"
Gió Lẻ Và 9 Câu Chuyện Khác - Nguyễn Ngọc Tư full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gió Lẻ Và 9 Câu Chuyện Khác - Nguyễn Ngọc Tư full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
Gió Lẻ Và 9 Câu Chuyện Khác
Tác giả: Nguyễn Ngọc Tư
Thể loại: Tuyển Tập Truyện Ngắn
Mục lục
1. Vết chim trời
2. Chuồn chuồn đạp nước
3. Tình thầm
4. Sầu trên đỉnh Puvan
5. Ấu thơ tươi đẹp
6. Núi lở
7. Thổ sầu
8. Của ngày đã mất
9. Một chuyện hẹn hò
10. Gió lẻ
Vết Chim Trời
B
uổi trưa tháng mười đó, rất bình thường, như bình thường, chúng tôi trốn ngủ. Thằng Vĩnh vắt vẻo trên nhánh me trước sân nhà, cầm trái xoài sống nhai vừa nhai rau ráu, vừa thả vỏ xuống đầu tôi, nước miếng chèm nhẹp. Tôi hơi quạu, nhưng chỉ cười, tôi mà ném trả thì sập
bẫy của Vĩnh, sẽ cuốn ngay vào trò chơi nó bày sẵn. Mọi người sẽ phát hiện ra đám trẻ đang ở ngoài sân thay vì trên giường, sẽ la om sòm lên. Thấy tôi nín thinh, biết không ăn thua, thằng Vĩnh đâm chán, nó thôi khiêu khích. Hai đứa tôi im ỉm, như bị vây bủa, bị đóng băng bởi cái thinh lặng ban trưa của con đường thưa vắng người. Nắng trên cao lợt nhách, xuyên qua tàn cây xuống đến sân thì tệ hơn, chỉ là những chùm bông nắng mờ mờ. Lâu lâu, vài ngọn gió mồ côi leo heo chạy lệt phệt qua, những cái lá me lững thững rơi xuống, đám lông chó lại lờ đờ bay ngược lên, để lại nền sân vài bông nắng thưa, tái ngắt.
Lúc đó, tôi đã đi qua mười bốn cái tháng mười, đi qua không biết bao nhiêu buổi trưa lạt lạt, phai phai như vậy. Những buổi trưa không làm đám con nít buồn ngủ, nhưng cũng không làm tụi nó hứng chí chạy nhảy chơi đùa. Những buổi trưa lừ đừ, lười nhác. Và nếu bà nội không khóc, buổi trưa nọ đã trôi tuột khỏi đời tôi, không một vết tích, không làm tôi đau khi đôi khi gặp lại cơn nắng nào, đã cũ.
Nhưng mà bà nội đã khóc, và buổi trưa kia đã vĩnh viễn bị tiếng khóc đóng đinh vào. Lúc đó bà vẫn còn nằm trên giường, chắc vừa choàng thức dậy sau giấc ngủ trưa. Mới
đầu, nghe những tiếng hức nhẹ, tôi nghĩ là thằng Vĩnh nên ngó lên cây. Mới hay, Vĩnh cũng đang trố con mắt dò xét ngược xuống. Tiếng nấc bỗng ồ ồ dồn đuổi nhau qua cửa sổ. Bà nội. Bà nội khóc. Bà nội khóc kìa, ba ơi. Ba, bà nội khóc.
Cả nhà bị dựng ngược, lăng xăng quây lấy một bà già đang khóc. Trời ơi, sao má khóc vậy? Ủa, nội ơi, nội bị làm sao? Má ơi, má đau chỗ nào? Bà nội lắc đầu, vẫn khóc, nước mắt vừa lau xong nước mắt lại tràm trụa. Dỗ hoài bà không nín, cả nhà bất lực ngó nhau, ngờ vực, ai trong chúng ta đã làm bà nội khóc? Vừa lúc ấy thì bà nội nín, bà nắm lấy tay cha, hụp hửi:
- Sao bây lại bắn Út Hơn của má?
Sau này, long đong với bao biến cố cuộc đời, chen lấn, tranh giành, bị tạt vào mặt những câu từ khó nghe, phũ phàng nhất, nhưng tôi thề rằng chẳng câu nói nào đau đớn và nghiệt ngã như lời thốt ra từ cái miệng mếu máo của bà nội. Trời đất lặng phắt. Một mũi tên nào đó xé gió đâm thẳng vào tim cha. Ông chới với:
- Má!
- Bây bắn Út Hơn của má chết rồi, con ơi.
Bà nội bệu bạo nhắc lại, đẩy mũi tên vào trong cha sâu hơn. Và tôi khóc hức lên vì cảm giác cha vừa vào chết.
Má tôi không biết gì hết, má túi bụi với sạp bán thuốc gò ngoài chợ. Chiều về, má ngạc nhiên thấy bà nội không chịu ngồi chung mâm, bà bưng chén cơm day lưng lại, trệu trạo nuốt từng miếng rời, chỉ chịu ăn những gì Vĩnh gắp cho. Người già giận hờn cũng ngoe nguẩy như trẻ con. Má hiểu là
đã xảy ra chuyện gì nhưng má không hỏi, việc kiếm miếng ăn cho cả nhà khiến má rã rời.
Cha buông đũa sớm, có vẻ cha không cầm được máu mình đang rơi, ông nhìn vào cái lưng lạnh ngắt của bà nội cố hiểu chuyện gì đó. Bà thấy hình ảnh nào trong chiêm bao? Hay chỉ là một hành động trong chuỗi hành động ngớ ngẩn của căn bệnh lẫn thẫn đang tàn phá bà nội mấy năm qua? Như bà nội đã từng xách thùng tưới cải trong tủ lạnh, nhổ cỏ trồng vô hồ nước mưa. Như cái ngày bà nội ngơ ngác nhìn chúng tôi, hỏi, ủa, ai đây? ai mà kêu tui bằng bà nội vậy cà. Còn chú Hai này, muốn gì mà kêu tui bằng má, tui không có của cải gì đâu, đừng tưởng ngon mà nhào vô nhận bừa, nghen.
Tôi và những miếng cơm khô rốc, bỗng nghĩ, bây giờ bà nội có trèo lên cây ca hát hay đốt áo nướng trứng thằn lằn tôi cũng không ôm bụng cười ngắc nghéo nữa, những chuyện đó đã là bình thường. Chỉ bất thường là tiếng khóc ban trưa, khóc cho một câu chuyện về một trận chiến xa xôi trong một cuộc chiến đã xa xôi, đã khép lại rồi, đã lành những sẹo, ít ra thì đám con nít chúng tôi tưởng vậy. Bằng chứng là những vụ bắn nhau bằng súng nước giữa tôi và thằng Vĩnh luôn làm bà nội cười lăn, cười chảy nước mắt. Cho đến một buổi trưa tháng Mười đờ đẫn, tôi ngờ ngợ, hay cái cười đó là dành cho chúng tôi, nhưng nước mắt khóc cho cuộc chiến xa xôi kia, nơi cha tôi và chú Út Hơn, cha thằng Vĩnh buộc phải đứng ở hai bờ chiến tuyến?
Tôi không biết. Bà nội rất khó hiểu, bởi sáng bữa sau bà ráo hoảnh như chẳng có chuyện gì xảy ra. Bà nội dậy sớm, đi te te lại bàn ăn, trầm trồ tô mì gói má vừa nấu sẵn trước khi
ra chợ dọn hàng. Thấy cha phờ phạc, liêu xiêu, bà nội hỏi bệnh gì sao? Ngủ không được sao? Mắc gì mà mặt mày buồn hiu? Sao ngó tui trân trân vậy?” Cha chỉ cười, không nói. Bà nội đã thật quên chuyện hôm qua hay bà nội chôn nỗi đau đó tận đáy lòng?
Hay tiếng khóc trưa tháng mười chỉ là một cơn mê sảng bâng quơ? Giống như ông chồng nào đó thốt lên trong cơn say “Diễm em ơi!”, mà cô Diễm này nhiều khả năng không có thật ngoài đời, chỉ là một nhân vật trong phim, trong tiểu thuyết. Nhưng bà vợ thì ám ảnh cái tên đó suốt, bà uất hận, giận dữ, bà cảm thấy bị mất mát, lừa dối. Giống như thằng Vĩnh vẫn thường chỉ tay lên trời, “Chim kìa!” nhưng bầu trời tạnh vắng, và tôi biết thằng Vĩnh nói gạt mình, nhưng vẫn nghĩ, nếu thật là có con chim nào đó bay qua, thì sao? Và sự bâng quơ của bà nội cũng nghiệt ngã, cũng hoang đường, rõ ràng cha chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và chú Út thì ngã xuống ở con đường rừng nào đó, xa xôi. Không tin nhưng cha tôi buộc phải lục lọi từng cái ngách ký ức, nín thở, đau nhói, hãi hùng khi phát hiện ra một khả năng, một xác suất dù rất nhỏ nhoi, rằng đứa em trai có thể đã từng đối mặt với mình giữa lúc cuộc chiến sắp tàn.
Nên cha không chịu sống lại dù đã sang tháng thứ hai, dù mọi việc đã trở lại bình thường, nhất là với bà nội. Bà ngồi may áo, hỏi áo này tính cho ai, bà cười, cho cháu nội, thằng Hiền, thằng Vĩnh. Cái áo chỉ bằng gang tay. Trước bà, thời gian mềm nhũn, bời rời như cọng bún mắc mưa, vô nghĩa. Nó không ngăn cản được chuyện bà nội trở bàn tay sấp ngửa giữa thực tại và mười năm, hay hai mươi năm trước. Sau một giấc ngủ, bỗng bà nội hai mươi tuổi, không chừng. Tôi tiếc là mình chưa già, để bệnh lẫn có thể chiếm đoạt
mình, để tôi buông xuôi, đồng tình với nó. Để có thể trở về trước cái buổi trưa tháng mười ấy.
Khi đó, cha tôi vẫn còn cười, âu yếm và nhẹ nhỏm mỗi khi thằng Vĩnh nhảy chồm chồm, chờn vờn trước mặt tôi như một võ sĩ boxing trên sàn đấu. Khi đó, mỗi sớm cha gọi hai đứa trẻ thức dậy, chạy bộ ra công viên, và chúng tôi cùng nhau đá cầu. Nhưng rồi bà nội cất tiếng khóc sau một giấc ngủ dài, mà, lòng người là thứ dễ thương tổn, dòng sông cũng có thể cắt nát, sau đó thì ánh mắt, tiếng nói, nước mắt…
Thằng Vĩnh đổi tánh, nó bỗng ít nói, lầm lì, cục cằn. Nó không còn nhìn thẳng vào tôi. Cả lúc ngủ, Vĩnh cũng day lưng lại, điều đó làm tôi day dứt, nằm cạnh nó mà nhớ nó tơi bời.
Vĩnh về với nhà tôi khi má nó lấy chồng. Cha đặt nó cạnh tôi, nói, đây là em con. Nó nhoẻn cười, bôi nước mũi xanh dờn của nó vào miệng tôi, thay cho lời chào. Vĩnh đẹt ngắt, nhưng gạt tôi ra rìa trong cuộc chiến giành măng vú bà nội. Được ít lâu, Vĩnh cũng phải từ giã đôi vú thõng dài mát lạnh đó lủi thủi lên gác, măng cùi chỏ tôi, ngủ khò. Từ nhỏ, nó phá như quỷ sứ, quậy vô phương. Bó tay chân Vĩnh lại, cái đầu nó sẽ lúc lắc, nếu vịn cả cái đầu, con mắt vẫn dáo dác và nếu ta bịt mắt nó lại, ta vẫn cảm giác nó đang chạy nhảy lung linh. Hành động của Vĩnh luôn nằm ngoài những thứ mà cả nhà tưởng tượng được, bản năng, hoang dã và hồn nhiên. Như cởi cái quần ướt đẫm nước tiểu quăng vào nồi cháo vịt, lấy gậy để bật cầu dao điện, bắt mèo bú chuột, khoái đái vô… tủ lạnh cho mát… cu. Nó thích trèo cây, ngủ ngoẻo trên cây mà không rơi xuống.
Vậy mà cả nhà đều thương Vĩnh, thương đến mức nhiều khi tôi muốn khóc vì ghen tỵ. Với bà nội, với cha, Vĩnh là hiện thân của chú Út Hơn, cũng từng hoang dã, nghịch ngợm, cũng làm cả nhà hoảng hồn khi cầm cây củi đang cháy rượt người lớn chạy ngời ngời, lén múc nước làm gà đổ vào ấm trà của ông cố… Lớn lên, chú cũng làm mọi người chới với khi bỏ học, lấy vợ, rồi bỏ người vợ mới cưới vào bưng, “để coi làm sao họ sống thiếu thốn, khó khăn vậy mà lại bắn tưng bừng”. Vĩnh giống cha, khó đoán trước, đầy ngẫu hứng. Riêng má tôi không thương Vĩnh vì bóng hình nào đã cũ, mà việc dạy dỗ Vĩnh là sự thách thức thú vị so với người chồng mờ nhạt, ẩn mình như cái bóng và đứa con trai luôn uỷ mị, ngoan ngoãn, vẽ cái vòng tròn bắt ngồi đấy là te te vào ngồi, suốt ngày sạch sẽ, chẳng cần thay bộ đồ nào cũng tinh tươm, như con gái.
Chơi cùng nhau, thằng Vĩnh luôn là người bày đầu, và luôn luôn thắng cuộc. Tôi luôn bị đau và luôn mếu máo cười hơ hơ. Một khoảnh khắc nào đó, khi má tôi ôm siết Vĩnh vào lòng, tôi thấy ánh mắt nó lạc đi, chơ vơ, nó đã ý thức vòng tay ấy có thể chặt, có thể ấm áp nhưng không phải của
mình. Tôi thương Vĩnh suốt, thương những lần đám giỗ chú Út Hơn, thằng Vĩnh cầm nắm nhang ngoái ra sau, hỏi: “Bác Hai, nói làm sao?”. “Cái thằng, dạy không biết bao nhiêu lần rồi, nói vầy nè, bữa nay rằm tháng hai, nhà mình làm bữa cơm, con mời cha về ăn”. Thằng Vĩnh lóng ngóng nói tiếng trầy tiếng trật, và khi nó cắm nhang vào lư hương, tôi bỗng đọc trên gương mặt nó thất vọng não nề, nó gọi cha ơi nhưng tuyệt nhiên không có tiếng vọng nào dội lại. Cho đi và mất hút. Cho đi và biệt tăm.
Những dịp đó thì má thằng Vĩnh có về thăm, đôi lúc nhầm, Vĩnh gọi má nó bằng thím Út, như tôi. Nó chạy chơi suốt, và khi má nó đi, nó chỉ đứng chống nạnh trông theo. Nhìn từ phía sau lưng, tôi bỗng nghĩ, không có hai cánh tay chỏi vào hông, thằng Vĩnh sẽ gãy ngang, đổ gục xuống. Hỏi làm sao tôi không thương Vĩnh cho được. Hơn nữa, hành động đó làm cha tôi rất hài lòng. Cha và chú Hơn chỉ bên nhau ngót hai mươi ba năm, đầy hụt hẫng, tiếc nuối, và tình anh em đó chúng tôi tiếp nối. Chúng tôi tô màu mới lên bức tranh cũ, một đứa khờ khạo, chậm rãi lại yêu chiều đứa lanh lợi, ngang tàng. Đôi lúc, tôi lỡ tay đánh Vĩnh, nó khoái trá cười vì cuối cùng cũng khích được tôi, nhưng ánh mắt của cha buồn rượi.
Cha khá nghiêm khắc, và tôi phải giấu mình, theo ý cha. Tôi không được phép sai phạm lỗi lầm, dù là nhỏ nhất. Có cảm giác cha đang cố gắng dạy tôi điều gì đó, xa vời hơn việc không thuộc bài, hay tham gia đánh nhau cùng thằng Vĩnh. Nhưng ông muốn dạy tôi điều gì? Tôi buộc phải suy nghĩ nhiều, rất nhiều, nghĩ những chuyện mà ở tuổi tôi không nên nghĩ. Vĩnh ngán ngẩm, gọi tôi là ông ngoại và nó rất bực cái sự ông ngoại của tôi. Bởi nhiều khi đang chơi cùng nhau, tôi bỗng đờ ra, nghĩ, cha muốn dạy tôi điều gì, sao lại dẫn tôi đi họp tổ dân phố? Vừa ăn sáng ông vừa hối, như thể đã trễ rồi. Nhưng chúng tôi có mặt sớm nhất, ngồi sù sụ, nhẫn nại chờ mọi người đủ mặt. Cha có vẻ nghiêm túc, ông cầu thị lắng nghe suốt buổi họp, mặc kệ người ta chộn rộn nói tục, càu nhàu. Và cha về cuối cùng, sau khi xếp ghế, tắt hết đèn trong phòng họp. Cha tôi muốn nói gì với tôi khi mỗi Quốc khánh, lễ lạt, ông tự giác treo cờ, phường khóm phát động phong trào nào, nhà tôi luôn gương mẫu đi
đầu. Cả ông già chằng gây bên xóm sáng nào ra ban công súc miệng cũng phun nước qua mái hiên nhà bên này, nước dãi cứ chảy tuôn tuôn, cha cũng nín nhịn. Tôi tức mình, thất vọng, tôi không biết tránh va chạm là tránh xây xước, tránh khui miệng một vết thương. Cũng là một cách che chở tôi khỏi những thương tổn. Chỉ đến dịp trường xét học sinh ưu tú để nhận bằng khen cấp thành phố, tôi không được chọn chỉ vì lý lịch của cha có chút vết đen, hiểu ra chút ít, tôi thoải mái hơn. Có tám chục cái giấy khen thì cũng không đổi được sự nhẹ nhàng này. Nhưng cha vẫn rầu rầu…
Bởi cha biết đôi khi ta phải trả giá lớn dù chỉ mang một lỗi lầm nhỏ. Trong ông luôn có dự cảm chia lìa, nếu không vì buổi trưa lạt nhách lạt nhiểu kia thì một ngày nào đó, trong một va chạm nào đó của tôi với cuộc đời, cha cũng lịm chết vì tự trách mình. Vì người ta vẫn có thể bị trừng phạt dù không phạm lỗi lầm nào, ví dụ như tôi bị thằng Vĩnh day ngang, không đếm xỉa gì nữa vì một cuộc chiến tranh không mắc mớ tới tôi, tới nó. Có lần, tôi mơn trớn, ngoáy mãi cái đuôi rùa sau gáy Vĩnh, tôi muốn nó quay lại, dù là sừng sộ, nạt nộ (nhưng tôi sẽ được nhìn vào mắt nó), “thôi nghen ông ngoại, tui dộng vô mặt ông bây giờ đó”. Nhưng thằng Vĩnh không nói, nó hộc lên và đè nghiến lấy tôi. Tôi nghẹn thở, tôi thấy mình vùng vẫy một cách tuyệt vọng trong ánh nhìn tối, đen ngầu, vằn lên những tia máu li ti của Vĩnh. Tôi cố cười, méo xệch, “Ê Vĩnh, đừng chơi vậy chớ, tụi mình là anh em mà”.
“Anh em…”, Vĩnh nhại lại, cười khan, nó buông tôi ra, càu cạu bỏ ra ngoài, tôi vẫn còn nghẹn thở. Tôi lăn lộn, tôi đau nhói. Tôi xuống nhà, lặng lẽ ngồi nhìn bà nội ngủ say, không biết bà đã đau, đã day dứt đến mức nào khi hai đứa
con trai của bà lại đứng ở hai bờ chiến sự, đến nỗi trong cơn quên nhớ lẫn lộn, lại để tiếng khóc rơi ra. Để cha tôi, thằng Vĩnh loay hoay hoài một trưa tháng mười xưa.
- Thằng Út Hơn của má quơ tay nhảy cà tưng kêu em nè anh Hai, em nè, Út Hơn nè nhưng bây vẫn bắn. Má thấy rõ ràng…
Những buổi trưa tháng mười mờ, lợt lại quay về trên khu phố nhà tôi. Má không có cơ hội nào để nhìn hoa nắng nhạt rụng trên sân, ở khu chợ thưa người, nóng la mày mặt, má ứ hự xếp lại mấy cây thuốc gò dẻo nhẹo. Cha cũng chẳng ngó ngàng gì hoa nắng, lặng lẽ ngồi đánh máy một cái đơn tranh chấp đất đai của khách hàng, gương mặt quắt quay, bàn tay như những vụn xương khô, cứng quèo bởi ý nghĩ, có thật mình đã bắn đứa em ruột thịt của mình? Bà nội ngủ trưa, mặt nhiều khi cau lại, nhiều khi rên khẽ, dường như những cơn chiêm bao đang tàn phá sự sống của bà. Hai đứa trẻ trốn ngủ, ra sân, tôi trèo lên cây thả những khúc cành khô xuống đầu Vĩnh với hy vọng Vĩnh sẽ quăng trả, sẽ sập bẫy, cuốn vào trò chơi của tôi. Sẽ ném vào nhau rát những nụ cười.
Và tôi cứ chờ đợi mãi…
Chuồn Chuồn Đạp Nước
N
hỏ con tham gia một gameshow, cha là người trợ giúp. Câu hỏi như sau, người ta hay nói chuồn chuồn đạp nước, vậy câu ấy mô tả trạng thái nào của chuồn chuồn?
a. Đẻ trứng
b. Tìm kiếm bạn tình
c. Đói
d. Sắp chết
Ba mươi giây bắt đầu. Cha nói, b là trúng phóc. Nhỏ con hỏi vặn vẹo, chắc hôn nghen. Cha hơi tự ái, chắc chắn trăm phần trăm. Cha biết đoạn trò chuyện này sẽ được phát trên truyền hình toàn quốc, nếu không dằn mặt nó thêm vài câu nữa. Nhỏ con trên trường quay ngần ngừ, nó nhờ thêm một quyền trợ giúp, lần này họ lọc lại chỉ còn hai phương án, nhỏ con hú vía, b và d bị xóa trắng. Nhỏ con chọn a, nó lý luận với ông dẫn chương trình, chắc lúc đói chuồn chuồn không còn sức để đi đạp nước đâu. Nhờ kiểu suy luận cùn đó mà những câu hỏi sau nữa nó tự tin để vượt qua, cầm tấm sec mười lăm triệu mừng quýnh vẫy tay chào khán giả.
Đó là một ngày tháng chín gió giành ngọn dữ dội. Nam chưa đi mà chướng đã tới thổi cheo heo. Hai cha con rời trường quay, ở bãi đậu xe, nhỏ con nói, phải con nghe lời cha là tiêu tùng rồi. Cha ậm ừ chống chế, lúc đó quýnh quá mà. Trên đường về nhà gặp lúc triều cường, cha phải chạy vòng qua ngã khác để tránh con đường bị ngập nước, nhưng ở
vòng xuyến cha lại quẹo phải, nên lạc đi xa. Nhỏ con muốn mau về nhà để mừng tưng bừng với mẹ nên kêu lên, cha đi đường này chi cho xa vậy? Cha thắng nhủi đầu xe, dục dặc, lâu nay chạy lộn đường hoài, bộ không biết sao mà còn hỏi tới hỏi lui?
Nhỏ con chưng hửng không hiểu vì sao cha quạu bất tử. Nhưng nó đang ngây ngất với món tiền thưởng nên không để bụng buồn lâu. Cha nghe nhỏ con im re đằng sau, cũng cụt hứng, lặng lẽ chạy miết. Hồi lâu nghe nhỏ con lại khều khều bên hông, cha mới hay mình đã chạy qua khỏi nhà. Tẻn tò quay lại, nhìn hai mẹ con họ nhảy cà tưng dưới cánh cổng chấp chới những bông huỳnh anh, cha hoàn hồn, nếu chẳng may chiếc xe bị ngập bugi tắt máy giữa chừng, không biết mình có xô ngang bỏ lại bên đường sau khi đá vô chiếc xe mấy cái.
Bữa cơm tối đó cha ăn một cách gượng gạo. Gắp cho nhỏ con cái đùi gà hấp rau răm, mẹ nói mẹ phải đi mấy cái chợ mới mua được gà thả vườn, cha mới nhận ra trên mâm có thịt gà. Một cơn khó chịu nào đó đầy ứ trong cổ họng cha, vợ không gắp cái đùi gà còn lại cho mình, chuyện này chắc có liên quan tới vụ chuồn chuồn đạp nước mà nhỏ con kể lúc chiều. Khi đó mẹ đã cười ngặt nghẽo, vậy mà ba mầy toàn viết văn dạy đời thiên hạ. Cha chép miệng, con người là con… người, cũng có lúc lẫn lộn, em cũng mang dép lộn hoài đó.
Nhưng cha biết mang dép lộn không thể xếp chung với chuyện chuồn chuồn đạp nước. Cha nghi ngờ đáp án của chương trình, ngay trong khoảnh khắc ở trường quay và khi nằm trên ghế bố trong phòng, cha thấy hình ảnh con chuồn
chuồn đang vào độ tuổi yêu, khao khát bạn tình, cô đơn soi bóng mình trên sóng nước là quá chừng có lý. Cha vùng dậy, chui xuống gầm sàn lục tìm cuốn sách Thế giới loài vật mà tháng trước dọn dẹp cơ quan cha quẳng về nhà. Cuốn sách mất tăm. Chỉ có một đống rác, cha cằn nhằn, nhà có hai người phụ nữ mà dơ như vầy, thiệt hết chịu nỗi.
Cha mặc quần áo xách xe đi, mẹ cầm cây chổi nhìn theo cái lưng dài thượt của cha tự hỏi tại sao chỉ vài tấm giấy báo mà mặt mày cha nghiêm trọng vậy. Chạy mông mênh, cha vẫn không biết mình đang đi đâu. Rút điện thoại gọi cho ông bạn, rủ ra quán văn nghệ, câu đầu tiên khi bạn kéo ghế ngồi là:
- Chuồn chuồn đạp nước là nó đẻ hả mậy?
Ông bạn gật đầu cái rụp, không mảy may suy nghĩ như đó là chuyện đương nhiên mặt trời mọc ở đằng Đông.
- Ừ, bộ mầy chưa biết hả?
Cha muốn bỏ về. Ông bạn này làm thơ, dân làm thơ ngu ngơ trên trời với mây gió, vậy mà ông biết chuyện sinh đẻ của chuồn chuồn. Còn cha thì không. Cái ý nghĩ đó làm cha buồn nẫu nê, bia ngon bao đời nay bỗng dưng đắng đót. Ông bạn nghe kể lại chuyện ở trường quay, ông cố làm ra vẻ mặt nghiêm túc để nén cười, để nói một câu nghiêm túc:
- Thôi bỏ qua mầy ơi, đâu phải cái gì người ta cũng biết hết. - Ừ, nhưng không biết vụ này thì mất mặt quá, mậy. Ông bạn nhà thơ cười ha ha:
- Quan trọng là người ta trong mắt mình như thế nào. Tao thấy mầy cứ mệt mỏi vì chuyện mình như thế nào trong
mắt người ta.
Nhưng đây không phải là người ta, đây là vợ và con mình, cha nghĩ vậy nhưng không còn sức để cãi. Cha về nhà và ngủ một giấc với hy vọng, khi thức dậy cha quên cơn ác mộng mang tên con chuồn chuồn này, thức dậy với một bình minh khác.
Và đó thực sự là một bình minh khác. Lúc cha bước ra khỏi phòng với cái đầu nhức bưng thì con gái cũng dắt xe đạp tới trường, con gái mặc cái áo dây mới mua bằng tiền thưởng, cha ứa gan với cái khoảng vai trần nhỏ nhắn của đứa con gái mười chín tuổi. Cha định cằn nhằn thì những con chuồn chuồn bỗng chao liệng, khiến cha nghẹn ứ. Cha hình dung nhỏ con sẽ trả lời như vầy, áo kiểu này bây giờ là mốt đó, con thấy cha không biết gì hết, chuồn chuồn đạp nước còn không biết thì biết gì. Hoặc vả con nhỏ sẽ không nói, nhưng ánh mắt nó nói trong lúc quay lại thay áo khác. Cha sợ điều đó, cha đứng trong phòng tắm và ngậm bàn chải rất lâu, đờ đẫn đến nỗi nuốt hết mớ bọt kem đánh răng trong miệng. Mẹ nói vói vào, Duyên Anh tính mua dàn vi tính mới cho anh, chớ máy cũ chập chờn có ngày bản thảo mất hết. Cha ỉu xìu, thôi, xài máy đó quen rồi, máy lạ mất hứng viết. Mẹ gạn hỏi, giọng gì nghe như chết rồi vậy, anh có bị sao không?
Không, cha không bị sao hết, không có vết xước nào dù tối qua trong trạng thái mụ mị trở về nhà. Bữa nhậu thằng bạn trả tiền. Cha không mất gì nhưng thấy mất gì đó. Cha tới cơ quan và bỗng cảm thấy hụt chân như những bậc thang biến đâu rồi. Anh tài xế bước vượt lên, cười hỏi, bữa qua nhậu dữ lắm sao mà sáng nay thấy anh lờ đờ vậy? Cha lượng sượng
ờ ờ. Một tháng sau, khi cái gameshow có nhỏ con thi được phát sóng trên truyền hình, anh lái xe sẽ kín đáo cười với cô thủ quỹ ế chồng khi thoáng bóng cha qua cửa, thấy tướng vậy mà cũng dở òm. Hàng trăm triệu dân trên đất nước này sẽ biết người viết ra những trang văn đầy góc cạnh nóng bỏng, thấu đáo mọi sự được mất, triết lý xâu xa, là một người mất căn bản trầm trọng về… chuồn chuồn.
Buổi chiều lại, cha không vào cơ quan, cha chạy xe về quê. Cha ngồi trong khoảng vườn đượm nắng chiều, nơi cha vẫn thường về khi mệt mỏi hay căng thẳng, tuyệt vọng, nhìn chuồn chuồn đậu trên đám chà trong ao, cào cào búng trên những bụi cỏ ống, mấy con ong ve vãn bông đậu bắp. Bây giờ thì cha nhìn đăm đắm nấm mộ của bà nội, cha rầu rĩ, phải má không chết sớm thì chắc mình đã biết vụ chuồn chuồn đạp nước rồi. Thành ngữ được lưu truyền trên môi những bà già quê mà.
Cha ở với đám chuồn chuồn cào cào ong mật suốt cả cơn nắng tắt, nghĩ mông lung, tụi chuồn chuồn đã chơi với mình suốt một tuổi thơ sao không đẻ cho mình thấy, hay là mình đã từng thấy nhưng cuộc sống thành thị khiến mình quên đi, tại sao không quên chuyện gì khác mà quên chuyện chuồn chuồn đạp nước? Có quá nhiều chuyện nhân tình thế thái mà cha không quên, có nhiều thằng cha xỏ lá cà khịa đâm sau lưng cha, đáng lẽ nên quên đi cười trọn nụ, để đời nhẹ nhỏm mà cha không quên, thì sao lại quên vụ này? Cha thẩn thờ trở vô nhà đúng lúc chú Út cà xình cà xang từ đằng xóm về, chú say. Cha đã viết cả một tiểu thuyết dài về đứa em này, một điển hình của sự thoái hóa của nông thôn. Những sòng nhậu đông đúc buổi sớm mai, những người nông dân bị mất cảm giác về đất, những bạo hành trong
cơn say. Cuốn sách đó cha có đem về nhưng chú không đọc, mà nếu đọc thì chú cũng chẳng hiểu cha đang viết cái gì.
Cuộc đời cha là một sự cao quý xa vời đối với chú Út. Nên thấy mặt cha, chú lấm lét, cố vịn vách để đứng cho vững, để chứng tỏ mình chỉ uống chút xíu thôi. Bình thường, cha luôn ở trước mặt em mình với tư thế đĩnh đạc, miệng thì gầm gừ, mầy hư kiểu này ba má dưới chín suối làm sao yên được. Bình thường thì thím đứng tựa bếp nhìn cái cảnh anh em rầy rà, thím thấy thỏa thuê, sung sướng. Thím hay bồng con ra chợ xã gọi điện thoại méc cha vụ này vụ nọ, thím nói bây giờ thì chú chỉ nghe mỗi mình cha thôi.
Nhưng cha hoàn toàn câm lặng, chiều nay. Cha nín thinh ngó chú đang trùng trình bên vách, rồi lủi thủi dẫn xe qua cây cầu tre cọt kẹt. Thím nguýt chồng, “đọ, sáng mắt chưa, nhậu nhẹt tới mức anh Hai giận bỏ về rồi kìa”. Cha ngoái lại, tự hỏi, sau khi biết vụ chuồn chuồn đạp nước, không biết cô em dâu của mình có còn gọi điện nữa không?
Cha đã đi qua ba bảy hai mốt bình minh, luôn thức dậy với nỗi tuyệt vọng mình còn nhớ. Ông bạn nhà thơ thấy cha gầy sọp, la lên, “trời đất, không chừng vợ con mầy đã đi khỏi cái trường quay đó rồi, sao mầy còn ở lại hoài chi cho khổ vậy?”
Cha nói, công việc khiến tôi là cái thứ dễ bị thương tổn. Cha cũng muốn đi khỏi cái giây phút nghiệt ngã đó. Cha muốn quên nó đi, chuyện nhỏ như con thỏ mà. Cha nói thầm, ừ, quên thì quên, mình có phải thần thánh đâu mà chuyện gì cũng biết. Sai lầm chỉ một chút từ a tới b thôi. Cha về nhà, huýt sáo bài hát yêu thích để cho mình phấn chấn trở lại,
ngồi viết một truyện ngắn mang tên “Quan trường”, “để trả lời câu hỏi của con, đấy có phải vũng bùn không mà ai cũng lấm lem khi bước vào”. Cha đọc lại câu dẫn nhập và nghĩ, mình thôi không viết về nông thôn nữa. Thấp thoáng những cánh chuồn chao trên mặt ao bèo. Sợ phải nhớ chuyện mình đã cố quên, cha bỏ ngang, lấy cái phim chân dung Đài tỉnh làm về mình ra coi lại. Nhưng tới cái cảnh cha đang đọc bản thảo còn mẹ với nhỏ con thì ngồi gần đó, lắng nghe mê say, ánh mắt của hai người họ đắm chìm trong ngưỡng mộ, cha bỗng hoang mang. Bầy chuồn chuồn chấp chới trong lòng.
Cha nhớ có lần mình đốt con cúi lấy tổ ong vò vẽ trên cây khế, nhỏ con đã nhìn cha như một anh hùng.
Cha nhớ có lần dầm mưa sửa lại cái máng xối, mẹ đã nịnh nọt, “nhà văn mà làm được mấy chuyện này không phải dễ kiếm à nghen”.
Cha nhớ hàng trăm chuyện vụn vặt như vậy. Nhưng bây giờ, cha có hái mặt trăng xuống thì cũng không chắc hai người phụ nữ đó có nhìn mình được như xưa, sau sự cố chuồn chuồn.
Cha bắt đầu vùi đầu vào sách. Cha đọc nhiều tới mức lên mâm cơm là nói vanh vách những hiện tượng thiên nhiên, lịch sử những kỳ quan thế giới, kết cấu của tầng địa chất, sự diệt vong của khủng long ăn thịt và voi mammoth, nguy cơ của loài chim cánh cụt khi Bắc Cực tan băng. Đặc biệt là chuồn chuồn và những gì có liên quan tới chuồn chuồn, thí dụ như “chuồn chuồn bay thấp thì mưa. Bay cao thì nắng bay vừa thì râm” (đám bạn của cha lúc nhậu sương sương ba mớ thì nhại vầy “chuồn chuồn bay thấp thì cao. Bay cao thi thấp bay vừa thì thôi”). Cái đó thông dụng không tính,
nhưng một bữa nhỏ con không có nhà, mẹ về hỏi Duyên Anh đâu, cha nhấm nhẳn, “lúc này chắc có người yêu hay sao, như tổ con chuồn chuồn”. Mẹ chưng hửng:
- Là sao? Hổng hiểu?
Cha cười mủm mỉm, ủa, hỏng biết thiệt hả, nghĩa là bí ẩn đó, có đời nào người ta biết hay người ta thấy cái tổ con chuồn chuồn làm sao đâu. Mẹ hứ một tiếng, trong mắt không hiện ra nể trọng gì, chỉ ánh lên mấy chữ, ông chồng ngớ ngẩn, ăn nói không giống ai.
Cha thấy tuyệt vọng với mớ kiến thức của mình. Buồn quá, lại gọi ông bạn nhà thơ ra quán quen. Đang nghe bạn đọc bài thơ mới làm, cha bỗng sực nhớ, giờ này, trên kênh Khám phá đang có chương trình sự sinh sản của gấu trúc. Mình không thể bỏ lỡ, biết đâu nhỏ con lại cần mình trong một câu hỏi cắc cớ của chương trình cắc cớ nào đó, và trong lúc con bối rối, mình sẽ giúp nó đem về mười lăm, hai chục triệu gọn hơ.
Cha bỏ bài thơ giữa chừng. Về nhà đúng lúc ti vi chiếu lại giây phút huy hoàng của nhỏ con khi nhận tấm sec. Cha tháo một chiếc giày rồi khập khựng nửa muốn vào nửa không. Nhỏ con càu nhàu, nói không thèm lên truyền hình nữa, nó không ăn ảnh lắm, mặt lại nhiều mụn, dòm không đẹp như ngoài đời.
Cha ra ngồi dưới giàn huỳnh anh, run rẩy châm thuốc hút, tàn đóm rụng xuống chiếc giày còn lại.Trời tối mịt, mà chuồn chuồn vẫn bay rợp lòng. Hay vì chuồn chuồn nhiều quá nên khiến trời tối mịt? Cha cũng không biết nữa.
Tình Thầm
Q
uán nhỏ. Trang trí cũng không đặc biệt, chỉ mấy chiếc đèn lồng đỏ đã méo mó, ám bụi treo giăng giăng trên cái trần ố vàng. Tấm nhựa phủ trên bàn nước hoa văn âm u như loại mà người ta thường trải trên bàn thờ. Một mảng tường dày đặc những mẫu quảng cáo
nước giải khát, vất vả lắm, cô người mẫu mặc áo tắm nằm xoãi trên bãi biển mới chen được một chỗ trống khoe cái rốn có xỏ khoen. Chân tường loang vết cà phê.
Cũ kỹ. Nhàu nhĩ. Mụ mị. Hai cô chủ quán chắc bị ngâm lâu trong cái ủ ê nên cũng ơ hờ khi khách bước vào. Hoặc họ chỉ thờ ơ với anh thôi. Cứ mỗi lần đưa anh đến cái quán tuềnh toàng này, nhìn ánh mắt tai tái của hai đứa con gái, cô lái xe thấy sướng lắm. Anh rất đáng được chào đón như vậy.
Mà, có vẻ anh cũng thích cái kiểu đối xử lạnh lẻo đó. Những lần đến, ngồi uống ly cà phê sánh đặc nhưng lạt nhách vì pha nhiều bột bắp, đến nỗi cây muỗng rớt vào tưởng như không chìm được xuống đáy, nhưng anh lại hưng phấn lạ thường. Cả trong niềm tuyệt vọng khi Tóc Tém, cô gái đẹp nhất, thà ngồi tỉa chân mày, thắt bím cho bạn chứ chẳng thèm ngó ngàng đến anh, đến chiếc Lexus đắt tiền bóng lộn đậu trước quán.
Ánh nhìn dửng dưng cho thấy, đấy chỉ như xe đạp trị giá ba trăm ngàn. Và sự lịch lãm, sang trọng, hào hoa của anh thì cũng ngang bằng đám thanh niên bên xưởng tiện nhếch nhác dầu nhớt ngồi ở góc quán mỗi trưa. Ngày đầu tiên
bước vào cái quán này anh giống như một người tầm thường, tay trắng. Tệ hơn, trong ánh mắt của Tóc Tém, dường như không mấy cảm tình. Mỗi lần thấy nàng bực dọc đá ghế khi anh bước vào, cô lái xe biết mình sẽ còn đưa anh quay trở lại Dốc Mây nhiều lần nữa, cuộc theo đuổi, chinh phục sẽ rất dài.
Cô thay cha làm công việc lái xe cho anh là một sự kiện lớn đối với đám em nhỏ, chúng tin rằng sẽ có xảy ra chuyện tình giữa Lọ Lem và hoàng tử, căn cứ vào những bộ phim Hàn Quốc, phim Đài Loan mà ngày nào tụi nó cũng coi. Sẽ có cổ tích, chị hai dữ dằn, mạnh mẽ, giỏi giang của chúng sẽ lấy được tấm chồng giàu, chúng tin vậy. Cô chỉ cười khào khi bắt gặp ánh nhìn lem nhem nước của người cha vừa ngã bệnh, rồi lớn tiếng rầy, mấy đứa, đừng nói bậy.
Câu đó còn có nghĩa, con không có hy vọng gì, vốn chẳng nên hy vọng gì, ba à. Gương mặt méo mó của ông già giãn ra, nhẹ nhỏm. Cô biết rõ người đàn ông mà từ mai mình sẽ phục vụ đưa đón dù ba cô chẳng mở miệng kể gì, “kín miệng, như người cha nói với con gái khi tôi xin việc ở hãng taxi, là đòi hỏi đầu tiên của người lái xe”. Nhưng ông già không thể giấu giếm việc trở về nhà vào những khuya xa, cơ thể mỏi nhừ vì ngủ trên xe, và cả người vẫn còn vương vất mùi nước hoa đắt tiền.
Lúc ấy, cô không tưởng tượng ra được đó là hình ảnh của mình, sau này. Cũng đậu xe dưới khuôn viên khách sạn nào đó thiếp đi vì chờ đợi mỏi mòn, cũng chứng kiến ông chủ thay áo cho bạn gái và thay bạn gái như… áo, cũng phải dìu anh ta lên thềm nhà ướt đẫm sương, cũng bị anh ôm chầm lấy và gọi một cái tên xa lạ, sau đó gục đầu lên vai mình.
Về nhà, đứa em kế khẽ dịch một khoảng giường cho chị, thì thầm, chị Hai thơm quá. Cô hơi quạu, mùi hương này khiến cô trằn trọc rất lâu.
Nhưng sáng sau, dù hai mi mắt giữ rịt lấy nhau, cô cũng đến đón anh đúng giờ, như một cây kim đồng hồ khô dầu rọt rẹt vẫn mẫn cán chạy đều. Cô sẽ đưa anh dạo một vòng cà phê, công ty, quán trưa, từ xế chiều trở đi là sân tennis và những cuộc hẹn hò tình tự trên rừng, dưới biển. Thời gian ba cô lái xe cho anh lâu tới mức, đôi khi anh gọi cô, “dừng đây đi, bác Năm” rồi tự phì cười. Cô không cười, cô có quá nhiều lý do để không cười, mưu sinh vất vả để nuôi mấy đứa em và người cha bệnh tật, bản tính lầm lũi, và việc mình ở ngay trước mắt người khác mà lại bị quên lãng làm cô thấy khó chịu.
Nhưng khó chịu hơn là khi anh quan tâm cô, trong cơn cao hứng bâng quơ nào đó. Nên trong lúc chọn giày cho bạn gái, anh cũng tặng cô một đôi, tất nhiên, chẳng vừa chân lắm. Hay có lần anh đặt vào tay cô bộ váy áo, mà cô không biết phải làm gì với chúng. Lam lũ, bụi bặm, phóng khoáng cô đã quen. Cô thấy vui vẻ trong sự quên lãng mình là phụ nữ, nhưng bằng cách nào đó anh nhắc. Bực mình lắm.
Cô rã rời về nhà than, sao muốn nghỉ việc quá đi. Đứa em ranh mãnh nhận xét, “chị Hai yêu rồi”. Cô dựng lên, nạt nộ, “nói bậy riết rồi quen…”. Làm sao yêu được cái người mà ngày ngày cô chứng kiến anh ta loay hoay vào những cuộc hẹn hò với ai, ai và ai. Trên chiếc ô tô sang trọng, mỗi lúc cô nghe ông chủ ngọt ngào với cô gái khác, “Anh thấy trống rỗng và cô đơn. Không hiểu sao khi gặp em, anh chỉ muốn nói với em thôi”, cô ghét đến nỗi chỉ muốn vọt miệng, “xạo
đó, ổng nói câu này với mấy chục người rồi”. Nhưng cô không thể thốt ra lời, chỉ biết nhìn những người phụ nữ xiêu đổ dần dần vào vòng tay anh.
Có quá nhiều bí mật phải cất giữ làm cô căng ra, mỏi nhừ. Lòng cứ ứ đầy, ấm ức. Nhiều nàng tình nhân hay dúi vào tay cô ít tiền, chỉ mong tìm kiếm chút thông tin, anh là người như thế nào, anh thích gì, anh đã từng yêu ai… Nếu cô nhận, món tiền gọi là “bán thông tin” gần bằng khoản lương hàng tháng. Cô thì chỉ cần kể một câu chuyện, có lần dừng xe trước đèn đỏ chỗ ngã tư, rẽ trái một tí là tới công ty, nơi nhân viên các phòng ban đang chờ anh tới. Bỗng dưng anh thấy một nàng chạy xe máy đậu bên cạnh. Tóc nàng uốn hơi xoăn, thả dài xuống cái lưng áo đỏ rực. Đèn xanh bật, nàng chạy thẳng, anh biểu cô lái xe đuổi theo, nàng vào quán cafê, anh kéo ghế lại gần, “xin lỗi, tôi thấy em rất giống một người quen cũ…”. Chuyện tình xảy ra. Và câu chuyện trả lời cho mọi câu hỏi.
Nhưng cô chỉ cười nhẹ, đẩy món tiền trở lại cho chủ. Cô chẳng thích nàng nào, vì họ ngã vào anh mau quá, ngay khi anh vừa bước ra khỏi xe, ngay khi anh vuốt mái tóc, mỉm cười, trao tấm danh thiếp… Cuộc chinh phục dài nhất của anh cũng chỉ bảy tháng, với một cô giáo dạy tiếng Anh cao ngạo. Lần đó anh suýt làm cô lạc tay lái khi hỏi bỗng dưng, “San có thích đám cưới không?”, cô lặng đi một thoáng rồi thập thò hỏi, “là… sao!?”. Anh cười xòa, nói không có gì, rồi điện thoại hẹn hò cô giáo. Cô lái xe thở hắt ra, “hú hồn, không phải mình…”. Một ý nghĩ ướt và lạnh ào tới, làm chênh chao con đường trước mặt, dường như anh đang yêu nghiêm túc, dường như đây là một cuộc tình dài, sâu.
Chiều lại, cô đưa anh tới chỗ hẹn. Hơi trịnh trọng và căng thẳng, anh hỏi, “tôi mặc cái áo này trông ổn không?”, cô cố nhếch cười, gật đầu. Anh vào rồi, cô vòng xe vào bãi đậu, tự kêu mình, “thôi, ngủ”. Nhưng cái đèn gỗ chỗ anh ngồi cứ hắt xuống mặt làm cô không chợp mắt được. Ngó tới ngó lui một hồi cũng hướng lên gác, thấy anh đặt cái hộp có chiếc nhẫn lên bàn. Cô giáo ngó chừng rất ngạc nhiên và cảm động, ngay lập tức đồng ý. Cô lái xe ở dưới này buột miệng khẽ kêu “Đừng!” nhưng quá trễ. Cuộc hẹn kết thúc sớm, anh nhắm mắt xoãi người ở băng ghế sau, bất động như đang trôi đi, chìm trong sự thất vọng. Cô giáo đáng lẽ phải từ chối vài ba lượt, để anh tin rằng nàng yêu anh thật lòng, không phải vì sự lấp lánh của viên kim cương. Đáng lẽ nàng cầm chiếc nhẫn buông chủm xuống hồ cá bên dưới, thản nhiên phủi tay, hay cho phứ cô bồi bàn gần đó.
Đó là lần đầu tiên cô lái xe thấy đời ông chủ mình thật buồn. Bóc những lớp vỏ còn trơ lại nỗi cô đơn, chẳng ai có thể chạm tới. Cô lặng lẽ cho xe chạy mãi trên những con đường ngoại ô, dưới ánh đèn thiếu ngủ đỏ ngầu. Anh bật dậy khi cô đánh xe vòng vào thành phố, chỉ cái quán bên đường, anh bảo, “ghé đây uống chút gì đi”. Và đó là Dốc Mây.
Quán khuya chỉ còn loe hoe vài người khách. Gọi cafe đá nhưng Tóc Tém bảo hết nước đá rồi. Hỏi trà Lipton nóng, Tóc Mây dặn chờ một chút, lụi hụi đi nấu nước. Hai nàng đều hay hay, họ toát lên vẻ buồn bã, kìm nén nào đó không giải thích được. Anh bỗng tươi tỉnh, rạng rỡ, cô lái xe bắc cái ghế ngồi đằng trước, giả bộ ngó bâng quơ mấy con thằn lằn chạy rột rẹt trên trần, cười thầm, “Thấy gái như là chết đi
sống lại…”, rồi giật mình, ủa, người ta vui mắc mớ gì mà mình cũng vui.
Cái cảm giác đó làm cô lái xe thấy hoang mang. Cô cố gắng hào hứng khi đưa anh tới Dốc Mây mỗi tuần vài ba lượt, đôi khi thấy anh ghé bên đường mua quà cho Tóc Tém, cô huýt sáo vống lên che giấu một nỗi buồn ngấu trong gan ruột. Cô dặn mình phải cảm tình cái quán đó, hai đứa con gái đó. Cô không muốn đứa em lém lỉnh nói cô ghen. Mắc gì mà ghen, cô thích họ, nhất là nàng Tóc Tém, bao lâu rồi mà vẫn giữ được vẻ ngạo nghễ, khinh khỉnh trước anh.
Mùa mưa đi, rồi mùa trở lại, cái mái che trước Dốc Mây được lợp lại, quán sửa sang đôi chút, nhưng chẳng có dấu hiệu gì là Tóc Tém ngã lòng. Anh chuyển qua đeo đuổi Tóc Mây. Người này có khuôn mặt với những đường nét nhợt nhạt, xanh xao, bộ vó yếu đuối não nùng. Anh bảo nàng kéo ghế ngồi với mình, nàng lướt thướt lại, lặng lẽ nhìn mưa, chép miệng nói một câu lạt lẽo đến nỗi nêm thêm ký đường, hai ký muối:
- Nước ở đâu mà ông trời cứ mưa hoài.
Tóc Tém hơi bồn chồn, cứ rảo quanh, đau đáu nhìn, hình như nàng đã bắt đầu thích anh. Cô lái xe nhìn cảnh đó qua cửa kính, cảm giác như đang xem lại một vở kịch câm, nhân vật diễn những động tác quen thuộc, chậm chạp, lười nhác. Nam chính âu ếm nhìn người nào, ngay lập tức người ấy thành nữ chính. Và nữ phụ thì lượn lờ tìm cớ ngang qua, thấy khăn vớ khăn lại lau bàn, thấy chổi vớ chổi quét qua quýt, chỉ để nam nữ chính không thấy thoải mái bên nhau. Khán giả không hiểu sao thắt ruột.
Một bữa vở kịch có thêm nhân vật phụ, bà già. Tình cờ anh cũng ở đó, Tóc Tém làm ra vẻ hững hờ, giới thiệu, “đây là mẹ em”. Câu nói chẳng hề có biểu cảm gì mà khiến anh với bà già mừng rơn. Bà già cứ nắm lấy tay anh, hỏi han ân cần, làm nghề gì, nhà ở đâu, ông bà song thân còn hay mất. Bà hấp háy đôi mắt đục, hướng về con gái, cằn nhằn, “từng tuổi này con nhỏ còn kén chọn, thiệt rầu hết sức…”. Anh cười, nháy mắt với cô lái xe đang ngồi riêng một góc. Nhưng cô đang mãi miết nhìn trăng trôi, không quay lại.
Và đó là ngày cuối cùng cô đi cùng anh. Hôm sau, đứa em gái cô chuyển đến công ty lá đơn xin nghỉ việc. Anh chưng hửng, cứ hỏi tại sao. Nhỏ em lí lắc cười, “anh gọi điện thoại mà hỏi chị em”. Cô bắt máy với cái giọng lạnh tanh, “tôi không thích công việc này nữa”.
- Nhưng tôi có thể sắp xếp cho San việc khác, thí dụ như làm ở văn phòng.
- Tôi thấy không tiện.
- Nhưng từ chiều nay tôi phải đi đứng làm sao, khi mà San không đến?
- Trong công ty nhiều người biết lái xe, anh nhờ họ. - San à, tôi…
Nhưng cô tắt điện thoại rồi, cô sợ chỉ một câu nói của anh nữa thôi, cô sẽ chạy tới, vò lá đơn quẳng vào sọt rác. Rồi lại cùng anh đi trên những con đường lúc nhúc, nghẻn cứng người mà cô thì hầu như không cầm nổi tay lái vì một bí mật vừa rơi vào làm tràn ly nước, vì buồn.
Hôm qua, trong lúc có mặt bà già, Tóc Tém đã để anh cầm tay rất lâu. Tóc Mây hết đứng lại ngồi, một hồi kéo bạn ra phía sau nhà, họ âm thầm cãi nhau, và trong khoảnh khắc giận dỗi ngoay ngoắt, Tóc Tém ôm ghì bạn lại, cả hai lả đi với nụ hôn sâu.
Cô lái xe đứng lặng ngoài rào, như bị trăng đông thành pho tượng. Cô không biết làm gì với niềm tin vào tình yêu đang phụt phù nhóm lửa trong anh.
Sầu Trên Đỉnh Puvan
N
ăm 1887, Colègan, một tu sĩ người Pháp, đã đặt những bước chân đầu tiên thám hiểm đỉnh Puvan. Và lần đầu tiên trong đời, người đầu tiên trong lịch sử vùng đất, ông đã nhìn thấy cây sầu nở hoa. Trong những đoạn ghi chép rời rạc, run rẩy, ông viết: “Những đóa hoa sầu
đẹp đến nỗi đáng đánh đổi cả cuộc đời người để được trông thấy chúng dù chỉ một lần”.
Và ông ta đã chết ngay sau đó, chết lặng lẽ trên dãy núi Puvan bí ẩn. Những mẩu xương vụn bị thú rừng tha về hang làm đồ chơi cho bầy thú con, chỉ ít dòng ghi lại gói trong chiếc thùng sắt mãi về sau này lưu lạc trong nhân gian. Nhiều người đã đọc, họ tò mò lên núi mà không biết rằng sầu chỉ trổ bông dưới cơn mưa đầu tiên sau mười ba tháng hạn liên tiếp, không một giọt nước trời nào rớt lên đỉnh núi xa xăm. Vài người biết được điều đó, họ đã thấy bông sầu nở nhưng họ không sống sót để trở về.
Đó là tất cả thông tin mà Vĩnh có khi bắt đầu cuộc hành trình lên đỉnh Puvan. Củi, thằng bé chăn dê dưới chân núi mà Vĩnh thuê dẫn đường, thì hằn học: “Đồ quỉ – cây đó xài không được, dê còn chê, hổng biết mọc làm chi mà vô duyên vô dùng, tui đái vô mấy gốc cây đó hoài cho đỡ tức. Má tui nói cây sầu sống bằng xương dê, xương trâu bò, năm nào bầy dê nhà tui chết nhiều sầu mới trổ bông…”. Coi như thằng Củi biết nhiều. Còn Dịu thì chẳng có tí thông tin gì, chỉ biết Vĩnh tới đó thì cô cũng tới đó, nếu có cáp treo thì tốt, không có cũng chẳng sao, Vĩnh leo núi cô sẽ leo núi
cùng anh. Chỉ mong sau chuyến đi này cô được khoản tiền kha khá gửi về quê.
Nơi đó có đứa con nhỏ của cô đang sống với má. Mười tám tuổi cô lấy chồng, chín tháng sau ly dị, bữa ra tòa hai đứa còn nắm tay cười ngỏn ngoẻn suốt dọc đường, bà con nhằn: chưa thấy cặp nào bỏ nhau vui vẻ như tụi bây. Họ không biết hai đứa đã ngoéo tay hứa với nhau rồi, đây là ly dị giả đò thôi, chỉ để làm thủ tục cho Dịu đi lao động ở Đài Loan, thương nhau rồi có ly dị một chục lần cũng sẽ nối lại tình xưa, dễ ẹt. Lúc Dịu về sẽ cưới thêm lần nữa, không chừng còn rình rang hơn lần đầu.
Lúc Dịu về, cô lặng lẽ cất cái chòi nhỏ ở góc vườn nhà má ruột, bẻ xoài sống nhai rau ráu mà nước mắt ràn rụa, cô có con với một ông chủ Đài Loan vô lại và bà chủ còn vô lại hơn khi đẩy cô tay trắng ra đường. Chồng cô xách mác vót qua nhà, chém vào gốc cột: “Sao kỳ vậy, em hứa với tui là mình chỉ giả đò ly dị thôi mà, sao kỳ vậy, kỳ quá?”. Dịu nuốt nước mắt, nắn cái mặt câng lên, trâng tráo: “Hồi đó khác, bây giờ khác”.
Và cái khác biệt gây đau đớn nhất là cái bụng binh rỉnh sau làn áo. Ọc ạch đi làm cỏ rẫy kiếm ít tiền sinh con, Dịu hay bắt gặp chồng (đã cũ) của mình mon men bên kia sông, ngó theo. Tóc anh ta dài ra, người ốm o còm cõi, chắc là nhiều đêm không ngủ được. Một bữa mở cửa ra thấy anh ta say rượu nằm trước nhà. Cũng bữa đó Dịu sinh, cô cắn môi bước qua giấc ngủ của chồng, một mình đến trạm y tế. Tối sau, anh ta lọ mọ tới thăm, lúc đầu chỉ đứng đằng xa ngó day diết, một hồi mới lại gần, nói như hụt hơi: “Chắc là thằng nhỏ này biết kêu ba bằng tiếng Việt – ngó thấy Dịu
sắp phản ứng, anh ta nói luôn – tui thương nó như con tui, thiệt mà…”.
Vì câu nói đó Dịu gửi con lại cho má, bỏ lên Sài Gòn kiếm sống. Sự bao dung đôi khi gây đau như mũi dao. Và Dịu trở thành gái bao, tự xem đó là một nghề sống được, cô cười cợt câu cửa miệng mà tụi bạn nghề hay thở than: “dòng đời đưa đẩy”. Vĩnh gặp Dịu vào một hôm nào đó mà cả hai đều không nhớ rõ, chỉ biết cái cách cô nhai nước đá lóc cóc giữa bữa tiệc sang trọng làm Vĩnh buồn cười. Và Vĩnh để cô lại bên mình rất lâu, chỉ vì cô luôn nấn ná chờ hết chương trình chiếu phim mới chịu trút áo xống trước mặt anh, đôi nam nữ trong bộ phim Hàn đã đến được với nhau, cô vui, nhưng khi họ gặp trắc trở, nước mắt cô tràm trụa, cô còn buột miệng chửi thề mỗi khi vai ác bắt đầu bày ra âm mưu thâm độc nào đó: “Má nó, ngon ha, ngon thì chui ra đây, tao bẻ lọi cổ…”. Vĩnh để cô ở lại lâu vì lúc gần sáng cô nhớ con, nhớ chồng thường dịch ra mép giường chênh vênh và khóc.
Vĩnh thì chẳng có nỗi nhớ nào sâu sắc đến nỗi phải thức giấc vào giờ đó. Một thằng bé gào khóc ngơ ngác trước căn nhà sập bẹp, cháy rùng rùng sau trận bom, đó là hình ảnh đáng nhớ nhất, đau buồn nhất cũng bị đè lấp bởi những ký ức mờ nhạt, trống rỗng, mù mù những khuôn mặt người, những cuộc chơi cũng na ná giống nhau cũng rượu và những cô gái đẹp. Ngoái nhìn quá khứ nghĩa là tương lai, hiện tại không có gì để làm, anh thì quá bận rộn, anh phải kiếm tiền và dùng tiền đó đi đến những nơi đẹp nhất, sở hữu những thứ đẹp nhất. Nếu giật mình nghe tiếng khóc của cô gái gọi vào những khuya xa, anh chỉ nằm im, nghĩ: sắp sáng rồi, bữa nay làm gì, đi đâu ta?
Và khát vọng được xem sầu nở trên đỉnh Puvan luôn luôn chập chờn trong tâm tưởng. Vĩnh chờ cơ hội đó đã mười lăm năm, và trong mười lăm năm đó anh đã đi gần như khắp các châu lục, khám phá những ngọn núi, dòng sông, những vùng đất được xem là đẹp nhất. Sau chuyến đi Hồng Kông xem triển lãm viên kim cương lớn nhất thế giới, Vĩnh về nhà và mơ thấy những cây sầu trên đỉnh Puvan bị mây ngậm vào miệng, ướt đẫm. Vùng đất rộng lớn bao gồm cả núi Puvan đã không mưa suốt mười ba tháng ròng; và cô phát thanh viên điệu đàng trong chương trình dự báo thời tiết nói rằng sẽ có mưa, trong vòng một tuần nữa. Vĩnh vùng dậy, bắt đầu cuộc hành trình, gọi Dịu đi theo. Dịu chẳng hỏi han gì suốt một chặng đường đi, cô không quan tâm anh đi đâu, làm gì. Cô chỉ cần tiền và anh thì cần cô trong đoạn đường này, vậy thôi.
Nhưng đến chân dãy núi Puvan hoang vu, phế tích thì Vĩnh nghĩ cần thêm một người dẫn đường. Thằng Củi lù lù hiện ra, một linh hồn mười lăm tuổi trong cơ thể đứa bé lên chín, ở trần, gầy nhom, lem luốc, hai xương vai bén ngót, nhô lên cao, môi nẻ ra, bong những cái vảy nhỏ. Dịu hỏi:
- Ê, nhỏ, làm gì ở đây?
Nó cười, toàn khuôn mặt chỉ long lanh một hàm răng trắng nhởn:
- Tui chăn dê.
- Dê đâu?
Nó lon ton chạy vào hốc núi và lôi ra con dê mỏng dính, một bộ xương xơ xác. Nó chỉ tay mông lung:
- Hồi trước tui chăn cả bầy mười mấy con. Hạn quá nên tụi nó chết hết rồi. Bây giờ chỉ còn con Danh này thôi.
Thử nghĩ có tay máy nào đó chụp ảnh thằng bé còm này với chú thích “chăn dê”, người xem hỏi dê đâu, anh ta nói dê chết hết rồi, hạn hán quá lâu, cỏ cây cháy lá hết, nguồn nước cũng kiệt nên chỉ còn một con dê, nhưng con dê đó cũng chui vào hốc đá trốn nắng, nó kiệt sức lắm rồi. Cũng như chụp ảnh cái hồ nước trống không với chú thích “hai con vịt”, hỏi vịt đâu anh ta bảo vịt vừa bơi ra khỏi hồ. Vĩnh bỗng buồn cười. Thằng bé chăn dê tinh tế nhận ra ngay cái nhìn thiếu niềm tin của Vĩnh, nó lôi ngay trong cái bị bàng rách rưới một cái đầu lâu dê với những hốc xương trống rỗng, hai sừng nhọn vút ra phía sau: “Tui nói thiệt. Đây là con Chương nè, tụi tui thân lắm, nó toàn nằm ngủ chung với tui. Năm ngoái nó dám đánh nhau với chó rừng để cứu tui, nhưng giờ nó chết rồi, tui nhớ nó muốn khùng”. Thằng bé mếu máo nhưng hai mắt ráo hoảnh, dường như nước mắt cũng bị cái nắng dai dẳng rút cạn, bay hơi đi.
Và thằng người khô quắt bắt đầu thể hiện uy quyền của người bản địa, nó ngó bọn Vĩnh, mắt trợn tròng trợn trạc, nuốt nước miếng, hắng giọng:
- Mấy người đi đâu đây?
Vĩnh ngó lên đỉnh núi Puvan đã mù mù mây. Thằng bé cười ngạo nghễ: “Coi tướng ông không biết đường lên đó đâu”. Vĩnh cười: “Tôi không cần biết, vì cậu sẽ dẫn đường cho tôi. Ba chục ngàn, đủ chớ?”.
Thằng bé lẩm nhẩm, ba chục ngàn hả, ba chục ngàn thì mua được ba chục gói mì tôm. Những gói mì mới tinh từ tay
ông Tàu chủ quán cứ lào xào trong tâm trí của thằng bé khiến đôi mắt khô vàng sáng lên. Không có cuộc trả giá nào, rẻ mạt, Dịu nghĩ thầm, chua xót. Không hiểu sao cô nghĩ tới con mình.
Cô nhìn khuôn mặt đẹp như tạc từ đá của người tình, cô không thấy lạ chút nào nếu anh lạnh lùng, tàn nhẫn thêm chút nữa. Như đã từng bắt cô phải đếm lại tiền công trước mặt anh. Như đã từng lạnh lùng bỏ đi trước dù cô say mèm vấp té ngay thềm khách sạn. Như thường bỏ mặc lúc cô ngấm rượu, da thịt phơi trần, không đắp giùm một tấm khăn, tấm áo. Cô chỉ ngạc nhiên trước vẻ bồn chồn, háo hức của anh với Puvan, trước sự da diết của anh với Puvan, trong lúc chờ thằng bé “đem con Danh về cất đàng hoàng mới được, lúc này ăn trộm dữ lắm, với lại tui phải cho má tui hay, mắc công má tui lo”.
Thằng bé tên Củi, chứng tỏ bà mẹ cũng tự trọng khi đặt tên con, Vĩnh hơi nhếch mép cười khi nghĩ tới điều đó. Đó là cảm giác bình thường cuối cùng trước khi anh bỗng chông chênh, hơi dại đi, cảm giác anh hay có khi sắp đến một kỳ quan nào đó. Vĩnh hơi vấp ở những gờ đá đầu tiên. Không hề có con đường mòn nào.
Vùng núi Puvan nằm sát biên giới, ngày xưa mỗi năm vài lần thổ phỉ tràn sang cướp bóc. Chỉ còn một làng nhỏ đìu hiu hơn hai chục nóc nhà và lời nguyền chết chóc của những bông hoa sầu trên đỉnh núi đã làm vùng đất này càng hoang vắng hơn. Thằng Củi kể người làng nó căm thù những cây sầu trên đỉnh Puvan, người ta gạt đi trước những lời đồn đãi rằng bông sầu đẹp, đẹp gì cái thứ đó, đẹp gì ác nhơn ác đức vậy! Năm nào cây trổ bông thì cả làng đói nhưng không ai
đốn bỏ chúng được, dường như chúng không phải là cây mà là đá. Chẳng ai, kể cả trẻ con, muốn lên đỉnh núi u buồn đó, người ta dần quên lãng trên Puvan còn có những cây sầu. Năm nay nửa làng đã bỏ vào thành phố làm mướn, ăn xin.
Và những con dê được mang tên đám bạn Củi để lúc gọi lên nó thấy ấm lòng. “Trễ lắm là tối nay xóm tui có mưa” – trong cơn hưng phấn, đứa bé khoái chí chỉ về phía làng mình, nhưng ngay lập tức ngón tay nó hơi cong lại, như thể chỉ cần thẳng ra là tay nó hướng ngay vào sự nghèo khó, hắt hiu. Thằng Củi luôn miệng kể lể, nó bò lên trước, trông như con thằn lằn nằm vắt trên những tảng đá dựng, thỉnh thoảng nó dừng lại chờ Vĩnh và Dịu, thỉnh thoảng nó ngây ra nhìn người đàn ông xa lạ và ngượng ngập cười xòa khi ánh mắt của mình bị Vĩnh bắt gặp: “Hồi nào giờ tui chưa biết mặt ba tui, tui nhìn coi ông có chỗ nào giống tui không?”. Câu nói làm Vĩnh khựng lại một thoáng và Dịu nhớ con đến rã rời. Đỉnh Puvan như lún mãi vào những đám mây đen.
- Tối nay trời chắc mẻm mưa – thằng Củi hớn hở – Con Danh chắc khoái lắm, thể nào nó cũng chạy ra sân tắm một bữa đã đời.
Vĩnh còn mong gì hơn, cơn mưa đầu tiên sau hơn bốn trăm ngày nắng như thiêu như rang, và sầu trổ những bông hoa đầu tiên. Vĩnh cảm giác mình chờ lâu hơn mười lăm năm, chờ trước cả khi anh đọc được những dòng chữ nguệch ngoạc đổ tháo của vị tu sĩ người Pháp được trưng bày trong viện bảo tàng. Puvan luôn ẩn hiện vào trong những ngày mai của anh, giúp anh ngồi dậy sau trống rỗng sau mỗi cuộc chơi sau mỗi chuyến đi ta bà thế giới. Anh gần như
chạm tay vào tất cả những gì mình muốn, tận mắt nhìn thấy những gì mà người đời ca tụng là tuyệt vời nhất, chỉ những bông sầu trên đỉnh Puvan không tùy thuộc vào tham vọng hay sự giàu có của anh, chỉ những bông hoa sầu trên đỉnh Puvan trong lòng anh cứ mỗi năm một lần tan tác trước những cơn mưa sớm.
Nhưng bây giờ anh đã gần những bông sầu hơn bao giờ hết, ý nghĩ đó làm Vĩnh bươn lên trước một khoảng xa. Dịu bị tụt lại vì mệt, thằng Củi cũng ở cùng cô. Dịu bẻ cành gai viết tên nó lên thân cây chỉ còn tươm chút nhựa: “Củi đang ở đây”, thằng Củi sướng rơn khi vân ve ngón tay dơ èm quanh chữ Củi, nó nói tên nó sao mà gọn hơ. Lần đầu tiên nó thấy được đường nét của tên mình. Nhưng Củi không chơi lâu, trong lúc chờ chân Dịu đỡ mỏi, nó bứt dây leo xâu những chai nhựa đựng nước mà bọn Vĩnh, Dịu đã trút cạn vào hai cổ họng khát khô, quảy lên vai, xúng xính: “Để dành hạn đi vô suối lấy nước uống. Má tui quí mấy cái chai này lắm, đựng nước mắm, nước màu cũng tiện”. Thằng Củi phân trần, coi bộ nó sợ Dịu đòi lại.
Thằng Củi làm Dịu nhớ con, dù chẳng có liên hệ nào rõ ràng. Củi lớn, con Dịu vẫn còn nhỏ, Củi đen nhẻm, con Dịu lại trắng trẻo, xinh đẹp. Nhưng không có gì chắc chắn thằng Củi không là hình ảnh của con Dịu mười năm nữa. Cô bâng quơ:
- Ở với má khổ quá hả?
- Khổ gì đâu… Chăn dê cũng sướng… – thằng Củi ngỏn ngoẻn – không được ở với má mới buồn dữ.
Trời ơi, sau câu nói đó thì Dịu muốn về nhà ngay lập tức. Ngó xuống bãi đất lổn nhổn xương khô – cô không phân
biệt được xương của súc vật hay của người – xa vợi dưới kia, cô bỗng ngẩn ngơ không hiểu làm sao mình lại kẹt trên một triền núi xa lạ này. Vĩnh vẫn không ngoái lại, bươn tới đỉnh núi, tới cơn mưa, tới những cây sầu. Dịu cũng đứng lên, bấu víu từng gờ đá vẫn còn nóng rẫy. Cô muốn cùng Vĩnh tàn chuyến đi này, chuyến cuối cùng của một Dịu gió sương. Cô muốn nói một lời từ giã.
Nhưng đến cuối chiều cả ba người mới cùng đứng với nhau, nơi đỉnh núi. Vĩnh ở sẵn đó, không có vẻ gì chờ cô. Trước mặt anh là những cây sầu với những vòm lá đã héo hắt, chực rụng khỏi cành. Mưa lay phay, đỉnh núi Puvan bị buốt trong hơi nước. Trời tối rất nhanh, như thể sau cái chớp mắt màu trời lại thẫm hơn. Thằng Củi lo tối quá không về nhà kịp, nó đứng lóng ngóng như bị nước nóng đổ đít, mà hai vị khách không có vẻ gì muốn quay xuống núi, nghĩa là nó cũng chưa chạm tay tới món tiền công. Đành chờ đợi.
Mưa bắt đầu nặng hạt, thằng Củi quay tròn dưới làn mưa, nó muốn xuống núi để cho má nó hay, mưa rồi, mưa thiệt rồi. Củi sướng như sắp ngất đi, nó lôi cái đầu lâu con dê tên Chương ra nói như khóc, tắm mưa nè mầy, tao đã biểu mầy ráng chờ, thể nào cũng được tắm mưa, mầy không nghe, mầy chết. Dịu đứng gần đó, tóc chảy ướt rượt, ứa nước mắt vì thằng nhỏ đã héo tới mức dầm trong mưa càng quắt queo hơn. Vĩnh thì như phát điên, như đang mộng du khi những vòm lá chết của những cây sầu bỗng phát sáng. Chúng cuốn tròn lại như một búp hoa và từ từ rẽ thành từng cánh từng cánh lấp lánh.
Vĩnh nín thở. Sầu trổ bông.
Lần đầu tiên trong đời, thằng Củi thấy bông sầu nở. Nó nghĩ mấy người thành phố này cũng rảnh thiệt, chắc là hết chuyện làm, nên lặn lội biết bao xa chỉ để tới ngó bông sầu. Trong mắt nó bông sầu còn tệ hơn bông bí vì bông bí ăn được. Thằng Củi bỗng lên tiếng:
- Thôi, tui về, để má tui dầm mình hứng nước mưa tội bả.
Dịu định nói gì đó để giữ nó lại, nhưng khi nhìn vào nó, Dịu đọc được sự căm ghét những kẻ vì bông sầu mà đã cầu mong cơn nắng thật dài, không cần biết nơi này những bầy dê chết cong queo trên đồng cỏ cháy. Dịu giúi ít tiền vào tay thằng Củi, nó không tỏ vẻ mừng, dường như có mưa là có khoai ăn có cơm ăn, nó cũng không cần tiền của những người xa lạ nữa. Và thằng Củi đã biến mất sau màn mưa, chìm lỉm vào bóng tối. Chỉ thấy cái đầu nó nhấp nhô ngọ nguậy rồi bặt tăm. Còn lại tiếng đất đá tuôn rào rào. Dịu lo cho thằng Củi, bỗng dưng…
Không hạt mưa nào xuyên qua vầng sáng kỳ ảo của những bông sầu. Vĩnh bảo Dịu trốn vào đó, và khi quay nhìn lại cô đã ngủ, tay nắm chặt cái túi xách nhỏ. Vĩnh biết trong đó có cái hình cưới, cô cài cành bông giả màu hường lên đầu, quê òm, cười thẹn thò bên cạnh người con trai hơi đen, cũng quê òm. Cô ta không cần tìm kiếm và chờ đợi bông sầu. Nên cô ta ngủ khi bông sầu vẫn nở và vẫn rạng rỡ những sắc màu, ngủ như khi anh vẫn còn nằm trên người cô. Một cuộc đời hèn mọn với những ước mơ hèn mọn luôn làm Vĩnh khó chịu lẫn một chút ngạc nhiên.
Nhưng những gì anh có, anh hưởng thụ nửa đời qua đã tầm thường nhạt nhẽo trước những bông sầu đang chuyển sang phớt tím, trong vắt, hắt sáng lên vùng trời tối tăm mưa gió.
Bất ngờ anh không nghĩ ra cái gì còn có thể đẹp hơn nữa. Không còn cái gì xứng đáng với những bông sầu để thay thế trong ý nghĩ về ngày mai của anh.
Và anh biết làm sao với ngày mai? Còn gì để mà chờ đợi, mà chinh phục nữa? Anh còn níu được gì để ngồi dậy mỗi ban mai? Vĩnh quì trước vòm bông sầu, rối bời vì ý nghĩ đó. Cô gái giang hồ kia sống vì con, vì mối tình ngắc ngoải, bị xé lìa; thằng bé tên Củi thất học kia còn có mẹ; anh thì không vì ai, không vì cái gì hết. Anh thấy sợ hãi ngày mai trống rỗng kia. Hoang mang. Ngơ ngác. Rã rời. Vụn nát. Vĩnh gần như quị xuống khi những bông hoa bắt đầu tím thẫm, như màu môi của Lam, mối tình đầu của anh khi người ta vớt xác cô ở ngã ba sông. Vĩnh chứng kiến cô rơi khỏi tàu nhưng Vĩnh chẳng làm gì cả, Vĩnh không biết làm gì trước những xoáy nước, Vĩnh sợ. Như Vĩnh không biết làm gì trước những vụn thịt rơi vãi của những người thân mình trong một buổi bom đạn hôm xưa.
Lúc Dịu thức dậy, người đã ướt đầm mồ hôi vì hình ảnh cái cây khắc tên thằng Củi cứ chập chờn đau đáu, thảm thiết như một tấm bia mộ. Vía cô cứ chạy mãi vào những bụi gai, thịt da bị cào rách bươm, khản tiếng gọi “Củi ơi”. Dịu thức dậy, bông sầu đã rụng tả tơi, những bông sầu bầm lại như máu khô. Và Vĩnh treo mình lửng lơ trên cành sầu khẳng khiu, trơ trụi. Trên đỉnh núi không có thêm đỉnh núi, và Vĩnh không muốn xuống núi, chẳng có gì chờ đợi anh ở đó.
Đỉnh núi mờ sương xào xạc gió, như đang day diết lại lời nguyền. Chỉ người phụ nữ kia là không tin những cây sầu giết người. Cô xuống núi, một mình.
Ấu Thơ Tươi Đẹp
Đó là chuyến tàu cuối hạ. Người cha bước vào buồng trước, thằng con có đôi mắt tối và ướt của cha bước theo sau, nó quảy một ba lô nhỏ căng tròn, đầu của một siêu nhân với chiếc mặt nạ ló ra khỏi dây kéo. Cha na cái vali, dường như cũng nặng. Trong lúc xếp hành lý xuống gầm giường, người cha hơi càu nhàu, “chỉ vài tháng là trở vô rồi, xách đồ theo chi dữ vậy Sói?”. Thằng bé tên Sói trèo lên giường phía trên, nó nói, “kiếm băng khác phát đi cha, tua đi tua lại câu này hoài con nghe chán chết”. Người cha cười khì, vai rúc rích, “cái thằng…”.
Em nằm sát trần tàu, ở cái giường mà nhiều người bất đắt dĩ mới chịu lấy vé chui lên. Họ thấy ngộp trong cái khoảng không gian quá hẹp, rủi mũi ai cao, đụng trần là cái chắc. Nhưng em quen rồi, em thích giường này, thích cái chỗ không ai nhìn thấy mình, còn em thì nép ở trên cao, vô tư nhìn thiên hạ.
Tàu rời ga đi về phía cha em. Thằng nhỏ Sói chắc vẫn thường ngược xuôi trên những chuyến tàu, nó nằm bẹp, không thèm ngóc đầu nhìn cảnh vật ngoài cửa sổ. Em cũng vậy, có gì mà coi khi đêm đã nhấn chìm mọi thứ, đã nuốt chửng tất cả vào lòng mình. Nhìn thằng Sói này sướng hơn, vì nó có đôi mắt buồn quá, tưởng như té vô đó thì không mong lội lên. Nó đang nằm gác tay lên trán, con nít mà nằm kiểu đó thì cách gì cũng không hợp. Người cha ở giường dưới nói vọng lên, “Lần này cầu trời tàu chạy đúng giờ. Mẹ Sói khỏi phải cằn nhằn”.
- Con trông tàu càng trễ càng tốt. Con ghét mấy con chó quá. Lần nào vô nhà tụi nó cũng sủa nhoi hết. Thằng Sói nói, mặt nó lộ vẻ chán chường.
- Thì tại con mau lớn quá, chó nhìn không ra.
- Con là chủ cái nhà đó mà chó coi thua khách. - Khách nào?
- Cha hỏi làm chi, khách của mẹ thì mắc mớ gì cha.
Thằng nhỏ sẵng giọng. Người tên Cha lại cười trừ. Căn buồng trở lại im lặng, dãy giường bên kia, chỉ một ông già lặng lẽ đắp khăn ngủ khò. Thằng nhỏ lại gác tay lên trán:
- Về kỳ này con mua thuốc chuột thuốc chết mấy con chó. - Chơi gì ác vậy?
- Đâu có chơi.
- Tội nghiệp tụi nó.
- Cha rảnh dữ ha, đi tội nghiệp mấy con chó.
Những cuộc trò chuyện đi theo một nhịp điệu đều đặn, chỉ vài ba câu qua lại thì thằng Sói sẽ vặt lại cha nó bằng cái giọng gay gắt, vóng cao. Sau đó là sự im lặng của người cha mang tính chất dàn hòa, thua cuộc. Em thò đầu nhìn xuống, và thấy đúng thật thằng nhỏ không nói chơi, mắt nó vằn lên những tia giận dữ, gương mặt tối sầm.
- Mỏm của mấy con chó sẽ sùi bọt mép.
- Nghĩ đâu ra trò đó ghê vậy Sói? – Người cha nhổm dậy, vói lấy gói thuốc lá. Sói cười cay độc, ai biểu tụi nó sủa con. Điếu thuốc trên tay cha bỗng dưng run rẩy, ông kẹp nó giữa
hai ngón tay dường như tê dại đi rồi. Ông day nhìn ra cửa sổ, qua tấm lưới chắn, là màn đêm mù mịt. Thằng nhỏ Sói dường như vẫn mãi mê đuổi theo cái ý nghĩ bóp nghẹt tiếng sủa của những con chó khi nó trở về nhà, nên nằm bất động.
Thằng nhỏ Sói này giống hệt em, hồi trước. Dù nhà của cha em không có chó, nhưng mỗi lần về là thêm một người phụ nữ bước lại vuốt tóc em, hỏi, “Nhiên phải hôn nè? Nhiên năm nay bao nhiêu tuổi? Nhiên thích ăn gì cô chở đi”. Em nhìn chằm chằm vào cái miệng nũng nịu âu yếm của cô ta, tỉnh bơ, “muốn ăn thịt cô quá hà”. Cô nào xấu số nói thêm “con thích gì cô cũng chiều” sẽ nhận được một câu trả lời không chờ đợi, “cô uống thuốc chuột chết đi, con thích vậy”. Người phụ nữ khựng lại, lùi hai ba bước, gượng gạo cười, kêu cha em “anh ơi anh, bé Nhiên nói chuyện dễ thương ghê”. Sau đó, cô bỏ giọng thẻ thọt, ra vẻ lo lắng, “coi bộ bên đó không quan tâm con gái lắm, anh à”. Cha em cười, chuyện của bên đó, mình xen vô làm gì.
Em ở với cha suốt mùa hè. Khi còn một tuần nữa tựu trường, cha lại đưa em đi, đôi khi bằng xe hơi của cha, nhưng thường thì đi tàu. Cha em nói một mình ông lái xe về thì đường dài và cô đơn lắm. Có lần, không gọi điện thoại được cho mẹ, tiễn em tới cỗng thì đến giờ cha phải quay lại ga, và trong lúc đoàn tàu chuyển bánh ngoài kia thì em vẫn loay hoay với xâu chìa khóa. Không chìa vào mở được cánh cửa. Em ngồi đợi dưới mưa tháng tám, mẹ về, mẹ la lên, trời đất ơi, mẹ đi suốt, khóa cũ thấy không an toàn nên mẹ thay khóa mới. Em đá cái ổ khóa đó văng xuống cống, sưng vù mấy đầu ngón chân, mẹ giễu cợt, “chà, không biết bên
đó dạy làm sao mà mỗi lần về chị lại cộc cằn không chịu nổi”.
Thằng nhỏ Sói này cũng trên đường về với mẹ. Ở đó có những con chó không còn nhớ hơi chủ nhỏ. Và chúng sẽ chết. Nếu mười ba, mười bốn tuổi mà âm mưu dập tắt một hơi thở, dù là của chó thì cũng chẳng hợp chút nào. Dường như người cha cũng đang sắp lại chuỗi suy đoán như em, mặt ông phảng phất lo âu, môi đã máy mấy lần nhưng không cất thành lời. Hồi lâu, hết điếu thuốc rồi dụi cái tàn vào miệng chai nước suối, nguời cha nói:
- Về nhớ điện thoại thường thường nghen. Nhưng đừng điện lúc nửa đêm.
- Sao vậy? Lúc đó cha mắc ôm bà nào hả?
- Cái thằng… – người cha gắt lên – nói bậy riết rồi quen.
Thằng nhỏ Sói cười hề hề, răng nó nhọn hoắc, “nói tầm bậy tầm bạ trúng tùm lum tùm la”. Người cha cũng gượng cười theo, ông nằm xuống, vói tay tắt đèn. Vào cái lúc sắp xa con chín tháng liền, cha bỗng dưng thấy cuộc sống của con như vầy không bình thường, muốn bù đắp cho con. Cha kéo con gần lại bằng những câu chuyện dịu dàng, nhưng con thì đẩy cha ra, bằng mọi giá, bởi con không muốn khóc khi xuống ga của mẹ. Em biết.
Thằng nhỏ Sói kéo tấm ra mỏng của tàu lên cổ, cả gương mặt nó chìm vào ánh sáng lờ mờ. Nhưng thằng nhỏ Sói không ngủ, vẫn còn hai cái hố thẳm sâu biền biệt, mở trâng tráo. Những đêm như thế này em cũng không ngủ. Em sợ khi mở mắt thức dậy đã nhìn thấy mẹ em, mặc cái áo mẹ mua trong lúc vắng em, ra mở cửa. Vào nhà, em thấy một
đôi giày đàn ông xa lạ. Và cái đèn ngủ màu đỏ của em mẹ đã thay bằng thứ ánh sáng xanh tái. Có cái tủ mới trong bếp. Một vài đĩa CD mà em yêu thích thì mất. Em lạc giữa nhà mình và mất một nửa thời gian bên mẹ để làm quen lại.
Mùa hè ở nhà cha thì ngắn hơn, và hầu như em chưa kịp quen gì thì cha đã gọi điện đặt vé tàu tiễn em đi. Thằng nhỏ Sói đang thao thức dưới kia cũng không khác gì em, lúc nhân viên tàu đi bán thức ăn đêm, người cha mua hai tô cháo gà. Thằng nhỏ Sói cười kha kha kha, nói, cha muốn con ăn gà để nổi mề đay cùng mình hả? Người cha hơi bực, “ông con ơi, sao không chịu nói sớm”. Sói thản nhiên, tưởng cha biết lâu rồi.
Người cha cắn môi. Ông trợn trạo húp vài muỗng rồi bỏ ngang, hút thuốc. Chuyến tàu cuối hè bỗng trùng trình giảm tốc độ, tưởng như cái buồng phổi đang xám lại kia quá nặng nề. Tàu vào ga tỉnh lẻ.
Người cha rủ thằng nhỏ Sói xuống ga. Sói im lặng, như đã ngủ say rồi. Cha xuống một mình, ông phải mua thêm vài gói thuốc lá nữa, trong một đêm quá dài của năm này. Nhưng thằng Sói tụt xuống sàn, dán mắt nhìn qua ô cửa. Những cái đèn neong xanh xao đang soi những hàng quán ngái ngủ, những đứa trẻ bán dạo thoát khỏi cơn mộng du lanh lảnh rao mời rồi khi tàu lăn bánh, chúng lại tiếp tục lờ đờ vừa đứng tựa vào tường ngủ ngây ngô. Thằng Sói đứng nhìn cho đến khi người cha quay vào, ông hỏi, “ủa, không ngủ sao?”.
- Chừng này mà ngủ gì?
- Gần mười hai giờ rồi còn sớm sao ông con?
- Con đâu có ngủ giờ này.
- Hèn chi toàn điện thoại lúc giửa đêm. Con thức chi khuya vậy?
- Thức để suy nghĩ… Mà, cha hỏi nhiều quá…
Thằng nhỏ Sói bỏ lửng câu nói, bứt ngang cuộc trò chuyện, trèo lên giường. Nó không bao giờ để người cha nhìn thấy khuôn mặt mình, đôi mắt mình. Nó luôn quay lưng và nói. Cúi mặt và nói. Ngó bâng quơ và nói. Người cha ngồi dựa vào vách tàu, xé mở gói thuốc mới. Đốm lửa lại xập xòe trên môi.
Chiếc tàu đi vào vùng gió cát, rùng mình suốt vì những cơn lạnh buốt. Thằng Sói đã ngủ, nằm co như dấu hỏi, như con tôm luộc chơ vơ trên cái dĩa lớn. Cô độc. Người cha cũng ngủ, cái đầu lọc thuốc còn bẹo dính bên mép. Em không còn gì để nhìn, nhưng không chợp mắt được. Em luôn thức trắng trên những chuyến tàu.
Em sợ bỏ lỡ những bình minh, cái khoảnh khắc mà người ta tỉnh dậy, tan chảy theo cơn lười nhác và tuyệt vọng, họ đã vĩnh viễn làm mất ngày hôm qua, và không có cách gì giữ lại ngày mới này. Thằng nhỏ Sói nhìn quanh quất, bất giác nó ứa nước mắt ra. Để che giấu điều đó, nó tụt xuống đi rửa mặt, nó chao đi trên con tàu trùng trình, tiếng bánh xe sắt nghiến vào đường ray buốt nhức. Người cha ngồi dậy, không thấy Sói đâu thì hơi hoảng, bươn ra cửa, dáo dác. Nhác thấy bóng thằng nhỏ Sói quay vô, người cha kêu lên, “sao không kêu cha dắt đi?”. Sói dửng dưng, “mặt ai nấy rửa, cu ai nấy cầm, lâu nay con làm được mà”. Người cha
vò tóc, dường như vẫn chưa dứt khỏi cơn mơ, ông khẽ cụng đầu vào thành tàu.
Giữa bữa sáng, người cha nói, “tại chiêm bao thấy con đi lạc nên mới quýnh”. Thằng nhỏ Sói ngoáy mấy sợi mì quấn vòng quanh chiếc đũa, nó gật gù, “Cha để lạc thì con mới lạc”. Em ngồi xếp bằng, ngó mấy cái xoáy ngựa trên đầu thằng nhỏ Sói, và nghĩ, thằng nhỏ này đã đi lạc lâu rồi. Điều đó gần như chắc chắn, vì em chính là thằng nhỏ Sói, giây phút này. Thấy ngạc nhiên và kỳ lạ, thấy không chấp nhận được khi người lớn bắt đầu tìm kiếm mình khi đã rời khỏi họ quá chừng xa.
Tàu lại vào ga. Lần này tàu sẽ dừng hẳn hai mươi phút. Hành khách tuôn xuống và đùn lại những hàng dài trước cửa những phòng tắm. Qua tấm lưới chắn, em nhìn thấy người cha chen đẩy thằng nhỏ Sói vô tắm trước. Ba phút sau nó đi ra với cái đầu rỏ nước long tong, cầm cái túi để người cha bước vào. Em vẫn thường xem cảnh chen chúc tắm táp như trò ảo thuật, người ta nhàu nhĩ bước vào và tươi mới, phấn khởi khi trở ra. Nhưng bây giờ thì em bận nhìn thằng nhỏ Sói, nó ôm cái ba lô nhỏ rúm vào người vì sợ kẻ cắp, đi rà theo mấy quán hàng. Nó dừng lại trước một gia đình đang ăn cơm không biết sáng hay trưa bên hàng hiên của nhà ga. Một đứa trẻ nằm gối lên đùi người mẹ, đầu đứa trẻ khác lại gối lên bụng đứa kia. Họ sẽ hát vài bài khi chuyến tàu ngược về phía mẹ em ghé lại ga này lúc xế chiều.
Em biết họ. Nhưng em không chắc thằng nhỏ Sói có biết, bởi nó cứ đứng nhìn, em chỉ thấy cái gáy của nó với sợi đuôi rùa im phắt. Cả người Sói thả lỏng, ba lô được xách hờ bằng
mấy ngón tay buông lơi. Hồi lâu, Sói quay lại nhìn về phía tàu, và đôi mắt nó xuyên qua khỏang sân ga rộng, làm vạt nắng xanh xao. Hay có cục mây bay ngang đầu mà em không thấy? Rồi Sói quay đi, nhòa vào dòng người. Cái dáng gầy gò với chòm tóc nhuộm vàng rốt cuộc chỉ còn trong trí nhớ của em.
Người cha trở ra, ông ngó quanh rồi thong thả lên tàu, giấc mơ kỳ dị lạc mất con đã bị nước dội khuây khỏa. Chỉ khi tới cửa buồng, người cha mới hơi chột dạ, hỏi thăm ông già, mà giọng đã có phần run “chú Hai có thấy thằng con cháu lên đây không?” Ông già lắc đầu. Người cha quay ngoắt xuống sân ga, gào tên thằng Sói trong khi mấy cái loa thông báo tàu sắp rời đi. Chân người cha gần như không chạm đất, cả người ông lướt đi giữa dòng người. Cầm điện thoại rướn người nhìn vào căn buồng trống trãi, người cha lạc giọng, “Thằng Sói mất rồi… A lô. Mất. Không phải hành lý. Thằng Sói… Cô vừa ý chưa? Dẹp đám cưới của cô giùm tôi…”.
Người trong mấy buồng chung quanh cũng túa ra, nháo nhác. Ông già chặn một nhân viên của tàu ngang qua nhờ tìm giúp thằng bé. Rồi ông già bồn chồn ngó xuống sân ga đã nhợt nhạt bóng người, “trời đất ơi, tàu sắp chạy rồi, không biết tìm thằng nhỏ kịp không đây?”.
Em biết là không. Thằng nhỏ Sói sẽ tan biến như chưa từng có trong đời. Nó xuống một ga không có bầy chó sủa khi nó về nhà của chính mình, một ga không có những người phụ nữ biết chính xác cái quần cộc của cha nó nằm ở đâu trong lúc nó tìm loay hoay.
Em thì mãi mãi ở lại con tàu này bằng một vốc thuốc ngủ vun vén ở mỗi tiệm thuốc tây một chút. Nên em hoàn toàn tôn trọng sự chọn lựa của Sói.
Núi Lở
L
úc đó, chúng tôi đang hoàn tất học kỳ thứ hai, trong một cơn say, giữa đêm mưa dài, Vĩnh rủ tôi làm phim tốt nghiệp. Một bộ phim buồn khủng khiếp, Vĩnh nói, chắc chắn ông sẽ được vinh danh. Tôi đắp chiếc áo lên thân mình còm cõi của cậu ta, trả lời cho qua chuyện, ừ, thì
làm. Vĩnh lại nói, tôi có sẵn ý tưởng rồi, ông muốn nghe không?
Dĩ nhiên là tôi không muốn nghe, tôi cũng say, và buồn ngủ. Ngoài trời, mưa như giũ, như trút, như đổ. Tôi không muốn nghe, vì những ý tưởng mang thương hiệu “Vĩnh” hoặc điên rồ hoặc mờ nhạt, vật vờ như chính cách sống của cậu ta. Nhưng tôi không muốn làm phật lòng một người say, tôi bảo, thì ông nói nghe thử với niềm hy vọng cháy bỏng là chỉ vài ba câu, Vĩnh sẽ ngủ ngoẻo đầu.
Đó là bộ phim về núi lở, Vĩnh hơi bực khi thấy tôi trốn vào mền, cậu ta giật mặt tôi ra. Ông hình dung đi, đừng nhìn mấy mụt ruồi đang cà nhót trên bản mặt tôi, chỉ nghĩ về ngọn núi. Một ngọn núi già nua, cũ kỹ, đá vôi lở từng mảng mỗi khi đến mùa mưa lũ, để lại những vách núi trắng như xương. Tôi đã chọn cho nó một cái tên, có thể là Ba Bảy Hai Mươi Mốt. Không thể gọi bằng cái tên dân gian đơn giản nào khác, ông phải biết, nếu cái tên ấy trùng với tên một ngọn núi thật ngoài đời, nhiều khả năng chúng ta sẽ bị kiện, ai đó sẽ làm một cái đơn dài nhằng, nhưng nội dung tóm lại như vầy, “Ba đời nhà tui sống kề bên núi. Làm gì có chuyện chỉ sau một buổi chiều mà núi lở đến cụt ngọn”.
Tôi cười, ngáp một cách khoa trương, đúng, làm gì có chuyện núi lở đến cụt ngọn. Vĩnh hằn học, ông học đạo diễn mà trí tưởng tượng dỡ òm. Câu chuyện của bộ phim chúng ta phải có núi và núi phải lở.
Tôi lại ngáp bời bời, cảm giác thèm ngủ trào lên, ứa nước mắt.
Có ngôi nhà trên đỉnh núi, giọng Vĩnh trở nên dè dặt, có lẽ cậu ta đang vẽ ngôi nhà trong trí tưởng của mình. Bỗng Vĩnh đổi giọng, cuồng nhiệt, da diết, như thể cậu ta đang đứng trước nó, và thấy vài cây bằng lăng che rợp khoảng sân. Trời ơi, màu bông bằng lăng tím, ông không tưởng tượng được đâu, nhuộm cả trời chiều. Trên sân, có vài chiếc bàn nước cho khách chơi núi vảng lai. Con nhồng nhảy lửng tửng trong lồng, kêu chói lói, “Má ơi, Ba vô! Má ơi, Ba vô!”.
Đó là một buổi chiều nhiều mây đen, nắng len lỏi rọi từng chùm trên những bụi cây dại. Mọi thứ được nguỵ tạo bằng cái vẻ ngoài yên ả. Thấp thoáng cạnh những triền đá dựng đứng bên con đường mòn, có thằng bé đang bắt cào cào. Đó là vai chính của chúng ta. Nó có thể lên chín, mười, có thể ít tuổi hơn nữa. Quãng tuổi đó, có quá nhiều điều nó chưa hiểu nên sẽ đau lâu, nhớ lâu những biến cố của cuộc đời. Ông không phải tốn công tìm diễn viên đâu xa, đi bất cứ miền quê nào, ông sẽ thấy tụi nó chạy đầy đường, những đứa nhỏ với làn da đen nhẻm, lem luốc nhưng đôi mắt rất sạch, sáng, to tròn. Mắt nhìn vũng nước đục, nước sẽ trong, nhìn vào đêm đen, đêm sẽ sáng. Đôi mắt rất hay nói. Nó ngước lên trời, nơi những đám mây bắt đầu sà xuống, bịu xịu như một cô gái sắp khóc, ánh mắt nói rằng thằng bé rất bồn chồn.
Nhiều hình ảnh chậm rãi đọng lại trong khoảnh khắc trước mưa. Một con gà trống tuyệt vọng tìm mồi trên sân, mỏ nó dội vào đá, nghe tê rần. Con chó nằm gần đó, sủa những tiếng rời. Thằng bé hơi ngẩn ra một chút, nó thông hiểu tiếng nói của loài vật – bạn bè nó, nên ngờ ngợ chuyện gì đó khủng khiếp lắm, con nhồng mới nhảy nhót hoang mang, dã dượi trong lồng.
Chiều ấy gió rất nhiều. Xin lỗi, tôi hơi dài dòng, nhưng vì tôi thuộc lòng như cháo những tình tiết, những hình ảnh, nếu kể, tôi phải kể có đầu đuôi. Ông không biết đâu, đêm nào tôi cũng thấy nó. Những nhánh bằng lăng bị quăng quật làm bông bằng lăng bay tả tơi. Tôi biết ông đang cười trong bụng, nghĩ tại sao tôi không viết văn. Nhưng con chữ nào có thể chuyển tải nổi cái cảnh hoa rơi bời bời như những cơn gió tím? Chỗ dây phơi bên hông nhà, mẹ thằng bé cũng bị mớ drap trải giường quất vào mặt, phủ cả người. Mẹ nó có đôi mày được tỉa kỹ cong cong ngót màng tang, các mí mắt được viền xanh, đậm. Chúng làm cho ánh mắt chị ta không bao giờ dịu lại. Mẹ nó kêu:
- Đẹt, không lo dọn bàn vô, chút nữa mưa ướt hết, bị đòn mười cây nghen. Ăn thì châu đầu lại ăn, tới chừng làm chỉ có con này.
Ngay lúc đó, ba thằng bé xuất hiện trong khung hình với mớ củi khô trong tay. Người anh ta cụt ngẳn, túc tắc chạy đi chạy lại. Vài đôi người đã rời khỏi những căn buồng trọ, lúi húi dúi mấy tờ giấy bạc vào tay cha thằng bé, anh ta cũng gấp rãi nhét vào túi mình. Mọi động tác của chủ và khách đều diễn ra trong thứ âm thanh câm lặng, như đã thường lặp đi lặp lại. Chỉ lúc tiễn khách ra tận đầu con đường xuống
núi, cha thằng bé mới mở miệng càu nhàu, “ông cố nội trời này mưa hoài, không cho người ta làm ăn gì hết”.
Tôi nhoài người ngồi dậy, tôi tưởng Vĩnh đang cầm tập kịch bản trong tay, và đọc trong cái ánh sáng đỏ lòm của bóng đèn hột vịt. Nhưng Vĩnh vẫn nằm co, tay dường như đang kẹp giữa hai đùi, mắt mắt mắt mở. Vĩnh bỗng ngập ngừng, hay là ngủ đi, ông. Mai ông còn tới lớp. Tôi cười, không, để tôi coi tới sáng mai thì núi của ông đã kịp lở chưa? Tôi thấy mình ráo hoảnh, không hẳn do câu chuyện có vẻ hoang đường về ngọn núi xa xăm nào đó, mà vì Vĩnh mà tôi từng sống chung căn nhà trọ không phải Vĩnh của đêm nay.
Nghe nói tay Đảng đang nuôi mấy con chuột để làm phim tốt nghiệp, Vĩnh cười khào. Chúng ta chỉ cần ngồi trong ngôi nhà trên núi ấy chờ đợi một cơn mưa lớn như bữa nay, như trút, như giũ, sầm sập như vầy. Và thằng bé của chúng ta bị cơn mưa rượt chạy vào nhà, như thể, không có cơn mưa đó, thằng bé sẽ mãi tha thẩn ngoài sân. Máy quay của chúng ta hướng theo ánh nhìn hơi tối của thằng bé sẽ thấy dãy hành lang dài chạy dọc theo những cái buồng rất chật và tối dành cho khách. Hầu hết họ đã chạy trốn khỏi cơn mưa để lại những cánh cửa mở toang với chăn chiếu nhàu nhò. Chỉ còn căn buồng khép chặt, ngang qua đó, theo thói quen, thằng bé bịt tai lại, mặc dầu mưa đang rền rĩ trên mái nhà, hành động ấy là không cần thiết. Đôi mắt thằng bé rất bất an, dường như đây không phải nhà của nó. Nhà của nó là khoảng sân kia, là những con đường đầy hoa cỏ dại kia.
Nên thằng bé lại nôn nả ngó ra ngoài trời, nôn nả nhìn mưa xỉa xói miết trên xác bông bằng lăng, tái nhợt. Dấu mưa xoi chừng như nhói cả đá. Mẹ nó dọn cơm ra, cái cách dọn cơm
cũng như mọi ngày, trễ nãi, dằn dỗi, phản kháng trong câm lặng, “tôi mà cũng phải làm những chuyện tủn mủn như vầy đây. Ba thằng bé không nhìn vào mâm cơm, chỉ ngó vợ, miệng hệch cười, hít hà khen ngon. Một buổi chiều có vẻ bình thường, cơn mưa ấy cũng là một cơn mưa bình thường. Cả chuyện thằng bé định chạy ra sân thì bị kéo lại, từ vạt áo nó một trứng gà lăn long lóc, cái nhìn trừng trừng của mẹ nó dường như đã thường xảy ra, bởi ba người đều giận dữ một cách thản nhiên. Cái 'dường như’ khá nặng về cảm giác. Vì vậy, nhịp điệu của phim sẽ phải chậm rãi, rất chậm rãi. Lừ đừ. Nhát gừng.
Chỉ thằng bé là lung linh, sống động, cả người nó cứ chực lao đi trong khi bàn tay bé nhỏ vẫn bị vùi trong tay cha nó. Thằng bé nói như van, bên nhà nội chắc ướt lắm, cho con qua nội, đi ba. Bỗng đá dưới chân nó bỗng chao như người say rượu, rùng rùng. Tiếng đá rơi rầm rập.
Mọi người như bơi trong không khí rồi té thụp xuống. Họ chụp vịn bất cứ cái gì gần nhất. Núi lở! Đôi khách xô nhau chạy ra khỏi căn buồng, người phụ nữ chỉ kịp gài hai chiếc nút gá hờ hai vạt áo chênh nhau thấp cao. Núi lở! Mẹ thằng bé nhìn thấy vẻ kinh hoàng của khách, bỗng cười, mắt long lanh, “không sao đâu, núi này lở hoài, mà tụi tui vẫn sống phây phây”.
Nụ cười ấy điếng lại khi đá vẫn gầm. Sự nứt toác ra làm núi đau đớn, giận dữ điên cuồng. Những bộ ngực lúng liếng, bờ môi hoang đàng, nét mày chải chuốt trở nên thừa thãi. Sự hoảng loạn chỉ biết trào ra bằng ánh mắt. Đá vẫn chuyển mình. Một người khách dường như không còn kiềm chế được, lao ra xe, mặc dù hơi mất thăng bằng, cuối cùng ông
ta rồ máy chạy tan mất vào trong mưa mù mịt. Người khách nữ dường như sững sờ đến không kịp ới lên, môi dưới của cô bị bấm một dấu răng sâu, vẫn còn sưng, thậm chí không thể mấp máy. Đấy là cuộc chia tay của mọi ngày, người đàn ông một mình chạy xe máy xuống núi, chị ta cũng đi bộ xuống núi một mình, như vô tình. Chỉ khác là bây giờ, đá đang rơi. Mắt thằng bé ứa ra những giọt lo âu. Bàn tay nó bắt đầu chảy ra như nước, không ai hay biết, ba nó vẫn nghĩ đang nắm nó trong tay mình. Bằng cách đó, đêm đêm nó vẫn đi ra khỏi nhà, sang chơi với người ông, mân mê chỗ da mát lạnh nơi cùi chỏ ông cho đến khi ngủ khò. Thằng bé bươn vào mưa, chạy miết về phía triền núi phía Tây, nơi cũng có những cây bằng lăng già đang đảo lắc điên cuồng. Thằng bé gọi, nội ơi, nội ơi nội. Nó thấy ông nội nó đứng trong chái hiên, cây gậy chống vào nền nhà, cả người ông chòng chành, lật bật như con vụ sắp hết trớn quay. Mặt ông tỉnh bơ, thấy thằng bé, ông còn cười. Đoạn này thoại rất gọn, cả hai nhân vật đều hét lên:
- Nội ơi, núi lở rồi.
- Ờ, núi lở rồi, núi cũng giận, chứ sao?
- Chạy đi, nội. Con dẫn nội chạy nghen. Ở đây là chết đó. - Ờ, chết cũng được, chớ sao?
- Nội chết, con chơi với ai?
Ông già bỗng nghẹn ngào:
- Con chạy trước. Nội khoá cửa rồi qua liền. Nhanh lên, chạy nhanh, con.
Thằng bé lại lắn quắn chạy về, nó liên tục ngoái lại, tiếng chó ăng ẳng ở một hốc nào nói cho nó nghe những dự cảm
chia lìa. Nếu tôi viết văn, đoạn này, tôi sẽ để thằng bé nghĩ, “quái lạ, nếu núi lở, nhà nội sập là chắc mẻm, cần khoá cửa để làm gì”. Bỗng Vĩnh ngưng bặt, như đếm từng giọt chờ đợi của tôi, cười lạt lẻo, sao ông không ngáp nữa đi. Tôi không thể nói rằng mình đang sợ, như ai đó mượn miệng Vĩnh để thốt ra lời, cứ như kẻ đó dắt tôi đi, cứ như chúng tôi đứng trước ngọn núi trong buổi chiều tăm tối đó. Người Vĩnh lạnh, nhưng cậu ta không bao giờ chui vào mền, những đêm ẩm ướt như thế này, cậu ta chỉ chịu đắp hờ cái áo gió mua rẻ ở vỉa hè.
Tôi nghĩ bộ phim của chúng ta sẽ bị các nhà phê bình “làm thịt” ngay, ông à, Vĩnh cười khan. Làm gì có trái núi nào lở như dao chém ngọt phứt hết phần ngọn? Làm gì có chuyện một đôi tình nhân mới vừa ôm ấp nhau lại bỏ nhau chạy trối chết? Cả chi tiết chủ ngôi nhà trên núi đó chỉ có mỗi một chiếc xe máy cũng “gài” lộ liễu. Nhưng đời là chúa cắc cớ, câu mâu…
Trong cái chênh chao lìa nhau của đá, cha thằng bé loạng choạng đưa chiếc xe máy ra sân. Mẹ thằng bé làm nhiệm vụ vặn sít tay đứa con trước khi trao lại cho ba nó (mà không hay nó đã không còn ở đó). Chị ta cầm cái túi dồn vào đó tất cả những thứ đồ đạc trong tầm tay, tầm mắt. Cái túi há hốc miệng, như đang ói ra. Thằng bé trở lại khi cha mẹ nó nháo nhác tìm những món đồ mà lúc tỉnh táo họ không bao giờ cần đến. Nó trở lại để hỏi một chuyện:
- Ông nội có đi với nhà mình không?
Mọi âm thanh bỗng lặng phắt, ông học đạo diễn, ông rành thủ pháp này hơn tôi, hãy để những ánh mắt nói với nhau điều lơ láo. Sẽ mất vài giây cho sự lựa chọn. Khách ào chạy
ra mưa, níu chặt lấy chiếc xe, chị ta lờ mờ hiểu ra, thêm một người nữa, chị sẽ không có cơ hội chạy trốn. Ngọn núi trùng trình sụt xuống, cha thằng bé xốc nó chạy khỏi căn nhà sắp đổ. Nó giãy ra, gào khóc:
- Ông nội. Còn ông nội nữa. Con muốn ở với ông nội.
Cha nó hơi chùng chân, nhìn về triền núi phía Tây, như ước chừng quãng thời gian, quãng đường đến đó và quay lại. Thằng bé quả quyết nhà ông nội nó vẫn còn đấy, mưa và nước mắt làm tầm nhìn mù mịt, nhưng nó vẫn thấy ông đang vẫy tay. Mẹ nó xấp xãi lại, ngó người khách sắp ngất trong mưa, mẹ nó rít trong kẻ răng, “Ba già rồi. Còn để con nhỏ đó chết ở đây, anh sẽ ngồi tù”.
Cái nhìn lo lắng của người đàn ông chợt tắt. Lúc đá đang tụt xuống từng mảng bạc đầu, con người có quá nhiều chuyện để làm, họ không thể nói, chỉ có hành động và hành động. Chạy trốn và chạy trốn. Họ chất nhau lên chiếc xe, họ điên cuồng chạy trên con đường mòn ngoằn ngoèo đã xuất hiện những vết nứt khá sâu. Mưa bỏng rợp. Thằng bé kêu nội ơi rát họng, cổ nó đau như tươm máu tươi.
Mắt thằng bé bất động, quánh đặc những tuyệt vọng. Nó thấy lại cảnh mình cùng ông nội lơn tơn đi bắt cào cào. Ông già nói gì đó, và thằng bé cười ngắc nga ngắc ngéo. Đá dưới chân họ xốp, mềm như mây. Nó thấy ông nội tay áo xoắn cao, lăng xăng, chỉ trỏ ngôi nhà nhỏ, bắt nó ngồi vào cái ghế tựa, bắt nó chống nạnh trước hàng ba, tay ông già dang ra, như nói căn nhà này ông cất lên là dành riêng cho nó.
Những cảnh thuộc về ký ức của thằng bé được đan xen với cuộc chạy trốn. Nếu không làm vậy, khán giả sẽ tức tối vỗ
đùi, “Đang khúc hồi hộp chết mẹ mà nhớ lại hoài vậy trời?”. Chúng ta phải giữ họ ngồi lại, bằng hình ảnh cây cỏ nhoè hai bên đường. Vách núi loang vun vút. Những cành cây gãy rơi sát rạt. Bánh xe nặng nề trườn qua những vết nứt. Cuộc chạy trốn vẫn bời bời trong tiếng rền của núi. Đá đang trượt trên đá, đá vĩnh biệt đá trong thứ âm thanh thống thiết.
Thằng bé càng xa đỉnh núi, ký ức của nó về ông nội càng nhì nhùng, loang lổ như khúc phim trầy xước. Thằng bé thấy ông nội nó sụp lạy trước miếu thờ thần núi trong khi những người thợ ngăn ngôi nhà thành những căn buồng tối. Ông nội đang bắt chuột rộn ràng cả dãy hành lang, làm những tiếng chút chít hổn hển bị đứt khúc. Mắt mẹ thằng bé quắc lên.
Thằng bé thấy mình bị mẹ kéo vào phòng ngủ để ăn… chôm chôm. Bà mẹ tỏ ra hồn nhiên ném vỏ qua cửa sổ chỗ ông già ngồi. Rồi nhận ra sự khiếm nhã của mình, mẹ thằng bé nhoài đầu ra cửa, ngọt ngào, “tụi con mua chôm chôm bằng đồng tiền dơ bẩn, nên không dám mời ba”. Thằng bé thấy ông nó tựa vào gậy bước từng bước liêu xiêu về phía ngôi nhà mới, nơi mặt trời mọc mỗi sớm mai. Ở đó cũng có nhiều bằng lăng, bông cũng tím rối lòng rối dạ. Nó muốn chạy theo nhưng ba nó kéo lại. Anh ta cười hề hề vô nghĩa như bức tượng, mặc người ta muốn xoay thế nào, đắp gò má, nắn cằm thế nào cũng được. Trong ký ức của thằng bé, từ khi xuất hiện những đôi người – họ lên xuống núi bằng những ngã khác nhau, lạnh lẽo ngó nhau nếu bất chợt gặp ở chỗ chợ đông, nhưng lại hớn hở chui vào cùng một căn buồng tối – ông già gần như câm lặng, thằng bé gần như độc thoại, “ba mẹ bắt con ra sân chơi, hễ có người lạ đi đông người, hay mấy chú công an thì phải la lên”, đôi vai
ông già rung từng chặp. thằng bé lại nói, “con nghe lời nội bịt lổ tai lại rồi mà cũng nghe người ta la hi hi trong buồng”, đôi vai hóa đá.
Và đôi vai ấy nhoè dần báo hiệu ký ức đã tan. Trên màn ảnh, chiếc xe chở bốn sinh mạng đi vào vùng ánh sáng cách xa chân núi. Họ đâm xe vào bãi cỏ ven đường, họ hướng mặt về núi, sụp xuống. Núi Ba Bảy Hai Mươi Mốt chỉ còn có thể gọi là Hai Bảy Mười Bốn. Thằng bé chôn chân đứng nhìn trái núi trọc lóc, trụi trơ. Không biết nội nó khoá cửa xong chưa.
Sau lưng nó, những người lớn rã rời vì mừng rỡ, kiệt sức, kinh hoàng. Không thấy cái túi xách biết ói đâu, trên tay mẹ thằng bé chỉ có lồng chim, dường như trong tiềm thức, lúc sợ hãi đến đông máu lại, chị ta vẫn còn nhớ con nhồng thật sự có ích, nó từng gào lên “Má ơi ba vô! Má ơi, ba vô!” mỗi khi có biến cố, cho những đôi người kịp rời nhau, đi khỏi nhà trọ bằng lối sau, nơi có con đường mòn khác dẫn xuống núi.
Nhưng con nhồng ấy vĩnh viễn không nói nữa. Hình ảnh con nhồng câm lặng sẽ làm nền cho chữ “HẾT”. Riêng thằng bé không có kết thúc.
Vĩnh bỗng hụt hơi, chúng ta tìm đâu ra những diễn viên lột tả được tâm trạng của kẻ đang rú lên mừng thoát nạn mà đã – chết – rồi, hở ông? Lưng Vĩnh lạnh buốt, dường như cậu ta đang run. Chiếc giường cũ ọp ẹp lên cơn sốt. Tôi cuống cuồng trút tấm mền của mình cho Vĩnh, và trong lúc đắp choàng lên tận cổ cậu ta, tôi đau đớn nhận ra, tấm mền không cần thiết. Trời ơi, tôi cần thứ gì đó để lau nước mắt.
Thằng bé ấy đúng là vẫn chưa có kết thúc.
Thổ Sầu
L
úc vào nách một con sông gày gò chảy cắt qua đồng, Thổ Sầu như một đứa trẻ tuyệt vọng níu tìm vú mẹ. Dọc triền sông, cỏ kết dày, từ trên bờ thò xuống nước như đất đag gục đầu gội tóc, những cây bần de xa khỏi mé sông, những cây sộp rũ rượi xóa tóc chùm rễ
nâu, những thân cau lẻ đâm thẳng lên trời, vài tiếng gà nhói lên xa xa… tất cả những thứ đó làm cho vẻ mặt Thổ Sầu buồn thiu. Những chiều phai, nhìn ra sông thấy lục bình trôi lơ phơ mấy cái bông lục bình quá thì, cũng phai như chiều. Ngó ra sau nhà thấy một cái vạt đồng trũng sâu, ngoi lên mặt nước những bông lúa thưa thớt, xanh xao. Vườn cũ có vài cây vú sữa, mù u rụng trái đầy mặt đất, mấy bụi tre bụi trúc vút lên trời 1 chùm xanh ngắt…
Khi tôi ra đời Thổ Sầu đã buồn thâm căn cố đế. Đến nỗi những người ở đây không còn cảm giác để nhân biết buồn nữa. Chỉ khách phương xa mới ngây ngất trước bộ mặt sầu muộn của quê tôi. Họ lặng đi. Bàng hoàng. Ngây dại. Và cơn choáng váng đó đã bật lên một ý nghĩ lạ lùng, Thổ Sầu sẽ làm du lịch.
Tía tôi trở tính lầm lù ngay từ khi Thổ Sầu đón lượt khách đầu tiên. Họ săm soi cái nồi méo mó cháy đen và chụp hình chúng tôi ăn cơm chiều bên ơ kho quẹt mặn chát. Tía tôi nói, giọng nẫu nê, tao muốn chết quá, Đậu ơi. Tôi cũng ngột ngạt cứng mình, nên chỉ biết lúng búng nói, thôi kệ họ… Không giải thích được. tại sao khách lại hớn hở và háo hức khi nhìn thấy những căn nhà cột gặm gió thổi lá mục rơi
lả tả, chiếc tivi đen trắng xài bình ắc quy làm thót tim bọn trẻ con khi vở cải lương vẫn còn dài mà khung hình còn chút xíu vì thiếu điện. Những cột xay bột bằng đá xám. Những vách buồng được đan bằng sậy đập giập…
Nhà tôi xiêu vẹo đã lâu. Nhánh khế de trên nóc nhà có bữa rụng xuống mâm cơm của chúng tôi mấy trái chín rục. Vẻ hiu hắt, cũ kỹ của ngôi nhà thường cuốn hút khách dừng chân, ghé vào. Tía tôi tạt vào họ một bộ mặt lạnh tanh, te te bỏ ra vườn, cây gậy dấm dứ trên tay như chực phang vào ai đó. Tôi cũng khó chịu khi người ta hãi hùng níu vai nhau coi tôi lột da chuột dưới cầu ao. Tôi thấy hình ảnh mình – một thằng con trai tàn bạo, man rợ trong mắt họ. Tôi ngọ ngoạy, giãy giụa một cách tuyệt vọng. Bởi suốt một mùa nắng đó, hai tía con tôi chỉ sống nhờ vào tiền bán chuột đồng nên tôi không làm sao cải thiện được hình ảnh của mình.
Khi trời trở gió Nam, mùa mưa kéo theo một bầy sấm chớp ập tới, bộ dang tôi đã bớt tàn nhẫn nhưng vẫn lem luốc vì bận cắm cậu,đặt trúm, soi nhái. Điều đó làm tôi bị thâm một cái tật là tắm lâu, bùn đất sạch rồi nhưng những ánh mắt vừa thương cảm vừa ghê sợ của những người xa lạ cứ rát trên da tôi. Giữa mùa mưa nắng dẳng dai. Tưởng khách chán Thổ Sầu rồi, không dè khách tới đây ngày càng đông. Thổ Sầu quá quyến rũ, khiến người ta mụ mị đi bởi cái nghèo, giản dị đến mức nguyên thủy. Nhiều người khách mô tả, họ như rơi tõm vào một vũng buồn, và chìm trong thứ bùn mát rượi và thơm ngọt mùi đồng bãi.
Những bữa mưa nhiều, khách mừng húm, khoái chí sì sụp lội ra đường. Họ xách dép lội trật vuột trên con đường ọp ẹp
bùn sình, người này nhờ người kia chụp cho kiểu hình ngoi ngóp. Người nào người nấy hớn hở hết biết.
Tía nhìn cảnh đó ngao ngán lắc đầu. Lại nói tao chết à, Đậu. Với tía tôi, chỉ ở Thổ Sầu hoặc chết, phải tía kêu, mình dời đi chỗ khác, Đậu ơi. Ngay lập tức tôi sẽ đốt phứt cái nhà và dắt tía xuống đò. Chưa biết đi đâu, về đâu nhưng rời bỏ chỗ này trước đã. Nhưng đó không phải lựa chọn của tía, tôi chỉ biết cười buồn, “sức mấy mà tía chết. Từ từ rồi quen thôi, tía”.
Quen, như hầu hết bà con ở Thổ Sầu bắt đầu quen làm du lịch. Họ thôi núp trốn mà để mặc khách chụp hình mình đang nấu cơm trong gian bếp thấp chật chội, củi ướt sủi tăm, mù mịt khói, hay đang hứng nước dột xuống từ mái nhà, hay đang khâu chiếc mền bằng vải vụn… Khách có quá nhiều thứ để giới thiệu Thổ Sầu với bạn bè, một chiếc mùng chi chít những miếng vá nhiều màu, mấy cái đèn cóc lụm tim, chiếc giường ngủ ghép bằng thân tre chẻ hai, mắt tre dù đã chuốt kỹ vẫn gù lên lông chông.
Nhưng ngộ, người đông đúc, lượn lờ khắp Thổ Sầu những xóm vẫn buồn. Vài nhà định mở quán phở những rốt cuộc, để giữ nét hoang sơ cho xóm, họ lại chỉ bán bánh dừa, bánh khọt, cốm gạo… Chái bếp nhà tôi sập do mối ăn, nhưng không lợp được, phải chờ mưa nắng cho mớ lá mới ngả màu cũ kỹ một chút. Tía tôi hay kêu trời, bất chợt. Thoảng thốt như trong lòng có những ý nghĩ nào đó bị xáo trộn, bóp ngẹt vọt ra ba tiếng trời ơi trời. Có bữa, tía với tôi ngồi vót tre đan thúng trên tấm đệm rách te tua ngoài hàng ba, vài người khách xăng xái xà vào, kinh ngạc hết hồn khi biết cái thúng kia chỉ bán được chừng mươi ngàn, mà trật vuột lắm,
lúc bán được, lúc không. Môt chị nọ bỗng ngó tôi, cất giọng thoảng thốt, không hiểu tại sao người ở đây ai cũng thấy buồn buồn hết. Làm du lịch thì phải vui chớ. Tía tôi cắm phập cây mác xuống đất, cười khan, “Vui. Nhưng mà nhục… ”. Khách cun cút bỏ đi.
Vì thái độ đó mà tía tôi bị ông trưởng xóm phê bình dữ dội. Chòm tóc thưa của ông chỉ phơ phất ngang vai tôi, tay chém vào không khí liên tục, trưởng xóm nói, “Xóm mình không tài nguyên đất cát gì hết, chỉ sống nhờ du lịch, không kéo khách tới thì thôi, sao anh Hai lại đuổi khách đi”. Tía tôi ngồi im re, không thưa thớt, phân bua gì, nhưng ánh mắt lầm lì, khinh khỉnh.
Khi nắng trở lại ủ Thổ Sầu trong màu vàng úa hoang hoải, sự thù ghét người lạ trong lòng tía tôi lại càng chất chứa. Tánh tía tôi rất cố chấp. Mà cũng do khách không thèm giấu che những ý nghĩ của mình. Những người có quá khứ nghèo thì phơ phởn thấy mình đã thoát được cái nơi (tương tự) như Thổ Sầu. Những người chưa từng nếm trải cảm giác cuộc sống quê mùa thì trầm trồ, thắc mác nhiều chuyện không đâu, thí dụ như chỉ ăn cơm suông, chừng nào hết cơm mới đụng đến mớ đồ ăn ít ỏi. Người thấy cuộc sống chật chội, nặng nề đến đay, bỗng thấy mình ham sống, thấy tràn trề sức lực trong cuộc chen chúc mưu sinh. Phụ nữ luôn có nụ cười kỳ lạ, như thể không ngậm miệng được, nụ cười biết nói, “vậy mình quá giàu so với đám người này”. Đám đàn ông ánh mắt cũng mãn nguyện không kém, “dám chắc là trong ba tháng nữa bà vợ mình không than vãn chuyện lương thấp lương cao”.
Chỉ mấy đứa trẻ là dễ thương. Tôi thích nhìn vẻ thất vọng não bề của chúng khi tới xóm tôi. Tôi bỏ rất nhiều thời gian la cà ngoài bến, ngó mấy đứa nhỏ giãy nảy, kêu khóc bên đôi giày leo núi và bộ đồ tắm biển thừa thãi. Tôi cười ngất. Nhất là khi ra về, nhiều đứa ấm ức cằn nhằn:
- Hổng vui gì hết… Nhìn người ta nghèo hổng vui gì hết.
Nghe câu đó tôi vừa thích, vừa thương. Ông trời mà cho tôi thằng con như vậy, dám tôi đội lên đầu lắm.
Tôi nói điều đó với Huệ, đứa con gái bên xóm chuyên thắt cào cào bằng lá dừa bán cho khách du lịch. Nó cười buồn, biểu tôi, muốn có con thì rủ con Mận hay con Đèo. Mai mốt nhà Huệ đã dời ra chợ huyện. Má nó ao ước trước lúc chết rong nhà có cái ti vi màu.
Khách sẽ bực lắm, thất vọng lắm nếu giữa Thồ Sầu đìu hiu lại có ti vi màu.
Huệ nhìn tôi một cách vô vọng, “Dậu đi với Huệ nghen ?”. Tôi cúi mặt nhìn đôi bàn chân đang ngập trong bùn, không, tôi không bỏ Thổ Sầu được,vì tía tôi không đời nào chịu dời đi. Vì sau vườn cỏ lại mon men bò lên mộ má tôi, ông bà tôi…
Của Ngày Đã Mất
C
ủa ngày đã mất
Vào giữa mùa khô, chúng tôi thực hiện chuyến du khảo đồng bằng châu thổ. Hai tuần cuối cùng của cuộc điền dã, chúng tôi ở lại Thổ Sầu. Những khúc hát của các bà má ở xứ này
đã giữ chân chúng tôi lại quá lâu.
Chúng tôi thuê một chiếc ghe nhỏ, len lỏi vào những con kinh, rạch chằng chịch của Thổ Sầu. Sáng, cậu lái ghe là một người ít học, hoang dã và mạnh mẽ. Sáng cùng mẹ đi bán hàng bông từ năm mười hai tuổi, cậu ta rành rẽ đường ngang lối tắt, thuộc lòng con nước lớn ròng. Hôm gặp Sáng ở bến sông, tôi nói tôi cần tìm những bà già biết hát, cậu ta cười, “Nhóc luôn. Chú muốn đi tui chở”.
Và Sáng không quá lời, hôm nào chúng tôi ra đi cũng gặp khúc hát mới từ một bà già trầu đỏ trên môi. Em có vẻ phấn khích với những giai điệu mà chúng tôi chưa từng biết, chưa ai sưu tầm bao giờ, “Phụ mẫu đánh em quặt què quặt quại. Treo em lên tại nhánh bần. Rủi mà đứt dây rớt xuống em cũng lần theo anh…i a…”(1). Em làm việc luôn trên ghe, nghe lại những đoạn băng ghi âm, đính những mẫu ghi chú vào và viết lời, ký âm vào giấy. Cuối ngày, tôi sẽ nghe băng và đối chiếu với bản ký âm. Em ngồi gần đó, dõi theo nét mặt tôi, và thường nhoẻn cười khi thấy tôi cau mày khi phát hiện vài sơ sót nhỏ.
Em theo tôi làm công trình sưu tầm, khảo cứu dân ca hơn một năm, không vì niềm đam mê nào rõ ràng ngoài việc em
thích tôi, “vì thầy giống ông Ba”. Đó là ông già hàng xóm đã làm bạn với em suốt một tuổi thơ thui thủi, cha ở tù vì biển thủ của công, mẹ mải mê lao vào những cuộc hẹn hò. Em cắt tóc bên cao bên thấp tới trường, trông khá quái dị. Và tôi đã xoa đầu em một cách bâng quơ, trong một cơn phấn khích mà tôi không thể nhớ. Em nhắc lại rất chi tiết, “hôm đó tay thầy thơm mùi cỏ cú. Em biết cỏ này, vườn ông Ba nhiều lắm”. Ngừng một chút, em dụi mặt vào ngực áo tôi, giữa cái sảnh đông người, “thầy cũng dịu dàng, như ông Ba”.
Tôi cười, em ngây thơ tới mức ngay cả sự tàn tạ, khô kiệt của sự sống và dịu dàng cũng không phân biệt được. Nên việc cho phép em tham gia nhóm nghiên cứu cũng vì một cái gật đầu bâng quơ. Khi hoạch định chuyến đi, em níu tôi đòi theo, tôi ngó em từ đầu tới chân, giọng hơi mỉa mai, “vụ này cực khổ lắm, cô nhắm chịu nổi không?”. Em cười, “Dạ, không sao đâu. Miễn là em được ở bên thầy…”. Câu cuối cùng em hạ giọng, nghe nhẹ như một lọn gió bấc buốt qua lớp áo, tôi lấy kính ra lau.
Khi ấy tôi đã sáu mươi chín tuổi. Em mới hai mươi hai. Tôi không bao giờ muốn nhớ điều đó, nhưng đôi kính lão, dáng người héo như chỉ là da bọc lấy những đốt xương rời, mái tóc đã ngã màu bông lau chín… tất cả những gì thuộc về tôi đều nhắc nhở, tôi đã quá già. Tôi từ chối thẳng, “thôi, cô ở lại. Tôi sẽ đi với Trâm”. Cái tên của một đàn chị khá giỏi giang không làm em thất vọng mảy may, em tỉnh bơ quay đi.
Hôm ra xe thì em đã cõng ba lô chờ sẵn ở đó, thấy tôi đi một mình em không có vẻ gì ngạc nhiên, chỉ cười chòng
chọc, ý như “em biết mà, thầy nói gạt em”. Tôi ngẩn ngơ không biết làm gì với một cô gái thông minh và quá hiểu mình thì em đã kéo tôi lên xe. Em ngủ suốt đường đi, ngủ ngon lành như đứa trẻ con. Nhiều lần đầu em dục dặc mất điểm tựa, tôi đã lén kéo vào mình, nhưng bàng hoàng nhận ra vai tôi đã cứng khoèo.
Những ngón tay cũng khô khi tôi lần vào ngực em trong tối đầu tiên. Em giấu nụ cười trong chiếc mền, “được nằm kế bên thầy, thích lắm”. Cái cảm giác mình đang khô đi khiến tôi rã rời, hầu như không có một cơn rạo rực nào khiến tôi có thể ôm lấy em. Lời bỗng rát trên môi, lục cục lòn hòn, xẵng lè, “tôi không thể ngủ được khi có người lạ”. Em vẫn cười và nhích ra mép giường, suốt đêm không chạm vào tôi. Tôi thì không sao chợp mắt, phấp phổng sợ em mê ngủ, lăn độp xuống đất.
Vẻ mặt hốc hác của tôi sáng sau đã khiến em áy náy. Những ngày rong ruỗi tiếp nối, luôn có hai giường riêng biệt, cho tôi và em. Giấc ngủ không vì vậy mà đến với tôi dễ dàng.
Không biết có phải vì vậy mà tôi cáu kỉnh suốt, chỉ vì một nốt nhạc sai, tôi cũng có thể càu nhàu, giận dỗi. Nhưng mỗi lần tôi nhăn trán thì em chỉ rụt cổ cười. Có lần tôi giận đến xé phăng bản ký âm đi, em lại gần và cắn vào tay tôi, nheo mắt, “thầy tính đuổi em đi bằng mấy cái lỗi nhỏ xíu này hả?”. Tôi ngó cái dấu răng trên da thịt mình, cảm giác em gần gủi tới mức như đang ở trong tôi. Bản ký âm em làm lại không hề có một sai sót nào. Dường như em sung sướng cố ý mắc một vài lỗi để buộc tôi sưng sỉa, rầy rà. Tôi biết điều
đó, nhưng không hiểu sao tôi lại chờ đợi được cuốn vào vở kịch của em bày sẵn.
Thị tứ đã lùi xa sau lưng, chúng tôi đi sâu vào những xóm làng heo hút. Cái túi chứa những cuộn băng cassette ngày càng đầy, giữa đêm em mở lại tiếng gà trưa, hay ai đó ới lên “ăn cơm…” trong một khu vườn thăm thẳm. Bờ lau xào xạc gió. Nước chảy vào họng đìa. Con chim nào đó kêu ánh ỏi. Một ngày đã qua với em là ngày không bao giờ mất. Tôi thì mất trắng, đôi khi nằm giường bên này, mở cuộn băng ký ức của riêng mình, nghe lại tiếng khóc ngất của em khi bị đỉa đeo, tự hỏi, sao lúc đó tôi không ôm em vào lòng mà chắp tay sau đít càu cạu, “chán không chịu nổi. cô còn tính khóc tới chừng nào nữa?”.
Vài lần lội tắt qua những cánh đồng tàn rạ để đến cái xóm nhỏ vắt vẻo giữa đồng khơi, nơi có bà già nào đó đang cất giữ trong ký ức một câu hò, điệu lý mà chúng tôi chưa biết, tôi đã tưởng cái ngày hôm đó không bao giờ mất. Giữa trời và đất lồng lộng, bỗng dưng tôi cười xòa, nói đùa mấy câu ý nhị. Cái cảm giác chỉ có em và tôi và cây cỏ dại trên đồng làm tôi thấy dễ chịu. Thậm chí tôi chủ động nắm tay em, và bàn tay nhỏ nhắn đó thoáng lạnh đi vì bất ngờ. Em giả vờ ngó bâng quơ mây lên trời, lâng lâng vui. Nhưng tôi đã không giữ tay em được lâu, vì khi rình bắt con chuồn chuồn gần cái ao nhỏ sắp cạn nước bên bờ ruộng, tôi đã thấy lại mái tóc trắng xóa của mình. Và cơn nắng khô khốc trùm phủ lên tôi, khi bước vào cái xóm nhỏ đó, nghe mời, “hai chú cháu uống ly nước dừa cho mát rồi hẵng đi”. Tôi ngồi rũ ra, thở dốc, không hoàn toàn vì điệu hò mà chúng tôi cần tìm đã bị chôn vùi tuyệt tích xuống đất cùng với một người già, bảy tháng trước.
Cuộc đi của chúng tôi bỗng dưng chậm lại. Em hay than mỏi chân, ngồi ì ra dưới một gốc ô môi bên con đường xóm vắng người. Tôi cằn nhằn “kiểu này thì biết chừng nào mới tới chỗ đây. Tôi đã nói là cô chịu không nổi mà. Thiệt là… chỉ làm vướng chân tôi”. Em cười hinh hích, kéo tay tôi ngồi ngồi xuống cạnh mình, nói “thầy ơi, thầy mỏi chân đi”. Sau câu nói ấy thì tôi thấy mình bỗng mỏi thật, vì chỉ cần đi chút nữa, gặp người đời, tôi sẽ thấy lại tuổi sáu mươi chín của mình trong mắt họ. Sẽ phải nghe câu nói hồn nhiên của một người hồn nhiên, “Ông anh có con gái ngộ quá, phải ở gần tui hỏi cưới cho thằng út tui, mình làm sui gia chơi”. Và em bỏ chén cơm ăn dở xuống, rối bời nắm lấy tay tôi, “không phải đâu, chú ơi, không phải…”. Cái khoảnh khắc rối bời này sẽ lặp đi lặp lại, chừng nào em còn ở bên tôi.
Tôi muốn ngồi mãi ở cái dưới vòm bông ô môi đỏ, vì chút nữa thôi, trong khi em đặt máy ghi âm một câu hát dân gian, tôi chụp hình gương mặt già quéo của bà cụ và máy ảnh bỗng run, tôi thấy chính mình trong ống kính, lụ khụ, hom hem, miệng phập phều đôi môi trống. Tôi sẽ ở bên em như thế này sao, như một bộ xương đang khô đi, rơi ra từng lóng một. Bà cụ vẫn đang say sưa trệu trạo hát, “Nước chảy lánh linh chảy ra Vàm Cú. Thấy dạng em chèo cặp vú muốn hun”, em cười ngắt nghẻo, “trời đất ơi, ngoại làm con đau bụng rồi nè”.
Tôi gần như không dám nhìn vào cái cười trong trẻo đó vì sợ mình sẽ nhớ lâu. Chuyến khảo cứu đã bước vào những ngày cuối, và khi tới Thổ Sầu, tôi đã giữ được thái độ lạnh lùng với em. Một sự xa cách cần thiết cho tôi thanh thản về lại phòng làm việc trong Viện Âm nhạc, hoàn tất công trình
nghiên cứu của mình cho đến cuối đời. Và cho em đủ tỉnh táo để thấy rằng những thanh niên cùng khoa xứng đáng hơn tôi.
Nên thời gian ở Thổ Sầu tôi thường cau có, Sáng thấy đôi khi tôi gầm gừ em chỉ vì những lỗi nhỏ, cậu ta cằn nhằn, “chú ỷ lớn rồi ăn hiếp cổ…”. Tôi nạt lại “cậu thì biết gì…” rồi bỏ đi chỗ khác. Sáng day qua em, an ủi, “thây kệ ổng, mấy ông già hay khó tánh…” rồi ngẩn ra khi thấy em cười tỉnh bơ, chẳng có vẻ gì buồn bã. Tôi hoang mang, cáu giận cũng là một cách quan tâm. Nhưng dửng dưng thì có tác dụng không?
Chiếc ghe đưa chúng tôi đi từ khúc hát này đến khúc hát khác, vì sông rạch chằng chịt, chúng tôi không thể quay lại thị xã trong ngày. Đêm chúng tôi ở lại nhà bà con, ngủ trên những chiếc vạc cau gồ ghề, cọt kẹt hay bộ ván đã bị mọt đục nham nhở. Ngày lại, chúng tôi đi dọc những triền sông mãi miết những hàng dừa nước, những lùm chùm gọng, những bụi ráng, ô rô… Giữa những câu hát phều phào đứt quảng vì thiếu hơi “em đi tìm anh nước mắt nhỏ úa cọng cỏ vàng. Anh không tin đi trở lại mấy nẻo đàng em qua” đôi khi tôi được nghe lại tiếng bìm bịp kêu chen lẫn trong nước chân khỏa vào nước, và giọng của Sáng ngập ngừng, “chân của đó trắng quá chừng…”. Tôi ngồi nghe mớ âm thanh đó với vẻ mặt điềm nhiên, vì tôi biết, em đang dõi theo mình.
Không phải vô tình mà những cuối ngày, khi ngồi đối chiếu lại băng và bản ký âm, tôi thường được nghe những cuộc chuyện trò. Tiếng tu hú gọi bầy tao tác, sau đó là giọng Sáng, bữa nào nghe tu hú kêu tui mệt muốn chết. Em hỏi, “sao vậy ?”. Sáng cười khà khà, “vì tui mắc kêu theo nó, cứ
tui nín nó kêu, tui kêu nó nín, một hồi muốn đứt hơi”. Em cười giòn. Sau đó là tiếng gió xào xạc, tôi đoán là em và Sáng đang ngồi dưới một bờ tre. Rồi Sáng thở dài, “mai mốt đó về chắc tui buồn ác liệt…”. Tôi nhấn nút stop, như một động thái vô tình, sau khi sửa lại bản ký âm. Tôi thờ ơ vặn mình cho đỡ mỏi, rồi nằm dài khoan khoái trên sạp ghe. Ở đằng mũi, em làm sao thấy tôi đang tái nhợt đi.
Thời gian ở Thổ Sầu vì thế mà hiện diện một cách bất thường. Ngập ngừng, dằng dặc với tôi và em nhưng quá mau với Sáng. Chạng vạng nào Sáng cũng chép miệng than, trời ơi, mới đây mà hết một ngày rồi. Thích em không giấu giếm, có bữa Sáng táo tợn hôn lên mặt em rồi nhảy ào xuống nước. Em ngó về phía tôi, và tôi thì cố gắn lên môi nụ cười bình thản.
Em cúi đầu, nhìn sông trôi xơ rơ.
Buổi chiều của ngày cuối cùng trước khi Sáng chạy chiếc ghe trở lại thị xã, em cho tôi nghe một đoạn băng thừa, Sáng nói, “tối nay tui lấy ghe chở đó lại đằng xã uống nước chơi, cũng gần đây thôi”. Em ngập ngừng, ừa, cũng được. Tôi chuyên chú nghe lại điệu Lý tình tan, “Có con chim nhạn bỏ đàn. Qua đây nhớ bậu bò càng khóc thương”, rồi bôi bôi xóa xóa trên tờ giấy trước mặt. Cây viết tuôn mực như đang khóc. Để kìm lòng lại, tôi bỏ chúng qua một bên, soi mình xuống sông, để thấy tóc mình, gương mặt gãy khúc trên mặt sóng, mầy già rồi, mầy già rồi, mầy già rồi.
Lúc em xin phép đi với Sáng thì mặt tôi đã ủi phẳng, trán tôi không nhíu lại, mày tôi không cau, nụ cười tôi an nhiên, dặn dò mấy câu như chính con gái mình hẹn hò. Tôi mà chớp mắt, em sẽ trở lên bờ. Buổi tối trong căn nhà mà
chúng tôi nghỉ lại, tôi ngồi đập muỗi lép bép đến khuya, bà cụ già đã hát điệu hò huê tình lúc chiều hỏi tôi sao buồn vậy, tôi cười, đâu có, tại trà đậm quá. Bà gật đầu, “Ừ, tụi nhỏ chậm thiệt, tới giờ vẫn chưa về”. Tôi không tin bà lãng tai, dù có lúc, tôi hỏi bà đi lại có khó không, bà trả lời, ăn thịt chó tội chết.
Nửa đêm. Tiếng dây xích buộc ghe xủng xẻng dưới bến làm tôi chui vào mùng và ngủ say, thanh thản. Tôi tin rằng chưa bao giờ mình lại ngủ một giấc sâu, đến mức cảm giác như mình đang chìm từ từ vào chết. Em bước lặng qua chỗ bộ vạc tôi nằm ngáy. Dưới bến, Sáng chắc là không ngủ được, tiếng dây xích mũi ghe cứ lao xao suốt.
Sớm sau, lúc chạy chiếc ghe cũ chậm chạp ạch đụi đưa chúng tôi ra thị xã, Sáng nói, mai mốt tui lên Sài Gòn làm mướn, thể nào cũng kiếm hai người chơi”. Em hoảng, “Anh không bao giờ tìm được tụi tôi đâu. Đừng đi”. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào Sáng sẽ nghe lời em, bắt đầu từ ý nghĩ bỏ Thổ Sầu, chiếc ghe và những dòng sông, cậu ta bước vào cuộc theo đuổi biền biệt.
Cái ý nghĩ chính chúng tôi đã làm thay đổi số phận của Sáng khiến chuyến xe ngột ngạt. Tôi và em vẫy tay cho đến khi Sáng chỉ còn dấu chấm than nhỏ nhoi, tuyệt vọng. Em day lại, quệt nước mắt và suốt chặng đường dài, không hề nhìn tôi. Cái cảm giác mất em bắt đầu ăn lan trên từng thớ thịt. Chuyến xe cập bến vào một buổi chiều tàn lụi, nhưng chúng tôi mãi mãi không trở về được cái nơi mình ra đi. Đời vốn không buồn, nhưng người ta cứ làm cho nó buồn.
Chiếc taxi đưa tôi đi một quãng, thì cái trống trải đã thấu buốt tận đỉnh đầu. Tôi ríu giọng nhờ người tài xế quay lại
chỗ em đã buông lời từ giã dửng dưng. Chỉ còn nhao nhác những khuôn mặt lạ, em đã mất trước khi ngày mất. Sẽ còn gặp nhau, nhưng em không là em cũ. Tôi gần như nói ra bằng lời, may quá, cuối cùng thì cô ta cũng chịu rời khỏi mình. Thật may.
May quá, mai kia khi trút hơi thở cuối cùng, tôi chẳng phải nặng lo cho em, lúc đó ngồi cạnh tôi với gương mặt ướt.
Chú thích
1. Mượn từ “Bộ hành với ca dao” của nhà thơ Lê Giang
Một Chuyện Hẹn Hò
M
ưa rồi. Không phải là thứ mưa nhão, ướt, đẫm nước, dịu dàng mà Cóc từng quen thuộc, có cảm giác mưa hơi rát, trơ như một tiếng cười khan. Gió cũng lạ lẫm, chúng rào rào đuổi
nhau trên cao, trên ngọn cây, mái nhà. Gần mặt đất là một khoảng không lặng phắt, cả cái
lá bìm bìm đeo trên vách chòi cũng không thèm ve vẫy. Cóc hơi lo lắng, sáng này nghe người ta bơi xuồng rôm rả đua nhau đi mua mì gói, họ nói bão tới rồi. Có thùng mì dằn trong tủ, người Thổ Sầu chẳng cần chằng chống, ràng rịt nhà cửa, cũng bình thản qua bão cấp Mười. Nghĩ tới đó, Cóc mắc cười.
Cóc ra cửa, ngó nghiêng. Mưa tạt ướt mặt. Đầm Sầu lặng ngắt. Trong màn mưa đục ngầu ngầu, những cái chòi lá nằm rải rác, thưa thớt, đờ đẫn. Bình thường, Đầm Sầu đã vắng người, vì đã qua mùa tôm cá, bây giờ lại thêm tin bão, đầm nước hoàn toàn hoang vu. Cóc thấy bão đã đến, thật gần.
Nhưng đôi người vẫn nằm kia, tỉnh bơ, lơ ngơ ngủ. Họ ra đây lúc xế chiều, khi trời vẫn còn một chùm nắng héo. Như thể họ tình cờ đi ngang qua căn chòi hoang này, tình cờ thấy người quen, và ghé lại. Người đàn ông chạy xuồng máy đến trước, phất áo quét sơ những bụi bặm, chửi cha mấy cái mạng nhện mắc trên tóc, sau đó nằm dài, nhịp chân, ca lửng tửng. Một hồi thì người phụ nữ tới, những nhát dầm của chị rất dè dặt, chần chừ. Và ngập ngừng, chị vẫn ngồi dưới xuồng, ngó xuống ngón chân:
- Ra đây để nói với anh, em… không thể… Có bão… Anh cười, không nói gì, cầm tay chị, mơn man. - Ừ, thì bão…
- Em sợ anh chờ nên mới ra nói anh hay. Có bão thiệt mà, anh.
Chị hụt hơi, bởi bàn tay nhỏ nhắn nhiều vết chai của mình vẫn bị nắm lấy, nâng niu. Từ đấy, không rời. Cóc ngó chị, nghĩ ngay, chị ta đã thua rồi, thua ngay từ ở trong bờ lá xa thẳm kia, khi quyết định hướng mũi xuồng ra đầm. Chắc mẻm, chị sẽ bước lên chòi. Cóc đếm một… hai… hai rưỡi… và cười, thấy chưa, thua rõ ràng.
Cóc cũng đã từng hẹn hò, nên Cóc biết. Nó bao gồm một chuỗi thua cuộc liên tục, mới đầu là sự choáng váng khi gặp gỡ, ra về, cảm giác thất bại sẽ đau nghiến lòng người ta, mắc mớ gì mình lại xao động dữ vậy cà, mình đâu có được xao động, mình đã không còn quyền xao động. Những lần gặp sau, thương nhớ sẽ thít chặt hơn. Đến một bữa, đàn ông bỏ nhỏ, “anh nhớ em quá, mình gặp riêng chỗ nào nghen”, ngay lập tức, người ta lắc đầu. Đàn ông vẫn cười, anh chờ em ở chỗ đó, chỗ đó, em không tới, chắc anh chết… Người ta thảng thốt, thôi, đừng chờ. Nhưng chính người ta lại chờ, đau đáu nghĩ về cuộc hẹn, lòng bảo không đi, không thể đi. Nhưng người ta bước xuống xuồng, bơi đến chỗ đó chỗ đó, nhưng đi một quãng khập khừng, lại muốn quay về, cắn môi nghĩ, thôi ra nói một câu để mắc công người ta kia chờ. Và sập bẫy. Trên đường về, cảm giác thua cuộc ấy rõ ràng hơn, người ta đay nghiến mình, tại sao mình lại đi, đã
nói không gặp sao lại gặp... Đi, rồi sao nữa, ngày mai, tương lai...
Cóc đã từng hẹn hò, nên Cóc biết. Nặng nề. Thương tổn. Ngồi trong cái hốc nhà tối, nhìn ra, Cóc thấy ngậm ngùi, cho chị. Cóc biết chị, biết cả chồng chị, một người hay say, hay đứng phắt dậy giữa lúc nhậu, hỏi mấy thằng bạn, ê, đi với tao không... Đám kia hí hửng hỏi đi đâu, anh ta cười phô hàm răng xếu xáo ra, “Đi đái! ” rồi cười hơ hơ hơ, vô duyên dễ sợ. Chị thì ngồi đâu đó, chơi với thằng con mà dỏng lổ tai lên nghe xem chồng có gọi gì không, nướng con cá khô, hay gọt thêm mấy trái cóc, trái ổi. Chị héo hắt, lam lũ, lúc nào cũng khô quắt, cả lúc chồng không đánh, chị cũng gồng lên như gánh một gánh vô hình. Cóc không biết là chị cũng dịu dàng, sạch sẽ và đầy sức sống như bây giờ, như đang ngồi kia, bối rối gật đầu, lắc đầu, buộc phải nói thì chỉ hai tiếng: “Dạ” và “Thôi”, mặc cho người yêu nói tuôn tuôn, những nhớ thương liên tu bất tận. Rồi miệng không nói bằng âm thanh nhưng lời vẫn ngọt ngào. Sau đó, thì ánh nhìn cũng nói, vòng tay cũng nói…
Cóc không thể kể tiếp, bởi vì nó phải lấy tay che mắt. Không thể kể, bởi kể ra người ta sẽ phát hiện ra nó đang dòm lén qua kẻ tay, sẽ phát hiện ra Cóc cũng là giống như những kẻ tầm thường, miệng nói đạo đức, chê mấy chuyện trai gái là hạ tiện, tục tĩu nhưng với bạn tình vẫn háo hức. Cóc đổ thừa tại bàn tay không khép lại được, nhưng nhờ nhìn lén, nó phát hiện ra chuyện không may. Xuồng trôi. Cả hai chiếc đều tuột dây, bởi những bàn tay buộc chúng đều bồn chồn. Cứ như xuồng cũng thực hiện cuộc hẹn hò khác, chúng đủng đỉnh rời nhau, trôi hấp háy xa xa, như chẳng hề quen biết. Cóc hoảng hồn, nhảy chồm lên, kêu “Xuồng trôi
kìa! Xuồng trôi mất tiêu kìa!”. Chỉ nghe chị yếu ớt nói, “Đừng anh… Có con cóc…”. Cóc thở dài, bây giờ có con voi ở đây thì cũng vậy thôi. Nên xuồng cứ trôi, chậm rãi, nhơ nhởn, đến khi không còn nhìn thấy trong tầm mắt nữa.
Lúc người phụ nữ giật mình thức dậy, thảng thốt quờ kiếm tấm áo thì hai chiếc xuồng đã gặp nhau ở một bờ lá nào. Cũng có thể chúng bị gió xô dạt về hai hướng khác. Như lúc này, mưa cũng bị gió giật, xé bừa ra, tơi tả, tạt ướt cả bắp chân chị, dẫn cái lạnh chạy buốt sống lưng. Chị hoảng hồn, kêu lên từng tiếng rời:
- Trời ơi! Anh! Ai lấy xuồng mình rồi. Mất hết rồi.
Cóc mắc cười, mưa bão như vầy ai mà mò ra giữa đầm lấy xuồng. Nó trôi rồi, bà chị ơi. Tui kêu rã họng, mấy người không nghe, ráng chịu. Người đàn ông mệt phờ ngồi dậy, thò đầu ra mưa, ngó quanh quất, giọng mệt phờ, ờ ha, mất tiêu. Trôi mất tiêu rồi. Giọng chị bỗng nghẹn lại, em làm sao về nhà được đây... Anh cười cười, chụp lấy tay chị, về làm gì, ở lại với anh. Mắt chị lạc đi, em làm sao về nhà được, bão tới sát bên rồi. Anh cũng là bão vậy, thêm cơn bão nữa nghen, anh vẫn mơn trớn. Cóc hơi bực, hãy nhìn chị ta đi, chị đang lo lắng sắp té xỉu rồi kìa. Chốc nữa cơn bão tới, căn chòi này chắc chắn bay mất, may lắm thì còn trơ lại cái sàn đóng bằng vạc cau. Sau đó thì sao... Nếu sống qua bão, thì cũng bị lạnh teo, đói meo, bởi ở đây hoàn toàn không mì gói. Cóc cũng đang đói, bầy muỗi dự cảm được bão, chúng nấp sâu vào bẹ những đám lá quanh đầm. Anh đã nhận ra sự bất an của chị qua bàn tay mướt mồ hôi, anh cười, sau bão thì người ta sẽ thấy mình ở đây, họ sẽ ra
rước mình, em lo gì. Câu nói đó đã dìm chị sâu hơn vào vô vọng, chị rớt nước mắt.
- Người ta sẽ thấy hai đứa mình …
Chị thảng thốt. Những ý nghĩ bỗng bời bời, xấp xãi chạy trên gương mặt tròn, tái ngắt. Cóc thấy chị ngó nó, mà không ngó nó. Trống rỗng, tuyệt vọng.
- Bà con sẽ nghĩ nầy nghĩ nọ…
- Thôi mà, em. Mình sẽ nói là dọc đường bị bão, tình cờ gặp. - Người ta đồn rùm lên…
- Thôi đi, em.
- Em biết nói sao với con em bây giờ... Chị kêu lên, rúm lại, hức một tiếng, như ý nghĩ kia đã xuyên thẳng qua người. Anh nằm ngoẻo xuống, nửa như thật sự rã rời, nửa lại giống đang giễu cho vui. Nhưng chị không cười, chị vạch vách lá nhìn ra, như chiếc xuồng đang trốn ở đó, trêu cợt chị. Không có gì cả. Cóc ngó theo, nó cũng mong có một phép thần kỳ. Chị day vào, bắt gặp anh đang nhìn mình, giận dỗi, xa lạ. Cảm thấy mình hơi vô lý, chị cười, như ai đơm sẵn nụ cười, và chị gắn hờ lên miệng. Trời ơi, Cóc kêu lên, không vui mắc gì phải cười để chiều chuộng lòng nhau...
- Tại em sợ… Hồi xưa, em có nhỏ bạn. Đời nó buồn lắm, mẹ nó bị tù…
Anh cười khào, ứ hự, bất chấp mạng sống lặn lội hẹn hò trong mưa gió gầm gào, anh không chờ đợi để nghe câu chuyện lãng xẹt, chẳng dính gì tới chuyện tình mình. Nhưng chị vẫn kể, giọng thản nhiên, như thể câu chuyện đã làm chị bình tâm lại, như chuyện đó thì phải thì phải nói bằng
ngữ điệu dửng dưng đó, bởi có phải chuyện của chị đâu, có phải nỗi đau của chị đâu.
- Mẹ nó làm giám đốc, nhưng thích cải lương, thích nghệ sỹ, xài nhiều tiền của công ty vô mấy chuyện hát hò. Có bữa, nghe Minh về hát bên Thổ Cường, bà chạy xe hơi gần hai trăm cây số để đem cho ông Minh mắc dịch đó ơ cá dứa kho tộ. Nhà báo người ta viết về vụ đó quá trời.
Anh lại mơn man cổ chân chị, bây giờ nó đã lạnh, cứng đờ như nước đá. Việc của anh là làm cho da thịt chị ấm lại, mềm ra, anh không đếm xỉa gì câu chuyện xa xôi đó, chỉ mỗi Cóc lắng nghe bi kịch của cuộc đời, bi kịch của đứa con bỏ nhà đi, vì xấu hổ, buồn tủi, không phải vì người mẹ ở tù mà vì ơ cá kho, không phải là ơ cá kho bình thường trên mỗi mâm cơm người ta hay mút mút, quẹt quẹt, mà ý nghĩ, ngoài ơ cái kho, phải còn cái gì nữa. Cái - gì đó thì ai cũng biết là cái - gì.
Cóc bỗng liên tưởng tới đứa con chị đang trốn bão trong căn nhà chỉ có mì gói, không dây chì, không bao cát. Nó sẽ qua khỏi cơn bão này, dù mái nhà có bay vèo, có đổ sập. Có gì đâu, bão lần nào cũng tan hoang, nhưng rồi sau bão, cả nhà nó sẽ bò ra từ gầm bộ ván ngựa, thu dọn, sắp xếp, cất lại cái nhà khác, nhỏ hơn, te tua, tuềnh toàng hơn. Đứa con sẽ đi qua cơn bão này gọn ơ vì mì gói đang có sẵn. Nhưng có một cơn bão khác mà cả đời nó cũng không đi khỏi, nó sẽ nhớ hoài chuyện mẹ nó cùng một người đàn ông xa lạ ở trong căn chòi giữa Đầm Sầu, khi ai nấy đều về nhà, về chỉ để nhìn nhau chứ không ngăn được cây đổ, nhà sập. Nhưng hai người đó không về, họ ở ngoài đầm, để làm gì thì không nói ra cũng biết làm gì.
Cóc muốn khóc, tội cho cái cảnh tận cùng tuyệt vọng của chị. Và tận cùng cô đơn, dù người đàn ông kia có (lại) siết chị vào lòng. Cóc mà là anh ta, Cóc chỉ ngồi im lặng, nghe câu chuyện của người bạn nào đó, nghe cái giọng dửng dưng, nhưng che tiếng tim người đang nhói. Đàn ông, trong máu có pha chất vô tâm, mà thằng cha này vô tâm hết chỗ nói, tới mức bi kịch “ơ cá kho” là của chị (ví dụ vậy, nghi nghi vậy) thì thằng chả cũng không biết cách nào để an ủi một tấm lòng đau.
Ngay cả tình yêu trong chị vừa giãy chết, anh ta cũng không biết, nên tay cứ miết mãi trên da chị, giờ đã lạnh như đồng. Mắt chị đã tắt ánh nhìn lấp lánh, cồn lên một chút thất vọng, một chút não nề. Đúng cái kiểu của Cóc khi người yêu bỏ về trước sau cuộc hẹn hò mây mưa. Lúc Cóc vẫn còn say ngủ. Cóc thức dậy, bạn tình đã nhảy xuống xuồng theo người ta vào trong xóm. Cóc chua chát, trời sanh nó có bộ da nhạy cảm, cái phổi nhạy cảm. Nó không trở về đất nữa. Căn chòi có bậc thang cũ, đuôi lá lệt phệt, che kín, con nước lên xuống đủ độ ẩm ướt, Cóc lấy làm nhà. Nó dần quên đời đau.
Để bữa nay chị lại là Cóc của một bữa xưa nào. Có thể thấy chị đang khóc lặng. Cóc ngó theo ánh nhìn của chị đang mông lung ngoài trời, cả Đầm Sầu là một khoảng mưa mờ và tối. Xa xa, đằng sau bờ lá, nhà chị ở đó, chữ nhà không bao gồm người chồng cười hơ hơ hơ, nhà - chị là đứa con đang ôm mền gối chui xuống dưới bộ ván mọt ăn lổ chỗ như cái rổ, nằm chèo queo. Nhà - chị đang hỏi, không biết làm sao mà mẹ chưa về, rốt cuộc mẹ đi đâu... Nhà - chị không
hề nghĩ, nếu biết mẹ đi đâu, làm gì nó sẽ bị bão quăng quật, hành hạ suốt đời.
Cóc lại gần chị hơn. Nó có thể nghe được tim chị bỗng đập rộn lên, tung phá những bức tường đang quây nhốt chị, ngạo nghễ trước cơn bão đang khoái trá lồng lên, hú hét. Cóc nghe thoáng một lời giã biệt, rất khẽ, hay là chị chẳng nói gì hết, chị nhảy ào xuống nước, nhanh như một cái nháy mắt, nhanh hơn cả khoảnh khắc Cóc đớp một con muỗi đói. Anh chồm theo, chẳng kịp ới lên, bàn tay chìa ra, chới với nhìn chị bươn bả vẹt sóng, nôn nả về phía bờ lá xa xăm. Cóc vói ngó theo, màn mưa che khuất tầm nhìn, thấy cái đầu chị rướn cao, nhấp nhô như con rùa đang bơi, đầm thì xa, rộng, sóng đang cồn lên, giận dữ. Không biết chị có đủ sức để chạm tay vào bờ đất...
"""