"
Góc nhìn Sử Việt: Vua Bà Triệu Ẩu PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Góc nhìn Sử Việt: Vua Bà Triệu Ẩu PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Lời giới thiệu
Bạn đọc thân mến!
Lịch sử văn hóa của một dân tộc không phải của riêng cá nhân nào, chính vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển lịch sử văn hóa cũng không phải riêng một người nào có thể gánh vác được, nó thuộc về
nhận thức chung của toàn xã hội và vai trò của từng nhân tố trong mỗi chặng đường lịch sử. Lịch sử là một khoa học. Lịch sử không phải là việc thống kê sự kiện một cách khô khan rời rạc. Bởi mỗi sự kiện trong tiến trình đó đều có mối liên kết chặt chẽ với nhau bằng sợi dây vô hình xuyên suốt không gian và thời gian tạo nên lịch sử của một dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trải hơn một nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm dưới ách cai trị của thực dân, đế quốc, nhưng con cháu bà Trưng, bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... vẫn kiên trì bền chí, tin tưởng ở quá khứ hào hùng, không ngừng tranh đấu hướng tới tương lai rộng mở vì độc lập tự do của đất nước.
Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn và phát triển, ngoài việc đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, điều quan trọng hơn nữa là phải có một nền tảng giáo dục vững chắc. Trong đó, giáo dục về lịch sử và lòng tự hào dân tộc là cần thiết để ghi khắc trong tâm trí các thế hệ, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, ý thức về nguồn gốc dân tộc, truyền thống văn hóa và nội lực quốc gia, đồng thời giúp định hình góc nhìn thấu đáo về vai trò của từng giai đoạn, triều đại và nhân vật - dù gây tranh cãi - tạo nên lịch sử đó.
Chính vì những giá trị to lớn đó, vấn đề học tập, tìm hiểu lịch sử nước nhà hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay... và rất nhiều những tổ chức khác đã và đang kiên trì con đường thúc đẩy sự phát triển của nền khoa học
lịch sử quốc gia, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc tới toàn xã hội.
Đồng hành với mối quan tâm của toàn xã hội, Công ty Cổ phần Sách Alpha - một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, với tôn chỉ “Tri thức là sức mạnh” - đặc biệt quan tâm tới việc góp phần nâng cao hiểu biết của người dân về truyền thống văn hóa lịch sử đất nước.
Theo nhiều kết quả khảo sát, đánh giá nhu cầu của bạn đọc cho thấy, “lỗ hổng lịch sử” ở không ít người trẻ hiện nay hoàn toàn có thể bù lấp một phần dựa trên nhiều nguồn tư liệu, công trình nghiên cứu, sách cổ sách quý hiện đang được các Viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân lưu giữ. Để chung tay tái hiện một cách rõ nét những mảnh ghép lịch sử dân tộc, Công ty Cổ phần Sách Alpha đã triển khai dự án xuất bản mang tên Góc nhìn sử Việt với mục đích xuất bản lại và xuất bản mới một cách có hệ thống các công trình, tư liệu, sách nghiên cứu, sách văn học có giá trị… về lịch sử, bước đầu hình thành nên Tủ sách Alpha Di sản.
Cuốn sách bạn đang cầm trên tay là một trong những sản phẩm đầu tiên của dự án này.
Xin trân trọng giới thiệu.
Công ty CP Sách Alpha
HỒI THỨ I
Chớp nhoáng, sao sa, một phen ác chiến;
Mưa gào, gió thét, hai buổi cùng chung
… Trời nhá nhem tối. Xung quanh ngọn núi Hùng Sơn hơi đất đã bốc lên thành một bức màn tự nhiên có cái cảnh tượng mông lung phiêu diêu…
Trong một chiếc miếu cổ, chẳng những cổ mà lại là một nơi phóng phế hoang tàn; mạng nhện chằng từ hè chằng vào; cửa thời cánh long cánh mọt; cột thời cái gãy cái xiêu; trên mặt đất đầy những phân dơi, phân chuột, mùi hôi bám sặc sụa…
Giữa miếu, ngay trước bàn thờ; có năm, sáu người đàn ông vận toàn võ phục; vẻ mặt rất hung tợn. Mỗi người cầm một loại binh khí: người thời cầm hoạch kích1, người thời đoản kiếm, có người cầm song giản2, lại có người cầm song chùy… Đứng giữa một người, coi vẻ oai nghiêm bệ vệ như một ông tướng. Người ấy mắt tròn, râu quăn, mũi to, miệng rộng, mình cao tám thước, lưng lớn mười vòng, tay cầm một cái khai sơn đại phủ3, nặng tới trăm cân…
Người ấy ngồi hẳn lên bàn thờ, còn mấy người kia thời đứng vòng ở xung quanh, người ấy bỗng cất tiếng lên nói:
- Phi Hùng, ngươi coi chừng cái mưu ấy hắn có biết chăng?
Một tên lực lưỡng, trong năm tên kia, vội khẽ cất tiếng lên nói bằng một giọng quả quyết:
- Bẩm! Biết sao được. Cái mưu ấy, trừ ra trên chủ tướng với tướng quân, dưới năm anh em chúng tôi, còn có ai biết được.
- Đã vậy, lát nữa người khá cùng vào với ta, còn Tôn Mục, Ngõa Phong, Lưu Anh, Mã Củng bốn người phục ở xung quanh, phòng hoặc nó có biết trước mà chạy thoát ra ngoài chăng?
Dứt nhời4 cả năm tên đều dạ.
Bấy giờ ở ngoài trời đã tối hẳn. Gió núi nổi lên tiếng reo ù ù; trong các bụi rậm, tiếng vượn hú xen lẫn tiếng vọ5 kêu, tiếng hổ báo gầm gừ, tiếng chó sói, hươu nai sào sạc6… đồng thời phát tác… biến thành một cõi u âm huyền ảo. Nếu người nhát gan mà lâm vào đó, tất phải rùng mình khiếp đảm.
Những người trong miếu vẫn im lặng, trong bụng mỗi người hình như đều đương xây đắp một bức thành nham hiểm, ở trong toàn chứa gươm, đao, giáo, mác, lẫn cả với rắn, rết, hùm, beo… Bỗng người tướng cất tiếng lên nói:
- Phi Hùng, ngươi ra coi xem tối nay có sáng sao không. Phi Hùng chạy ra ngoài miếu rồi quay vào bẩm:
- Nhiều sao lắm. Nhưng về phía Đông có mây, lại có chớp, không khéo đến gà gáy thì mưa…
Người tướng nói:
- Nếu vậy ta phải đi ngay bây giờ mới được.
Dứt nhời đứng phắt dậy, rảo ra cửa miếu, năm tên kia vội vàng bước theo, rồi như sao sa chớp nhoáng, đi vụt xuống chân núi.
…
Trại Bông, cách núi Hùng Sơn chừng 15 dặm. Địa thế của trại ấy phía trước mặt có con sông Trành, tuy không rộng nhưng sâu, dân trại Bông, quanh năm nhờ về nghề chài lưới ở con sông ấy mà được sống bằng một cách đầy đủ.
Giữa trại có một dinh cơ, tuy chỉ lợp lá gồi7 (vì đời ấy ở dân ta chưa biết nghề nung ngói), nhưng cao lớn, rộng rãi, lớp trên, lớp dưới,
trùng trùng điệp điệp. Nếu không phải là người quen biết vào đấy thường bị lạc, không biết lối ra…
Nhà ấy là nhà Chiếng Vân, một nhà thế phiệt trong địa hạt huyện Tư Phố.
Chiếng Vân chẳng những nhà giầu, của lắm, ông lại có võ nghệ, khí tiết và can đảm nên các quan Lang8 trong các làng lân cận ấy đều nể vì, kính trọng…
Hôm ấy vào khoảng nửa đêm, Chiếng Vân mới lim dim sắp ngủ. Bỗng văng vẳng nghe có tiếng chó sủa từ đầu trại sủa vào, Chiếng Vân nghi hoặc nghĩ bụng: - Không có lẽ về mùa này mà đã có hươu nai lạc vào trại? Hay là lại có tên gian nào từ đâu đến chực rình mò nhà ai chăng?... - Trong bụng nghĩ vậy, đã toan trở dậy đốt đèn để ra sân nghe xem, sau lại cứ nằm gan, lắng tai nghe. Bỗng thấy chó của nhà cũng sủa inh ỏi cả lên, Chiếng Vân không thể nằm gan, ngồi nhổm dậy, vớ lấy thanh mã tấu ở đầu giường, chưa kịp đứng dậy bỗng vụt một cái bóng đen từ trên chéo nhà sa xuống, nhẩy bổ ngay lại bên giường, giơ thẳng búa, nhằm thẳng đầu Chiếng Vân mà chém… Tuy còn ngồi nhưng Chiếng Vân rất nhanh, đã nhẩy thót được xuống đất, quay mã tấu chém ngang vào ngang lưng người ấy. Người ấy dùng búa, gạt ngay được mã tấu, quày9 lại nhằm đầu gối Chiếng Vân mà bổ xuống. Chiếng Vân nhảy thót một cái, lại đứng ngay trên giường, giơ mã tấu dùng hết sức từ đỉnh đầu người ấy chém xuống… Lưỡi mã tấu chưa xuống tới đầu, lại một cái bóng đen nữa từ cửa sổ nhẩy vào, rồi một chiếc hoạch kích giơ lên, chặn ngang lấy mã tấu, chỉ nghe thấy một tiếng “keng”, trên chiếc hoạch kích bựt lòe ra một ngọn lửa…
Chiếng Vân thấy bên địch có thêm viện binh, sợ trong phòng chật chội, không đủ chỗ cự chiến, liền múa mã tấu giữ thế thủ, đi giật lùi, nhảy thót qua cửa sổ, ra sân. Vừa cất tiếng lên gọi được một câu:
- Gia nhân đâu bay?
Chưa dứt tiếng thời bên địch đã đuổi ra tới nơi. Chiếng Vân khoa mã tấu, nhằm tên cầm búa mà chém, tên cầm búa tránh được. Tức thời Phi Hùng nhảy sổ lại cầm hoạch kích nhằm thẳng bụng Chiếng Vân mà đâm.
Vân vừa gạt được hoạch kích thời búa của viên tướng kia đã nhằm vào đầu mình mà bổ xuống. Ba người ác chiến tới hơn nửa giờ, Chiếng Vân chỉ còn sức che đỡ, không còn đủ sức chống chọi, mồ hôi toát ra ướt đầm cả hai lần áo. Biết thế mình đã núng10, vừa cất tiếng hò gia nhân vừa nhún mình nhảy tót lên nóc nhà, toan tìm đường chạy trốn, chẳng dè chân mình vừa đặt xuống đến nóc nhà, thời hai tên địch cũng đều nhảy lên tới nơi. Tức thời trên nóc nhà, lại biến thành một nơi chiến trường…
Nhà Chiếng Vân, vừa điền tốt11, vừa gia đinh có cả tới hơn mười người, đều ngủ cả ở một chiếc nhà làm lúa, ngay gần cổng vào. Khi chúng nghe tiếng chủ gọi, đều cập quạng nhẩy bổ dậy, người vác tay thước, người mang câu liêm12, người vớ lấy rựa phát bờ, người vớ lấy thuốn13 đào chuột… mở cửa chạy ra, ai cũng muốn nhanh chân chạy trước, để cấp cứu chủ nhà. Vì họ nghe tiếng gọi và tiếng reo hò, đã biết là nhà có cướp… Ngờ đâu, vừa chạy ra khỏi cửa, anh này kêu “ối”, anh kia kêu “ối”, rồi đến cả hơn mười người đều kêu “ối”. Té ra, ngoài cửa, bên địch họ đã rắc đầy những “chông cuốn”14 với gai bồ kếp. Ai nấy đều bị đâm ngang, đâm dọc, máu chảy lễ loại… Có người đau quá, ngồi phệt ngay xuống đất, lại bị luôn hai, ba cái gai bồ kếp, hoặc chông nữa cắm ngay vào mông, thật là phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí… Rồi đó, tất cả bọn hơn mười người, đành cứ xuýt xoa, dền dẫm15, bó gối mà ngồi trông nhau, chủ mặc chủ, không còn ai phó cứu được nữa…
Chiếng Vân đánh nhau trên nóc nhà một hồi lâu, thấy thế của mình càng núng quá, mà ngóng mãi vẫn không thấy gia nhân phó cứu. Bất đắc dĩ quày mã tấu ra đằng sau, thừa thế nhảy phắt sang nóc nhà tiền tế16, định dần dần nhảy ra cổng, tìm đường chạy trốn. Chẳng ngờ khi vừa mới nhảy đến nóc cổng, tên tướng địch đã gọi to lên rằng:
- Tôn, Ngõa, Lưu, Mã, tiếp ứng mau! Đừng để cho nó tẩu thoát…
Dứt nhời, Tôn, Ngõa, Lưu, Mã, bốn tên đều nhảy xổ cả đến. Tôn Mục cầm kích, Ngõa Phong cầm chùy, Lưu Anh cầm thương, Mã Củng cầm giản. Cả bốn thứ binh khí đồng thời cất lên, đánh vào
Chiếng Vân như mưa. Chiếng Vân thấy thế nguy bách quá, liền cất tiếng gọi to lên:
- Bớ quân cường bạo! Ta với mi có thù hằn gì, mà mi lại bách17 ta đến thế?
Chưa dứt nhời, thời trượt chân ngã bổ nhào ra phía ngoài cổng. Tức thời cả 6 tên địch đều nhảy cả lại, 6 thứ binh khí đồng thời giáng xuống… Bỗng nghe thấy một tiếng “bốp”, tiếp luôn với một tiếng “ối”, Tôn Mục ngã phục xuống chết tươi… Giữa lúc ấy, Chiếng Vân đã dùng thế “Lý ngư quá hải” trườn ra cách chỗ bị ngã tới hơn mười thước. Mấy thứ binh khí của bọn Tôn, Lưu đã giáng xuống dở dang, không kịp dừng lại, đều nhất tề giáng cả vào Tôn Mục, tức thời xác Tôn Mục bị phân ra làm ba, bốn đoạn… Tên tướng địch thấy vậy thời tức quá, gầm thét lên như hổ, nhảy bổ ngay cả lại, vây bọc lấy Chiếng Vân. Chiếng Vân bấy giờ đã choáng cả người, mà thanh mã tấu cũng đã bị mẻ nhằm mẻ nhừ... Đang lúc sống chết díp nhau18 không tày sợi tóc, bỗng nghe thấy có tiếng thét rất to:
- Xin bá phụ hãy dừng tay, để nữ điệt giết bọn cường bạo ấy cho… - Vừa dứt tiếng một cái bóng đen từ trên ngọn cây si gần đấy, nhảy vụt đến, hiện ra một người con gái hình vóc đẫy đà cao lớn, suốt mình mặc toàn đồ vải mầu chàm, hai tay cầm hai thanh thư hùng kiếm, múa tít lên như mưa sa, tuyết xuống, khiến cho 5 tên địch hoa cả mắt, lạnh cả người. Tên tướng địch cũng không vừa, tay cầm chiếc đại phủ, bổ ngang chém dọc, hất ngược, gạt xuôi, tiếng cứ kêu vùn vụt như gió.
Tuy vậy, vẫn không thể địch được với hai thanh kiếm của người con gái. Một lát, nghe thấy một tiếng rú lên, Phi Hùng bị gạt rơi mất đại đao; tiếp luôn lại một tiếng rú nữa, Lưu Anh bị chém gãy mất trường
thương… Tên tướng địch thấy thủ hạ của mình đều thất bại, mà khí thế của người con gái càng đánh càng hăng, chẳng khác một con hổ dữ mới sổ xuống đồng bằng. Lại thêm Chiếng Vân bấy giờ cũng đã chạy lại hiệp lực cự chiến với người con gái. Biết thế mình không địch được, liền hô to lên một tiếng:
- Chư tướng! Ta hãy tha cho nó buổi hôm nay!...
Dứt nhời, quày đại phủ lại sau lưng, nhằm thẳng về phía đông mà chạy. Người con gái thấy vậy, không chịu bỏ, vừa đuổi, vừa quát to lên rằng: “Quân cường bạo! Chúng bay có chạy lên đằng trời!”
Quân tướng bọn bên địch thấy người con gái cố đuổi thời chạy rẽ cả phía núi Hùng Sơn.
Chiếng Vân tuy đã mỏi, nhưng vì thấy người con gái cố đuổi, sợ thế cô, lỡ bên địch có quân viện thời không sao chống được, nên cũng gắng sức đuổi theo. Bấy giờ đêm đã khuya, những ngôi sao trên trời cũng đã nhàn nhạt đi dần, Chiếng Vân vừa chạy vừa gọi:
- Điệt nữ! Hãy trở lại nghỉ, không hơi đâu mà đuổi mãi chúng nó!
Người con gái nghe tiếng Chiếng Vân gọi, thời liền dừng bước, quày lại, cất tiếng hỏi Chiếng Vân:
- Sao bá phụ không cho tôi đuổi, để giết sạch bỏ chúng nó đi? Còn để nó, lỡ nó lại báo thù thì sao?
Chiếng Vân nói:
- Thế nào nó cũng báo thù. Nhưng trong sách đã dạy: “Giặc cùng không nên đuổi”, ta chỉ e lỡ nó có viện binh, thời mình thế cô, khó lòng chống lại được.
Người con gái thấy Chiếng Vân nói vậy, thời lặng yên không nói gì. Rồi cả hai người cùng lật đật trở về. Về đến cổng, ông trông thấy thây Tôn Mục, người con gái cười mà rằng:
- Rõ đồ khốn nạn! Bị quả báo ngay trước mắt. Người đánh chưa chết, bị ngay đồng đảng băm ra làm mấy mảnh.
Chiếng Vân vào đến trong nhà, mới biết là bọn gia đinh bị thương, liền phì cười mà rằng:
- Chúng bay thật vô ý. Phàm gặp lúc trong nhà bị có giặc cướp kéo đến, mình có trở dậy cũng nên lựa bước mà đi, chứ có đời nào lại cả hơn mười đứa bị mắc chông ngay một lúc bao giờ. Biết chúng bay thế, thà ta cứ để yên mà ngủ cho rảnh!...
Nói rồi, bảo mấy tên không đau lắm, đem vùi bỏ xác tên cướp và rút tước bỏ gai bồ kếp với chông của chúng rắc. Dọn dẹp xong thời vừa tảng sáng. Chiếng Vân ngồi một mình ngẫm nghĩ: - Không biết ở đâu lại sinh xuất ra mấy tên cường bạo như vậy? Nếu ta hôm nay không có người cứu thời quyết khó toàn được! - Nghĩ vậy, bỗng lại tặc lưỡi lắc đầu nói một mình: “Ấy chà! Ta không ngờ con người ấy mà lại có cái võ nghệ tuyệt luân siêu quần đến thế. Bạn ta thật không chết!...”
Nói rồi, bỗng lại hình như tỉnh ngộ, giậm chân xuống đất mà nói:
- Thôi hết rồi! Bây giờ ta mới nghĩ ra, bọn cường bạo ấy có phải là người mình đâu, chính nó là Người Hán. Chà! Đích rồi! Nó là người Hán! Nhưng vì sao mà nó lại định đến hại ta?... Chẳng lẽ vì việc ấy?... Việc ấy, quyết không khi nào lại quyết liệt đến thế. Lạ! Lạ quá!
Chính đang lúc lẩm bẩm một mình, bỗng có tiếng kẹt cửa, người con gái kẹt cửa, người con gái bước vào, Chiếng Vân vội cất tiếng lên hỏi:
- Cháu không đi nghỉ kẻo mệt?...
Người con gái tươi cười nói:
- Cháu vốn không quen ngủ ngày. Vả đánh nhau một lát như thế, có thấm vào đâu mà mệt!
Chiếng Vân chưa kịp nói sao thời người con gái lại nói tiếp:
- Bá phụ nên phòng bị, e tối nay chúng lại đến báo thù mà có lẽ lại đông hơn hôm qua…
Chiếng Vân nói:
- Bác cũng nghĩ thế. Nhưng bọn thủ hạ nhà này vô dụng lắm. Dù có muốn sai chúng nó việc gì, cũng khó lòng làm được như ý định của mình. Đấy, cháu chẳng xem, mới có một tí như thế, mà đã mắc chông cả nút, thật chán!
Người con gái cười mà rằng:
- Chấp chi chúng nó. Ấy nghe tiếng chủ gọi mà còn dám chạy ra như thế, kể cũng còn gọi là giỏi lắm đấy. Còn nhớ ngày nào ở vùng cháu, có một đứa chơi diều, dây diều nó vót bẹt và mỏng như lá hẹ, một hôm có gió to đem diều thả, diều lên bổng rồi, cọc vào trên một bãi tha ma, dây diều vì gió đánh đi đánh lại, phát ra một thứ tiếng cứ “vì vụt, vì vụt” suốt đêm. Không biết có một đứa ranh nào phao lên một câu “có thần trăn đến, sắp ăn thịt cả làng…” Ấy chỉ có thế thôi, mà cả làng đóng cửa, đóng cổng, không ai dám thò đầu ra ngoài, đến nỗi rửa đái ra cả trong xó nhà. Mãi đến khi gió tạnh, diều “chật” tiếng vì vụt không còn, mới dần dần dám thò ra… Dân ngu hay nhát, nghĩ lắm lúc cũng bật cười mà lại đáng thương…
Chiếng Vân nghe người con gái nói xong, bất giác cũng phì cười, rồi nói:
- Bây giờ quanh quẩn chỉ còn mình bác với cháu, thực cũng không còn biết phòng bị cách nào…
Người con gái nghe xong, trầm ngâm một lát rồi tỏ ra vẻ vui mừng mà rằng:
- Có lẽ chiều nay, em cháu cũng đến đây đón cháu. Có nó, cũng giúp được một tay…
Chiếng Vân nghe vậy, cũng mừng. Đến chiều ngày hôm ấy, quả nhiên có một người thiếu niên; tuổi mới độ 16, 17; tuy sức vóc hãy còn bé nhỏ, mà coi người rất là tinh anh, lanh lợi.
Người thiếu niên vào yết kiến Chiếng Vân, người con gái chạy ra vồn vã hỏi:
- Em đi từ lúc nào mà giờ đã đến đây?
- Gà gáy lần thứ hai thời em đi…
- Ở bên ấy vẫn bình tĩnh cả chứ?
- Vâng!
- Có đến thêm được người nào không?
- Được 42 người.
- Có ai xuất sắc không?
- Có một người mới 20 tuổi, cứ kể tài võ dũng của người ấy hơn em nhiều.
Người con gái tỏ ra vẻ vui mừng, vội hỏi lại:
- Hơn em kia? Sao em biết?
- Vì lúc người ấy mới đi gần đến cổng trại, gặp một con trâu rất lớn, lồng19 từ phía sông lại, bao nhiêu người gần đấy đều chạy dạt cả, người ấy nhẩy sổ ngay lại, nắm lấy đuôi trâu, kéo giật lùi nó đi mãi đến hai ba thước, làm con trâu phải kêu rống lên như bị đâm tiết, rồi què mất một chân…
Người con gái mỉm cười mà rằng:
- Kể cũng giỏi đấy. Nhưng hữu dũng vô mưu, thời cũng chưa được là tướng tài…
Người thiếu niên nói:
- Chị cứ kén ngặt như thế thời lấy đâu được?
Người con gái cười, nói:
- Có phải là chị kén ngặt đâu. Ở đời bây giờ kiếm được một người có gan dám theo mình, cũng đã hiếm lắm rồi!
Chiếng Vân nói tiếp:
- Phải, cháu nghĩ như thế thật phải lắm! Đấy chẳng thấy chán người cứ ngoài miệng thời nói như thánh như thần, mà đến lúc lâm20 có việc thời co vòi, rụt cổ, hình như đã có một thanh gươm tự đâu đâu kề vào đến tận cuống họng rồi! Lắm lúc tôi nghĩ: chúng nó đã đốn đời ra thế, thời cứ yên phận như con trâu kéo cày, con ngựa kéo xe, cho qua đời trọn kiếp, hà tất cứ phải giả đeo mặt nạ làm gì cho chướng mắt người thức giả!...
Người thiếu niên không đợi Chiếng Vân nói dứt nhời, nói cắt ngang:
- Chính cháu rất ghét bọn ấy. Cháu thường cứ tự mình cầu nguyện, làm nào do tay cháu mà giết chết được hết thời cháu mới hả dạ.
Người thiếu niên nói xong, Chiếng Vân phì cười mà rằng:
- Ai là người ưa được chúng nó mà chẳng muốn giết. Nhưng lấy một mình mà giết được hết, thời giết sao cho xuể.
Chuyện vãn một hồi, trời đã sẩm tối, người con gái, người thiếu niên và Chiếng Vân, đều cầm sẵn khí giới, đề phòng ứng địch. Ngờ đâu chờ mãi từ chập tối đến hết canh một sang canh hai, vẫn không thấy gì… Lại chờ đến hết canh hai sang canh ba, hết canh ba sang tư bên ngoài vẫn lẳng lặng như tờ. Chỉ nghe thấy những dế kêu ri rỉ ở dưới vách và tiếng cuốc kêu khắc khoải ở ngoài rừng. Rồi thỉnh thoảng lại có những trận gió thổi vù vù, như nhắc cho nhà Chiếng Vân biết rằng quân cường bạo nó vẫn còn lăm le chờ đợi… Chiếng
Vân ngồi lẳng lặng, một lát, bỗng thấy ông thở dài, rồi cất tiếng lên nói nhỏ với hai người:
- Chẳng lẽ chúng nó thôi?...
Người con gái lắc đầu sẽ nói:
- Khi nào! Có lẽ nó để cho mình mệt!
Người thiếu niên nói:
- Thường nó đợi cho mình mệt rã ra rồi, mới đến cũng nên… Chiếng Vân gật đầu nói:
- Chính phải! Nhưng mình đi ngủ thời lại phấp phỏng không yên. Chiếng Vân vừa nói đến đây, bỗng người con gái nói thét lên: - Nó đến rồi! Bá phụ tránh mau! Nó bắn tên ngầm!
Vừa dứt nhời, Chiếng Vân chỉ mới lánh đầu đi, tiếp luôn hai mũi tên ngầm, đã bắn sượt qua hai tai Chiếng Vân, rồi cắm phập ngay xuống đất!...
Tức thời cả ba người đều đứng dậy, nhảy vụt ra sân, thấy bọn chúng đông gấp năm, gấp sáu hôm qua, chúng vây bọc cả xung quanh sân đặc như hàng rào... Người con gái thấy vậy, liền thét lên rằng:
- Lũ chuột sống sót, không biết tiếc mạng, lại còn dám dò đến!
Dứt nhời, múa tít hai thanh thư hùng kiếm xông lại kịch chiến. Tên tướng hôm qua, với Phi Hùng, Ngõa Phong, Lưu Anh, Mã Củng đều xúm cả lại đánh nhau với người con gái; còn bọn mới đến, chia nhau ra đánh với Chiếng Vân và người thiếu niên. Một lát, bỗng thấy người thiếu niên thét lên một tiếng: - Chết này! - Tiếp theo một tiếng “ối”, một tên tướng mới đến chết lăn quay ra…
Rồi, tiếp luôn hai, ba tiếng “ối”; hai, ba tên nữa đều chết lăn quay ra. Chiếng Vân bấy giờ cũng đã chém đứt đầu được một tên. Máu ở cổ tên ấy phụt lên, vô phúc thế nào lại phụt tóc ngay lên mặt Mã Củng. Mã Củng bị máu phun vào mắt, không mở ra được, chưa kịp vuốt mặt thời đã bị lưỡi kiếm của người con gái chém một nhát vạt mất một nửa đầu, tức thời lăn ra chết tươi!
Người thiếu niên thấy chỉ có một lát, mà đã giết chết được bốn, năm tên cường bạo, thời trong bụng nở ra như hoa cà, hoa cải, chiếc xà mâu21 cầm trong tay cứ vụt lên vụt xuống như mưa sa gió táp, tưởng đến quỷ thần trông thấy cũng phải bay cao xa lánh.
Tên tướng của bọn cường bạo, thấy vậy thời gầm thét lên như sấm, dùng hết sức bình sinh, lăn xả vào để đánh nhau với người con gái. Người con gái cũng thi chiến hết tài lanh lẹn22, quyết giết cho bằng
được tên hung ác ấy hôm nay… Chính đang lúc hai bên đánh nhau rất say thời người con gái thét lên một tiếng “Trúng này!”, tên tướng kia giật mình, tưởng là mình đã hở cơ thế nào, vội lùi tránh ngay ra một bên. Thừa lúc tên tướng ấy đương tránh, người con gái nhảy vót người lên, đá hất ngay một gót chân vào giữa cánh tay tên ấy. Bị một cái đá, tên ấy suýt nữa thời gãy mất cánh tay… chiếc đại phủ đang cầm, rơi ngay xuống đất! Không còn hồn vía nào nữa, hô lên một tiếng:
- Chạy! Quân bay! - Rồi ôm đầu vùn vụt chay trước… Bọn đồ đảng thấy tướng đã chạy, thời đều đổ xô nhau chạy theo…
Người thiếu niên và người con gái không chịu bỏ, đuổi riết ở phía sau. Khi đã ra khỏi cổng trước tới nửa dặm, bỗng thấy người con gái đứng dừng lại, lấy ở trong bọc ra mấy viên thiết đạn, vùn vụt ném theo. Tức thời nghe thấy mấy tiếng kêu, mấy tên bị đạn đều ngã bổ nhào cả xuống. Người thiếu niên thấy vậy, gọi to lên rằng:
- Chị ơi! Đừng dùng đạn mà phí, cứ để vậy chúng nó đấy, giết cho sướng tay!
Dứt nhời, cắm cổ lại đuổi. Bọn cường bạo thấy đuổi gấp quá, liền bảo nhau chia tản mác ra làm năm, sáu lối mà chạy. Hai người thấy vậy, không biết đuổi đám nào, liền đứng dừng cả lại. Còn đang phân vân nghĩ ngợi, thời Chiếng Vân cũng đuổi theo kịp, bảo hai người rằng:
- Về thôi, hai cháu ạ! Chúng nó đã chạy tản tác đi thế thời còn đuổi sao được nữa.
Hai người vâng lời, đều quay trở về. Bấy giờ trời đã sáng rõ, Chiếng Vân sai gia đinh kiểm xem những thây chết, thời thấy có tám người, cùng với ba thây ở ngoài đường là mười một người. Xét xem bọn ấy,
hết thảy là người Tàu. Chiếng Vân sai đào một cái hố thật sâu ở ngoài đầu trại, rồi đem cả 11 cái xác, chôn vào một hố. Công việc xong, người con gái nói với Chiếng Vân rằng:
- Cứ cung cách này thời thù hằn càng ngày càng sâu, tất sẽ có một ngày chúng nó mang đại binh đến cũng nên. Ở đây thành quách không sẵn, binh mã không có, chống chọi với nó mãi sao được. Vậy xin bá phụ y lời cháu, đưa cả toàn quyến vào với cháu, bá phụ vừa được khỏi bị dây dưa, mà cháu cũng được thời thường thỉnh giáo.
Chiếng Vân chưa kịp nói, thời người thiếu niên đã nói tiếp ngay lên rằng:
- Thì bá phụ cùng hiệp lực với chị em cháu, mà vì nước xông pha một phen cũng được chứ sao? Xin bá phụ cứ nghe lời chị cháu, đừng ngần ngừ gì nữa…
Chiếng Vân trầm ngâm một lát rồi nói:
- Không phải là bác không muốn cùng chị em cháu cùng toan việc nghĩa đâu. Bác chỉ tự nghĩ rằng bác bây giờ đã gần 70 tuổi đầu, cái thì giờ còn sống trên cõi đời không được bao lâu nữa. Vả tuổi già, sức yếu, dù có muốn ra tay nhưng cũng gân lỏng xương chồn23… Nên chỉ đành nấp bóng ngồi thở, giữ cho cái tuổi già được an nhàn chút nào, tức là để cho các em cháu được yên lòng chút ấy… Bởi ý
nghĩ của bác như vậy, nên hôm cháu mới đến, bác đã ngỏ lòng từ chối. Chẳng ngờ việc đời biến ảo, mây gió không thường, chỉ vì có một chút hiềm riêng, mà bọn quân Tàu bỗng gây nên cuộc hung tàn vô lý như vậy! Bây giờ thời bác nhẫn không thể mà muốn nhàn cũng không thể nhàn. Dù hai cháu không cố nài, bác cũng nói với hai cháu để cùng sang bên ấy. Dù sau này hoặc có bị thịt nát xương tan ở dưới mũi tên, ngọn giáo, cũng được trọn cái bổn phận của bác đối với quốc dân…
Chiếng Vân nói đến đấy thời nét mặt đỏ bừng lên, tỏ ra một cái thái độ rất quả quyết…
Người con gái và người thiếu niên thấy Chiếng Vân nói vậy rất mừng, đồng thanh nói:
- Nếu bá phụ chịu sang với cháu, thời việc đại nghĩa mới mong chóng thành được. Thật là may quá!
Nói rồi thúc giục Chiếng Vân thu xếp việc nhà, đợi đến ngày mai sẽ cùng khởi hành…
HỒI THỨ II
Quan lại Hán cùng nhau tranh bá;
Quân tướng Ngô nối gót sang Nam
Duyệt giả 24 xem hết hồi thứ nhất, chắc phải chú ý đến người con gái. Mà muốn biết ngay người ấy là ai?... Phải, chú ý đến là rất phải. Vì người ấy, đối với trên lịch sử là một người rất vẻ vang, tiếng thơm lưu truyền mãi mãi, sẽ cùng với trời đất bất tiêu, bất diệt; đối với quốc dân là một người rất có công đức, ân huệ, với giang san, nòi giống: chẳng những một đời chúng ta, mà đến trăm nghìn vạn ức đời về sau, nòi giống ta một ngày nào còn có ở trên mặt đất hình chữ S này, là còn phải nhớ đến công đức và ân huệ người ấy.
Người ấy tức là bà Triệu Thị Trinh, sử cũ chép là “Triệu Ẩu, người huyện Nông Cống 25, tỉnh Thanh Hóa bây giờ”…
Muốn biết lịch sử của bà, trước phải biết cái địa vị và thời thế nước ta bấy giờ thế nào?...
Xin nhắc lại, nước ta bị mất quyền tự trị từ năm Canh Ngọ, trước kỉ nguyên 111 năm, tức là cái thời kì vua Vũ Đế nhà Hán diệt được họ Triệu ở nước ta và lấy hẳn đất nước ta đem chia ra làm quận huyện đó.
Sau khi bờ cõi, nhân dân nước ta đã chịu chui vào trong vòng thống trị của nhà Hán, trải một thời kì 149 năm, đến năm Canh Tý - sau kỉ nguyên 40 năm – Vua Trưng dấy nghiệp tự trị được ba năm 26. Sang đến năm Quý Mão, thời nước ta lại bị mất về nhà Hán lần nữa. Lần này trải một thời kỳ tới 148 năm. Bấy giờ thời cục bên Tàu đã biến ra đời Tam Quốc. Mà ở nước ta cũng riêng lọt vào quyền thống trị trong một tay họ Sĩ. Họ Sĩ, tức sử cũ tôn gọi là “Sĩ Vương”, chính tên ông ta là Sĩ Nhiếp, tự là Ngạn Uy; tiên nguyên là người nước Lỗ (thuộc tỉnh Sơn Đông bên Tàu)27, đến lúc Vương Mãng cướp ngôi
nhà Hán, mới tránh loạn sang Giao Chỉ, ở huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô28.
Từ đời ông tổ sang quận Giao Chỉ đến đời Sĩ Vương là sáu đời. Thân phụ Sĩ Vương tên là Tứ, làm quan Thái thú quận Nhật Nam. Sĩ Vương lúc còn nhỏ, vào du học ở kinh đô nhà Hán, theo Lưu Tử Kỳ ở Đĩnh Xuyên học sách Tả thị Xuân Thu, đỗ Hiếu liêm, được bổ chức Thượng thư lang. Sau vì việc quan, bị cách chức; được ít lâu, lại phải về chịu tang cha. Khi mãn tang, Vương lại sang Hán thi, đỗ khoa Mậu Tài, được bổ làm quan Lệnh Vu Xương29, rồi thiên sang Thái thú quận Giao Chỉ.
Trước thời Sĩ Vương làm Thái thú, thời có quan Thứ sử là Chu Phù, vì sự tham tàn quá, nên dân ta đồng thời khởi lên giết đi. Tuy đã giết được viên tham quan ấy rồi, nhưng vì công cuộc khởi nghĩa của ta không có trật tự thống nhất, thành ra loạn lạc rối beng cả lên. Gặp lúc đó, Sĩ Vương vừa được bổ sang làm Thái thú. Sĩ Vương trông thấy cái tình hình nhiễu nhương như vậy, tự lượng sức một mình không thể đánh dẹp cho yên, muốn gây thêm vây cánh, nhưng lại sợ nếu dùng người ngoài, chưa chắc họ đã cùng lòng hiệp ý với mình, chẳng kẻo lại làm thêm khó khăn cho mình cũng nên. Vì nghĩ thế nên Sĩ Vương không còn ngại gì hiềm nghi, dâng biểu về triều đình, xin cho ba em:
Em thứ hai là Sĩ Nhất, lĩnh chức Thái thú quận Hợp Phố. Em thứ ba là Sĩ Vĩ, lĩnh chức Thái thú ở Cửu chân.
Em thứ tư là Sĩ Vũ, lĩnh chức Thái thú ở Nam Hải.
Vua Hán tiếp được biểu, liền chuẩn tấu y cho. Thế là cả bốn anh em Sĩ Nhiếp đều làm quan Thái thú ở bốn quận.
Bốn anh em Sĩ Vương tuy đã đều làm Thái thú, nhưng trên các quan Thái thú còn có quan Thứ sử. Quan Thứ sử bấy giờ tên là Trương Tân, người nối chân Chu Phù. Trương Tân là một người mê tín về quỷ thần, thường cứ trùm khăn đỏ lên đầu, gảy đàn đọc đạo thư,
không đoái hoài gì đến công việc chánh trị. Tân có viên Tùy tướng là Khu Cảnh, rất kiệt hiệt30, lại hay hiếu sắc, thường vẫn khinh Tân nhu nhược không biết làm quan. Nhân một hôm nhà Tân có tư yến; Cảnh được dự, thấy Tân có bảy, tám con thị tì trông rất yêu kiều mỹ lệ. Cảnh thèm quá, thèm đến nỗi mê người đi, hai mắt cứ nhìn chòng chọc vào bọn thị tì, đến nỗi rượu đã để lên đến môi rồi lại quên không uống, có lúc Tân hỏi chuyện cũng không đáp… Sau có người bạn thích vào cánh tay khẽ bảo, Cảnh mới sực tỉnh ngộ.
Tuy tỉnh thời tỉnh mà cái ma lực của tình dục nó làm cho hắn đến nỗi đâm liều. Đang giữa tiệc, hắn đứng phắt dậy, ra quỳ trước mặt Trương Tân lè nhè nói:
- Bẩm Minh công, tiểu tướng mạo muội muốn kính bẩm một lời, nếu Minh công có tha lỗi, tiểu tướng mới dám nói?
Trương Tân thấy cái cử chỉ của Khu Cảnh như vậy, thời ngạc nhiên, vội cất tiếng lên nói:
- Nhà ngươi có ý kiến gì thời cứ nói?
Khu Cảnh ấp úng nói:
- Bẩm Minh công, tôi năm nay đã ngoài 30 tuổi đầu, đem thân đi đất khách quê người, nhỏ cũng làm nên được một chức tì tướng. Thế mà phòng không chiếc bóng, rất nỗi cô đơn…
Trương Tân vừa nghe đến đấy thời mỉm cười nói:
- Nhà ngươi bấy lâu nói năng rất là khảng khái anh hùng, sao nay đổi giọng buồn rầu thế?
- Bẩm… bẩm, người ta ai lại chẳng có tình… Xin Minh công lượng xét chỗ đó cho.
Trương Tân nói:
- Nhà ngươi nói ý thế nào ta không hiểu. Hay là nhà ngươi muốn nói với ta để đón vợ con sang bên này chăng? Nếu vậy thì hay lắm, ta sẽ giúp tiền cho về quê mà đón gia quyến…
Khu Cảnh nghe đến đấy, đỏ bừng mặt lên mà rằng:
- Bẩm… bẩm Minh công quá lòng thương. Nhưng tiểu tướng thực chưa có gia quyến…
- À, thế ra nhà ngươi chưa có gia quyến đấy? Vậy có lẽ nhà ngươi muốn nhờ ta chủ trương việc ấy chăng? Được lắm! Nhưng nhà ngươi định lấy con cái nhà ai? Đã dạm hỏi chưa?
- Bẩm… thực chưa định hỏi con cái nhà ai.
Trương Tân ngạc nhiên nói:
- Ô hay! Thế nhà ngươi định nói với ta gì?...
- Bẩm… bẩm tiểu tướng chỉ muốn…
- Muốn gì thời cứ nói, sao phải ấp úng?
- Bẩm… bẩm… muốn… muốn…
- Thì nhà ngươi cứ nói ngay đi…
- Bẩm, xin Minh công một cô thị tì…
Trương Tân nghe dứt nhời, bất giác phì cười mà rằng:
- Ồ! Tưởng việc gì, có thế thôi mà cứ phải ấp úng mãi. Được rồi, nhà ngươi hãy cứ ngồi lên uống rượu, rồi ta sẽ liệu cho.
Được nhời như cởi tấc lòng. Khu Cảnh lạy tạ luôn ba, bốn lạy, rồi ngồi lên uống rượu. Trong thân thể Khu Cảnh bấy giờ thấy nó thư khoái lạ thường, chẳng khác một người bị bẩn lâu ngày mà được tắm; một người đang bị gánh nặng trên vai mà có người đỡ đi hộ…
Đến khi tan tiệc, Khu Cảnh về nhà, để vậy cả áo lăn vào giường nằm, cứ chợp mắt đi là thấy mấy con thị tì của Trương Tân hiển hiện ra trước mắt. Dằn dọc31 mãi một hồi lâu, bỗng nghe có tiếng kẹt cửa, một tên tiểu tốt đi vào vái chào một cái cất tiếng lên nói:
- Quan Thứ sử có lệnh mời tướng quân vào ngay…
Cảnh vội vàng xốc áo đứng dậy ra đến cửa có ngựa buộc sẵn, nhảy phắt lên ngựa, giật cương cho đi thẳng về phía dinh quan Thứ sử. Ngựa chạy, gió thổi vù vù, trông cây cối hai bên đường đều lướt chạy giật lùi trở lại. Một lát đã tới cổng dinh, thấy ngoài cổng cắm cờ, kết hoa, quang cảnh như sắp đón một vị quan nào lớn… Cảnh nghĩ bụng:
- Có lẽ hôm nay lại có sứ mệnh sang hẳn? Nếu vậy ta sẽ được dịp hỏi thăm công việc bên nhà…
Vừa nghĩ vừa xuống ngựa toan buộc cương vào một gốc cây liễu bên cạnh cổng. Một tên lính canh cổng chạy lại nói:
- Xin tướng quân cứ đi vào, để ngựa đấy tôi buộc.
Cảnh đưa dây cương cho tên lính ấy, thấy năm, sáu tên khác đứng gần đấy, cứ trông vào mình mà chỉ trỏ cười nói… Cảnh không hiểu ra thế nào, cứ điềm nhiên đi vào. Vừa đi gần tới cái bình phong trước chính đường, thấy tên nội thị chạy ra nói:
- Xin tướng quân sang ngay bên Đãi Nguyệt lâu, quan Thứ sử ngài chờ ở đấy đã lâu…
Khu Cảnh vội đi rẽ vào hoa viên, gần tới Đãi Nguyệt lâu đã nghe có tiếng đàn sáo vang lừng. Cảnh cắm đầu đi thẳng vào, vừa tới hè, đã thấy Trương Tân mình vận hồng bào, đầu đội ngân quan, tay trái vuốt râu, miệng sẽ mỉm cười, cất tiếng lên gọi:
- Gia nhân đâu! Đưa Khu tướng quân vào trắc thất32 thay quần áo mau!
Dứt tiếng, có hai tên quản gia chạy ra, dắt tay Khu Cảnh đưa vào một cái phòng con gần đấy, thấy có sẵn bộ quần áo mới ở đấy. Cảnh chả hiểu ra thế nào, thấy họ bảo thay thì mình cũng thay. Thay xong, hai tên quản gia đưa ra ngoài, thấy trong lầu trang hoàng một cách rất rực rỡ. Trên ban thờ sáp33 thắp sáng choang, hương bay nghi ngút; dưới đất rải chiếc đệm nhung đỏ, hai bên có bọn nhạc công đứng sắp hàng, cùng nhau cử nhạc34.
Cảnh trong bụng phân vân hồ nghi, ghé vào tai môt tên quản gia, hỏi thầm:
- Trong nhà quan Thứ sử hôm nay có việc gì mà náo nhiệt thế?
Tên quản gia bịt miệng lại cười, ngước mắt trông vào Cảnh, tỏ ra ý giễu cợt, rồi sẽ nói:
- Việc vui mừng của mình mà không biết. Rõ anh thật là người trong mộng!...
Cảnh nghe vậy thời bủn rủn cả người, cử chỉ đều thấy cứ run lẩy bẩy như người mắc bệnh thần kinh. Trong bụng nghĩ thầm: - Quan Thứ sử đối với ta như thế này, thật là ân đức hơn cha mẹ! Ừ, cha mẹ chỉ biết sinh ra ta, nuôi cho ta ăn và nhớn35, chứ có bao giờ làm cho ta được sung sướng đến thế này? Từ nay trở đi, ta phải coi quan Thứ sử thân thiết hơn cha mẹ ta mới được!
Đang nghĩ vậy, bỗng lại nảy ra một mối nghi ngờ: - Nhưng sao ngài có lòng thương ta, chuẩn lời yêu cầu của ta, lại không cho ta biết trước một mảy may gì. Để đến lúc việc đã đến nơi rồi, mà vẫn chưa thấy ngài nói sao cả. Thế mới biết cái độ lượng của bực đại nhân, thật không biết thế nào mà lường được.
Vừa nghĩ đến đấy, bỗng nghe có người nói xôn xao, tiếng cười khúc khích từ phía trong đi ra. Thoạt tiên thấy Trương Tân ra đứng trước nhà, cất tiếng lên nói:
- Quản gia, dẫn hai vị tân nhân ra lễ thiên địa, rồi dẫn vào động phòng làm lễ giao bái và hợp cẩn36 nghe!
Dứt nhời, bọn quản gia dạ ran cả lên. Tức thời bên thời quản gia, bên thời thị nữ dẫn hai vị tân nhân vào giữa đệm nhung cùng lễ. Khu Cảnh liếc mắt trông người tân hôn, thấy toàn mặc đồ đỏ, đầu cũng trùm khăn đỏ, không biết mặt mũi đẹp hay xấu thế nào... Chỉ thấy mùi thơm ngào ngạt, phảng phất quanh mình, khiến cho tâm hồn như dại, như ngây, như say, như tỉnh… Chẳng còn biết cử chỉ nói năng ra thế nào, cứ để mặc bọn quản gia dẫn đi đâu thì đi, bảo nói sao thì nói. Một lát sau, vào tới động phòng, do bọn quản gia chỉ dẫn cho làm lễ giao bái, rồi làm lễ hợp cẩn. Bấy giờ tiếng nhạc ở bên ngoài vẫn réo rắt vang lừng, dù có pháo nổ, người reo ở xung quanh cũng không thể biết. Lễ hợp cẩn xong, một mụ quản gia lại mở khăn trùm của vị tân hôn ra. Đầu mày, cuối mắt, muôn vẻ xinh tươi. Thật chẳng khác một đóa mẫu đơn mới nở ở dưới bóng trăng trong sáng! Khu Cảnh bấy giờ sung sướng một cách lạ lùng, mà cũng bối rối một cách lạ lùng, muốn tìm lấy một câu nói để gợi chuyện với người tân nhân yêu quý của mình mà không thể tìm sao được. Tiếng đàn sáo ở ngoài vẫn vang lừng.
Khu Cảnh cứ ngồi đần người ra để nhìn tân nhân. Mà mãi sau mới nói lên được một câu:
- Đôi ta mà được cùng nhau kết duyên như thế này, tuy là lòng trời run rủi, song thực nhờ ở cái đức độ cao dày của quan Thứ sử…
Người nữ lang sẽ mỉm cười mà rằng:
- Tướng quân đã biết là nhờ ơn đức của quan Thứ sử, chắc tướng quân cũng phải nhớ ơn.
Khu Cảnh gợi được vợ mới nói lên như vậy, thời sướng quá, vội cất tiếng trả nhời:
- Phải! Nhớ lắm chứ! Dù cho thịt nát xương tan, ơn đức ấy tôi cũng không khi nào dám quên…
Nữ lang nói:
- Thật đấy chứ! Tôi thường thấy ở đời có lắm người, cứ nói một đằng, lại làm một nẻo. Coi nhời thề như mực của loài Ô Tặc, viết trước phai sau37, nghĩ thật đáng lấy làm phàn nàn, chán ngán…
Khu Cảnh nói:
- Nhời ái khanh nói thật là động đạt38 thế tình. Nhưng ở đời, bao giờ cũng có kẻ dở người hay, chưa nên chấp nhất. Ngẫm như tôi, chỉ là một kẻ vũ phu, công cán gì chưa có, tài đức gì cũng không, mà bỗng nghe được quan Thứ sử ngài ban cho cái kỳ ân đặc ân như thế này, thời dù đến sắt đá cũng phải cảm động, nữa chi là người. Tôi tính từ mai trở đi, tôi sẽ lập một cái “Trường sinh lộc vị bài” để cứ mỗi ngày tôi với ái khanh thắp hương khấn nguyện trời đất cho ngài được hưởng thọ và chức vị cao thăng…
Nữ lang nghe Khu Cảnh nói đến đấy thời sẽ mỉm cười, cất lên tiếng ngâm:
Ngã tâm phi tịch, bất khả quyển dã.
Ngã tâm phi thạch, bất khả chuyển dã.39
Ngâm xong lại se sẽ mỉm cười, lấy tay vỗ vào vai Khu Cảnh mà rằng:
- Người anh hùng nói một câu như chặt sắt, chém đanh40. Tôi mong tướng quân sẽ không phụ lời nói ấy.
Câu chuyện vừa xong, giọt rồng41 hầu cạn, tiếng nhạc ở bên ngoài cũng nghỉ, chỉ những tiếng vang thừa hình như vẫn còn phảng phất ở bên tai… Hai vị tân nhân ấy liền cùng dắt nhau vào trướng uyên ương, cùng vui giấc mộng Vu Sơn42 êm ái. Sáng hôm sau, Khu Cảnh dậy trước, toan ngảnh lại43 phía trong để đánh thức vợ cùng dậy, bỗng thoảng có mùi tanh tanh từ trong trướng đưa ra. Cảnh mở màn ra xem, bỗng một hiện tượng bày ra trước mắt: một bộ xương người trắng hếu, nằm trườn trườn ở trên chiếc đệm đỏ… Bên cạnh
bộ xương ấy vẫn còn thấy để đầy những đồ trang sức của người nữ lang đeo đúng tối hôm qua!
Khu Cảnh thấy vậy, không còn hồn vía nào nữa, kêu rú lên một tiếng, bừng mắt tỉnh dậy, té ra là một giấc chiêm bao!
Cảnh ngồi nhổm dậy, trông ngắm xung quanh mình, không thấy có một mảy gì khác, mà mồ hôi thời đã toát ra ướt cả hai lần áo… Cứ ngồi ngẩn ra ở trên giường, ngẫm nghĩ cái giấc mộng ban đêm, vẫn còn nhớ rõ rệt từng li từng tí… Lại như cách cử chỉ, giọng nói cười của người nữ lang, vẫn còn thấy hoạt hiện ra ở trước mắt… Liền lẩm bẩm nói một mình rằng: - Quái! Không biết vì sao mà bỗng lại sinh ra một cái ảo mộng như vậy? Ừ, nếu nói mộng do tưởng mà sinh ra, thời đối với việc hôn nhân kia ta có tưởng đến thật. Nhưng sao đang là mỹ nhân mà bỗng lại biến ra một bộ xương là thế nào? Có lẽ thần minh báo cho ta biết trước: bao những hạng mỹ nhân ở trên đời, bây giờ tuy trông bóng bảy lả lơi, nghiêng thành, nghiêng nước mà rút cục44 về sau cũng biến thành bộ xương trắng như thế cả. Bộ xương trắng ấy, ta có thể ham mê say đắm được, ta sẽ nên ham mê say đắm mỹ nhân. Quả vậy thời ở trong sách vở không còn nên để lại một chữ “sắc” nữa, vì chữ “sắc” ấy đối với ta không còn hứng thú gì kia mà!
Nói đến đấy, ngồi lẳng lặng lại một lát, bỗng lại lắc đầu nói:
- Không phải! Không phải! Đến bực thánh nhân như ông Văn vương45 ngày xưa cũng còn “hiếu sắc” nữa chi là mình? Nếu quả có vị thần minh nào đem cái hiện tượng ấy để báo cáo cho ta biết cái lý nghĩa thế, thời vị thần minh ấy cũng là một bậc đồ gàn, ta không thể theo được. Không thể theo được!
Nói rồi đứng dậy, gọi người nhà lấy nước rửa mặt, bước chân ra hè ngắm nghía mấy chậu hoa, bỗng sực nhớ đến cái thái độ của mình tối hôm qua, bất giác vẻ hổ thẹn hiện ra đầy trên mặt. Tự nghĩ: - Mình bấy lâu vẫn tự phụ là một bực ngang tàng trượng phu, tuy chức còn nhỏ, còn phải ở dưới quyền quan Thứ sử; nhưng mình đối
với quan Thứ sử vẫn giữ được cái địa vị bất khuất, quan Thứ sử vì vậy mà vẫn có ý kiêng nể mình… Sao hôm qua, mình lại bỗng đốn đời làm ra cái cách “vẫy đuôi chực miếng” như vậy?... Chà! Chà! Đó thật là do con ma tửu sắc nó giết mình rồi. Bây giờ mình làm cách nào để rửa được cái vết nhơ nhuốc ấy? Bọn quân sĩ của mình nó phải cười cho đến mục xương! Ừ, thảo nào, thảo nào, lúc ta mơ ngủ, khi vào đến cổng dinh thấy chúng nó chỉ trỏ ta mà cười thầm. Chết thật, có đời nào, một vị tướng đường đường nam tử như ta mà lại vì một đứa thị tì, đến nỗi làm mất cả khí tiết như thế bao giờ!...
Khu Cảnh nghĩ đến đấy thời mặt bỗng nóng bừng lên ngây ngứt46 như người say nắng, cứ đứng đờ người ra ở trước mấy chậu hoa. Con chim anh võ� treo trên lồng thấy tình hình chủ nó như vậy, hình như cũng biết là chủ đang buồn, cất tiếng lên nói:
- Chủ đã dậy! Chủ đã dậy!... Chủ đừng buồn! Chủ đừng buồn!...
Tiếng nó nói bập bẹ như đứa trẻ lên ba, tuy không rõ ràng nhưng có vẻ ngây thơ, ngộ nghĩnh.
Khu Cảnh nghe tiếng chim nói, hình như thức tỉnh người lại, thời rút cục cái lòng hiếu sắc vẫn chiến thắng được cái chí anh hùng, liền chép miệng mà rằng:
- Ừ, thôi ta trót thì chét, ở đời giữ sao cho được hoàn toàn. Bây giờ ta hãy cứ biết sẽ được một người như hoa tựa ngọc, để nâng khăn sửa túi cho ta, yên ủi47 ta những nỗi quê người đất khách, thế là đủ rồi. Còn ai cười hay không, ta cũng coi như gió thoảng ngoài, tai bất tất chấp, trách làm chi cho nhọc bụng.
Vì có mấy nhời nói quả quyết ấy, nên từ hôm ấy trở đi, Khu Cảnh lúc nào cũng mong quan Thứ sử sẽ thực hành lời nói của ngài cho mình.
Ngờ đâu, một ngày, hai ngày đến nửa tháng, một tháng, càng lâu càng mong, mong đến nỗi có lúc như người phát điên phát dại, mà
vẫn không thấy quan Thứ sử trả lời ra sao cả. Khu Cảnh sốt ruột quá, sau hỏi dò mấy tên quản gia, họ nói:
- Quan Thứ sử sau khi hứa tặng tướng quân tên thị tì, đến sáng ngày ngài tỉnh dậy, nói chuyện với phu nhân: ngài rất lấy làm hối nhời nói ấy. Ngài rất khinh ghét tướng quân là một người hiếu sắc, yêu cầu những điều vô lý, làm mất hết phẩm cách con người. Ngài định chờ dịp đổi tướng quân đi nơi khác, hoặc cách chức không cho ở đây nữa.
Khu Cảnh nghe thấy nhời nói ấy thời máu nóng sôi lên sùng sục. Lập chí định giết bỏ Trương Tân đi mới lấy làm cam tâm.
Hôm đó, nhân có tin loạn ở vùng Hợp Phố, Trương Tân họp văn võ liêu thuộc48 lại để bàn việc phái quân đi chinh tiễu. Bấy giờ cả Khu Cảnh cũng có dự ở đấy. Đang lúc bàn tán, có tên tiểu tốt vào trình
rằng: có con chim phượng hoàng đất49 đậu ở trên cây đa, ngoài gần bình phong… Trương Tân cùng bọn liêu thuộc đều đứng dậy ra xem.
Quả nhiên, một con chim phượng hoàng đất to bằng hai con sếu, lông đen và lốm đốm xanh, đuôi dài, mỏ đỏ, to bằng quả chuối hột, dài đến hơn gang tay. Nó đậu ngay ở lưng chừng cây, thấy người ra xem đông, nó chỉ trông xuống mà không hề động đậy. Chính đang lúc ai nấy đều chú ý vào một con chim to lớn; thì thào nói chuyện: người cho là điềm lành, người cho là điềm dữ, tiếng ồn ào như là vỡ chợ. Trương Tân đang giơ tay chỉ trỏ định gọi quân cung thủ đem cung ra bắn. Bỗng vụt một người chạy đến sau lưng Trương Tân, đâm một nhát suốt sau lưng ra trước ngực. Trương Tân kêu rú lên một tiếng, ngã phục ngay xuống, máu chảy ra như tháo cống, chết ngay lập tức.
Người giết Trương Tân là Khu Cảnh.
Sau khi Khu Cảnh đã giết được Trương Tân, tay trái móc vào bọc, lấy ra một tờ giấy, giơ cao lên, trông vào bọn liêu thuộc mà nói:
- Có mật chỉ: Trương Tân mê đạo, bỏ việc, tội thực đáng giết ngay. Văn võ ai không theo, tức khắc khép vào tội bội phản!
Ngay sau lúc Khu Cảnh giết Trương Tân, có nhiều viên võ tướng và bọn thân binh, toan xông lên giết Khu Cảnh. Sau khi thấy Khu Cảnh nói là có mật chỉ, thời ai nấy đều trông nhau không dám nhúc nhích. Thừa lúc đó, Khu Cảnh chạy tuột vào chính đường, giữ lấy hòm ấn Thứ sử, đòi hết thảy các liêu thuộc vào ngay nghe lệnh.
Bọn liêu thuộc bình nhật vốn chẳng ưa gì Trương Tân, lại thấy cái cách cử động của Khu Cảnh rất là tinh nhanh, hung ngược nên ai nấy đều lấy bảo toàn tính mệnh làm mục đích, Cảnh muốn vật sao thì vật, diệt sao thì diệt, đều không dám ho he!
Thế là Khu Cảnh, một viên tiểu tướng, đã nghiễm nhiên làm chức Thứ sử cõi Giao Châu.
Sau khi Khu Cảnh đã chiếm được chính quyền, cái việc nên phải thi hành trước nhất là bắt bọn thị tì để vui đường nhục dục.
Trương Tân có tất cả mười thị tì, tên nào cũng xinh đẹp, giòn giã. Tựu trung có tên Lăng Hoa là xuất sắc hơn hết.
Lăng Hoa mới độ 17 tuổi, chẳng những có cái tư sắc nhạn sa cá lặn, lại có đôi chút học thức, có tính nết kiên trinh. Bình nhật Trương Tân vẫn có ý thanh nhãn50 hơn các thị tì khác, vẫn định chờ dịp nói với phu nhân cho tôn làm thiếp. Lăng Hoa cũng tự biết cái phẩm giá của mình nên cách ngôn ngữ cử chỉ cũng khác hẳn với chín cô thị tì kia.
Cũng chung một số phận, Lăng Hoa cũng bị lọt vào tay Khu Cảnh.
Cũng lại riêng một số phận. Tuy vừa mới giao tiếp một lần với Lăng Hoa, Khu Cảnh cũng thanh nhãn hơn. Lăng Hoa đã có cái số phận riêng ấy, Lăng Hoa lại thêm có một cái tâm tư khác hẳn với đồng bạn.
Số là sau khi Lăng Hoa bị bắt, Lăng Hoa đã toan tự liều để cùng theo tiên Thứ sử xuống suối vàng. Lăng Hoa lại tự nghĩ: - Thứ sử hiện giờ con cái chưa có, anh em thân thích đều ở cả bên Trung Quốc, phu nhân thời già yếu chẳng làm nên trò trống gì. Nếu còn mình, mình cũng lại chết nốt, thời lấy ai là người báo thù cho Thứ sử? Âu là ta hãy liều nhẫn nhục ít lâu, chờ khi trả được thù rồi, bấy giờ ta sẽ tự liều cũng chưa muộn…
Bởi Lăng Hoa nghĩ vậy nên chi đối với Khu Cảnh, Lăng Hoa dùng hết cách để làm cho Khu Cảnh phải mê mệt. Nói cho đúng, có lẽ Khu Cảnh từ khi mới mang tiếng khóc mà ra đời, bao cái việc, khoái khoắc ở trên cõi đời từng trải cũng không ít; đến cả việc đâm người, chém người, xông pha ở dưới mũi tên lưỡi kiếm, Khu Cảnh cũng đã từng trải. Duy có lưới tình, Khu Cảnh mới vướng vào là một; bể tình, Khu Cảnh bây giờ mới bơi ra là một; đường tình, Khu Cảnh bây giờ mới đi lên là một. Vì sự mới mẻ lạ lùng ấy, nên chi Khu Cảnh mới vướng vào đã mắc, mới bơi ra đã đắm; mới đi qua đã vấp. Mà mắc, đắm, vấp một cách không thể nào vãn hồi được. Thương thay!
Hôm ấy, Khu Cảnh, quan Thứ sử mới, ngài bày dạ yến, thiết đãi các liêu thuộc. Mãi hết canh một mới tan tiệc. Rồi quan vào phòng nghỉ. Chỉ có một mình, Lăng Hoa được vào thị tẩm51.
Thật là hạnh phúc của Lăng Hoa!
Sáng hôm sau, mãi tới mặt trời cao bằng ngọn tre, vẫn chưa thấy quan dậy. Người nhà sinh nghi, đẩy cửa vào, một hiện tượng ghê gớm bày ra trước mặt.
Khu Cảnh nằm chết sóng sượt ở trên giường, giữa ngực còn cắm một con dao nhọn, máu chảy lênh láng đầy giường. Đầu giường, Lăng Hoa treo cổ lủng lẳng; hai chân buông thõng, hai mắt mở trông trừng trừng.
Một tiếng hô hoán, nha dịch liêu thuộc đều đổ xô cả vào. Ai nấy đều tấm tắc khen ngợi Lăng Hoa là một hiệp liệt52 ít có.
Thế là Khu Cảnh chết. Cõi Giao Châu không có Thứ sử.
Ngay khi Trương Tân bị giết, tin ấy truyền về đến Kinh Châu. Viên mục ở Kinh Châu là Lưu Biểu họp liêu thuộc lại bàn rằng:
- Giao Châu với Kinh Châu cách nhau không xa mấy. Hiện giờ trong nước rối loạn. Tào Tháo lộng quyền, các bực anh hùng đều lo toan chiếm đất để mở mang thế lực của mình. Chi bằng nhân dịp này ta sai quân sang chiếm lấy Giao Châu, ta hãy mở thế lực về phương
Nam, rồi sẽ chờ dịp mà trừ Tào Tháo, chỉnh triều cương thời cái huân lao53 của mình dù đến Y, Chu ngày xưa cũng không thể vượt hơn được.
Các liêu thuộc đều cảm phục là phải. Rồi đó, Biểu liền sai Lại Cung đem binh mã sang trước là giết Khu Cảnh, sau là chiếm lấy chính quyền ở Giao Châu.
Sĩ Nhiếp biết tin ấy, vội vàng dâng biểu về tâu với vua Hiến Đế nhà Hán. Vua Hiến đế hỏi Tào Tháo, Tào Tháo tâu rằng:
- Từ Hứa Xương sang Giao Châu, so với đường từ Kinh Châu sang, xa hơn tới gấp ba gấp tư. Hiện giờ, nghe tin Lưu Biểu đã sai Lại Cung đem binh mã sang rồi. Nếu giờ ta lại sai người đi, có khác gì cho đi theo sau để tiễn chân Lại Cung, thực không có ích gì cho đại sự cả. Tôi lại nghe Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ rất có thế lực, vừa rồi triều đình lại mới phong cho bốn em Nhiếp làm chức Thái thú. Hiện giờ người Giao Châu coi Nhiếp như thần như thánh. Trong tay Nhiếp có tới ba bốn mươi vạn binh mã. Thủ hạ có rất nhiều tướng giỏi quen việc trận mạc. Chi bằng nhân lúc này, triều đình đã phong cho Sĩ Nhiếp, cho Nhiếp được quyền đổng đốc54 tất cả bảy huyện. Tất nhiên Nhiếp phải đem quân để khu trục55 Lại Cung. Thế có phải triều đình vừa không phải tốn công nhọc sức mà lại vừa bảo toàn được cõi Giao Châu. Kế sách hoàn toàn không còn gì hơn thế nữa.
Vua Hiến Đế chuẩn tấu, liền sai sứ sang phong cho Sĩ Nhiếp làm chức “Tuy Nam Trung lang tướng lĩnh Giao Chỉ quận Thái thú, kiêm đổng đốc thất quận đại tiểu sử vụ.”
Sau khi Sĩ Nhiếp đã tiếp được sắc mệnh của triều đình, mỉm cười nói với liêu thuộc rằng
- Sự gia phong này, chưa chắc đã phải là ân mệnh của triều đình, chính là cái thâm mưu của bác Tào Mạnh Đức56 đây...
Các liêu thuộc hỏi cớ vì sao, Nhiếp nói rằng:
- Hiện giờ Lưu Biểu sai Lại Cung sang làm Thứ sử, y muốn chiếm lấy cõi đất này để sáp nhập vào Kinh Châu, cho rộng thêm thế lực mình. Tào Tháo vừa không muốn để mất Giao Châu, lại vừa không muốn động binh, nên mới tâu với hoàng đế cho ta được quyền đổng đốc bảy quận, đó chính là cái kế “Khu hổ tranh thực57” của hắn.
Bọn liêu thuộc lại hỏi:
- Thế, bây giờ Minh công tất sẽ phải động binh để trừ bỏ Lại Cung? Nhiếp cười mà rằng:
- Ai dại gì mà lại mắc lừa bác Tào Man58!
- Vậy đối với sắc mệnh của triều đình, khi nào dám trái. - Sắc mệnh của triều đình khi nào dám trái.
- Sắc mệnh của triều đình đã không trái. Đánh Lại Cung cũng không đánh, vậy chẳng hay Minh công làm theo phương pháp nào?
Nhiếp ung dung nói:
- Các ngươi cứ yên lòng chờ đó ít lâu, sẽ thấy ta trừ được Lại Cung, bảo toàn được 7 quận…
Các liêu thuộc thấy Nhiếp nói vậy, thời đều nghi hoặc nhưng lại không dám hỏi lại…
Lại Cung sang nhậm chức ở Giao Châu mới được chừng hơn một tháng. Hôm đó đang ngồi một mình ở trong văn phòng, xem xét lại mấy bức dư đồ59 các quận huyện thuộc cõi Giao Châu. Bỗng tên canh cửa vào bẩm:
- Có một người thư sinh xưng danh là Liêu Quý xin vào bái yết.
Cung truyền mời vào. Liêu Quý vào tới nơi, vái chào một cách rất là cung kính. Cung chỉ ghế mời ngồi, cất tiếng hỏi:
- Hiền sĩ quê quán tại đâu? Hôm nay tới đây, chắc sẽ có điều giúp ích bản súy60 chăng?
Liêu Quý đứng lên, vái một cái thật dài, rồi ung dung nói:
- Tôi là một kẻ bần sĩ ở Linh Lăng, vì có thân thích buôn bán ở bên Giao Chỉ, vì viết giấy về mời tôi sang chơi. Khi đi qua quận Thương Ngô, xẩy61 nghe được một câu chuyện, e chẳng những bất lợi cho Minh công, mà lại có thiệt hại đến oai danh của Lưu Kinh Châu. Tự nghĩ, mình dù nhỏ mọn, cũng là một người từng được thấm nhuần cái ơn huệ của Lưu Kinh Châu. Nếu thấy Lưu Kinh Châu có việc
không may, mà lại ngơ đi, chẳng những đối với Lưu Kinh Châu không đang62, mà tự vấn cũng thành là một kẻ vong ân bội nghĩa. Bởi cớ đó, nên tôi không từ đường đột mà muốn vào bày tỏ với Minh công một đôi lời…
Lại Cung nghe Liêu Quý nói vừa lưu loát, vừa lễ độ, thời tỏ ngay lòng kính trọng; liền cất tiếng lên nói:
- Chẳng hay có điều chi quan thiết63 đến như thế, dám xin hiền sĩ cứ thực tình chỉ giáo cho.
Liêu Quý ung dung nói:
- Tôi nghe từ khi triều đình ta thu phục được nước Nam Việt thời chia làm 7 quận?
- Phải.
- Bẩy quận ấy là: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam?
- Phải.
- Mỗi quận đặt một viên Thái thú. Trên viên Thái thú là Thứ sử. Thứ sử có quyền đổng đốc cả bảy quận?
- Phải.
- Lưu Kinh Châu sai Minh công sang đây, cũng là để đổng đốc cả bảy quận?
- Phải.
Liêu Quý hỏi đến đấy, thời gật đầu, mỉm cười mà rằng:
- Vậy sao giờ quận Thương Ngô lại không thuộc quyền của Minh công?
Lại Cung nghe Liêu Quý hỏi vậy thời ngạc nhiên vội hỏi lại: - Vì cớ sao mà hiền sĩ lại nói như vậy? Tôi thật không hiểu… Liêu Quý cười mà rằng:
- Vậy thế Minh công có biết quan Thái thú Thương Ngô là ai? - Có, tên là Ngô Cự.
- Chẳng những quen biết mà lại cùng là môn hạ của Lưu Kinh Châu? - Chính phải.
Liêu Quý sẽ mỉm cười mà rằng:
- Cứ một chỗ đó, Minh công cũng có thể hiểu được vì sao quận Thương Ngô sẽ thoát ly quyền thống trị của Minh công rồi!
Lại Cung nói:
- Xin hiền sĩ cứ nói rõ cái lý do vì sao?
Liêu Quý nói:
- Minh công với Ngô Cự khi trước cùng là môn hạ của Lưu Kinh Châu, nếu cứ cùng là môn hạ mãi thì khi nào lại sinh ra điều tiếng; hay là Ngô Cự làm Thái thú, Minh công cũng làm Thái thú, Minh công làm Thứ sử, Ngô Cự cũng làm Thứ sử, thời quyết cũng không sinh ra điều gì. Thảng hoặc64, nhờ số phận của Minh công đỏ hơn, bước công danh của Minh công nhanh hơn. Minh công được làm chức Thứ sử trước Ngô Cự, nhưng làm Thứ sử ở nơi khác, thời cũng không sao. Bây giờ Ngô Cự vẫn làm chức Thái thú ở Thương Ngô, Minh công vọt làm ngay Thứ sử ở Giao Châu. Trước kia cùng là bằng bối, ngày nay bỗng biến thành kẻ dưới người trên, tự xét mình đã cay đắng, đối với người lại bẽ bàng. Đổi chốn65 là Minh công, dám hỏi ngài cam hay không cam?
Lại Cung nghe Liêu Quý nói đến đấy, trầm ngâm một lát gật đầu mà rằng:
- Hiền sĩ nói rất phải. Vậy chẳng hay hiền sĩ biết Ngô Cự ý định thế nào?
- Cự một mặt dâng biểu về triều đình Hứa Xương, xin Tào Thừa tướng đem quân sang đánh Minh công, một mặt mật thư nói với Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp chỉnh bị binh mã để chờ tiếp ứng.
Lại Cung nghe Liêu Quý nói xong, cả sợ mà rằng:
- Nếu vậy thời ta tiền hậu thụ địch, nguy mất rồi. Vậy hiền sĩ có kế sách gì bàn giúp tôi với.
Liêu Quý ung dung nói:
- Minh công tự xét, liệu có thể địch lại được với Tào Thừa tướng không?
Lại Cung lắc đầu nói:
- Địch thế nào được! Tào Thừa tướng binh hùng tướng dũng, đến Lưu Kinh Châu cũng khó lòng đối đầu, nữa chi là tôi.
Liêu Quý nói:
- Đã thế thời cái kế hoạch của Minh công bây giờ, không gì bằng: “Tiên phát chế nhân.”66
- Phải dùng kế thế nào, xin hiền sĩ cứ nói rõ cho…
Liêu Quý nói:
- Tuy Ngô Cự có dâng biểu về triều, nhưng Tào Thừa tướng còn đang bận việc trong nước, khó lòng đã thoát thân đem quân đi xa được. Thừa lúc quân Tào chưa sang, họ Ngô đương đợi, Minh công đem ngay binh mã, ngậm tăm, chạy riết, đánh úp Thương Ngô, khiến cho Ngô Cự dở tay không kịp, quận Thương Ngô thế nào cũng lọt vào trong tay Minh công…
Lại Cung nghe nói, vỗ đùi mà rằng:
- Kế hoạch ấy rất diệu! Thật là lòng trời giúp tôi, mới run rủi cho hiền sĩ đến đây.
Song đó, Liêu Quý đứng dậy cáo từ, Lại Cung giữ thế nào cũng không chịu ở lại. Nói rằng:
- Tôi là một kẻ thư sinh, ưa bề nhàn dật, vì thăm thân thích, mới qua chốn này. Sở dĩ đem ngu kiến mà bày tỏ với Minh công là muốn bảo toàn cái oai danh cho Lưu Kinh Châu, thực không phải có hy vọng gì về đường danh lợi. Vậy xin Minh công cứ y kế ấy mà thi
hành, chắc thế nào cũng được thành công, còn tôi, cũng không cần phải ở đây làm gì.
Nói rồi ra đi, Lại Cung rất lấy làm mến tiếc, tiễn mãi ra cổng thành mới trở lại.
Canh 3 hôm sau, Lại Cung đem hết đại binh ở Giao Châu, nhằm thẳng quận Thương Ngô tiến phát.
Quân đi vừa đến núi Vân Nham…
… Lại Cung đem quân tới dưới núi Vân Nham, thời ngày vừa sâm sẩm tối. Cung liền truyền cho ba quân hạ trại yên nghỉ, chờ đến hôm sau sẽ tiến binh. Lại Cung yên trí rằng ở đấy còn thuộc về địa hạt của mình và lại là một nơi núi hiểm rừng sâu, hẳn không xẩy ra việc gì bất trắc nên cho quân sĩ cứ việc tự do yên nghỉ. Chỉ để dăm ba tên quân cầm canh giữ hiệu lấy lệ mà thôi.
Đêm hôm ấy muôn vật đều im lặng. Cả những tiếng chim kêu vượn hú, gió thét, suối reo là những tiếng thường có ở trên đỉnh núi Vân Nham, cứ đến ban đêm là phát động. Mà đêm hôm ấy thời hết thảy
đều im lặng. Hình như Sơn linh muốn để cho toán quân của Lại Cung được cùng nhau mà yên giấc mộng đêm trường… Quả vậy thời Lại Cung an nhàn lắm. Toán quân của Lại Cung cũng an nhàn lắm! Nhưng… nhưng sự đó thực chưa lấy gì làm chắc… Vào khoảng nửa đêm hôm ấy, Lại Cung và hết thảy các hàng quân sĩ đang mơ màng trong giấc ngủ say sưa, thời bỗng nghe thấy bên ngoài pháo nổ liên thanh, rồi tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và đều đua nhau mà nổi lên rầm rĩ…
Mấy tên quân canh thấy vậy, hoảng hốt chạy vào giữa sân trại kêu to lên rằng: - Cướp! Cướp! Có giặc cướp trại! Nguy to mất rồi! Trời đất ơi!... - Chúng vừa kêu, vừa chạy vào chỗ Lại Cung nằm. Lại Cung đương trong giấc nồng, bỗng giật mình tỉnh dậy, hoảng hốt nhẩy choàng xuống đất, chỉ vớ được một chiếc hoạch kích cầm ở trong tay; áo, mũ, đai, giày đều bỏ hết. Khi chạy ra được đến sân trại, chưa kịp gọi quân, thời đã nghe thấy khắp các trại xung quanh,
tiếng quân mình kêu rầm lên như ong vỡ tổ. Lại Cung cố trấn tĩnh lại, cất tiếng lên hô các tướng. Ngờ đâu tiếng hô chưa dứt, thời đã thấy xung quanh trại ngọn lửa bốc cháy đùng đùng. Lại Cung ngoảnh đi ngoảnh lại không còn thấy một người nào là tướng tá tâm phúc của mình nữa, liền thở dài lên một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: - Không biết quân nào mà đến đánh úp mình như thế này. Lạ quá! Lạ quá!
Chưa dứt nhời thì nghe loạn quân đã phá tan cửa trại mà xông vào. Lại Cung cuống quá, đành phải vung hoạch kích đánh tháo lấy đường để chạy. Vừa chạy thoát ra khỏi trại độ bốn, năm trăm thước, bỗng thấy một đám đến 100 bó đuốc, xúm xít, ủng hộ một viên đại tướng ngồi trên lưng ngựa, xồng xộc kéo đến. Dưới ánh lửa sáng, hình như viên tướng ấy đã thấy rõ mặt Lại Cung, tức thời viên đại tướng thét to lên rằng:
- Bớ Lại Cung! Ngươi có còn nhớ ta nữa không? Ta với ngươi vốn là bè bạn, chẳng phải hằn thù. Vì cớ sao ngươi nỡ nói gièm67 với Lưu Kinh Châu, định lấy đầu của ta, thu bờ cõi của ta? Ngươi là giống thú hay giống người, mà ăn ở tàn nhẫn đến như thế? Bây giờ đây, ta đem đầu ta sang rồi đấy, ngươi có giỏi thời lấy đi. Mau!
Lại Cung nghe mấy câu xỉ vả của viên tướng ấy, thời ngạc nhiên, không hiểu ra thế nào. Vừa toan hỏi lại thời viên tướng ấy đã chỉ huy quân sĩ vây bọc lấy mình, chúng cùng đua nhau reo lên rằng:
- Nào, xem chuyến này ta có bắt sống được hết bọn dối Chúa lừa nước không nào!
Lại Cung một mình ở trong vòng vây vừa đánh tháo vừa ngầm nghĩ: - Quái! Viên tướng địch là người nào? Nghe giọng nói thời ra y ngờ mình nói gièm với Lưu Kinh Châu, nên chi y tức giận mà đem quân đánh mình… Thế mới lạ chứ! Nào mình có nói gièm pha ai bao giờ đâu…
Lại Cung cũng vừa nghĩ đến đấy. Bỗng sực nhớ ra, nói lẩm bẩm một mình: - Ô! Không khéo người ấy là Ngô Cự rồi! Chết thật! Có lẽ ta bị
thằng Liêu cẩu nó đánh lừa ta cũng nên đây?...
Nghĩ vậy, đã toan đuổi cho kịp viên tướng kia để hỏi rõ đầu đuôi, nhưng lúc bấy giờ viên tướng kia đã chỉ huy quân sĩ đi nơi khác. Còn mình thời vẫn bị bó buộc vào trong vòng vây. Đánh mãi một hồi lâu, mới thoát ra được, liền cắm đầu chạy miết về phía bên kia. Ngoảnh lại thấy quân địch không đuổi nữa, liền tìm thấy một gốc cây để yên nghỉ. Một lát sau, bọn quân sĩ theo tìm đến cũng được vài trăm người, nhưng đứa nào cũng chỉ cầm được một thanh mã tấu hoặc một ngọn trường thương, còn mình thời mặc áo cánh chẽn chứ chẳng có áo giáp gì cả. Lại Cung trông thấy tình hình như vậy, thở dài một tiếng mà rằng:
- Ta không ngờ, đường đường một chức Thứ sử Giao Châu, chỉ vì không cẩn thận, mắc phải mưu gian, mà để đến nỗi lâm phải bước gian nan lưu lạc như thế này, ta còn mặt mũi nào để trông thấy nhân sĩ ở Giao Châu nữa?
Nói dứt nhời cầm hoạch kích toan đâm cổ để tự vẫn, bọn quân sĩ nhanh tay cứu được, đồng thanh nói với Lại Cung, xin hãy quay về Giao Châu, rồi sẽ định mưu phục thù tuyết hận68.
Lại Cung bất đắc dĩ cũng phải nghe lời, rồi dẫn tàn quân trở về Giao Châu. Khi về đến dưới thành, thấy cổng thành vẫn đóng, mà trên mặt thành cũng chẳng thấy quân canh, Lại Cung liền cất tiếng gọi, gọi đến hai, ba điều mà vẫn không thấy trong thành thưa, đương lúc phân vân nghĩ ngợi, bỗng nghe thấy trong thành nổ luôn mấy tiếng pháo, rồi cờ, giáo cắm lên san sát khắp trên mặt thành. Trên địch lâu kéo lên một ngọn cờ đại, giữa lá cờ đề một chữ “Sĩ” rất lớn. Phía dưới lá cờ có một viên thiếu niên tướng quân, đứng dựa vào bao lan69, tay trái giữ vào yểm tâm kính70, tay phải chỉ vào mặt Lại Cung mà thét to lên rằng:
- Lại Cung! Ta vâng mệnh Tào Thừa tướng đã lấy lại thành trì Giao Châu rồi. Muốn sống thời xa lánh ngay đi, ta đây cũng thể đức hiếu
sinh mà tha cho toàn tính mệnh. Nhược bằng còn dùng dằng, thời dưới mũi tên của bản tướng quân không dung tình đâu.
Lại Cung nghe dứt nhời nói ấy, khí uất bốc lên suýt nữa thời chết ngất người đi. Đã toan củ hợp71 quân sĩ, liều một trận sống mái cho hả lòng căm tức. Bỗng nghe thấy phía đằng sau trống trận nổi lên ầm ầm, toán quân đánh úp mình lúc ban đêm đã đuổi gần tới nơi. Lại Cung biết không còn cơ vãn hồi được nữa, đành cùng bọn tàn quân chạy rẽ vào phía Tây Lâm. Rồi cứ ngày nghỉ đêm đi, về thẳng vùng Linh Lăng theo làm một kẻ nông phu cho trọn kiếp.
Viết đến đây ký giả xin hãy tạm dừng bút mà thuật rõ viên tướng đem quân đến đánh úp Lại Cung là ai.
Nguyên lai viên tướng ấy chính là quan Thái thú quận Xương Ngô tên là Ngô Cự đó. Ngô Cự sở dĩ đem quân đến đánh úp Lại Cung là vì thấy có một người đến nói với mình rằng: “Lại Cung sắp đem quân đến đánh mình. Người ấy lại khuyên: ‘Nếu đem quân đi ngay, tất thể nào cũng bắt gập toán quân của Lại Cung ở giữa đường, sẽ thừa hư72 mà đánh úp. Sau khi đã phá tan được toán quân của Lại Cung, tức thời thừa hư lấy thẳng Giao Châu, thời không khó gì mà sẽ giữ được chức Thứ sử ở Giao Châu, có thể sánh hàng được với Lưu Cảnh Thăng ở bên nhà Hán…’” Vì nghe nhời nói ấy nên Ngô Cự mới kéo quân ra đi, quả nhiên chỉ đánh có một trận mà tan được toán quân của Lại Cung. Ngô Cự bấy giờ lại càng tin người khuyên mình hôm trước là rất đúng, liền kéo quân đắc thắng tới thẳng dưới thành Giao Châu. Khi đến nơi, thấy sự canh phòng ở trên mặt thành rất là nghiêm chỉnh; trên lá cờ đại bay phấp phới, lại thấy lộ ra một chữ “Sĩ” chứ không phải chữ “Lại”, trong bụng lấy làm nghi hoặc, nghĩ thầm: - Quái chưa? Sao cờ lại đề chữ “Sĩ”. Sĩ nào? Chẳng có lẽ cánh anh em Sĩ Nhiếp mà lại đến đây được lúc nào? Chính đang lúc còn trù trừ nghĩ ngợi, thời bỗng nghe thấy trong thành liên thanh pháo nổ, trên địch lâu hiện ra một vị thiếu niên tướng quân, chỉ vào mặt Ngô Cự mà nói to lên rằng:
- Chào Ngô Thái thú?... Sĩ Thái thú tôi có nhời cảm ơn ngài đã đánh đuổi Lại Cung hộ! Thành trì Giao Châu, Sĩ Thái thú tôi đã sai tôi bảo thủ73 rồi! Xin Thái thú trở lại cho!...
Ngô Cự nghe dứt nhời, thời nổi giận đùng đùng, tức thời chỉ huy quân sĩ đánh thành. Thành Giao Châu là một nơi thủ đô của toàn cõi Nam Việt, nên chi thành rất là kiên cố. Ngô Cự tuy có truyền quân đánh phá, nhưng chỉ cứ đứng hò reo hão ở ngoài hào, hễ anh nào chực bắc cầu qua hào để sang chân thành, thời đã bị trên thành ném đất ném đá xuống túi bụi, chả một tên nào dám bén mảng đến gần thành. Đánh mãi suốt từ sáng đến quá trưa, Ngô Cự thấy quân của mình tên nào tên ấy đều mệt nhoài, mà thành Giao Châu vẫn không bớt được một viên gạch, nhổ được một ngọn cỏ. Trong lòng tức tối vô cùng, nhưng thế vô khả nại hà74 đành phải truyền lệnh cho quân sĩ hãy tạm lui tìm nơi hạ trại để yên nghỉ dưỡng sức.
Đêm hôm ấy, Ngô Cự một mình rằn rọc75 trong trướng, càng nghĩ lại càng căm không thể nào chợp mắt đi được. Sáng hôm sau, Ngô Cự họp các tướng tá lại để bàn việc đánh phá thành Giao Châu. Cự bảo các tướng rằng:
- Sĩ Nhiếp xử với ta thế này thật là gian quyệt quá! Mình hết hơi hết sức, đem quân đi đánh đuổi bằng được Lại Cung. Đã yên chí rằng thành Giao Châu sẽ thuộc về quyền mình thống trị. Ngờ đâu Sĩ Nhiếp nó lại đem quân đến ót lấy Giao Châu trước, có khác gì mình làm cỗ sẵn cho người ăn, mà nó thời ngồi mát ăn bát vàng. Nếu chuyến này mà ta không lấy được Giao Châu, thời thật là bêu thêm một tiếng dại cho người đời khinh bỉ…
Ngô Cự nói dứt nhời, các tướng tá ai nấy đều tỏ ý căm tức. Lúc đó có một viên tham mưu là Trình Ấn, đứng lên nói rằng:
- Các tướng tá chỉ biết theo ý của Thái thú, mà hăm hở chực đánh lấy Giao Châu cho hả lòng căm tức. Nhưng cứ ý tôi thời xin Thái thú hãy nên gác bỏ việc Giao Châu mà lo lấy nơi căn bản…
Ngô Cự không đợi Trình Ấn nói xong, liền cất tiếng lên hỏi:
- Nhà ngươi bảo ta hãy gác bỏ việc Giao Châu mà lo lấy nơi căn bản là ý thế nào?
Trình Ấn nói:
- Cứ do ngu ý đoán xét: Thời Lại Cung không khéo cũng vì tin lời phản gián mà đem quân chực đáng úp Minh công, Minh công vì tin lời phản gián mà đem quân chực đánh úp Lại Cung. Bởi thế cả hai toán quân mới đột nhiên mà gặp nhau ở giữa đường. Tôi lại xét: người lập nên kế phản gián ấy, không khéo chính là bọn anh em Sĩ Nhiếp. Nếu gian mưu không gây nên bởi Sĩ Nhiếp, thời Sĩ Nhiếp biết đâu mà sai tướng lấy ót ngay Giao Châu của mình? Sĩ Nhiếp sở dĩ lấy được Giao Châu, vì bao nhiêu quân sĩ ở Giao Châu đã đem đi hết. Đã thế, thời chắc đâu Sĩ Nhiếp không dùng luôn cái kế mà chờ lúc ta kéo quân đi, thừa hư lấy cả Thương Ngô của ta? Vì cớ đó nên tôi nói với Minh công hãy bỏ Giao Châu mà kịp lo đến căn bản.
Ngô Cự nghe Trình Ấn nói xong, bấy giờ mới tỉnh ngộ, mặt tái mét ngay đi, miệng lắp bắp nói:
- Phải lắm! Phải lắm! Lời bàn của Trình tiên sinh thật là trông xa thấy rõ. Chết chưa! Thế bây giờ làm thế nào?
Các tướng nghe Ngô Cự nói vậy, thời đều ngơ ngác trông nhau, bàn tán rối loạn cả lên. Ngô Cự thấy quang cảnh như vậy thời cũng rối loạn, định truyền lệnh cho quân sĩ lập tức kéo về ngay hôm ấy, không chờ đến hôm sau.
Trình Ấn vội vàng gạt đi mà rằng:
- Đem quân về ngay thế nào được?
Ngô Cự ngạc nhiên hỏi:
- Nếu không đem quân về ngay thời làm thế nào?
Trình Ấn nói:
- Minh công hành binh đã lão luyện, mà sao đến việc này lại khờ như vậy? Mình bây giờ đã đương sử vào cái thời kỳ mắc mưu, việc tiến thoái phải nên dè dặt từng bước. Nếu bây giờ ta hấp tấp kéo quân về, thảng hoặc trong thành họ đem quân tập hậu thời sao?
Ngô Cự ngơ ngẩn nói:
- Nếu vậy thời làm thế nào?
Trình Ấn nói:
- Bây giờ Minh công phải sai hai viên du kích, đem hai chi quân76 nhỏ, phục ở hai bên đồi Tây Tự. Rồi ta sẽ cất quân từ từ đi ngay từ lúc nửa đêm. Lại sai mươi tên quân tế tác77 đi do thám từng đoạn đường một, phòng hoặc có đám quân nào đánh đón đường chăng?
Ngô Cự nói:
- Cứ như nhời tiên sinh nói thời biết mấy tháng mới về tới Thương Ngô? Thôi, tôi chịu thôi không thể dùng dằng thế được?
Nói dứt nhời, nhất vị truyền lệnh cho toàn quân đúng nửa đêm hôm ấy thời nhất tề bạt trại khởi hành.
Trình Ấn thấy Ngô Cự không nghe lời, đến lúc trở ra thở dài nói lẩm bẩm một mình rằng: - Tiếc thay! Mấy nghìn binh mã, một quận sinh linh bị tống táng trong tay một kẻ vũ phu độc đoán!
Nói rồi cuốn gói hành lý, một mình lẩn trốn ngay từ lúc chập tối.
Nửa đêm hôm ấy, Ngô Cự truyền lệnh toàn quân bạt trại khởi hành, vừa đi gần đến trái đồi Tây Tự, bỗng nghe thấy tiếng liên thanh pháo nổ, rồi thấy trăm, nghìn bó đuốc vùn vụt từ hai bên trái đồi kéo ra, tiếng trống đánh như ếch kêu, tiếng loa vang như sấm động.
Toán quân của Ngô Cự bấy giờ, đã mang sẵn một tấm lòng nghi sợ. Đột nhiên gập có phục binh, thời đều táng đởm kinh hồn, đều đua
nhau ôm đầu trốn chạy tán loạn.
Ngô Cự bấy giờ cũng hoảng sợ, cùng với mấy tên tì tướng vừa đánh vừa chạy, mãi đến tận núi Vân Nham; không thấy quân sau đuổi nữa, bấy giờ mới dám dừng chân lại nghỉ, điểm lại tàn binh, thời còn lại không được một nửa, liền vỗ tay vào yên ngựa, thở dài mà rằng: - Nếu ta biết nghe Trình Ấn thì đâu đến nông nỗi này!
Nói rồi truyền quân sĩ đi tìm Trình Ấn, có tên biết chuyện liền nói với Ngô Cự rằng:
- Trình Ấn đã bỏ đi ngay từ tối hôm qua.
Ngô Cự bấy giờ đầy lòng hối hận. Nhưng sự thể đã lâm đến cái nước vô khả nại hà, đành lủi thủi kéo tàn binh thẳng về Thương Ngô. Khi về đến Thương Ngô thời quả nhiên thành trì quận Thương Ngô đã bị tướng của Sĩ Nhiếp chiếm mất rồi. Đành phải thay hình đổi dạng chạy trốn về Trung Quốc. Thế là Sĩ Nhiếp chỉ ngồi yên một chỗ, chưa bao lâu đã hoàn toàn lấy được cả hai quận.
Sau khi đó Sĩ Nhiếp liền sai sứ sang cống nhà Hán. Hán Hiến đế liền phong cho Sĩ Nhiếp làm An Viễn tướng quân Long Đô đình hầu, được quyền đổng đốc cả bảy quận. Từ đó uy quyền của Sĩ Nhiếp càng ngày càng lừng lẫy. Sĩ Nhiếp lại sẵn lòng khai hóa cho nhân dân, nên chi dân ta cũng rất là cảm phục.
Cách mấy năm sau, Ngô Tôn Quyền đã hùng cứ một phương Đông Nam bên Trung Quốc, đặt tên nước gọi là Ngô. Địa thế của cõi Giao Châu ta bấy giờ đối với nhà Hán thì xa, mà đối với nước Ngô thì gần. Tôn Quyền thấy vậy, liền quyết chí lấy cả cõi Giao Châu để sáp nhật vào nước mình để cho được gây to thêm thế lực đối với Thục và Ngụy.
Năm Canh Dần, tức là sau kỷ nguyên 20178 Ngô Tôn Quyền sai Bộ Chất sang làm Thứ sử Giao Châu. Sĩ Nhiếp liệu thế mình không thể cự được, liền đem cả ba em là các quan Thái thú quận Hợp Phố, Cửu Chân và Nam Hải ra đón Bộ Chất và vâng triệu tiết chế.
Ngô Tôn Quyền thấy Sĩ Nhiếp là người biết lượng thời đại, liền phong cho Sĩ Nhiếp làm chức Tả tướng quân.
Sĩ Nhiếp muốn buộc cho chặt tấm lòng thân ái của Tôn Quyền và để cho mình được yên hưởng sự thái bình ở cõi Giao Chỉ, liền sai con là Sĩ Hâm sang Ngô làm con tin. Ngô phong cho Sĩ Hâm làm chức Thái thú là quận Vũ vương. Còn các con cháu của Sĩ Nhiếp nguyên trước
vẫn ở trong nước không sang bên Giao Chỉ, Tôn Quyền đều phong cho là chức Trung lang tướng. Sĩ Nhiếp lại dụ được người thổ hào ở hạt Ích Châu là bọn Ung Khải về với Đông Ngô. Tôn Quyền lại càng
khen Sĩ Nhiếp là người có tài cán và trung thành, liền gia phong cho Sĩ Nhiếp làm chức Vệ tướng quân Long Biên hầu; và phong cho con Sĩ Nhiếp là Sĩ Nhất chức Thiên tướng quân, Đô Hương hầu.
Trò đời hòn đất ném đi thời hòn chì ném lại, Tôn Quyền đã hậu đãi cha con Sĩ Nhiếp, chả lẽ Sĩ Nhiếp lại không có gì báo lại cái hậu ân ấy. Bởi thế, nên Sĩ Nhiếp thường cho sang cống bên Ngô rất hậu, những đồ như: hương liệu, vải gai, ngọc trai, đồi mồi, lưu ly, lông trả79, tê giác, tượng nha80 và các thứ quả lạ như: chuối, dừa, long nhãn, lệ chi81,… Lại có khi đem cống cả một đàn ngựa tới hàng trăm con. Lần nào, Quyền cũng làm thư cảm ơn và tặng lại rất nhiều. Sĩ Nhiếp cầm quyền chính ở cõi Giao Chỉ ta trước sau vừa được 40 năm, đến năm Bính Ngọ tức là sau kỷ nguyên 226 năm thời tạ thế, hưởng thọ được 90 tuổi.
Tôn Quyền nghe tin Sĩ Nhiếp đã mất, liền đem đất Giao Châu chia ra làm hai châu; từ Hợp Phố trở về Bắc là Quảng Châu, dùng Lã Đại làm Thứ sử. Từ Hợp Phố trở về Nam là Giao Châu, dùng Đới Lương làm Thứ sử, lại sai Trần Thời sang thay Sĩ Nhiếp làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Khi Đới Lương và Trần Thời sang đến quận Hợp Phố thời ở Giao Chỉ bỗng xẩy ra một việc chẳng ngờ, khiến cho Đới, Trần hai tướng phải tạm đóng quân lại ở quận Hợp Phố.
Nguyên lai sau khi Sĩ Nhiếp chết, có người con thứ là Sĩ Huy bàn với mọi người cẩn thận rằng:
- Đức tiên nghiêm82 ta khó nhọc trong 40 năm, mới mở mang được ra cõi Giao Chỉ tốt đẹp như thế này. Nhà Ngô đối với ta chẳng qua là có cái tình nghĩa đi lại. Huống chi lúc sinh thời tiên nghiêm ta đối với nhà Ngô cũng không phải là bạc. Nay tiên nghiêm ta vừa mới tạ thế, nhà Ngô chẳng nghĩ gì đến tình nghĩa cũ, lại sai người khác sang để tiếm giữ lấy chức quyền. Nghĩ như thế thật không có tình nghĩa gì
nữa. Các ngươi thử nghĩ xem có kế gì đối phó được với nhà Ngô chăng?
Lúc đó có tên Đào Thù là một người của Huy rất thân tín, đứng lên nói rằng:
- Hiện giờ tiên Thái thú tuy đã tạ thế, mà bao nhiêu quyền quân dân ở địa hạt Giao Chỉ này vẫn còn ở trong tay công tử. Nếu công tử muốn nối nghiệp của tiên Thái thú, chi bằng tự lập ngay lên làm Thái thú, rồi đem binh mã mà cự lại với tướng Ngô, thời có khó khăn gì mà đại sự chẳng thành.
Sĩ Huy nghe lời, liền kén ngày tự lập lên làm Thái thú, tuyên bố lời thệ quân83, quyết chí kháng cự với quân Ngô.
Khi đó có người cố lại84 của Sĩ Nhiếp tên là Hoàn Lân biết tin ấy liền vội vàng đến nói với Sĩ Huy rằng:
- Công tử nghe ai mà dám tự lập lên làm Thái thú để kháng cự với quân Ngô?
Sĩ Huy nói:
- Ta sở dĩ phải tự lập nên như vậy là bởi nhà Ngô đối với ta vô tình, nhà Ngô quên ân nghĩa của phụ thân ta…
Hoàn Lân nói:
- Công tử thử nghĩ: từ khi tiên Thái thú giao thiệp với nhà Ngô, trong một họ Sĩ, bao nhiêu người chịu cái tước lộc của nhà Ngô.
Đến như hồi tiên Thái thú sinh thời, tiên Thái thú cũng nói với các liêu thuộc, “các ngươi không nên quên ơn đức của nhà Ngô”. Đến nay tiên Thái thú mất đi, nếu công tử có muốn thừa kế cái đại nghiệp của tiên Thái thú, thời trước đấy hãy nên dâng biểu trần tình với nhà Ngô, chắc nhà Ngô cũng không hẹp gì mà không cho công tử được thỏa chí mình. Công tử chẳng làm thế, lại thiện tiện tự lập lấy mình, chẳng thèm bẩm mệnh với nhà Ngô. Đó tức là công tử quên ơn nhà Ngô trước chứ không phải nhà Ngô quên ơn của tiên Thái thú. Đó là nói về bên tình, công tử cũng đã là một người vô tình lắm rồi. Còn như nói về bên thế, thời công tử hiện nay chỉ thống suất có binh mã ở trong toàn hạt85 Giao Chỉ, cái số không được trên dưới hai vạn người. Giả sử nhà Ngô chỉ chuyên giao cho mấy quận ở hạt Giao Châu này, thống suất binh mã để đối đầu với công tử, công tử cũng đã khó lòng chống nổi được. Huống chi cái binh lực của nhà Ngô, chẳng những chỉ có ở mấy quận trong cõi Giao Châu này mà thôi. Chắc công tử cũng biết tin nhà Ngô chỉ đánh một trận ở Xích Bích, mà giết quân Tào Tháo hàng mấy mươi vạn. Đem cái binh lực ấy mà so sánh, phỏng ta có thể chọi nhau với nhà Ngô được một ngày chăng? Chẳng những thế, hiện giờ anh em thân thích của công tử, làm quan ở bên nhà Ngô cũng không phải là ít, nếu công tử khởi binh lên để phản kháng lại với nhà Ngô, theo ý công tử phỏng nhà Ngô có để cho những người ấy được hoàn toàn chăng?
Như thế, công tử chẳng những đối với nhà Ngô là một người không biết tình, không lượng thế, mà đối với anh em thân thích lại là một người quên mất nghĩa bảo toàn. Xin công tử nên nghĩ kỹ chỗ đó, đừng quá tin lời ngon ngọt của kẻ tiểu nhân, mà sau này hối lại không kịp…
Sĩ Huy nghe Hoàn Lân nói chưa dứt nhời, thời nổi giận đùng đùng quát to lên rằng: “Ta nghĩ nhà người là một kẻ cố lại của đấng tiên quân, bây giờ đấng tiên quân tạ thế đi, nhà ngươi đến đây, chẳng vì
ta bày kế trường cửu86, bảo toàn danh giá thì chớ, lại chực vì nhà Ngô để làm thuyết khách à?
Nói dứt nhời quát hỏi tả hữu vật Hoàn Lân ra đánh cho 30 trượng, rồi đuổi ra khỏi cổng thành không cho lưu luyến ở địa hạt Giao Châu nữa. Thương hại thay Hoàn Lân đã ngoài 50 tuổi hoài bão một tấm lòng trung trực, muốn vì con cố chủ bày kế lâu dài, chẳng ngờ điều lành thành điều dữ, điều ngay bẻ điều queo, thành bị một trận đòn rất là ê chề đau đớn.
Sau khi Hoàn Lân đã bị đòn, vì đau quá mà chết ngất đi, người nhà mang về phải thuốc thang chữa chạy hai ba ngày mới khỏi. Hoàn Lân có người em tên là Hoàn Trị, cũng là một chức quan nho nhỏ ở quận Cửu Chân, hôm ấy ngẫu nhiên về Giao Chỉ thăm anh, thấy tình cảnh như vậy, liền họp tất cả anh em trong họ lại bàn rằng:
- Anh ta đối với tiên Thái thú, cũng có chịu ít nhiều ơn huệ. Nhưng thực ra cũng chỉ như người đi ở thì lấy công chứ nào có thâm căn cố đế gì cho lắm. Thế mà Sĩ Huy nỡ lòng lật mặt đối đãi một cách tàn nhẫn như thế. Anh ta nó còn đối đãi như thế nữa chi là chúng ta. Vậy phen này ta phải cùng nhau hợp sức, trị cho nó một mẻ, cho nó biết tay, chứ ta quyết không để cho nó yên như thế được.
Hoàn trị nói dứt nhời hết thẩy các người trong họ đều biểu đồng tình, xin tuân theo mệnh lệnh.
Tức thời Hoàn Trị các người trong họ từ tráng đinh trở lên tất cả hơn trăm người, rồi phái những bọn ấy đi chiêu mộ ở vùng lân cận. Đi đến đâu, bọn ấy đều nói phao lên rằng: “Sĩ Huy sắp bãi bỏ hết các chính sách khoan hồng của quan Thái thú trước, sắp bắt dân đinh phải chịu các thứ thuế rất nặng, sắp đặt ra các binh pháp rất ghê gớm để trừng phạt kẻ có tội, sắp phái người xuống dân gian kén lấy hai, ba trăm con gái để làm tì thiếp và để tiến cống về nhà Hán; lại sắp hạ lệnh cấm những người tụm năm tụm ba trò chuyện ở ngoài đường; cấm không cho nhà nào tụ họp ăn uống từ hai, ba mâm trở lên v.v…”
Vì tin những lời phao ngôn ấy, nên khắp dân gian ai nấy cũng đều thầm oán Sĩ Huy, mà đều đổ xô theo về cánh Hoàn Trị, trong có ba ngày, số quân theo về Hoàn Trị đã được tới ngót ba vạn.
Tức thời Hoàn Trị cấp phát cho binh giáp, chia thành đội ngũ, kéo đến vây bọc kín xung quanh thành quận Giao Chỉ. Sĩ Huy ở trong thành nghe thấy tin báo ấy, vội vàng cùng mấy viên tì tướng thấy
quân ngoài vây bọc rất đông, kỵ sĩ binh giáp rất là oai nghiêm chỉnh túc. Hoàn Trị mình cưỡi trên con ngựa Kim Ô, tay cầm chiếc tử kim thương chạy ngang xông dọc để chỉ huy quân sĩ, trông khí thế rất là
hùng dũng. Sĩ Huy một mặt truyền lệnh cho các doanh đội phải lên tất cả mặt thành để phòng bị, một mặt về thẳng trung quân trướng hội họp các thiên tì tướng tá, hội cả trung quân trướng để bàn kế cự địch.
Sau khi các tướng đã đến đủ, Sĩ Huy cất tiếng lên hỏi: - Có ai dám ra lấy đầu Hoàn Trị cho ta bây giờ không? Dứt nhời hỏi, có một người ra đứng trước ban nói to lên rằng: - Tiểu tướng xin ra lấy đầu Hoàn Trị.
Sĩ Huy trông ra tức là viên Thiên tướng tên là Mã Củng, Sĩ Huy lừ mắt mà rằng:
- Ta coi thằng Hoàn Trị nó hùng dũng lắm, mi có tài cán gì mà dám ra đối địch với nó?
Mã Củng đỏ mặt tía tai nói to lên rằng:
- Sao công tử lại cứ nói tăng cái nhuệ khí của người, lại tự giảm cái oai phong của mình? Coi cái bộ dạng thằng Hoàn Trị ấy thời thấm vào đâu? Xin công tử cho tiểu tướng đi. Nếu trong nửa giờ mà tiểu tướng không lấy được đầu Hoàn Trị thì tiểu tướng tình nguyện chịu theo quân pháp.
Sĩ Huy cười nhạt mà rằng:
- Đã vậy, ta cấp cho nhà ngươi 300 binh mã ra lấy đầu thằng Hoàn Trị, nếu không được y lời thời đừng về đây trông thấy mặt ta nữa.
Mã Củng được lệnh, hớn hở lui ra, nhảy lên ngựa, múa siêu đao, vãy bọn quân sĩ xông ra cổng thành.
Sau khi Mã Củng đã đem quân ra thành, Sĩ Huy vẫn cùng ngồi với chư tướng bàn bạc. Bỗng nghe thấy ở ngoài thành tiếng chiêng, tiếng trống vang giời dậy đất, một lát có quân vào báo rằng:
- Mã tướng quân đã bị Hoàn Trị giết chết rồi.
Sĩ Huy nghe báo giật mình kinh sợ hỏi các tướng rằng: - Ai có mưu kế gì lui được địch quân chăng?
Suốt các hàng tướng tá vẫn im lặng. Sĩ Huy thấy vậy cả giận, vỗ án quát lên rằng:
- Ô hay! Sao các ngươi lại ngồi ì ra thế hử? Chỉ biết lúc vô sự thời muốn quan sang chức trọng, mà đến lúc hữu sự thời không người nào mở môi ra một câu gì à? Trí khôn các ngươi lâu nay thế nào? Hay chỉ bàn tán hão là được phải không?...
Vừa dứt nhời, một viên tướng ra trước bàn nói rằng:
- Xin công tử chớ nóng nẩy như vậy! Tiểu tướng Quách An xin tình nguyện ra báo thù cho Mã tướng quân…
Chưa dứt nhời, Sĩ Huy cười nhạt mà rằng:
- Nhà ngươi lại muốn theo Mã Củng chăng? Thôi đừng dở dói87 báo thù gì nữa, hiện giờ thế rất nguy ngập, hãy nghĩ mưu kế đi đã…
Quách An mặt giận hầm hầm, rút kiếm ra và nói rằng:
- Xin tình nguyện cắt đầu dâng nộp dưới trướng công tử sau khi bị thất bại với Hoàn Trị. Nếu công tử không tin tôi xin viết quân lệnh trạng…
Sĩ Huy gạt đi mà rằng:
- Ngươi nói quá làm gì, muốn đi ta cũng thuận. Nhưng ta e khó lòng địch nổi được…
Quách An tức quá, nói to lên rằng:
- Nếu công tử không cho tôi đi thời tôi không sống để làm gì nữa.
Dứt nhời cầm kiếm toan đâm cổ, thì Sĩ Huy bỗng nhảy xuống giật lấy thanh kiếm mà nói rằng:
- Nhà ngươi chớ vội. Ta cho đi, phải cố sức lấy toàn thắng mới được… - Quách An cả mừng, lạy tạ múa trường thương ra ngoài thành nghinh địch.
Nói về Hoàn Trị đang chỉ huy quân sĩ phá thành, thời bỗng lại thấy thành mở toang, một viên tướng múa trường thương phi ngựa ra cự địch. Hoàn Trị vội vàng hô quân cung nỏ bắn bừa vào. Quách An cả giận, múa thương gạt tên chực xông ra, thời bỗng một tiếng nổ rất to, rồi mù mịt không trông thấy gì, mà quân địch vẫn bắn vào như mưa, hồi lâu Quách An mỏi mệt đang chực quay về, thời bỗng một tiếng quát đằng sau, Quách An giật mình ngoảnh lại thời thấy Hoàn Trị đang múa chiếc tử kim thương phi ngựa lại, Quách An nghiến răng thét to lên rằng:
- Chà! Hoàn Trị giỏi thực.
Dứt nhời, dùng hết tàn lực múa thương đối địch, nhưng không được vài hiệp, thời đuối sức quá, bị Hoàn Trị đâm một thương ngã lăn xuống ngựa mà chết. Hoàn Trị nhảy xuống ngựa cắt lấy đầu Quách An sai treo lên ngọn cờ.
Lại nói về Sĩ Huy thấy Quách An đi rồi, rất lấy làm lo ngại, bỗng thấy một tên bại quân về báo rằng:
- Quách tướng quân bị giết, hiện Hoàn Trị đang bêu thủ cấp ở ngoài thành rồi.
Sĩ Huy cả sợ, chưa kịp nói gì, bỗng thấy một tướng quát lên rằng: - Hoàn Trị giỏi thật. Dám giết anh ta.
Dứt nhời vác hoạch kích chạy vụt ra không kịp hỏi gì với Sĩ Huy, Sĩ Huy trông ra thời tức là Quách Nghi em Quách An, liền vội vàng lên địch lâu xem, lên địch lâu trông ra thì đã thấy hai tướng giao chiến rất hăng hái, cát bụi mù trời, kẻ kích người thương, tiến thoái rất nhanh nhẹn, trông ra chỉ có hai luồng bạch khí vùn vụt như sao sa chớp nhoáng, thật là “kỳ phùng địch thủ, tương ngộ lưỡng tài”, chiêng trống rầm trời, quân reo dậy đất. Hai tướng giao chiến đến trăm hiệp mà không phân được thua. Quách Nghi thấy không đánh nổi thì cả giận trợn mắt thét lớn:
- Chà! Giỏi thực! Nếu không lấy được đầu thằng chó chết này hôm nay thời ta quyết không về thành nữa.
Dứt nhời, gắng sức đánh một hồi lâu, thời bỗng nghe thấy trên thành có tiếng chiêng thu quân. Quách Nghi nghiến răng chỉ vào mặt Hoàn Trị mà thét to lên rằng:
- Ta hãy để cái mạng mày đến ngày mai!
Hoàn Trị cũng chỉ thương quát to lên rằng:
- Nhà ngươi tối nay khá rửa cổ cho sạch để mai ta cắt đầu cho khỏi bẩn kiếm của ta!
Dứt nhời hai bên đều thu quân, Quách Nghi vẻ mặt hầm hầm về tới trướng phục mệnh với Sĩ Huy và thưa rằng:
- Cớ sao, tiểu tướng đang sắp bắt được địch tướng mà công tử lại thu quân?
Sĩ Huy vỗ vào vai Quách Nghi mà rằng:
- Nhà ngươi thật là Phàn Khoái88 của ta đây. Nhưng việc quân phải nên thận trọng lắm mới được. Nhà ngươi nên biết: hai người đánh nhau cũng phải có người được người thua, huống chi bây giờ trời đã sẩm tối rồi, nên ta mới hồi chiêng thu quân để đến sáng mai sẽ hay.
Quách Nghi vâng mệnh lui về bản trại yên nghỉ.
***
Sáng hôm sau Hoàn Trị đang khiêu chiến ở dưới thành bỗng thấy cửa thành mở toang, Quách Nghi dẫn quân xồng xộc kéo ra, khí thế rất là hăng hái. Hoàn Trị dừng ngựa rút kiếm chỉ vào mặt Quách Nghi mà rằng:
- Lại tướng! Ra đây chịu chết đó chăng?
Quách Nghi hầm hầm nổi giận thét to lên rằng:
- Nhà ngươi chớ khoe khoang càn bậy, hãy xem ngọn thần kích của bản tướng quân đây!
Dứt nhời, vung kích xông lại giao chiến với Hoàn Trị. Hoàn Trị cũng múa thương cự địch. Hai tướng đánh nhau mãi đến gần trưa, con quạ lửa rọi những ánh nắng thiêu người xuống chỗ chiến trường làm cho người ngựa đều mỏi mệt, Quách Nghi bấy giờ cũng mệt, liền thu quân về thành đợi sáng hôm sau lại giao chiến.
Nói về Hoàn Trị thấy không đánh nổi được Quách Nghi thời bực tức, suốt đêm trằn trọc không nghĩ được kế gì, mãi đến gần hết canh hai bỗng nghĩ được một kế, hớn hở ngồi dậy thắp đèn rồi viết một phong thư sai quân bắn vào trong thành.
Lại nói Quách Nghi về thành yên nghỉ, định sáng hôm sau đem quân ra quyết một trận tử chiến. Đêm hôm đó quân tuần thành đang đi tuần, bỗng bắt được phong thư, liền đem vào trình Sĩ Huy. Sĩ Huy xem xong cười nhạt mà rằng:
- Ta tưởng Quách Nghi thực lòng với ta, chăng là y lại lòng lang dạ thú đến như thế à?
Nói xong để quân sĩ lui ra để hôm sau sẽ liệu.
Sáng hôm sau, dứt ba hồi trống được lệnh các quân tướng tụ họp cả trung quân trướng. Sĩ Huy thấy các tướng đã tụ họp cả rồi, rất là vui nừng. Sau khi các tướng đã an tọa, Sĩ Huy trừng mắt, rút kiếm vỗ án thét lớn lên rằng:
- Đao phủ đâu! Trói thằng Quách Nghi lại ngay cho ta!...
Dứt nhời mười tên đao phủ lĩnh mệnh mỗi người cầm một thanh mã tấu và thừng trạc, đến trước mặt Quách Nghi nói to lên rằng:
- Vì vâng lệnh chủ tướng, xin tướng quân cho tùy tiện. Quách Nghi không hiểu ra sao, liền nói rằng:
- Ta không tội lỗi gì kia mà…
Chưa dứt nhời, Sĩ Huy quát to lên rằng:
- Chúng mày không dám trói à?
Những quân đao phủ thấy vậy liền lấy thừng co tay Quách Nghi trói lại. Lúc đó các tướng không hiểu ra sao, thời Sĩ Huy ngồi trên rút ra một tờ giấy rồi bảo các tướng rằng: “Đây các tướng xem.”
Dứt nhời, thét đao phủ điệu Quách Nghi ra pháp trường lập tức chém đầu nộp lệnh.
Nói về các tướng xem thì ra một bức thư đại khái nói:
Cùng Quách Nghi tướng quân chiểu lượng89 hôm qua trong khi ở trận, tướng quân có truyền bảo tiểu tướng… Vậy nay xin y kế hoạch của tướng quân và xin tối mai tướng quân ở trong tiếp ứng cho…
Hoàn Trị bái.
Các tướng xem xong đều rùng mình ghê sợ, không biết Quách Nghi sao lại đang tâm phản nghịch như vậy. Bỗng có một tướng đứng dậy nói to lên rằng:
- Không chắc có phải Quách Nghi làm phản? Sao công tử không xét kỹ mà lại hồ đồ thế?
Sĩ Huy trông ra thì là Chánh tiên phong Vương Liệt, Sĩ Huy thấy vậy trừng mắt thét to lên rằng:
- Chà! Nhà ngươi lại muốn đem thành quận Giao Chỉ nạp cho Hoàn Trị chăng?
Vương Liệt thấy vậy không dám ngăn, liền ngồi xuống không dám nói gì. Sĩ Huy liền truyền: lập tức bốn phía thành phải đóng cửa lại cố thủ, không được khinh địch.
Từ đó hai bên cứ găng chì mãi đến hai ba tháng trời mà cuộc chiến tranh vẫn không liễu kết90.
Nói về Đới Lương và Trần Thời sau khi đem quân về đóng ở Hợp Phố, liền phi tấu về với Ngô Vương.
Ngô Vương lập tức sai Lã Đại đem quân sang tiễu trừ cả Sĩ Huy và Hoàn Trị. Lã Đại được chiếu, liền một mặt dỗ con Sĩ Nhất là Sĩ Khuông cho về khuyên Sĩ Huy ra thú tội, dù không được làm quan cũng khỏi tội vạ. Khuông về trước, Đại theo sau, Huy nghe lời Khuông đem anh em cả thảy sáu người ra rước Đại. Lã Đại dâng lời phủ dụ 91 rồi cùng kéo quân về quận. Hôm sau, thiết trướng mời anh em Sĩ Huy vào nói chuyện. Lúc lâu, khách đương đông, Đại
đứng dậy, tay cầm cờ tiết, miệng đọc tờ chiếu, kể tội Huy rồi sai trói Huy đem chém đưa đầu về nộp Ngô Vương.
Bọn Sĩ Nhất, Sĩ Vĩ, Sĩ Khuông và Sĩ Hâm bấy giờ đang làm con tin ở bên Ngô, cũng đều phải miễn làm thứ dân. Thế là họ Sĩ ở bên ta và bên Tàu đều đã suy vi từ đó.
Nói về Hoàn Trị giữa khi đương vây Sĩ Huy, nghe tin Lã Đại đem binh mã sang tiễu trừ, biết khí thế của Lã Đại đang hăng không thể địch nổi, liền đem toán quân lánh vào trong một khu rừng, ngầm nuôi khí lực để đợi thời cơ. Được ít lâu, đem quân ra đánh nhau với Lã Đại, nhưng bị Đại đánh thua. Đại thừa thế tiến quân đánh cả quận Cửu Chân, vừa đánh vừa giết tới hàng vạn người.
Cái thanh thế của Lã Đại từ đó càng ngày càng lừng lẫy. Ngô Vương liền phong cho Đại làm chức Giao Châu mục và bãi bỏ Quảng Châu đi, lại để nguyên một Giao Châu như trước. Lã Đại được uy quyền ở
cả trong tay, bày đủ các chính sách tàn nhẫn để đối đãi với nhân dân thuộc quốc, khiến cho khắp trên mặt đất cõi Giao Châu bấy giờ đều phủ đặc bằng mây sầu vụ thảm. Nỗi thảm khốc thật chẳng khác một người ngồi trong ngục tối, không còn được trông thấy ánh sáng mặt trời vậy.
Lửa sầu, nước nóng, chim kêu thương trông ngóng đã bao lần?... Già néo đứt dây, tức nước vỡ bờ, nếu không vì có cái chính sách tàn nhẫn của Lã Đại, thời trên mặt đất Giao Châu ta sao lại xuất hiện ra được một vị cứu quốc, nữ anh hùng là bà Triệu Ẩu.
HỒI THỨ III
Nghe di chúc, giọt lệ thấm khăn hồng,
Thoảng phong văn, đường trường bay cát trắng
“… Các con nên biết rằng: làm người cần phải có nước, vì có nước thời mới có nhà, có nhà rồi thời mới có mình. Dân nước ta bấy lâu là một hạng dân không có nước. Mỗi khi cha nghĩ đến, cha vẫn lấy làm đau lòng. Chỉ hiềm vì cha tài hèn, thế cô, cho nên đành phải ngậm đắng nuốt cay cho qua ngày đoạn tháng...”
Một ông cụ già ốm nằm sóng dọc92 ở trên chiếc giường tre. Từ cổ xuống đến chân phủ bằng một chiếc chăn vải nhuộm nâu. Giường ông cụ nằm, dưới chiếc chiếu, rải một lượt rơm rất dày, hễ hơi cất
chân cất tay, là đã nghe thấy tiếng rơm kỵ vào nhau thành tiếng sột soạt, trông mặt ông cụ gầy gò hốc hác, ba chòm râu bạc xõa xuống qua ngang vai, mồm đã móm, má sâu hoắm hẳn vào, hai con mắt lờ
đờ, chẳng những vì ốm yếu... Ông cụ cứ nói được vài tiếng thì lại thở, mà hơi thở cũng bợt bạt, hình như không còn đủ sức để nói lên những tiếng rõ ràng và gãy gọn. Bên cạnh giường nằm có một người con trai ước độ 17, 18 tuổi; người con gái độ 13 tuổi và một người con trai bé độ 10 tuổi. Cả ba người đều đứng im phăng phắc, đều chú ý để nghe ông cụ già nói, xung quanh nhà bấy giờ cũng đều im lặng, chỉ thỉnh thoảng nghe thấy một trận gió thổi ra ào ào, rồi kế đến những tiếng lá rụng rơi xuống thềm hè. Cái cảnh tượng ở trong nhà lúc bấy giờ, có một cái vẻ u âm thảm đạm, không còn một chút gì là tốt tươi hoạt động!...
Sau khi ông cụ già đã thư hơi thở, lại cất tiếng uể oải lên nói:
- Cái đời cha bây giờ đã hết hy vọng rồi. Cha chỉ còn hy vọng ở các con. Cha biết trước rằng sau khi cha chết đi ít lâu, tất sẽ có người nó trọng dụng con. Lúc đó, dù xuất hay xử93; cần phải tùy thời. Nhưng cha khuyên con, con đừng quên lời dặn của cha, thù nước cũng như
thù nhà; anh em đồng bào mình nhục, cũng như tấm thân mình nhục con đã nghe chưa!
Ông cụ nói đến đấy thời lại im, rồi dần dần thiếp hẳn đi; mà hồn mộng qua sang thế giới khác…
Ông cụ đó tức là ông thân sinh ra bà Triệu Ẩu, tức là Thị Trinh; người con trai nhớn tức là Triệu Quốc Đạt, anh Thị Trinh; người con trai bé tức là Triệu Quốc Thành, em Thị Trinh. Ông cụ vốn là một bực hào phú thuộc huyện Nông Cống. Lúc sinh thời ông giao du rất rộng, bạn đồng chí của ông có rất nhiều người hào hiệp. Trong lòng ông lúc nào cũng lấy cái nông nỗi mẹ gà con vịt làm đau đớn, nên chi đối với các quan lại Tàu sang cai trị, bất cứ là hiền lương hay tham tàn, ông đều mang sâu một tấm lòng ác cảm. Trong đám quan lại Tàu cũng có nhiều người biết tiếng ông. Họ sở dĩ biết tiếng ông cũng vì những người mình đã vì sự phú quý mà đi theo chân nấp bóng họ, đem cái hành tung của ông để cáo tố với họ. Những người ấy tưởng chừng như đem ông cáo tố với quan Tàu tất sẽ được quan Tàu họ siêu thăng94 và bạt trạc95 cho một địa vị cao quý. Chẳng ngờ bên ngoài họ cũng chỉ khen ngợi đôi ba câu và hứa rằng khi nào bắt được quả tang tên nghịch, bấy giờ mới thăng thưởng cho, mà bên trong thời họ rất là khinh bỉ. Họ thường nói thầm với nhau: “Những hạng người ấy dù đến trăm đời nghìn kiếp lúc nào nó cũng chỉ làm người hèn hạ…”
Tuy đã có người đem cái hành tung của ông mà cáo tỏ với quan Tàu, nhưng họ vẫn dùng hết cách dò xét mà vẫn chưa thấy cái gì là thực tang96. Nên họ vẫn đành để cho ông được phóng túng tự do. Đã nhiều phen họ muốn dùng kế lao lung97, vời ông đến quận tặng cho ông làm chức nọ chức kia. Nhưng ông nhất vị từ chối là tài hèn học ít không dám đương…
Chim hồng cất cánh bay cao, lưới kia dù tốt bắt sao được mà?
Ông chẳng những chỉ là người có chí khí và có võ dũng. Lúc sinh thời hễ được chút thì giờ nào rỗi là ông xem sách và luyện võ, các
con ông mới từ mười tuổi trở lên, ông đều đem sở học ra để dạy. Đến năm ấy ông tạ thế đi, tuy các con hãy còn bé, nhưng chẳng ít thời nhiều ai cũng đều có học thức và võ nghệ.
Riêng nói về Thị Trinh, từ sau khi cha mất đi, mỗi khi nghĩ đến lời di huấn của cha lúc lâm chung, thời lại giọt châu tuôn rơi lã nhã, thường tự nghĩ một mình: “Những nhời của cha ta dặn lại chúng ta, thật là mỗi nhời nói một giọt máu. Nếu sau này hoặc anh ta không có chí cố noi theo, ta cũng quyết noi theo cho bằng được.”
Lần lần, ngày gió đêm trăng, chưa bao lâu Thị Trinh đã mãn tang. Năm ấy Thị Trinh vừa 16 tuổi, một hôm bỗng nghe thấy ở hạt huyện Cư Phong có xẩy ra một việc rất lạ lùng, vì tấm lòng hào hiệp và hiếu kỳ, Thị Trinh liền nói với anh thắng ngựa ra đi…
…
Thuộc huyện Cư Phong, có một trái núi đá rất to, tên gọi là núi An Quyết. Xung quanh núi cây cối um tùm, đường lối quanh co hiểm trở, hàng năm, trừ mấy anh kiếm củi liều lĩnh, hay là phường săn bắn gan già, mới dám len lỏi vào trong núi ấy. Sườn núi có một cái miếu thờ, tuy trên lợp tranh mà ở trong kèo, cột, dằm98, xà toàn làm bằng gỗ lim, cách kiến trúc rất là kiên cố. Hỏi những người vùng đấy thời cũng chỉ nói là miếu thờ Sơn thần, hỏi đến tên vị Sơn thần là gì, từ già tới trẻ thảy đều không biết.
Hôm đó là ngày mồng 1 tháng năm, sau một trận mưa gió tầm tã, có tên Mão người làng cạnh vào núi kiếm củi. Mão năm ấy đã 18 tuổi, con nhà nghèo, tính nết ngoan ngoãn và khôn khéo, được rất nhiều người trong làng yêu mến. Đã yêu nên hay tin. Hễ Mão nói ra câu gì, không còn mấy ai nỡ phản đối lại bao giờ. Hôm đó Mão đeo dao và vác đòn càn99 đi từ mờ sáng đến mặt trời gần gác bóng mới thấy lủi thủi về, sắc mặt thời tái mét đi, mà đi không lại về rồi, chẳng hề được một nửa que củi. Mão vừa về đến cổng làng, bỗng nghe có tiếng hỏi:
- Kìa, anh Mão đi củi về đấy à? Nào củi đâu? Sao mà mặt tái đi thế?
Mão nghe tiếng hỏi, biết ngay người hỏi ấy là Huân, bạn chí thân của Mão, Mão liền lắc đầy uể oải nói:
- Tôi suýt nữa thời chết khiếp mất anh ạ!
- Sao thế?
Mão vừa đi vừa nói thủng thẳng:
- Tôi không thể nói ở đây được, anh muốn nghe, thời vào nhà tôi, tôi nằm nghỉ một lát đã, sẽ nói cho anh nghe.
Huân không hề từ chối, cùng về nhà Mão.
Sau khi Mão đã được nằm nghỉ một lát, trở dậy, hút một hơi thuốc rõ dài, ngồi bó gối, ung dung nói chuyện với Huân:
- Lạ quá anh ạ! Thật từ khi bố cái100 đẻ ra đến giờ, tôi chưa từng thấy ai nói đến một chuyện kỳ lạ như chuyện ấy bao giờ. Mà có lẽ từ đời tạo thiên lập địa đến giờ cũng khi nào có cái chuyện lạ đến như thế!
Huân ngồi bên sốt ruột hỏi:
- Thì chuyện gì? Anh hãy nói tôi nghe đã nào?
Mão ung dung nói:
- Anh phải để tôi nói câu chuyện có thứ tự thời nghe mới rõ được. Giờ tôi hãy hỏi anh: “Ở đời có gì biết nói?
- Người chứ gì?
- Người thì ai chả biết? Còn gì nữa?
- Vẹt biết nói!... Gì nữa?
- Quạ biết nói!.. Yểng101 biết nói…
- Gì nữa?
Huân trầm ngâm nghĩ ngợi một lát nói:
- Chỉ còn có chim sáo nữa thôi. Ngoài ra thật là hết nhẵn. Mão lắc đầu nói:
- Còn! Còn! Thế mới lạ chứ!
- Anh bảo còn giống gì biết nói?
Mão lẳng lặng, lại hút một điếu thuốc, hút xong, vơ lấy cái ấm tay nước ở bên cạnh tu một hồi, rồi cất tiếng lên nói:
- Giờ tôi hãy tạm hỏi anh: “Loài đá có tri giác hay không?” Huân lắc đầu nói:
- Đá mà lại có tri giác?
- Thế mà có đấy.
- Vô ý! Anh nói vô lý lắm.
- Không có tri giác sao nó lại biết nói?
- Anh nói lại càng vô lý nữa. Thiên, vạn cổ có đời nào đá lại biết nói nữa!
- Chả thế lại chả phải chuyện lạ! - Huân lắc đầu nói: - Anh nói hàm hồ lắm, tôi chẳng hiểu ra thế nào cả!
- Thế anh đã chịu là chuyện lạ chưa?
- Ừ. Chịu rồi! Nếu quả đá biết nói thời lạ thực! Nhưng anh phải nói cho rành mạch thời tôi mới có thể hiểu được, chứ cứ nói hàm hồ thế thời đến trời cũng chịu.
Huân nói xong, Mão trầm ngâm ra lối ngẫm nghĩ, một lát mới lại cất tiếng lên nói se sẽ:
- Tôi bị yếu ngót một tháng nay, bấy lâu câu cóp được đồng nào, đều bòn mót để đong gạo hết sạch. Đấy, anh trông người tôi thời biết, tôi mới tạnh sốt được ba hôm nay thôi đấy anh ạ. Hôm qua
nghiêng cóng102 gạo lại xem, thấy chỉ còn có độ ba, bốn thưng103. Vì con ma đói nó bắt buộc, bất đắc dĩ sáng nay phải vác dao vào núi An Quyết kiếm củi, định về bán chợ chiều, có được đồng nào thời đong gạo. Chẳng ngờ khi vào đến chân núi, thấy đã mệt lử cả người, đành phải lóp ngóp lên “mỏm sấu” để ngồi nghỉ. Chắc anh cũng còn nhớ “mỏm sấu” đấy chứ?
- Phải, vì cái hòn đá đỏ ra như đầu con sấu104 ở chỗ sườn núi, nên người ta mới gọi là mỏm sấu. Độ tháng giêng tôi với anh chả ngồi đánh cờ mất cả một buổi đấy ư?
- Ừ, ừ, ừ phải, anh nhớ lâu đấy. Thế mà hôm nay tôi vừa đặt đít ngồi xuống, bỗng có một điều quái gở hiện ra, làm cho tôi bủn rủn cả người, suýt nữa thời ngã lăn ra…
Huân nghe đến đấy thời sửng sốt vội hỏi:
- Cái gì? Anh thấy gì?
Mão tỏ ra vẻ mặt sợ hãi, cất tiếng nói sẽ sẽ:
- Hòn đá ấy nói anh ạ!
Huân trừng mắt lên vội hỏi:
- Nó nói?
- Phải! Chính nó nói!
Huân trông trước trông sau lắc đầu nói:
- Lại có đá mà biết nói thế là cái quái gì?
Mão nói tắt ngang:
- Ấy chỉ vì thế mà tôi bủn rủn cả người, suýt nữa thời ngã lăn đùng ra, phải vịn vào góc cây bồ đề ở đấy, mới đứng lại được vững...
- Thế nó nói thế nào?
Mão trợn mắt lắc đầu nói:
- Câu nói của nó lại càng lạ lắm, mà nó cứ nói đi nói lại mãi, suốt từ sáng đến chiều, đến lúc tôi về nó vẫn chỉ nói có một câu, có lẽ đến giờ nó vẫn còn nói cũng nên…
- Thế nó nói làm sao?
Mão lắc đầu nói:
- Câu nói của nó lạ lùng lắm, tôi không thể nhớ hết mà thuật ra đây được. Nếu anh muốn chứng nhời tôi nói là thực hay hư, thời đến sáng mai anh lại cùng tôi đến núi mà nghe…
Huân ngẫm nghĩ nói:
- Nhưng không biết đến mai thời nó còn nói nữa không. - Thì hãy cứ đến tận nơi xem đã.
Huân nghe lời, rồi hẹn hò với Mão thế nào đến sáng mai phải cùng đi, thời mới trở ra về.
Sách Tàu có câu nói: “Muốn người chẳng biết, chi bằng đừng nói; muốn người chẳng hay, chi bằng đừng làm”. Câu nói ấy nghĩa tuy tầm thường mà sự thực thì rất đúng, muôn việc ở đời, dù bí mật đến đâu cũng mặc dầu, nhưng nếu đã có một người biết thời tất sẽ có lúc đến muôn nghìn người biết. Câu chuyện của Mão nói với Huân tuy là bí mật, nhưng đã nói với Huân, thời quyết không thể giữ bí mật được mãi.
Tối hôm ấy, câu chuyện bí mật đã do Huân mà tiết lộ ra mấy người hàng xóm; sáng hôm sau lại do mấy người hàng xóm mà tiết lậu ra với ba, bốn mươi người khác nữa.
Sáng hôm sau, lúc Mão vừa mới ngủ dậy, ở trên giường bước chân xuống đất, đã thấy một toán người kéo đến cửa, đòi Mão đưa đến núi An Quyết để nghe đá nói. Mão không hề từ chối, vui vẻ tự nhận là một viên quan hướng đạo, để đi đưa bọn hiếu kỳ.
Một đoàn kẻ trước người sau, đi dày105 lên trên những bờ cỏ hãy còn đằm106 sương buổi sáng, người nói câu này, kẻ bàn chuyện nọ, mỗi người một câu om sòm suốt dọc đường.
Khi vừa đến chân núi, Mão rảo chân đi trước mấy bước, bỗng đứng dừng lại lắng tai hình như nghe ngóng. Bỗng lấy tay vẫy vẫy bọn cùng đi, sẽ nói:
- Đương nói! Đương nói các anh ạ! Đi mau lên để nghe!…
Cả bọn chừng bốn mươi người đều hớn hở đi theo. Một lát đã tới gần mỏm sấu, Mão xua tay ra hiệu cho những người đứng dừng lại, liếc mắt, chỉ bảo:
- Đấy! Anh em nghe đi. Tôi không nói ngoa chứ?
Dứt nhời Mão nói, ai nấy đều đứng lẳng lặng, chú chú chăm chăm để nghe. Quả nhiên có tiếng nói ra ở trong mỏm sấu, tiếng the thé như tiếng trẻ con nói rằng:
Mau khởi nghĩa binh,
Mà cứu nạn nước;
Ai người biết trước,
Sẽ được làm đầu,
Hết hạ sang thâu,
Dựng xong nghiệp nhớn.
Nói đi nói lại mãi cũng chỉ có sáu câu ấy. Cả bọn nghe một lúc lâu, Mão cất tiếng lên nói rằng:
- Thôi, chúng ta đi xuống dưới bãi cỏ này ngồi nghỉ mát một lát đi, chứ đứng đây mãi cũng vô ích.
Mão nói dứt nhời, cả bọn đều nghe theo, cùng kéo nhau xuống cả bãi cỏ ở sườn núi. Bấy giờ, dù không bảo nhau, mà ai nấy trong bụng cũng ngẫm nghĩ đến câu của đá nói; trên mặt ai nấy cũng hiện ra cái vẻ ngơ ngác nghi hoặc. Khi cả bọn đều ngồi ngả nhiêng ở trên bãi cỏ, có người tên là Nguyễn Điềm, anh ta cũng mới độ ngót 30 tuổi, có học thức ít nhiều, tính nết cư xử ở trong dân làng cũng khá. Nguyễn Điềm đương ngồi lê la nhổ từng cái cỏ lông may ở gấu quần, bỗng quay lại cất tiếng lên nói:
- Này các anh em ạ, cứ ý tôi đoán thời những nhời nói đó, không phải là đá biết nói ra đâu, mà chính là trời đất và quỷ thần, thác107 vào đá, để báo cáo cho bọn ta đó. Chúng ta giờ đã được nghe nhời nói ấy, chúng ta nên bàn nhau để tuân theo cái mệnh lệnh của trời đã ủy thác cho chúng ta…
Nguyễn Điềm vừa nói đến đấy, một người trong bọn là Trần Đông, nói phắt ngay lên rằng:
- Chính phải! Ta nên theo như lời nói của bác Điềm. Này mà các anh thử cứ ngẫm ngay cái thời thế bây giờ, dân mình thật khổ không biết đến thế nào mà nói. Từ đầu năm đến cuối năm, làm ăn đầu tắt mặt tối, vẫn không đủ được mà ăn, thế mà nay họ hạch điều này, mai lại hành điều nọ. Hơi động một việc gì không được xứng ý họ, tức thời họ giết đến hàng đàn hàng lũ. Như thế mà chúng ta không khởi lên để đánh quân Tàu, chẳng hóa ra mình hèn lắm ru108?
Trần Đông nói dứt nhời, cả bọn đều nhao nhao lên rằng:
- Ừ mà thật đấy! Chúng ta chẳng khởi nghĩa bây giờ thời khởi nghĩa lúc nào! Khởi nghĩa! Chúng ta quyết chí khởi nghĩa.
Chính đương lúc cả bọn đều nhao nhao, Nguyễn Điềm vội đứng phắt lên, xua tay nói át đi rằng:
- Chết chưa! Các bác rồ cả hay sao đấy? Các bác đã chắc ở trong khu rừng này lại không có đứa nào nó dòm dỏ109 hay sao? Im ngay! Mọt gông cả với nhau bây giờ.
Nguyễn Điềm nói dứt nhời, ai nấy đều ngơ ngác trông nhau, rồi cùng im lặng. Bấy giờ Nguyễn Điềm lại ung dung cất tiếng lên nói:
- Ở phía sau núi này có một cái hang rất rộng, xung quanh lại có suối sâu bao bọc đường lối rất là hiểm trở. Bây giờ anh em hãy cùng theo tôi vào trong hang ấy, ta sẽ cùng nói chuyện.
Nói xong, cả bọn đều nghe nhời, rồi đi theo Nguyễn Điềm đi thẳng vào trong hang. Lúc đứng dậy bước chân để cùng đi, Nguyễn Điềm bấm Mão ra một chỗ vắng nói thì thầm mấy câu, Mão gật đầu, rồi chạy theo bấm Huân và bấm thêm hai người bạn thân nữa là Đặng Xuân, Đinh Cúc. Mão thì thầm bàn tán với ba người một hồi, cả ba người đều gật đầu tỏ ý vui vẻ, rồi cùng vùn vụt đi vào trong làng bên cạnh. Sau khi Huân, Cúc, Xuân đã đi khỏi, Mão lại nhập bọn cùng đi vào trong hang. Khi tới nơi, quả nhiên có một cái hang rất rộng, xung quanh có suối bao bọc, nước chảy róc rách nghe rất êm tai. Điềm bảo cả bọn rằng:
- Cái hang này, anh em chắc ít người đi đến. Giờ ta hãy đi ngắm xem phong cảnh; lát nữa sẽ cùng nhau nói chuyện.
Cả bọn đều lấy làm phải, rồi chia nhau thành từng tốp hoặc ba, hoặc bốn người. Tốp thời rúc ráy vào trong hang, tìm tổ dơi dơi, bắt chim sáo sậu, tốp thời ra ngồi ngoài ven suối, ngắm xem cá lội, cua bò. Cả một bọn ngót 40 người, lúc bấy giờ đã biến hình như một hạng người thái cổ110, tinh thần thấy mát mẻ, thư sướng, lâng lâng như không còn nhiễm chút bụi trần. Ngày đã gần trưa, ai nấy trong bụng
đã thấy như hơi đoi đói, toan rủ nhau sắp sửa ra về. Bỗng nghe thấy tiếng lợn kêu eng éc ở đằng xa, hết thẩy đều bảo nhau:
- Quái! Ở chốn rừng sâu này làm gì có lợn, chẳng lẽ ông “ba mươi” đi vớ được ở đâu về chăng?
Nói chưa dứt nhời, tiếng lợn kêu lại càng gần, một lát Cúc và Xuân hai người ì ạch khiêng một con lợn rất to, còn Huân thời quẩy một gánh rất nặng theo sau. Xuân nhác trông thấy người cùng bọn, liền cười ha hả nói to lên rằng:
- Hôm nay mát trời, các bác đi ghe đá nói, xem hang sâu, anh em tớ làm hàng cơm để bán cho các bác đây. Các bác bảo nhau đừng về xúm lại cả mỗi người một tay, cho chóng xong, để cùng nhau đánh chén. Hà hà hà!...
Quách Đại, người trong bọn thấy vậy thời cười híp mắt lại, toét miệng ra mà rằng:
- Thật à? Thú lắm nhỉ? Anh… anh… anh này thật hóm quá! Nào chúng ta cùng làm mau lên! Kiến bò bụng rồi!
Dứt nhời cả bọn đều xúm xít nhau lại người chọc tiết, kẻ cạo lông. Chỉ thoáng mắt, lợn đã chín, chúng liền lấy lá chuối băm thịt và lòng bốc thành từng mô111, rồi bày la liệt khắp trong hang. Lê Huân ôm ra hai ba hũ rượu đầy ăm ắp để ở giữa dòng. Nguyễn Điềm đứng ở cửa hang gọi to lên rằng:
- Anh em ơi! Chúng ta cùng vào đánh chén đi. Đến bữa rồi! Mau lên! Mau lên! Kẻo đói.
Dứt nhời gọi ấy, cả bọn đều xô nhau vào, ngồi xúm xít lại uống rượu ăn thịt, chuyện trò rất là vui vẻ.
Sau khi rượu đã say, cơm đã no, ai nấy đều ngồi vắt chân uống nước chè tươi, hút thuốc lào. Cũng có người hai mắt lim dim hầu
như sắp muốn ngủ gật. Bấy giờ Nguyễn Điềm ung dung ra đứng ở giữa, cất tiếng lên nói rằng:
- Bây giờ anh em đều đã no say cả rồi, tôi xin bàn với anh em một chuyện…
Nguyễn Điềm chưa nói dứt nhời, cả bọn đều nói nhao nhao: - Vâng! Bác cứ nói. Bác cứ nói. Bảo sao anh em tôi cũng xin nghe. Nguyễn Điềm nói:
- Chắc anh em cũng biết, hiện nước ta bây giờ đương bị quan lại nhà Ngô nó cai trị, mà suốt người trong nước ta đều phải khoanh ta bó gối ở dưới chân nó. Bọn quan lại nhà Ngô đối với mình đã không phải là người cùng một nước, bởi thế nên họ coi cái tính mệnh của dân mình không bằng cỏ rác. Các anh em thử xem mới có hơn một năm nay, mà duy một quận Cửu Chân ta đã bị tên Lã Đại nó giết mất hàng mấy vạn. Nếu chúng mình bây giờ không khởi lên mà đánh đuổi Lã Đại đi, chắc không bao lâu nữa nó sẽ giết cả đến bọn anh em mình chứ chẳng không. Vì chính tên Lã Đại nó đã nói ra miệng: “Nó coi giống dân Giao Châu như con cá nằm trên thớt, nó muốn băm lúc nào thì băm, mổ lúc nào thì mổ” kia mà...
Nguyễn Điềm vừa nói đến đấy, suốt cả bọn ai nấy cũng hầm hầm nổi giận, phồng mồm trợn mắt, coi bộ rất hăng hái dữ tợn.
Nguyễn Điềm nói tiếp:
- Vậy tôi khuyên anh em nên kíp cùng nhau đồng tâm hợp lực khởi lên mà giết bỏ thằng Lã Đại ấy đi, trước là báo thù cho nước, sau là tránh khỏi cái vạ nó sẽ đem mình ra làm cá thịt. Các anh em nghĩ sao?
Nguyễn Điềm chưa nói dứt nhời, cả bọn đều đứng phắt dậy nói to lên rằng: - Chúng tôi quyết! Quyết cùng nhau khởi nghĩa…
Nguyễn Điềm nói gạt ngay đi:
- Anh em nên nghĩ cho chín. Nếu quả có lòng tốt như vậy, thời hãy thề ngay đi.
Nguyễn Điềm nói dứt nhời. Trần Đông chạy đứng ngay ra giữa hang, cầm con dao bầu chỉ lên trên không mà nói to lên rằng:
- Trên trời, dưới đất, quỷ thần soi xét, tôi là Trần Đông, thề quyết khởi nghĩa. Sau này nếu hối, trời chu đất diệt.
Nói dứt nhời chém một nhát thật mạnh xuống đất, rồi đứng lui ra một bên. Cả bọn đều nói nhao nhao lên rằng: - Chúng ta nên cũng thề như anh Đông. - Rồi cũng nhau mỗi người ra đứng giữa hang thề một lượt. Cả bọn thề xong Nguyễn Điềm liền bảo ngồi chia ra hai hàng ở trong hang, rồi lại đứng ra giữa cất tiếng lên nói:
- Anh em đã cùng nhau thề cùng theo một công cuộc khởi nghĩa, vậy từ nay trở đi anh em ta phải coi nhau như ruột thịt, yên vui cùng hưởng, hoạn nạn cùng chia, thời mới mong giết được kẻ thù mà lập nên nghiệp nhớn. Duy có một điều này, tôi xin nói ra để anh em chước lượng112. Làm nhà thời phải cần phải có nóc, vì có nóc mới có thể thành được nhà, trong một đám quân cũng cần phải có tướng, vì có tướng thời mới có người chỉ huy cắt đặt, giữ mực cầm cương. Bây giờ trong anh em chúng ta đây, tất cả đã có tới 40 người. Chắc nay mai còn có đông người theo nữa. Nếu giờ ta không kén lấy một người lập làm chủ; thời lấy ai là người chủ trương sai phái. Điều đó anh em nên mau mau chước lượng mới được.
Nguyễn Điềm nói dứt nhời, Lê Huân đứng lên nói rằng:
- Cứ theo như đá nói: “Ai người biết trước thời được làm đầu”,… làm đầu tức là làm đầu bọn, là người đứng chủ… Xét trong bọn ta chỉ có anh Mão là người biết trước nhất. Vậy cứ như ý tôi thời xin lập ngay anh Mão làm chủ. Anh em nghĩ có nên chăng?
Lê Huân nói xong cả bọn đều cất tiếng lên nói:
- Phải rồi! Anh Mão bấy lâu vốn là người tử tế, làng xóm ai cũng sẵn lòng tin yêu anh. Bây giờ lập anh Mão lên làm chủ thời rất đích đáng, chúng tôi tình nguyện xin tuân theo mệnh lệnh.
Mão bấy giờ ngồi mãi ở phía cuối, nghe thấy cả bọn nói vậy, thời vội vàng đứng lên nói rằng:
- Chết chửa! Tôi tài đức gì mà anh em lại ủy thác cho tôi việc to lớn như thế? Đã đành rằng: thù chung của nước, làm người con trai phải biết nên quyết chí để rửa thù. Nhưng việc là việc nhớn không thể coi thường. Vậy xin anh em phải lựa chọn lấy người có đức để chủ trương, chứ hèn kém như tôi, tôi quyết không dám nhận.
Mão nói xong, Huân, Xuân, Điềm đồng thanh nói to lên rằng:
- Nhời đá đã nói rành rành: “Hễ ai biết trước sẽ được làm đầu”, mà người biết trước lại chính là anh, đó là lòng trời chứ không phải ý riêng của người. Lòng trời đã định, nếu trái thời sẽ bị tai vạ ngay. Vậy thể nào anh cũng phải tuân theo mệnh trời, để cho chúng tôi có người chủ trương…
Ba người vừa nói dứt nhời, Quách Đại chạy ngay lại ôm lấy Mão, kéo nhấc bổng để ngồi lên một bệ đá cao ở giữa rồi đứng ra vái luôn ba vái nói to lên rằng:
- Chúng tôi xin tôn ông Lý Mão lên làm chủ, để thống suất chúng tôi dựng cờ khởi nghĩa đánh quân Ngô. Từ nay muôn việc chúng tôi đều xin tuân theo mệnh lệnh để thi hành.
Quách Đại nói dứt nhời cả bọn đều xô vào vái lạy Lý Mão và cùng nói một lời như Quách Đại.
Mão thấy cả bọn đã đồng tâm quyết định như vậy, biết không thể từ chối, liền đứng dậy vái một cái, ung dung cất tiếng lên nói:
- Anh em đã cố chí bắt buộc tôi, tôi đành xin vâng nhận. Nhưng tôi tài kém sức yếu, muôn việc đều trông nhờ anh em, hết lòng giúp
giặm cho, thời công việc mới mong chóng thành được.
Mão nói dứt nhời, cả bọn đều reo hò vui vẻ, vang động cả trong hang. Bấy giờ mặt trời đã xế chiều, ánh nắng của vừng thái dương đã soi chéo vào giữa trong hang, trên mặt các thung lũng ở xung quanh núi, đã thấy có một làn khói nhạt, tỏa lên dần dần. Luồng gió chiều thổi rít vào trong hang từng cơn, có lúc như tiếng mưa dội trên mái nhà, có lúc như lớp sóng dồn ngoài góc biển. Chim sáo sậu từng đàn, bay hết hòn đá nọ sang mỏm đá kia, tiếng hót réo rắt luôn tai hình như cũng nhau hòa một khúc Nghiêu ca để chúc mừng một bọn sắp vì dân nước mà dựng cờ khởi nghĩa…
***
Sau khi cả bọn bàn tán nhau một hồi, do Nguyễn Điềm quyết định tôn Lý Mão lên làm “Bình Ngô Thống tướng”, Lê Huân làm “Bình Ngô Phó tướng”, Nguyễn Điềm làm “quân sư”, Đặng Xuân, Trần Đông, Trần Túc, Liêu Cung, Trịnh Sĩ, Giang Phổ, Đinh Cúc, Quách Đại, Hoàng Câu, Bạch Văn Mao, cộng mười người đều làm Hổ oai tướng quân. Còn các người khác, cũng mỗi người giữ một chức riêng. Tướng tá cắt đặt đã xong, liền lấy ngay hang ấy làm nơi chính trại. Rồi định từ sáng hôm sau trở đi sẽ lập ban lên thờ ở trước “mỏm sấu” và để tỏ ý tuân theo mệnh lệnh của trời đất quỷ thần. Lại phái người đi khắp các vùng xung quanh tuyên truyền lời nói của đá và yết bảng113 chiêu mộ quân sĩ.
Công cuộc của đảng “Bình Ngô” thiết lập nên mới được năm hôm. Chiều hôm ấy là chiều ngày thứ sáu, chính đương lúc khói hương ở trên ban trước mỏm sấu đương nghi ngút bay tỏa lên trên không, bỗng có một người con gái mình mặc áo lụa mầu huyền, đầu bịt khăn mỏ quạ trắng, ngực vận chiếc yếm vàng, lòi ra hai bên một đôi dải đào, cổ và tai đều đeo mấm114 và vòng vàng, chân giày lên chiếc dép gai ngoài bọc bằng vải xanh, cưỡi trên một con ngựa trắng đi vụt đến trước ban, rồi xuống ngựa, hai tay chống vào sườn, lẳng lặng ngắm trước ngắm sau. Người con gái ấy tức là Triệu Thị Trinh. Bởi vì hôm trước,Thị Trinh nghe người đồn ở hạt Cư Phong có
đá biết nói, vì tính hiếu kỳ nên Thị Trinh muốn thân hành đến xem tận nơi cho đích xác. Lúc sắp đi, Triệu Quốc Đạt đã báo cho mấy con thị tì đi theo hầu, nhưng Thị Trinh nhất vị không nghe, nói rằng: - Cho chúng nó đi chỉ đồ bận chân, thực không ích lợi gì.
Nói rồi quyết chí đi một mình, khi gần đến địa hạt Cư Phong, nghe tiếng người đồn lại rầm rã cả lên. Thị Trinh lấy làm nghi lạ. Nghĩ thầm trong bụng: ở đời khi nào lại có đá biết nói, chắc lại có anh nào giả thác để dụ dẫn lòng người. Cũng như truyện Hồ nói ở đời Tiền Hán, chứ quyết không phải là sự thật. Bụng tuy nghĩ vậy, nhưng ngoài mặt vẫn cứ điềm nhiên không hề nói lộ ý chế giễu ra với ai cả. Đến khi Thị Trinh đã tới hẳn bên cạnh mỏm đá, quả nhiên nghe thấy tiếng ở trong mỏm đá nói ra, Thị Trinh đứng ngắm nghía một hồi, rồi trông sang bên cạnh thấy môt cái bảng bằng cói quét vôi trắng, viết một bài văn cáo thị rằng:
Kính cáo các người gần xa đều biết: nước ta bị quan lại Ngô áp chế, đã mấy mươi năm nay, dân tình khổ cực muôn phần. Nay nhân lòng trời run rủi, thác ra đá nói, khuyên bảo khởi binh. Chắc vận nước có cơ hưng phục, nên mới hiện ra điềm trời linh dị như vậy.
Anh em chúng tôi vì thương nạn nước và thể cơ trời, nên kết hợp đồng chí, quyết dựng cờ khởi nghĩa để trừ khử giặc Ngô. Hiện nay bản đảng115 đã lập ông Lý Mão lên làm Bình Ngô Thống tướng, ông Lê Huân làm Bình Ngô Phó tướng, ông Nguyễn Điềm làm quân sư cùng mười vị hổ oai tướng quân đều là những người trí dũng hơn người, sẵn lòng yêu nước, quyết liều gan óc, cứu nạn muôn dân. Vậy có lời bố cáo cho gần xa ai nấy đều biết, nên mau mau vào đảng cho đông. Người giúp của kẻ giúp công, cho chóng được gây nên nghiệp nhớn. Mấy lời bố cáo cho ai nấy đều hay.
Thị Trinh xem xong lời bố cáo ấy, lại ngắm đi ngắm lại hòn đá. Bỗng nhặt lấy một cục đá rất to ở bên cạnh, giơ tay giáng mạnh lên mỏm sấu, chỉ nghe thấy một tiếng “Cồ..ồng” từa tựa như tiếng cồng bằng đồng, của trong các trang trại thường đánh. Thị Trinh nghe vậy bất
giác mỉm cười, rồi dắt ngựa quay xuống chân núi, nhảy lên ngựa đi thẳng về phía Tây.
Ngay lúc Thị Trinh đi gần đến núi An Quyết; đã nhận ra về phía Tây cách núi ấy chừng sáu, bảy dặm; có một dãy phố nho nhỏ, có hàng bán cơm chứa trọ. Nên chi116 sau khi Thị Trinh đã xem ngắm một hồi ở mỏm sấu liền phóng ngựa đi thẳng về phía Tây. Một lát đến nơi, liếc mắt trông qua dãy phố, tuy chỉ có mươi nhà nhỏ hẹp, nhưng cũng sạch sẽ chỉnh tề. Thị Trinh liền tìm lấy một nhà sạch sẽ hơn cả, vào hỏi thuê trọ. Chủ hàng coi cách ăn mặc của Thị Trinh, đoán hẳn là một bực bà nàng, cô ả chi đây, nên chi đón rước một cách rất là ân cần, chu đáo.
Bữa cơm tối hôm ấy, Thị Trinh ngồi một mình trên buồng nhà trọ, vừa ngồi ăn vừa ngẫm nghĩ: - Không hiểu những bọn khởi nghĩa đó, có được quả là những bực anh hùng, sẵn lòng vì nước? Hay lại là những phường tiểu nhân gian giảo, muốn giả công để tế tư117?” Thị Trinh nghĩ đến đấy, bỗng lại gật gù nói một mình:
- Ừ, đích rồi! Đích là trong hòn đá ấy rỗng, có đứa chui vào được trong để nói… Nếu không thế sao ta ném vào hòn đá mà lại thấy tiếng kêu như tiếng cồng?... Nếu vậy thời người bày ra cái kế ấy kể cũng là tay khá, vì họ chẳng qua cũng chỉ là một người trong đám bình dân, bỗng nhiên muốn khởi lên để làm những việc chiêu binh mãi mã thời người đời hồ dễ đã có mấy ai theo. Vậy họ mới dựa theo lòng mê tín của nhân dân mà đặt ra cái kế đá nói, thực cũng đã là khổ tâm lắm đó…
Nàng cứ ngồi một mình, chán nghĩ ngợi lại nói lẩm bẩm, người bõ già118 của nhà quán trọ thấy vậy thời có ý nghi, lại thì thào với chủ:
- Cái cô nàng này có lẽ không khéo là người điên? Chẳng thế thì từ nãy đến giờ lại cứ gật gà gật gù nói một mình mà cũng chẳng ai hiểu là nói câu gì cả.
Chủ quán nghe bõ già nói dứt nhời, nguýt cho mụ một cái rõ bắn người đi, rồi cất tiếng lên bảo rằng:
- Liệu hồn đấy! Người ta nghe tiếng thì chết! Mụ trông bộ quần áo đấy thời biết, con nhà thường dân mà dám ăn mặc thế à?
Bõ già bị chủ mắng thời lui lủi xuống bếp, không dám nói gì nữa.
Thị Trinh cơm nước xong, mãi hết trống canh một mới cởi áo lên giường đi ngủ, nằm mãi đến quá nửa trống canh hai mới lim dim toan ngủ. Bỗng nghe phía ngoài cửa sổ có tiếng róc rách như chuột gặm, Thị Trinh liền lẳng lặng để nghe xem sao. Một lúc lâu, bỗng thấy cửa sổ mở toang ra, rồi nhảy vào một người lực lưỡng giơ thẳng tay dao nhằm giữa cổ Thị Trinh chém xuống một nhát thật mạnh…
HỒI THỨ TƯ
Anh cùng em bàn mưu tính kế,
Thầy với tớ tham của quên ơn
Nói về Thị Trinh đang nằm ở trên giường, bỗng thấy cửa sổ mở toang, rồi có một người lực lưỡng nhẩy vụt vào, giơ dao nhằm thẳng vào mình để chém.
Nhanh như cắt, lúc lưỡi dao vừa xuống gần đến giường, Thị Trinh đã lăn mình một cái rơi ngay xuống đất phía trong rồi nhổm phắt ngay dậy. Giữa lúc lưỡi dao của người kia chém xuống đến giường, tức là lúc Thị Trinh đã đứng được lên. Thừa thế, Thị Trinh nhẩy thót lại đá hất một cái vào cánh tay tên địch. Tên địch bị cái đá ấy đau quá, buột mất dao ở trong tay, vội lùi ngay lại mấy bước chực tìm đường trốn chạy. Chẳng ngờ chính đương lúc hai chân giật lùi, bị ngay Thị Trinh đấm luôn cho một cái rất mạnh vào mạng mỡ, tên ấy đau quá ngã phục ngay xuống không thể nào nhổm lên được nữa. Thị Trinh thấy vậy cười khanh khách mà mắng rằng:
- Cha đồ chó chết! Thế mà cũng học đòi đi làm thích khách. Dứt nhời liền nắm ngay lấy đụm tóc của tên ấy trói ghì vào cột nhà. Một mặt gọi nhà hàng đốt lửa mang lên, một lát, chủ quán xách chiếc đèn quang lên, thấy Thị Trinh ngồi tròn xoay ở trên giường, tay lăm lẳm119 cằm con dao quai sáng quắc như mây tuyết… Chủ quán giật mình sợ hãi bủn rủn cả người. Thị Trinh mỉm cười chỉ vào tên thích khách mà bảo chủ quán rằng:
- Kìa! Ta mới bắt được tên kẻ trộm. Chủ nhà cứ đứng đấy, để ta sẽ tra xem nó là người ở đâu và ai bảo nó đến đây?
Chủ quán nghe Thị Trinh nói xong, dạ dạ một hồi, rồi ngồi tựa vào cái cột ở ngoài hè, để ngắm xem cách hành động của Thị Trinh.
Lúc đó, Thị Trinh cầm con dao để vào gần cổ tên thích khách, rồi mỉm cười mà rằng:
- Mi muốn chết hay muốn sống hử?
Tên thích khách run lẩy bẩy nói:
- Bẩm… bẩm lạy cô nàng, chó cũng còn muốn sống một ngày để ăn dơ, xin cô nàng sinh phúc cho…
Thị Trinh gật đầu mỉm cười mà rằng:
- Đã sợ chết, sao dám làm liều?
- Bẩm… bẩm người ta sai tôi.
- Ai sai mày?
- Bẩm… bẩm chủ tôi ạ!
- Chủ mày là ai?
- Bẩm… xin cô nàng tha chết cho, tôi không dám nói… - Mày muốn sống thời phải nói, muốn chết sẽ không nói. Dứt nhời cầm con dao sẽ lia vào cổ tên thích khách vừa nói: - Nói mau! Nói mau!
- Bẩm… bẩm, xin… xin nói, xin… xin cô nàng bỏ dao đi tôi xin nói. Thị Trinh mỉm cười rụt dao lại, quát lên rằng:
- Ta đã bảo nói thì phải nói mau. Chủ mày là ai?
Tên thích khách toan nói lại cứ ngoảnh đi ngoảnh lại, trông trước trông sau, ấp úng mãi mới nói được thành câu:
- Bẩm… bẩm chủ tôi là… là Bình Ngô Thống tướng ạ!
Thị Trinh nghe tên thích khách nói xong, bất giác ngạc nhiên mà rằng:
- Ô! Lạ chưa? Bình Ngô Thống tướng thật à? Mày nói bậy! - Bẩm quả thật ạ!
Thị Trinh lẳng lặng ngẫm nghĩ một hồi, bỗng dịu sắc mặt lại, sẽ hỏi:
- Mày nói rằng Bình Ngô Thống tướng sai mày, vậy mày có biết tại sao y lại sai mày hại ta?
- Bẩm có, nhưng xin cô nàng đừng giết tôi.
Thị Trinh gật đầu nói:
- Không, không khi nào, nếu mày cứ nói thực cho được rành mạch, chẳng những ta không giết mà ta lại cho thêm tiền nữa.
Nói dứt nhời, lấy ra một nén bạc để trước mặt tên thích khách mà rằng:
- Đây, mày cứ nói cho thật, ta sẽ cho mày nén bạc này.
Tên thích khách trông thấy nén bạc thời hoa cả mắt sướng quá, quên mất cả tấm lòng sợ chết, liền vội vàng nói:
- Bẩm, chủ tôi sở dĩ sai tôi giết bỏ cô nàng, chỉ vì có một cớ thế này: nguyên cái tiếng nói ở mỏm sấu bấy lâu, là do chủ tôi sai người chui vào trong ấy mà nói ra. Chủ tôi làm như thế cốt để mưu việc khởi binh cho dễ, quả nhiên chỉ vì cái kế khôn khéo, mà có mấy ngày hôm nay đã được quân theo rất đông. Chiều hôm qua bỗng dưng thấy cô nàng cưỡi ngựa đến, đứng ngắm mỏm đá, rồi lại ném mạnh vào mỏm đá mà mỉm cười. Có người đem chuyện ấy mà báo với chủ tôi. Chủ tôi cho rằng cô nàng đã khám phá ra cái thâm mưu ấy. Sợ cô nàng sẽ đem mà tuyên bố ra công chúng thời những người theo
chủ tôi, tất họ bỏ mà tan đi hết… Ấy cái cớ mà chủ tôi sai tôi đi giết cô nàng thực chỉ bởi một tiếng cười của cô nàng. Lúc chủ tôi sai tôi đi, tôi có hỏi cặn kẽ thời chủ tôi bảo tôi như vậy. Đó toàn là những điều tôi nói thực, xin cô nàng lượng xét cho.
Thị Trinh nghe tên thích khách ấy nói xong, gật đầu mỉm cười mà rằng:
- Đã có cái mưu sâu giả làm đá nói, mà đến lúc gặp được nhân tài lại không biết tìm kế đón dùng, thời cái kiến thức cũng còn hẹp hòi lắm.
Nói rồi cầm nén bạc trao cho tên thích khách, mà bảo thêm nó rằng:
- Mi khá cầm nén bạc này trao cho vợ con làm vốn riêng. Còn mi thời cứ đến nói với chủ mi rằng đã giết được ta và chôn lấp kỹ càng rồi, chắc mi sẽ được thưởng thêm, chứ đừng có nói rằng không giết được ta mà thường lại bị nó giết chết đó, tên thích khách cầm lấy nén bạc thích quá, nhổm phắt ngay dậy chực chạy, chẳng ngờ vừa mới nhấc chân lên đã hình như có người đập đầu xuống, đau quá méo cả mặt lại, té ra tóc vẫn còn buộc vào cột chưa cổi120… Thị Trinh thấy vậy bất giác phì cười mà rằng:
- Thời đi đâu mà vội vàng thế nào! Tiền đã cầm trong tay, còn ai người ta lấy lại nữa mà hấp tấp đến thế, đồ chúng bay thật là sống chết cũng chỉ vì tiền!
Dứt nhời, đứng dậy cổi tóc cho tên thích khách. Tên thích khách lạy tạ cảm ân luôn mấy điều rồi bèn ra ngoài cửa đi mất.
Chủ quán trông thấy cách hành động của Thị Trinh như vậy, thời sợ hãi coi như một vị thiên thần. Tuy ngồi xa tận bên ngoài hè mà vẫn cứ run rẩy lên như cầy sấy.
Mờ tảng sáng hôm ấy, Thị Trinh trả tiền cơm tiền trọ xong, lên ngựa ruổi thẳng về nhà, đem những chuyện xảy ra hôm trước thuật lại
cho anh là Triệu Quốc Đạt nghe. Triệu Quốc Đạt nghe đến đoạn bị thích khách, thời nghiêm sắc mặt lại mà rằng:
- Việc đó, tuy là do bởi bọn kia ngu hẹp, nhưng thực ra thời em cũng có lỗi. Phàm người ta càng khôn biết bao nhiêu lại càng phải giấu kín sự khôn biết bấy nhiêu. Nhất là đối với kẻ tiểu nhân ta lại càng phải giữ cái thái độ bao dung, cái hành tung bí ẩn của chúng, mà mình khám phá ra được, nếu có cần phải bảo ban, thời ta nên dẫn chúng đến nơi vắng vẻ mà dần dà khuyên nhủ; chứ đừng có đương trước mặt công chúng mà bộc bạch sự bí ẩn của nó. Nó bị mình làm vỡ lở sự bí mật, có đứa vì xấu hổ mà sinh ra làm liều. Cũng có đứa vì xấu hổ mà sinh ra ghen ghét. Tức như cái việc của em như hôm qua đó, ấy cũng may em là người có võ lực, mà cũng may kẻ thích khách của nó tầm thường. Nếu dịch địa mà tên thích khách ấy lại có tài như Chuyên Chư, Nhiếp Chính121 ngày xưa thời phỏng em còn an toàn làm sao được? Thế có phải chỉ vì một cái mỉm cười mà đến nỗi thiệt mạng không?
Thị Trinh nghe anh nói bấy nhiêu lời, rất là cảm phục, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Mấy năm nay quân tướng nhà Ngô nó giết hại dân ta nhiều lắm. Bởi thế nên bọn ấy nó mới khởi lên có mấy ngày, mà đã được rất nhiều người theo nghĩa…
Quốc Đạt nói:
- Con giun giẫm lắm cũng phải quằn, huống chi là người. Cứ như ý anh hồi này, chắc còn nhiều đám khác khởi lên chứ chẳng chỉ có một đám ấy…
- Anh liệu những đám ấy có thể thành công được chăng?
- Phàm mưu tính những công việc nhớn, tuy do bởi ý nghĩ của người, mà thực một phần lớn là ở cơ trời. Cơ trời đến lúc đã đổi thay thời những bọn cầm cần câu, đẵn122 gậy trúc, cũng có thể vọt lên mà dẹp yên thiên hạ; nếu cơ trời hãy còn bĩ tắc, vận nước hãy còn
nguy nan, thời dù có tài vá trời lấp biển, nâng đỉnh bạt sơn, cũng chỉ đành cái dã tràng xe cát! Đó em chẳng xem như đức vua Trưng ta ngày xưa đó. Anh hùng mưu lược đến nhường bao, mà rút cục cũng phải đến thua cơ trời, chịu bỏ mình dưới dòng nước bạc!
Thị Trinh nghe anh nói đến đây, bất giác ngậm ngùi mà rằng:
- Đức vua Trưng tuy phải gieo mình giữa dòng nước bạc, nhưng tiếng thơm còn được lưu truyền trên sử sách, khiến cho người đời sau nghe đến tên ngài cũng phải sinh lòng sùng bái và phấn khởi, vậy em thiết tưởng người ta ở đời hễ gặp việc nên làm thời cứ làm, miễn là hãy biết sức người đã, còn thành hay bại sau này, cái đó sẽ nên tùy ở cơ trời, ta không cần phải kính mến. Cứ như nhời anh nói, người ta việc gì cũng phải tùy ở cơ trời, thời chẳng hóa ra người ta cứ đành chịu bỏ đấy rồi mặc theo cơ trời rủi may hay sao?
Quốc Đạt nghe em nói xong cười mà rằng:
- Em nói rất phải. Anh sở dĩ nói phải tùy theo cơ trời là chủ ý muốn khuyên người ta phàm việc cần phải cẩn thận, chứ không nên vọng động đấy thôi…
Cách ít lâu, nhân một lúc nhàn hạ, Quốc Đạt liền đem chuyện gia thất ra để khuyên em. Và nói thêm rằng:
- Ít lâu nay có rất nhiều người đến hỏi anh để cầu hôn với em nhưng anh nghĩ em bây giờ đã nhớn, mà việc hôn nhân không thể coi thường. Vậy anh muốn để tự em kén chọn, rồi anh sẽ định liệu sau.
Thị Trinh nghe anh nói thời mỉm cười mà rằng:
- Xin anh hãy đừng nói việc ấy với em vội. Chắc anh cũng còn nhớ bà Trưng Nhị ngày xưa nào đã có chồng đâu, mà đến bây giờ ai cũng còn biết tiếng, vậy làm người con gái, cần chi cứ phải có chồng mới gọi là người hoàn toàn?
Thị Trinh vừa nói đến đấy, bỗng có tên người nhà đi xa về báo rằng:
"""