" Gió Lửa - Nam Dao full prc pdf epub azw3 [Dã Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gió Lửa - Nam Dao full prc pdf epub azw3 [Dã Sử] Ebooks Nhóm Zalo GIÓ LỬA Tác giả: Nam Dao Truyện dã sử Đóng gói: nguyenthanh-cuibap Text: vietmessenger Gửi Việt và Nam, tặng L.Y. Nga. Chân thành cảm tạ : Liên Yến Nga, Nguyễn Quốc Bình, Hoàng Hưng Nam, Hoàng Khởi Phong,Nguyễn Tài, Trần Bích Thủy, Lm Trần Tam Tỉnh, Nguyễn Ðăng Thanh Tùng và Trần Vũ, dưới những hình thức khác nhau, đã giúp tác giả thực hiện tiểu thuyết này. Lời Ngỏ Quốc gia nào cũng có Lịch Sử. Ghi lại biến cố, ngày tháng, là loại biên niên thuộc dòng chính sử. Chính sử chẳng phải lúc nào cũng được ghi nhận khách quan. Những biến cố thường được tô vẽ theo những quan điểm thế quyền đương đại một khi có lợi, và ngược lại, bị lờ đi một khi bất lợi. Ngoài dòng chính sử, còn có phần lịch sử hình thành qua trí tưởng tượng, óc phán đoán, và cao hơn là sự cảm nhận từ quá khứ những vấn đề của con người và xã hội hiện vẫn tồn tại. Ở đây, biến cố lịch sử trở thành đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan, nhào nặn lại để rồi, qua ngòi bút người viết, thành tiểu thuyết dã sử. Hiểu như vậy, không ai phủ nhận được phần trách nhiệm của những tiểu thuyết dã sử. Soi rọi vào những vấn đề nhân quần xã hội và thân phận con người trong quá khứ là một cách đi tìm sự sống tàng ẩn trong lịch sử. Lịch sử đó là lịch sử sống. Nó tạo được khả năng nhìn vào tương lai dưới một góc độ nào đó. Chỉ kể ra những biến động và sự cố, loại chính sử biên niên đơn thuần ghi lại lịch sử chết. Nó thường bịt ít nhất là một trong hai con mắt ta lại. Thậm chí, như Tocqueville có nói, nó là một phòng triển lãm tranh phần lớn sao chép vì rất hiếm tranh nguyên bản. Trong Gió Lửa, không gian là nước Việt Nam, thời điểm là buổi Trịnh tàn-Lê mạt vào cuối thế kỷ 18. Mọi nhân vật, kể cả những nhân vật mang tên có thật trong chính sử, vẫn là những nhân vật hoàn toàn tiểu thuyết. Tiểu thuyết là cách tác giả đối thoại với lịch sử. Tất nhiên đối thoại đó chỉ một chiều và chủ quan. Thậm chí tác giả không câu nệ bất cứ điều gì, kể cả đôi khi cưỡng bức lịch sử để thai nghén ra tiểu thuyết. Liên tưởng đến một không gian khác, một thời điểm khác, hoặc những nhân vật có thật trong thời đại này hay thời đại kia, là thẩm quyền của độc giả. Ðọc tiểu thuyết, trước tiên là để mua vui. Sau, dẫu chỉ đôi khi,tiểu thuyết dã sử lại tạo dịp đào sâu một số suy tư về quá khứ, hoặc đã tiềm ẩn, hoặc đang xung động. Những trang sử Việt Nam trên dưới năm trăm năm qua phơi trải chiều dài một cuộc nội chiến vẫn ám ảnh đâu đó như một thứ ác nghiệp đang còn rình rập ẩn náu chỉ đợi cơ hội là lại làm cho lệ rơi máu đổ. Tại sao? Dĩ nhiên, yếu tố tình cờ có, yếu tố khách quan có. Nhưng lịch sử vẫn là, nói cho cùng, sản phẩm của những con người suy tư và hành động trong một mẫu hình văn hoá nhất định. Vậy thì yếu tố nào trong mẫu hình kia là nguồn căn của những cuộc nội chiến mà ta là nạn nhân của chính ta? Năïn đất sét làm tượng Thành Hoàng, phải chăng chúng ta đã quì lậy thì thụp đến độ mê mụ để trở thành nạn nhân của những quyền lực do chính chúng ta cùng dựng lên, một khi, theo qui luật tồn tại, những quyền lực đó xung đột với nhau? Tránh cho cảnh lệ lại rơi máu lại đổ, không thể không đặt cả cái mẫu hình văn hoá đó lên bàn giải phẫu để suy ngẫm, hội chẩn và rồi cắt bỏ những phần nhiễm độc trong tâm thức. Chỉ có như vậy, tương lai mới phần nào rõ nét ngõ hầu hiện tại cưu mang được hy vọng để tiếp tục sống còn. Về phần những vấn đề đặt ra để suy ngẫm, tác giả xin hoàn toàn trách nhiệm, và hy vọng độc giả ở mọi nơi có sự đồng cảm. Nam Dao Iles de la Madeleine 17-7-1997 Québec 21-10-1998 Vài Nét Chính Sử Lửa Ðàng Ngoài Năm Quí Sửu (1673), Trịnh-Nguyễn chấm dứt chiến tranh, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt đất nước. Từ sông Gianh ra Bắc, gọi là Ðàng Ngoài, do vua Lê chúa Trịnh nắm quyền. Từ sông Gianh vào Nam, gọi là Ðàng Trong, do chúa Nguyễn cai quản. Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa thay Trịnh Giang. Loạn lạc khắp nơi: Lê Duy Mật lấy nghĩa phù Lê, thất bại, chạy về Thanh Hóa (1738). Năm Nhâm Tuất (1742), Nguyễn Hữu Cầu khởi binh đóng Ðồ Sơn, chiếm Kinh Bắc. Năm 1747, Cầu đánh Sơn Nam, bất ngờ tập kích Thăng Long, rồi rút về Sơn Nam, phối hợp với Hoàng Công Chất ở Thái Bình. Nguyễn Hữu Cầu bị bắt (1751) và bị chém sau mười năm khởi nghĩa, lôi kéo được hàng vạn dân nghèo. Năm 1767, Doanh mất, con là Trịnh Sâm lên thay, dân Kinh Bắc nổi dậy. Lê Duy Mật đánh bại tướng Trịnh ở Nghệ Tĩnh. Hoàng Công Chất chết già (1769), nghĩa quân sau đó bị tan rã. Năm sau, Trịnh Sâm tiêu diệt phong trào phục Lê của Lê Duy Mật đã tồn tại được ba mươi hai năm. Năm 1771, Sâm giết thái tử Lê Duy Vĩ, ép vua Lê hiển Tông lập Lê duy Cẩn lên ngôi Ðông cung. Năm 1773, Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn chiếm Qui Nhơn. Trịnh Sâm cấm đạo Thiên chúa ở Ðàng Ngoài. Tháng chạp năm 1774, Sâm chiếm thành Phú Xuân. Năm 1777, hạn hán ở Ðàng Ngoài, đói liền mấy năm ở Nghệ An. Tháng chín năm Canh Tý (1780), sủng phi Ðặng Thị Huệ cùng Hoàng Tế Lý mưu giành ngôi Chúa cho con thứ là Trịnh Cán. Con trưởng của Tĩnh đô vương Trịnh Sâm là Tông, cùng Ðàm Xuân Thụ, Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân định việc khởi binh. Việc vỡ lở, Sâm bắt giam Tông và Khản, kết tội tử hình bọn dư đảng. Hai năm sau, Sâm mất.Trịnh Cán lên ngôi chúa. Cán lúc ấy mới sáu tuổi, Hoàng Tế Lý và Ðặng Thị Huệ nắm giữ công việc triều chính. Tháng mười năm Nhâm Dần (1782), kiêu binh nổi loạn, phế Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên. Nguyễn Khản và Dương Khuông phụ chính. Tháng giêng năm Giáp Thìn (1784), kiêu binh làm náo loạn kinh đô Thăng Long, đốt dinh Nguyễn Khản và Dương Khuông, giết Chiêm Võ hầu, cướp bóc nhà cửa đám quan lại và công hầu. Gió Ðàng Trong Năm Bính Ngọ (1306), Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, vua Chiêm Thành. Năm sau, Mân dâng hai châu Ô, Rí dẫn cưới. Tháng năm, Mân chết. Tháng mười, Trần Khắc Chung cướp Huyền Chân mang về Bắc hà. Chiêm Thành đòi Ô Rí, nay đổi tên là hai châu Thuận, Hóa nhưng không được, mang quân đánh châu Hóa (1353). Ðến năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm thắng, vào đến Thăng Long rồi lại rút ra giữ Thanh-Nghệ. Tháng năm năm Canh Thân (1380), Hồ Quí Ly đánh lùi được Chế Bồng Nga. Chiến tranh Chiêm Việt kéo dài cho đến đời chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng lấy Phú Yên năm 1622, chấm dứt trên thực tế vương quốc Chiêm Thành. Ở Ðàng Trong, chúa Nguyễn lấn đánh Chân Lạp sau cuộc nội chiến với Ðàng Ngoài. Năm Ất Dậu (1705), Chúa Nguyễn chiếm Phiên trấn. Năm Mậu Tý, Chúa Nguyễn liên minh với Mạc Cửu là người Minh Hương, phong làm Thống binh trấn Hà Tiên. Năm Tân Hợi (1731), quân Nguyễn chiếm Gia Ðịnh và lập Vĩnh trấn. Võ vương lên ngôi chúa (1738), bắt đầu đổi phong tục và bắt dân trang phục theo kiểu Trung Quốc. Võ vương mất, quyền thần Trương Phúc Loan phế Phúc Thuần, lập Phúc Dương còn nhỏ lên thay năm 1771. Nguyễn Nhạc cùng hai em là Huệ và Lữ dấy quân ở Tây Sơn, chiếm Qui Nhơn (1773) rồi đánh vào Nam-Ngãi. Nhân dịp, Trịnh Sâm và Hoàng ngũ Phúc tiến chiếm Phú Xuân (1774), rồi xuống Quảng Nam. Tây Sơn hòa với Trịnh, đánh lấy Phú Yên. Chúa Nguyễn chạy vào Gia Ðịnh. Nguyễn Lữ (1776) mang thủy quân đánh Gia Ðịnh, chiếm Sài Gòn và ba trấn lân cận, rồi lại về Qui Nhơn. Nhạc tự xưng là Tây Sơn vương, đặt niên hiệu là Thái Ðức. Năm 1777, Huệ lại đem quân đánh Gia Ðịnh, bắt giết cả Phúc Dương và Phúc Thuần rồi về Qui Nhơn. Quân Nguyễn, tôn Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi chúa, chiếm lại Sài Gòn. Năm 1778, Nhạc xưng đế, phong Lữ làm Tiết Chế và Huệ là Long Nhượng tướng quân. Ánh đánh chiếm lại Bình Thuận. Năm Nhâm Dần (1782), Nhạc và Huệ mang quân đánh Gia Ðịnh, Ánh phải chạy ra đảo Phú Quốc. Nghe tin Hộ giá Phạm Ngạn tử trận, Nhạc trả thù, giết rất nhiều thương nhân Hoa kiều. Nhạc và Huệ về Qui Nhơn, Ánh lại chiếm Gia Ðịnh ba tháng sau. Năm sau (1783), Huệ và Lữ phản công, Ánh đại bại chạy sang Xiêm, giao con cả là Cảnh mới năm tuổi cho Bá đa Lộc, là giám mục đạo Gia-Tô, mang làm con tin đi Pháp để cầu viện. Năm Giáp Thìn (1784), ba vạn quân Xiêm kéo sang. Huệ mang quân ra đánh tan, rồi để Ðặng văn Chấn ở lại giữ Gia Ðịnh. Tháng năm, năm Bính Ngọ (1786), Huệ cùng Lữ, Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ văn Nhậm tiến chiếm Phú Xuân. Cuối tháng sáu, Tây Sơn tiến ra Ðàng Ngoài dưới lá cờ « Phù Lê-diệt Trịnh » đánh tan quân Trịnh, vào Thăng Long. Tháng bảy, Huệ lấy công chúa Ngọc Hân. Lê Hiển Tông mất, cháu là Duy Kỳ lên ngôi, sau lấy hiệu là Lê Chiêu Thống. Tháng tám, Nhạc ra Bắc, cùng Huệ rút quân về nhưng bỏ lại Nguyễn Hữu Chỉnh không cho theo. Chỉnh phải chạy trốn về Nghệ An. Nội bộ Tây Sơn bất hòa, dẫn đến xung đột. Tháng chín, Trịnh Bồng về lại Thăng Long nhận ngôi chúa, được hai tướng Hoàng Phùng Cơ và Ðinh Tích Nhưỡng ủng hộ. Nguyễn Hữu Chỉnh dấy quân phù Lê, kéo ra Thăng Long đuổi Bồng, được phong làm Bằng Quốc công, thâu tóm lại quyền bính vào đầu năm Ðinh Mùi ( 1787). Xung đột Tây Sơn kéo đến tháng hai thì chấm dứt, lấy Bản Tân làm mốc, trở ra Bắc thuộc Huệ được phong là Bắc bình Vương, về Nam thuộc Nhạc. Nhạc cắt Gia Ðịnh cho Lữ, phong làm Ðông định Vương, còn tự mình xưng là Trung Ương Hoàng Ðế đóng tại Qui Nhơn. Ánh lại mang quân đánh Gia Ðịnh. Nguyễn Lữ về Qui Nhơn tháng sáu âm lịch (1787), ốm rồi chết, để Phạm Văn Tham trấn giữ. Tháng mười một âm lịch, Bá đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh ký Ðiều Ước Liên Minh Versailles. Khoảng thời gian đó, Huệ sai Vũ văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, bắt và giết. Tháng bốn năm sau (1788), Ngô Văn Sở báo Huệ là Nhậm lạm quyền và có ý phản, Huệ ra Bắc giết Nhậm. Tháng bảy, Lê Chiêu Thống cho người sang cầu cứu nhà Thanh. Tháng mười, trên hai mươi vạn quân Thanh ồ ạt vào biên giới. Ngô Văn Sở theo lời Ngô Thì Nhậm kéo quân lui về núi Tam Ðiệp. Ngày 17-12-1788, quân Thanh dưới quyền Tôn sĩ Nghị vào chiếm Thăng Long. Năm ngày sau, Huệ làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng Ðế lấy hiệu là Quang Trung rồi xuất quân. Ngày 26-12, Huệ đến Nghệ An rồi ngày 15 -1-1789, tức là ngày hai mươi tháng chạp năm Mậu Thân, Huệ đến Tam Ðiệp. Hạ lệnh ăn tết trước, và hẹn ngày mồng bảy Tết sẽ vào đến Thăng Long, Huệ chia quân làm năm đạo tiến ra Bắc. Ngày mồng ba tháng giêng, đồn Hạ Hồi vỡ. Ngày mồng năm, đồn Ngọc Hồi bị đánh tan. Ngày mồng bảy, Quang Trung vào Thăng Long, yết bảng an dân và cho quân Thanh ra hàng. Tháng năm năm Kỷ Dậu, Quang Trung ra chiếu khuyến nông và lập học. Tháng tám, khoa thi hương dùng chữ Nôm đầu tiên, có Nguyễn Thiếp làm đề điệu, được mở ở Nghệ An. Năm Tân Hợi (1791), tiền « Quang Trung thông bảùo » được ban hành, và Viện Sùng Chính được thành lập, phụ trách giáo dục và phiên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm. Năm 1792, viện đã dịch được bộ Tiểu Học và Tứ Thư, do Nguyễn Thiếp trách nhiệm. Tháng sáu, Nguyễn Ánh mang thủy quân vào đốt phá Thị Nại thuộc Qui Nhơn. Quang Trung gửi hịch kêu gọi quân dân chuẩn bị tấn công Ánh ở Gia Ðịnh nhưng ngày 29 tháng bảy năm Nhâm Tí, Quang Trung băng hà, con là Quang Toản mới mười tuổi lên kế vị, lấy hiệu là Cảnh Thịnh. Sau đó, thái sư Bùi Ðắc Tuyên chuyên quyền. Nhạc mất (1793), Tuyên sát nhập đất Nam-Ngãi, nội bộ Tây Sơn lủng củng. Ánh xây thành Diên Khánh, quấy phá Bình Thuận. Cuối năm 1794, Ðại tướng Trần Quang Diệu vây Diên Khánh. Tháng năm âm lịch Ất Mão (1795), Tư khấu Vũ Văn Dũng bắt giết Bùi Ðắc Tuyên. Diệu bỏ Diên Khánh, về Phú Xuân, dẫn quân đánh Dũng, may có Phan Huy Ích giảng hòa. Ngày tàn của triều đại Tây Sơn bắt đầu. Bảo là con Nhạc chiếm Qui Nhơn và định hàng Nguyễn Ánh, nhưng Quang Toản biết, vây thành và giết vào cuối năm 1798. Ánh đánh Qui Nhơn, cuối cùng chiếm được. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng phản công, giữ cửa biển Thị Nại, vây Qui Nhơn liền một năm. Bất ngờ, tháng ba năm Tân Dậu (1801), quân Ánh chiếm Quảng Nam. Ngày ba tháng năm, thành Phú Xuân bị hạ, Quang Toản rút quân ra Bắc. Tháng mười một, Toản và em là Quang Thùy mang ba vạn quân tiếp ứng cho Dũng, Diệu và vợ là Bùi thị Xuân tiến đánh lũy Trấn Ninh ( Hà Trung). Ðó là trận đánh lớn cuối cùng của quân đội Tây Sơn. Vai_Net Tháng năm năm Nhâm Tuất (1802), Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long. Tháng tám, quân Nguyễn hạ thành Thăng Long, Quang Toản chạy lên Kinh Bắc thì bị bắt. Tháng mười một, Ánh xử tội Vua tướng Tây Sơn. Về phần Ngô thì Nhậm, Nhậm bị đánh ở Văn Miếu đến chết vào tháng hai năm Quí Hợi (1803). LỬA ĐÀNG NGOÀI 1 Tiếng Đá Gió hầm hập từ phía Tây thổi về Nghệ An.Gió lùa cơn nóng đến độ chó ngậm hơi không sủa, trâu bò uể oải nằm dài, rớt dãi chẩy trắng mép, lim dim tựa như vừa no đầy sau cơn xác thịt. Ðợi đến nửa đêm, gió mới hà được một chút hơi lạnh của núi trong tiếng xào xạc từ rừng lá rạc vây bủa trại Bùi Phong. Căn nhà ba trái nằm yên ả dưới rặng chèm. Tiếng võng thỉnh thoảng kẽo kẹt nhịp cho tiếng quạt phành phạch phẩy gió. Không biết loài chim gì bay ngang, quàng quạc kêu làm vỡ bấy cái êm đềm một đêm nồm ngột ngạt. Lửa đóm lóe lên trong nhà, hắt qua khe liếp những vệt sáng đỏ đục. Tiếng rít thuốc lào sằng sặc, rồi tiếng người sột soạt ra mở then cửa. Nguyễn Thiếp ra đứng, ngửa mặt nhìn trời. Ánh trăng chếch tỏa xuống mầu xanh huyển hoặc trên những lùm cây chập chờn nhẩy múa. Trước khi gia đình họ Nguyễn ở Nguyệt Ao lên lập trại cuối năm ngoái, khoảng đất bằng phẳng rộng độ hai mẫu ta đất này chỉ toàn là rạc, lá nhọn, sắc, tua tủa chĩa ra như lông nhím. Cũng bởi vì Thiếp nổi tiếng là người sành thuật phong thủy nên tiếng đồn đãi rằng chỏm Bùi Phong ở phía đông ngọn Lạp Ðính trong rặng Thiên Nhận là nơi có mạch rồng, ai để mả ở đó thì đời sau sẽ hạnh phát đế vương. Thế là nghe đâu có vài kẻ cùng một lúc lên quan kiện, ai cũng đưa từ chứng rằng đó là đất của tổ tiên mình. Nhưng chuyện kiện cáo không đến nỗi nhì nhằng. Ở vào những năm cuối cùng đời chúa Trịnh Doanh, ai cũng biết là từ chứng có thể mua bằng tiền, giá thường chỉ bằng giá một đôi gà. Vả lại, miệt Hải Dương có giặc Nguyễn Hữu Cầu, và ngay tại hai trấn Thanh-Nghệ này, Nguyễn Diên mời được Hoàng tôn Lê duy Mật kéo cờ tôn phù vua Lê dấy binh chống chúa Trịnh. Nổi loạn chiếm Ðồ Sơn năm 1742, Cầu thường lấy của nhà giầu ra phân phát cho người nghèo, chống với chúa Trịnh được gần mười năm. Mật là tôn thất nhà Lê, nổi loạn đánh Trịnh Doanh ở Thăng Long, thất bại phải chạy ra Thanh Hóa năm 1738. Trong cảnh loạn lạc, quan huyện La Sơn tìm cách khu sử cho thật gọn. Coi chỏm Bùi Phong là công thổ, quan để cho người đồng liêu họ Nguyễn vừa mới nhậm chức huấn đạo ở Anh Ðô mua lại. Thuở Hiến sát sứ Nguyễn Hành thụ bệnh qua đời ở Thái Nguyên cách đây mười lăm năm, nỗi đau xót người chú đã nuôi mình ăn học khiến Thiếp mắc chứng cuồng dĩ. Nhẩy xuống ruộng bùn huyện Kim Hoa nằm mê man ba ngày, Thiếp may được người xã Do Nhân mang về nuôi cả tháng, sau mới tìm đường về nhà. Ba ngày trước, tức là đúng vào ngày mùng tám tuần trăng thứ sáu, Thiếp lại lên cơn động kinh. Ðang phạt cỏ tranh bới đất trồng thêm chục gốc chè, Thiếp bỗng ngã vật ra, chân tay co quắp, miệng méo xệch, người giật lên như đỉa phải vôi. Thiếp muốn kêu nhưng cổ tắc lại, nước dãi đặc sệt phòi ra từng vũng sùi bọt trắng. Thiếp ngửng mặt nhìn lên trời: mây đùn lên, bay vùn vụt, bỗng nhiên đổi mầu thành mây bẩy sắc, ráng tía ngày càng chói lọi đến lóa mắt. Trên cao, vô số khuôn mặt từ phương Nam bay lại, sà xuống, mặt người có, mặt ma mặt quỉ có, mặt Thánh mặt Phật cũng có, lúc thì nhe nanh nhe vuốt như chực cắn xé, lúc lại bi thương đại lượng nhỏ nước mắt từ bi. Ðột nhiên, một vùng đất nổi lên cao, chung quanh là rừng núi, một đàn voi xông ra, dẫn đầu là một con voi trắng đầu như đầu rồng. Mấy chục con voi lồng lên trong cát bụi mịt mù rượt đuổi một đàn ngựa, con chạy về phương Nam, con dạt về phương Bắc. Tiếng cồng nổi lên nghe đinh tai nhức óc, lẫn vào đó là tiếng tù và, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng kim khí chát chúa choạng vào nhau, rồi tiếng rên la, tiếng van vỉ, tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa. Thiếp cố xoay người về phía trái, tì tay vào một mô cỏ vừa cào. Mặt trời rát bỏng xối xuống từng chậu lửa sánh sệt, làm cho đống cỏ tranh mới cắt cháy bùng lên. Cháy! cháy! cháy rừng! Thiếp hả miệng hớp lấy chút không khí mỗi lúc một ngột ngạt, cố đến độ cổ họng bung ra thành tiếng « chạy! chạy đi! », rồi lịm dần trong lớp sóng lửa vỗ sôi lên giữa một cái vạc dầu đang từ từ nhận chìm cả nhân loại. Khi Thiếp mở mắt ra, trời đã tối mịt. Ánh đèn dầu hắt bóng Ðặng thị lên vách mới trát còn ngan ngát mùi đất ẩm. Thiếp thều thào gọi vợ. Ðặng thị cúi xuống xốc cho Thiếp ngồi lên, giọng nửa mừng nửa tủi: - Mấy năm nay tưởng yên rồi, nay đột nhiên thầy nó lại ngã bệnh. Thiếp gượng cười. - Thầy nói, thầy kêu, rồi lại khóc nữa. - Nói gì? - Thầy bảo bây giờ là thời mạt pháp! - Còn kêu gì? Ðặng-thị im lặng một chặp, ngập ngừng: - Thầy kêu nhiều lắm, khó nhớ hết được. Có lúc thầy vừa khóc vừa bảo đến thánh thần cũng hư huống chi là người... - Thế kêu với ai? Ðặng-thị lắc đầu, kéo tấm chăn đơn đắp cho Thiếp, nhỏ nhẹ: - Tôi không biết! Thầy nó uống cho tôi bát thuốc này đã. Uống cho hạ cơn xuống đêm nay. Thiếp từ tốn nâng bát thuốc do một người bạn nổi tiếng danh y bốc cho. Từng ngụm thuốc đắng chát trôi qua như đốt cổ họng, song vào đến bụng thì lại thành mát rượi. Thiếp đặt bát thuốc lên cái ghế đẩu kê cạnh giường, nhớ lại ngày nào họ Lê bắt mạch cho mình trên chùa Hương Tích, nửa đùa nửa thật cười bảo «...chẳng biết Cuồng ẩn đó hay Lãn ông này sẽ tạo nghiệp để phải giây vào đám bụi bậm dưới kia ». Thiếp với tay lấy bình nước chè, nhưng mất thăng bằng, ngã chúi xuống chân giường, miệng thở hổn hển. Bóng đèn hắt bóng Ðặng-thị lên vách, hấp tấp đang xốc Thiếp lên. Lúc sau, bấc đèn vặn nhỏ lại khiến cái bóng khổng lồ ngả dài ra rồi biến mất. Từ hôm Thiếp lên cơn động kinh, cứ chập choạng tối là Ðặng-thị bắt cả ba đứa con đi ngủ sớm. Hai đứa lớn biết nghe, nhưng Thúc Khải mới chập chững biết đi lâu lâu lại khóc đêm đòi mẹ. Bấy giờ đã canh hai, trăng lưỡi liềm đang ngả về phía tây rặng Thiên Nhận. Trại Bùi Phong mơ hồ lẫn vào giấc ngủ chập chờn trong đêm mùa hạ. Tiếng ếch nhái ven con suối cạnh nhà oang oác, phụ họa vào những âm thanh rỉ rả của đủ loại côn trùng than van cơn nóng bức hừng hực chưng bằng lửa địa ngục. Ðặng-thị thỉnh thoảng lại phe phẩy quạt cho Thúc Khải. Giường bên kia, tiếng trẻ ú ớ nói mê. Bước vào nhà, Thiếp đặt mình xuống giường nằm im ngắm ánh trăng qua khe liếp, mông lung nghĩ ngợi. Ðột nhiên con Vện buộc ởœ gốc cây đầu nhà tru lên sủa oăng oẳng. Tiếng chân người chạy như ma đuổi mỗi lúc một gần. Khi Ðặng-thị vừa khêu đèn lên thì tiếng gõ cửa đã dồn dập đánh thức cơn ngái ngủ đang chờ ập đến. Cửa vừa mở, tiếng nức nở vang lên: - Nguyễn công, xin người... Ðặng-thị cúi vội xuống xốc nách người con gái đang quì, thảng thốt hỏi. Dưới ánh đèn, mặt người con gái nhợt nhạt, mái tóc dài màu đen huyền xổ tung ra trên hai vai bung toạc những vết rách như dao cứa. Khắp mảng áo trái, máu bầm hoen ố những đường kim tuyến thêu dọc trên những chiếc áo chẽn của phụ nữ miền núi. Người con gái hai tay run rẩy đưa cho Thiếp một quyển sách gáy da, rồi nhũn người khuỵu xuống, hai mắt nhắm nghiền lại. Ðặng-thị vừa lay vừa gọi, nhưng vô ích. ° Người con gái đó tên là Hà Khinh Vân, nhưng mọi người trên bản Mê Thượng đều gọi nàng là nàng Mây. Mây là con gái đầu lòng của Hà công, người trưởng tộc họ Hà đã đến sinh cơ lập nghiệp cách đây hơn hai trăm năm trên rặng Giăng Màn. Rặng này cũng có tên là Khai Trướng, chạy theo hướng Bắc-Nam, nằm về phía Tây rặng Thiên Nhận, chia ranh giới giữa châu Hoan và vương quốc Ai Lao. Hà tộc đông nhất bản, có lẽ là họ đầu đi khai phá Giăng Màn, và đã suốt tám đời làm Chao cai quản bản. Trong gần ba trăm nóc gia, với số trên dưới năm trăm tráng đinh, ngoài họ Hà còn thấy họ Ðinh, họ Lê, họ Nguyễn. Chính vợ Hà công là người họ Nguyễn, mới di cư đến Mê Thượng khoảng hai mươi năm nay. Nghe đâu có dính dáng họ hàng gì với Nguyễn Hữu Cầu đã dấy quân làm loạn, gia đình Nguyễn-thị phải bỏ miệt Ðồ Sơn chạy vào Nghệ An để tránh tróc nã. Tộc trưởng họ Hà không nhất thiết là dòng con trưởng mà phải là một người có công đầu. Ðể định công, cứ năm năm, họ Hà họp Tộc hội đông đủ mọi chi mọi ngành. Hạch thí gồm hai phần, thi võ và thi văn. Phần thi văn lại trọng về mặt binh thư, và đôi khi có hỏi cả thuật Pháp trị theo sách của Thương Ưởng và Hàn Phi. Không phải kỳ tộc hội nào cũng có người qua được hai phần hạch thí, cho nên đôi khi phải chờ đến mươi mười lăm năm mới được một người. Người này, được gọi là Tộc thứ, làm phụ tá cho Tộc trưởng cho đến kỳ hạch thí sau. Nếu có thêm được người trúng hạch thì Tộc trưởng xuống nhường cho Tộc thứ lên thay mình, còn người mới trúng hạch sẽ được đề làm Tộc thứ. Trường hợp Hà công, húy là Trường, lên làm Tộc trưởng là một sự kiện khá hãn hữu. Vào tiết lập đông năm Giáp Tý đời Cảnh Hưng thứ ba, bản Mê Thượng bị một con cọp cái khôn đến hóa tinh khuấy phá dữ dội. Nó đến rình vồ người làm mương làm rẫy, và có lần xông hẳn vào bản vật chết một con trâu rồi tha đi. Trai bản sợ, đi đâu phải đi thành toán năm ba người mà vẫn bị nó tấn công, có kẻ thương tích, có kẻ tử vong. Sau một năm nào là đặt bẫy, nào là đánh thuốc, nào là rình bắn tên có tẩm nọc độc, con cọp vẫn vô sự, lại trở nên ranh mãnh và táo tợn đến độ vào tận ven bản rình mò giữa ban ngày ban mặt. Người ở bản chịu thua, đành lập một cái miếu thờ thần Bạch Hổ, rồi cứ mỗi tháng đến nộp một con lợn nái. Hà công năm ấy mới hai mươi hai tuổi, tính tình xưa nay vốn lầm lì, đọât nhiên hỏi « thần Bạch Hổ là hổ đực hay hổ cái? ». Không ai trả lời, Hà công liền vác một túi tên, một cây cung dài hai thước, một thanh mã tấu và hai cuộn dây chão to bằng ba đầu ngón chân cái, lẳng lặng đi theo đám người khiêng lợn đến miếu thờ. Khi ai nấy đã ra về, Hà tự buộc mình vào cái chạc ba khá cao trên một cây cổ thụ mọc ngay cạnh miếu, làm một cái đầu thòng lọng to bằng cái nia, rồi cột vào gốc cây. Xong đâu đấy, Hà trèo lên cây, dở cơm nắm ra ăn, bình tĩnh như chẳng có gì. Hà chờ một đêm, sáng hôm sau con cọp đến lấy mồi như lệ thường, không có vẻ nghi ngại, cũng chẳng buồn gầm gừ khi nghe tiếng con lợn tế thần rú lên những tiếng eng éc não nùng vô vọng. Ðợi đến lúc cọp vục đầu vào cổ con lợn đã bị xé tanh banh, Hà nấp trên cây ném sợi thòng lọng vào đầu con cọp. Ngạc nhiên, con cọp nhẩy lồng lên gầm. Nút thòng lọng thắt lại khiến cọp nghẹt thở. Nó khôn ngoan nằm phục xuống, mắt lừ lừ, tai nghe ngóng, mũi khụt khịt tìm hơi kẻ thù. Hà dương cung bắn sáu phát tên, phát nào cũng trúng nhưng không vào chỗ nhược. Con cọp lại gầm lên, lết nhanh vào bụi cây, quay cổ lại cắn sợi dây chão. Hà lắp thêm tên, đợi cách bắn ngay vào chỗ giữa hai mắt cọp rồi bình tĩnh chờ. Nhưng đến quá một khắc vẫn không thấy động tĩnh gì, Hà nới dây, tụt xuống chạc cây dưới thì con cọp bỗng đâu nhẩy ào vào, làm Hà tối tăm mặt mũi rơi xuống đất. Con cọp không buông tha xông lại lấy chân tát Hà. Hà chĩa mũi mã tấu lùi ra sau. Con cọp nhẩy qua bên trái, rồi nhẩy qua bên phải, tránh lưỡi mã tấu. Vờn nhau đến lần thứ tư, bất chợt con cọp nhẩy thẳng vào Hà. Mũi mã tấu đâm xốc lên, nhưng con cọp vẫn còn sức đạp Hà ngã xuống, mồm há ra ngoạm vào chân trái Hà. Hà rút dao găm, tay phải kẹp đầu cọp, tay trái kéo một nhát vào cổ. Con cọp nhất định không chịu nhả mồi. Hà lại kéo ngược lại một nhát dao, rồi đau quá, ngất đi. Khi tỉnh dậy thì trời đã xẩm tối, Hà cố đẩy đầu con cọp ra, nhưng không còn đủ sức. Hà định gọi, nhưng biết không có ai nghe được, lại thôi. Cơn khát làm rát cả cổ, nhưng ống nước mang theo văng đâu mất. Ống chân trái nát nhè trong mồm cọp làm Hà đau đến độ răng đánh vào nhau nghe lách cách như đánh mõ bản. Mờ sáng hôm sau, Hà lấy dao cắt rơi đầu con cọp, vộc miệng vào uống máu cho đỡ khát. Uống xong, Hà nôn thốc nôn tháo rồi lại ngất đi. Trưa ngày hôm đó, Hà tỉnh dậy, thấy ruồi nhặng đã bu đầy vào chỗ chân trái Hà còn dính trong mồm con cọp. Hà thét lên: « Trời ơi! trời có mắt không? » rồi lại mê đi một lần nữa. Hà nhìn thấy mình bay bổng về phương Ðông, đậu trên đỉnh Thiên Nhận, chung quanh chập chùng những chỏm núi tròn mầu hồng tía nổi bật giữa cái nền xanh ngắt của giãy Giăng Màn. Hà rút ống đinh-bia, loại sáo ngang của người Thái trắng, kề môi thổi lên một khúc, rồi ồ ồ cất tiếng hát: Trăm thứ hoa không bằng hoa con gái Trăm thứ trái không bằng trái bông com Trăm thứ hương không bằng hương con mái Lúc ấy, Nguyễn-thị tay dâng lên Hà chiếc cần uống rượu, mắt nhìn vào mắt Hà, bảo: «...hoa đây, hương đây ». Hà uống, thấy cổ mát lịm, từ từ mở mắt ra. Chung quanh Hà lố nhố những người. Ông lang mừng rỡ kêu: « Tỉnh rồi! phúc thật lớn! ». Hà nhớ lại, hỏi cái chân trái mình nay ra sao. Ông lang lắc đầu. Hà đòi ăn một nồi cơm, và xin một vò rượu. Uống sạch vò rượu, Hà hỏi tìm thanh mã tấu của mình. Hà bật cười khành khạch, châm điếu rít thuốc, rồi thình lình xoay người hét lên một tiếng chặt vào khoảng thịt nhầy nhụa trên chân trái. Hà lại ngất đi một lần nữa. Ba hôm sau, Hà mời Nguyễn-thị rồi kể lại giấc mơ của mình. Nguyễn- thị không nói «...hoa đây, hương đây » nhưng bảo «...xin cứ cho người đến hỏi ». Cuối năm đó, họ thành thân. Chú rể chống nạng và đã trở thành tộc trưởng họ Hà cách đấy đúng hai tháng. ° Ðặng-thị đánh thức Thiếp vào lúc nắng đã chớm vàng rừng cây trên núi Lạp Ðính. Mây vẫn còn thiêm thiếp ngủ, tóc xòa những sợi tơ huyền óng ả chảy xuôi xuống triền thân mỏng mảnh uốn lượn những thác ghềnh mới được thiên nhiên mô phỏng. Thiếp lẳng lặïng đổ nước vào bình trà Lạc Thủy, rồi gắp những mảnh than hồng chèn quanh bình nước sôi bằng đồng mun do chính Hà công mang tặng ba năm về trước. Khi ấy, Hà và Nguyễn-thị ghé về làng Nguyệt Ao, nằng nặc đòi gặp. Quà ra mắt là ba sấp vải, ba sâu tiền, mười cân trà và chiếc bình đồng mun. Thiếp hỏi: - Tôi làm được gì mà Hà công lại đãi thế này? Hà công khẩn khoản: - Tôi đến đây xin tiên sinh dạy cho một câu mà thôi. Ngài dạy thế nào tùy ngài. Tôi học được gì, cũng tùy tôi. Còn dăm ba món quà này chỉ là ngoại vật, đáng gì mà ngài phải quan tâm. Ngừng một lúc, Hà công tiếp: - Thời buổi loạn lạc này, vua không ra vua, tôi chẳng ra tôi, thánh nhân phải sinh ra để cứu đời, nhưng sinh ở đâu? Thiếp nhìn lên trời, thủng thẳng: - Thánh nhân sinh từ trong lòng. Mong thánh nhân là rồi có thánh nhân. Hà công gặng: - Trên có trời, dưới có đất. Giữa đất và trời có người. Nhưng đâu phải ai ai cũng có cái thiên mệnh làm kẻ cứu đời. Liệu thánh nhân có sinh ra trong châu Hoan này không? Thiếp ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời: - Có, đủ lửa thì rồng sẽ cất cánh bay lên. - Vùng nào đất nào đủ lửa? Thiếp cười: - Nơi nào đủ người hiền thì nơi đó sẽ đủ lửa. Nhìn ra dãy Giăng Màn nền xanh lam sừng sững phía sau, những chỏm núi thấp hơn của rặng Thiên Nhận nổi lên như những chiếc quạt bằng lụa mầu hồng tía giống hệt như trong tranh thủy mạc, Thiếp chậm rãi: - Thế này làm sao lại chẳng có người hiền. Thiếp đứng lên, ý muốn tiễn khách, xin hoàn tất cả tặng vật. Nằn nì mãi, Thiếp đành nhận chiếc bình đồng mun với hai cân chè búp. Ðưa khách ra cửa, Thiếp còn nhớ cặp mắt tròn to của một con bé lay láy nhìn mình, miệng cười chúm chím. Lần ấy, Mây mới đâu chín mười tuổi. Con bé vẻ hiền lành thuở xưa sao nay lại leo lên Bùi Phong, người bê bết máu? Ðợi hết một tuần trà, nắng vừa lên đầu ngọn cây thì Mây tỉnh dậy. Mây cầm tay Ðặng thị để lên ngực mình, rồi cúi đầu, nước mắt chảy ra, không nói năng gì. Một lúc sau, Mây xin lên gặp Thiếp. Nàng quì phục xuống đất, đôi bờ vai nhỏ nhắn run bắn lên như con giun đất bị xéo quằn, kêu thảm thiết: - Nguyễn công ơi! Thế thì trời không cao, đất không sâu, chỉ còn có người, người có cứu lấy Mây này bé bỏng không? Ðặng-thị đỡ Mây dậy, lấy khăn lau nước mắt cho Mây, tay nhẹ nhàng vuốt những sợi tóc rối bời. Cắn môi ghìm cơn nức nở, Mây kể... ° Dưới triền tây núi Giăng Màn là bản Mê Hạ, thuộc mường Luang. Trước khi họ Hà đến Mê Thượng hai trăm năm trước, chỉ có một bản Mê gồm hơn trăm nóc nhà, chuyên sống bằng chăn nuôi và trồng trọt. Nước nguồn đổ về xuôi, xoáy vào đất, đục vào đá từ đời nào làm thành con sông Mê rộng độ ba mươi sải ngang, chẩy từ chân Giăng Màn qua mường Luang cho đến tận mường Rây. Có sông Mê, nước ê hề cho trâu bò, gà, lợn. Nước ê hề cho rẫy Luang quanh năm vàng ngô, xanh lúa. Nhưng chỉ ba năm sau khi đã đuổi được người Táy ở Bản Thượng khỏi chỏm Vềnh, Hà tộc đã sai tráng đinh xếp đá xây đập Cheo Reo chặn nước. Vì thế con sông Mê nay ráo kiệt. Nó cạn trơ lòng, chỉ còn phơi những tảng đá trắng tựa nhau đổ dài ra trên hai mươi dặm, giống hệt như xác một con trăn chết khô để xót lại trên mặt đất khúc xương sống ngoằn ngoèo trắng hếu. Người Táy bảo với nhau: « Cái giống người gì mà ác thế, đi cắt mó, chặn nguồn làm trâu chết, lợn chết, khoai chết, lúa chết. Thế này thì người Táy cũng sẽ chết dần thôi... ». Họ tìm cách phá đập. Hơn mười đời ông Trùm ông Chao, hơn mười lần trai Táy xách mai, xách thuổng, xách dao chằm đến Cheo Reo. Họ bảo nhau: « Phải tìm mó kíu nước, nếu không thì không có giống gì sống được ». Người trên bản Mê Thượng có súng bộc hỏa, lại canh giữ rất ngặt nghèo. Vì thế, cũng lại hơn mười phen họ phải khênh xác trai Táy về Mê Hạ. Duy có được một lần họ đánh bật đám tráng đinh Mê Thượng ra khỏi Cheo Reo. Họ thấy đập nước chia làm hai lớp, làm bằng những hòn đá tảng chồng lên nhau, hòn nọ dựa vào hòn kia, sức người không sao lay chuyển được. Vài bô lão còn sống kể rằng khi đó họ cho người Táy về mường lấy bộc lôi đến phá. Con trai Táy đào đường mương, dựa thế nấp vào, rồi dùng cung tên đẩy lùi những lần tiến công của con trai Kinh, cố giữ Cheo Reo được gần ba ngày ba đêm. Cuối cùng họ buộc được bộc lôi vào những gềnh đá đầu chĩa lên nhọn hoắt. Trai Kinh lúc đó đã tiến sát đến tuyến mương phòng thủ. Ông Phìa, người chỉ huy, hy sinh trai Táy, ra lệnh cho nổ bộc lôi. Bộc lôi nổ to đến rách toang màng nhĩ. Ðám voi rừng hoảng hốt vừa đâm dầu chạy vừa hống lên những tiếng tru chéo. Da thịt tóc tai trai Táy lẫn với sạn đá bay bốc lên trời, rồi rơi xuống làm rừng núi đỏ lè lè như lưỡi một trăm con ma thò ra liếm cây liếm cỏ. Nhưng đập Cheo Reo vẫn cứ vô sự, nước chỉ rỉ rả chảy xuống, vô tình để mặc con sông Mê vẫn cứ mãi trơ lòng cạn kiệt như trước. Từ đó, người Táy tản ra xa, xuôi về đồng bằng, bỏ ý phá đập, và chỉ lúc ông trời ra cơn hạn hán mới lên đập xin nước vào những tháng giữa hạ, khi nước còn quí hơn cả vàng dát trên vòng cổ con gái Táy. Ðời này sang đời nọ, không biết nghe từ đâu mà họ kháo nhau rằng khi nào tìm được mật kíp của bản Mê Thượng thì người Táy mới biết cách phá đập. Mật kíp như thế nào, chỉ có ông Chao của bản Mê Thượng, nghĩa là những người tộc trưởng họ Hà từ hai trăm năm nay, mới biết tận mắt. Theo lệ, mật kíp được trao tận tay ông Chao. Ông Chao cất giấu mật kíp ở Hang Sau, một nơi không ai được được phép vào. Chỉ khi nào bản gặp những khó khăn đến độ cả bản đòi thì ông Chao mới được mở mật kíp tìm lời giải. Theo lời truyền tụng, mật kíp do chính Hoàng Mười, một vị trong Bát Tiên, đã trao tận tay cho ông Chao sáng lập ra bản từ lúc tạo thiên lập địa. Chuyện thế gian đâu đó yên bài cho nên tất cả mọi việc từ cổ chí kim đã được tiên liệu trong quyển sách thánh này. Lần gần nhất phải mở sách là lần cách đây hơn năm mươi năm, hai họ Hà và Lê xích mích vì một câu chuyện không đáng gọi là lớn. Trâu một người họ Hà tên là Hà Chiến dẫm nát mương họ Lê, họ Lê sang bắt đền. Họ Hà cậy thế mạnh không lý đến chuyện trâu dẫm, lại xách mé «... mương nhà nào, nhà nấy cứ giữ! ». Lê Ân, tộc trưởng họ Lê, là một người nóng tính, lại giỏi nghề võ, đánh câu liêm rất tài tình. Ân giận căm gan, song chỉ cười nhạt, sập cửa bỏ về nhà. Dăm bữa nửa tháng sau, đàn trâu của Hà Chiến lại mon men đến mương họ Lê. Ân ngồi trong nhà quẳng câu liêm ra một lần đánh hai con trâu vỡ toạc đầu, hồng hộc kêu rồi chết. Chiến liền rủ một đám tráng đinh họ Hà đến vây nhà Ân liền hai ngày, bắn tên và định phóng hỏa đốt. Sáu đứa con trai của Ân, hai đứa bị thương nặng. Ân gào lên: « bớ ông Chao, ai phân xử đây? » rồi phanh ngực, mắt đỏ ngầu, sừng sững xông ra, quát: « Có chết, ta sẽ kiện với diêm vương! ». Tên bắn như mưa găm vào người Ân trông như nhím xù lông, song Ân vẫn không ngã, mắt trợn ngược lên, miệng ứa máu ra, chết đứng. Khi ông Chao bản là Hà Tuyên đến nơi thì cơ sự đã xảy ra mất rồi. Ðám con họ Lê quì xuống xin mở mật kíp. Cả bản thấy truyện thương tâm, bất bình với Hà Chiến, nên đồng ý. Ðình bản Mê Thượng xây trên hai sào đất vuông vắn trước cửa Hang Sau, nơi cất giấu mật kíp. Lối vào Hang Sau là một ngách nhỏ, có cắm bảng gỗ đỏ đục hai chữ « Cấm Nhập ». Hà Tuyên vái trời, vái đất, rồi vái tượng Thần Bản, miệng lầm rầm đọc. Lách vào trong hang, sau khoảng một tuần trà, Tuyên ra sân đình cung kính nâng cái hộp bằng ngà trong có một quyển sách gáy da đã sờn. Hơn năm trăm người ngồi im lặng đợi. Tuyên quát: « Ðánh cồng lên » rồi quì xuống. Tiếng cồng dội vào giãy núi Giăng Màn, vọng lại từng hồi, nghe như sấm động. Tuyên mở sách trên án thư, mắt chăm chú. Khi tiếng cồng vọng cuối cùng tắt đi như tìm về âm u xa hút, Tuyên đọc: « Ai là kẻ gây sự bạo hành giết người trong bản thì cả nhà phải bỏ bản mà đi về phía Tây, trái lời phải tội chết ba đời, ai muốn giết cũng được ». ° Năm ngoái, ngày Mây tròn mười bẩy, Mây rủ mấy đứa con gái đi tắm suối. Suối nằm ngay dưới đập Cheo Reo, nước xuôi xuống chỉ độ ba trăm thước là kiệt cạn. Buổi trưa nồng, gió ùa về từng cơn nóng rát. Mây lõa thể nằm ngửa ra cho nước ào vào tóc, vào mặt, vào yếm. Con Hường giạng chân, váy sắn đến bẹn, đùi thon chắc nhô lên thụt xuống, vừa cười vừa té nước tung tóe bắn thành những hạt óng ánh kim cương nhẩy múa dưới nắng trưa trong suốt. Con Hằng cởi yếm, tay giả như che phần trên cơ thể nhưng vẫn để cặp vú căng nứt nhô ra như sừng trâu, vắt vẻo ngồi trên một hòn đá trắng nhô lên trên nền toàn sỏi hồng, miệng hát Chiều chiều em dẫn mẹ qua đèo Em đi bên nớ Tình tình ơi, anh theo bên nào? Chiều chiều dẫn mẹ đi theo Tình, tình ơi Nhớ ai em kiếm cuối đèo dấu chân Tình, tình ơi Nhớ ai em những khóc thầm Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai... Một tiếng sáo đinh-bia bỗng nhiên vẳng lên từ đâu đó, xa vắng, mênh mang. Mây nhỏm dậy rỏng tai, ngước cặp mắt nâu thăm thẳm tròn trĩnh trên khuôn mặt trái soan rám hồng, môi hơi trề xuống, miệng mở hé như cười, chiếc răng nanh khênh khểnh lộ ra làm tăng cái vẻ nghịch ngợm của một cô gái vừa tuổi dậy thì. Tiếng sáo véo von lên cao hun hút như chạm vào giải mây trắng, xô nhẹ bầu trời trong vắt rồi vẳng lại như lời tỉ tê kể lể một chuyến đi không đến đích. Tiếng sáo có lúc lại ríu rít như đàn chim bất chợt gập lại một mùa Xuân đã tưởng đánh mất, hót lên sự sống hồn nhiên mạnh mẽ tựa măng tre đục đá trồi lên. Tiếng sáo chợt thổn thức tựa như tiếng khóc tủi thân của đứa trẻ tứ cố vô thân bỗng dưng bắt gặp cảnh một mái nhà yên ấm. Tiếng sáo bỗng não nùng tiếng than của kẻ bất đắc chí ngại ngần soi gương nhìn mái tóc mình đang trắng xóa những đám lau già mỗi lúc một thưa đi. Tiếng sáo lúc sau đứt quãng, tức tưởi một nỗi buồn không an ủi được, rồi nghẹn ngào uất ức tựa như lời trăn trối của đám tử tù trước khi lên đoạn đầu đài. Tiếng sáo trầm sâu xuống kể lể nguồn cơn với ngọn gió vô tình đã từ hàng tỉ năm nay chuyên trở vào hư vô vô số những niềm bất hạnh. Tiếng sáo cuối cùng cuống quít, loanh quanh như con chồn gập bẫy, rồi hốt hoảng như đám nai tơ chạy tên đâm đầu vào bụi gai rạc. Mây nằm xuống suối lắng nghe, cơ thể doãi ra như sắp tan biến trong không khí, để mặc nước mắt cứ ứa đầy mặt hòa tan vào dòng suối róc rách chảy. Mây ngạc nhiên không hiểu cớ sao mình khóc. Nhưng Mây cứ để mặc nước mắt đầm đìa chảy, mơ hồ cảm nhận như bắt gập lại một cái gì thật thân thương đã chót đánh mất từ lâu lắm, có thể là trước cả khi Mây ra đời, không nhớ được nhưng vẫn cứ lờ mờ lúc ẩn lúc hiện. Những giọt nước mắt ấy, tuy vẫn mặn sót như muối, nhưng làm sao lại khiến lòng Mây cứ lơ lửng giốâng như giải mây trắng đang lênh đênh giữa trời xanh văn vắt. Sau hôm ấy, trưa nào Mây cũng ra suối thẫn thờ đợi tiếng sáo đã vô tình im bặt. Ba tháng ròng, Mây lẩm nhẩm cầu xin: « Ông Xanh trên cao kia ơi, cho Mây tiếng sáo kia nhé... ». Lần nào Mây ra suối, Trần Trung cũng kín đáo đi theo. Từ dạo Trung bắt gập Mây trần truồng ưỡn ngực hứng con nước đổ từ ghềnh cuối Cheo Reo xuống vũng Cắt đầu nguồn sông Mê, Trung ngày đêm thẫn thờ, không thấy Mây là ăn ngủ không được. Mây bây giờ như người mất hồn, chẳng nói chẳng rằng, chiều chiều ra ngồi trên tảng đá, mắt lạc vào hun hút một khoảng không đầy bấp bênh. Trung hái một bó hoa rừng, lẳng lặng mang đến để cạnh chân Mây. Trung nhẹ nhàng: « Có chuyện gì thế hả Mây? ». Mây cười buồn buồn, chỉ lắc đầu. Sáng hôm sau, Trung quay về chỗ tảng đá, thấy bó hoa vẫn ở đấy, chỉ héo đi trông tàn tạ thảm hại. Trung biết đã mất một cái gì thiêng liêng như chính cuộc sống của chính mình. Nước mắt dàn dụa chảy như suối tràn mùa nước lên, Trung bưng mặt ngồi cho đến hết đêm, mong gặp hổ báo cho rồi đời. Cho đến một buổi tiếng sáo lại réo rắt đưa về Cheo Reo. Mây mừng đến run bắn người, mắt lại ướt lại những giọt nước mắt xưa. Mây lần theo gió đi tìm, nín lặng nép vào bụi rạc, mê mẩn đến độ gai đâm nát tay chảy máu mà không biết. Nhìn xuống chân chỏm Vềnh, Mây thấy thanh niên ấy nâng cây đinh-bia ngang miệng, mắt nửa nhắm nửa mở, hồn như lạc vào chốn không núi rừng, không cây cỏ, không cả đất, cả trời. Quấn chiếc rông màu xanh thẫm, thân trần cuồn cuộn những bắp thịt đồng mun, tóc dài hoe đỏ phần phật bay trong gió nồm, chàng có thật hay chỉ là ảo ảnh một cuộc đi về từ cái cõi lờ mờ giữa trần thế? Chàng ngưng thổi, tay vỗ nhẹ vào chiếc sáo bầu tròn, hát: Gió thổi bụi na Khăn đào của ai phơi sàn gió thổi Gió thổi khăn rơi Khăn rơi khăn rơi xuống mặt đường Bạn tình ơi Người đẹp của ai Hoa trắng nơi vườn dưa Hoa đỏ nơi vườn mía Áo em tô dấu son Thân em hồng màu rượu Miệng em chúm chím hoa sen Tóc em hoa đào chải gió Tay em níu chĩu cành mai... Mây ngày nào cũng ra đợi ở chỏm Vềnh cho đến khi Ðèo Kha linh tính thấy mình là một con thú đang bị rình săn. Một hôm, Mây nấp sau thân cây sim già, mắt ngóng, lòng thấm dần nỗi thất vọng và niềm đau xót lửng lơ, không thấy bóng dáng Kha đâu cả. Về chiều, chim bắt đầu nháo nhác bay, ánh tà dương lịm vào cây cỏ tô đậm cánh rừng vòng theo niềm nhớ đã chớm vô vọng. Chợt vai Mây có bàn tay nào nắm lấy, bóp mạnh như gọng kìm sắt, ghì xuống. Mây thất thần quay lại, mái tóc búi xổ tung ra thành thác đổ trào xuống, mắt hoảng hốt căng tròn như nai mắc bẫy. Bàn tay nới lỏng dần ra, Mây nhắm mắt, miệng hé ra, nhếch cười trong cơn mê, cảm thấy đôi môi ướt át áp vào má mình, mặt mình, rồi tai, rồi cổ, lần lần xuống vú, xuống bụng cho đến lúc nàng bật dậy, kéo vội chiếc rông quấn phần dưới cùng của thân thể không biết đã tụt ra từ lúc nào. Sau này, Mây nũng nịu bảo với Ðèo Kha rằng cuộc gập chiều ấy là giải dây ông Trời buộc, đố ai cởi cho ra. Những lần hẹn hò nhau, Mây và Kha tìm nơi hoang dã, tránh cho xa dân bản, nhưng điều tiếng đã có chút xôn xao. Mây thỏ thẻ: «... biết đâu ta về ở với nhau rồi thì Mê Hạ và Mê Thượng sẽ lại là một bản Mê như những ngày xửa ngày xưa ». Ðèo Kha, mồ côi từ bé, về xin phép ông chú đã nuôi mình thành người. Ðèo công ở bản Mê Hạ chần chừ. Cái mối oan nghiệt giữa Mê Thượng và Mê Hạ vẫn sừng sững ở Cheo Reo, chặn nước không cho lòng người thông được với nhau. Ông đoan chắc họ Hà ở Mê Thượng sẽ không bao giờ nhận kết nghĩa thông gia với Mê Hạ. Ðèo Kha giục Mây hỏi ý bố mẹ. Mây cũng sợ, nói liều: «...hay là Kha bắt em mang đi ». Kha lắc đầu bảo: « nếu làm thế thì chắc chắn đinh Mê Thượng sẽ tìm đánh Mê Hạ », máu sẽ chảy ra thay cho nước sông Mê đã cạn sạch trong cái lòng sông ráo kiệt. Mây càng sợ, bóp bụng định tâm nói trước với mẹ. Nghe Mây nói xong, Nguyễn-thị chỉ thở dài lắc đầu. Ðợi thêm một tháng, Mây cắn răng, mặt nhợt nhạt, ấp úng thưa với cha. Vừa nói được hai câu, Hà công đập ngay chiếc tách trà đang uống xuống đất, bảo: - Nó người Táy, đâu phải người mình... Thuận tay, ông tát Mây một cái trời giáng, tiếp: - Mày là con tao thì tao chọn rể¨. Hà phủi tay chống nạng đứng dậy. Từ đó, ông cấm Mây xuống suối, ra lệnh cho Trần Trung dẫn tráng đinh đi kiểm soát nghiêm mật đập Cheo Reo. Trần Trung lòng vẫn yêu Mây say đắm, sai người mai phục định giết Ðèo Kha một lần, nhưng Kha thoát được. Về phía Mây, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng, nàng không ăn không ngủ gần một tháng, thoi thóp nằm chờ chết. Nguyễn-thị quì xuống chân Hà công, xin: - Nghiệp con nó thế, cấm thì nó chết mất, sau lại báo oán vào mình, xin ông nghĩ lại. Hà công vào nhìn con gái, lòng hận như chính mình bị tình phụ, ứa nước mắt đi ra, bảo: - Làm thế nào thì làm, nhưng ta thách cưới một thớt voi, sáu trâu, sáu bò, vàng hai mươi lạng và hai trăm thước lụa Hà. Ðược tin, Ðèo Kha thừ người ra, bảo với Mây «...chẳng phải chỉ bản Mê Hạ, cho cả hết Mường Rây dưới kia gọp lại cũng chưa chắc đã có đủ bằng ấy đâu ». Mây ôm lấy Ðèo Kha, miệng cắn vào vai đến bật máu. Ðèo Kha ứa nước mắt, lẳng lặng gỡ tay Mây rồi lủi thủi xuốâng dốc về Mê Hạ nói chuyện với chú. Ngay tối hôm ấy, Ðèo công cho mời ông Chao, rồi bàn tính thế nào, cả hai người dẫn Ðèo Kha lên gập ông Phìa chủ quản khắp Mường. Sáu ngày sau, Ðèo công xin đưa trước ba trâu, ba bò, và mười lạng vàng, cho Ðèo Kha lên làm ¨ côn hươu ¨ để thử rể, và hẹn sang năm sau sẽ nộp đủ lễ cưới Mây về Mê Hạ. Ngày Ðèo Kha lên Mê Thượng là ngày Mây hoàn toàn bình phục. Mây ôm chân bố, hôn tay. Hà công lạnh lùng bảo: - Ðủ lễ, cưới ngay, rồi mày cút đi đâu thì đi. ° Ðèo Kha làm đủ việc phục dịch trong nhà, đêm ngủ ở quản, dưới chân nhà sàn, gần chuồng gia súc. Những đêm mưa rỉ rả, mùi phân trâu, phân lợn lẫn vào mùi rơm rạ ẩm ướt bốc lên thối đến phát ọe. Khi đó, Ðèo Kha đành mò ra chân sàn, quấn mình trong chiếc chăn đơn, thu lu ngồi trong mắt chờ sáng. Ðỉnh Giăng Màn, lúc ẩn lúc hiện, trở thành một người lỡ độ đường đến đánh bạn. Kha hỏi:«... núi ơi! Thế nào là tình yêu? ». Một cánh chim đêm xào xạc đến trả lời: «... là sự không bao giờ chọn vẹn! ». Kha quát khẽ: « Ta đâu hỏi mi, ta hỏi núi... ». Nhưng đỉnh núi sừng sững cứ lặng im. « Có phải đó là sự cô đơn đôi lứa? », Kha gặng hỏi. Ðỉnh núi sừng sững vẫn lặng im. « Hay đó chính là vết cào của định mệnh? ». Ðỉnh núi vẫn lặng im. Run lên cầm cập, Kha biết vết cào đang ứa máu, kéo chăn trùm lên đầu, nước mắt trào ra, miệng lẩm bẩm: «... Mây ơi, sao móng tay Mây dài thế...». Ðến lúc hương nồng thoáng chút mùi hăng hăng ùa vào mũi, Kha mới kéo chăn, ngoái nhìn ra sau. Nhẹ như bước chân hoẵng, Mây đã ra đó tự bao giờ, hai bàn tay lùa vào mớ tóc Kha còn vương chút sương muối giá buốt. Mây đưa ngón tay để lên môi ra dấu. Kha nắm lấy tay Mây, lòng bồi hồi, vết cào bỗng chốc lành lặn bằng phép lạ. Mở rộng chiếc chăn để Mây ngồi vào lòng mình, Kha không nói năng, hồn trầm lắng vào hơi ấm người yêu đang sưởi cả núi rừng Mê Thượng. Mềm nhũn trong vòng tay Kha, Mây chợt thấy mình bé bỏng, nhưng nỗi sợ hãi không biết thế nào cứ tan đi chứ không như lúc Mây luồn khỏi chăn rồi rón rén leo thang xuống, chỉ sợ đánh thức cha mẹ mình nằm ở trong góc sàn. Mây cởi khuy áo Kha, luồn bàn tay vào mơn man lồng ngực căng nức phập phồng trái tim đang bốc lửa. Không gian thu hẹp đến độ chỉ còn có hai người, mơ hồ khói sương bốc lên từ mặt đất ẩm ướt trở thành lớp tường thành vây bủa bảo vệ cho chuyện tư riêng. Mắt Kha lóa sáng, mũi chàng chỉ thấy hương nồng thơm mùi con gái dẫu rằng chuồng gia súc vẫn bốc mùi phân, và không biết tự bao giờ tay chàng xoay Mây ngồi áp mặt vào mặt, vào ngực mình. Mây ngây ngất bíu vào vai Kha, mặc để cái phần nhớt nhát của cơ thể mở ra đón nhận Kha, run rẩy, rồi hung bạo, như con lươn gặp cạn vùng vẫy trườn lách lên tìm sự sống. Tiếng động dưới chân sàn kéo một người ra khỏi giấc ngủ chưa đủ say. Nhổm mình dậy, Nguyễn-thị ngó quanh, tai lắng nghe tiếng rên rỉ vọng lên. Mắt nhìn về phía Mây vẫn ngủ, Nguyễn-thị biết là con gái không còn đó. Ngẫm nghĩ một lát, thị lại nhẹ nhàng đặt mình xuống, nhưng Hà công vừa quay lưng lại, miệng lầu bầu, chắc lại sắp ngồi lên tìm chiếc điếu cầy. Nguyễn-thị chột dạ. Thình lình, thị ôm bụng Hà công, kéo vật về phía mình, động tác vừa nhanh, vừa quả quyết. Hà công ngạc nhiên nhưng chưa kịp hỏi thì Nguyễn-thị đã đè xấp lên, tay giật giải rút, tay kia nắm ống quần kéo xuống. Nhếch mép trong bóng tối, Hà công hai tay nắm lấy xương chậu của vợ, thầm nhủ «...chắc mụ nó hồi xuân », rồi lẳng lặng nhấc hạ bộ Nguyễn-thị đặt lên trên người, cười ư ử trong họïng. Mặt sàn quậy lên gặp một cơn địa chấn, gỗ nở kêu răng rắc, và tiếng cười ư ử lát sau thành tiếng gầm gừ, rồi tiếng Nguyễn-thị kêu « giời ơi là giời...». Mây ghé răng cắn chặt vào vai áo Ðèo Kha, tai văng vẳng tiếng sáo đinh bia theo gió đưa về từ một miền xa lắc nào đó có tiếng gọi giời. Giặng Giăng Màn nhập nhòa trước mắt cứ nhô lên hụp xuống như lưng một con ngựa đứt cương đang lồng lên chở hết xương thịt Ðèo Kha mang nhập vào cái thân thể bần bật nhựa sống của nàng. Ðèo Kha bỗng ưỡn lên, miệng hự, rồi chân tay doãi ra, mắt dại đi. Mây cảm thấy mình vứa hứng trọn ngọn nước sông Mê tràn đến đập vào Cheo Reo, bọt trắng vỡ tung tóe, và tiếng gọi giời làm bầu trời vẫn đục nước bỗng xà xuống ôm ấp che chở nhân gian. Nàng mở mắt. Lay Ðèo Kha, Mây khẽ bảo: « Nhìn kìa ». Lẫn trong những hạt mưa là bụi kim cương lóng lánh đang hàng hàng lớp lớp rơi xuống bám lên đầu cây ngọn cỏ. Từ đỉnh xuống đến chân núi, Giăng Màn sáng lung linh bảy màu, bỗng chuyển động vòng quanh bản Mê Thượng như mọc cánh. Mở mắt, Ðèo Kha ngơ ngác. Mây hỏi: «... có thấy gì không? ». Chẳng hiểu nhìn thế nào mà Ðèo Kha se sẽ gật đầu, rồi lại nhắm mắt lại. ° Cho đến hết mùa đông, Ðèo Kha mới bắt được nhịp sống « côn hươu », từng bước hội nhập vào một xã hội còn lạ lẫm. Có chuyện gì Kha cũng chỉ hềnh hệch cười giả lả, nuốt mọi nhục nhã đớn đau vào bụng, lúc nào cũng sẵn sàng làm vừa lòng mọi người trong khắp bản Mê Thượng. Trẻ con dậy Kha chọ chọe tiếng Kinh, cười ầm lên trêu chọc, mặc Kha cứ ngẩn người ra nhìn về phía Mây như cầu cứu. Chiều chiều, sau bữa cơm, Kha lại mang đinh-bia ra thổi. Tiếng sáo hay đến độ ít lâu sau cả bản đâm nghiện, vắng nó thế nào là cũng có người băn khoăn xáo xác đi tìm Kha. Một thời gian sau, hầu hết mọi người đều nhận Kha như người trong bản, trừ Hà công và dĩ nhiên là trừ Trần Trung, người đã phải lòng Mây từ lúc nàng mới mười lăm. Trung nghe không chịu nổi tiếng sáo, lên xin Hà công cho phép mình rời bản về xuôi. Hà công nhìn Trung đăm đăm rồi nói: - Muốn có thì phải cướp. Có cướp được, ta cho cướp đấy. Việc gì phải vội đi. Mình mất người mất của chớ có phải kẻ cắp đâu. Trung nghe hiểu, cám ơn Hà công. Hai ngày sau, khi Ðèo Kha đang thổi sáo, Trung lại gần, mắt nhìn tròng trọc vào mặt, môi mím chặt, gân xanh nổi trên thái dương giật lên bần bật. Bất ngờ, Trung giằng cây đinh bia, quẳng xuống đất, miệng gầm gừ: - Tao cấm mày thổi sáo! Ðèo Kha nhìn lên, lẳng lặng nhặt sáo, bỏ đi không nói lại một lời. Từ đó, tiếng sáo bằn bặt đến một tuần trăng. Bọn con Hằng, con Hường đến chơi với Mây, tìm Ðèo Kha hỏi duyên cớ. Kha nhìn Mây, đáp: - Sáo câm mất rồi! -??? Mây không nhịn được, bật miệng: - Cứ thổi đi. Tiếng sáo sẽ động lòng trời. Con Hằng chêm thêm: -... và cảm hóa lòng người. Bọn trẻ con trong bản hùa vào: - Anh Kha, thổi đi, tội tình gì chúng em chịu. Thở dài, Kha nhìn quanh rồi nâng niu cây đinh bia, đặt lên môi, mắt hướng về phía núi rừng xa xăm. Tiếng sáo lại cất lên, nhưng có gì nghe như ngào nghẹn. Tiếng quát giật giọng khiến mọi người thảng thốt nhìn lại, nhận ra Trần Trung vừa ở đâu xô ra. Không nhìn Mây, Trung rít lên: - Ai cho mày thổi? Xông vào, Trung với tay giật nhưng Ðèo Kha đã nhanh tay giấu cây đinh bia ra sau lưng, lùi một bước. Khi Trung rút con dao quắm đi rừng ra thì mọi người đều chạy lại chen vào giữa. Trung hậm hực, cảm thấy cả bản đang bỏ rơi mình, quát nghẹn ngào: - Rồi tôi sẽ giết nó! Ðể xem... Mây lẳng lặng đứng nhìn Trung, nhìn Kha, nước mắt chan hòa nhỏ xuống mũi, xuống má. Nàng linh cảm rồi đây bất trắc còn nhiều, và bỗng nhiên nàng chạy đến quì dưới chân Trung, miệng van: - Cho Mây xin, cho Mây xin... Không nhìn Mây, Trung quày quả bỏ đi. Tối hôm đó, Nguyễn-thị kể lại câu chuyện cho Hà công nghe, hỏi: «...nay phải làm sao? ». Hà công lơ đãng: - Chuyện trẻ con, không dính đến mình. Mặc chúng... Một hôm, Ðèo Kha một mình đi lấy củi trong rừng ven chỏm Vềnh. Ðang chặt, Kha thấy rờn rợn, vội cúi xuống thì một mũi tên bay đến cắm ngay vào thân cây. Kha luồn ra sau cây, lặng lẽ trườn mình như trăn, tay nắm đốc dao. Trần Trung bắn hụt, chồm lên cầm kích thận trọng bước tới. Vừa đúng tầm, Ðèo Kha xông ra đâm một nhát. Dao đi lệch đường, toạc rách áo Trung. Trung vòng người đâm ngược ngọn kích lại, gầm gừ, rồi quét ngang kích vào chân Kha. Kha ngã xuống nhưng lại lủi ra sau thân cây, thuận tay chặt một cành ngang dùng làm gậy. Hai người quần nhau không biết bao lâu, nhưng mãi đến giờ cơm chiều vẫn không thấy ai về cả. Hà công cho tráng đinh đi tìm thì thấy Kha bị đâm một kích vào đùi không đứng dậy được. Gần đó, Trung nằm sóng xoài, đầu dập nát, máu tươi còn loang đỏ trên đám cỏ xanh bị đạp nhầu. Khi chôn Trung xong, Mây đặt một vòng hoa lên mồ, nước mắt ứa ra, khấn: «... sống khôn, chết thiêng, hãy về nơi cực lạc, xin đừng vì tình kia mà đeo đuổi ». Tuy vết thương chưa lành hẳn, Ðèo Kha lấy cớ giỗ ông xin về dưới Mê Hạ. Ðèo công nghe Kha kể chuyệân xung đột với Trần Trung, thở dài rồi ôm cổ cháu miệng thầm thì. Kha chăm chú nghe, cứ lắc đầu quầy quậy. Ông nghiêm sắc mặt, tu một hơi rượu cần, thở ra rồi gằn giọng: - Thế thì mày đừng đi nữa... Ðến lần thứ ba, Kha ôm lấy chân Ðèo công, rơi nước mắt thì thào thế nào mà mặt mũi Ðèo công rạng rỡ hẳn lên. Ông vội vã tìm gập ngay ông Chao bản Mê Hạ, rồi cho người chạy lên báo cho ông Phìa của Mường Rây. Hai ngày sau, ông gọi Ðèo Kha ra, nhỏ nhẹ bảo: - Thớt voi có rồi, bây giờ chỉ đợi người đi dưới Kinh mua lụa về là đủ. Hôm sau, Ðèo Kha lên đường về Mê Thượng. ° Ðêm tân hôn được sắp đặt vào đúng đêm trăng tròn lần thứ bảy. Ngày trước đó, chính Ðèo công đích thân mang đủ lễ vật lên Mê Thượng. Thớt voi thách cưới là một con voi trắng đã dậy thuần thục. Ðèo công vỗ đầu nó cười bảo: - Chủ mới đây, quì xuống. Hà công chống nạng đu lên mình voi, rồi vỗ hai cái vào lưng, con voi đứng dậy rống lên, vòi vươn ra dài đến năm trượng. Hà nghếch mặt cười, oang oang nói: - Ða tạ, voi này thì thật là xứng! Lễ tơ hồng được làm ngay ngày hôm đó. Nguyễn- thị ứa nước mắt bảo con gái: - Thế là mẹ con mình còn được ở với nhau thêm một ngày nữa. Sáng hôm sau, người bản Mê Hạ ra về. Theo lệ Táy-khao, tối hôm tân hôn, mọi người phải uống thật say, rồi chú rể phải ¨ đánh cắp ¨ cô dâu mang về nhà chồng. Mây nghe vậy chỉ cười. Bọn con Hường, con Hằng, rúc rích, chỉ mạêt Mây bảo: «... sướng nhé, chôn kim nay đà có chỉ, mà lại chỉ hồng, gớm ới là gớm, nhưng sướng ơi là sướng! ». Trong bản, người ta vật trâu, vật lợn ra xẻ cho bữa tiệc ban tối. Những lu rượu cần bày lũ lượt trong sân nhà Hà công, bốc mùi ngây ngất nồng như khích động tiếng reo tiếng hò của bọn trẻ con nách cắp những bánh pháo hồng chỉ đợi dịp để đốt. Ðèo Kha ngượng nghịu khều Mây đi về phía sau quản. Ngồi riêng với Mây, Kha ghé vào tai nói nhỏ. Mây bỗng đơ người ra, mắt ngước lên hoảng hốt nhìn Kha. Tròng mắt ngấn nước, Mây miệng mím chặt, lắc đầu. Kha lại nói. Mây vẫn mím miệng. Ðèo Kha rút dao cắt vào đầu ngón tay. Mây hốt hoảng. Nhanh như chớp, Kha nắm tay Mây liếc nhẹ đầu dao, ngón tay Mây chảy máu. Ðèo Kha áp tay mình vào tay Mây rồi đưa cả hai ngón tay máu me vào miệng mình. Mây khóc. Kha đưa hai ngón tay vào miệng Mây. Máu dây ra khóe miệng Mây, chẩy xuống hai vệt dài. Kha lại nói, mặt chan hòa nước mắt. Trăng lên ngang đầu đã tròn vành vạch. Từ đỉnh Giăng Màn nhìn xuống, dãy Thiên Nhận xa xa được bao phủ trong màn khói sương, trắng tựa pha lê, lơ lửng nửa như muốn chìm xuống nửa như muốn bay lên. Chim muông xào xạc bay vù qua rục rịch bữa ăn đêm. Côn trùng bắt đầu nỉ non, và tráng đinh bản Mê đã có kẻ say khướt. Trong gian nhà họ,ï Hà công xếp bằng tròn ngồi giữa, bên phải là cây nạng gỗ mun, bên trái là Nguyễn-thị đương ẵm đứa con út tên là Lữ. Ngoài Lữ và Mây là gái đầu lòng, Hà gia đã sinh hạ hai đứa trai giữa. Thằng lớn độ mười tuổi, nhâng nháo tay với cần uống rượu. Hà công lừ mắt, nó nhanh như cắt ngồi lùi ra đằng sau. Thằng bé hơn, chắc độ năm, sáu tuổi, ngồi cạnh mẹ, mắt đảo lên nhìn mọi người, mặt lạnh như tiền trong cái huyên náo của những chiếu rượu có đôi người say đã ngã gập đầu xuống mâm. Trước mặt gia đình họ Hà, phía bên kia chiếu, là Ðèo Kha và Mây. Mây lại vào xách ra hai lu, một lu Mây đặt trước mặt Hà công, một lu trước mặt Kha. Hà công nghĩ thầm: « Thách cưới đến thế tưởng chúng nó sức nào lo được! Mà thôi, số nó vậy » rồi xua tay, cắm cần vào lu rượu. Kha vái tạ, và nâng cả lu lên, nói: « Kha này bây giờ là con rể của Mê Thượng, nếu bố vợ tôi cho phép và cả làng ưng lòng thì xin ba tháng sau chúng tôi lại về đây sống với bản... ». Nói xong, Kha tu rượu ừng ực, và ngã lăn ra chiếu. Trong số tráng đinh, một người cười ầm lên và bảo: « Say thế này thì đánh cắp thế nào được cô dâu » và giúp Mây dìu Kha ra chái sau nhà họ. Người ta lại hò nhau bưng thêm rượu và thịt trâu thui. Có dăm ba người đứng dậy lảo đảo múa rồi hát theo điệu chầu văn bài «Giá ông Hoàng Mười về Hồng Lĩnh ». ° Khi người tráng đinh vừa ra, Ðèo Kha nhỏm ngay dậy. Những lu rượu Kha uống chỉ toàn là nước lã. Kha nắm tay Mây, hôn lấy hôn để vào mặt, rồi kéo Mây mở cửa trái và lẩn vào bóng những cây rạc cạnh gian nhà họ, chạy về phía đình bản. Khi Mây thấy tấm bảng ¨ Cấm Nhập ¨, nàng khựng người lại, nhưng Ðèo Kha kéo nàng vào ngách Hang Sau. Hang tối mù mịt. Ðèo Kha đốt cây đuốc đã sắp sẵn mang theo. Dơi trong hang vừa bay ra toán loạn vừa kêu eng éc như lợn con. Kha cắm đuốc vào vách đá rồi hỏi Mây: - Mây ơi, sách ở chỗ nào? Bấy giờ Mây ngồi phệt xuống, thừ mặt ra, nước mắt chan hòa: - Thế này thì em mất bố, mất mẹ, mất cả ba đứa em rồi! Ðèo Kha hốt hoảng: - Vợ anh ơi, có sách thì ¨ kíu ¨ được nước, khơi ¨mó ¨ đỡ được cho dân mường dân bản, làm phúc làm đức cho con cháu mình sau này. Xong việc, vợ chồng mình sẽ mang mười thớt voi, một trăm lạng vàng, một nghìn lạng bạc đến xin với bố mẹ Mây để tha tội... Rồi Mây xem, tội sẽ được tha, Mây sẽ đẻ cho anh mười đứa con trai, mười đứa con gái... Anh lạy mình, mình ơi.. gấp đi, kẻo trễ, không đợi được nữa đâu! Mây nhớ lại thuở trước khi ba đứa em ra đời, Mây được chiều vì là con một, Hà công đi đâu cũng cho Mây theo. Một hôm Hà công dặn Mây chơi ở ngoài rồi vào ngách Hang Sau. Mây không nghe, mò theo bố. Khi Hà công thấy Mây, ông đang mở mật kíp ra đọc. Phát giận, ông tóm lấy Mây, dang tay đánh vào đít, vừa gầm gừ vừa cẩn thận nhét quyển sách vào lại một hốc đá nằm khoảng ngang ngực phía bên phải bệ thờ thần Hang. Mây ngước mắt về phía cái hốc đá, ngần ngừ quay sang nhìn Kha. Mặt Kha căng cứng ra trong niềm hoang mang, mồm tiếâp tục giục, mắt nhìn Mây cầu khẩn van lơn. Nàng đứng dậy, đi ba bước, đưa tay thờ thẫn chỉ. Ðèo Kha chồm lên, bới cục đá chặn hốc, thò tay vào, rồi rú lên, lôi ra cái hộp ngà. Mây nhìn Ðèo Kha mặt mũi méo xệch đi vì đau đớn và sợ hãi. Mặc bàn tay chảy máu như bị dao đâm, Kha tay kia mở hộp, nâng quyển sách lên ngang trán, nói: « Ðây, đây...» rồi hộc lên kêu trời « Ới Then ơi...Then!». Lưỡi Kha bỗng cứng lại, người ngây đờ ra, chỉ còn cặp mắt vẫn căng lên nhìn Mây, dãi phòi ra miệng, thều thào: «... Mây...Mây...». Mây hoảng hốt nhìn bàn tay chảy máu của Kha đang sưng vù lên và đổi sang màu đen sậm. Vực đầu Kha dậy, Mây cố tìm sự sống trong cặp mắt bắt đầu đang lạc đi, rồi trơ ra như mảnh thủy tinh vô hồn đục sệt của một cái chai vừa vỡ. Sự sống mỏng mảnh đó cứ lạnh dần trong vòng tay Mây cố trì kéo vô vọng. Tiếng vó ngựa dồn dập từ xa mỗi lúc một gần. Bản năng đẩy Mây bật dậy. Nàng vội buông xác Kha xuống, cầm lấy quyển sách kẹp chặt vào lưng váy chẽn, rồi dụi đuốc. Tiếng nạng gỗ chống lên nền đá đình bản nghe thình thịch. Mây lẻn thoắt ra ngách Hang Sau, chúi người vào một bụi cây, vừa lúc Hà công đến. Nghe tiếng dơi kêu, Hà công đang ngà ngà rượu nhưng còn đủ tỉnh táo, đứng bật dậy, lẳng lặng ra trái sau. Không thấy Mây và Ðèo Kha, ông lật đật về sàn, sách theo cây mác rồi chống người vào nạng đu lên lưng con ngựa vẫn buộc ở lối vào. Linh tính báo điều chẳng lành, Hà công phóng thẳng đến đình bản, chống nạng đi ra Hang Sau. Ông thở hổn hển, bật hồng đánh đuốc lên, rồi kẹp vào tay nạng. Tay kia, Hà công lăm lăm giơ cây mác, bước từng bước vào ngách hang. Ông quát: « Chúng bay đâu? con Mây đâu...». Tiếng quát vọng ngược trở lại, ầm ầm đánh vách núi rồi văng ra xa tít tận góc rừng. Hà công vào đến trong hang thì chỉ thấy xác Ðèo Kha. Ông nhìn bàn tay Ðèo Kha nhiễm độc đen thùi, cười khẩy, lấy vải cuốn tay mình rồi cẩn thận thò vào hộc đá. Tiếng người lao xao nghe đâu đã gần, Hà công mím miệng, dắt mác vào người rồi lôi xác Ðèo Kha ra ngoài. Ðến cửa ngách, Hà công gầm lên, tay nạng dơ cao quật xuống đầu Ðèo Kha, rồi ngã bệt xuống đất. Tiếng xương vỡ rào rạo. Máu bắn lên miệng Hà công nhuộm đỏ những sợi râu chớm bạc. Khi bọn tráng đinh vây quanh, Hà công vừa thở vừa nói: « Nó định phạm luật Cấm Nhập vào hang, ta đánh chết nó rồi ». Nguyễn-thị tất tả đến, hỏi dồn: - Con Mây nó đâu? Hà thét lên: - Bay đi bắt cho ta đứa con bất hiếu, bắt sống cũng được mà chết cũng được! ° Ðợi cho mọi người đi hết, Mây chui ra khỏi bụi. Không dám nhìn xác Ðèo Kha đầu bị đánh vỡ toác ra, óc trắng lều bều như nổi lân tinh dưới ánh trăng, Mây vái ba vái rồi đi nhanh xuống núi. Nàng tính là bọn tráng đinh đuổi theo đường về Mê Hạ nên quyết định đi ngược về núi Bạch Tượng. Ðầu nàng lúc đó tỉnh táo đến độ nỗi căm hờn lịm hẳn xuống. Sống, phải sống đã. Sống để trả hận cho Ðèo Kha đã chịu chết hai lần, lần chết sau thân thể không vẹn toàn, đầu óc nát nhè dưới cây nạng mun đầu bịt sắt. Bây giờ về đâu? Về nơi nào an toàn? Làm sao trả được mối hận của Ðèo Kha? Mây nhớ lại đã gặp Ðặng-thị bẩy năm trước, khi cùng bố mẹ đến Nguyệt Ao để khẩn cầu một lời của Nguyễn công, kẻ người đời gọi là Cuồng ẩn. Bà lúc nào cũng dịu dàng từ tốn, hẳn có một sức mạnh tiềm tàng vững chãi tựa bãi bờ để thả neo thuyền. Sức mạnh ấy lại bất ngờ rõ nét hiện ra hệt như lúc Mây linh cảm khi nhìn trời rồi đoán ra mưa ra gió. Dịp cưới Mây, tráng đinh có mang thiệp mời đến Nguyễn Thiếp và về báo là gia đình Nguyễn đã lên trại Bùi Phong. Văng vẳng bên tai, Mây nghe như có tiếng Ðèo Kha giục, cứ đi đi, ở phía trước mặt kia kìa. Mây vật vờ nhắm đỉnh Thiên Nhận hướng tới. Sau hai ngày trèo núi, Mây kiệt sức ngất đi lúc nửa đêm. Sáng nay, trước mặt vợ chồng Thiếp, Mây gom hết nghị lực để kể cho hết mọi sự tình. Thiếp thở dài nhìn Ðặng thị, rồi quay sang Mây, mắt dọ hỏi. Mây đập đầu xuống đất: - Nếu đập Cheo Reo phá được, nước lại đầy sông Mê, thì chắc linh hồn Ðèo Kha cũng được mát mẻ. Thiếp trầm ngâm: - Tại sao Mê Thượng làm đập chặn nước? Mây không biết, chỉ vào quyển mật kíp: - Tất cả mọi chuyện trước sau đều nằm trong này... Thiếp đưa sách cho Mây, nhỏ nhẹ: - Cháu mở ra mà xem. Mây mím môi, mở sách, mắt ánh lên một niềm ngạo mạn khó định tên. Mây lật một trang, rồi hai trang, ba trang... Mây luống cuống lật nhanh, lật nhanh nữa, mặt cứ tái dần đi, trở thành xanh mướt. Quyển sách chỉ toàn là những tờ giấy trắng có vân ngà, từ tờ đầu đến tờ cuối trốâng trơn không một chữ. Mây ngật người ra khóc, kêu lên: - Trời cao đất dầy ơi! Tôi mất chồng tôi vì một thếp giấy trắng... Ðèo Kha ơi, làm sao kíu nước bây giờ? Mây lại ngất đi. Khi tỉnh dậy, Mây chạy ra ngoài thềm đập đầu vào tảng đá núi, mong thoát kiếp nhân sinh. Ðặng-thị kéo Mây lại được, nhưng những lời khuyên bảo cứ như nước trôi sông. Ðộng lòng thương đứa con gái vừa toan vất bỏ cái quí nhất là sự sống, Thiếp chau mày bực bội mường tượng ra những cuộc chém giết vì kíu nước. Thiếp băn khoăn không hiểu vì lẽ gì quan trọng đến độ đã khiến những kẻ xây đập Cheo Reo chặn nước từ hai trăm năm nay. Có thực chăng cái mạch rồng thiên hạ đồn đãi ở đất Hoan Châu? Và nếu thực, liệu nó có liên hệ gì chăng với cuốn mật kíp mang hình dạng một thếp giấy trắng tinh không có đến một vết chữ? Bao nhiêu câu hỏi ùa đến làm đầu Thiếp nóng bừng lên. Không cưỡng lại được một sự thèm muốn réo sôi trong lòng thôi thúc, Thiếp bật miệng: - Thêm mọât ngày nữa, may ra ta có thể hiểu được những tờ giấy trắng trong mật kíp. Suốt hai ngày sau, Thiếp lẳng lặng cầm quyển sách chăm chú nhìn từng trang, ngửi từng trang. Sáng ngày thứ ba, nắm tay Mây, Thiếp thở ra rồi nói: - Cháu tạo nghiệp cho ta đây. Thôi, tờ cuối cùng của mật kíp có mùi dầu là. Cứ ngâm vào nước, ắt biết. Mây xé tờ giấy rồi y lời, thấy hiện ra đồ hình nhìn đúng là những cục đá tảng xếp lại, dựa lên nhau, và một dãy chữ li ti « Thượng nhị hữu tam hạ tả tứ lục ». Thiếp chăm chú nhìn, lẩm nhẩm đếm rồi chỉ vào một nơi, nói chậm rãi: - Chỗ này là chỗ phá được. Mây quì xuống chân Thiếp lậy tạ. Khi ngửng lên nhìn, ánh lửa trong mắt Mây nóng đến độ có thể thiêu cháy được cánh rừng trước mặt chỏm Bùi Phong. ° Ra bờ ao ngồi cạnh vợ, Thiếp vuốt tóc Thúc Khải đang chập chờn ngủ trong lòng Ðặng-thị, mắt hướng về phía đông nơi chập chùng rặng Thiên Nhận. Xa tít tắp, biển nhìn chỉ còn là một giải xanh lục chạy vòng theo chân trời. Ao đào năm ngoái, nay hoa súng đã nở, và những con chắm thả tháng trước thỉnh thoảng nhô lên đớp muỗi, làm vẩn lên những vòng tròn lan quanh ra từ những chỗ nước sủi tăm. Mới chừng năm nay, cuộc sống của gia đình Thiếp đã thay đổi khá nhiều. Từ ngày thầy mình là Nguyễn Nghiễm được phong Tuyên phủ sứ Nghệ An, Thiếp cố tránh mặt, chỉ lên Tiên Ðiền hầu vào dịp Tết. Tết vừa rồi, Nghiễm lại nhắc chuyện bổng lộc: « Ðỉnh đương còn dành đó. Cứ một mình một ý không chịu nghe ai sao? ». Khi Thiếp thưa: «Ấy vì đối với hành thạch, tôi vốn không có bụng mà thôi » thì thầy nổi giận lôi đình, lời lẽ đến độ tính cắt tình nghĩa sư môn: «...anh sinh ra, được học chữ thánh hiền, có công thầy công cha, sao cứ khăng khăng một hai là không có bụng với hai chữ công danh. Nhưng không công không danh cho khỏi lấm tay thì lấy gì mà giúp đời trong cái buổi nước đục này. Anh chắc còn nhớ câu Khuất Nguyên mượn ông chèo đò trên con sông Thương nói: Thương lang chi thủy thanh hề. Khả dĩ trạc ngã anh. Thương lang chi thủy trọc hề. Khả dĩ trạc ngã túc. Nước đục ư, cứ dùng nó để rửa chân, rón rén sợ bẩn mà trốn tránh thì có khác gì như kẻ khiếp đảm cầu an. Anh không nghe thầy lần này là anh phụ thầy...Vậy thì từ nay chẳng có còn gì để mà cứ thầy trò như trước nữa ». Thiếp cắn răng: «...xin thầy thu xếp cho tôi được đem đạo nghĩa Trình Chu ra dậy cho đám trẻ vậây ». Lúc ấy, đất Nghệ An có Nguyễn Diên và Lê Duy Mật làm loạn, phất cờ tôn phù vua Lê đã bị nhà chúa lấn áp hơn hai trăm năm. Nghiễm được cử đến xứ Nghệ chủ yếu để tróc nã loạn quân. Trước khi Nguyễn nhậm chức huấn đạo, Hoàng tôn Lê Duy Mật từ nơi đồn binh là Ngọc Lâu đến gặp, ý mong Thiếp hợp tác vì lẽ Trung Quân. Thiếp cúi đầu thở dài. Mật không nỡ ép, biết như vậy là dồn Thiếp vào cái thế phải phản thầy, quay qua hỏi chuyện thành bại. Thiếp cũng chỉ lắc đầu, không nói. Mật giọng luyến tiếc: «Trai thời loạn, sao lại xử mà không xuất? ». Thiếp lại lắc đầu, chỉ tay vào đống sách Tính lý, Ngũ kinh, Tứ truyện, Chu lễ, Nghi lễ cận tư lục. Mật biết chí Thiếp đã quyết, cười nói đùa: « Sách nào cho kẻ chẳng được an nhàn này là sách phải đọc? ». Thiếp nghiêm trang trả lời: « Sách Chu tử toàn tập ». Ném một hòn đất xuống ao, Thiếp lặng lẽ nhìn những gợn nước lan rộng ra từng vòng để rồi tan biến vào cái bằng phẳng của mặt ao lặng lờ dưới nắng. Thiếp lẩm nhẩm như nói cho mình nghe « nếu lẽ là vô thường thì sự thường tại cũng phải có. Biến là biến bởi có sự bất biến. Ðạo khả đạo, phi thường đạo. Gốc ở bất biến mà biến, nhưng biến lại đồng thời bất biến vậy...». Câu nói chưa xong, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ phía rặng Giăng Màn. Thúc Khải khóc thét lên. Từ nhà trong, hai đứa bé chạy ùa ra, miệng mếu máo, mặt mũi tái mét ngơ ngác nhìn hết cha đến mẹ. Tiếng nổ từng đợt ầm ầm vọng qua vách núi Thiên Nhận chạy dọc suốt nam chí bắc. Chim kêu nháo nhác hàng đàn từ nóc rừng rạc bay lên đen nghịt cả trời. Tiếng hổ gầm, tiếng voi thét, tiếng khỉ vượn chí chóe, hòa vào tiếng lạo xạo như đá vụn rào rào rơi xuống làm không gian nứt ra những vực sâu tưởng chừng vô đáy. Trời bỗng tối sầm lại, và từ phía biển những tia chớp xanh lè lóe lên xé dọc không gian thành muôn mảnh. Rồi mưa, bắt đầu nhẹ hột, sau cứ dần dần nặng hột cho đêán lúc tưởng cứ như là trời đổ chì xuốâng thế gian. Qua vài khắc, những hạt nước mưa hóa đá. Trời biến thành mầu sữa pha lê. Những cục đá to bằng đầu ngón tay cái rơi xuống nhìn hệt như những sợi dây thừng trắng căng giữa trời với đất, đẩy nhau ra rồi lại kéo nhau vào như một sự trói buộc không cưỡng lại được. Hôm ấy là ngày hai mươi ba cuối tuần trăng thứ tám. Phải mất đến ba ngày, Thiếp và Ðặng-thị mới lợp lại được mái gianh đã bị trận mưa đá làm hư hại. Sau bữa cơm trưa, Thiếp bị máy mắt liên hồi. Bứt cuống lá cây thị trồng ở góc vườn phía trái gần bờ ao, Thiếp nhìn một chập rồi bảo vợ: -... Quẻ Hỏa Sơn Lữ. Cấn hạ ly thượng. Trên ly là hỏa, dưới cấn là sơn. Núi thì định nhưng lửa chưa biết đến chốn nào, nên gọi là Lữ. Ðặng-thị bồn chồn: - Thế thì lành hay dữ? Thiếp ngẫm nghĩ: - Chưa thể biết được! Nhưng nội nhật nay mai là có khách đến viếng. Mình làm sao có được rượu, được thịt thì hay! Nói rồi, Nguyễn vào nhà đốt hương mở sách Chu dịch cẩn trọng đặt lên thư án. ° Khoảng đầu giờ Thân, lúc mặt trời xế về Tây, tiếng xe thồ rầm rập dưới núi. Một lúc sau, Hà công tay chống nạng, tay cầm cương con ngựa ngang lưng có vắt một bọc vải điều, lên trại Bùi Phong. Theo sau là Nguyễn-thị ôm đứa con nhỏ, hai đứa con trai lớn và một tráng đinh cắp đao. Thiếp mở rộng cửa, vái một vái, rồi nói: - Ða tạ Hà công quá bộ. Tôi đoán trước, đã sắp sẵn rượu thịt đây... Hà ngạc nhiên, trợn mắt nhìn hai mâm đồng đầy những đĩa thịt gà, thịt lợn đã dọn ra để giữa chiếc chiếu điều trải trên phản gỗ. Không vái lại, Hà sẵng giọng: - Chắc thầy cũng biết tôi vì sao đến đây rồi! Trước lối xưng hô thay đổi của Hà, Thiếp chỉ cười: - Bảo rằng biết, cũng đúng. Bảo rằng không, cũng chẳng sai. Hôm nay, tôi chỉ nói thêm một điều cho trọn vẹn câu trả lời ngài đã hỏi dăm bẩy năm về trước. Hà công vội vã: - Ðiều gì? Thiếp không trả lời, nghiêng mình chào Nguyễn-thị rồi đưa tay mời vào nhà, giữ thần thái ung dung tự tại. Hà ngồi lên chiếu, chưa kịp nói gì, Thiếp đã vừa dâng ly rượu vừa điềm đạm nói: - Chủ mời, khách chớ từ. Xin ngài cạn chén. Câu nói cố ý nhắc Hà tư thế của Thiếp, làm Hà chau mày nhưng vẫn đưa tay ra đỡ lấy chén rượu rồi uống ừng ực. Thiếp rót thêm chén nữa, rồi lại thêm một chén, và ngầm hiểu rằng dẫu chẳng thuần phục được người đã giết con hổ cái hóa tinh ở núi Giăng Màn năm nọ, cái họa manh động của một tay võ dõng chắc có lẽ đã giảm được ít phần đe dọa. Uống đến chén rượu thứ năm, nước mắt Hà công đục ngầu ứa ra, chảy dài xuống hai má như nước vỡ đê. Ngay sau ngày cưới Mây, đinh làng Mê Hạ xô lên cướp được xác Ðèo Kha, rồi bị đinh Mê Thượng đánh bật lùi ra khỏi đập Cheo Reo. Ðể giữ bản, việc tầm nã Mây phải hoãn lại. Lần này, Mê Hạ đã liên kết được với Mường Rây bên cạnh nên số đinh trực chiến đông gấp ba, khí giới sẵn, gạo lương đầy đủ. Ít lâu sau, chúng kháo rằng đã bắt được mật kíp của Mê Thượng. Tin đưa ra, tráng đinh trên Mê Thượng hoảng lên, cả bản đòi Hà công tra mật kíp tìm cách chống giặc. Hà lúng túng chưa biết làm thế nào thì đêm hôm ấy mơ thấy Trần Trung mặt mũi máu me đến vái lạy: - Hà công đập vỡ đầu nó, trả cái oán nó đập vỡ đầu tôi. Nay đến lượt tôi báo đền. Ngày mai ra quân cứ đánh bằng hỏa hổ, dầu thì đổ thêm lưu hoàng vào! Sáng ra, nửa tin nửa ngờ, Hà công nói với bản đinh là mật kíp truyền cho đổ lưu hoàng vào dầu hỏa hổ, và chiều ra quân đánh xong rồi rút trong đúng hai canh. Quả nhiên, hỏa hổ trở thành vô cùng dũng mãnh, bất ngờ làm đinh làng Mê Hạ và quân Mường Rây hoảng sợ, tháo chạy lung tung. Nhưng vì hẹn chỉ đánh hai canh, đinh Mê Thượng lại phải rút về Cheo Reo, không đủ thì giờ thọc sâu vào bản dinh của địch. Hà công tức tối trong bụng nhưng ngậm tăm âm thầm trách mình và nguyền rủa thếp giấy trắng truyền đời. Ðịch lại hợp quân tiếp tục tấn công, xua voi tiến tới và dùng những chiếc mộc quấn lá dầm nước bùn để chống hỏa hổ. Hà công lùi, quyết định táo bạo là tản binh ra để trống Cheo Reo, rồi vòng mặt sau theo hai đường phản công vào lưng địch. Không thấy phản ứng, đinh Mê Hạ vào Cheo Reo, đặt bộc lôi, rồi cho nổ. Ðập vỡ đúng lúc trời tối sầm lại. Nghe tiếng nổ, Hà công hiểu ra, ngửa mặt lên trời gào to rồi khạc ra một búng máu bầm. Vừa khi đó, cơn mưa đá đổ xuống. Hà ngẫm nghĩ một lúc rồi vẫn ra lệnh tập kích vào phía sau địch, đồng thời đích thân dẫn năm mươi tráng đinh gốc gác họ Hà theo dòng nước vừa tìm lại được lòng sông Mê đang ứa lên ào ào chảy xuôi về Mê Hạ. Hệt như những kẻ tử tù vừa phá ngục, nước quay cuồng nhẩy múa, thênh thang vỗ vào bờ đá làm bắn tung bọt trắng xóa hai bên bờ. Ðến một ngọn đồi trọc, Hà lấy thước đo ra, vừa đo vừa tính toán, rồi cau mày chỉ vào một vuông đất nằm cạnh cây đề cổ thụ, nói gọn: - Ðào lên, đây là mả tổ chúng mày! Ðêm hôm đó, mang đống hài cốt mới đào trở về đến bản, Hà họp Bản hội, tự tát vào mặt mình đến sưng húp lên như tai voi, rồi xuống chiếu mời bản lập Tộc thứ lên. Ngay sáng hôm sau, Hà mang gia đình và con cháu chính ngành mình xuống núi Giăng Màn, đi về phía Lạp Ðính. Ðược hơn mười dặm đường, cả đoàn đang đi bỗng nhiên khựng lại vì tiếng sáo đinh-bia ở đâu văng vẳng bay tới. Hà nghiến răng: - Hỡi Ðèo Kha, Cheo Reo đã vỡ là mày toại chí rồi... Ra đây đi! Ta cho mày chết thêm lần nữa! Tiếng sáo ngưng lại. Rừng sâu lại chỉ còn tiếng gió thổi qua những tàu lá rạc đâm nghiêng như mũi dáo, tiếng ve sầu hờn giận gió nồm bỏng lửa. Một tiếng cười lanh lảnh làm kẻ gan dạ nhất cũng chột dạ. Nhìn lên, ngang chạc ba một cành cây, Mây ngồi vắt vẻo, cười ngặt nghẽo rồi hát: Gió giận cành đào gió bẻ cành mai Gió ơi gió gió chẳng vì ai Chỉ vì tiếng đinh-bia mà cứ một hai đọa đầy ° Hà công tợp thêm một ngụm rượu rồi tiếp: - Thế là hai trăm năm đi toi! Hai trăm năm giữ đập Cheo Reo, chặn nước để đất bờ sông Mê khô cằn đi, khô đến độ lửa cuối cùng phải bốc lên. Ðủ lửa thì Rồng mọc cánh bay cao, họ Hồ phục nghiệp để rửa cái nhục phải đổi họ, đổi tên... Hà quay phắt lại nhìn hai đứa trai bảo: - Chúng mày họ Hồ, cách đây ba trăm năm mươi năm ông tổ chúng mày đã từng dựng nghiệp đế, nhưng than ôi! than ôi... Rồi Hà nức nở gào lên: -... chỉ được đúng bảy năm. Hà im bặt một lúc, bỗng cười khềnh khệch, quát: - Bảy năm, ừ thế mà đã đánh đến Ðồ Bàn, mở rộng giang sơn này ra tận hai vùng Nam-Ngãi. Ông tổ chúng mày gầy dựng lại cái thời mạt vận của họ Trần, nào là làm tiền giấy, nào lại sửa lại phép đo đạc, nào là phát ruộng cho người cầy. Ðấy thế mà đám hủ nho nó gập đầu xuống đất, chỉ thấy kỷ cương ở dăm câu nói suông kiểu quân, sư, phụ. Bọn giun dế chúng nó đứa thì tránh, đứa thì trốn, đứa thì xúi bẩy dân ngu đến chỗ thấy quân Minh vào xâm lăng mà chỉ trơ mắt ra nhìn. Hà quay sang Thiếp gằn giọng hỏi: - Nếu thầy sống cách đây ba trăm năm mươi năm, thầy sẽ xử sự thế nào? Với chiếc xe điếu, Thiếp châm thuốc rít, nước trong điếu reo lên như cười. Nhắp ngụm nước chè, Thiếp suy nghĩ một chặp rồi thủng thẳng: - Danh phải chính, ngôn tất thuận. Trị dân không dùng thuật. Lập quốc phải lập từ lòng người. Xưa, Hồ tiên đế vừa thoán ngôi là xuống ngay, lập Hồ Hán Thương lên. Ðấy là vì biết danh mình chưa chính. Vì danh chưa chính nên mới xua quân vào đánh Chiêm, lập công mở mang giang sơn, rắp tâm vì cái công đó mà định danh cho họ Hồ ở đời sau. Nhưng có chiến tranh thì có kẻ cửa nhà tan nát, có người trận mạc thương vong. Như vậy, làm sao mà lấy được lòng người buổi đó? Lòng người tan tác, ngắm sau chỉ thấy đánh Chiêm là gây ra xương rơi máu đổ, nhìn trước thì quân Minh ùa vào, cũng sẽ lại máu đổ xương rơi. Ðổ vỡ, trước sau toàn là đổ vỡ! Ðổ vỡ đó cứu bằng gì? Bằng lòng người. Muốn có lòng người, lại chưa đặng chính danh thì làm sao mà có được. Hà trề môi ra, khạc đờm xuống đất, trương mắt nhìn Thiếp trừng trừng, rồi gầm lên: - Kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây? Tội này với tổ tiên chỉ có cái chết mới đền bù được! Vừa dứt lời, Hà vớ lấy cây nạng gỗ mun rồi cứ thẳng tay giáng xuống đất cho đến độ bàn tay cầm nạng toạc máu ra. Một lúc, Hà nguôi đi, ngồi thất thần hổn hển thở. Nguyễn-thị lúc đó quì xuống chân Thiếp thưa: - Ân công, dẫu tôi là đàn bà, lời ngài dạy tôi cũng hiểu được năm bẩy phần. Tôi người họ Nguyễn-Hữu ở Hải Dương, Cầu là đường huynh, phiêu dạt đến đây rồi kết nghĩa phu thê với Hà công. Nay lại thêm một phen phiêu dạt, xin ân công vì ba đứa trẻ long đong mà chỉ cho đường đi lối bước. Ðặng-thị bỗng chao người đi chực ngã, tay nắm vào vai Nguyễn thị, mắt hoa lên, sự vật bỗng nhiên như hư như thật. Một sức mạnh vô hình nâng Ðặng-thị dậy, khiến cho quay về phía Thiếp. Ðặng-thị bất ngờ bật miệng: - Xin thầy nó nghĩ cho, họ Nguyễn-Hữu là dòng hào kiệt, dẫu gì cũng chỉ vì nghĩa cả, đứng lên tôn phù nhà vua, lại lấy của phi nghĩa chia cho dân nghèo hai vùng Ninh, Hải. Vả lại, chuyện sông Mê không phải là mình không can dự. Nói xong câu cuối, Ðặng thị chột dạ khôngï hiểu tại sao mình hớ hênh đến vậy. Vô lý hơn nữa, trước cái nhìn dọ hỏi của Hà công, chẳng hiểu ma đưa lối quỉ dẫn đường thế nào, Ðặng-thị thất thần đi như đi trong một cơn mộng du vào lấy quyển sách gáy da hai tay đưa lại cho Nguyễn-thị. Hà công chồm lên giằng lấy mật kíp, miệng gào: - À, thì ra thế... Nó có đến Bùi Phong này. Hà xúc động, mặt tái mét, miệng khò khè thở tựa bị bóp tắc họng, mắt nhắm nghiền, đầu ngật ra sau như chỉ chực ngất đi. Quyển sách gáy da văng bắn xuống đất, nằm trơ trẽn như một bản án. Thằng bé lớn gọi: - Cha, cha ơi... Thằng nhỏ hơn quắc mắt trừng lên nhìn Thiếp. Còn thằng Lữ, vừa thức giấc, cất tiếng khóc oe óe. Cúi mặt, thở dài rồi đứng dậy bước ra ngoài, Thiếp nhìn về phương Nam. Khi quay vào, Thiếp đi thẳng đến ngồi trước thư án, mở sách, chậm rãi: - Ngày hôm trước, tôi ngắt lá, lấy được quẻ Hỏa Sơn Lữ. Sau quẻ Phong, là Lữ. Phong là thịnh lớn, mà lớn đã cùng cực ắt đến nỗi mất chốn ở mà phải đi. Lữ, nghĩa là đã đến lúc đi làm khách. Cảnh đời có thường có biến. Việc người có cùng có thông. Ðến thánh hiền, như đức Khổng tuyệt lương ở Trần Thái, cũng có lúc đã kỵ Lữ. Nhưng đại nghĩa ở giữa tâm, không biến mà chỉ thường. Soán viết, Lữ, tiểu hanh, nhu đắc trung hồ ngoại, nhi thuận, hồ cương, chi nhi lệ hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, Lữ trinh, cát dã. Ở đất khách, thế lực không ở mình, quá ty thời mắc lấy nhục, làm cao thời mắc lấy họa, cần nhất là giữ một chữ Minh. Tượng viết, Sơn thượng hữu hỏa, Lữ quân tử, dĩ minh thân, dụng hình, nhi bất lưu ngục. Núi có lửa soi sáng, quân tử xem tượng ấy bắt chước làm việc hình luật, soi xét bằng minh đoán, phán quyết cẩn thận. Tượng viết, đắc đồng bộc trinh, chung vô ưu dã. Tấn văn công ở tả huyện, mất ngôi bỏ nước chạy ra ngoài lưu lạc, chỉ có năm người theo hầu, vừa trung kiên, vừa tài giỏi, sau lại trở về Tấn làm bá chủ chư hầu. Ở vào quẻ Lữ, níu chặt hai chữ Trung, Nhu làm bùa hộ thân. Cùng thông đắp đổi, họa phúc cập kè, không ai cứ Lữ mãi, đừng quên hai chữ Trinh, Cát. Muốn cát phải trinh. Muốn vượng thì phải lấy lòng trung thực làm gốc. Thiếp ngừng một lát, tay chỉ: - Vả lại, cháu này đây tên là Lữ, ứng vào quẻ này từ ngày cháu mới đẻ. Thiếp quay sang nhìn đứa bé năm, sáu tuổi. Nó vẫn trừng trừng nhìn lại, lửa trong mắt rừng rực tóe ra làm Thiếp quay mặt đi rồi hỏi: - Cháu này khí tượng khác người, tên là gì... Nói chưa dứt lời, Thiếp xây xẩm mặt mày, ngã chúi người xuống đất. Câu Hà công vừa than «...kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây? » bỗng vang lên trong đầu như đến từ một cơn mê sảng. Nhắm mắt, Thiếp lại thấy cái cảnh trên mây trong cơn động kinh ngày nào: một khoảng đất trống xung quanh là đồi núi, một con voi trắng đầu rồng đuổi đàn ngựa, đám dạt về Nam, đám dạt về Bắc. Ðầu như mụ đi, Thiếp nhìn Hà công chăm chăm, máy miệng nói: - Về phương Nam, đến nơi nào đất cao mà bằng, xung quanh là rừng núi. Chỗ ấy phải là chỗ khi về không ai dám tới quấy phá. Khi đi thì nhanh chóng xuống được thành, và ra được biển. ° Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa qua khỏi đầu ngọn Lạp Ðính, gia đình họ Hà sửa soạn xuống núi Bùi Phong. Hà công chỉ vào bọc vải điều vắt ngang lưng ngựa, khạc đờm nhổ xuống đất: - Thi thể con tiện nữ đây. Nguyễn-thị nước mắt chan hòa, mở bọc vải. Tóc Mây xổ tung ra như một dòng thác đen tuyền cắm đầu đổ xuống lòng đất tìm về nguồn cội. Miệng Mây vẫn hé mở, để lộ cái răng nanh khênh khểnh, cứ như là đang cười trêu chọc. Trên ngực Mây, về phía trái, một mũi tên còn găm vào như đóng cọc. Mũi tên ấy bắn ra từ cây cung dài hai thước Hà công mang trên mình, xé gió rít lên tiếng nghiến răng oan nghiệp của định mệnh rồi vụt đi bay thẳng vào một trái tim đầy oán hờn. Nguyễn-thị xin cho chôn cất Mây trên chỏm Bùi Phong, nhưng Hà công làu nhàu gạt đi: - Ta đem vứt xác nó cho quạ rỉa! Bỗng thình lình, Hà tiện tay bồng thốc Thúc Khải lên. Ðặng-thị đi từ ngạc nhiên đến hoảng sợ, hỏi thất thanh: - Ngươi định làm gì thế này? Hà công bất chợt vòng chiếc nạng đánh ngang vào một thân cây chè. Cây chè dập gãy làm đôi. Hà công cắn răng: - Chúng ta còn dây dưa nợ nần. Lạp Sơn xử sĩ đã chỉ đường phá Cheo Reo, hài cốt tổ tiên nhà họ Hồ bây giờ lại phải tìm chỗ đủ lửa cho rồng bay lên. Chỗ ngài chỉ, chúng tôi không biết thực hư thế nào. Hà im lặng một lúc, rồi nói như nói một mình: - Họ Hồ bắt đầu từ nay đổi ra họ Nguyễn. Chỉ đứa trai nhỏ, Hà tiếp: -... và tên mi nay là Nguyễn Quang Bình, chữ Quang đây là chữ đệm của Lạp Sơn Nguyễn Quang Thiếp, lấy đó mà đừng quên lời xử sĩ dạy. Còn thằng nhỏ này, ta đem theo làm con tin cho lời xử sĩ, nếu nghiệp đế mà thành thì nó sẽ được phong vương, còn không xác nó ta băm ra thành trăm mảnh. Ðặng-thị xông lại định giằng Thúc Khải, nhưng Nguyễn-thị vội ôm chầm lấy, vừa khóc vừa nói: - Em lạy bà chị, em sẽ trông nom cho cháu như con em đẻ, bà chị đừng cưỡng vô ích, chỉ lại gây ra thêm tội nghiệt mà thôi! Thiếp nắm chặt hai tay, đứng trơ ra như tượng, nhìn con trong tay Hà đang khóc dãy lên, thấy mình bất lực đến độ chẳng bằng cái sâu con kiến. Mớ kinh sách trong đầu lúc này thật không bằng một cái dậm chân của kẻ vũ phu trước mặt khiến Thiếp thấy thèm chui hẳn vào lòng đất để chết, chết hẳn đi. Hà công trừng mắt nhìn Ðặng-thị rồi ngó vào mặt Thiếp gằn giọng: - Nhưng nghiệp đế đó, đến khi nào thì tái tạo được? Thiếp thả lỏng dần hai nắm tay, gượng cười, mồm mếu máo, nghẹn lời: -... khi thấy rồng bay lên. Quay lại, Thiếp để tay lên vai vợ, đứt giọng nói với Nguyễn-thị: -... bà lấy mang theo ít sách để dạy các cháu và Thúc Khải. Bà nhớ cho là Trung, Nhu,Trinh, Cát. Sách đây có Tứ Thư, Tiểu Học, Ðại Học, Trung Dung... Nguyễn-thị phục xuống lạy tạ. Phất nhẹ tay áo, không nhìn Hà công, Thiếp cúi đầu vào nhà. Gia đình Hà công xuống núi. Dưới chân Bùi Phong, đám tráng đinh đã sẵn sàng quang gánh trên vai, rồi đoàn xe thồ bắt đầu rục rịch. Ðặng-thị bồng Thúc Khải xin đi theo một thôi đường. Ðến trưa, khi nắng vừa đậu ngọn cây thì bỗng chốc mây đen từ phương đông mù mịt kéo về. Trời nồm đến độ rờ lên lưng lên cổ tay nhớp nháp mồ hôi như nhúng tay vào dầu vào mỡ. Dừng lại ven con suối dưới chân núi Bạch Tượng, cả bọn mang cơm nắm ra ăn. Ðặng-thị ôm Thúc Khải trong tay, biết rằng giờ chia tay sắp đến. Nhìn con đang bắt đầu thiêm thiếp đi vì nóng và ẩm, Ðặng-thị ứa nước mắt linh cảm thấy rõ ràng lần ấp ủ Thúc Khải này là lần cuối cùng. Hà công ra lệnh: - Cái gì nặng, vất hết đi. Nói xong, Hà giằng mấy quyển sách trong bọc vải của vợ cười khinh bỉ thẳng tay ném vào góc rừng. Những trang sách rách rời ra tung bay thành một đàn bướm trắng sạc xào trong gió rồi rụng xuống nằm phục trên đám cỏ gai khô héo. Cúi bồng xác Mây ra đứng trên một mỏm đá cheo veo, Hà công hai tay quăng xác Mây xuống suối, miệng cười ằng ặc như có người bóp vào cổ họng. Một tiếng đá ở lòng suối ngân lên rền rỉ tưởng như không bao giờ dứt được. Tiếng đá từ một cõi âm u không thủy không chung cứ văng vẳng lời hờn oán cho đến khi mưa đổ ào xuống. Lát sau, đám con cháu tộc Hà, xưa là họ Hồ và bây giờ mang họ Nguyễn, lên đường. Thúc Khải, nằm gọn lỏn trong một cái thồ vắt vẻo phía sau một cỗ xe, kêu gào ngặt nghẽo. Ðặng-thị quì bên suối, rũ người ra khóc. Dưới suối, nơi xác Mây quăng xuống, chỉ thấy mảnh vải điều bọc thây đang bị hút xuống một cái xoáy nước sủi lên bọt trắng hệt như kẻ sùi bọt mép vì căm giận. Mưa vẫn xối xả trút nước lên núi rừng đã chuyển mình trở thành âm u dọa nạt những bóng người đang gò mình bước lên dốc cao rồi khuất nẻo. Ðặng-thị đứng dậy, vuốt nước trên mặt rồi lủi thủi một mình đi ngược về phía Bùi Phong. Cho đến tận bây giờ, tức là quá hai mươi năm sau, mỗi khi cầm quyển sách gáy da trong còn trắng chữ mà Hà công vứt lại, Thiếp vẫn tủi thân khi hồi tưởng lại cái cảnh Hà công giằng phắt bắt lấy Thúc Khải, ngậm ngùi nghĩ về con sông Mê, cái đập Cheo Reo. Thiếp chua xót cho máu xương của đám tráng đinh, cả kẻ chặn lẫn kẻ kíu nước, từ hai trăm năm nay đổ ra chỉ vì nấm mộ họ Hồ cần đất cằn để đủ lửa cho thỏa giấc mộng rồng bay. Và nhất là Thiếp vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ mọng lên như trái dâu rừng sắp rụng của Ðặng-thị khi bước qua ngưỡng cửa, cặp mắt nửa như chịu đựng, nửa như trách cứ cái nghiệp dĩ chẳng biết đã vướng vít tự kiếp nào. Còn tiếng đá ven suối dưới chân núi Bạch Tượng, cứ mỗi tuần trăng lại một lần rền rĩ vẳng lên. Dân xã Nam Hoa cách con suối nửa ngày đường kể lại rằng chỉ đến năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi tư, tức là khoảng hai mươi năm sau, tiếng đá ấy mới dứt hẳn. 2 Chim Trong Lồng Chiếc sào cắm xuống lòng sông dướn cong lên, đẩy về phía sau những dợn sóng loang loáng dưới ánh trăng lóng lánh. Tiếng mái chèo đều đặn khỏa vào nước, tiếng nước bập bềnh đánh nhịp vào mạn thuyền. Dọc bờ, mái tranh lổn nhổn thấp cao, ẩn hiện trong những vòm cây u uẩn. Thuyền cứ thế, trôi đi. Ngọn đèn chai đầu mũi chao đảo trong gió đêm, lắm lúc tưởng như là sắp tắt. Thỉnh thoảng, những đàn đom đóm không biết từ đâu bay ra, văng tung lên trời những chớp sáng lân tinh nhẩy múa trong bóng đêm. Ðâu đây, tiếng vạc vẳng lại, vô hồn, lạc lõng. Thuyền cứ thế, vẫn trôi đi. Sông dần dần hẹp lại. Lái thuyền quen việc, chẳng bảo nhau, phối hợp những động tác đã thành máy móc. Cập vào bờ, người đứng đầu thuyền xếp dọc con sào, nhẩy xuống nước, tay nắm lấy sợi chão to bằng cổ tay kéo vào, miệâng hò lên « Ðến rồi...». Tiếng người léo xéo nổi lên. Tiếng rục rịch khuân vác xuống thuyền. Ðộ nửa khắc sau, một đoàn khoảng gần hai chục người từ chân đê xoài người đi lên. Họ lặng lẽ theo sau một chiếc võng lắc lư trên đòn khiêng chĩu nặng trên vai hai người phu lực lưỡng. Khi đến cửa ô Quan Chưởng, trống điểm canh ba vừa điểm. Tiếng chó tru lên sủa, rồi tiếng quát hỏi giật giọng của lính tuần canh còn khàn đặc cơn ngái ngủ. Dăm ba ngọn đuốc từ chân thành thắp cháy hắt bóng người lên tường thành cao nghễu nghện, nghiêng đổ, thấp thoáng như ma chơi. Ðoàn người dừng lại. Dưới ánh đuốc chập chờn, một người trong bọn râu quai nón, mắt sắc, dáng chắc nịch, bước ra thì thào với đám lính vừa bổ tới vây quanh. Cổng ô mở ra, tiếng bản lề kèn kẹt rít lên. Mồm lầu bầu chửi tục, một người lính leo lên lưng ngựa, tay vung ra sau quất roi. Phu khênh võng lẳng lặng hạ đòn xuống. Ông cụ nằm võng chống tay từ từ ngồi dậy, búi tóc đã bạc sổ ra lưa thưa. Quơ tay lên búi lại tóc, ông vặn mình, mắt hé nhìn ra màn đêm dầy đặc. Tiếng điếu cầy rít sòng sọc, rồi tiếng ho khan hục hặc cắt quãng. Mùi thuốc lào hăng hắc hòa vào mùi dầu đốt đuốc khét lèn lẹt xông ùa vào mũi. Nhìn lên, trời cuối tháng ba li ti những giải sao pha lê lấp lánh. Gió vẫn còn lạnh ngắt, từng cơn bốc hương đất ngai ngái mùi rơm rạ. Ðợi độ một tuần nhang thì tiếng chân ngựa vẳng lại lúc một gần. Ông cụ nằm võng vẫy tay gọi người nhà dặn dò. Võ Toàn Nhật, người có râu quai nón, tiến ra đón thanh niên cưỡi con ngựa chiến đang nhanh nhẹn nhẩy xuống yên. Xưng tên là Hoàng Ðăng Khoa, con của Huy Quận công Hoàng Tế Lý hiện giữ chức Chánh dường coi toàn bộ chính sự trong phủ Chúa, người đó khẽ nghiêng mình. Vái chào lại, Nhật nói: - Thầy tôi cao tuổi, lại đi suốt mười ngày đường nên quá mệt không còn sức tiếp lễ cho phải phép, xin được thứ lỗi cho đêm nay. Hai người tách ra đi về phía chiếc võng. Dưới ánh đuốc, một người tầm vóc, lông mày xếch, quai hàm bạnh ra và môi trông như hơi mím lại, bước ra chào. Nhật giới thiệu Nguyễn trọng Thức, người đồng môn. Nghiêng mình chào lại người đó xong, Ðăng Khoa lẳng lặng đến vái trước võng rồi phất tay ra lệnh lên đường. Ðoàn người rời cửa ô, lầm lũi đi theo ánh đuốc lập lòe chao đảo trong gió đêm. Men qua giẫy nhà hàng phố vẫn còn im phăng phắc, người nọ nối chân người kia rẽ về phía trái. Ði thêm quãng nửa khắc, cả đoàn ngừng lại. Tiếng gọi cổng vang lên, rồi tiếng rút then, tiếng bản lề kẽo kẹt, tiếng người suỵt đàn chó đang oăng oẳng sủa. Qua một chiếc sân gạch dài, Ðăng Khoa tạt về mé phải, tay chỉ dẫy nhà ước chừng đến hơn chục gian, nhìn Thức và Nhật, khẽ nói: - Ðêm đã khuya nên xin về tệ xá. Ðây là nơi Phu tử và các vị tạm trú, mai này cha tôi sẽ cho lệnh xếp đặt lại sau. Ðợi qua ngày, tôi sẽ lên chào Phu tử. ° Sắp đặt xong chỗ ăn chỗ nằm cho Phu tử, Trọng Thức bước ra sân ngước mắt nhìn trời. Vào cuối tháng ba, đến canh tư mà trời còn đen kịt. Tiếâng vạc ăn đêm thỉnh thoảng lại vọng về não nùng, trống vắng. Lững thững bước quanh ven chiếc ao thả sen, Thức lắng tai nghe những âm thanh mơ hồ đến huyền hoặc. Dăm con cá ngóc lên đớp muỗi làm đám bọt nước lúc nổi lúc chìm lục bục vỡ. Những tàn sen se mình níu giữ một chút bình yên qua đêm sót lại. Vài ráng mây rám hồng một lúc sau loáng thoáng hiện dần nơi chân trời, rồi lao xao tiếng gà gáy sáng vẳng lên, bắt đầu còn thưa, sau cứ liên tu như giục giã đuổi bắt lẫn nhau. Ðứng dậy vươn vai hít không khí cho đầy ngực, Thức bước vào nhà. Toàn Nhật đang lúi húi đun nước cho tuần trà buổi sáng. Phu tử lưng dựa vào vách, tay vê điếu thuốc lào, mắt trũng xuống sau nhiều đêm ít ngủ. Sáu năm sau khi nhậm chức Huấn Ðạo, Nguyễn Thiếp được thăng lên làm Tri Huyện Thanh Chương. Tiếng thế, nhưng Thiếp lui về ở trại Bùi Phong, việc quan trao hết cho bọn nha lại. Khi thầy mình là Nghiễm, Tả Thừa Tướng dưới đời chúa Trịnh Doanh, mất vào buổi lập đông năm 1768, Thiếp từ quan, bỏ hết thời giờ vào chuyện học thuật. Quan Hiệp Trấn xứ Nghệ là Bùi Huy Bích gửi thơ lên thăm, lời lẽ tán tụng: « Ngẩng trông am núi cách vời. Núi cao rừng thẳm tột trời mây xanh. Muốn lên thăm hỏi sự tình. Lại e một nỗi ông khinh người phàm » Trong thơ trả lời, Thiếp nhân đó xin khoan giản thuế tư điền cho dân Thanh-Nghệ. Từ đó, người đời gọi Thiếp là Phu tử, tiếng đạo hạnh nổi lên khắp nước. Giữa tháng ba năm Cảnh Hưng thứ 41, Phu tử nhận được tờ truyền của chúa Trịnh Sâm mời lên Kinh. Phu tử ngần ngừ, nhưng thế chẳng đặng, phải cùng con trưởng và hai người học trò thân thiết nhất lên đường. Ánh nắng sớm ửng vàng trên chòm râu Phu tử bạc trắng lung linh qua làn khói thuốc. Phu tử ngả người ra sau, chiêu một ngụm nước, mắt nửa nhắm nửa mở. Một lát sau, nhìn học trò, Phu tử chậm rãi nói: - Chốn kinh kỳ miệng người như miệng rắn, tai người như tai dơi. Thầy chưa muốn tiếp ai trước khi gập Hy Doãn Ngô thì Nhậm. Phu tử sai Trọng Thức đi tìm Nhậm. Khăn áo chỉnh tề xong, Trọng Thức chào thầy rồi đi ra cổng. Chỉ lát sau, Thức lại quay vào. Ngạc nhiên, Toàn Nhật hỏi. Thức cười khẩy, tay khoanh một vòng tròn, rồi lẳng lặng bước vào phòng Phu tử. Ở ngoài, Toàn Nhật chỉ nghe thấy một tiếng hừ bực bội rồi một tiếng đập bàn. ° Thuở Trọng Thức mới mười ba tuổi thì Nguyễn Danh Dương qua đời khi vừa sấp sỉ bốn mươi. Dương chẳng những là đường đệ mà còn là bạn thân của La Sơn Nguyễn Thiếp, sớm biết mệnh mình nên đã gửi gắm con với phu tử. Thức về ở trại Bùi Phong hai năm trước khi Phu tử mang Toàn Nhật về nuôi. Cùng cảnh côi cút nên Thức thương Nhật như em ruột mình. Hai anh em khác hẳn nhau. Nhật to cao dềnh dàng, vai ngang, ngực nở, chân đi thoăn thoắt. Trái lại, Thức vừa tầm, dáng thư sinh, lúc nào cũng chậm rãi như dè sẻn sức lực. Mặt gân guốc, mũi hếch, hàm râu quai nón của Nhật dẫu che được đôi môi trề ra như chế diễu nhưng không làm giảm chút nào nét nghịch ngợm trong khóe mắt. Phần Thức, Thức lúc nào cũng trang nghiêm và chừng mực. Gương mặt xương xương khiến đôi mắt Thức lõm sâu dưới cặp lông mày xếch lúc nào cũng xa xôi, và có gì như lo lắng, như dọ hỏi. Vì thế, ai mới gặp cũng cảm thấy có một khoảng cách không vượt qua được. Nhưng thật ra, khi gần gũi, nét cương nghị qua cặp môi môi mím trên chiếc cằm bạnh chẳng qua là cái vỏ che đậy một tâm hồn chồng chất bức xúc. Hồn nhiên, nên Toàn Nhật dễ nông nổi, phản ứng rất nhanh và mạnh. So với Nhật, Thức có vẻ trầm tĩnh. Nhưng sự trầm tĩnh ấy không khác gi cơn sôi riu riu của loại nham thạch đang đợi lúc bùng lên lửa đam mê của một hỏa sơn ẩn ngầm trong đất đá. Cơn sôi ấy càng lâu, sự bướng bỉnh bốc thành thứ ánh sáng đùng đục đậu vào khóe mắt khiến nét mặt Thức mang cái vẻ ngang ngạch thách thức. Học được với Phu tử mười năm, Thức xin phép được xuống Yên Vĩnh cách Bùi Phong hai mươi dặm, về sửa sang lại ngôi nhà của tổ phụ, ngày ngày đi cầy theo gương Hứa Hành đời Chiến Quốc. Dịch sách Tiểu học, rồi Tứ Thư, Ngũ Kinh sang tiếng Nôm, Thức dậy học mỗi tối cho đám trẻ, nhất định không nhận quà cáp thù lao, lấy cớ rằng cái học với Thức không dùng để đi thi ra làm quan được. Thức thường bảo học cốt là hiểu lý hiểu nghĩa, viết là để giao dịch, để ghi lại lời hay ý đẹp, nên Nôm hay Hán đều được. Chữ Nôm dựa trên thanh âm gần gũi cách nói, tất dễ hơn nên ai cũng có thể học. Thức lạc quan, cho rằng như thế sẽ đông người biết chữ, rồi thêm lời thêm ý, biết đâu chữ Nôm một ngày kia sẽ chẳng thay hẳn chữ Hán. Ít lâu sau, rất nhiều người đến học với Thức, già có trẻ có, tiếng nổi lên như cồn khiến những ông đồ cả trấn Nghệ xì xào dè bỉu « nôm na là cha mách qué ». Thức bảo học trò tập viết bằng cách chép lại những câu ca dao dưới dạng lục bát. Thức lại đưa cho Nguyễn Du xem năm ngoái, dịp Du về Nghệ, lên ở lì trên trại Bùi Phong cả tháng. Du vốn là con Nguyễn Nghiễm và hiện đang ở Thăng Long với anh là Nguyễn Khản. Thuở ấy, Du mới mười bốn mà đã nổi tiếng hay thơ, cứ trầm trồ khen thơ lục bát có phần uyển chuyển phóng túng hơn loại Ðường luật Cổ thi thường được ngâm vịnh trong giới người có học. Lúc đó, Khản như cánh tay của Chúa Trịnh Sâm, giữ chức Tả thị lang kiêm Bồi tụng. Trước lời ra tiếng vào của đám nho sĩ xứ Nghệ, Du sui Thức bầy tỏ chí mình. Thức làm ba bài thơ tựa là Tam đoạn tự khải. Tháng sau, có giấy bắt Thức lên hầu quan. Hoàng Tế Lý ẩn mặt, sai Nguyễn Hữu Chỉnh phân xử lời tố cáo Thức có ý định làm loạn. Chỉnh vời Thức vào, cố ý bắt Thức đợi nửa ngày, giọng khinh bạc, thủng thỉnh: - Việc quan như là trông con mọn, cái nọ xọ cái kia, phiền ông chờ lâu! Thức trầm tĩnh: - Quan như phụ mẫu, chúng tôi nào dám kêu ca, miễn cứ công minh mà sử thì dân hèn chúng tôi đội ơn. Chỉnh vờ nổi nóng, tay vỗ bàn, miệng gằn giọng: - Mới mở mồm mà đã chê rằng quan trên không công minh à! -...... - Bài thứ ba trong Tam đoạn tự khải, anh viết: « Ngoảnh trông phương Bắc thôi khiếp sợ. Ngước mắt về Nam gió đến tay » là ý gì? Phương Bắc có Vua, có Chúa. Phía Nam thì giặc Tây Sơn vừa ngược ngạo tự mình xưng đế xưng vương, thế có phải là... Thức ngắt lời Chỉnh, chĩnh chạc: - Trình Quan lớn, ngài tiếng tăm văn võ, thừa hiểu là bình thơ luận nghĩa mà chỉ trích ra hai câu trong một bài thì muốn gán thế nào cũng được, kẻ tiện dân này chỉ mong ngài không nghe tiếng dèm pha. Ba bài tự khải nhằm nói tại sao kẻ hèn này lại thiên về chữ Nôm chứ không lệch sang chữ Hán. Vậy thì Bắc ý chỉ Trung Quốc, còn Nam thì cứ kể là từ mũi Nam Quan trở ra. - Người quân tử không thiên lệch... Thức biết mình đã chiếm thượng phong, cố dấu ngạo ngễ, cười rồi nhẹ nhàng: - Không quân tử, thưa Quan lớn, là phạm tội ư? Thế còn bài Quách lệnh công phú để ca ngợi Quách tử Nghi đời Ðường bên Trung Quốc đã nổi tiếng khắp Bắc hà, rồi đến bài thơ khẩu khí vịnh Cái Trống đều do chính Quan lớn làm cũng là bằng chữ Nôm, liệu có thiên lệch gì không? Thức ngưng nói, nhìn Chỉnh rồi nhẩn nha: - Hơn nữa, chẳng có cái tội trạng nào là cái tội không quân tử. Có tội ấy chắc bàn dân thiên hạ thấp cổ bé miệng không có chỗ mà sống được nữa! Chỉnh sượng sùng, nhẹ giọng: - Sao không đi thi rồi làm quan mà giúp đời? - Quân tử cốt lập chí, sau mới đến công danh. Thời này nhiễu nhương mà chỉ tính đến công danh tư riêng thì chắc cho chính mình cũng chẳng bền, nói gì đến cứu giúp được ai! Kẻ tiện dân này chỉ mong yên thân đi cầy ruộng, rồi bõ bẽ chỉ dẫn cho dăm người cầu học vài chữ thôi. Chỉnh lạnh lùng cắt ngang, cấm Thức không cho dậy quá mười học trò trong mỗi buổi dậy học, và bắt chỉ được quanh quẩn trong vùng hai huyện Thanh Oai, Thanh Chương. Sau chuyện đối đáp với Chỉnh trong chuyến hầu quan trên trấn, Thức càng được tiếng, bỏ một nửa ngày cầy để dậy thêm hai buổi mỗi bữa, học trò đông đến độ Thức phải từ chối dậy một số người đã lớn tuổi. Du nói với anh, rồi Khản nhân danh là đồng môn với Nguyễn Thiếp hỏi quan Hiệp Trấn về việc Thức. Lúc ấy Tế Lý nể mặt mới ra lệnh cho cống Chỉnh bãi cái lệnh cấm cản, lại còn sai mang lên tết Thiếp mười quan tiền, sáu đoạn nhiễu, hai cân chè Thái Nguyên và nửa tạ gạo. Nguyễn Thiếp tránh không tiếp, và dặn Ðặng-thị từ chối không nhận bất cứ một thứ gì. ° Khoảng cuối giờ Thìn, một chiếc xe bò lọc cọc ngừng lại trước dãy nhà phía phải giành để tiếp khách trong tư dinh Hoàng Ðăng Khoa, con trai cả của Huy quận công Hoàng Tế Lý và công chúa Ngọc Tĩnh. Hoàng công tử có tiếng là khéo léo, không chính thức nhận một chức vụ gì trong phủ Chúa, nhưng thường giúp cha trong công việc giao dịnh nên biết khá nhiều chuyện chính sự cũng như mọi đường ngang lối tắt lắt léo nơi cửa quyền ở chốn kinh kỳ. Khác với đám thượng lưu trẻ tuổi chốn đô hội thường đắm mình trong những chuyện phù phiếm, những oái oăm chốn hậu trường của quyền thế, và nhất là những dịpï ăn chơi thâu đêm suốt sáng hầu như mỗi ngày mỗi có, Ðăng Khoa ít giao thiệp với người cùng lứa, không huênh hoang, không hợm hĩnh, và thường tự nhún mình, lúc nào cũng giả tảng như không để ý đến ngoại vật. Chiếc xe bò chất đầy đủ loại thực phẩm, từ gạo muối cho đến tương, cà, ca,ù thịt. Sau khi chất rỡ xong, người gia bộc cỡ ngoài sáu mươi kính cẩn: - Cậu chúng con xin mời đức Phu tử và các cậu hạ cố dùng bữa cơm trưa hôm nay thì thật là bảo giá. Trọng Thức bật cười trước lối nói chữ nào là hạ cố nào là bảo giá, trả lời: - Cứ cho người đến dẫn lối, chúng tôi sẽ xin qua hầu công tử. Sau khi vào trình Phu tử để khu xếp, Thức rủ Nhật đi dạo quanh tư dinh Hoàng công tử. Vòng từ mé phải họ bước vào một khu vườn nhìn ra hồ Trúc Bạch. Bên cạnh con đường trải sỏi trắng là một cái ao đào rộng độ hai sào vuông. Trên bờ ao, một cái cầu vồng bắc vắt vẻo dẫn đến căn gác vuông vắn mỗi bề độ hai mươi thước ta, tường bằng gỗ sơn xanh nhạt, mái ngói đỏ mầu gạnh cua, cửa vào có đề hai chữ Khiêm Các, ý chỉ sự khiêm nhường. Chung quanh ao trông đủ loại cây cỏ rất lạ, có loại cây toàn lá mầu đỏ cam rực rỡ, lại có loại không có lá mà chỉ toàn hoa đài trắng muốt đến độ nhìn cứ tưởng như trong suốt. Bước vào các, mùi gỗ quí thơm bay thoang thoảng. Vạch những bức màn lụa mầu ngà có viền kim tuyến và thêu những bông cẩm chướng sặc sỡ nhìn ra, một đàn hàng chục con công ven bờ ao bên kia đang giang cánh múa, mầu lông óng ánh dưới nắng vàng. Trên mặt ao, dăm ba tảng đá mầu hồng nhô lên trên những tàn sen còn đọng những hạt sương lóng lánh như kim cương. Thức ngồi xuống tràng kỷ, nhìn quanh, miệâng bâng quơ: - Cứ xem cảnh sắc thế này thì mồm nói khiêm nhưng bụng lại chẳng nhường ai một chút nào. Nhật vòng qua cái sập gụ đen tuyền dầy đến ba tấc và rộng đủ để sáu người ngồi xếp bàn tròn, bước về phía giá gươm rồi táy máy rút một thanh ra khỏi vỏ. Lưỡi gươm lạnh tanh lóe sáng. Toàn Nhật vung lên một đường, nâng thanh gươm lên ướm nặng nhẹ, suỵt soạt trầm trồ. Một lát sau thì gia nhân đến mời. Thể theo ý Phu tử, ba người qua dãy nhà phía trái nơi Khoa ở. Thức cung tay chào, rồi chỉ qua trung niên dáng gầy gò: - Thưa Hoàng tướng công, ông đây là Nguyễn mạnh Thuyên, trưởng nam của thầy chúng tôi. Thầy tôi vẫn còn mệt không qua bồi tiếp tướng công được, để anh chúng tôi sang hầu tướng công... Ngưng lại, Thức nhìn thẳng vào mắt Hoàng Ðăng Khoa, giọng có chút châm biếm: -... và nghe lời dậy bảo phải ở đâu, làm gì, gập ai, và được đi những đâu... Khoa hơi bối rối, nhưng trấn tĩnh ngay, tươi cười trả lời: - Những việc ông anh vừa nói là đều sẽ do cha tôi sắp xếp, tôi phận con cháu nào có cái quyền gì mà dám xen vào. Nay, ta phải đợi để Phu tử thật khỏe đã, gập cha tôi là mọi việc đâu vào đó, chẳng có gì phải bất tất. Tuy mồm chối trách nhiệm, Khoa vẫn khéo nhắc đến quyền uy của cha mình. Thức còn bực trong bụng, định tâm tiếp tục vặn hỏi lại cái chuyện bị lính canh cấm ra khỏi cổng sáng nay, nhưng Thuyên khẽ gạt tay, lên tiếng: - Ngài dậy như vậy, chúng tôi rất đội ơn. Cha tôi nay già cả, sức khỏe có sút, chỉ cầu xong việc là xin về ngay, chẳng lòng nào dây dưa ở lại kinh kỳ này lâu la làm gì. Chẳng hay khi nào thì Chúa vời cha tôi vào cho gập? - Việc này tôi cũng lại không biết. Nhưng tôi sẽ bẩm với cha tôi chiều nay để Phu tử khỏi sốt ruột. Bữa ăn vẫn có phần gượng gạo tẻ nhạt mặc dầu Ðăng Khoa cố vui vẻ chào mời. Thuyên ít nói, lời đúng mực, không thừa không thiếu. Thức lạnh lùng. Khoảng đầu giờ Mùi, lão gia bộc thích nói chữ chạy vào thì thào. Khoa đứng dậy, miệng nói: - Cha tôi đến! Một người đàn ông giữa khoảng ngũ tuần vén bức chướng mé phải gian nhà khánh nhanh nhẹn bước vào. Người đó cao hơn bình thường dễ đến nửa cái đầu, miệng rộng, môi mỏng, vai chữ điền, tóc điểm bạc búi ngược, lưỡng quyền gồ cao làm trồi lên cặp lông mày rậm trắng, xếch đến cuối chân mày rồi đứt đoạn bất ngờ xụp xuống. Ðợi cho mọi người vòng tay thi lễ xong, người đó mới sẽ nghiêng mình, nói: - Chắc Phu tử còn mệt, tôi chưa được diện kiến nên xin gửi lời chào, và mong Phu tử chóng khỏe để tiện thu xếp ít công việc nhà Chúa. Quay sang Khoa như dọ hỏi, người đó đảo một vòng mắt nhìn mọi người, tiếp: - Phu tử là khách của Chúa, còn các vị đây là khách của cha, con phải chu đáo mọi sự. Khoa hiểu ý, khẽ nhích lên rồi giới thiệu tên từng người. Thuyên vòng tay vái miệng nói « Kính chào quan Chánh dường ». Ðến lượt mình, Toàn Nhật cũng bắt chước làm như vậy. Hoàng Tế Lý khẽ nhếch mép rồi bước một bước đến nhìn tận mặt và hỏi gốc gác. Nghe Nhật kể tên ông ngoại họ Võ ở Thạch Hà, Lý vỗ vào vai, cười bảo « thì ra cũng con dòng cháu giống! ». Khi Khoa giới thiệu Trọng Thức, Lý thân mật: - A, hiền điệt là hậu duệ của Nguyễn Danh Dương, bạn đồng khoa với ta. Ðến trước mặt Thức, Lý nắm lấy tay, vừa lắc vừa nói, giọng kẻ cả: - Khí tượng thế kia, tuổi trẻ thế này sao lại nổi tiếng là ẩn sĩ được nhỉ? Gần ta ít lâu, biết đâu cháu lại chẳng đổi ý. Làm tài trai, phải như chim Bàng chim Phượng, cớ gì lại sè sè chịu bay như đám chim sẻ đi tìm vài hạt thóc thừa chốn quê mùa? Trong đầu Trọng Thức chợt lóe lên hình ảnh những con sẻ tìm bắt cào cào châu chấu phá hại mùa màng đang nháo nhác bay lên khi một đàn quạ sà xuống. Bấm bụng, Thức nghiêng mình vái, giữ một khoảng cách với sự thân mật của Tế Lý, khiêm tốn: - Xin đa tạ quan Chánh dường, vãn sinh tài hèn đức mọn, lúc nào cũng áy náy chỉ sợ làm hổ tiếng phụ thân, không dám nhận hai chữ ẩn sĩ từ những lời đồn đãi không đáng làm bẩn tai quân tử. Sau khi Trọng Thức nhắc lại câu mình đã hỏi Ðăng Khoa buổi sáng, Hoàng Tế Lý nghiêm trang nói: -Khách của nhà Chúa là thượng khách, muốn đi đâu thì đi. Các vị là khách của ta cũng vậy. Trong kinh, từ đầu giờ Tuất đến cuối giờ Dần giới nghiêm. Tuy thế, nếu cần đi, phủ Chúa sẽ cấp cho Phu tử giấy phép, cứ đưa ra tất lính tráng chấp lệnh... Hắng giọng, Tế Lý chẳng những tảng lờ chuyện cấm ra khỏi cửa mà còn kèm chặt thêm đám khách, tiếp: -... cũng gửi lời ta xin Phu tử tha lỗi cho bọn lính tráng không biết khu sử buổi sáng nay. Kinh đô hiện chưa hẳn yên nên ta sẽ phái lính phủ Chúa đến bảo đảm an ninh cho Phu tử và gia nhân. Ðăng Khoa tạm nhận trách nhiệm tiếp đãi Phu tử cho đến khi ta xếp đặt để Phu tử đến ngụ tại dinh Khương Tả hầu. ° Suốt một tuần lễ từ ngày đến Thăng Long, Phu tử đợi Chúa vời, nhưng không tin tức gì. Sốt ruột, Phu tử nhờ Khoa chuyển lời mình đến Hoàng Tế Lý là người ra vào Chính-phủ hàng ngày. Mặc dầu Khoa hết sức chu đáo, Phu tử và gia nhân vẫn mong sớm được dời tư dinh của Khoa, nơi tạm cư từ ngày bước chân đến Thăng Long. Khoa luôn luôn tỏ ra thân mật để khách thoải mái, song trừ Toàn Nhật ra, ai ai cũng cảm thấy mất tự do chốn cửa quyền, lúc nào cũng có lính tráng dòm ngó và người ăn kẻ ở thưa gửi. Chỉ riêng có một mình Nhật gần gũi Ðăng Khoa hơn mọi người, phần vì hồn nhiên, phần vì thích bàn chuyện võ nghệ. Buổi tối hôm đó, Khoa vào vái thăm Phu tử rồi thưa: -... Cha vãn bối nhắn mời Phu tử giờ Mùi sáng ngày kia vào Nội phủ. Sáng ngày Phu tử vào Nội phủ, một đội sáu người lính thuộc đội Hậu Dũng, quần áo sắc vàng nhạt, cổ nẹp đỏ, đến với hai người phu khiêng kiệu. Khi Phu tử vẫy tay gọi Thức và Nhật đi theo, một người xưng là thư lại cúi đầu cung kính nói là có lệnh chỉ đưa một mình Phu tử vào Thập Tự cung ở Chính -phủ. Sau khi Phu tử lên đường, Nhật rủ Thức ra phố. Ðến cửa dinh, hai người nghe tiếng gọi giật: - Có nhớ tôi không? Tôi đến chào thầy và các vị đây! Nhìn lại thì ra Bằng Vũ, một người bé nhỏ, dáng thư sinh, cũng người huyện La Sơn, xưa có học với phu tử ở Anh Ðô. Vũ xưa thi hỏng kỳ đệ tam trường, nay lo việc giấy má sổ sách, làm từ hàn cho đội Trung - Kính, đội lính bảo vệ an ninh cho Tam cung Ngũ phủ. Vũ vui vẻ xin làm người đưa đường cho Thức và Nhật. Từ dinh Ðăng Khoa đi xuống phía Tây Nam chừng hai dậm là hồ Thủy Quân, giữa hồ có xây một cái tháp năm tầng, và tiếng truyền rằng mỗi khi có quốc biến thì con rùa đã sống bốn trăm năm trong hồ nghiến răng kèn kẹt báo cho người hàng phố. Lần sau rốt, vào tháng sáu năm Mậu Tuất cách đây hai năm, lúc Ðàng ngoài hạn hán, giá gạo cao vụt lên và người chết nằm đầy đường thì tiếng rùa nghiến răng nghe đến tận miệt Ô Trường Bản. Dân quê hai tỉnh Thái Bình, Thanh Hóa trốn đói mò lên Thăng Long có đến hàng vạn. Họ tự tiện cắm dùi trên công thổ phía Ðông Nam, suốt bờ sông từ Vị Hoàng cho đến Hà Ðông. Triều đình tìm đủ cách đuổi dân lưu cư nhưng cho đến nay vẫn không được. Ở kinh kỳ, người đi như mắc cửi. Trên dăm trục chính nối những cửa ô, mặt đường rộng đủ cho năm chiếc xe ngựa qua lại. Từ hồ Thủy Quân đi xuống độ trăm thước là nơi người Kẻ Chợ buôn bán. Ba mươi sáu phố ăm ắp người chen vai thích cánh, mỗi phố là một mặt hàng: nào là tơ lụa, đường phèn, gương, lược, trống, kèn, gỗ.. đủ loại. Người ở kinh diêm dúa hơn người thôn quê, đàn ông mặc áo the, chân đi dép, đàn bà thì trên áo tứ thân, dưới là váy lĩnh, có kẻ đầu vấn tóc, có người che khăn mỏ quạ. Các bà ở mặt tiền những cửa hàng rộng không quá năm, sáu thước vuông, miệng ríu rít chào khách qua đường. Tiếng mặc cả, tiếng dè bỉu, và thỉnh thoảng lại có cả tiếng cãi cọ chửi bới oang oác bên tai. Ba người đi hết phố này sang phố khác, hòa mình vào cái dòng sinh lực cuồn cuộn cứ chực như tràn ứ ra trên lề đường. Quá giờ ngọ, họ kéo nhau vào một quán ăn khá rộng rãi sang trọng ở phố hàng Mành. Vũ phất tay gọi rồi bảo: - Nhất đất này đấy, và phải nói để hai vị biết, bún chả thì tuyệt khéo. Cuối phòng ăn, một đám gần hai mươi người ngồi choán đến năm bàn, bàn nào cũng đầy những cút rượu. Vũ đứng dậy đến cung kính chào một nam nhân ngót ngét ba mươi tuổi, mày rậm, mũi hếch, mắt như mắt cú đỏ sè, ngồi nghênh ngang giữa đám thủ hạ. Sau đó,Vũ lại rón rén về chỗ, thì thào vào tai Thức: « Ăn nhanh rồi chuồn, bác ạ! ». Trước thái độ của Vũ, Thức và Nhật hơi ngạc nhiên, song chưa tiện hỏi. Cả ba lẳng lặng ăn, nhưng chưa hết bữa thì đám người trong góc ồn ào đứng dậy, gươm đao nghe loảng xoảng. Một người mảnh khảnh, mặt xanh mướt, nói với chủ quán: - Ghi sổ lại. Lần sau trả. Bây giờ có việc công phải đi gấp. Ông chủ quán vâng dạ, mặt méo xệch, đầu cứ gật gù cúi xuống. Nam nhân mắt cú đứng dậy, miệng ngậm cây tăm xỉa răng, tay cầm chiếc roi cá đuối, phất vút một cái vào không khí, rồi ra lệnh: - Ði thôi! Qua chiếc bàn có bọn Bằng Vũ, người ấy ngừng lại, hất hàm: - Những ai đấy? Vũ đứng dậy, cười cười, vái rồi giới thiệu. Nam nhân lại hất hàm, nhìn lên, khinh khỉnh: - À, khách của Huy quận công à! Tay vút roi vào khoảng không, người ấy chẳng thèm nhìn ai, khinh khỉnh: - Có muốn xem đốt đuốc người không? Nói xong, người ấy bước ra. Thấy lạ, Toàn Nhật tò mò đòi đi xem. Ba người liền ăn vội, trả tiền, rồi ra theo. Bọn người ồn ào bước đến đâu thì đám đông dân chúng dạt ra đến đó. Họ đi vòng về phía Ô Cầu Giấy, đến một khoảng đất trống áp vào rìa sông chung quanh có quây cót. Lính canh chia làm hai lớp vây vòng, ai nấy quấn khăn che mặt lại, gươm giáo sáng lòe. Từ dốc đê, không ai nhìn thấy gì sau cót, nhưng nghe văng vẳng đâu đây có tiếng nỉ non khóc lóc. Nam nhân mắt cú vọ vẫy tay, đám thủ hạ khuâân những thùng dầu đã xếp sẵn xung quanh cót đổ tưới lên và ném những cành cây khô vào. Tiếng khóc tiếng kêu lúc càng inh ỏi. Những tiếng thét tuyệt vọng rít lên, rồi một người đục cót chui ra. Tên lính đứng gần lao một ngọn thương. Người ấy tru lên, tay dơ cao, bàn tay trụi không có ngón nào, với như cào vào khoảng không. Nam nhân mắt cú khinh khỉnh châm đuốc rồi thẳng tay ném vào. Lửa bùng lên khắp ngả. Tiếng rú, tiếng kêu, tiếng khóc nhất lượt òa lên nghe đinh tai nhức óc. Toàn Nhật hiểu ra, người nóng rừng rực như chính mình bốc lửa, lồng lên, xô lại gào: -... Không giết họ thế được! Ngừng lại! Vũ hốt hoảng nắm Toàn Nhật lại nhưng không kịp. Nam nhân mắt cú miệng mím lại, mũi hếch lên, vung roi quất vào đầu Nhật. Chiếc đầu roi chưa kịp giựt về thì Nhật đưa tay bắt lấy thân roi, rồi vòng tay như cuộn lại, lấy tấn bất thình lình dận xuống. Nam nhân ngã chúi mặt xuống đất, bỏ roi, tay kia rút kiếm, gầm lên: - A, giỏi thật!... bay bắt lấy nó cho ta... Ðám thủ hạ tay đao tay kích ùa ra vây Nhật vào giữa, hầm hè như muốn nuốt tươi ăn sống. Ðúng lúc đó, tiếng Ðăng Khoa cất lên: - Không ai được chạm vào khách của quan Chánh dường! Ðội lính Hậu Dũng áo vàng lúc ấy gươm đã tuốt trần, xông vào làm một vòng tròn quây quanh Toàn Nhật. Khoa tiếp: -... Chạm vào khách là chạm vào chủ. Kẻ nào xúc phạm, theo luật, sẽ bị tội lăng trì! Quay sang nam nhân mắt cú, Khoa vòng tay vái: - Xin Ðặng tướng công thứ cho! Khoa này chịu mọi trách nhiệm. Mùi thịt người lúc ấy xông vào mũi khét lẹt. Tiếng kêu tiếng khóc vẫn rú lên từng chập nhưng dần dần thưa đi. Khói những cây đuốc người bốc lên đen cả bờ sông Nhị. Nước vẫn cứ xiết trong lòng sông lúc nào cũng quằn quại những dòng lũ màu đỏ như máu. Nam nhân mắt cú, tên là Ðặng Mậu Lân, em ruột của Ðặng thị Huệ, hầm hè: - Rồi sẽ biết tay ta! Ðể xem, để xem... Hôm sau, dân Thăng Long hớn hở: tiếng đồn là nhờ có Chúa chu cấp lương tiền, trại hủi ngoài Ô Cầu Giấy đã dọn đi về phía Ninh Bình. Mùi thịt phảng phất chẳng qua là mùi thịt mấy con lợn nái ngả ra cho bữa bún chả họ ăn mừng với nhau trước khi di cư. Tuy tiếng đồn thế, những người bị bệnh hủi đang luẩn quẩn ăn mày ở kinh kỳ ngày hôm sau vẫn trốn tiệt. ° Không biết công việc nhà Chúa thế nào mà sau ngày gặp quan Chánh dường ở Thập Tự cung, Phu tử ngày ngày tư lự ra vào một mình. Ngô thì Nhậm hiện dang trên Sơn Tây, hẹn về gập Phu tử nhưng chưa cho biết ngày tháng. Ngay cả khi mọi người đã chuyển ra ở tư dinh Khương Tả hầu, Phu tử im lặng cả ngày, vẫn tránh không gặp bất cứ ai, thường trằn trọc, đêm dậy ngồi hí hoáy viết lách, nhưng chỉ độ mươi hôm sau lại đem ra xé hết. Nét lo âu khiến Phu tử già đi, và sự cô đơn trĩu nặng đèo vào tuổi tác khiến lưng Phu tử như gù thêm xuống. Ðám lính canh cho Phu tử thay đổi luôn luôn, nay thì là đội Hậu Hùng, mai lại Tiền Dũng, rồi lần lượt nào là Trung Kính, Tả thị nội, Tiền Ninh. Trong đám lính canh luôn luôn có một người thư lại đi kèm. Vì thế, Bằng Vũ lại có dịp lân la gần Phu tử. Một tuần sau hôm dọn đến dinh Khương Tả Hầu, Ðặng Thị Mai là cháu gọi Ðặng-thị bằng dì hớt hải đến chào. Thức ngạc nhiên nhìn nét lo âu trong mắt Mai, khẽ đẩy cửa để Mai vào nói chuyện với Phu tử. Tối hôm ấy, Phu tử bảo Toàn Nhật rời khỏi kinh kỳ, tạm lên phố Hiến một thời gian. Nhật gặng hỏi, Phu tử chỉ bảo chính Mai sợ anh ruột mình là Lân sẽ tìm cách hãm hại Nhật. Ðăng Khoa biết chuyện nhưng không nói gì, hẹn sẽ lên thăm Nhật và viết thơ gửi gấm cho một người bạn quen trên phố Hiến, rồi đưa một tờ đặc chỉ cho Toàn Nhật xuất nhập Thăng Long bất cứ lúc nào. Ðặng Mậu Lân xưa nay hung hãn, cậy vào chị là Ðặng thị Huệ hiện đang được Chúa sủng ái, chẳng chịu thua kém một điều gì với ai. Lân hống hách, cách ăn kiểu mặc bắt chiếc như Vua như Chúa, không chỉ bàn dân mà ngay cả đám quan trong triều hễ gập là tránh. Thấy đàn bà con gái có nhan sắc là bất kể bố mẹ chồng con, Lân cướp về tư dinh. Thỏa mãn xong tính dục, Lân còn quái ác khi thì rạch mặt, khi thì cắt đầu vú, khi lại tọng cán gươm hay đầu côn làm rách toạc tử cung, hềnh hệch cười: « Cho người đẹp giữ chút dấu vết kỷ niệm để nhớ ta nhé! ». Ðiều tiếng gần xa khắp kinh kỳ, bàn dân gọi Lân là hung thần mắt cú, kêu van đủ chốn nhưng chẳng ai làm gì được. Mất mặt với đám lính tráng và thủ hạ về chuyện Toàn Nhật giật roi, Lân căm giận, giữa đường về châm đuốc ném vào nhà bàn dân thiên hạ. Nhà cháy nhưng chẳng một ai dám dập lửa, phải đợi Lân đi khỏi. Lần này chuyện gây ra lại giây vào khách của Hoàng Tế Lý. Khổ một cái là Lý và Huệ nay liên kết với nhau, nên Lân không thể qua tay chị để trả thù Toàn Nhật. Nghe Lân kể, Huệ chặn ngay: - Mày vung tay đánh, người ta chỉ đỡ, thì có gì mà hậm hực! Người ta không kiện cho là may. Ðặng Thị Huệ rất khéo miệng, và nhất là cực kỳ nhậy bén đoán được ý của người đối thoại. Nàng ít khi phải nói không với ai, vì lúc nào không muốn thì nàng đã khôn ngoan chặn miệng trước, cho nên ít ai nói được chuyện gì không hợp ý nàng. Dù ngày đêm ở bên cạnh Trịnh Sâm, nàng rất ít ra mặt với chúa nơi đám đông, luôn luôn tỏ ra mình thờ ơ với quyền bính. Nàng thường nhẹ nhàng trả lời với những kẻ đến mua chuộc rằng: «... Những việc quốc sự, xin cứ tâu thẳng với Chúa, hoặc với Quốc cửu là Hoàn quận công. Phận đàn bà, tôi chỉ biết chăm lo công việc Hậu cung cho Chúa mà thôi ». Trịnh Sâm nghe thấy vậy nên rất quí mến, có việc gì tế nhị đều tâm sự cho nàng nghe. Cũng chính thế cho nên việc Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản và Huân quận công Nguyễn Phương Ðĩnh cách đây sáu năm tìm cách hãm hại Hoàng Tế Lý đã đến tai nàng. Lúc ấy Lý đã cho vợ mình là công chúa Ngọc Tĩnh cùng hai con về Thăng Long ở làm con tin để tránh sự ngờ vực của Trịnh Sâm về ý định thoán ngôi Chúa người ta vu lên. Biết Huệ được sủng ái, Ngọc Tĩnh kết thân với nàng, hai bên tâm đầu ý hợp, ngay đêm thủ thỉ chuyện ra chuyện vào. Sáu năm ròng, mỗi lần Lý về thăm vợ con đều có mang quà cáp vào phủ Chúa chào Huệ. Khi Huệ sinh thế tử Cán, Lý dâng mừng ba mươi cái ngà voi cùng sáu bộ xương hổ, không kể gấm vóc lụa là xếp từng thếp cao đến đầu người. Chính Huệ đã khuyên công chúa Ngọc Tĩnh bàn với Lý để xin Chúa cho về kinh, rồi cũng chính Huệ thay lời Ngọc Tĩnh kêu với Chúa cho Chúa chấp thuận. Trịnh Sâm đa nghi, nhưng biết Lý về kinh thì thân cô thế cô, không còn việc gì phải sợ, nên đồng ý. Về Thăng Long được hai tháng, Lý xin dâng tư dinh của mình làm nhà riêng cho thế tử Trịnh Cán. Chúa rất ưng lòng, lại có Thị Huệ vun vào, nên ngày càng quí Lý, cho Lý ra vào Nộïi phủ như đám hoạn quan, có việc gì cũng hỏi. Ðầu năm sau, Lý đẩy được Khản ra làm Hiệp Trấn Sơn Tây, rồi được phong làm Chánh dường quan, lo lắng toàn bộ chính sự trong phủ Chúa. Từ ngày Phu tử đến kinh, Trịnh Sâm lại mắc chứng cũ khiến mọi sắp đặt triều chính phải hoãn hết. Nhận được chỉ vời, Lý vội vã vào cung Vọng Hà, nơi Chúa ngự. Qua những hành lang lúc nào cũng rủ chướng để tránh gió, Lý theo bước Thản-Trung hầu. Ðến Trữ Nguyệt viện, Thản Trung lên tiếng báo. Một lát sau, cánh cửa gỗ lim trạm trổ long ly qui phượng mở ra, và một thị nữ cúi mình chào. Lý hơi ngạc nhiên khi thấy Huệ ngồi trên tràng kỷ, miệng nói, tay chỉ: « Xin miễn lễ... Mời quan Chánh dường ngồi đây ». Ðặng thị Huệ chạc trên ba mươi, dáng thanh thanh, da ngăm ngăm sắc hồng quân, mũi dọc dừa, miệng hơi mỏng nhưng đài các, đầu đội ngọc miện. Mạêc một bộ xiêm màu xanh biếc, lưng đeo giải vàng có điểm những hạt ngọc hồng to bằng ngón tay cái, nàng ngước cặp mắt đen lay láy hình lá dong nhìn Lý, hỏi: - Bệnh tình của Chúa ra sao? - Khải Vương phi, Chúa lại đau bụng từ ba hôm nay, ăn uống không được! Chắc là bệnh cũ nên Sùng công cùng với chư quan thị dược đã đồng ý dùng lại toa thuốc hiệu nghiệm năm trước. Nay bệnh lúc tăng lúc giảm, nhưng mạch Xích đã phục, còn hai mạch Quan, Thốn thì khi yếu khi mạnh, chưa biết thế nào? - Công việc với La Sơn phu tử đến đâu? - Chúa chưa tiếp Phu tử nên công việâc còn đó, chưa nhất quyết gì cả? - ý Phu tử thế nào quan Chánh dường có rõ không? - Phu tử còn xem xét, và sẽ tự mình khải thẳng với Chúa. Vương phi ban cho quan Chánh dường một chén nước trà Tĩnh Ngọa. Khi Tế Lý cúi xuống uống thì tai nghe thấy hai lần tiếng chén trà của Vương phi để lên chiếc khay Bạch Ngọc ngân lên nghe như tiếng đánh chuông. ° Sau khi Lý và Thản Trung lui ra, Huệ vào phía sau cung Vọng Hà. Ngồi lên vương sàng, rồi đuổi thị tỳ ra, nàng nhìn Trịnh Sâm đang thiêm thiếp ngủ, với tay xem bát thuốc đã uống cạn. Lấy khăn giấp nước, nàng nhẹ nhàng lau trán Chúa đang nhớp nháp mồ hôi. Sâm tỉnh dậy, hé mắt nhìn Huệ, miệng gượng gạo cười: - Canh mấy rồi? - Xin Vương nằm yên, bây giờ là đầu giờ Tuất, Vương còn đau không? Sâm chậm rãi: - Bụng vẫn cứ ngâm ngẩm. Huệ thò hai ngón tay chậm chạp kéo giải rút, rồi lẳng lặng nằm xuống, bỏ cả bàn tay vào quần Chúa, đưa lên bụng xoa bóp nhè nhẹ, miệng suỵt soạt: - Chẳng có sao đâu, cứ thuốc bổ dương có nhân sâm rồi thêm vào một lạng Bắc nhung Miên Huyết Ngưng Sứ với quế tán là cứng cáp ngay thôi. Nàng khúc khích cười, tay lần sâu xuống dưới, nói: - Xem nào! Ðã khỏe cho em chưa? Vừa cười, nàng vừa hổn hển thở vào mơn trớn tai Chúa. Sâm nhắm mắt, mặt nóng bừng, người như lên đồng, đong đưa theo bàn tay Huệ lúc nhanh lúc chậm. Ðột nhiên, Huệ rút tay ra, ngồi dậy. Sâm mở mắt nhìn dọ hỏi. Huệ bật khóc rấm rứt: - Vương mà mệnh hệ nào thì em ra sao? Cứ nghĩ đến thôi là em chẳng còn thiết một thứ gì nữa. - Ta có bệnh, nhưng đã chữa được một lần thì sẽ chữa được hai lần, chẳng có gì phải lo... - Sao lại không phải lo. Thế tử Cán mới lên năm, Vương mà bỏ mẹ con em thì thân cô thế cô, mẹ con em chỉ có chết mà thôi. - Ðừng nói dại, ta đã nói với nàng là ta đãù định ý. Nhưng việc công không thể hấp tấp, làm gì thì thế nào trăm mắt thiên hạ cũng dòm vào! Huệ tỉ tê: - En biết dạ Vương, nhưng một tay Vương đã khuấy đất trọc trời, việc phế lập tưởng chỉ là chuyện cỏn con. Vương lắm mưu lắm kế, thiếu gì cách! Với lại, em bảo thật, thế tử Tông cũng đã lập bè lập cánh, biết đâu chẳng đợi thời mà lấn tới. Việc ấy,Vương cứ hỏi Tế Lý khắc rõ... Thôi, chuyện nhà Chúa, Chúa lo, Huệ lại nấc lên, còn thân mẹ con em, em phải lo... Sâm nghe Huệ nói, hơi chột dạ, nhưng lên giọng, cứng cáp: - Ta nằm đây nhưng mắt ta thấy hết, tai ta nghe hết. Nói xong, Sâm kéo Thị Huệ nằm xuống rồi xoay mình lại. Huệ ngồi bật dậy, má đỏ hây hây, lột phăng áo, bật cười khúc khích, lơi lả: - Em biết Vương khỏe lại ngay mà. Vương thích gì nào? Gấu nhé, hay báo nhé? - Không, làm báo rồi. Hôm nay ta làm con trăn rừng! Áp miệng cắn nhẹ vào tai Sâm, Huệ thỏ thẻ: « Hôm ấy tối trời, trăng đi đâu mất chỉ còn dăm ông sao mờ, em vào rừng Cúc Phương một mình. Bỗng như có ai bắt lấy bế bổng em lên chạc ba một cái cây. Thì ra là Vương hóa làm ông trăn, mình to bằng củ chuối mắn, cứ trờn lên trờn xuống, dạng hai chân em rồi kéo chổng kên trời. Em đạp chân lật mình lại, miệng kêu « thôi, cho em xin...» nhưng ông trăn quấn tròn lấy em vật ngã xuống. Ông ấy thò lưỡi ra,ôi cái lưỡi nóng hổi vừa mềm vừa nhơn nhớt cứ theo những đường cong thân thể em lượn uốn nhấm nháp như người nhắm rượu. Cái lưỡi đong đưa đú đởn khiến em ưỡn người cong lên, tay nắm quàng lấy đuôi ông trăn. Vùng mình xiết lấy em cơ hồ đến nghẹt thở, rồi trời ơi, ông trăn chuyển mình vào ngọ ngoạy... Em rướn chân, ghì vào chạc cây, mồm van vỉ, tay cào tay cấu...». Quằn quại theo nhịp bàn tay, Huệ hào hển rồi rít lên cho đến lúc Sâm kêu hộc lên một tiếng, để cho vài giọt sinh lực ứa ra như dăm hạt nước mưa vừa lọt qua kẽ dột. Lúc ấy, nàng thở hắt ra, rồi lẳng lặng nằm yên nhếch mép cười trong bóng tối. ° Ngoài Bằng Vũ, sau này đám khách thường tới dinh Khương Tả Hầu thăm Phu tử phần lớn là những bậc thâm nho chuyên dùng việc ngâm vịnh làm cách tiến thân cầu vinh cầu lộc. Duy có một kẻ may mắn đã sẵn có đủ cả là Côn quận công Trịnh Bồng. Bồng ưa thanh tịch, chán chốn quân quyền, quyết chí tìm đường đạo hạnh, hợp với ý nguyện của Phu tử, nên đôi khi lê la ở chơi cả ngày. Về phía Vũ, sau khi Toàn Nhật lên phố Hiến thì chỉ đánh bạn được với Trọng Thức. Tuy hơn tuổi, Vũ vẫn gọi Thức bằng anh, kính trọng về học vấn, nhưng thâm tâm coi Thức chưa đủ kinh lịch rút ra từ cuộc sống. Vũ là dòng dõi trung thần từ đời Lê Thái Tổ, nhưng gia thế sau cứ lụn dần đi, và nay thì hầu như bần hàn giống như mọi người sống ở thôn quê, gia đình lấy chuyện cấy cày làm gốc. Vì thế, tiếng Thức noi gương Hứa Hành về làm ruộng, bỏ cả danh vọng, không thi cử hầu mong quan cách khiến Vũ ngấm ngầm tâm phục. Không nói ra miệng, Vũ làm cho Thức hiểu rằng chí mình không phải là đi cầu chút bổng lộc mà còn mang nhiều hoài bão khác hẳn giấc mơ của những tên thư lại trong đám lính tam phủ. Vũ vun vào với Thức, cao giọng bảo cái ăn cái mạêc của cả nước là nhờ ở nông dân, những cái nghèo cái đói lại cũng oái oăm đổ vào đầu họ. Chính sự bất công ấy là gốc của những cuộc nổi loạn như loạn Nguyễn Hữu Cầu hay Hoàng công Chất ngày xưa. Gần nhất là năm kia, năm Mậu Tuất, Trần Xuân Trạch cũng dấy quân lên hàng vạn ở khắp trấn Sơn Nam, khiến máu rơi thịt đổ ròng rã cả năm. Vũ chép miệng: « Rồi cũng lại máu xương của đám đi cầy. Con thầy chùa thì cứ quét lá đa thôi ». Một hôm, Vũ dẫn một người tên Ðàm Xuân Thụ đến giới thiệu với Thức như là bạn tri âm của mình. Thụ vốn là người được sự tin cậy của thế tử Trịnh Tông, gốc gác cũng từ Nghệ An. Thụ nhắn lời thế tử mong gặp Thức đãi một bữa ăn tối. Cực chẳng đã, Thức nhận lời. Trong bữa ăn có cả Nguyễn Du, vì Du là em Khản, và Khản lại là thầy dậy học cho Tông. Câu chuyện xoay quanh chính sự. Tông hỏi: - Theo sấm ký, nhà Chúa chỉ vượng được hai trăm năm mươi năm. Nay đã đến kỳ hạn. Vậy muốn hưng nhà Chúa thì làm sao? Thức ngẫm nghĩ, rồi đáp: - Muốn có Chúa, tất phải có Vua. Nhà Vua nhà Chúa hưng thịnh có nhau. Vua hưng là do quần dân an cư lập nghiệp mà hưng. Gốc thịnh của nhà Chúa cũng từ ở đó mà ra. Tông lại nói: - Cha tôi nay ốm mai đau, nhưng chuyện lập Ðông Cung vẫn còn bỏ đó. Muốn cáng đáng nghiệp Chúa bây giờ là phải đối đầu với một đám quyền thần đang luồn lách đưa Chúa vào việc phế trưởng lập thứ. Bàn dân thiên hạ sẽ nghĩ thế nào? - Thứ mà còn thơ ấu thì lập thứ là tạo cơ hội cho đám quyền thần thao túng. Cứ xem gương những việc trước thì đó là mầm dẫn đến tai họa. Trong Kinh, đám thần tử cường ngạnh sẽ đâm chém lẫn nhau. Ở ngoài, giặc giã nhân đó lại nổi lên. Theo thiển ý, thế tử cứ yên tâm, ăn ở cho chu toàn chữ hiếu, chữ trung để bàn dân trông cậy vào là sớm muộn gì rồi chẳng bao lâu ngôi chúa lại về trưởng thôi. Ðạo trị nước gốc từ chữ Tâm. Tâm thuận thì tắc trị. Lòng thuận, ắt là theo. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Khi tạ từ, Trịnh Tông vẫn cứ băn khoăn, bồn chồn ra mặt. Ra khỏi cổng dinh, Du thoát được những câu chuyện chàng vốn không ưa, vui vẻ vừa đi vừa lẩm bẩm: «Thiện căn ở tại lòng ta; chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài », rồi cứ cười tủm một mình. Trong thời gian đó, bệnh Trịnh Sâm vẫn không thuyên giảm, mỗi ngày lại có phần thêm nguy kịch. Tông xin vào thăm cha, nhưng không được phép. Ngay chính Thánh Mẫu là mẹ Sâm mà cũng chỉ có thể hỏi thăm bệnh tình qua quan thị, duy chỉ có Huệ và Lý là gần gũi Sâm lúc ốm đau. Vì thế, tiếng đồn là Sâm đã dâng biểu xin vua Lê lập Cán làm Ðông cung thế tử xì xào khắp chốn. Tông càng ngày càng bối rối, bực bội đi ra đi vào, không biết phải làm gì. Một hôm, Tông vào Hậu Mã cung hỏi Lý về bệnh tình cha mình. Lý lạnh nhạt, trả lời cho có rồi khinh khỉnh quay đi. Tông vừa tức, vừa sợ. Rồi không hiểu vì lý do gì, Ðăng Khoa lại đánh người nhà của Tông giữa chợ, còn rủa chúng là bọn làm mất gia phong. Tông tâu xin trị Khoa tội phạm thượng, triều đình không xét mà cũng chẳng bắt Khoa xin lỗi. Tông càng căm, giận mất khôn, ra miệng chửi thẳng hai cha con Lý. Bọn người nhà thân cận của Tông là Dự Vũ, GiaThọ đều lo lắng, bàn là hễ chúa thăng hà thì cứ việc vây bắt ngay Lý và Huệ, rồi gọi quân hai trấn Tây, Bắc về tiếp ứng là đủ diệt cái mầm họa cho Tông ở kinh đô. Nghe xúi giục, Tông nhờ Khuê trung hầu đưa cho Ðàm Xuân Thụ một nghìn lạng bạc nhờ sắm sửa khí giới, đồng thời nhắn lên hai trấn Sơn Tây và Kinh Bắc nhờ mua ngựa và chiêu mộ dũng sĩ. Nguyễn Khản, Hiệp trấn Sơn Tây là thầy dậy Tông, còn Nguyễn Khắc Tuân, hiện là Hiệp Trấn Kinh Bắc, vốn giữ chức A Bảo của Tông nên Tông hết lòng tin cậy. Không hiểu có ai tố cáo, chuyện vỡ lở ra. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lý vào báo với Sâm. Sâm giận đòi trị tội Tông ngay, nhưng Lý can: - Khải Chúa, thế tử tuổi còn non dại, nếu không có hai quan Hiệp trấn ở Tây, Bắc đằng sau thì chắc chẳng dám chiêu binh mộ sĩõ. Xin cứ lẳng lặng điều hai người đó về Kinh trước, rồi sau hãy xử tội, nếu không có thể xảy ra những biến họa khác không chừng. Sâm nghe lời, gọi Tông vào giả trách mắng về chuyện học hành, đồng thời xuống mật chỉ vời Nguyễn Khắc Tuân và Nguyễn Khản về Kinh. Lúc ấy, Ngô Thì Nhậm, tự Hy Doãn, đương là Ðốc đồng Kinh Bắc cũng theo về. Tuân và Khản bị bắt ngay khi vào đến Thăng Long. Nhậm tìm đến dinh Khương Tả Hầu vào chuyện trò với Phu tử. Phu tử ghé vào tai Nhậm nói gì không ai biết, nhưng nghe xong, Nhậm tái mặt lại, than: « Không được, không được rồi! ». Sau đó, Nhậm vái Phu tử rồi về quê ngay, lưu lại một tờ khải Chúa xin vắng mặt để lo việc tang ma cho cha mình là Ngô thì Sĩ. Nhậm vừa ra khỏi, một viên hành tẩu cấp tốc mang lệnh cho đội Hậu Dũng đang đóng ở dinh Khương Tả Hầu. Người thư lại của đội vào thì thào với Phu tử, trong khi đó lính đội Hậu Dũng đã trói gô Trọng Thức lại. Một lát sau, sáu người trong Nội Mật viện đến áp tải Trọng Thức về Thị Kỵ cung trong Nội phủ. ° Tay bị bẻ quặt ra phía sau, đầu chúi xuống như đeo đá dưới bàn """