, vì thế ông phải về.”
Tôi trả lời: “Sự thật là: Đối với Hoa Kỳ, trận chiến này coi như đã kết liễu.”
Shaplen nhìn tôi chăm chăm, buông giọng: “Nếu vậy thì ông phải nói rõ cho họ biết.”
Hôm sau, 17 tháng 4–1975, tôi có mặt trên chuyến bay Air France về Sài Gòn. Máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất vào khoảng bốn giờ trưa. Khung cảnh yên tĩnh nhất thời của phi trường làm tôi ngạc nhiên. Khi nghe lời tường thuật của Shaplen tôi đã chờ đón trước những khung cảnh hoàn toàn hỗn loạn. Tôi nhìn quanh và rồi bất chợt nhìn thấy một đám đông đang xoay quanh chỗ khu vực cấm của phi đạo, chờ đợi những chuyến bay đặc nghịt người sắp sửa ra đi. Khung cảnh bên ngoài phi trường còn khác thường hơn. Đường rời phi trường thật vắng. Trong khi đó thì ở tất cả những con đường dẫn đến phi trường xe cộ lại từng hàng ứ nghẽn. Dường như cả Sài Gòn đang di tản ra sân bay. Xe cộ sắp hàng như thắt nút. Hàng
đoàn xe nối đuôi theo nhau chậm chạp nhích dần về hướng phi trường.
Ở Sài Gòn, triệu chứng độc nhất chứng tỏ dân chúng đã biết về những cơn sóng gió sắp đến chỉ là những tiếng xì xào bàn tán ở các đám đông tụ họp trên đường phố. Vẻ căng thẳng, âu lo hiện rõ trên từng khuôn mặt. Mọi sinh hoạt ồn ào hàng ngày đã mất. Trên tất cả mọi khuôn mặt dường như chỉ có những nét cương quyết, quả cảm của những người có quá nhiều việc cần làm trong một thời gian gấp rút. Hôm đó, tin tức loan báo rằng Việt Cộng đã chiếm được Phan Rang và chỉ còn cách Sài Gòn khoảng hơn 300 cây số.
Tôi trở về căn nhà thuê ở đường Nguyễn Huệ để gặp mẹ và chị tôi. Khi thấy tôi về, mẹ và chị tôi hết sức vui mừng. Cơn khủng hoảng ngày càng tăng đã khiến cả hai phải lo âu khắc khoải không biết phải làm gì.
Sau khi chào hỏi và trấn an gia đình rằng tôi sẽ có cách lo toan mọi chuyện, tôi gọi điện thoại vào Phủ Tổng THống để xin gặp ông Thiệu. Chánh văn phòng Phủ Tổng THống lúc bấy giờ là Đại Tá Võ Văn Cầm trả lời rằng ông sẽ lập tức cho tổng thống biết tôi đã ở Sài Gòn và sẽ gọi lại cho tôi ngay. Vài phút sau, ông Cầm gọi tôi để nhắn lại lời ông Thiệu: “Tổng Thống rất bận rộn và đang dao động vì mất Phan Rang. Tổng thống nhắn rằng xin ông đại sứ gặp Thủ Tướng trước rồi Tổng Thống sẽ tiếp ông đại sứ sau.”
Lời nhắn tin cho thấy rõ ràng tình trạng đang khẩn trương đến độ nào. Chính ông Thiệu đã gửi tôi làm đại diện ở Hoa Kỳ. Lúc này tôi vừa trở lại và đương nhiên tôi là nguồn tin độc nhất mà ông Thiệu mong mỏi. Thường thường mỗi khi tôi đi công du trở về thì ông Thiệu vẫn thường gặp tôi ngay. Vậy mà lần này, trong lúc tình hình đang khẩn cấp thì thay vì gặp tôi, ông Thiệu lại muốn tôi gặp thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, một người mà từ trước tới nay ông vẫn có ý xem thường. Tôi nhớ lại lời Shackley và lời Shaplen: Ông Thiệu đang “chới với,” đang “mất hết sáng suốt”. Ông Thiệu (Và luôn cả đại sứ Graham Martin) “đang cắt đứt hết mọi liên lạc và không tiếp ai cả.” Tôi tự hỏi: “Vậy thì ai, là người đứng ra điều hành mọi chuyện?” Lần họp cuối giữa tôi với ông Thiệu trước khi tôi lên đường sang
Hoa Kỳ là vào khoảng trung tuần tháng ba. Kể từ ngày đó cho tới nay thì thời gian mới chỉ ba tuần. Nếu so sánh khung cảnh của Sài Gòn vào lúc tôi mới vừa trở về và khung cảnh của Sài Gòn ba tuần về trước thì có lẽ chẳng ai có thể tin được mức độ dồn dập của các biến cố đã xảy ra ở Sài Gòn.
°
° °
Ngày 11 tháng 3 năm 1975 có lẽ chính là thời điểm khởi đầu của giai đoạn kết thúc, tuy rằng biến cố đánh dấu giai đoạn này vẫn chưa lấy gì làm rõ ràng hoặc đậm nét. Hôm đó, Ban Mê Thuật đã bất thần bị ba sư đoàn Bắc Quân đánh chiếm. Thật ra Ban Mê Thuật chỉ được bảo vệ rất sơ sài. Tuy Việt Cộng đã chiếm được Ban Mê Thuật rồi mà ở Sài Gòn vẫn chưa có cơn hoảng hốt nào rõ rệt. Ban Mê Thuật là một tổn thất đáng kể nhưng không phải là một mất mát có tính cách sinh tử. Đã có lần Việt Nam phản công tái chiếm những thành phố lớn hơn — như Huế hồi Tết Mậu Thân năm 1968, Quảng Trị hồi mùa hè đỏ lửa 1972.
Khi Ban Mê Thuật thất thủ thì tôi vừa từ Tân Đề Li trở về sau một chuyến công du Ngoại Giao. Đây là một trong những chuyến công du nằm trong hành trình Đại sứ Lưu Động của Việt Nam. Chức vụ đại sứ lưu động là một chức vụ ngoại giao nhằm mục đích biểu dương hình ảnh Việt Nam, nối kết các mối bang giao và tìm viện trợ ở Đông Nam Á, Ấn, Pháp hoặc bất kỳ nơi nào có thể ủng hộ cho Việt Nam.
Vào ngày 15 tháng 3 ông Thiệu đã ngỏ ý mời tôi vào để chuẩn bị cho một chuyến công du Hoa Kỳ kế tiếp. Lần này thì chuyến công du của tôi khẩn thiết hơn vì Ban Mê Thuật đã thất thủ và cuộc tấn công của Bắc Quân đang lan rộng khắp nơi.
Tôi được mời cộng tác với chính quyền ông Kỳ vào năm 1965, ngay sau khi làm Đổng Lý Văn Phòng cho bác sĩ Phan Huy Quát, vị thủ tướng dân sự cuối cùng của Việt Nam. Khi ông Kỳ ngỏ lời mời tôi tham gia chính phủ. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Chính bản thân tôi cũng rất nghi ngờ sự thực tâm của các tướng lãnh khi họ mời tôi
cộng tác. Kinh nghiệm chính trị của tôi là kinh nghiệm chính trị của một người phục vụ trong một chính phủ dân sự có quan niệm chính trị khác hẳn với quan niệm của một chánh phủ quân nhân. Và chính chánh phủ đó lại vừa mới sụp đổ.
Thực ra thì ngay sau khi chánh phủ dân sự của ông Quát sụp đổ tôi đã kết luận ngay rằng: Đã đến lúc tôi nên cho sự nghiệp chính trị của tôi lùi vào quá khứ. Lúc đó, tôi không hề nghĩ gì về việc tham gia hoặc cộng tác với chính quyền mới. Ngược lại, tôi chỉ mong được trở lại để sống mộc cuộc sống bình thường và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ Saigon Post. Nhưng chính bác sĩ Quát là người thúc dục tôi nhận lời. Hơn nữa, tôi cũng biết rằng đối với một chánh phủ quân nhân thì vấn đề cần phải giữ một đại biểu dân sự trong chính quyền là một việc tối cần, nhất là khi Việt Nam đang phải giao dịch với Hoa Kỳ. Trong sự giao dịch đó, tôi cho rằng chính phủ Việt Nam cần có sự đóng góp của tất cả các thành phần quốc gia. Trước đây, khi còn phục vụ trong chánh phủ của bác sĩ Quát, vì là nhân viên đứng giữa liên lạc nội các của bác sĩ Quát và Hoa Kỳ nên dầu muốn, dầu không tôi đã phải giữ mối giao hảo với các nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ, chẳng hạn như đại sứ Maxwell Taylor và phó đại sứ Alexis Johnson. Bởi vậy các tướng lãnh thấy rằng kinh nghiệm giao dịch của tôi có thể giúp họ phần nào khi họ phải hợp tác với Hoa Kỳ.
Việc các tướng lãnh quyết định mời tôi tham gia cộng tác với chính phủ là một bằng chứng cho thấy rằng tôi thật sự có dịp để phát biểu ý kiến trong chính quyền mới. Vả lại, tôi có thể từ chức bất cứ lúc nào. Tôi nhận lời một phần vì tin tưởng rằng cho dù có tham gia chính phủ, tôi vẫn có quyền phát biểu ý kiến của tôi một cách tự do hoặc từ chức bất kỳ lúc nào tôi muốn. Hơn nữa, nếu không ra cộng tác, tôi khó thể tránh tiếng rằng tôi đã đặt quyền lợi và tiếng tăm của cá nhân lên trên quyền lợi của đất nước.
Nói cho cùng thì tuy tôi đã nhận lời cộng tác với chính phủ Thiệu– Kỳ, nhưng những liên hệ giữa tôi, ông Thiệu và ông Kỳ vẫn chưa bao giờ vượt quá những khuôn khổ giao thiệp bình thường để trở thành thân mật. Khi nhìn lại sự liên hệ giữa tôi và ông Thiệu trong
quá khứ tôi vẫn nhiều lần thắc mắc chẳng hiểu tại sao sự liên hệ khác thường giữa tôi và ông Thiệu lại có thể tiếp tục lâu dài đến thế?
Đã nhiều năm qua tôi liên tục chỉ trích chánh quyền ông Thiệu và riêng ông Thiệu thì đã có tiếng là người không thích nghe chỉ trích, nhất là khi những chỉ trích của tôi lại toàn nhằm vào những vấn đề ông Thiệu không hề nhượng bộ ai bao giờ. Chẳng hạn như những chỉ trích về vấn đề đoàn kết các tầng lớp quốc dân. Trong các cuộc bàn luận với ông Thiệu tôi vẫn thường nói rằng ông Thiệu cần phải cải tổ chính phủ để loại trừ bớt những nhân viên bất tài và thiếu khả năng. Tôi đưa ý kiến rằng ông Thiệu cần phải mời những đại biểu từ khắp cả các tầng lớp quốc dân, kể cả những đại biểu của các nhóm đối lập thì mới có thể phát huy được hết tiềm năng của quốc gia và đối chọi hữu hiệu được với cộng sản.
Thật sự thì ông Thiệu cũng không hẳn hoàn toàn mù quáng về những nhược điểm của chánh phủ. Sau những buổi họp vô vị và dai dẳng của chính phủ mà ông tham dự, nỗi thất vọng của ông thường bùng ra. Mỗi khi những cuộc họp đó kết thúc, ông Thiệu vẫn thường cau có: “Anh coi đó! Thật chẳng ra làm sao cả!”
Những lúc đó là những lúc tôi đưa lời chỉ trích: “Như tôi đã nói với tổng thống, tổng thống cần thay đổi chánh phủ.” Nhưng khi cuộc bàn cãi tiến tới chỗ găng hơn thì phản ứng cố hữu của ông Thiệu lại y như cũ. “Để coi, tôi sẽ suy nghĩ lại.” Kết cục sự trì hoãn và bản tính lưỡng lự cố hữu của ông vẫn thắng. Mặc dù hiểu tường tận tầm mức cấp thiết của việc phải cải tổ, ông Thiệu vẫn rơi vào tình trạng mãi mãi đợi chờ, mãi mãi nghi ngờ để rồi chẳng bao giờ có hành động nào thiết thực cả.
Ngày 15–3, ông Thiệu lâm vào tình thế chính trị nan giải. Vào lúc này, khi Bắc quân đang phát động tấn công gia tăng ngày càng ráo riết thì vấn đề viện trợ cho quân đội Việt Nam trở thành vô cùng cấp thiết. Lúc ông Thiệu cho vời tôi cũng chính là lúc tôi dự định sẽ dùng tất cả quyền lực để làm áp lực với ông Thiệu. Vào ngày 15–3–74, trước khi đến gặp ông Thiệu, tôi nói rằng: “Chắc chắn tôi sẽ đến gặp tổng thống, nhưng tôi yêu cầu được phép mang hai người nữa đi cùng: Cựu Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ, nguyên là một trong những
bạn thân của tôi và ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công.” Cả hai đều là những chính trị gia tháo vát và đều không phải là nhân viên của chánh phủ Việt Nam lúc đó. Khi yêu cầu được mang hai người này đi cùng, ý kiến của tôi về vấn đề cần phải đoàn kết tất cả các thành phần quốc gia trong mọi tầng lớp quốc dân đã trở nên quá rõ.
Lúc Chánh văn phòng Phủ Tổng THống gọi tôi nhắn rằng tổng thống vui lòng gặp cả ba, tôi biết mình đang đứng ở vị thế phải làm áp lực hết sức. Tôi dự định hết sức nhấn mạnh sự quan trọng của ý kiến dư luận Hoa Kỳ. Tôi muốn nói rõ ảnh hưởng của dư luận đối với quốc hội Hoa Kỳ về vấn đề viện trợ cho Việt Nam.
Qua những buổi thuyết trình của tôi và nhiều nhân viên khác, ông Thiệu đã biết từ nhiều năm trước rằng ở Hoa Kỳ ông bị coi là một lãnh tụ quân phiệt và độc tài. Thật sự thì một trong những thất vọng lớn nhất của tôi là việc tôi chẳng thể giải thích cho ông Thiệu hiểu rõ nổi những bất lợi do ấn tượng xấu xa này gây ra. Trong các cuộc thuyết trình, lúc nào ông Thiệu cũng coi thường những dư luận của Hoa Kỳ. Lúc nào ông cũng quyết đoán rằng những lời chỉ trích của dư luận Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những vấn đề “bị thổi phồng” và “hoàn toàn vô căn cứ.” Những lúc đó tôi thường cực lực lên tiếng rằng: “Nếu tổng thống còn cần viện trợ của họ thì tổng thống phải coi trọng ý kiến của họ. Chỉ khi nào tổng thống không cần họ nữa thì lúc đó tổng thống mới có quyền xem ý kiến của họ là đồ vứt đi.”
Lúc này thì tất nhiên là chánh phủ Việt Nam đang cần viện trợ. Thất thủ Ban Mê Thuật là một thúc đẩy cấp thiết. Có thêm hai người bạn là cụ Đỗ và ông Bửu tăng cường bên cạnh, tôi đã dành gần hết 5 tiếng đồng hồ nhấn mạnh tầm mức cấp thiết của việc phải lập một chánh phủ hoàn toàn có tính cách đại diện cho mọi tầng lớp dân chúng. Ở ngay cả giờ phút đó, nếu ông Thiệu chịu cải tổ chính phủ thì sự thay đổi này vẫn có thể khiến quốc hội Hoa Kỳ thay đổi ý kiến về vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Và cho dù sự cải tổ của ông Thiệu có không thay đổi được ý kiến của quốc hội Hoa Kỳ thì ít ra thì sự thay đổi này cũng sẽ cổ võ được tinh thần quốc dân trong việc chống lại Cộng sản. Cuộc bàn cãi của tôi với ông Thiệu căng thẳng
đến độ về sau có lời đồn đại (như lời tường thuật sau này của nhân viên CIA Frank Snepp) là tôi đã yêu cầu ông Thiệu từ chức. Sự thật không đúng hẳn. Mặc dù tôi chưa hề đòi hỏi ông Thiệu từ chức nhưng ngoài chuyện này ra có lẽ tôi đã làm tất cả mọi việc có thể làm ở cương vị tôi.
Cho đến lúc đó mà ông Thiệu vẫn không chịu nghe tôi. Mặc dù ông đồng ý với chúng tôi là cần có sự thay đổi trong guồng máy chính quyền. Mặc dù ông đã yêu cầu chúng tôi đưa ra những “phương pháp cụ thể ” để tiến hành. Tôi biết ông vẫn ngấm ngầm tìm cách trì hoãn, hứa hẹn như những lần trước đây và vẫn chẳng hề có chủ định nào rõ rệt. Ngay cả khi đã cùng đường ông Thiệu vẫn chứng tỏ là con người đã mù quáng vì quyền thế, không còn đủ khả năng để hiểu rõ nhu cầu thiết yếu của quốc dân và những nhu cầu thiết yếu của đồng minh, mặc dù đây là một đồng minh có liên quan đến sự sinh tồn của chính chánh quyền ông Thiệu.
Ngày 22–3 tôi đến Hoa THịnh Đốn vừa lúc thành phố bắt đầu rạng rỡ sinh động trong buổi chớm xuân. Tuy vậy, những nụ Azalea, nụ Dogwood và nụ Anh Đào vẫn chẳng làm giảm bớt được nỗi lo âu trĩu nặng tim tôi. Khi ghé qua Ba Lê tôi đã nghe về cuộc triệt thoái cao nguyên. Thay vì cố gắng củng cố các đội quân ở Ban Mê Thuật sau khi Ban Mê Thuật thất thủ thì ông Thiệu lại hạ lệnh rút lui về mé biển. Vì những đại lộ chính đã bị cắt ngang, quân đội Việt Nam bị buộc phải dùng những con lộ phụ hiểm hóc trong chuyến triệt thoái. Giữa rừng già cao nguyên, những toán quân triệt thoái đã bị chia cắt và tiêu diệt. Lúc này quân đội Bắc Việt đang tấn công cả đại lộ dọc theo bờ biển, cô lập những thành phố chính như Huế và Đà Nẵng. Một chiến thắng xoàng xĩnh, địa phương bỗng nhiên lan rộng thành một biến cố đủ sức gây hoảng hốt trong quân đội. Thảm kịch diễn ra ở Việt Nam đã khiến 700 triệu đô la trợ cấp, nguyên là mục tiêu cho chuyến đi của tôi thành một thứ viện trợ khẩn cấp liên hệ đến sự sinh tồn của Việt Nam.
Những tiến trình tuần tự về sau cho thấy màn đầu của tấn thảm kịch kết liễu Việt Nam đang được vén dần lên trong các sảnh đường quốc hội Hoa Kỳ. Những kinh nghiệm thâm niên trong ngành đã
khiến tôi thuộc nằm lòng tất cả các phương thức vận động quốc hội. Tôi biết rõ cả chi tiết trong từng giai đoạn. Đầu tiên thì tôi phải theo dõi tất cả những cuộc họp ở Tòa Bạch Ốc, ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, ở Bộ Ngoại Giao và ở Ngũ Giác Đài. Khi những cuộc họp đó kết thúc, tôi sẽ phải họp riêng với ký giả về vấn đề Việt Nam và tìm cách để thuyết phục quốc hội. Cuối cùng, khi đã biết rõ lập trường của các dân biểu và Thượng Nghị Sĩ tôi mới chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Thường thì tôi cố vận động để nâng cao tinh thần những người có cảm tình với mình và lên tiếng kêu gọi những người chỉ trích hãy suy nghĩ lại.
Tôi đến Hoa THịnh Đốn được một ngày thì Huế, kinh thành đại nội cổ kính đã bị cắt đứt. Hàng trăm ngàn dân tản cư đổ xô về phía Nam dọc theo những con đường chạy sát biển về Đà Nẵng cố trốn mũi dùi Bắc Việt. Ở Hoa THịnh Đốn, quốc hội Hoa Kỳ lúc đó đang nghỉ nhóm 10 ngày. Ngoại Trưởng Kissinger đã lên đường đàm phán ngoại giao Trung Đông và tổng thống Gerald Ford đang nghỉ mát ở Vail, Colorado.
Cũng trong hôm đó tôi đến gặp ông Philip Habib, Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Đặc Trách Viễn Đông Sự Vụ. Tôi biết ông Philip đã ngót một thập niên, từ khi ông còn là cố vấn Bộ Trưởng ở Sài Gòn năm 1965. Ông Habib vừa là một nhà ngoại giao thẳng thắn, chuyên nghiệp lại vừa là người bộc trực, can đảm và thành thật đôi khi đến tàn nhẫn. Vừa gặp tôi, ông Habib đã đi thẳng vào vấn đề: “Lúc này Tổng Thống Ford đang bị Đạo Luật về Quyền Hạn Chiến Tranh trói chặt và hoàn toàn bất lực… Tôi không biết Tổng Thống phải làm thế nào để có thể vượt ra khỏi vòng kềm tỏa của quốc hội… Chúng ta phải ráng tìm cách trình bày để quốc hội có thể thấy rõ tình trạng khẩn cấp của Việt Nam…”
Tuy ông Habib có vẻ bộc trực và bi quan, những nhận xét của ông vẫn chưa thấm tháp vào đâu so với những nhận xét của nghị sĩ George Aiken. Ông George Aiken là nghị sĩ của tiểu bang Vermont và cũng là đường giây liên lạc chặt chẽ giữa tôi và quốc hội. Tuy là một nghị sĩ của đảng Cộng Hòa, nghị sĩ Aiken cũng là bạn thân của lãnh tụ đa số Thượng Viện Mike Mansfield. Thượng Nghị Sĩ
Mansfield vốn nổi tiếng là một nghị sĩ phản chiến. Thông thường thì những nhận xét về thế đứng quốc hội của nghị sĩ Aiken lúc nào cũng rất sắc bén. Khi tôi đến gặp ông ta ở văn phòng riêng, ông đã nhận định rằng: “Tình thế rất là ảm đạm.” Lúc tìm đến các nghị sĩ khác tôi có cảm giác là ngay cả bạn bè cũng cố tránh gặp tôi. Nếu bị buộc phải nhìn thẳng mặt tôi thì họ cũng chỉ nhìn với vẻ miễn cưỡng, khó khăn.
Ngày 30–3, Đà Nẵng, một thị xã nằm khoảng non 200 cây số về phía Nam của Huế và là một thành phố lớn hàng thứ hai của Miền Nam bị một lực lượng 35 ngàn quân Bắc Việt tiến chiếm. Đêm đó màn ảnh truyền hình đầy những cảnh tượng hãi hùng: Phụ nữ và trẻ em bị dày xéo trong đám đông hỗn loạn. Dân, quân đạp lên nhau cố vượt ra khỏi vòng vây khổng lồ đang thắt dần lấy thành phố. Một triệu dân tản cư tràn ngập đường phố dẫn về Nam.
Lúc này đường liên lạc giữa tòa đại sứ ở Hoa THịnh Đốn và Sài Gòn đã bị cắt đứt hoàn toàn. Chúng tôi không còn liên lạc được với ông Thiệu nữa. Mặc dù đã gửi liên tiếp hàng loạt điện tín, chúng tôi vẫn không nhận được trả lời. Dường như đã có một bức màn vô hình chụp xuống, cắt lìa Sài Gòn với thế giới bên ngoài, với những người như chúng tôi. Hàng đêm chúng tôi ngồi lịm trước máy truyền hình bàng hoàng nhìn những thành phố, quận lị theo nhau lần lượt bị xoá tên trên bản đồ Việt Nam. Mỗi ngày ông Trần Kim Phượng, người đã thay thế tôi giữ chức vụ đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ từ năm 1972, và tôi đều phác họa thời khắc cho những cuộc điện đàm, những buổi họp, làm đi làm lại những bước mà càng ngày cả hai càng tin là hoàn toàn vô hiệu. Và khi ngày đã tắt, cả hai đều phờ phạc vì kiệt sức, không nhớ nổi lấy một điều về những việc đã làm. Ở mười ngàn dặm xa, đất nước đang chết dần và chúng tôi hoàn toàn bất lực.
Cuối tháng 3, một tia hy vọng bỗng loé lên khi tổng thống Ford thình lình gửi đi một phái đoàn chuyên viên sang Việt Nam để lượng định tình hình. Những người được gửi đi bao gồm Tư Lệnh quân sự Frederick Weyand, Trưởng Phòng Tình Báo Viễn Đông Ted Shackley và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Đặc Trách Quân Nhu
Erich von Marbot. Những nhân viên này được phái sang Việt Nam để có thể đích thân thị sát tình hình và chuyển lời đề nghị viện trợ nếu đây quả là vấn đề cấp thiết. Ngày 9–4 tôi đến gặp Tư Lệnh Weyand ngay khi ông vừa trở lại. Mặc dầu bi quan, tướng Weyand vẫn cho rằng quân đội Việt Nam hãy còn cơ hội tập trung để chỉnh đốn, kết hợp và chống đỡ. Nếu viện trợ hãy còn kịp thời, ông ta hoàn toàn đồng ý việc quốc hội hỏa tốc chấp thuận viện trợ.
Vào lúc này tất cả các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt được trang bị với khối lượng chiến cụ khổng lồ của Nga và Tàu đang trải rộng dần ra, tiến theo đội hình hàng dài dọc theo mọi ngã đường. Trong suốt cuộc chiến chưa lúc nào những toán quân Cộng Sản lại hành quân lộ liễu và có thể dễ bị máy bay tiêu diệt bằng lúc này. Tại Xuân Lộc, vòng đai tự vệ phía ngoài của Sài Gòn, sư đoàn 18 của Việt Nam đang chống trả dữ dội các cuộc tấn công ngày càng tăng của cộng sản. Lúc này, chỉ cần các lực lượng không quân Hoa Kỳ can thiệp — Một giải pháp can thiệp mà cả tổng thống Nixon lẫn ông Kissinger đã cam đoan thi hành hồi năm 1973 — cũng đủ để phá tan các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đang công khai hành quân và làm giảm hiệu năng của quân đội cộng sản trong nhiều năm kế tiếp. Rồi từ đó, nếu được tiếp tế quân nhu và quân cụ đầy đủ và được ủy lạo tinh thần, quân đội Việt Nam sẽ có thể tái chiếm những vùng đã mất.
Ngay cả khi tăm tối đã bao trùm, ông Phượng và tôi vẫn cảm thấy điều này. Cả hai chúng tôi đều biết rằng thời cơ hoàn toàn tùy thuộc vào lần họp sắp tới. Tuy thế, quốc hội Hoa Kỳ lúc này lại là một quốc hội đã chán chường với chiến tranh, đã mệt mỏi vì viện trợ cho một đồng minh đang bị rất nhiều dân biểu xem là một chánh phủ của những thành phần bất tài và tham nhũng. Sau nhiều năm Hoa Kỳ đổ mồ hôi và nước mắt vào Việt Nam, giờ đây chính những Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ của Hoa Kỳ sẽ phải đi đến quyết định cuối cùng. Kinh nghiệm thực tế nghề nghiệp đã buộc tôi phải hiểu rằng quốc hội Mỹ nhất định sẽ phải quyết định bằng quan niệm của người Mỹ. Trong quyết định sắp tới về việc liệu có nên viện trợ cho Việt Nam lúc này hay không, quốc hội Hoa Kỳ sẽ phải quyết định một trường hợp thật là khó khăn. Những dân biểu bị buộc phải cân đo những lỗ lã về uy tín cũng như vị trí chiến lược của Hoa Kỳ để đánh đổi với
tiền của và xương máu mà Hoa Kỳ đã đổ vào Việt Nam trên hai mươi năm. Vào giờ phút đó thì quốc hội Hoa Kỳ lý luận rằng, nếu họ có gia tăng viện trợ cho Việt Nam đi chăng nữa thì vấn đề vẫn chỉ là tạm kéo dài cơn hấp hối, thống khổ của Việt Nam mà thôi. Các Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ quyết định rằng quốc hội cần phải đưa ra một giải pháp thiết thực và rồi kết luận: Nếu cùng lắm thì cũng đành phải kết thúc một chương sử Hoa Kỳ.
Tất cả kinh nghiệm chính trường đã dạy tôi chẳng những phải chờ đón quyết định sắp tới của quốc hội Hoa Kỳ mà còn phải hiểu rõ lý do của quyết định đó để nhận thấy quan niệm của những người đã tạo ra luật pháp ở Hoa Kỳ. Bởi thế nên tôi đã cố gắng để hiểu rõ những lý do ảnh hưởng đến quyết định sắp tới của họ. Nhưng trong tận cùng tâm khảm tôi biết rằng câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến vấn đề viện trợ thật sự chẳng liên quan gì đến uy tín Hoa Kỳ hay sự xứng đáng của các lãnh tụ Việt Nam. Câu hỏi quan trọng nhất là câu hỏi về cuộc sống của 20 triệu nhân dân Việt Nam. Sau khi quốc hội quyết định về vấn đề viện trợ thì cuộc sống của 20 triệu người dân Việt Nam, của con họ và cháu họ rồi sẽ ra sao? Đây mới là câu hỏi quan trọng nhất. Nhưng câu hỏi này không phải là một trong những yếu tố chính đưa đến quyết định cuối cùng của quốc hội Mỹ. Vì lẽ đó tôi không thể chịu đựng được những nỗi uất ức đè nén khi Việt Nam phải chấp nhận một bản án bất công như bản án mà quốc hội Hoa Kỳ đã quyết định. Ở căn nhà riêng tại Hoa THịnh Đốn tôi đã không thể cầm được nước mắt.
Tia hy vọng phù du về vấn đề Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam tắt phụt sau khi chuyến công du do Tư Lệnh quân sự Weyand dẫn đầu kết thúc vào ngày 11–4. Hai ngày sau khi Tư Lệnh Weyand trở lại Hoa Kỳ thì đạo luật chấp thuận viện trợ đã bị phủ quyết. Những người thực tế đã nhận định rằng đến lúc đó thì dù có phủ quyết hay không việc cũng đã quá trễ. Nhưng đối với ông Phượng và tôi thì quyết định phủ quyết chính là một con dấu phũ phàng công khai chấp nhận việc Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh. Những người đang chiến đấu anh dũng ở Xuân Lộc và hàng triệu người tản cư vào Miền Nam vẫn không hề hay biết Quốc Hội Hoa Kỳ đã tuyên bố bản án khai tử Việt Nam ở Capitol Hill vào ngày 11–4–1975.
Kể từ khi tổng thống Johnson còn đương nhiệm tôi đã giữ chức vụ đại sứ. Tôi cũng là người liên lạc chính giữa chánh quyền Sài Gòn và Hoa THịnh Đốn. Sau 5 năm trải qua các hội nghị thượng đỉnh, qua Tết Mậu Thân, qua các trận đánh phối hợp quân đội của Hoa Kỳ và Việt Nam ở Cam Bốt, qua trận tập kích mùa xuân cho tới tháng 4– 1975, công việc của tôi lúc nào cũng đi đôi với những công tác có liên quan đến quốc gia. Nhưng sau đạo luật khai tử Việt Nam cuối cùng ở Hoa THịnh Đốn thì vai trò của tôi kể như đã chấm dứt. Chẳng còn liên lạc được với chánh phủ, chẳng còn việc gì để làm trong các sảnh đường quyền lực Hoa Kỳ, tôi trở lại với gia đình ở căn nhà ngoại ô Hoa THịnh Đốn để cùng nhà tôi và các con dán mắt vào máy truyền hình, trước những tấn thảm kịch thôi miên trên màn ảnh.
Bỗng nhiên tôi nhớ lại một mùa nghỉ ngắn ngủi khoảng một năm về trước, khi cả gia đình tôi có dịp quây quần ở bãi biển Nha Trang bên con nước trong xanh màu lục biếc và những bờ cát mịn long lanh. Lần đó, khi nhìn bãi biển dịu dàng phơi mình trên nắng tôi đã nghĩ rằng bất kể vì lý do gì nếu mảnh giang sơn gấm vóc này mất đi thì niềm đau quả vô cùng tận. Những ký ức xa xăm khác tự dưng ồ ạt ùa về như một cuốn phim quay chậm. Tôi thấy mình đứng trong ruộng lúa gần căn nhà lúc ấu thời ở Miền Bắc vào những năm đầu của thập niên 1940, chăm chú nhìn theo chiếc máy bay P–38 hai đuôi của Hoa Kỳ dội bom vào những vùng Nhật chiếm đóng gần Hà Nội. Lần đó có lẽ là lần đầu tiên tôi mục kích Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam. Lúc này, tôi lại là chứng nhân đứng ngoài mục kích màn kết liễu của sự can thiệp tôi đã mục kích lần đầu. Dầu muốn dầu không, cuộc đời tôi cũng đã nối liền vào với những chuỗi biến cố chập chồng đã chuyển hướng quê hương từ điểm ban đầu đến điểm hiện tại.
Chương 2
Thuở Ấu Thời
Ông thân tôi tên tục là Bùi Kỷ. Ông vốn vừa là học giả, vừa là một nhà nho phóng khoáng, phóng khoáng đến độ chẳng coi gì là quan trọng cả. Đối với ông cụ thì trời có sập cũng chẳng thành vấn đề. Sống trong truyền thống nho sĩ Việt Nam, ông đã chọn một bút hiệu để nói lên nỗi lòng mình: Ưu Thiên, có nghĩa là Kẻ lo trời đổ,” nhưng thường thì được hiểu theo nghĩa bóng: Kẻ chẳng chú ý gì đến chuyện trời đổ.” Ông thân tôi vẫn thường nói: Những kẻ lúc nào cũng để tâm lo âu mọi chuyện là những kẻ dại.” Trong một bài thơ nhiều người biết đến ông đã viết rằng:
Lo như ai cũng là ngốc thật
Lo trời nghiêng, lo đất chông chênh
Lo chim bay lạc tổ nhầm cành
Lo cá lội xa ghềnh lạ nước
Hão huyền thế đố ai lo được
Đem gang tay đánh cuộc với cao dày!
Khi còn trẻ ông thân tôi đã khước từ làm quan với triều đình dưới chánh quyền thực dân. Ông đã sang Ba Lê để gặp cụ Phan Chu Trinh và những lãnh tụ quốc gia thời đó. Nhưng sau hai năm, thay vì làm cách mạng, ông lại trở về Việt Nam mở trường dạy học. Đã có lần ông bảo tôi: Những lãnh tụ quốc gia đều có lý tưởng tốt, những hoài bão của họ đều được đặt vào chiều hướng đúng. Cha đứng về cùng hướng với họ.” Nhưng mặc dầu ông cùng chung suy nghĩ với những người quốc gia, mặc dầu ông ghét Tây, bản tính khách quan cố hữu đã ngăn ông hành động.
Tính khách quan là tính nết chung đã ăn sâu thành cội rễ trong gia đình tôi từ lâu. Ông Cố tôi vốn là quan trong triều. Đã có lần ông được mời chọn lấy một cánh hoa trong vườn Thượng Uyển và sau đó được vua ban cho một cánh hoa đã chọn tạc lại bằng vàng để dùng như biểu tượng chức tước. Mặc dù vậy, khi Pháp vào Việt Nam ông đã bỏ triều đình về làng dạy học. Ông nhất quyết không
chịu bắt tay với Pháp. Ông nội tôi cũng thế, tuy đã đậu tiến sĩ là một bằng cấp cao nhất của nho sĩ thời bấy giờ, ông cũng noi theo ông cố, một lòng từ chối hàm tước triều đình. Như thế, trước đời ông thân tôi đã có nhiều khuôn mẫu để chính ông có thể noi theo khi ông chối bỏ bổng lộc của Pháp trong chính quyền thuộc địa để ra đi tìm gặp những lãnh tụ quốc gia ở Pháp.
Ảnh hưởng từ những tổ tiên lâu đời và từ ông thân đã khiến quan niệm của tôi đối với những người làm việc với Pháp trở thành định kiến. Tôi cũng đã thấm nhuần truyền thống khách quan của gia đình, một không khí chán chường với thời cuộc, một vị thế xa rời với những tạm bợ nhất thời của thế gian. Đã đành rằng nếu sống thì ai cũng phải phục vụ đời sống. Chuyện này không ai có thể chối cãi. Nhưng nếu vấn đề phục vụ vừa quá phiền toái lại vừa đòi hỏi những đổi chác khó khăn thì sao lại không về làng dạy học, viết văn, làm thơ mượn lấy tư tưởng Lão, Trang, xem thường thế sự như chuyện chiêm bao thoắt biến?
Nhưng mặc dù đã thừa hưởng truyền thống khách quan của ông thân, tôi cũng đã biết từ ngày còn rất bé rằng mình không thể sống cuộc đời học giả thanh đạm. Tôi cũng không thể sống một cuộc đời công chức nguyên là con đường độc nhất còn lại dành cho những người như tôi. Thế giới Việt Nam vào những thập niên 1920, 1930 quá nhỏ. Tôi muốn bay nhảy, vượt ra ngoài thế giới đó. Luôn luôn đầu óc tôi mơ tưởng chuyện đi xa, đến những chỗ lạ, tìm hiểu về thế giới rộng lớn bên ngoài. Mặc dù lòng ham muốn chỉ mới phôi thai, chưa cụ thể, ý nghĩ viễn du đã dính liền với tôi từ thuở ấu thời cho đến khi mới lớn. Tôi cũng bắt đầu có khái niệm mù mờ rằng con đường dẫn đến giấc mơ hoàn toàn phụ thuộc vào việc học. Mặc dù mối dây liên lạc chưa hiện rõ, tôi biết chắc rằng nhà trường sẽ cho tôi những khả năng cần thiết. Chỉ cần tôi cố gắng.
Ở tiểu học tôi đã giữ đúng vai trò con em của những nhà nho. Tôi học xong tiểu học năm 13 tuổi và rồi vào trung học ở trường Thăng Long, một trung học tư thục ông thân tôi đã góp phần xây dựng và cũng là nơi ông giảng dạy. Khi mới vào trường Thăng Long, tôi chưa biết rõ rằng đa số những học sinh trong trường cũng đang mơ về
một thế giới tự do bên ngoài khác hẳn với thế giới gò bó của xã hội Việt Nam dưới thời thực dân Tây như tôi. Chỉ khác là nếu ước mơ của tôi chỉ là những ước mơ phiêu lưu ngoại quốc ngoạn mục thì ước mơ của những học sinh khác là về những vấn đề bao quát có thể thay đổi ngay đường hướng chính trị và xã hội của quốc gia lúc đó.
Thật sự thì vào năm 1936, khi tôi ghi tên nhập học, trường Thăng Long đã sôi sục với những ý chí chống thực dân và những cuộc tranh cãi về những chiều hướng tương lai của xã hội Việt Nam. Giáo Sư gồm những người như ông Phan Thanh, sau này là sáng lập viên của đảng xã hội. Ông Đặng Thái Mai, sau này là Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục. Ông Hoàng Minh Giám, sau này là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao miền Bắc. Ông Trần Văn Tuyên, sau này là một trong những chính khách đối lập trong chánh quyền Miền Nam. Giữa những nhân vật đáng nhớ này, đặc biệt nhất là một nhà giáo nhỏ con, đầy nhiệt tâm, dạy chúng tôi môn Sử Ký — Ông Võ Nguyên Giáp. Mặc dù chuyện ông Giáp trở nên nhân vật lịch sử đánh bại Pháp ở Điện Biên Phủ và đương đầu trực tiếp với Mỹ hãy còn là chuyện về sau, nhưng lúc này vị đại tướng tương lai đã là người hoàn toàn bị mê hoặc vì tiếng gọi ma mị của cách mạng và đấu tranh.
Tuy trường đã ấn định rõ ràng là chương trình sử phải bắt đầu từ năm 1789 cho tới khoảng giữa thế kỷ thứ 19 mà phương pháp của ông Giáp lại hoàn toàn khác hẳn. Ngay buổi đầu tiên ông Giáp đã bước qua, bước lại trước bảng đen và minh định: “Thật ra đã có rất nhiều sách vở viết về những vấn đề trong giai đoạn này. Nếu muốn biết tường tận các anh chị có thể tự tìm hiểu. Tôi chỉ đi vào chi tiết về hai vấn đề chính: Cuộc cách mạng Pháp và Napoleon.”
Cách dạy của ông Giáp đặc biệt cho đến nỗi đã 45 năm sau mà tôi vẫn còn nhớ rõ cách trình bày cùng các đề tài ông đưa ra: Chi tiết diễn tả những cảnh sa đọa của Marie Antoinette; quan niệm về nhân quả, công bằng của xã hội; Công Xã Ba Lê; và số phận của Danton cùng Robespierre. Trong khi giảng bài ông Giáp tỏ ra hết sức ngưỡng mộ những lãnh tụ cách mạng. Ông giảng sử không phải chỉ
bằng giọng đơn thuần của một sử gia mà bằng những cung cách thiết tha của một người nhiệt tâm bênh vực cách mạng.
Những bài giảng của ông Giáp về Napoleon còn ly kỳ hơn nữa. Đứng trước bảng đen ông bước đi bước lại theo từng lời giảng tường tận về các chiến dịch do Napoleon đề ra — Từng trận đánh, ngay cả những trận đụng độ thật nhỏ mà ông vẫn giảng giải cực kỳ cặn kẽ toàn thể mọi biến chuyển dẫn đến các chiến thuật và chiến lược cuối cùng. Ông Giáp nhớ như in tất cả. Ông đã học sử cho đến nỗi sử biến thành một phần của chính con người ông. Tất cả các vấn đề dính dáng đến sử đối với ông đều phải khúc triết, rành mạch. Ông Giáp nêu rõ tại sao đội vệ binh lại bắt buộc phải đóng ở vị trí này vào thời điểm đó, tại sao quân đội triều đình Pháp lại chọn đúng giây phút đã chọn để tấn công. Ông chợt tiến, chợt lùi, đắm chìm trong suy tưởng, thôi miên lớp học bằng những chi tiết của sử. Sự kích động của ông Giáp có tác dụng lan truyền, cả lớp thường ngồi im lặng như tờ trong giờ giảng. Ông phục Danton và Robespierre. Ông ngưỡng mộ Napoleon. Những bài giảng của ông về Napoleon cứ lan man dường như chẳng bao giờ dứt.
Song song với môn sử của ông Giáp, ông Phan Thanh, một tư tưởng gia có khuynh hướng Xã Hội, là người dạy chúng tôi văn chương Pháp. Trường không hề đề cập gì đến văn chương Việt Nam mà thật sự cũng chẳng học sinh nào để ý chuyện này. Tuy đầu óc các giáo sư lúc nào cũng đầy ắp tư tưởng quốc gia mà hễ cứ nói đến vấn đề giáo dục thì ngôn ngữ chính của chúng tôi là tiếng Pháp và tổ tiên chúng tôi đích thực là người Gaulois.
Tuy thế, khi 16 tuổi tôi đã biết về những tư tưởng chính trị đang luân lưu, vận chuyển ngấm ngầm dưới bề mặt phẳng lặng của đời sống học đường. Thỉnh thoảng sau mỗi buổi học tôi vẫn có ghé lại nhà ông Giáp. Trong thư viện riêng của ông có quyển Tư Bản Luận của Marx, và nhiều quyển khác nói về Xã Hội Chủ Nghĩa viết bằng tiếng Pháp mà ông Giáp thường khuyên tôi nên đọc. Ngoài ra, tôi còn biết thêm về các tin tức khác qua người bạn kèm toán cho tôi. Qua người bạn này tôi đã được đọc cả những tờ tạp chí có nhiều tranh ảnh chụp ở Nga. Trong tất cả những người đi trước, tôi gần gũi ông
Trần Văn Tuyên hơn cả. Ông Tuyên vốn là người có tư tưởng độc lập. Ông vẫn thường bảo tôi: “Sẽ có ngày tình thế bắt buộc phải thay đổi và chính chúng ta sẽ là những người thay đổi thời thế.”
Tuy sống ngay giữa bầu không khí của những người kháng Pháp, ông thân tôi vẫn mang tư tưởng khách quan. Mặc dù bản thân ông đã từ chối không theo Pháp và quan niệm rõ ràng rằng phải có sự đổi mới, bản tính trầm lặng, ít khích động đã khiến ông phản kháng một cách nhẹ nhàng hơn. Ông luôn luôn ủng hộ những giáo viên trẻ bằng những lời khuyên và tinh thần thân hữu. Ông đối xử với họ cũng như đã đối xử với những nhân vật quốc gia ông đã gặp trước đây. Việc họ kết hợp, gây ảnh hưởng và bắt đầu phát động đấu tranh là việc ông hoàn toàn tán đồng. Ông không tự mình dấn thân vào việc chẳng qua là vì đã thấm nhuần tư tưởng khách quan.
Lúc này ông cụ tôi và ông chú tôi là sử gia Trần Trọng Kim đang chú tâm vào việc bắt đầu soạn bộ Việt Nam Sử Lược. Làm việc cùng nhau mỗi ngày, cả hai thường tranh luận, bàn cãi sôi nổi trong nhà về những vấn đề liên quan đến Sử Ký, Văn Chương và Triết Học. Tuy họ cũng yêu nước với tất cả lòng nhiệt thành như những người khác cùng thời nhưng họ lại quan niệm rằng sở trường của mình nằm trong phạm vi giáo dục và học đường. Họ cũng cho rằng vấn đề xây dựng lại Việt Nam là một vấn đề bao gồm cả văn hóa lẫn chính trị. Thì giờ của họ hoàn toàn để vào việc viết lách và giảng giải cho những học sinh cũng như các học giả khác. Một trong những đề tài mà họ bàn đến luôn là vấn đề Phật và Lão Giáo.
Tuy không biết là nguyên tố hỗn hợp nào là nguyên tố chính đã tạo ra con người tôi, tôi biết chắc rằng phần lớn nguyên tố đó đã phát xuất từ cả gia đình lẫn học đường. Tôi đã bị những lý tưởng cuồng nhiệt của các giáo sư ảnh hưởng rất nhiều. Đa số giáo sư lúc này đều cho rằng lúc này là lúc mọi người phải tranh đấu để giải phóng Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của bọn thực dân Pháp hống hách và dành lại chủ quyền. Dầu vậy, những khuôn mẫu Marxist do ông Giáp cùng người bạn kèm toán đưa ra thật sự chẳng có gì thú vị hoặc lôi cuốn. Có thể tôi đã thật sự bị những suy nghĩ của ông thân và chú ảnh hưởng rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi người ta đã thực sự
bước ra khỏi nếp sống hàng ngày và đã thực sự tránh khỏi được những phiền toái của cõi thế gian. Cách mạng dĩ nhiên là một giải pháp khác biệt hơi xa với sự suy tưởng của cả ông thân lẫn ông chú tôi. Dẫu sao lòng khao khát thật sự của tôi lúc bấy giờ là do vọng tưởng thôi thúc từ thế giới bên ngoài chứ hoàn toàn không phải là do những lời kêu gọi từ các thế giới đạm bạc, thanh cao của những học giả.
Khi mới lớn, đầu óc tôi thường hướng về phía những chân trời xa lạ và về hướng những con người tôi chưa bao giờ gặp. Lúc bấy giờ tuy hãy còn đang ở Trung Học mà tôi đã mê đọc báo chí ngoại quốc. Tôi đọc báo Pháp thật tường tận, bị ám ảnh vì những tin tức của cuộc chiến tranh Nhật đang reo rắc ở Trung Hoa. Hình ảnh cùng những bài tường thuật từ Nam Kinh đã làm tôi bàng hoàng. Cảm giác ghét thương lẫn lộn về sự kinh hoàng cứ bám riết mãi. Một mặt sử sách lúc nào cũng nói đến chuyện phải đề cao cảnh giác đối với những ý đồ thôn tính Việt Nam của người Tàu, nhưng mặt khác, vì đang học hỏi thêm tiếng Hán từ một ông thày đồ trong mỗi kỳ hè, tôi đã cảm thấy gần gũi với cổ văn và truyền thống luân lý vốn dĩ là một phần ảnh hưởng lớn rộng của Trung Hoa đối với Việt Nam. Tuy có thể đã có lần những người Trung Hoa là kẻ thù trong lịch sử nhưng những nạn nhân đang bị Nhật tàn sát lúc này đều là những người tôi chưa hề biết đến bao giờ.
Vào năm 1939 thì mọi người đều biết rằng chiến tranh không chỉ giới hạn trong phạm vi Trung Hoa. “Phải chăng chúng ta đã hoàn toàn phòng vệ?” Đây là nhan đề một cuốn phim Pháp về chiến lũy Maginot đã thôi thúc hàng loạt câu hỏi về khả năng đương đầu của Pháp với Đức. Mầm mống chiến tranh Âu Châu đã thúc đẩy dữ dội những nỗ lực bành trướng tinh thần quốc gia tại Việt Nam. Những cuộc thảo luận về việc chống Pháp bắt đầu lan rộng trên một mức tự do hoàn toàn khác hẳn trước đây. Không khí các khuôn viên học đường tràn đầy những tin đồn về các hội kín và việc họ đang tuyển mộ những thanh niên nhiệt thành yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc. Chẳng ai biết rõ hành tung của các hội bí mật ra sao. Việc liên lạc với họ là một việc hoàn toàn bí mật. Tuy vậy, sự hiện diện của các hội bí mật này là một sự thật hiển nhiên. Khi chiến tranh Âu
Châu bùng nổ vào năm 1939, tôi cùng các bạn bè khác đều chứa chan hy vọng. Tất cả đều cảm thấy những nền tảng đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam đang rung chuyển dưới chân.
Chẳng bao lâu sau, cơn rúng động trở thành trận địa chấn kinh hoàng. Pháp, một nước khổng lồ, đầy quyền uy đã khống chế Việt Nam bằng quyền lực từ bấy lâu nay bất thần ngã gục trước quân đội Đức vào ngày 25 tháng 7, 1940 sau một cuộc chiến ngắn ngủi, vẻn vẹn trong vòng sáu tuần. Thế giới của chúng tôi bỗng thay đổi hẳn. Thế hệ chúng tôi là thế hệ thứ ba trong suốt ba thế hệ đã nhìn cả vòm trời vũ trụ là Pháp. Tiếng Pháp, văn hóa Pháp, bộ máy thực dân lố bịch cũng của Pháp. Bỗng nhiên một thế giới khác rộng lớn hơn thình lình xen thẳng vào tầm nhìn chúng tôi. Và chúng tôi phải tự mở mắt, lắng tai ghi nhận những làn sóng tín hiệu từ bên ngoài để có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của tình thế lúc này.
Chương 3
Những Tổ Chức Chính Trị Bí Mật
Chúng tôi chẳng cần đợi lâu. Ngay sau khi Pháp đầu hàng Đức quân đội Nhật bắt đầu đòi hỏi chánh quyền thực dân Pháp phải nhượng quyền kiểm soát ở miền biên giới Việt Nam và Trung Hoa. Lúc này, vì thiếu phương tiện chống trả lại Nhật, Toàn quyền Pháp cố tìm cách trì hoãn và cầm chân Nhật càng lâu càng tốt. Sau ba tháng đợi chờ, khi đã chán trò trì hoãn, kéo dài thời gian của Pháp, Nhật hạ lệnh biểu dương hai lực lượng quân sự để nói rõ thực tâm với Pháp. Sau hai cuộc tấn công của Nhật, một vào Lạng Sơn và một vào Hải Phòng, Toàn quyền Pháp tuyên bố đầu hàng. Pháp vẫn được quyền tiếp tục công việc nội trị nhưng Nhật có quyền lập đồn và mang quân vào Việt Nam. Mặc dầu chánh quyền thực dân Pháp vẫn tiếp tục cai quản như thể hãy còn tiếp tục đời đời với “Sứ Mệnh Văn Hóa” tại Việt Nam, lúc này chẳng ai có thể làm ngơ trước sự hiện diện của Nhật. Quân Nhật ồ ạt dựng trại, ung dung tự tung, tự tác trước đôi mắt căm hờn của Pháp. Vì đã phải chịu đựng nhiều nhục nhã với các quan thày Pháp, đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy rằng việc gạt bỏ chánh quyền Pháp không còn là một công việc mơ hồ, xa xăm nữa.
Những hội kín bắt đầu mọc ra như nấm, vẫn bí mật hoặc ngụy trang như những Hội Thể Thao hoặc Hội Du Ngoạn. Một trong những hàng ngũ mạnh mẽ nhất là hàng ngũ Cộng Sản, lúc này chánh thức hoạt động với chiêu bài “Giải Phóng Đất Nước.” Cộng Sản đã thiết lập những căn cứ mà họ gọi là “Chiến Khu” ở những vùng núi non hiểm trở ở Cao Bằng và Lạng Sơn. Ông Võ Nguyên Giáp không còn dạy học nữa. Người ta đồn rằng ông đã vào bưng để tổ chức các hoạt động du kích.
Các đảng phái chính trị khác cũng lần lượt xuất hiện, trong số có Việt Nam Quốc Dân Đảng được tổ chức theo chiều hướng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Chính Việt Nam Quốc Dân Đảng đã tổ chức cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong thập niên trước. Sau lần càn quét dã man khi cuộc khởi nghĩa thất bại có nhiều đảng viên đã
trốn sang Trung Hoa. Một số đảng viên khác lại lui vào vòng bí mật. Lúc này lại có tin VNQDĐ đang hoạt động trở lại và những đảng viên lúc trước chạy qua Vân Nam đang dàn xếp để xin Tưởng Giới Thạch yểm trợ.
Những đảng phái quốc gia như Hội Phục Quốc và một số những nhóm nhỏ khác hoạt động dưới tên Đại Việt cũng đang thành hình. Cũng theo lời đồn thì một số nhóm nhỏ của Đại Việt có liên kết với Nhật. Mặc dù không ai biết rõ đường lối hoạt động hoặc tên tuổi của những người lãnh tụ các đảng phái, chúng tôi vẫn đắm chìm trong hồi hộp. Tất cả đều cảm thấy đã đến lúc quốc gia có thể đòi hỏi và tranh đấu cho tự do. Ai cũng muốn đóng góp một phần vào việc.
Khi các đảng phái đang triệt để củng cố lực lượng thì Nhật cũng bắt đầu khuấy động. Nhật vốn dĩ là người Á đầu tiên đứng ra đánh đuổi dân da trắng, dành lại chủ quyền với khẩu hiệu “Đại Đông Á” cho những vùng Nhật đang chiếm đóng. Tại Việt Nam đường lối của Nhật cũng không lấy gì làm lộ liễu. Ít ra là cũng không có gì quá khích vào lúc ban đầu. Vào thời gian này Nhật gửi rất nhiều sinh viên và chuyên viên văn hóa Nhật đến Hà Nội lập Hội Ái Hữu, dạy tiếng Nhật miễn phí, lập Hội Thảo Luận và giao hảo cùng tất cả các tầng lớp trí thức Việt Nam.
Chánh quyền Pháp cay cú đứng ngoài, bất lực trước những hoạt động của Nhật, nhưng Nhật chẳng làm gì quá đáng. Vả lại dù mật thám Pháp có muốn can thiệp cũng không đủ sức. Quân đội Nhật đã dũng mãnh lại vô cùng kỷ luật. Lật đổ Pháp đối với Nhật có lẽ là một việc rất dễ dàng. Trong lúc đó lính Pháp thật chẳng bõ làm trò cười cho dân chúng. Vào thời gian này, vì cả các đảng phái chính trị lẫn Nhật đều lấy sinh viên làm mục tiêu hoạt động nên môi trường sinh viên bỗng thình lình bị đảng phái chia cắt. Vì bất cứ sinh viên nào cũng có thể là người của các đảng chính trị và các đảng phái lại tranh chấp với nhau nên tất cả sinh viên đã cảm thấy nguy hiểm cận kề. Đa số sinh viên đều cố quan sát, nhận định xem có ai theo dõi hành động của mình không.
Lúc này tôi thường xuyên trú ngụ ở nhà ông chú tôi, nơi ông cụ tôi và ông chú tôi đang hợp sức viết sử. Tôi thường ăn cơm cùng cả
ông cụ lẫn ông chú. Trong bữa cơm tối cả ba chúng tôi thường bàn luận về hành động của Nhật. Theo ông cụ và ông chú tôi thì người Nhật không hề thật tâm muốn giúp đỡ người Việt. Hành vi tàn ác của Nhật đã được các báo chí Pháp đăng tải thật chi tiết. Hơn nữa mật vụ Kempeitai của Nhật đã khét tiếng là tàn ác. Người Nhật vốn có tinh thần kỷ luật cao. Khi họ đã bước chân vào việc gì thì rất ít khi chịu làm việc nửa vời. Ông cụ và ông chú tôi cho rằng hợp tác với Nhật lúc này hãy còn sớm quá.
Có thể liên kết với Nhật vào lúc này vẫn còn quá sớm nhưng đây quả là việc chẳng đặng đừng. Vào một buổi sáng tự dưng có một sinh viên đứng tuổi người Nhật tên Yamaguchi đến nhà xin được phép nói chuyện với ông chú tôi. Yamaguchi diễn tả rất lưu loát bằng tiếng Pháp rằng ông đang nghiên cứu sử Việt Nam và đến tìm ông chú tôi để thỉnh cầu giúp đỡ. Yamaguchi cho biết ông đang tìm hiểu về một giai đoạn đặc biệt trong triều đại Nhà Nguyễn.
Từ đó Yamaguchi thường xuyên lui tới. Ngoài mặt thì ông đến để phỏng vấn ông chú tôi về sử nhưng ý đồ thực sự của ông là gì thì chẳng ai trong chúng tôi được rõ. Có thể ông ta chỉ muốn giữ mối giao hảo với ông chú tôi. Tuy chẳng làm cách nào rõ được ý đồ của Yamaguchi, chúng tôi biết rõ là ông đến với ý định khác. Bất kể ý định riêng của Yamaguchi là gì, chúng tôi vẫn biết rằng ý định đó chắc chắn chẳng liên quan gì đến các triều đại Nhà Nguyễn. Trong khi đó Yamaguchi cũng xuất hiện tại nhiều nơi khác. Dường như ông có mặt ở khắp mọi nơi. Ông hoạt động, tổ chức các buổi họp lớn, nhỏ, động viên bạn bè và sinh viên đến tham dự các buổi thuyết trình. Ông liên lạc với các giáo sư, nói về tình huynh đệ giữa những người Á, về việc giúp đỡ lẫn nhau dành lại chủ quyền. Ông cũng nhắc nhở, hô hào Người Á, đất Á” và cố đề cao vai trò của Nhật trong các phong trào giúp đỡ, giao hảo với người Việt. Tất cả những điều ông nói đều không có gì nóng bỏng, sôi sục hoặc điển hình cụ thể. Chỉ có những lời hứa hẹn xa xôi. Chẳng hạn như Nhật và Việt Nam có cùng chung lý tưởng. Nhật là người đáng tin cậy. Vì đã gặp ông nhiều lần tại nhà ông chú tôi nên có lẽ tôi biết ông rõ hơn những sinh viên khác. Có lần Yamaguchi gián tiếp cho tôi biết rằng ông là đảng viên của đảng Hắc Long, một tông phái có tầm hoạt động khắp
Á Châu đã từng giúp Tôn Dật Tiên lật đổ chế độ Mãn Thanh. Theo lời đồn thì đảng Hắc Long từng có ảnh hưởng ngầm trong khắp Á Châu. Tôi cũng chẳng biết liệu có nên tin hay không. Lúc này quả thật chúng tôi không biết phải đối xử với Người Nhật cách nào. Chúng tôi chỉ biết rằng họ hoạt động rất mạnh mẽ, họ bàn cãi rất nhiều, họ có vẻ đứng đắn, thật tình và không hề hứa hẹn điều gì cả.
Tuy rằng đang ở vào tuổi 17 và rất đam mê những việc mạo hiểm náo nhiệt, tôi vẫn cố không để chính trị xen vào những chuyện phải làm đang tràn ngập, chờ đợi trước mắt. Công việc của những học sinh sắp sửa tốt nghiệp trung học như tôi là phải chiếm cho được mảnh bằng tú tài. Đây là mảnh bằng học vấn mà học sinh được cấp sau khi vượt qua một kỳ thi vất vả bao gồm tất cả các môn. Không có bằng tú tài thì cuộc đời học sinh kể như vứt bỏ. Mảnh bằng là bước tiến dẫn đến đại học và những gì cao xa hơn ở bên trên. Tôi học ngày, học đêm trong suốt nửa năm đầu của năm 1941 để chuẩn bị cho kỳ thi tháng 7. Khi có tin tôi đậu ngay kỳ thi đầu tiên, nhà tôi mở tiệc ăn khao ở quê làng Phủ Lý. Tôi đã thật sự bước vào đời sống của một thanh niên trên đường trưởng thành.
Bước thứ nhì là phải quyết định học ngành gì ở Đại Học Hà Nội, một ngôi trường đại học độc nhất Pháp dựng lên cho cả toàn cõi Đông Dương. Tôi loại bỏ ngay dự định học Luật vì cho rằng trông chờ vào những cơ hội cho phép một người Việt Nam được quyền thực thi luật pháp dưới chánh quyền Pháp chỉ là việc hão huyền. Họa may chỉ còn ngành Y Khoa.
Vì tò mò muốn tìm xem mình có hợp với ngành Y hay không, tôi tìm đến buổi hướng dẫn sinh viên Y Khoa. Chẳng hiểu người xếp đặt chương trình hướng dẫn là ai mà lại có thể tàn nhẫn đến thế! Nhóm chúng tôi gồm 15 người hội đủ tiêu chuẩn khả năng theo học Y Khoa được hướng dẫn vào những khung cảnh khiếp đảm nhất ở bệnh viện Bạch Mai. Đầu tiên chúng tôi phải mục kích một số bệnh nhân đang rên rỉ vì đau. Sau đó lại phải xem cảnh một số khác đang kêu gào thảm thiết. Chúng tôi còn phải xem cả cảnh bệnh nhân đang quằn quại trong những vòng băng. Vì chẳng thể chịu đựng nổi
những điều trông thấy, song song với Luật, Y Khoa cũng bị tôi gạt phắt sang bên.
Cuối cùng, tôi quyết định học toán. Tôi đã thích toán từ lâu. Hơn nữa, ngành này vừa khiến tôi tránh được tiếng cộng tác với thực dân lại vừa khiến tôi thoát được cảnh bị buộc phải mục kích những cảnh đau khổ của người khác. Sau khi đã quyết định, tôi được nhận vào một lớp toán cao cấp cùng 14 sinh viên Pháp và hai sinh viên Việt Nam khác. Vì chương trình toán là chương trình cấp tốc nên chúng tôi phải đến lớp 40 giờ mỗi tuần. Thời giờ dành cho bài tập còn nhiều hơn vậy. Chương trình toán đã chiếm hết tất cả thời giờ. Tôi chẳng còn đủ thời giờ làm bất cứ chuyện gì khác. Thế giới chính trị mới đầy dẫy thu hút đã lại tan dần. Trong những lớp toán chuyên ngành chỉ có toán, toán và toàn toán…
Tôi mê toán vô độ: mê những phức tạp huyền diệu của phương trình, những đan thanh tao nhã của các phương thức trừu tượng. Thế giới toán học là một thế giới thanh tịnh có thể tóm thâu hoàn toàn suy tư và năng lực của tôi. Trong suốt một năm, tuy vẫn còn theo dõi tin tức chiến sự và đã biết thêm rằng vận mệnh của Nhật tùy thuộc hoàn toàn vào khả năng oanh tạc của không lực của đồng minh qua bầu trời Việt Nam, tôi chẳng còn biết được điều gì hơn vậy. Phi cơ Mỹ đã bắt đầu xuất hiện trên những mục tiêu Việt Nam.
Chiếc đầu tiên tôi thấy là một chiếc chiến đấu cơ P–38 lộn vòng qua bầu trời xanh lơ, tấn công vào đồn trại Nhật gần chỗ trạm hỏa xa ở quê tôi là Phủ Lý. Khi chiến tranh lan tràn rộng hơn đến vùng đất chính Á Châu thì máy bay đến ngày càng nhiều. Tôi đã quen với tiếng rú của máy bay oanh tạc, với tiếng xe cứu thương chạy vút qua đường chở nạn nhân vào nhà thương. Tuy thế những biến cố này tan ngay trong giây lát và cơn đam mê toán học lại trở về đưa tôi đi sâu vào thế giới trừu tượng bên trong.
Sau khóa toán, các sinh viên Pháp trở lại Pháp để tiếp tục theo học các đại học danh tiếng khác, còn tôi và các sinh viên Việt Nam vì gia đình không đủ sức tài trợ cho đi ngoại quốc và vì lúc đó chưa có chương trình học bổng nên lại trở lại với chương trình toán phổ thông ở Đại Học Hà Nội.
Chẳng bao lâu sau tôi chuyển từ nhà ông thân đến Đông Dương Học Xá cách bệnh viện Bạch Mai khoảng gần cây số. Việc tôi chuyển nhà lúc này không hẳn chỉ giản dị như việc đơn thuần thay đổi chỗ ở. Tình hình chính trị hỗn loạn tôi tạm bỏ qua lúc trước không hề suy giảm. Ngược lại, nếu ở Trung Học tôi chỉ biết về các đảng phái bí mật qua lời đồn đãi hoặc qua tai người thứ hai chẳng hạn như anh người đó mới gia nhập; cha người đó mới bị bắt vì là đảng viên thì hiện tại, mới khoảng một năm sau thời kỳ kể trên, các đảng phái đã thực sự gây được cả sức mạnh lẫn uy tín vượt xa lúc trước. Đông Dương Học Xá đầy những sinh viên Việt Minh, Đại Việt hoặc VNQDĐ. Chuyện bàn cãi chính trị và tuyển mộ đảng viên xảy ra hàng ngày ngay phía sau bề mặt của Tổng Hội Sinh Viên. Đây là một hội gồm đủ các thành phần từ rất nhiều các tầng lớp có quá khứ khác biệt nhưng thảy đều có tư tưởng quốc gia. Đây cũng chính là Tổng Hội mà tôi đã tham gia từ lúc đầu tiên.
Vì biết rằng nhân viên và những kẻ sách động cho Pháp đang ở khắp mọi nơi nên Tổng Hội Sinh Viên hành động rất cẩn trọng. Hội viên tránh đương đầu trực tiếp bằng cách tổ chức những cuộc đi chơi ngoài mặt có vẻ hồn nhiên nhưng thật sự là để khích động lòng yêu nước. Những cuộc đạp xe hàng tuần luôn luôn có liên quan hệ trọng đến lịch sử và tinh thần yêu nước ngấm ngầm. Chúng tôi đi thăm Đền Hùng, Đền thờ Hai Bà Trưng và các lăng tẩm của những anh hùng, liệt sĩ đã từng đánh đuổi, đập tan giặc ngoại xâm. Những trùng hợp về thời khắc đôi khi có phần lộ liễu nhưng chánh quyền Pháp không thể làm cách nào để ngăn cản được những cuộc du ngoạn có trật tự như vậy. Chúng tôi cùng ngồi quanh lửa hồng, bàn bạc về cách Hai Bà Trưng lật đổ quyền cai trị của Trung Hoa vào thế kỷ đầu tiên, về Trần Hưng Đạo đập tan quân Mông Cổ 1200 năm sau đó. Sau cùng chúng tôi ca hát vang rừng:
Này anh em ơi!
Đứng lên đáp lời sông núi
Đồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống…
Những cuộc họp này gây xúc động sâu xa trong lòng tất cả chúng tôi. Nhìn Đền Hùng mờ xa trong ánh đêm chúng tôi cảm thấy mình
chính là một phần của một giòng liên tục luân lưu, nối tiếp truyền thống Việt Nam. Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi — Tất cả đều đã về đây, tề tựu trong giây phút này để chứng kiến đất nước lại một lần nữa vùng lên tranh đấu cho tự do. Huyền nhiệm thay, sự việc này đang diễn ra ngay trong thế hệ chúng tôi. Thời cơ của chúng tôi đã đến. Qua ánh lửa bập bùng, những khuôn mặt lung linh, chập chờn nhảy múa. Một giây phút thanh cao, thiêng liêng khi tất cả đều đồng lòng liên kết, tranh đấu cho độc lập và sẵn sàng hy sinh không hề nghĩ đến bản thân, không hề do dự. Một phút giây hồn nhiên nhất. Có lẽ đây là phút giây sau cùng trước khi hai khối Cộng Sản và Quốc Gia bắt đầu mở cuộc tương tàn sát hại lẫn nhau.
Tuy ngoài xã hội, tất cả sinh viên đều tỏ vẻ đoàn kết, khi đi sâu vào lãnh vực chính trị của từng sinh viên thì sự thật lại hoàn toàn khác hẳn. Khối sinh viên lần lần tản ra khi mỗi đứa chúng tôi tự tách ra, chia nhau đi theo những lời hẹn hò của đảng về việc đáp lại những nguyện vọng chúng tôi cùng nhau ấp ủ. Vào năm 1943 thì chỉ có một số rất nhỏ có được tí khái niệm mù mờ về những khác biệt giữa các đảng hoặc có thể nhận định chân thực được thế nào là đảng phái. Mọi đảng đều tuyên bố tranh đấu cho tự do. Thế là đủ. Chủ Trương Xã Hội của VNQDĐ thế nào chẳng ai được rõ. Có lẽ chẳng có sinh viên nào có thể cắt nghĩa được rành rọt những khác biệt nổi bật của Đại Việt và Việt Minh. Chẳng hạn như lúc này tất cả đều không biết Việt Minh là do Cộng Sản cầm đầu. Hơn nữa, chưa ai nghe nói đến tên Hồ Chí Minh bao giờ.
Vì thiếu hiểu biết về các đảng phái các sinh viên thường cho là mọi đảng đều như nhau cả. Dĩ nhiên tất cả đều nhận định được rằng có một số đảng ngả theo Trung Hoa trong khi một số đảng khác ngả theo Nhật, nhưng mục đích chung của mọi đảng đều chẳng có gì khác hơn là đòi hỏi Độc Lập. Kết cục là gia nhập vào các đảng phái hoàn toàn lệ thuộc vào sự móc nối tình cờ của bạn bè hoặc người thân. Người ta gia nhập vì rằng một người bạn hay người thân đã gia nhập rồi. Khi một người trong gia đình họ hàng đã là đảng viên của đảng Đại Việt, VNQDĐ hoặc Việt Minh thì những người còn lại trong gia đình có khuynh hướng chính trị thường gia nhập theo.
Vì ông thân và ông chú chẳng ngả theo đảng phái nào, tôi gia nhập đảng Đại Việt là do lời giới thiệu của một người bạn là ông Đặng Văn Sung. Một trong những lý do khác đã khiến tôi gia nhập Đại Việt là vì đa số các sinh viên lúc này đều gia nhập Đại Việt. Khi tôi thực sự gia nhập là khoảng năm 1944. Trong suốt cuộc chiến tôi đã theo dõi sát từng trận đánh ở Thái Bình Dương, đọc tin tức qua tờ báo viết bằng tiếng Pháp ở Hà Nội là tờ La Volonté Indochinoise. Suốt thời gian đó vào khoảng 1942, Pháp lấy làm thích thú tường thuật liên tục việc Nhật thất trận. Lúc này tất cả đều cho rằng chiến tranh sắp kết liễu. Bất kỳ kết cuộc ra sao tất cả đều cảm thấy đã đến lúc cùng nhau góp sức. Số người gia nhập nhảy vọt. Ngay cả những người đang phân vân cũng xin gia nhập.
Trong ngày đầu gia nhập đảng Đại Việt ông Đặng Văn Sung dẫn tôi qua một khu dân cư bình dân trú ngụ để đến một căn nhà cũng bình dân không kém. Khi đã vào trong tôi được gặp người tuyên thệ tôi vào đảng. Chính ông ta cũng là thượng cấp của tôi về sau. Người tuyên thệ tôi trông cũng chất phác chẳng khác nào khu cư ngụ của ông. Khi đã nhận định rõ rệt mọi việc tôi cảm thấy hơi khó chịu. Tôi thực chẳng thể ngờ rằng mình lại có thể đi tuyên thệ trung thành với một đảng phái mơ hồ trước mặt một người chơn chất, giản dị, như người tuyên thệ tôi vào đảng lúc này.
Khó chịu hơn nữa là bên trên chỗ bàn thờ tuyên thệ có dán một bức bản đồ với hai chữ ĐẠI VIỆT. Tấm bản đồ này chẳng những chỉ bao gồm Việt Nam thôi mà còn bao gồm cả toàn cõi Đông Dương và rất nhiều phần khác của Đông Nam Á. Hương khói trên bàn thờ tỏa ra làm cho quang cảnh có vẻ đượm phần tín ngưỡng. Trước ngọn nến người tuyên thệ tôi vào đảng Đại Việt đặt một khẩu súng đen. Người tuyên thệ tôi bắt đầu: Khẩu súng này là biểu tượng cho kỷ luật của đảng. Anh phải thề trung thành với đảng và tổ quốc. Nếu anh phản một trong hai…” Ông ta khẽ nhìn về phía khẩu súng gật nhẹ.
Buổi tuyên thệ thật nghiêm trang, nhưng riêng tôi lại chẳng xem mọi sự nghiêm trang đến thế. Không khí có vẻ đượm màu thế kỷ thứ 19 đã qua mang đầy tính chất bí mật lãng mạn. Tuy vậy tôi vẫn giơ tay tuyên thệ, hứa sẽ trung thành. Với hành động tự nguyện này tôi
bước vào thế giới của những người Việt Nam có tư tưởng quốc gia. Thế giới này đã ở cùng tôi trong suốt 40 năm dài cho tới ngày nay.
Chương 4
Đảng Đại Việt
Sau khi tuyên thệ vào đảng tôi được giới thiệu với hai đảng viên Đại Việt khác để hợp thành một tiểu tổ. Ngoài mặt, tôi chỉ được biết những bạn cùng tổ và thượng cấp của đảng qua bí danh của họ mà thôi. Tôi chọn tên Kim cho chính mình, Kim là tên một thiếu nữ đã đến xin tôi dạy kèm toán khi tôi còn ở nhà ông chú. Cô có nụ cười thật duyên dáng. Lúc này chẳng hiểu sao khi chọn bí danh tự nhiên tôi lại nghĩ đến tên cô.
Khi tiểu tổ đã được thiết lập, chúng tôi hội họp thường xuyên, không bao giờ hai lần ở cùng một chỗ. Vì tiểu tổ chúng tôi thuộc thành phần “trí thức” của Đại Việt, công việc chính của chúng tôi là tuyển mộ đảng viên. Chúng tôi tự luyện mình thành những nhân viên tuyển mộ chính cho đảng và luôn luôn tìm cách thuận lợi để tuyển thêm những người mới. Chúng tôi cố tìm cách để khêu gợi, thúc đẩy lòng yêu nước của họ, làm họ mang mặc cảm tội lỗi về việc phải “làm gì” cho đất nước. Những nhóm Đại Việt còn lại thì được phân công để lo việc an ninh, tin tức và tài chánh. Giờ đây lòng yêu nước không còn trừu tượng như lúc ở với Tổng Hội Sinh Viên nữa mà chuyển thành một phong trào cách mạng. Việc bị cảnh sát Pháp bắt là chuyện bình thường, thỉnh thoảng lại có người mất tích thình lình. Thường thì không thể nào nói được sự mất tích là do Pháp hoặc các hội khác tiêu diệt. Tính cách bí mật về hành động của chúng tôi làm gia tăng bầu không khí hiểm nguy và đe dọa. Hung hiểm bỗng nhiên ám ảnh đời sống. Tôi bắt đầu mang một khẩu súng đút vừa vặn vào chiếc túi nhỏ sau lưng.
Đảng Đại Việt tôi gia nhập gồm nhiều nhóm Đại Việt liên lạc thật lỏng lẻo với nhau và với cả VNQDĐ. Một trong những nhóm Đại Việt nhỏ là nhóm Đại Việt Quốc Xã, một nhóm có liên hệ mật thiết với Nhật. Một nhóm Đại Việt khác là Đại Việt Dân Chính lại hoạt động theo đúng với chiều hướng cách mạng Tam Dân của Tôn Dật Tiên. Nhóm Đại Việt này vì vậy gần gũi nhất với VNQDĐ. Mặc dù chưa liên lạc được với chi nhánh chính của Quốc Dân Đảng ở Trung Hoa
nhóm này vẫn tự xưng là Đại Việt Quốc Dân Đảng và cũng chính là nhóm Đại Việt mà tôi đã gia nhập trước bàn thờ với khẩu súng ngắn.
Những cương lĩnh dân chủ và tinh thần quốc gia cuồng nhiệt của Đại Việt Quốc Dân Đảng đã thu hút được một thế hệ sinh viên Việt Nam. Rủi thay, ngoài việc cam kết rằng chủ trương của đảng có khuynh hướng Dân Tộc Sinh Tồn, Đại Việt Quốc Dân Đảng chỉ có một khái niệm mơ hồ về những hoạt động thực tiễn trên các lãnh vực xã hội và kinh tế. Xuất xứ của đảng Đại Việt Quốc Dân thực sự là do nhiệt tâm tranh đấu cho Độc Lập, do những tình cảm cuồng nhiệt đã được tinh thần tranh đấu âm ỉ hun đúc tích tụ suốt 60 năm dưới chánh quyền thực dân. Những cảm xúc mãnh liệt ngấm ngầm đó giờ đang tiến đến giai đoạn nổ bùng. Sự hiện hữu của đảng là một biểu tượng diễn tả tinh thần cương quyết chống thực dân. Lý do hiện hữu của đảng là sự đòi hỏi tự do. Bởi thế cho nên đảng không có thời giờ hoặc tâm trí để nhìn xa hơn những mục đích chủ chốt lúc đó.
Thiếu lập trường chính trị là một nhược điểm mà Đại Việt Quốc Dân Đảng và nhiều đảng phái khác cùng có chung, ngoại trừ một đảng duy nhất là đảng Việt Minh. Vốn được những thành phần Cộng Sản nòng cốt, tháo vát và đầy nhiệt tâm ra công tổ chức, Đảng Việt Minh có những ưu điểm mà những đảng phái quốc gia hoàn toàn không có. Một trong những ưu điểm tối quan trọng của Việt Minh là những kinh nghiệm lão luyện về chiến thuật và chiến lược của chiến tranh phe phái.
Khoảng giữa thập niên 1940, ông Hồ Chí Minh đã là nhân viên của đảng Cộng Sản thế giới tròn một phần tư thế kỷ. Ông đã góp phần thiết lập đảng Cộng Sản Pháp và đã theo học tại Đông Phương Đấu Tranh Học Viện Stalin. Ngoài ra ông còn là một trong những đảng viên của đảng Nông Dân Quốc Tế (Peasant 's International) đã cùng hoạt động với vị lãnh tụ khét tiếng Michael Borodin trong sứ mạng giúp đỡ cách mạng Trung Hoa. Khi đảng Đại Việt và các đảng phái khác hãy còn trong thời kỳ phôi thai thì ông Hồ Chí Minh đã hiểu rõ tường tận cả về lề lối cách mạng lẫn cách tiêu diệt các đảng phái chính trị đối lập khác. Cho đến khi các nhân vật tăm tiếng như ông
Võ Nguyên Giáp, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng và Lê Duẩn cùng về hợp tác thì đảng Việt Minh đã liên kết tạo thành thế răng cưa để nghiền nát các đảng phái quốc gia khác yếu thế hơn.
Chẳng rõ trong lúc đó các lãnh tụ Đại Việt có hình dung được rõ rệt những thế lực khủng khiếp của các lực lượng đối nghịch hay không, riêng phần tôi và các bạn bè vẫn hoàn toàn không hề mảy may hay biết.
Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, tôi đã cảm thấy vai trò của mình trong tiểu tổ thật quá hạn hẹp. Khi nhận thấy khả năng mình có sức làm nhiều hơn những công việc đã được ủy thác, tôi bắt đầu tìm cách gặp ông Trương Tử Anh, lãnh tụ đảng Đại Việt, người mà chúng tôi vẫn gọi là Ông Cả Phương.
Lúc đầu công việc hoàn toàn thất bại. Người liên lạc độc nhất giữa tôi và đảng cứ trì hoãn bảo rằng chuyện đó không thể làm ngay được và khuyên rằng nếu muốn gặp ông Trương Tử Anh thì tôi phải kiên nhẫn hơn. Việc chẳng thể vượt qua được đường dây liên lạc độc nhất để tiến xa hơn đã khiến tôi vô cùng thất vọng. Tôi tự thấy mình không thể chịu được đường lối ép buộc khắt khe của đảng và cũng chưa hiểu rõ rồi đây những cảm tưởng khó chịu lúc này sẽ ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa tôi và đảng nặng nề đến mức nào. May thay chỉ một thời gian ngắn sau đó tôi lại tình cờ được gặp ông Trương Tử Anh. Cuộc gặp gỡ giữa tôi và ông Trương Tử Anh đã dẫn đến những liên hệ mật thiết giữa tôi cùng ông Anh và những xung đột chính trị về đường lối của đảng về lúc sau này.
Cuộc gặp gỡ xảy ra trong một cuộc họp của đảng Đại Việt tại nhà một người bạn cùng lớp. Chuyện tôi không biết người bạn cùng lớp cũng là đảng viên Đại Việt chẳng qua cũng là một chuyện bình thường lúc bấy giờ. Tuy vậy, trong lúc đến họp tôi đã nhận ra vài người bạn có mặt tại đó cũng là đảng viên Đại Việt. Mọi người hình như đang tựu quanh một người trung niên đầu hói phía trong một căn phòng ngủ. Khi không nhận ra được người trung niên đầu hói là ai, tôi đã hỏi Phúc. Phúc thì thào: “Đó là ông Trương Tử Anh.”
Vừa nghe xong tôi vội bắt Phúc giới thiệu. Phúc từ chối trong kinh ngạc: Không được đâu!!! Như vậy không đúng với thông lệ của đảng. Anh phải thông qua trưởng nhóm.” Tuy vậy, tôi hết sức nài nỉ. Tôi đã chờ cơ hội này từ lâu. Hiện đang có dịp may, đời nào tôi bỏ lỡ? Sau cùng, phần thì bối rối, phần thì vì cũng chẳng còn cách nào khác, Phúc đồng ý.
Ông Trương Tử Anh là người rất dễ dãi và đáng mến. Dường như ông không hề bận tâm chút nào về việc giới thiệu bất ngờ. Ông mỉm cười thân thiện rồi nhìn tôi với đôi mắt sáng long lanh gần như thu hút. Ông khuyên tôi nên bỏ thì giờ tìm hiểu nguyên tắc của đảng để có thể biết rõ đường lối của đảng đối với quốc gia. Tôi trả lời ngay rằng đây đúng là việc tôi đang thắc mắc muốn tìm hiểu thêm vì quả thật tôi hoàn toàn chưa có căn bản vững chắc về đường lối và quan niệm của đảng.
Ông Trương Tử Anh vừa ngước đầu về phía cửa chỗ Phúc đi ra ngoài vừa tiếp lời tôi rằng: “Anh có thể học hỏi anh Phúc thêm. Phúc là một lý thuyết gia đứng đắn.”
Tôi lấy làm ngạc nhiên: “Phúc? Tuy Phúc quả là một người bạn tôi biết đã từ lâu nhưng làm sao tôi có thể học Phúc thêm về đường lối của đảng được? Khi còn là bạn cùng lớp Phúc lúc nào cũng thua tôi về Triết và gần như về tất cả mọi môn khác!!!”
Không rõ sự bạo dạn hay câu phê bình thơ ngây của tôi đã khiến ông Anh bật cười. Chúng tôi nói chuyện lâu hơn và ít lâu sau ông Anh tỏ ý muốn gặp riêng tôi. Khi ra về tôi cảm thấy có thể hoàn toàn tin tưởng ông Trương Tử Anh. Hơn nữa tôi biết mình đã gây được ấn tượng tốt với ông.
Trong lần gặp sau đó, ông Anh bảo rằng có rất nhiều việc có thể giao phó cho tôi nhưng việc quan trọng nhất hiện thời là dùng tôi để gây mối liên lạc giữa đảng và ông chú tôi là học giả Trần Trọng Kim. Tuy ông chú tôi chỉ là một sử gia, tác phẩm của ông đã chuyển ông thành một nhân vật quan trọng trọng việc nhận định lại nền văn hóa Việt Nam. Vốn là người nổi tiếng, được nhiều người kính nể, lại không hoàn toàn đứng về bất cứ phe phái nào nên dầu muốn dầu
không ông chú tôi cũng đã trở nên một nhân vật của dư luận. Hơn nữa, lúc này ông còn được đa số quần chúng ủng hộ nên dù gia nhập đảng nào ông cũng mang lại cho đảng đó rất nhiều uy tín. Ông Trương Tử Anh cho rằng có lẽ phương pháp hay nhất là để tôi gần gũi với ông chú tôi, cho ông chú tôi biết rõ rằng tôi đã gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng và rồi tự tìm cách thuận lợi để biến mình thành một đường dây liên lạc bí mật giữa Đại Việt và ông chú tôi.
Mặc dầu ông chú tôi vẫn chăm chỉ viết sách, cuộc sống của ông thực sự đã thay đổi rất nhiều vào năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị dồn dập đã đẩy ông phần nào ra khỏi tư thế khách quan trong vấn đề tranh đấu cho độc lập. Lúc này ông khách sinh viên Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả mật thám Pháp cũng đã giám sát cẩn mật nơi cư ngụ và các hành động của ông chú tôi.
Tuy đã biết rành rọt mọi chuyện mà vào một hôm đến chơi tôi vẫn bàng hoàng khi được bà mợ cho biết tin chú tôi không còn ở nhà nữa. “Chú phải lên đường đi xa,” mợ tôi tiếp tục cho thêm tin “vì mật vụ Pháp rình rập và đã lên đường đi Singapore cùng ông Yamaguchi rồi.”
Vào mùa hạ năm 1944, quân đồng minh rầm rộ kéo qua Pháp. Khoảng tháng 8, ngày 23, họ đã chọc thủng tuyến phòng sông Seine. Hai ngày sau tướng Jacques Philippe Leclerc và quân Pháp dưới quyền chỉ huy của ông đã giải phóng Ba Lê thoát ách bốn năm đô hộ của Đức. Việc chánh phủ Vichy Pháp sụp đổ đã khiến tình hình phức tạp nội địa Đông Dương suy yếu hơn một tầng, nhất là khi quân Nhật tỏ ý lơ là với những điều kiện khắt khe phải giữ với chánh quyền thuộc địa Pháp trước đây. Đã có lời đồn đãi rằng Nhật đang mưu mô lật đổ Pháp. Do đó khi có tin Nhật đảo chánh chẳng ai lấy làm ngạc nhiên.
Vào trưa ngày 9, tháng 3 năm 1945. tôi nhận được tin từ bà mợ rằng Yamaguchi mời tôi cùng ăn cơm tối tại nhà bà ta. Nhưng tối đó, khi tôi đến thì không hề thấy bóng Yamaguchi. Ngồi đợi một chút, lúc trời vừa xâm xẩm tối bỗng có tiếng súng nổ từ những khu phố kế cận. Rồi bất thần Yamaguchi tông cửa vào nhà, kéo tay tôi vào một
góc phòng. “Chúng tôi đang tấn công Pháp,” Yamaguchi nói, “cuộc tấn công đã bắt đầu rồi. Anh phải giúp tôi. Xin anh đến trường cùng tôi. Sẽ có nhiều tổn thất. Tôi muốn nói cho các anh em sinh viên được rõ rằng chúng tôi cần họ giúp đỡ, nhất là những sinh viên y khoa. Xin anh giúp dùm cho.”
Vừa khẩn khoản đốc thúc, Yamaguchi vừa bắt đầu kéo tôi về phía cửa ra vào. Tuy vậy tôi không hề cảm thấy nóng lòng như Yamaguchi. Tôi không muốn những sinh viên khác nghĩ rằng tôi là người hợp tác với Nhật. Bởi thế tôi gỡ tay Yamaguchi, xoay người đối diện với ông trong tư thế sửa soạn tranh luận về tình thế hiên thời…
Nhưng tôi chẳng còn đủ cơ hội nữa! Khổ quá!” Yamaguchi nài nỉ, “Thật không còn thời giờ tranh luận nữa mà. Anh thật tình không hiểu sao? Chúng tôi đã tấn công rồi. Không phải chỉ có người Pháp thương tổn không thôi mà còn nhiều thường dân khác nữa! Xin anh giúp dùm ngay cho!”
Theo lời ông ta thì thật chẳng còn gì để lựa chọn. Tôi vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ thì Yamaguchi đã đẩy tôi vào xe chạy vòng vèo qua đường phố đầy lửa đạn. Tôi cũng chẳng hiểu chúng tôi đến được Đông Dương Học Xá bằng cách nào. Khi đến nơi, tuy có giới thiệu Yamaguchi cùng những sinh viên đang tìm hiểu tin tức quanh đó, tôi vẫn cố tránh xa ông ta. Nhiều sinh viên đã biết sơ qua về Yamaguchi. Ông đã theo học nhiều năm tại đại học và đã hoạt động rất tích cực trong việc nối kết tình hữu nghị Việt–Nhật. Do đó, tôi nói với mọi người rằng tôi cũng như những sinh viên khác, biết Yamaguchi và hiện ông ta đang ngỏ lời xin giúp đỡ.
Ngay sau khi tôi giới thiệu, Yamaguchi đọc một bài diễn văn ngắn và mở lời nhờ sinh viên săn sóc những người đang gặp hoạn nạn hoặc bị thương do súng ống loạn lạc đang bao trùm thành phố. Nói xong ông ta lên đường. Khi tiếng súng gần kề, chúng tôi cùng nhau bàn bạc về những chuyện phải làm. Như tôi đã tiên đoán, có nhiều học sinh nghĩ là tôi cùng hoạt động với Yamaguchi. Họ muốn biết rõ ông ta yêu cầu gì. Tôi bảo với họ rằng tôi cũng chỉ biết Yamaguchi như những sinh viên khác mà thôi. Tất cả chúng tôi đều muốn tránh tiếng
hợp tác với Nhật nhưng những tiếng súng bên ngoài cho thấy rằng chắc chắn sẽ có tổn thất lớn về phía dân sự. Chúng tôi chẳng thể khoanh tay không giúp đỡ.
Sau cùng tất cả quyết định giữ tư thế trung lập. Sinh viên y khoa sẽ chia toán đổ ra đường phố, nhưng tất cả đều đeo băng thập tự đỏ cứu thương rõ rệt. Chúng tôi sẽ hết sức giúp đỡ nạn nhân nhưng tất cả cùng cố tránh càng ít liên lạc với người Nhật càng tốt.
Thật sự thì những dự đoán về chuyện đánh nhau hỗn loạn và tổn thất nặng nề chỉ là chuyện lo xa. Quân Nhật tổ chức đánh chiếm thiện nghệ cho đến nỗi chỉ mới rạng đông Hà Nội đã hoàn toàn ngưng hẳn tiếng súng. Quân Pháp bị diệt sạch vào lúc rạng ngày. Lính Nhật thay thế Pháp đi tuần khắp các nẻo đường phố. Sau hơn sáu mươi năm đô hộ, ách thống trị của Pháp bỗng dưng bị lật đổ.
Khi người Nhật đã nắm quyền thì câu hỏi chủ yếu là: Họ sẽ làm gì? Qua suốt thời gian chiếm đóng họ đã tránh né không nói rõ chủ trương, không hứa hẹn, hoàn toàn nấp mình sau sự điều khiển của những người lai lịch bí ẩn và khôn khéo lợi dụng thời cơ như Yamaguchi. Lúc này chúng tôi đã thấy rõ là Nhật chỉ nắm quyền tạm thời mà thôi. Các lực lượng khủng khiếp của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương đang tiến dần vào quần đảo Nhật và chương trình Đại Đông Á đang chết dần. Bởi thế dù Nhật có an bài Việt Nam bằng cách nào đi nữa thì cơ hội lịch sử cũng đã đến.
Bầu không khí hồi hộp bao trùm khắp cả khuôn viên đại học. Lòng yêu nước chứa chan pha lẫn với những niềm tin vào vai trò sinh viên trong xã hội tương lai đã khiến tất cả đều háo hức. Gần như tất cả đều tin rằng dù gì đi nữa thì vai trò của sinh viên chắc chắn sẽ là những vai trò lớn rộng và phản ảnh rõ rệt được vai trò những bông hoa của đất nước. Tất cả những xúc cảm đè nén từ nhiều năm qua bỗng có dịp bùng ra thành những hoạt động cuồng loạn. Tổng Hội Sinh Viên được thiết lập. Báo chí sinh viên cùng những buổi chào mừng tung hô thống nhất nảy ra khắp nơi. Những phong trào yêu nước ngấm ngầm bị cảnh sát Pháp ngăn chận trước đây thình lình bộc phát. Tuy chưa có gì bạo động xảy ra, chưa có ai tỏ vẻ ra mặt
chống đối Nhật nhưng mọi người đều đã có cảm giác là tương lai đã nằm trọn trong tay.
Chẳng bao lâu sau, tất cả những cảm xúc cuồng nhiệt được chuyển dần thành những dự định chuẩn bị cho ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương lúc nào cũng là một trong những dịp để tỏ lòng yêu nước. Trước đây vì sợ tinh thần yêu nước sẽ chuyển thành bạo động, chánh quyền Pháp đã cấm những buổi lễ lớn có tính cách cộng đồng. Lúc này, vì chưa có lệnh chánh thức cấm tụ họp cộng đồng trực tiếp từ Nhật, Tổng Hội sinh viên nô nức tổ chức những buổi gặp gỡ.
Tại Đông Dương Học Xá, những sinh viên kiến trúc dựng đài kỷ niệm khổng lồ để tưởng nhớ Tổ Hùng Vương. Tổng Hội Sinh Viên gởi người đến từng vùng trong thành phố để nhắc nhở và kêu gọi mọi người cùng đến tham gia ngày Giỗ Tổ.
Buổi sáng hôm Giỗ Tổ khoảng đất xung quanh đài kỷ niệm bắt đầu dầy đặc những người đến dự. Hình như tất cả dân chúng Hà Nội đều tề tựu ở đó. Mỗi gia đình mang một miếng bánh chưng đến đặt ở chân đài thờ Tổ. Càng lúc số lượng người đến càng tăng, chen chúc nhau vây quanh đài kỷ niệm. Bánh chất đống thành núi, mỗi lúc mỗi cao thêm. Có cả hàng loạt diễn văn, mỗi bài đều khẳng định rằng tất cả đều là người Việt Nam, tất cả đều cùng chung tổ quốc và mọi người đều phải hy sinh vì lợi ích quốc gia.
Có lẽ chỉ những người đã sinh trưởng trong một nước thuộc địa và đã từng bị người ngoại quốc đàn áp dã man mới có thể hiểu được cảm giác của những giây phút đó. Sau mỗi bài diễn văn đám đông lại hô to: “Việt Nam muôn năm! Việt Nam muôn năm!” Trong cùng khắp đám đông, cả đàn ông lẫn phụ nữ đều tràn đầy cảm xúc. Chẳng một ai để ý đến quân Nhật lảng vảng ở vòng ngoài, đang “chụp hình tất cả.” Chẳng một ai còn tâm trí cho người Nhật hoặc bất cứ chuyện gì khác. Đầu óc chúng tôi chỉ có một ý nghĩ: Tổ quốc Việt Nam.
Khi diễn văn bế mạc, tất cả đám đông đổ xuống đường phố Hà Nội, phất cờ và tung hô: “Độc Lập! Độc Lập!” Quân Nhật vẫn đứng im lìm
dọc theo hai bên đường. Mặt họ lạnh lùng khi đám đông tung hô đi qua. Chẳng bên nào tỏ vẻ thù nghịch. Sau cùng đám đông rã dần thành những đám nhỏ, tản ra trên đường về, mệt mỏi vì những vui mừng, khích động trong ngày.
Vài ngày sau, Yamaguchi lại xin gặp tôi. Ông ta cho biết là chú tôi đã từ Singapore trở về. Vua Bảo Đại đã mời ông chú tôi đứng ra lập chính phủ mới.
Chương 5
Cách Mạng Tháng 8
Hoàng Đế Bảo Đại là ông vua cuối cùng của triều Nguyễn. Ông là ông vua trị vì dưới thời Pháp thuộc, nhưng trên thực tế vai trò của ông chẳng qua chỉ là một vai trò nghi lễ. Kể từ năm 1932, ông chỉ nắm quyền hành trên giấy tờ mà thôi. Con người của ông rất phức tạp. Vừa thông minh, tinh tế lại vừa thụ động, ham săn bắn, mê đánh bài và thích gần gũi đàn bà. Mặc dù đã cảm thấy rõ ràng trách nhiệm của mình đối với nền độc lập Việt Nam, ông vẫn chỉ tranh đấu bằng một thái độ thật nhu nhược và bất nhất. Từ khi lên ngôi, ông Bảo Đại đã nhiều lần thúc đẩy Pháp cải cách để tiến đến một chánh quyền quốc gia. Tuy vậy ông vẫn luôn trùng trình và không đủ can đảm giữ vững lập trường của mình.
Hiện thời, vì Nhật đốc thúc, ông đã tuyên bố Việt Nam hoàn toàn độc lập và đang xoay sở để tiến hành việc tạo dựng một chánh phủ quốc gia. Mọi người đều ngạc nhiên khi ông Bảo Đại cử học giả Trần Trọng Kim ra làm thủ tướng. Sự ngạc nhiên chính là vì ông đã bỏ qua một chính trị gia thực tiễn khác đã sát cánh với người Nhật từ nhiều năm về trước là ông Ngô Đình Diệm, người sau này là tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Lúc này, đa số những người hiểu rõ tình hình đều cho rằng nếu Nhật đảo chánh Pháp chắc chắn ông Diệm sẽ là người đứng ra nắm chánh quyền. Chẳng một ai nghi ngờ gì về chuyện ông Diệm đang nóng lòng chờ đợi biến cố đảo chánh của Nhật. Tuy vậy, vì lý do riêng Nhật đã quyết định gạt bỏ ông Diệm.
Biến chuyển Bảo Đại đề cử cụ Trần Trọng Kim đến vừa lúc các đảng phái quốc gia đang sửa soạn mở cuộc tranh quyền ồ ạt. Việt Minh đã củng cố được những căn cứ du kích ở Việt Bắc. Ông Trương Tử Anh đã thiết lập căn cứ ở Bắc Giang và Thanh Hóa. Khi tin tức về việc đề cử được truyền ra, tôi đã nhận được lệnh trình diện ở căn cứ Thanh Hóa, nhưng lúc này ông Trương Tử Anh lại có lệnh muốn tôi đến Huế, nơi chính quyền của ông chú tôi sắp được thiết lập. Ở
Huế tôi vừa phải theo dõi chánh quyền mới, lại vừa phải đứng ra làm đường dây liên lạc giữa ông chú tôi và ông Trương Tử Anh.
Tự nhiên thế giới của tôi trở nên lớn rộng. Mới đây tôi chỉ là một sinh viên ngành toán, có hoạt động chính trị nhưng chắc chắn không phải là một trong những nhân vật quan trọng. Bỗng nhiên giờ đây tôi trở thành một yếu nhân của chánh quyền Việt Nam với một công tác rõ rệt. Tôi tự hỏi, chẳng hiểu đây là sự thật? Hay sự thật chỉ là hình ảnh một Bùi Diễm thúc thủ đang hiện diện ở đâu đây để mỉm cười vì sự thay đổi chính trị “Lên Ông” này? Chính cảm giác này rồi đây còn đến với tôi qua rất nhiều lần khác về sau.
Cuộc viễn du xuống Huế thật là sởn tóc gáy: Ba ngày, có lẽ đúng hơn là ba đêm, lóc cóc qua những con lộ nhỏ hẹp trên chiếc xe buýt chạy than cũ kỹ như cái bẫy chuột. Lúc này Đệ Nhị Thế Chiến còn đang tiếp diễn, và những căn cứ của Nhật ở Việt Nam vẫn bị đồng minh dội bom nên oanh tạc cơ của Hoa Kỳ đã biến đại lộ dẫn đến Huế thành một tử lộ trong lúc ban ngày. Bởi thế chúng tôi chỉ đi được từ hoàng hôn cho tới khi rạng đông. Tôi không hiểu là đi đêm trên một chiếc xe như vậy thì có gì khác biệt với những nguy hiểm ban ngày khi Mỹ dội bom? Tuy vậy, trái hẳn với sự dự liệu của tôi, sau ba ngày chiếc xe cọc cạch đến Huế an toàn. Xe vượt qua giòng sông Hương yêu kiều rồi cho chúng tôi xuống ở một trạm xe buýt tỉnh lị.
Trạm xe buýt không phải là chỗ độc nhất có vẻ tỉnh lị ở Huế. So sánh với Hà Nội, thành phố Huế có vẻ yên lặng, u trầm. Những đền đài lăng tẩm tao nhã của thế kỷ 19 bao quanh không khí tĩnh mịch của Huế, nơi hoàng đế thiết triều. Đây cũng là nơi thực dân dựng những dinh thự uy nghi dành riêng cho những nhân vật cao cấp. Những dinh thự này giờ là nơi cư ngụ của chánh quyền mới.
Quẳng gói lên vai tôi bước về mé cầu Tràng Tiền tìm đường tới nơi cư ngụ. Vừa đi đầu tôi vừa vang lên âm hưởng của hai chữ Độc Lập. Tổ quốc đã thật sự tự do — Ít ra lúc đó tôi tin là vậy. Tôi đang ở đúng vào nơi chánh quyền mới có được tự do suốt từ hồi năm 1884 cho đến nay. Khi đến nơi, tôi hãnh diện nói cùng hai người gác cửa: “Tôi là Bùi Diễm, cháu Thủ Tướng, xin phép được gặp Thủ Tướng.”
Nghe xong một người chạy vào thông báo rồi lại trở ra ngay dẫn lối cho tôi.
Bước vào phía trong tôi sững sờ vì vẻ đẹp trước mắt. Những hàng hiên dài trang trí tao nhã, những bậc tam cấp bóng loáng, những trần nhà trạm trỗ. Tôi đang ngỡ ngàng vì vẻ xa hoa diễm lệ thì ông chú tôi đã đến sau lưng nhỏ nhẻ: “Đấy Diễm, cháu hãy xem kỹ đi để hiểu vì sao Pháp lúc nào cũng cố bám vào thuộc địa Việt Nam.”
Uống trà xong, ông chú tôi ngỏ ý mời tôi ở lại. Tôi cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên. Từ trước tới nay, ông vẫn thích nói chuyện với tôi và lúc nào ông cũng coi tôi là một đứa cháu cưng. Thỉnh thoảng tôi vẫn ở chơi nhà ông ngoài Hà Nội. Hơn nữa, tôi biết rằng vì hiếm muộn con trai, vợ chồng ông vẫn coi tôi như con ruột. Vì thế, tôi thay đổi quần áo, sửa soạn ở luôn trong dinh thự.
Sau khi mọi chuyện lặt vặt đã hoàn toàn ổn định, cụ Kim kể về chuyện đề cử. Chuyện cũng đã làm cụ ngạc nhiên không kém gì những người khác. Liền ngay trước khi lật đổ Pháp, Nhật đã mang cụ Kim từ Singapore về Sài Gòn. Tại Sài Gòn, Nhật giữ cụ ở một căn nhà riêng chờ đợi biến chuyển. Ông Ngô Đình Diệm cũng ở Sài Gòn vào thời gian này và cũng liên lạc thường xuyên với người Nhật trong niềm hy vọng rằng biến chuyển sẽ đưa thời cơ đến với ông.
Ngày nọ bỗng một người Nhật mời cụ Kim đến nói chuyện với Ban Tham Mưu của họ tại văn phòng trung ương. Khi đến nơi họ bảo rằng vua Bảo Đại yêu cầu được gặp cụ Kim và cụ Kim nên về Huế càng sớm càng tốt. Họ chẳng hề đề cập bất cứ điều gì có liên quan đến chánh quyền mới và chỉ nói vắn tắt với cụ Kim rằng Bảo Đại yêu cầu được gặp. Khi tin được chuyển xong thì cụ Kim ra về, suy nghĩ xem xét về lời nhắn. Lúc bước qua hành lang, cụ Kim thình lình gặp ông Diệm, một chính khách đang nôn nóng đợi chờ những tin tức của Nhật. Thấy cụ Kim từ văn phòng bước ra, ông Diệm chạy vội lại hỏi thăm ngay: “Có tin gì không? Có tin gì không?” Chính ông Diệm cũng chẳng biết gì hơn cụ Kim.
Trưa hôm sau cụ Kim đến Huế, lắng nghe lời ông Bảo Đại mời cụ ra giữ chức thủ tướng và thiết lập chánh phủ. Nghe xong cụ Kim hỏi
ngay. “Tại sao ngài lại chọn tôi mà không chọn ông Ngô Đình Diệm?” ông Bảo Đại trả lời rằng: “Là vì tôi đã cố liên lạc với ông Diệm gần hơn tuần nay, nhưng người Nhật nói với tôi rằng họ không biết ông ta ở đâu. Hiển nhiên là ông Diệm đang trốn tránh và tôi chẳng thể chờ lâu hơn được.”
Câu chuyện theo cụ Kim kể thì quả là Nhật đã giữ cả hai, cả cụ Kim lẫn ông Diệm trong suốt thời gian họ tìm hiểu tình hình, để tiện việc khi cần. Dẫu rằng ở vào lúc tuổi hãy còn nhỏ như thời đó, tôi đã khâm phục những cách họ vận động khéo léo để lợi dụng cả chánh quyền thực dân Pháp lẫn chánh quyền Việt Nam. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao, nhưng rõ rệt là Nhật cho rằng tình thế Việt Nam lúc này phải cần một học giả trầm lặng như ông chú tôi làm thủ tướng hơn là một chánh trị gia có nhiều ý chí như ông Ngô Đình Diệm. Kết quả là cụ Trần Trọng Kim đang ở dinh thự Huế trong khi ông Diệm vẫn ở Sài Gòn, hoàn toàn mù tịt về tình hình chính trị.
Cụ Kim vẫn còn bị những khuynh hướng tổ chức theo lối cổ ngày xưa ảnh hưởng rất nhiều. Khi tìm người ra phục vụ, cụ đã mời những người vừa xuất sắc về học vấn, vừa chánh trực thanh liêm về cùng làm việc. Cụ coi đây là những đức tính tiên quyết, bắt buộc phải có ở những người phục vụ đất nước. Khi nhìn lại bằng con mắt hiện thời thì quả thật lúc loạn ly bấy giờ chưa chắc đã phải là lúc của những đức tính như vậy.
Khuynh hướng chính trị của cụ Kim phản ảnh rõ rệt qua cách cụ mời những nhân viên vào chánh phủ. Tất cả những người cụ mời đều là những phần tử ưu tú nhất. Họ là những tinh hoa của xã hội Việt Nam. Trong số Bộ Trưởng, có vài người là giáo sư cũ của tôi. Chẳng hạn như Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Hoàng Xuân Hãn là thày dạy tôi toán. Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên Phan Anh là thày dạy tôi văn chương Pháp. Vì chánh quyền vừa được thiết lập nên các Bộ Trưởng cùng gia đình đều cùng ở trong dinh thự và đang cố gắng tìm nơi trú ngụ. Mọi người cùng sống chung với nhau tạo ra một bầu không khí lẫn lộn nửa đại gia đình, nửa khuôn viên đại học.
Khi ăn tối, tất cả tề tụ quanh chiếc bàn lớn ở phòng ăn, chuyện chính trị bàn cãi sôi nổi. Tuy thế, hầu hết các nhân viên trong cả
chánh phủ đều thiếu kinh nghiệm chính trị thực tiễn. Khi giải quyết các vấn đề chính trị, họ thường giải quyết dựa vào các quan niệm lý thuyết. Họ sẵn sàng tán thành các giải pháp được đề ra, miễn là những giải pháp đó có vẻ hợp luận lý. Các nhân viên chánh phủ lúc này thường cho rằng một khi họ đã suy nghĩ thấu đáo vấn đề thì mọi việc còn lại đều tùy thuộc vào những sắc lệnh của chánh phủ đưa ra. Họ nghĩ là chỉ cần ra lệnh là lệnh của họ sẽ tự nhiên hoàn thành. Tuy phần đông các nhân viên trong chánh phủ đều giải quyết các khó khăn dựa trên những quan niệm lý thuyết, chẳng một ai trong họ là bù nhìn. Mặc dầu quyền lực đang thực sự trong tay Nhật, họ chưa hề suy nghĩ đến bất cứ điều gì vi phạm đến bổn phận hoặc lương tâm.
Nhưng tuy không hề nghe lệnh, họ cũng chẳng hề biết rõ thấu đáo tình hình chính trị và quân sự đang gây sóng gió chung quanh. Chẳng hạn như việc chánh phủ không có lấy một đại biểu ở Hà Nội. Chính phủ phải nhờ vào điện tín để liên lạc. Họ chẳng biết tí gì về người Mỹ, trong khi đó thì ông Hồ đang cố hết sức dụ dỗ Hoa Kỳ. Theo tôi nhớ thì hình như các Bộ Trưởng chưa bao giờ nói gì đến chuyện ông Hồ Chí Minh hoặc Việt Minh. Có lẽ họ đang sống trong một khoảng trống. Hoặc có lẽ vì theo khuôn mẫu của các triều đình cũ khi trước, họ đã tự cho mình là trung tâm của vũ trụ và vạn vật đều quay quanh họ.
Ngay cả đến người Nhật, mà tôi nghĩ là họ phải hiểu hơn cả, họ cũng chẳng biết rõ ý định của người Nhật. Dường như họ cũng chẳng lo lắng mấy về vấn đề người Nhật sắp sửa thất bại. Tôi còn nhớ vào một buổi tối có cuộc bàn cãi sôi động về vấn đề Nam Bộ. Lúc đó Nam Bộ còn được gọi là CochinChine. Người Nhật lúc này đang chống đối việc trả lại chủ quyền cho Việt Nam. Trong khi bàn luận tìm cách lấy lại Nam Bộ, ông chú tôi cho biết cụ đã thảo luận vấn đề này với đại sứ Nhật là ông Yokahama. Ông chú tôi cho biết đại sứ Yokahama đã hứa sẽ xin chỉ thị của chánh phủ Nhật và hứa “sẽ hết mình.” Như vậy vấn đề tạm coi là được giải quyết. Trong khi đại sứ Nhật đang “cố hết mình” thì chánh phủ Việt Nam lúc này cho rằng chẳng còn việc gì cần làm thêm nữa.
Đây là lần đầu tiên cụ Kim và các Bộ Trưởng mới bắt tay vào việc thiết lập chánh phủ. Vì không có những khuôn mẫu kinh nghiệm để noi theo họ đã phải tự tổ chức các cơ quan quân sự quốc gia, tự cải tổ giáo dục và tự thiết lập gần như toàn bộ các cơ quan cần thiết cho một chánh phủ mới. Họ cố nhận định lần hồi những khó khăn chính và cố tìm cách giải tỏa. Họ cho rằng sự hiện diện của họ trong chánh quyền là vì bổn phận. Họ sẵn sàng từ bỏ mọi sự khi có lý do chánh đáng.
Tôi ở Huế khoảng 2 tháng, quan sát các Bộ Trưởng, nghe họ kể chuyện và đi tham quan thành phố cho tới khi tôi hoàn toàn quen thuộc với tất cả những di tích lịch sử. Và sau khi đã xem hết những cảnh ở Huế thì tự dưng tôi lại thấy nhớ Hà Nội. May thay, ông chú tôi lại vừa đề cử một đại biểu đại diện cho chính phủ ở Hà Nội. (Người đại diện là Khâm sai Phan Kế Toại, một vị quan già mà cả ông thân và ông chú tôi đều biết.) Tôi mừng không thể tả khi ông Toại ngỏ lời mời tôi cùng về Hà Nội. Tôi sẽ là người liên lạc bán chánh thức giữa vị đại biểu mới của Hà Nội và chánh phủ.
Tôi đã biết rõ công việc của một người đưa tin chẳng lấy gì làm nặng nhọc. Tôi đã từng làm người đưa tin riêng cho ông Trương Tử Anh và ông chú tôi suốt 2 tháng mà chưa từng đưa tin gì cho cả hai bên. Tuy vậy tôi cần có lý do để về Hà Nội. Lý do này hoàn toàn tốt đẹp.
Ngược hẳn với Huế, Hà Nội vào cuối tháng 7 năm 1945 đang xôn xao, vì cả tin tức, tin đồn lẫn những vận động ngầm. Một điều ai cũng rõ là ngày tàn của đế quốc Nhật đã gần kề. Trong khi ông chú tôi nghĩ rằng còn có nhiều thời giờ để thiết lập chính quyền và xếp đặt mọi việc đàng hoàng với Nhật thì những người khác đang cố củng cố một chỗ đứng vững vàng để có thể mưu mô sửa soạn trước cho giai đoạn sắp tới.
Về đến Hà Nội, tôi liên lạc ngay với ông Trương Tử Anh. Ông Anh bảo rằng lực lượng Đại Việt đã thiết lập căn cứ hoàn toàn vững chắc, nhưng thay vì đến một trong những nơi căn cứ, tôi nên ở lại với ông tại Hà Nội. Ông cho rằng tại Hà Nội tôi có thể làm các công tác chính trị hữu hiệu hơn.
Càng gần ông Trương Tử Anh tôi lại càng khâm phục tài tháo vát của ông. Điều kỳ bí về ông Trương Tử Anh là chẳng một ai biết chính xác ông quê quán từ đâu hoặc quá khứ ra sao, nhưng ông có vẻ là người có bản lãnh. Phía sau những cung cách trầm tĩnh và nghiêm nghị bề ngoài, ông Trương Tử Anh là một người vừa thông minh lại vừa có lòng tin vô biên vào khả năng của mình trong việc xây dựng tương lai cho đất nước.
Vào tháng 7, ông Anh lại gửi tôi về nhà ông chú tôi ở Huế. Nhiệm vụ của tôi là phải trình bày để ông chú tôi rõ là ông phải tin vào sự hậu thuẫn của Đại Việt nếu có chuyện gì trục trặc. Vì vậy tôi lại vượt nguy hiểm trở về Hà Nội bằng đường lộ dọc ven biển vào ban đêm. Nếu so với chuyến đi lần trước, khi tôi đến Huế lần đầu thì lúc này Mỹ dội bom thường xuyên hơn. Mới đây Bộ Trưởng Y Tế trong chánh phủ đã tử nạn trên đường vào Hà Nội.
Ở Huế tình hình đã thay đổi rất nhiều. Tôi có nói chuyện với ông chú tôi về những lời dặn dò của ông Trương Tử Anh, nhưng hình như tâm tư của ông hãy còn ở những vấn đề nào khác. Theo tôi thấy thì có lẽ ông không màng gì đến chuyện tranh chấp quyền lực trong tương lai. Ngược lại, ông đã nghe về Việt Minh và đang tự hỏi xem thật sự họ có phải là nhóm người lãnh đạo hữu hiệu nhất cho quốc gia vào những ngày khó khăn sắp tới hay không? Ông bảo tôi rằng hình như đảng Việt Minh đã được Hoa Kỳ ủng hộ. Nếu đúng như vậy thật,” ông nói tiếp “thì ta vui lòng nhượng quyền cho họ.”
Lẽ tất nhiên là ông chú tôi đã nghe được những lời tuyên truyền của Việt Minh về những liên hệ giữa họ và Hoa Kỳ. Ông Hồ đang lợi dụng sự liên lạc giữa ông và một đội nhân viên của Văn Phòng Hoạt Vụ Chiến Lược (tiền thân của Cục Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ) đã nhảy dù xuống khu vực của Việt Minh vào tháng trước đây, để thuyết phục cả bạn lẫn thù rằng ông đã được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Rõ ràng là Hoa Kỳ đã có một tiếng nói rộng lớn ảnh hưởng đến tương lai Việt Nam. Không phải chỉ riêng ông chú tôi mà gần như tất cả các lãnh tụ khác cũng đều tin rằng bất kỳ nhân vật nào được Hoa Kỳ hậu thuẫn cũng sẽ là người tốt nhất nên đứng vào cương vị hướng dẫn quốc gia sau thời loạn lạc. Tuy các lãnh tụ khác không hẳn cùng
có tư tưởng Khổng giáo như ông chú tôi nhưng vẫn cho rằng tất cả đều cùng đặt quyền lợi quốc gia lên trên tất cả vì dẫu sao họ cũng là người Việt.
Vào ngày mùng 6 tháng 8 năm 1945, tôi vẫn ở Huế khi Hoa Kỳ dội quả bom nguyên tử đầu tiên ở Hiroshima và ba ngày sau, một trái khác ở Nagasaki. Tin tức tường thuật cho biết hàng trăm ngàn người chết ngay tại trận. Một tuần sau thì có tin Nhật đầu hàng đồng minh. Ở Huế tình hình chẳng những đã cực kỳ sôi sục, mà còn rối ren mù mịt. Vì chưa sửa soạn kỹ lưỡng để nắm quyền, khi định mệnh xô ngã Nhật, chánh quyền của ông chú tôi hoàn toàn bỡ ngỡ, không biết phải hành động ra sao. Ngược lại, ông Hồ Chí Minh vào lúc đó đã có chủ trương rõ rệt trong vấn đề tiến lên nắm lấy chính quyền. Chỉ trong vòng vài ngày, cụ Kim đã phải đương đầu với cái mà, theo như sự lấp liếm khéo léo của Việt Minh thì là “một sự đã rồi.”
Khi Nhật đã hoàn toàn đầu hàng, Hà Nội trở nên ồn ào vì biểu tình và hội họp của các đám đông do Việt Minh tổ chức. Mọi người đều đổ về thủ đô từ những vùng lân cận, kéo về để hoan hô độc lập. Trong tình cảnh Nhật chẳng đang rối ren, Pháp đang vắng mặt và chưa có sự hiện diện của quân đồng minh, Hà Nội thực sự là một khoảng trống chính trị. Khâm sai Phan Kế Toại, đại biểu cho chánh quyền Trần Trọng Kim đã nhìn đám đông với đôi mắt ơ hờ rồi nghe theo lời con trai là một người vốn đã theo Việt Minh từ trước tuyên bố từ chức. Lúc này những tiểu tổ của Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn còn thiếu tổ chức, không đủ sức chống lại những đội tuyên truyền được vũ trang, những Hội Đồng Cách Mạng và hàng trăm cán bộ chính trị mà Việt Minh đưa ra để tranh thủ cảm tình của dân chúng.
Ngày 17 tháng 8, một đám đông tụ tập tại Nhà Hát Lớn Hà Nội để cổ võ chánh quyền Trần Trọng Kim. Nhưng những người tổ chức biểu tình hoàn toàn bất lực khi các đội vũ trang của Việt Minh đứng ra chiếm lấy diễn đàn. Những toán vũ trang đã tung cờ Việt Minh, hô hào đả đảo “chánh phủ bù nhìn” và đồng thời kêu gọi mọi người đứng lên “chống lại các lực lượng Phát–Xít.” Vào ngày 18, Việt Minh
mang thêm đảng viên vào thành phố. Khi chẳng còn ai chống đối Việt Minh phát động chiến dịch tuyên truyền tối đa để kêu gọi dân chúng. Các đảng viên Việt Minh cố hướng dẫn, lợi dụng triệt để những cảm tình phát xuất từ nhiệt tâm của toàn dân. Giữa tiếng reo hò khắp các nẻo đường, những người đọc diễn văn tuyên bố chính phủ Trần Trọng Kim là những người nối giáo. Họ kêu gọi liên tục rằng chính Việt Minh mới là đại biểu chân chính của quốc gia đã giành lại được chính quyền từ tay quân Phát–Xít Nhật, chỉ có chánh quyền Việt Minh mới được Hoa Kỳ ủng hộ. Tình hình căng thẳng gần đến độ nổ tung. Vào ngày 19, đám đông tụ họp tại công trường Ba Đình, rồi diễn hành đến chỗ cư ngụ của các công chức chánh phủ gần chỗ Phủ Đại Biểu, nơi làm việc của đại biểu cũ giờ đã từ chức. Chiều đó, Nhật đã hứa không can thiệp và những người lính tự vệ thành đã được lệnh giải tán. Lúc này lại có tin rằng ông Bảo Đại đã nhận được điện tín yêu cầu thoái vị.
Vào ngày 19, cụ Trần Trọng Kim từ chức thủ tướng. Mới đầu, khi nghe tin các biến cố ở Hà Nội, cụ Kim có cảm giác vui buồn lẫn lộn. Cụ buồn vì tình trạng của mình sau cuộc đảo chánh của Việt Minh, nhất là khi cụ đã vui lòng giao lại chính quyền trong một khuôn khổ hợp pháp, thứ tự. Tuy vậy, cụ không muốn làm điều gì hại đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, và ông tin rằng Việt Minh thật sự được Hoa Kỳ ủng hộ. Cụ không hề biết tí gì về những hoạch định áp đặt ý thức hệ cách mạng lớn lao của Việt Minh. Điều cụ không biết cũng là điều mà hầu hết những người Việt Nam diễn hành dưới lá cờ Việt Nam qua đường phố Hà Nội cũng chẳng hề hay biết.
Tuy thế sau khi cụ Kim đã quyết định thì tất cả những cảm giác vui buồn lẫn lộn đều hoàn toàn biến mất. Cụ đã nói với tôi rằng: “Giờ chú hoàn toàn vui mừng như xưa, sẽ có người khác phải gánh trách nhiệm. Thật là nhẹ nhàng vô cùng. Giờ ta lên đường.”
Vài ngày sau ông chú tôi cùng một số Bộ Trưởng khác cùng về một làng đánh cá nhỏ ở Vĩ Dạ để xem xét tình hình. Tôi cũng đi cùng. Lúc này, quyền hạn chánh phủ đã bị hủy bỏ hoàn toàn. Ngoài Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng, chẳng còn thế lực nào khác có thể đương đầu với đảng Việt Minh của ông Hồ Chí Minh.
Ngày 21 tháng 8, tại Hà Nội, từng loạt hội thảo do Việt Minh cầm đầu đưa ra những giải pháp đòi hỏi ông Bảo Đại phải thoái vị. Lời đòi hỏi quan trọng nhất đến từ Tổng Hội Sinh Viên lúc này đang chịu nhiều ảnh hưởng của những phần tử thân Việt Minh. Một phần là vì muốn đặt lợi ích của toàn thể quốc dân lên trên hết, và một phần khác cũng là vì chẳng còn cách nào khác hơn, Bảo Đại đánh điện trả lời rằng ông đang sửa soạn từ chức. Vào ngày 26 tháng 8, khi một phái đoàn Việt Minh đã đến Huế thì Bảo Đại chánh thức từ chức nơi điện vua ngay giữa cố đô. Ông tuyên bố rằng: “Thà làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
Ba ngày sau chánh phủ lâm thời của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời. Thành phần chánh phủ lâm thời bao gồm nhiều cán bộ nòng cốt của Việt Minh, nhiều Bộ Trưởng có quá khứ Cộng Sản chưa lộ rõ và một số các đảng viên của những đảng khác. Hiển nhiên lúc này các lãnh tụ Việt Minh đang cố lợi dụng cảm xúc của toàn dân trong ngày thống nhất, nhưng những hoạt động của họ ở Vĩ Dạ vẫn khiến tôi cảm thấy khó chịu vô cùng. Tất cả làng xóm lúc bấy giờ đều được Ủy Ban Nhân Dân dẫn dắt. Ủy Ban Nhân Dân đốc thúc hội họp liên miên và đánh trống kêu gọi mọi người giúp đỡ chánh quyền mới. Tôi cảm thấy khó chịu vì giọng kêu gọi có vẻ bắt buộc và những cuộc biểu tình thường có tính cách lợi dụng tình cảm của người trong làng. Vào ngày 2 tháng 9, ông Hồ đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập tại Hà Nội. Tuy có đến xem dân làng tụ họp, ca hát, tôi chẳng hề có cảm tình nồng nàn đối với chánh phủ lâm thời cùng những Ủy Ban Nhân Dân do chánh phủ lâm thời đề ra. Lúc này tôi bỗng cảm thấy rằng dường như cơ hội ngàn năm đã thực sự vuột mất và cũng ngay trong lúc này tôi đã mơ hồ cảm thấy có điềm gì đen tối đang giăng mắc trên không.
Chương 6
Anh, Tàu, và Pháp
Vài ngày sau ông chú tôi cho phép tôi về Hà Nội. Lúc tôi đến nơi thì tình hình chính trị đã biến thành rắc rối, phức tạp. Mặc dầu thế chiến thứ II đã chấm dứt, lúc này vẫn còn một lực lượng quân đội Nhật rất hùng hậu đóng ở Việt Nam. Quân đội đồng minh đã chỉ định Anh Quốc đứng ra tước vũ khí Nhật và giữ gìn an ninh công cộng ở Miền Nam Việt Nam. Ở Miền Bắc những công việc giải giới tương tự được giao cho Trung Hoa.
Đối với tôi và các đảng viên khác trong đảng Đại Việt thì đây chính là lúc củng cố, tổ chức, dự đoán và sửa soạn cho một tương lai mà ai cũng phải thấy là đầy sóng gió. Các đảng phái quốc gia thấy rằng họ phải đề ra một chiến lược chung, để đối phó với chiến lược của Việt Minh. Lúc này Việt Minh đã biết vận động khéo léo để nắm chính quyền. Nhưng ngay trước khi các buổi thảo luận bắt đầu thì có tin đồn là quân Anh đã cho phép một đạo quân Pháp đổ bộ vào Sài Gòn. Khoảng giữa tháng 9 đã có những trận đụng độ xảy ra giữa Pháp và Việt Nam. Pháp đã đụng độ với cả Việt Minh lẫn các đảng phái Quốc Gia. Trong khi đó thì quân Trung Hoa sắp kéo sang Hà Nội. Tình hình phức tạp của thế giới sau thế chiến thứ hai đã khiến các đảng phái quốc gia ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Lúc này quân đội đồng minh bao gồm Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp đã đánh bại quân đội Phát Xít của Đức, Ý và Nhật. Họ đang cử những quốc gia khác chẳng hạn như Trung Hoa sang Việt Nam để giải giới quân đội Nhật. Vì Pháp là đồng minh của Anh và Hoa Kỳ trong thế chiến thứ II nên các phần tử quốc gia ở Việt Nam sợ rằng Hoa Kỳ và Anh sẽ ủng hộ hoặc nhắm mắt làm lơ cho chính quyền thực dân của Pháp được tự do hoạt động ở Việt Nam. Tuy thế, khi có tin rằng quân đội Tàu sẽ sang Việt Nam để giải giới quân đội Nhật thì các phần tử quốc gia lại lo rằng Tàu sẽ lợi dụng cơ hội này để đem quân sang chiếm đóng ở Việt Nam. Đó là còn chưa nói đến vấn đề các đảng phái quốc gia cần phải đề phòng Việt Minh.
Chỉ mới sau hai tuần nắm chánh quyền, Việt Minh đã phải động viên kêu gọi tất cả cùng giúp đỡ. Trong hoàn cảnh lãnh đạo chưa hoàn toàn vững chãi và đồng thời bắt buộc phải đương đầu với Nhật, Tàu, Pháp và Anh Quốc, ông Hồ Chí Minh đã nỗ lực kêu gọi tất cả các đồng minh và cố giữ lòng dân ở một mức độ cực cao. Những cuộc hội họp chống đối làm đường phố Hà Nội sôi sục. Đã đành rằng biểu tình chống Pháp là một cách để phát tiết những căm hờn sâu xa, nhưng ông Hồ đã cố khích động dân chúng dưới mọi hình thức. Những vận động của ông Hồ bất chấp cả mục tiêu, chỉ cốt sao tạo được cơ hội vận động dân chúng cùng đoàn kết cho một lý tưởng chung. Đã có cả một cuộc biểu tình chống lại lãnh tụ độc tài Francisco Franco của Tây Ban Nha, mặc dầu trong cả trăm ngàn người Việt chưa chắc đã có lấy một người nghe đến tên nhân vật này bao giờ.
Trong khi tất cả Pháp, Trung Hoa, Nhật và Anh Quốc đều bị Việt Nam nghi ngờ thì chỉ có một quốc gia được hoan nghênh là Hoa Kỳ. Cảm tình nồng nhiệt của dân chúng Việt Nam đối với người Hoa Kỳ lúc này phát xuất là do một tia hy vọng mong manh rằng: May ra người Mỹ có thể vãn hồi được tình thế. Kể từ khoảng một năm về trước, mối cảm tình đầu tiên của Việt Nam đối với Hoa Kỳ bắt đầu từ lúc có tin đồn rằng tổng thống Roosevelt ủng hộ việc đặt Việt Nam dưới sự quản trị của một ủy ban của Liên Hiệp Quốc để tiến dần tới độc lập. Quan niệm của Tổng Thống Roosevelt truyền đi thật mau lẹ qua các tầng lớp trí thức, chính khách và để lại một ấn tượng sâu xa.
Trong khi Pháp và Tàu đang tranh dành ảnh hưởng ở Việt Nam, chỉ có Hoa Kỳ là một thế lực có thể can thiệp. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã xuất hiện như một cường quốc giàu mạnh, được thế giới xem là một nước yêu chuộng tự do và không ủng hộ chế độ thực dân. Chúng tôi không hiểu tại sao Hoa Kỳ lại để cho Pháp và Tàu vào Việt Nam. Nhưng chính Hoa Kỳ lại cũng có đại biểu riêng của họ ở Việt Nam. Vì vậy sự hiện diện của họ đã mang lại niềm hy vọng lớn lao là Hoa Kỳ có chú ý đến vấn đề Việt Nam. Và một khi họ đã để ý đến vấn đề thì họ có thể bị lôi kéo vào cuộc. Tuy đây quả là một nguồn hy vọng vô căn cứ nhưng tin đồn lúc này vẫn có đủ vẻ thực tế
để thu hút những kẻ đang cố bám vào hy vọng. Quả tình chính tôi cũng không hiểu rõ liệu ông Hồ và những đồng chí của ông có thật sự cho rằng họ có thể cộng tác với Mỹ hay không, nhưng chắc chắn là lúc đó ông Hồ rất muốn cộng tác với Mỹ thay vì với Tàu hoặc Pháp. Vả chăng, nếu Việt Minh không thể cộng tác với Hoa Kỳ thì ít ra ông Hồ cũng có thể dùng sự hiện diện của Mỹ để gây uy tín trong nước. Lẽ tất nhiên là cơ quan tuyên truyền của Việt Minh đã lợi dụng tối đa tất cả những thiện cảm phái đoàn Mỹ dành cho họ. Hai vị sĩ quan Mỹ được nhiều người biết đến là Thiếu Tá Archimedes Patti và Tướng Phillip Gallagher lúc này chẳng những đã được toàn thể dân chúng Hà Nội ngưỡng mộ mà còn được chánh quyền ông Hồ tâng bốc không tiếc lời. Oái ăm thay, trong một thành phố đầy dẫy những bích chương và khẩu hiệu chống đế quốc, hình ảnh chiếc xe díp của Thiếu Tá Patti cắm ngọn cờ Mỹ thường xuyên được những đám người ngưỡng mộ hoan hô. Dân chúng Hà Nội chỉ muốn gặp và chiêm ngưỡng hai vị đại biểu Hoa Kỳ.
Những cán bộ tuyên truyền cho Việt Minh lúc đó tuyên truyền rằng ông Hồ và Võ Nguyên Giáp đang điều đình với người Mỹ, cốt để được chánh phủ Mỹ chánh thức công nhận. Hội Hữu Nghị Việt–Mỹ được thiết lập và nhiều buổi tiếp tân của Hội Hữu Nghị đã biến thành những dịp tung hô hai ông Patti và Gallagher. Tôi vẫn còn nhớ những lá cờ đỏ, trắng và xanh dùng làm màn cho sảnh đường của Hội Hữu Nghị. Hy vọng tỏa ra qua các buổi họp chỉ nhờ sự hiện diện của hai vị sĩ quan Hoa Kỳ. Trong bộ đồng phục cả hai trông thật đẹp trai và lịch sự. Mọi người, trong số có cả tôi đều nô nức đến bắt tay. Trong những buổi họp luôn luôn có những cuộc đàm thoại vây quanh vấn đề thiết lập một Ủy Ban Quản Trị cho Việt Nam. Mặc dầu cả Thiếu Tá Patti lẫn tướng Gallagher đều chẳng nói gì thiết thực, chuyện đó vẫn không thành vấn đề. Chỉ cần sự hiện diện của họ cũng đã đủ để mọi người lên tinh thần.
Trong những ngày này, Việt Nam thật chẳng khác nào một cô gái quê mùa bị những người chủ gian ác, bất cần liên tục hà hiếp. Pháp, Nhật và Tàu đều ngược đãi cô ta. Rồi trong lúc đang đau khổ tuyệt vọng, bỗng một hoàng tử hào hoa và đẹp trai hiện ra. Đối với Việt Nam thì Hoa Kỳ quả là một tiếng sét ái tình.
Chẳng may, tình yêu này lại không bao giờ được đền đáp. Mặc dù thiếu tá Patti rất ngưỡng mộ các lãnh tụ Việt Minh, và mặc dầu những lãnh tụ này cố khoa trương sự chú tâm của Hoa Kỳ, rõ ràng sự móc nối với Hoa Kỳ vẫn hoàn toàn chẳng đi đến đâu. Vì lý do này hay lý do khác, Hoa Thịnh Đốn đã khoanh tay nhất định không làm bất cứ điều gì có thể thay đổi các biến cố đang ngày càng biến hóa và phức tạp tại Việt Nam. Ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chỉ phải bận tâm đương đầu với Tàu và Pháp, trong khi đó các đảng phái còn lại phải lo âu về những toan tính của cả Pháp, lẫn Tàu và Việt Minh.
Vào cuối tháng 9, quân đội Trung Hoa kéo vào Hà Nội. Trông họ thật là thê thảm — bệnh hoạn, rách rưới và đói kém vì thiếu ăn. Nếu quân Nhật trông gọn gàng, sạch sẽ bao nhiêu thì quân đội Tàu trông càng giống một đội quân ăn cắp bấy nhiêu. Lúc nào những binh sĩ Tàu cũng sẵn sàng vồ vập kể từ cả những thứ vặt vãnh nhất trở đi. Chẳng bao lâu sau, đúng như mọi người tiên liệu, quân đội Tàu ùa vào Việt Nam như thể một bầy châu chấu đói và ăn cắp bất kỳ thứ gì để hở.
Quân Tàu đến ồ ạt, làm gia tăng nạn đói đã hoành hành ở miền Bắc kể từ năm trước. Nạn Nhật tịch thu lúa gạo cộng thêm với những vụ mất mùa liên tiếp đã khiến nạn đói hoành hành dữ dội ở những vùng đồng bằng Bắc Việt. Vào mùa thu năm 1945, nạn đói trở thành trầm trọng. Ở Hà Nội, nông dân từ những vùng mất mùa lang thang khắp các nẻo đường phố. Xác người chết đói nằm đầy dẫy hai bên vỉa hè và ở các ngã tư. Tại Đông Dương Học Xá, chúng tôi chia thành từng toán ra thành phố mỗi sáng phụ giúp dọn dẹp những xác chết còn sót lại từ ngày hôm trước.
Tuy hoành hành ở khắp mọi nơi khốc liệt là thế mà nạn đói vẫn chẳng hề làm giảm bớt các hoạt động chính trị chút nào. Mỗi ngày Việt Minh vẫn dục trống kêu gọi hội họp vì chuyện này hay chuyện khác. Khi ngân khố hoàn toàn kiệt quệ, Việt Minh tổ chức chiến dịch Tuần Lễ Vàng, thúc dục mọi người đóng góp nhẫn, đồ trang sức và vàng cho nhà nước. Chỉ một thời gian ngắn ngay sau khi Tuần Lễ Vàng phát động, ông Hồ Chí Minh đã xoa dịu tướng Lư Hán của Tàu
bằng cách biếu vị tướng nghiện thuốc phiện này một bộ ống điếu vàng. Số tiền còn lại Việt Minh dùng để mua súng ống.
Song song với việc xoa dịu quân đội Trung Hoa, ông Hồ tiếp tục nỗ lực hô hào dân chúng giúp đỡ Việt Minh. Đối với ông Hồ và Võ Nguyên Giáp thì sinh viên đứng vào thành phần ưu tiên. Cả hai đều dành thời giờ thăm viếng Đông Dương Học Xá để vận động lấy lòng sinh viên. Một buổi tối, khoảng đầu tháng 10–1945, tôi gặp ông Võ Nguyên Giáp khi ông vào khuôn viên nói chuyện về cách mạng và các biến cố tháng tám. Vì đã biết chuyện Việt Minh lật lọng đối với chính quyền Trần Trọng Kim và còn nhớ những Ủy Ban Nhân Dân ở thôn Vĩ Dạ, tôi không hề để tâm lắng nghe. Mặc dầu vậy, tôi rất hân hoan khi gặp lại ông Giáp. Sau khi ông Giáp đã nói chuyện, tôi có đến chào hỏi. Chúng tôi chưa hề gặp nhau đã năm năm qua kể từ ngày ông Giáp bỏ lớp vào bưng.
Sau đó không bao lâu, chính ông Hồ lại đích thân đến thăm Đông Dương Học Xá. Đây là lần đầu mà cũng là lần cuối tôi gặp ông Hồ. Cũng như ông Giáp, ông Hồ đến Đông Dương Học Xá vì các sinh viên đã không hoàn toàn ủng hộ việc Việt Minh cướp chính quyền. Trong số người hoan nghênh ông Hồ dĩ nhiên cũng có vài lãnh tụ sinh viên vốn đã là đảng viên Việt Minh. Tuy vậy cũng có rất nhiều sinh viên khác không tán thành hẳn những chủ trương cùng hành động của ông Hồ.
Khi ông Hồ đến thăm Đông Dương Học Xá thì hành trình thăm viếng của ông có ghé ngang nhiều tòa nhà, kể cả tòa nhà nội trú. Một học sinh ở cùng một dãy hành lang với tôi, tôi còn nhớ tên là Hoan, là người không có cảm tình với đảng phái ông Hồ, đã cố tâm làm nhục ông Hồ. Tôi cứ nhớ mãi câu chuyện khó quên. Khi ông Hồ vừa bước vào căn nội trú của chúng tôi thì Hoan vào phòng tắm. Và khi vị chủ tịch của nền dân chủ mới bước vào hành lang thì cửa phòng tắm bỗng sịch mở. Hoan đứng ngay chỗ cửa, người hoàn toàn trần truồng và ướt nhẹp. Giả vờ vừa xấu hổ, vừa ngạc nhiên Hoan làm như bối rối, xoay qua xoay lại, cố gắng vừa đắp điếm một cách thô kệch vừa xin lỗi.
Nhưng Hoan hoàn toàn thất bại. Ông Hồ nhìn thẳng vào Hoan cười tủm tỉm: “Các chú thì lúc nào cũng đùa cợt được!” Tôi cũng đứng đó, chỉ cách ông Hồ vài bước, quan sát thật kỹ lưỡng. Trước mắt tôi, ông Hồ, vị chủ tịch của một nước không hề có vẻ giả dối chút nào. Sau đó, ông đến tận từng phòng, tự giới thiệu, bắt tay mọi người bằng cử chỉ thân mật quen thuộc. Gặp ai ông cũng có vài câu chuyện hỏi thăm. Chẳng có chuyện nào đặc biệt hoặc đáng nhớ cả. Nhưng tôi có cảm tưởng là ông là một người đóng kịch có tài. Quả thực ông là một chính trị gia và đặc biệt hôm ấy ông đã đóng kịch rất giỏi.
Vào khoảng tháng 11, chẳng bao lâu sau khi quân Tàu kéo đến, tôi từ giã bạn bè ở Hà Nội và ngược lên mạn Bắc về phía Lào Kay để gia nhập trại huấn luyện quân sự của Đại Việt. Việc mà tôi đã phải hoãn lại trước đây khi tôi vào Huế. Lúc này, khi nhận thấy cùng bị Việt Minh đe dọa, các đảng phái quốc gia đã bắt đầu biết đâu lưng để củng cố lực lượng. Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng liên kết quân sự và đã thiết lập trường huấn luyện quân sự chung tại Chapa ở Lào Kay.
Lạ lùng thay, những huấn luyện viên quân sự lại là người Nhật. Bị quân đội Trung Hoa tước vũ khí, đã có vài quân nhân Nhật đến làm việc cho các đảng phái quốc gia. Khi đi họ mang theo cả vũ khí. Tất cả những vũ khí dùng ở Lào Kay đều là của Nhật. Đây là một trong những lúc mà tôi phải gạt phắt mọi sự để thật sự khép mình vào quân kỷ của Nhật.
Những sĩ quan Nhật trông coi việc tổ chức trại đều mặc đồng phục Nhật, nhưng không hiểu vì lý do gì đã lấy tên hoàn toàn Việt Nam. (Không có sĩ quan Nhật nào nói được tiếng Việt. Mọi mệnh lệnh đều được truyền qua thông dịch viên.) Vị Đại Tá chỉ huy người Nhật có bí danh là Hùng. Ông ta ngỏ lời chào 300 sinh viên quân sự như sau: “Chúng tôi đến đây để giúp người Việt các anh trở thành những người lãnh đạo nước Việt. Tuy rằng chúng tôi đã mất tất cả, chúng tôi sẽ huấn luyện các anh. Sau khi tốt nghiệp khóa huấn luyện các anh sẽ trở thành những võ sĩ đạo Việt Nam.”
Cuộc huấn luyện võ sĩ đạo bắt đầu vào ngày hôm sau. Kể từ sáng đó, chúng tôi bị gọi dậy bằng tiếng còi xé tai xuyên qua không khí núi rừng lạnh lẽo. Trên thao trường chúng tôi đứng nghiêm, chăm chú nhìn lá cờ hai màu trắng, xanh của VNQDĐ được kéo lên cao. Sau đó, quay về hướng mặt trời đang lên, chúng tôi cúi đầu thầm ôn lại những điều tâm niệm đối với quốc gia.
Mặc niệm xong, chúng tôi ráo riết tập luyện thể dục trong nửa giờ, bắt đầu một ngày dài diễn hành, tập luyện xử dụng vũ khí rồi cuối cùng học tập chiến thuật và chiến lược. Chương trình tập luyện kéo dài sáu tháng. Khi chương trình tập luyện hoàn thành Đại Việt và VNQDĐ sẽ có một nhóm cán bộ để thiết lập và dìu dắt quân đội chung cho cả hai đảng. Tuy vậy, chẳng có bao nhiêu người trong chúng tôi học hết được chương trình huấn luyện. Biến cố đã không cho phép những người quốc gia có đủ thời gian rảnh rỗi để đào luyện những người lãnh đạo cần thiết. Riêng tôi phải về lại Hà Nội vào tháng hai năm ấy, ngay sau Tết Nguyên Đán.
Ông Trương Tử Anh gọi tôi về để giao phó một nhiệm vụ đặc biệt trước khi về Hà Nội. Tôi đoán được rằng thế nào việc cũng sẽ liên quan đến chú tôi. Quả nhiên những tiên đoán của tôi hoàn toàn đúng hẳn. Khoảng ba, bốn tuần sau khi từ chức, chú tôi đã trở về căn nhà trước kia tại Hà Nội. Mặc dầu kể từ khi từ chức, chú tôi chưa hề tham gia chính trị một cách lộ liễu, nhưng vì là cựu Thủ Tướng nên ông đã trở thành hấp lực của phong trào chống cộng. Về phía Việt Minh thì vì đang cần có sự hợp tác của các phần tử quốc gia trong giai đoạn đó nên họ đã nhắm mắt làm ngơ và chưa có hành động gì để đối phó với ông chú tôi.
Ông chú tôi lúc này đã thay đổi nhiều và về phương diện chính trị có lẽ đã bắt đầu hiểu cộng sản rõ hơn lúc trước. Khoảng tháng 7, có lúc ông đã nghĩ rằng Việt Minh có thể giúp được nhiều vào việc lấy lại độc lập cho đất nước. Tháng tám, ông từ chức sau cuộc nổi dậy chớp nhoáng của Việt Minh. Rồi đến tháng chín thì gần như ở vào một tình trạng không còn ảo vọng gì về Việt Minh nữa. Ông dần dần để ý đến những lời thuyết phục của ông Trương Tử Anh, nhất là về vấn đề phải gây một lực lượng để đối phó với Việt Minh Cộng Sản.
Ông đã để ý lắng nghe kỹ lưỡng dự tính đối lập Việt Minh của ông Trương Tử Anh. Nhất là khi ông Anh đề cập đến vấn đề phải mượn thêm thế lực hậu thuẫn từ bên ngoài.
Chiến lược của ông Trương Tử Anh lúc đó có thể gồm trong hai điểm cơ bản. Một mặt ở trong nước, ông và các đồng minh bên trong VNQDĐ sẽ nỗ lực thiết lập một hệ thống quân sự vững mạnh (Như trại huấn luyện quân sự Lào Kay). Còn ở ngoài nước thì ông cố gắng tìm thêm sự ủng hộ từ phía bên ngoài. Việc này ông chú tôi có thể giúp sức. Vì đã từng đứng đầu chính phủ, ông chú tôi được nhiều nhân vật quốc tế biết đến. Ông lại còn có tiếng là người liêm khiết. Những lợi điểm vừa kể sẽ khiến ông chú tôi trở thành một nhân vật có thể đứng ra kêu gọi đồng minh nước ngoài ủng hộ. Vì đã hiểu rõ được những mánh khoé cách mạng của ông Hồ, ông chú tôi cảm thấy lãnh tụ Đại Việt có thể là một đồng minh đáng tin cậy. Và cũng vì vậy, ông Trương Tử Anh gọi tôi về để nhờ tôi tìm đường để đưa ông chú tôi sang Hồng Kông.
Trong khi đó thì ông Bảo Đại cũng trải qua một giai đoạn trưởng thành chính trị tương đương. Chính ông Bảo Đại cũng đã từ chức vì áp lực của Việt Minh, từ bỏ ngôi vua để trở thành một thường dân. Câu tuyên bố: “Thà là dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ.” là một hành động cao thượng và đáng nhớ. Liền ngay sau khi ông Bảo Đại từ chức ông Hồ đã chứng tỏ kinh nghiệm lão luyện chính trị bằng cách đích thân mời ông Bảo Đại về Hà Nội làm “cố vấn tối cao” cho chánh quyền Việt Minh. Khi mời cố vấn Vĩnh Thụy về cùng hợp tác, ông Hồ đã lợi dụng được triệt để tất cả những gì mà ông có thể lợi dụng. Khi mời ông Bảo Đại chẳng những đã mang lại cho ông Hồ hình ảnh tốt đẹp của một lãnh tụ không mang tâm hiềm khích mà còn khiến cho dân chúng tin tưởng rằng chánh quyền của ông đã được Cựu Hoàng ủng hộ. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả là một khi ông Bảo Đại đã chấp thuận về cùng thì việc giám sát và quản cố Cựu Hoàng trở nên dễ dàng như trở bàn tay. Một khi đã về Hà Nội chắc chắn Cựu Hoàng không còn cơ hội để ủy thác quyền hành cho bất kỳ đảng phái nào khác.
Khi về Hà Nội ông Bảo Đại được các lãnh tụ Việt Minh tiếp đãi thập phần kính trọng. Tuy thế sự kính trọng vẫn chẳng thể làm cho ông Bảo Đại quên được rằng ông đã bị Việt Minh lợi dụng.
Khoảng đầu năm 1946, ông Bảo Đại đã dần dần tìm cách cắt đứt mọi liên lạc với Việt Minh và đang cố tìm một lối thoát thân. Ngay trong lúc này ông Hồ cũng có vẻ chấp thuận sự ra đi của Cựu Hoàng. Có lẽ một phần là do Cựu Hoàng đã đóng hết vai trò chính là Hợp Thức Hóa chánh phủ Việt Minh. Chẳng hiểu ông Hồ suy nghĩ thế nào mà lại để cho ông Bảo Đại có cơ hội dẫn đầu một phái đoàn đại biểu đến Trung Hoa. Có thể ông Hồ đã nghĩ rằng ông Bảo Đại sẽ ở lại Trùng Khánh, (lúc bấy giờ là thủ đô Trung Hoa.) Một khi ông Bảo Đại đã ở lại thì ông Hồ chẳng cần phải lo toan gì nữa.
Khi có lời đồn về việc ông Bảo Đại sắp sang Trung Hoa thì ông Trương Tử Anh quyết định đã đến lúc thời cơ chín mùi để đưa ông chú tôi sang Trung Hoa. Đây là nhiệm vụ tôi được ông Anh giao phó khi ông cho lệnh vời tôi từ trên Chapa trở về.
Mặc dầu ông chú tôi chưa bị Việt Minh đe dọa, cuộc chiến tranh ngấm ngầm giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia đã trở thành những cuộc tàn sát. Vào khoảng cuối năm, Việt Minh đã tổ chức ám sát nhiều người mang khuynh hướng chính trị đối lập. Trong số những người đối lập đã bị Việt Minh ám sát lúc này có lãnh tụ Huỳnh Phú Sổ của Hòa Hảo ở Miền Nam; lãnh tụ Đệ Tứ Cộng Sản Tạ Thu Thâu, ông Ngô Đình Khôi, anh của tổng thống Ngô Đình Diệm và học giả Phạm Quỳnh, Thượng Thư của Triều Đình cũ. Trong số những bạn thân của tôi nhiều người cũng lần lượt mất tích. Quản Trọng Ưng và Đặng Vũ Chu ở trường thuốc bị Việt Minh bắt rồi sau đó biệt vô âm tín. Nhiều người bạn của tôi ở trường đại học, trong đó có hai anh em là Đặng Văn Bút và Đặng Văn Nghiên và nhiều người khác bị bắn gục ở Yên Bái. Người bạn giới thiệu tôi với ông Trương Tử Anh là Phúc cũng bị hạ sát tại Hà Nội. Hàng loạt đảng viên Đại Việt lần lượt bị tàn sát. Một đôi khi còn tìm được thi thể. Phần nhiều hoàn toàn mất tích.
Trong khi khủng bố bí mật lan rộng thì ông Hồ vẫn liên tiếp thương thảo mềm dẻo với Pháp và Tàu. Đã nhiều tháng qua toàn bộ Miền
Nam đắm chìm trong chiến tranh du kích. Quân đội Anh với quân số nhỏ nhen chiếm đóng trong nước đã cho Pháp mang quân đội vào Việt Nam. Lúc này đã có rất nhiều thành phố và các tỉnh lớn nằm trong tay Pháp, trong khi các lực lượng chống cự Việt Nam bị đẩy lui về các miền đồng bằng và các căn cứ hiểm trở. Ở phân nửa miền Bắc Việt Nam, 200,000 quân Trung Hoa đang chiếm đóng đã ngăn chận mưu toan trở lại của Pháp. Nhưng vào khoảng cuối tháng hai, có tin rằng đại biểu của Pháp và Tàu đang đàm phán việc cho phép Pháp trở lại miền Bắc để đổi lại việc Pháp sẽ hủy bỏ các điều khoản nhượng bộ ở Tàu trước chiến tranh.
Ông Hồ hiểu rằng tình thế sẽ bắt buộc ông phải trực tiếp đương đầu với Pháp. Quân đội chiếm đóng Trung Hoa đã góp phần tiếp trợ ông Hồ, cho Việt Minh gần 6 tháng để củng cố lực lượng. Sự hiện diện của quân đội Trung Hoa đã buộc Pháp không thể vào Miền Bắc — Đây là một việc mà tại Miền Nam người Anh đã thất bại hoàn toàn. Nhưng thực sự thì sự liên hệ giữa ông Hồ và người Tàu chẳng khác nào con dao hai lưỡi. Nói chung thì vì Việt Nam đã từng bị Tàu đô hộ suốt 1000 năm nên những mưu đồ tối hậu của Tàu không thể che mắt được bất cứ người Việt Nam nào. Và nói riêng thì vì những quân đội Tàu sang giải giới Nhật là quân đội của Tưởng Giới Thạch nên họ đã cấp dưỡng viện trợ và khích lệ những đối thủ của ông Hồ như VNQDĐ và Đại Việt.
Kết quả là vào tháng 2 năm 1946, ông Hồ mở cuộc đàm phán với đại biểu Jean Sainteny của Pháp. Về phía những người quốc gia, mặc dầu không mấy ai hiểu tường tận những chi tiết của vấn đề nhưng tất cả đều biết đàm phán hiện đang tiến hành. Tất cả đều căm phẫn ông Hồ vì việc đàm phán và đồng cảm thấy cực kỳ phẫn khích khi biết Pháp sẽ lại một lần nữa quay lại Việt Nam. Tuy các đảng phái quốc gia không thể trách móc việc Tàu rút quân, việc rút quân của Tàu vào giữa lúc các đảng quốc gia hãy còn đang củng cố lực lượng đã làm tất cả rúng động. Nguyên khi quân đội Tàu đóng ở Hà Nội để giải giới Nhật thì cả Việt Minh lẫn Pháp đều phải e dè sự hiện diện của họ. Lúc này, khi quân đội Tàu rút đi thì hàng rào chống đỡ vô hình đó bỗng bi rút đi và các đảng quốc gia bỗng nhiên thấy họ phải trực diện với các lực lượng của Việt Minh và Pháp.
Khoảng tháng 6, ông Hồ và Sainteny cùng ký một thỏa ước. Trong bản hòa ước ký kết, Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do độc lập “nằm trong khối liên hiệp Pháp” để đổi lại, Việt Nam đồng ý để cho người Pháp chiếm đóng có sự hiện diện quân sự tại một vài nơi trong vòng 5 năm. Mọi người đều biết lập luận của ông Hồ và Việt Minh về việc ký kết thỏa ước là “Thà ngửi cứt Tây 5 năm còn hơn ăn cứt Tàu 1000 năm.” Tuy vậy, trong mọi tầng lớp, việc Việt Minh cho phép Pháp trở lại vẫn gây ra ấn tượng sâu xa. Hai tuần sau khi ký kết, lúc tôi đang ở ban công nhà thương Phủ Doãn tại Hà Nội với một nhóm bạn là bác sĩ, trong số có một vài người là đảng viên Đại Việt, thì ngay phía dưới 15 ngàn quân Pháp đang diễn hành dưới sự thống lãnh của tướng Jacques Philippe Leclerc. Nhìn họ, bọn tôi cảm thấy cay đắng dâng trào. Quang cảnh chẳng khác nào Việt Nam đang trở lại thời kỳ nô lệ. Hai bên đường các Pháp kiều ngụ tại Hà Nội đứng tung hô. Trên ban công chúng tôi cố gắng gạt những giọt lệ căm phẫn và tủi nhục.
Chương 7
Khủng Bố
Khi quân Pháp vào Việt Nam thì quân đội chiếm đóng của Tàu đang rút lui. Tất cả những quang cảnh ồn ào, hỗn độn đã cho tôi một cơ hội thuận tiện để đưa ông chú tôi lên đường để vận động ở nước ngoài theo kế hoạch của ông Trương Tử Anh. Đầu tiên tôi liên lạc với người của VNQDĐ và định dùng đường dây móc nối sang Tàu của họ. Qua họ tôi sắp xếp để ông chú tôi có thể đi bằng đường hàng không. Khi mọi sự đã xong, tôi cùng ông chú tôi về nhà chờ tin. Nhưng một tuần, rồi 10 ngày nối tiếp trôi qua mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Sau đó, chúng tôi quyết định không thể đợi lâu hơn được nữa vì có thể sẽ bị công an Việt Minh phát giác.
Vì vậy, tôi quyết định thử liên lạc trực tiếp với người Tàu. Trong khi Tàu đóng quân đã có nhiều thiếu phụ Việt Nam “thành hôn” với các sĩ quan Tàu. Tôi có quen một thiếu phụ lập gia đình với một vị tướng Tàu và bà ta hứa sẽ cố dùng ảnh hưởng riêng để xin giấy thông hành cho ông chú tôi.
Mọi việc đều tiến hành như dự liệu. Vào một hôm đã hẹn trước, một chiếc xe Citroen ngưng ngay trước cổng nhà ông chú tôi. Phía trong là tài xế, viên tướng Tàu và một vị bác sĩ nguyên là người của đảng Đại Việt đã được phái đi cùng với ông chú tôi. Chúng tôi nhét hai cái va li vào sau xe rồi ngồi chặt trong xe để bắt đầu một chuyến hành trình dài đến biên giới Tàu. Phía ngoài Hà Nội, lính Tàu tụ họp thành hàng chật cả đường phố đang lếch thếch mang trên lưng nào là gà, nồi và những vật dụng lỉnh kỉnh khác. Những toán quân Tàu rút lui về Trung Hoa đem theo gần như tất cả mọi thứ họ đã vơ vét được từ Hà Nội.
Giữa đám đông ồn ào, vô trật tự chẳng ai để ý đến chiếc xe Citroen đen của chúng tôi. Vào lúc chạng vạng chúng tôi đã đến Lạng Sơn. Tại đó, tôi từ giã ông chú tôi và hứa sẽ cố tìm chỗ sắp đặt để gia đình có thể cùng ông xum họp tại Hồng Kông, nơi ông dự định đứng ra vận động.
Sau đó tôi trở lại Hà Nội bàng xe buýt, tìm cách cố đưa mợ tôi và gia đình của con gái mợ tôi ra khỏi nước. Giao thông lúc này ngày càng khó khăn. Mặc dù Việt Minh đang ở giai đoạn đàm phán hòa bình với Pháp, họ vẫn nỗ lực tàn sát các phe phái quốc gia. Khoảng tháng tư và tháng năm, mức độ khủng bố nhảy vọt. Những căn cứ quốc gia vững mạnh ở dọc sông Hồng đều chuẩn bị phòng thủ chống lại các cuộc càn quét của Việt Minh.
Trong tình trạng cuộc chiến giữa Việt Minh và Quốc Gia sắp sửa bùng nổ, chuyện đưa gia đình ông chú tôi ra nước ngoài đã trở thành thập phần cấp bách. Thỏa hiệp hòa bình ngắn ngủi với Pháp đã đủ để ông Hồ có một phút giây thảnh thơi tiêu diệt triệt để những đảng phái đối lập, để làm chủ tình hình trong nước.
Vào tháng 4, cuộc đàm phán giữa Pháp và Việt Minh đã bắt đầu đi vào đường thất bại. Một viên chức cao cấp của Pháp là Thủy sư Đô Đốc George Thierry d' Argenlieu có vẻ có ý muốn giữ Miền Nam Việt Nam làm thuộc địa. Ông ta từ chối việc định nghĩa cụ thể hiện trạng Việt Nam như “một quốc gia tự do” . Sau cuộc đàm phán Đà Lạt, ông Hồ đã hiểu rõ là Pháp chẳng hề có ý chấp hành nghiêm chỉnh những điều khoản mà ông và Sainteny đã cùng thỏa thuận trong cuộc thương thảo. Tuy vậy, vào tháng 5 ông vẫn lên đường đi Pháp để bắt đầu một cuộc đàm phán kéo dài liên tiếp năm tháng. Ông Hồ hy vọng rằng khi đích thân đến Pháp ông sẽ kêu gọi được những người Pháp đã rời Việt Nam góp phần ủng hộ. Mặt khác, ông cố gắng kéo dài thời giờ. Hầu hết các thành phần lãnh đạo đều cùng đi với ông Hồ ngoại trừ ông Võ Nguyên Giáp. Khi ông Hồ ở Pháp thì chính ông Giáp là người đương đầu với những vấn đề liên quan tới các lực lượng đối lập.
Phương pháp của ông Võ Nguyên Giáp thật là tàn bạo. Ông cho lệnh các lực lượng Việt Minh tập kích thẳng vào căn cứ của các đảng quốc gia ở các vùng sông Hồng. Cùng lúc đó những công an Việt Minh khác thắt chặt mạng lưới phòng vệ ở Hà Nội và Hải Phòng. Những phần tử quốc gia bị buộc phải lui vào vòng bí mật hoặc phải cố tìm cách trốn tránh thoát khỏi mạng lưới Việt Minh. Nhiều đảng viên quốc gia đã bị bắt và cầm tù, nhiều người khác mất
tích. Cơn kinh hoàng bao trùm các đảng phái khi chiến dịch khủng bố của ông Giáp mang một tầm vóc khổng lồ so với các chiến dịch tiểu trừ lẻ tẻ giữa các đảng phái trước đây. Trong khi ông Hồ và các Bộ Trưởng trong chánh quyền thực dân Pháp thong thả dìu nhau trong điệu Minuet ở Fontainebleau trên sàn đàm phán theo một nhịp độ điều đình ngày càng bế tắc thì tại Việt Nam hàng ngàn phần tử quốc gia âm thầm ngã gục.
Số phận của tôi may mắn hơn những người đã bị hạ sát. Trên bến Hải Phòng, tôi bí mật liên lạc được với một người thuyền trưởng của một chuyến tàu chở hàng Thụy Điển. Tôi đã dùng cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp để thuyết phục ông ta. Cuối cùng, ông ta cho tôi mang cả gia đình bà cô đến Hồng Kông không hề hỏi han, không hề khai báo, không cả giấy thông hành — Hễ có tiền là đi. Tiền bạc được dùng để đổi lại một chỗ trống trên bong và chúng tôi có quyền dựng một tấm mái bạt để che mưa tránh nắng.
Chuyến tàu hàng lướt ra khỏi Hải Phòng giữa lúc trăng tròn đang giữa độ. Chưa bao giờ đi tàu, tôi có cảm giác đây là lần đầu tiên mình mới làm một chuyến du ngoạn thần kỳ và mơ mộng. Tuy vậy, vừa qua khỏi trạm gác ở bến, tôi đã say sóng ngất ngư. Trên biển Nam Hải, ánh sáng quang đãng của vầng trăng bỗng dưng tan biến rồi một cơn bão theo sát chúng tôi trên cả cuộc hành trình.
Vì phải tránh những quả mìn gài ngầm còn sót lại sau Đệ Nhị Thế Chiến, chuyến tàu hàng buộc phải đi về hướng Phi Luật Tân thay vì đến thẳng Hồng Kông. Chuyến đi đáng nhẽ chỉ ba ngày bỗng kéo dài thành một hành trình gian khổ dài suốt 7 ngày trên biển. Cuối cùng khi tàu cặp bến, tôi vui mừng chẳng khác nào bắt được vàng.
Khi đã thuê phòng ngủ cho gia đình người mợ, con gái và người con rể ông chú tôi ở một khách sạn tại Hồng Kông, tôi bắt đầu tự mình đi tìm ông chú tôi và ông Bảo Đại. Vì không giữ liên lạc mà lại cũng chẳng tính toán gì trước nên phải rất lâu sau tôi mới biết rõ được rằng họ không phải ở Hồng Kông mà thật sự đang ở Trùng Khánh, kinh đô của Tưởng Giới Thạch. Lúc này, việc thiếu liên lạc chỉ là chuyện thông thường. Hồng Kông đã trở thành một trung tâm tụ tập của những phần tử quốc gia, những người đã thoát ra từ Miền Bắc,
nơi Việt Minh đang làm chủ tình hình. Tuy rằng những phần tử quốc gia có ý muốn lập một trung tâm hoạt động ở ngoại quốc, họ vẫn chưa hề có được tổ chức nào hoàn toàn hiệu lực. Đây là một điểm khởi đầu thật bất lợi.
Về phần mợ tôi thì thất vọng ê chề. Khi một tuần lễ đã qua mà không có tin tức gì về ông chú tôi, chúng tôi chỉ còn một ít tiền và cũng không quen biết ai để có thể xin giúp đỡ. Tôi nói với mợ tôi rằng “Cách hay nhất là mợ hãy giữ hết chỗ tiền còn lại trong khi cháu quay về Hà Nội tìm cách kiếm thêm tiền. Chắc chẳng còn bao lâu nữa chú sẽ trở lại. Cháu tin mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đấy.”
Chuyến về cũng chỉ đỡ hơn chuyến đi chút đỉnh. Khi còn lênh đênh giữa biển, tôi đã tự thề sẽ chẩng bao giờ đặt chân lên tàu biển lần thứ hai nữa. Khi tàu đáp bến Hải Phòng, tôi lẩn qua các trạm gác tuần tiễu rồi lẻn về Hà Nội để gặp ông Trương Tử Anh. Tôi tường trình việc thiếu tổ chức ở Hồng Kông và nhấn mạnh việc cần phải thiết lập một đường dây tiếp tế thường xuyên. Nhưng việc khẩn cấp hiện thời là phải có tiền bạc để chu cấp cho mợ và chú tôi.
Ông Trương Tử Anh giải quyết vấn đề này bằng cách giới thiệu tôi với đường dây hoạt động làm bạc giả của Đại Việt. Nhờ vào đường giây này, Đại Việt đã cung cấp được một phần tài chánh cho các hoạt động của đảng. Những đồng tiền làm giả tuy chưa hoàn toàn giống hệt nhưng cũng đủ để có thể bán rẻ lại cho những người có được thị trường trong chốn chợ đen. Một tờ giấy bạc giả 100 đồng có thể đánh đổi lấy được khoảng 60 đồng tiền thật.
Tạm thời thì tiền trợ cấp cho mợ và chú tôi sẽ được trích ra từ số tiền này. Tôi sẽ phải tự mình đến lấy bạc giả, tự mình đem đi bán lại và tìm cách mang tiền sang Hồng Kông. Chẳng mấy chốc tôi trở nên lanh lợi về cách đổi chác trong nghề. Tôi và một đảng viên khác cùng tới một địa điểm đã được ông Anh cho sẵn. Nhưng khi nhìn thấy xấp bạc giả tôi kinh hãi rụng rời. Xấp bạc hoàn toàn mới toanh, trông thật lòe loẹt. Đến một đứa bé cũng phải nhận ra là xấp bạc giả vừa mới in xong. Không có cách nào tôi có thể bán được dù là bán cho những người chợ đen dễ dãi nhất.
Trưa đó, tôi và người bạn đi cùng đã bỏ ra rất nhiều thời giờ cố làm cho xấp giấy bạc trông giống thật hơn. Chúng tôi lý luận rằng vấn đề chính là vì trông nó mới quá và rồi kết luận phải làm thế nào cho nó cũ bớt đi. Cuối cùng chúng tôi nghĩ ra được cách trải những tấm giấy bạc ra sàn rồi dùng gạo chà lên như chà giấy nhám, để biến những tấm giấy bạc thành cũ kỹ, giống thật hơn.
Việc làm bạc giả của chúng tôi kể ra cũng không đến nỗi tệ. Khi giấy bạc đã được chà xong, những tờ hai chục trông gần như thật. Tuy vậy, những tờ 100, dù rằng qua những con mắt không lành nghề như chúng tôi vẫn chẳng trông giống thật tí nào. Cuối cùng, chúng tôi bán số tiền 20 đồng và thâu lại được 80 phần trăm tổng số giá, trong khi tự cho là may mắn đã đổi được chỗ giấy bạc 100 đồng để lấy lại được 50 phần trăm tổng số. Tôi thành công hơn trong vấn đề thiết lập đường dây tiếp tế đến Hồng Kông qua một hãng du lịch Thái Lan có các chi nhánh ở khắp mọi miền.
Chẳng bao lâu sau, khi đã xếp đặt xong việc chuyển tiền, tôi lại được lệnh của ông Trương Tử Anh tổ chức một cuộc đưa người khác sang Hồng Kông. Lần này chuyến đi được tổ chức cho Tư Lệnh Đệ Tam Quân Đỗ Đình Đạo, người đã cầm đầu đoàn quân xấu số của Đại Việt và VNQDĐ ở dọc theo sông Hồng. Vì không đủ sức chống trả với ông Võ Nguyên Giáp, khi lực lượng tan rã, ông Đạo đã được dời về một chỗ ẩn nấp an toàn để có thể củng cố lực lượng. Lần này đã rành rọt về chuyện đưa người, tôi thu xếp thật chu đáo cho chuyến đi của ông Đạo bắt đầu từ Hải Phòng. Nhưng chuyến này vì đã nếm đủ mùi vị say sóng trên biển, tôi không đi cùng ông Đạo nữa.
Hè 1946 là một trong những mùa hè khốn khổ của các đảng phái quốc gia. Tuy tại Ba Lê, các cuộc đàm phán của ông Hồ hoàn toàn bế tắc, nhưng ở Việt Nam người thay thế ông Hồ là ông Võ Nguyên Giáp đã thành công rực rỡ trong việc tiêu diệt các lực lượng đối kháng. Trên chiến trường các lực lượng quốc gia đã bị ông Giáp đập tan hoặc bị ông đàn áp phải rút lui vào những miền rừng núi. Ở thành phố những đội công an Việt Minh đã khiến đời sống trốn tránh trở thành vạn phần khó khăn. Tôi chưa bao giờ ngủ cùng một chỗ
hai đêm liên tục. Lúc nào tôi cũng phải cẩn trọng xem xét động tĩnh của mọi người, mọi vật. Tôi đã quen thuộc với cảm giác đưa tay sờ vào báng súng phía sau.
Cuộc sống của ông Trương Tử Anh cũng vậy. Ông bị truy nã gắt gao và cũng phải ẩn nấp mỗi đêm ở một chỗ hoàn toàn khác biệt. Mỗi cuộc họp lúc này gần như chỉ với một hai người. Qua những cuộc gặp gỡ và những lần gần gũi trong suốt mùa hè, tôi ngày càng thân thiết và kính trọng ông Trương Tử Anh.
Vào khoảng đầu tháng 9, sự thất bại của cuộc đàm phán giữa ông Hồ và Pháp tại Fontainebleau đã quá rõ ràng. Kết cục, ông Hồ và Ngoại Trưởng Pháp Marius Moutet đã ký kết một nghị định gọi là tạm ước. Lúc này việc bất đồng ý kiến giữa Pháp và Việt Minh đã rõ rành rành. Bản tạm ước ký kết giữa hai bên chẳng qua chỉ là một thỏa hiệp được đề ra để kéo dài thời gian trước khi động lực chiến tranh có đà phát động toàn độ. Theo những lời đồn đãi đã được thêu dệt thành lịch sử về sau thì khi ký tên vào thỏa hiệp ông Hồ đã nói rằng ông đang tự tay ký kết bản án tử hình của chính ông.
Nếu ông Hồ thật sự đã bình luận như vậy thì đây lại là một biến cố điển hình khác chứng tỏ tài lèo lái con thuyền chính trị của ông hơn là sự lo lắng của ông. Thật sự thì ngay cả khi thỏa hiệp đã được ký kết, ông Hồ cũng chẳng thấy cần phải vội vã quay về Hà Nội. Thay vì đi đường hàng không, ông Hồ lại trở về trên chuyến tàu Pháp trong một hành trình thong thả từ Toulon đến Hải Phòng, kéo dài hơn một tháng ròng. Đây không phải là hành động của một vị nguyên thủ đang bị lúng túng vì áp lực của những nhân viên cấp dưới. Thực ra thì lúc nào ông Hồ cũng làm chủ được tình hình. Tuy rằng mục đích thứ nhất của ông Hồ — Đòi hỏi Pháp phải ký kết một thỏa hiệp công nhận Việt Nam độc lập — đã không mang lại kết quả thiết thực, mục đích quan trọng thứ hai — Tìm cách hòa hoãn để ông Giáp rảnh tay tiêu diệt các lực lượng quốc gia đối kháng và củng cố các lực lượng Việt Minh để làm chủ tình hình Miền Bắc — đã thành công mỹ mãn.
Tuy không hề được biết rõ tường tận các diễn biến ở Fontainebleau, tôi đã được mục kích Việt Minh tiêu diệt các đảng phái quốc gia
bằng con mắt của một nạn nhân. Vào mùa thu năm 1946, khi Việt Minh chuẩn bị ráo riết để bắt đầu cuộc chiến chống Pháp thì những đảng viên Đại Việt còn sống sót như chúng tôi hoàn toàn không dám lộ mặt. Đây quả là một thời gian bối rối và tuyệt vọng cho tất cả. Vì áp lực mạnh của công an Việt Minh, chúng tôi không đủ thời giờ tổ chức những buổi họp an toàn để có thể liên lạc với nhau hữu hiệu hơn. Đường lối hoạt động của đảng bỗng chốc trở nên những cuộc đếm người. Tổng số còn lại là bao nhiêu? Bao nhiêu người còn sống? Bao nhiêu người còn sống nhưng không dám lộ mặt? Những đường dây nào hãy còn hoạt động trong các tỉnh lị? Trong khi ông Hồ vắng mặt, ông Giáp đã làm việc thật kỹ lưỡng. Ông đã tận lực tảo thanh các lực lượng quân sự kết hợp của Đại Việt và VNQDĐ và thiết lập một hệ thống an toàn ở khắp nơi trong phạm vi Bắc Việt. Ngay cả trước khi chiến tranh giành độc lập bắt đầu, Bắc Việt đã được chuyển thành một mạng lưới công an vô cùng hữu hiệu.
Giữa tình thế khốn cùng, ông Trương Tử Anh đã cố gắng không để lộ sự thất vọng đang ngày càng trào dâng. Ít nhất là ngoài mặt ông ta vẫn tỏ ra rất bình tĩnh, — gần như quá bình tĩnh — ông thường giữ kín những dự định của mình. Tuy đã đến bước đường cùng, chúng tôi vẫn tin tưởng rằng ông sẽ có cách kết hợp chúng tôi lại với nhau và củng cố để đảng có thể hoạt động lại như xưa. Một trong những giải pháp lúc này là cố gắng củng cố lực lượng ở Miền Nam khi lực lượng Việt Minh chưa hoàn toàn làm chủ tình hình. Giải pháp thứ hai là tạm thời chuyển các hoạt động ra ngoại quốc, tới một chi nhánh nhỏ của đảng ở Hồng Kông nơi ông chú tôi đang vận động. Đã có lần ông Trương Tử Anh hỏi tôi liệu có thể về Hồng Kông giúp sức hay không, nhưng tôi vẫn cứ trì hoãn. Ông chú tôi đã có hai người khác đang ở cùng là ông Đặng Văn Sung, người đã giới thiệu tôi vào Đại Việt khi trước và thày học cũ của tôi là ông Trần Văn Tuyên. Tôi cho rằng sự hiện diện của mình ở đó chỉ thêm thừa thãi. Mặc dù lúc này áp lực tại Hà Nội đang nặng nề, tôi vẫn không biết mình phải nên rời ông Trương Tử Anh để làm gì.
Vào một ngày đầu tháng 12–1946, cũng như những lần họp trước đây, tôi đến gặp ông Trương Tử Anh mà mãi không thấy bóng dáng ông đâu. Đã có vài lần như vậy trước đây nhưng lần nào cũng có tin
"""