"Gieo Mầm Trên Sa Mạc - Masanobu Fukuoka full prc pdf epub azw3 [Nông nghiệp] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gieo Mầm Trên Sa Mạc - Masanobu Fukuoka full prc pdf epub azw3 [Nông nghiệp] Ebooks Nhóm Zalo Đây là cuốn ebook được dành tặng bạn! CÙNG MỘT TÁC GIẢ (đã xuất bản phiên bản tiếng Việt): CUỘC CÁCH MẠNG MỘT-CỌNG-RƠM Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh Cánh chuồn sẽ là đấng cứu thế GIEO MẦM TRÊN SA MẠC Làm nông tự nhiên, Phục hồi sự sống trên phạm vi toàn cầu và Giải quyết căn bản vấn đề An ninh lương thực Masanobu Fukuoka Biên dịch XanhShop NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIEO MẦM TRÊN SA MẠC Bản quyền tiếng Việt © Công ty TNHH TA XANH, Việt Nam 2016. Xuất bản theo hợp đồng bản quyền giữa MICHIYO SHIBUYA và Công ty TNHH TA XANH thông qua UNI Agency, Japan. Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phân phối dưới dạng in ấn, văn bản điện tử hay phát tán trên mạng internet mà chưa có sự đồng ý bằng văn bản của đơn vị giữ bản quyền đều là vi phạm pháp luật và làm tổn hại đến quyền lợi của tác giả. わら一本の革命総括編粘土団子の旅 WARA IPPON NO KAKUMEISOUKATSU-HEN NENDO DANGO NO TABI Published by Shunjusha Publishing Company Copyright © 2010 Masanobu Fukuoka Vietnamese translation rights arranged with Michiyo Shibuya through Japan UNI Agency, Inc., Tokyo Mọi góp ý về bản dịch xin vui lòng gửi về: Tủ sách Xanh 489 Cộng Hoà, P.15, Q. Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh Email: books@xanhshop.com Tham gia đóng góp các ý kiến của bạn online tại đây: https://www.facebook.com/groups/cachmangrom/ Dành cho những ai sẽ gieo những hạt mầm trên sa mạc. Masanobu Fukuoka Tháng 12, 1992 Mục Lục Lời Giới Thiệu...................................................................................................................................................i Ghi Chú Của Người Biên Tập (Bản Tiếng Anh)................................................................................................x Về Hình Minh Họa..........................................................................................................................................xii CHƯƠNG MỘT: TIẾNG GỌI ĐẾN VỚI NÔNG NGHIỆP TỰ NHIÊN.........................................................1 Tôi trở về với việc làm nông..........................................................................................................................3 Những thử thách thời chiến tranh loạn lạc.....................................................................................................4 Ý nghĩa thực sự của Tự Nhiên.......................................................................................................................5 Những sai lầm của tư tưởng loài người..........................................................................................................6 Sẽ không có Chúa hay Phật nào ra tay cứu lấy loài người..............................................................................8 Cánh chuồn sẽ là Đấng cứu thế......................................................................................................................8 Cuộc sống thuận tự nhiên..............................................................................................................................9 CHƯƠNG HAI: XÉT LẠI TRI THỨC CỦA CON NGƯỜI..........................................................................13 Sự khởi sinh của tri thức phân biệt..............................................................................................................13 Thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin...........................................................................................................14 Hiểu về thời gian và không gian chân thực...................................................................................................15 Gien trội và gien lặn.....................................................................................................................................16 Một cách nhìn khác về tiến hóa....................................................................................................................17 Những giống lai xuất hiện một cách tự nhiên trong ruộng lúa của tôi...........................................................18 Từ bỏ những gì chúng ta nghĩ là mình biết...................................................................................................20 CHƯƠNG BA: CHỮA LÀNH CHO MỘT THẾ GIỚI TRONG CƠN KHỦNG HOẢNG............................24 Hồi phục lại trái đất và con người của nó....................................................................................................24 Trong tự nhiên, không có những con côn trùng có ích hay gây hại...............................................................25 Đông y và Tây y...........................................................................................................................................25 Nỗi sợ chết..................................................................................................................................................28 Câu hỏi về linh hồn......................................................................................................................................28 Nền kinh tế bạch tuộc hút tiền.....................................................................................................................29 Ảo tưởng về luật nhân quả...........................................................................................................................33 Cách tiếp cận hiện tại của các phương thức đối phó với sự sa mạc hóa.......................................................34 CHƯƠNG BỐN: SỰ SA MẠC HÓA TOÀN CẦU........................................................................................40 Những bài học từ các cảnh quan ở châu Âu và Hoa Kỳ...............................................................................41 Bi kịch của châu Phi...................................................................................................................................43 Gieo những hạt giống trong một trại tị nạn ở châu Phi................................................................................45 CHƯƠNG NĂM: TÁI PHỦ CÂY CHO TRÁI ĐẤT THÔNG QUA NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TỰ NHIÊN ........................................................................................................................................................................50 “Sản xuất” nông nghiệp thực chất ra là tiêu xuất..........................................................................................52 Trại chăn nuôi thương mại sẽ tàn phá đất đai, tôm cá nuôi lồng thì phá biển...............................................53 Gieo những hạt mầm trên sa mạc................................................................................................................54 Tạo nên những vành đai xanh......................................................................................................................56 Tái phủ cây cho đất nước Ấn Độ.................................................................................................................58 Những ghi chép từ một hội nghị thượng đỉnh quốc tế về môi trường..........................................................65 CHƯƠNG SÁU: NHỮNG CHUYẾN DU HÀNH TRÊN BỜ TÂY NƯỚC MỸ............................................70 Các khu chợ nông dân................................................................................................................................72 Các nông trại tự nhiên ở thành thị...............................................................................................................74 Người gieo và Chim muông gieo................................................................................................................74 Trồng lúa ở thung lũng Sacramento.............................................................................................................77 Từ làm nông hữu cơ tới làm nông tự nhiên.................................................................................................78 Hai hội nghị quốc tế....................................................................................................................................81 Những cây tuyết tùng Nhật Bản ở Trung tâm Thiền....................................................................................83 PHỤ LỤC A: TẠO LẬP MỘT TRANG TRẠI TỰ NHIÊN Ở CÁC VÙNG ÔN ĐỚI VÀ CẬN NHIỆT ĐỚI ........................................................................................................................................................................87 Những cánh rừng phòng hộ tự nhiên...........................................................................................................87 Gây rừng phòng hộ......................................................................................................................................88 Cây chắn gió...............................................................................................................................................89 Tạo lập vườn cây ăn trái..............................................................................................................................89 Tạo các “cánh đồng” ở trong vườn cây ăn trái.............................................................................................90 Tạo lập một cánh đồng truyền thống...........................................................................................................91 Tạo lập những cánh đồng lúa.......................................................................................................................91 PHỤ LỤC B: LÀM CÁC VIÊN ĐẤT CHỨA HẠT GIỐNG DÙNG ĐỂ TÁI LẬP THẢM THỰC VẬT......93 Mục đích.....................................................................................................................................................93 Vật liệu.......................................................................................................................................................94 Phương pháp gieo hạt từ trên không............................................................................................................94 Phương pháp sản xuất viên đất....................................................................................................................94 Các đặc tính của viên đất............................................................................................................................94 PH L C C: S N XU T MÔI TR NG NUÔI C Y T NHIÊN TOÀN DI N Ụ Ụ Ả Ấ ƯỜ Ấ Ự Ệ ......................96 i Lời Giới Thiệu MASANOBU FUKUOKA (1913 - 2008) là một nông dân và triết gia người Nhật đến từ đảo Shikoku. Kỹ thuật làm nông tự nhiên của ông không cần đến máy móc hay nhiên liệu hóa thạch, không cần tới hóa chất, chẳng cần ủ phân, và rất ít phải làm cỏ. Trong những ruộng lúa của mình, ông Fukuoka đã không cày đất hay giữ nước lại suốt vụ - như cách người nông dân vẫn làm từ hàng thế kỷ ở châu Á và trên khắp thế giới. Ấy vậy mà ông Fukuoka vẫn thu được sản lượng ngang bằng hoặc hơn so với hầu hết các nông trại có năng suất cao ở Nhật. Phương pháp của ông không gây ô nhiễm, và sự màu mỡ trên những cánh đồng của ông được cải thiện cùng với mỗi mùa trồng trọt. Kỹ thuật này thể hiện triết lý quay-trở-về-với-tự-nhiên của ông Fukuoka. Thông điệp của ông là thông điệp của tầm nhìn và của hy vọng. Nó chỉ ra con đường đi tới một tương lai tươi sáng cho nhân loại, một tương lai nơi mà con người, tự nhiên và vạn vật chung sống bình yên trong sự phong phú đa dạng. Cuốn đầu tiên trong số các cuốn sách được chuyển ngữ sang tiếng Anh của ông Fukuoka là cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm: Giới thiệu về làm nông tự nhiên do Nhà xuất bản Rodale phát hành năm 1978. Như phần tựa đề phụ gợi ý, cuốn sách này dành để giới thiệu thế giới quan và các phương pháp làm nông mà ông đã phát triển phù hợp với thế giới quan ấy. Trong cuốn sách, ông đã kể về hành trình làm nông, trình bày khái quát về triết lý và các kỹ thuật làm nông của mình. Ông cũng đã đưa ra quan điểm về những thứ như chế độ ăn, nền kinh tế, chính trị và con đường đáng buồn mà nhân loại đã chọn đi theo - bằng cách tách bản thân nó ra khỏi tự nhiên. Trong cuốn sách chuyển ngữ sang tiếng Anh tiếp theo của mình, Cách thức làm nông tự nhiên (Nhà xuất bản Nhật Bản, 1985), ông Fukuoka đưa ra chi tiết về việc các kỹ thuật làm nông của mình đã tiến triển như thế nào qua nhiều năm. Cuốn sách này chủ yếu là về thực hành, và dù đã không có được lượng độc giả rộng khắp như cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm, nó vẫn rất đáng đọc, đặc biệt là với những ai quan tâm tới việc đưa những phương pháp làm nông tự nhiên của ông Fukuoka vào thực hành trên mảnh đất của chính mình. Trong cuốn sách hiện tại, Gieo mầm trên sa mạc, ông Fukuoka trình bày triết lý của mình dưới dạng chi tiết và đưa ra kế hoạch sử dụng cách làm nông tự nhiên để tái lập thảm thực vật cho các sa mạc trên thế giới. Đây là công trình cuối cùng của ông, và xét về nhiều mặt, nó là công trình quan trọng nhất. Tôi không chắc chắn mình mong chờ gì khi lần đầu tiên tới thăm nông trại của ông Fukuoka vào một ngày hè năm 1973, nhưng điều tôi tìm thấy vượt xa bất cứ những gì mà tôi có thể tưởng tượng được. Hồi đó tôi đã sống ở Nhật nhiều năm, làm việc trong các cộng đồng quay-về-với-đất-đai và làm các công việc nông nghiệp theo thời vụ khi có thể. Những câu chuyện người ta kể về ông Fukuoka mà tôi nghe được luôn kèm theo một sự kính trọng đối với những lời chỉ dạy về mặt tâm linh của ông, nhưng không một ai trong những người mà tôi chuyện trò cùng từng ở tại nông trại ii của ông hay đã học được bất kỳ kỹ thuật làm nông cụ thể nào của ông cả, vì thế tôi đã quyết định đi tới đó và tự mình xem lấy. Lúa trên những cánh đồng của ông lùn hơn lúa của nhà hàng xóm, và có màu xanh thẫm gần như là màu ô-liu. Trên mỗi nhánh có nhiều hạt hơn, còn bề mặt của đất thì phủ kín cỏ ba lá và rơm. Côn trùng bay tứ tung; ruộng không ngập nước mà để khô ráo. Thật là tương phản hoàn toàn với những khu ruộng bên cạnh: ngăn nắp và thẳng thớm, những hàng lúa được trồng trong ruộng ngập, chẳng hề thấy bất kỳ loại cỏ hay côn trùng nào. Ông Fukuoka tới chào tôi và hỏi, liệu tôi đã từng bao giờ thấy ruộng lúa nào như của ông ấy chưa. Tôi bảo với ông là chưa. Ông nói, “Lý do mà những cây lúa và cánh đồng trông như thế này là bởi vì đất đã không bị cày xới trên hai mươi lăm năm rồi”. Tôi đã từng nghe được rằng ông Fukuoka hoan nghênh các học viên tới sống và làm việc trên nông trại, vì thế tôi hỏi ông liệu tôi có thể ở lại một thời gian không. Ông nói, “Tất nhiên rồi, nếu anh sẵn lòng làm việc và học hỏi một cái gì đó hơi khác lạ. Cứ đi theo con đường dẫn lên trên vườn kia, sẽ có người đưa anh đi thăm thú”. Tôi đi theo con đường ngoằn ngoèo lên tới khu vườn trên đồi trông xuống những cánh đồng lúa bên dưới, và sửng sốt bởi những gì trông thấy ở trên đó. Có đủ các loại cây với đủ loại kích cỡ, những cây bụi, cây leo, cây rau mọc ở khoảng trống giữa những cây lớn, còn lũ gà thì chạy khắp mọi nơi. Anh Hi-de, một trong những học viên ở đây, đã đón và chỉ tôi tới căn chòi quê mùa mà tôi sẽ sống cùng với hai người khác nữa. Tôi đã dành hai năm sau đó sống trong khu vườn thiên đường này để học các kỹ thuật làm nông tự nhiên của ông Fukuoka và cái triết lý mà từ đó những kỹ thuật này nảy sinh. Vào thời điểm tôi tới sống và làm việc ở nông trại của ông Fukuoka, ông đã thực hành việc làm nông tự nhiên nhiều năm rồi. Câu chuyện về việc ông đã đi đến cách làm nông kiểu đấy như thế nào vừa thú vị vừa là một bài học. Masanobu Fukuoka lớn lên ở một ngôi làng nhỏ trên đảo Shikoku, nơi gia tộc của ông đã sinh sống hàng trăm năm. Hồi nhỏ ông làm lụng trên ruộng lúa và vườn cam của nông trại gia đình. Ông Fukuoka đã theo học trường Cao đẳng Nông nghiệp Gifu gần Nagoya, ở đó ông nghiên cứu về bệnh học cây trồng dưới sự truyền dạy của nhà khoa học Makato Hiura lỗi lạc, và cuối cùng thì nhận việc tại Văn phòng Hải quan Nông nghiệp ở Yokohama. Nhiệm vụ chính yếu của ông là thẩm duyệt những cây trồng được nhập vào Nhật Bản xem có bệnh hay mang theo côn trùng gì không. Vào những lúc không kiểm tra cây, ông dành thời giờ để làm nghiên cứu, và như sau này nhớ lại, ông “đã thấy rất sửng sốt trước thế giới của tự nhiên được hiển lộ qua kính hiển vi”. Sau ba năm làm việc tại đó, ông phát bệnh viêm phổi và suýt chết. Ngay cả sau khi đã hồi phục, ông vẫn bỏ ra hàng giờ liền đi lang thang trên những triền đồi suy ngẫm về ý nghĩa của sự sống và cái chết. Sau một trong những đêm đơn độc, đi lang thang suốt cả đêm như thế, ông ngã quỵ xuống gần một cái cây trên đỉnh con dốc nhìn xuống bến tàu. Ông tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng kêu của một con diệc, và đã có một mặc khải làm thay đổi cuộc đời ông mãi mãi. Theo như cách ông miêu tả, “Chỉ trong một khoảnh khắc, toàn bộ những nghi ngờ và cơn mù mịt ảm đạm của tôi đã tiêu biến. Mọi điều mà tôi đã từng tin chắc, mà tôi vẫn thường dựa vào đã bị quét đi cùng với gió… Tôi iii cảm thấy đây đích thực là thiên đường trên trái đất, và cái gì đấy có thể gọi là ‘bản lai diện mục’ 1 đã hiển lộ”. Ông đã thấy rằng tự nhiên đang ở trạng thái cân bằng và phong phú một cách hoàn hảo y như nó là. Con người, với hiểu biết hạn hẹp của mình, cố cải tiến tự nhiên, nghĩ rằng kết quả đạt được sẽ tốt hơn cho loài người, nhưng những hiệu ứng phụ bất lợi không thể tránh được cũng sẽ xuất hiện. Rồi người ta lại đưa ra những phương sách để kháng lại những tác dụng phụ này, và thế là những hiệu ứng phụ lớn hơn lại nảy sinh. Cho đến giờ, hầu hết mọi sự mà loài người đang làm thì chỉ là để giảm nhẹ những vấn đề gây ra bởi những hành động sai lầm trước đó. Ông Fukuoka đã cố gắng giải thích những ý tưởng của mình cho các đồng nghiệp và thậm chí là cả những người ông gặp ở trên đường, nhưng đều bị gạt đi, bị coi là kẻ lập dị. Đấy là vào những năm 1930, khi mà khoa học và công nghệ đang trên đà kiến tạo một xã hội thừa mứa và rảnh rang. Và vì thế, ông quyết định bỏ việc và quay trở về nông trại gia đình để áp dụng hiểu biết của mình vào nông nghiệp. Mục đích của ông là tạo nên một ví dụ thể hiện cách nghĩ của ông, và qua đó, cho thế giới thấy giá trị tiềm tàng của nó. Nông trại bao gồm ruộng lúa rộng khoảng một mẫu Anh 2 nơi cây lúa được trồng cấy trong ruộng ngập nước, và một khu vườn cam rộng mười mẫu. Nhà thì ở trong làng với một khoảnh sân và một vườn rau hữu cơ nho nhỏ bên ngoài cửa bếp. Ông Fukuoka chuyển ra sống trong một cái chòi nhỏ trên vườn, dành vài năm tiếp theo quan sát tình trạng của đất trồng và ghi chép lại sự tương tác giữa cây cối và động vật sống ở đó. Nhớ lại khoảng thời gian này, ông Fukuoka nói, “Tôi chỉ đơn giản làm cho tâm trí rỗng rang và cố gắng hấp thụ những gì có thể từ tự nhiên”. Ông Fukuoka muốn tạo dựng một môi trường đem lại lợi ích cho con người - nơi mà tự nhiên được tùy nghi phát triển. Nhưng phải bắt đầu từ đâu? Ông không biết ai từng thử làm việc này trước kia, vì thế không có người nào đi trước để chỉ đường cho ông cả. Ông để ý thấy rằng số cây cối hiện diện trong vườn chỉ giới hạn ở cam quýt và vài loại cây bụi, và dù có một số loài cỏ dại mọc lộn xộn đây đó, đất trơ ra đã bị xói mòn đến tận lớp đất đỏ và cứng ở bên dưới. Trong tình trạng như thế, nếu ông chỉ đơn thuần là không làm gì, tự nhiên sẽ tiếp tục đi theo vòng xoáy đi xuống mà thôi. Bởi vì chính con người đã tạo ra tình trạng phi tự nhiên này, ông cảm thấy mình có trách nhiệm phải sửa chữa sự hư hại đó. Để đất bớt cứng, ông đã đem vãi hạt giống của những cây rau có rễ ăn sâu, chẳng hạn như cải củ daikon, ngưu bàng, bồ công anh và cây hoa chuông. Để làm sạch và làm giàu cho đất, ông đã trồng thêm những loại cây có bộ rễ chắc, tạo thành thớ, bao gồm cải mù-tạt, củ cải, kiều mạch (tam giác mạch), cỏ linh lăng, cỏ thi và cây cải ngựa. Ông cũng biết rằng mình cần những cây phân xanh cố định đạm, nhưng mà phải dùng loại nào? Ông đã thử ba mươi loài khác nhau trước khi kết luận rằng cỏ ba lá hoa trắng và cây đậu tằm là lý tưởng trong điều kiện của mình. Rễ của cỏ ba lá hoa trắng tạo thành một lớp dệt chừng vài tấc đất trồng phía trên cùng, thế nên chúng rất hiệu quả trong việc kiềm chế cỏ dại. Đậu tằm mọc tốt trong mùa đông, lúc mà cỏ ba lá hoa trắng không dễ mọc cho lắm. 1 B n ch t th c (ND). ả ấ ự 2 M t m u Anh t ng đ ng v i 4046,86 mét vuông. Sau này trong cu n sách, m i khi nh c t i đ n v m u, xin hãy hi u ộ ẫ ươ ươ ớ ố ỗ ắ ớ ơ ị ẫ ể là m u Anh (chú thích c a ng i d ch - ND). ẫ ủ ườ ị iv Cần ghi nhớ một điều quan trọng là, khi ông Fukuoka thực hiện những thử nghiệm như thế này, mục đích của ông là để giải những bài toán thực tiễn cụ thể. Ông không làm thí nghiệm chỉ để thỏa chí tò mò hay để tìm hiểu tự nhiên, ông chờ câu trả lời từ tự nhiên cho những vấn đề thiết thực. Để cải thiện những tầng đất sâu hơn, lúc đầu ông đã cố gắng đem chôn những vật liệu hữu cơ như thân cây và cành nhánh đã phân hủy một phần mà ông nhặt nhạnh được từ những vùng rừng xung quanh. Cuối cùng ông kết luận rằng cách làm này cho quá ít lợi ích so với công sức phải bỏ ra. Bên cạnh đó, mục đích của ông vốn là tạo ra một hệ thống tự vận hành, mà một khi đã được thiết lập, sẽ tự chăm lo được cho chính nó. Ông quyết định để cho cây cối làm công việc này, thay vì con người phải nai lưng ra làm. Ông đã trồng những cây keo cố định đạm xen kẽ đây đó giữa những cây cam quýt, cũng như trồng các loại cây lớn và cây bụi khác có rễ đủ cứng đâm xuyên và cải tạo được tầng đất sâu bên dưới. Những cây keo mọc khá nhanh, sau tám hay chín năm ông sẽ hạ chúng xuống và dùng gỗ để làm củi hoặc làm vật liệu cất nhà, để lại bộ rễ cây trong đất tự mục đi theo thời gian. Khi đốn hạ những cái cây đó, ông lại trồng các cây khác ở những vị trí khác, vì thế quá trình tái tạo đất vẫn luôn tiếp diễn. Cuối cùng thì lớp đất trồng đã sâu hơn và trở nên màu mỡ, còn cơ cấu của khu vườn thành ra giống như của một khu rừng tự nhiên, với những cây cao che tán, những cây ăn trái cỡ vừa, những cây bụi, dây leo và một lớp mọc sát mặt đất gồm cỏ dại, những cây thường xuân, cây thảo dược, cải mù-tạt, kiều mạch và rau. Cỏ ba lá hoa trắng mọc khắp nơi có tác dụng như một lớp cố định phủ đất, giúp cho đất được màu mỡ. Vào thời điểm tôi đến nông trại, có hơn ba mươi loại cây ăn trái và cho hạt cứng ở trong vườn, cũng như đủ loại quả mọng, cùng rau và các cây bản địa ở mỗi tầng tán khác nhau của “vườn rừng”. Cũng có cả gà và ngỗng chạy đó đây, một vài con dê, mấy con thỏ và những tổ ong. Chim chóc, côn trùng và các sinh vật hoang dã khác thì chỗ nào cũng có, còn nấm hương (nấm đông cô) mọc đầy trên những khúc gỗ mục được xếp đống trong bóng râm dưới những tán cây. Một nguyên tắc mà ông Fukuoka tuân theo khi đi vào các chi tiết kỹ thuật làm nông của mình là tìm cách làm càng ít càng tốt. Không phải vì ông lười biếng, mà bởi vì ông có niềm tin rằng nếu tự nhiên được cho cơ hội, nó sẽ tự làm được mọi chuyện. Như ông đã viết ở trong cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm, “Khi phát triển một phương pháp mới người ta thường đặt câu hỏi ‘Làm cái này thì sao?’ hoặc ‘Làm cái kia thì thế nào?’, dẫn tới một loạt những kỹ thuật, cái này chồng chất lên cái kia. Đấy là nông nghiệp hiện đại và kết quả duy nhất của nó là làm cho người nông dân bận rộn hơn.” “Cách của tôi thì chính xác là điều ngược lại,” ông viết tiếp. “Tôi đang nhắm tới một cách làm nông thoải mái, tự nhiên3, kết quả là khiến cho công việc trở nên dễ dàng hơn, thay vì làm nó khó khăn thêm. Không làm cái này thì sao? Không làm cái kia thì sao? - đấy là cách nghĩ của tôi. Cuối cùng, tôi đi đến kết luận là không cần tới cày xới, không cần phải bón phân, cũng không cần ủ phân 3 Làm nông đ n gi n h t m c có th , trong ph m vi tr t t t nhiên và h p tác v i nó, thay vì theo cách ti p c n hi n đ i ơ ả ế ứ ể ạ ậ ự ự ợ ớ ế ậ ệ ạ càng ngày càng đ a vào nhi u h n nh ng k thu t ph c t p đ bi n đ i hoàn toàn t nhiên ph c v cho l i ích c a con ư ề ơ ữ ỹ ậ ứ ạ ể ế ổ ự ụ ụ ợ ủ ng i (Các chú thích trong sách đ u là c a Larry Korn, ngo i tr các chú thích ghi rõ là c a ng i d ch). ườ ề ủ ạ ừ ủ ườ ị v mùn hay dùng tới thuốc trừ sâu. Khi đi tới tận cùng của nó, chẳng có mấy thao tác thực hành trong nông nghiệp là thực sự cần thiết.” Tuy nhiên, ban đầu khi ông Fukuoka thừa kế khu vườn, hầu hết các hệ thống tự nhiên đều đã bị tổn hại rất nhiều, nên ông buộc phải tự mình làm những nhiệm vụ mà sau này không còn cần thiết nữa. Chẳng hạn, một khi thiết lập được sự phối hợp bền vững của các loại cây tái tạo đất, ông không cần phải bón phân nữa. Trong những năm đầu chờ cho tới khi thiết lập được sự đa dạng các loại cây và môi trường sống cho côn trùng, ông đã phải trồng những cây hoa cúc để chiết xuất ra nước trừ sâu tự nhiên. Ông dùng nó để kiểm soát rệp vừng và sâu bướm trên rau. Một khi đất đã được cải thiện và cân bằng tự nhiên giữa các loài côn trùng đã được hồi phục thì ngay cả nước trừ sâu kiểu này nữa cũng trở nên thừa. Đến cuối cùng, ông Fukuoka còn phải làm rất ít việc. Ông vãi hạt giống và trải rơm, cắt bớt lớp phủ đất một lần vào mùa hè và để nguyên tại chỗ, thỉnh thoảng thay thế một số cây gỗ và cây bụi, rồi chờ tới mùa thu hoạch. Một ngày nọ, đi ngang qua ruộng lúa vừa gặt xong, một ý tưởng mới cho việc trồng lúa đã nảy ra trong đầu ông. Cái ông trông thấy là những mầm lúa tự mọc lên giữa đám cỏ dại và rơm rạ. Ông Fukuoka vốn đã thôi việc cày đất trong các ruộng lúa của mình rồi, nhưng kể từ lần đó trở đi, ông ngừng luôn cả việc cho nước chảy vào ngập ruộng. Ông không gieo thóc vào mùa xuân rồi sau đó cấy mạ non vào ruộng chính nữa. Thay vào đó, ông vãi thẳng hạt giống lên mặt ruộng vào mùa thu, là thời điểm mà trong tự nhiên chúng tự rơi xuống đất. Và thay vì cày đất để loại bỏ cỏ dại, ông học cách kiểm soát chúng bằng cách rải rơm và trồng cố định một lớp phủ đất bằng cỏ ba lá hoa trắng. Rốt cuộc, cũng giống với vườn cây ăn trái, cách trồng lúa của ông Fukuoka đã loại bỏ đi hết, chỉ còn giữ lại những công đoạn đơn giản nhất - gieo hạt, rải rơm, và thu hoạch. Các công đoạn khác thì ông để cho tự nhiên làm tất. Khi ông Fukuoka quay trở về nông trại của gia đình và bắt đầu thực hành nông nghiệp tự nhiên, ông muốn chứng minh cách suy nghĩ của mình có thể giúp ích cho đời. Sau hai mươi lăm năm, sản lượng của những cánh đồng lúa không giữ cho ngập nước của ông Fukuoka đã bằng hoặc vượt các nông trại hàng đầu về năng suất của Nhật Bản. Ông cũng trồng một vụ lúa mạch vào mùa đông trên cùng những cánh đồng trồng lúa gạo, và gửi bán gần chín mươi tấn quýt mỗi năm, chủ yếu là tới Tokyo, nơi mà nhiều người trước đó chưa từng được nếm thực phẩm trồng tự nhiên. Không sử dụng đến bất kỳ sản phẩm nào của công nghệ hiện đại mà vẫn cho sản lượng cao, làm nông tự nhiên còn không gây ô nhiễm, và mỗi năm qua đi đất trồng lại tốt lên. Nếu như ông Fukuoka có thể thu được sản lượng tương đương với các nông dân khác ở Nhật, trong khi họ sử dụng hết thảy các công cụ khoa học công nghệ mới nhất, gây ô nhiễm, trồng ra những cái cây ốm yếu, và phá hoại đất trồng, vậy thử hỏi đâu là lợi ích của những hiểu biết và công nghệ mà con người tạo ra đây? Chỉ sau có hai mươi lăm năm, ông đã chứng minh được luận điểm của mình. Khu vườn cây trái của ông không sử dụng bất cứ tiện ích hiện đại nào. Nước uống được mang về từ suối, đồ ăn được nấu trên bếp củi, còn ánh sáng thì lấy từ nến và đèn dầu. Ông Fukuoka cấp cho các nhân công học việc của mình ba mươi lăm đô-la mỗi tháng để chi dùng cho cuộc sống. Hầu hết số tiền đó được dùng để mua nước tương và dầu ăn, là những thứ mà sản xuất ở quy mô nhỏ thì vi không bõ công. Với những nhu cầu còn lại, học viên đều dựa vào lượng thực phẩm trồng được trên đồng ruộng và ở trong vườn, các sản vật kiếm được tại chỗ, và dựa vào sự khéo léo của chính họ. Ông Fukuoka cố tình để cho các học viên sống theo lối bán khai như thế này, bởi ông tin nó sẽ giúp đem đến cho họ sự nhạy cảm cần thiết khi làm nông theo phương thức tự nhiên của ông. Ông không trả công cho các học viên làm việc ở đó, nhưng chẳng ai phản đối. Họ cảm thấy việc sống trong cảnh điền viên như thế và nhận lãnh sự chỉ giáo của ông Fukuoka - bản thân nó miễn phí và hào phóng - là giá trị nhiều hơn số tiền công rồi. Kể từ hồi tôi sống ở nông trại đó tính tới nay đã được ba mươi lăm năm. Mọi công việc sau này tôi thực hiện để thúc đẩy việc làm nông tự nhiên đều là để đáp đền ông Fukuoka, cho những gì tôi đã học được từ ông. Lúc tôi ở đó, chúng tôi có khoảng năm hay sáu người sống trong nhiều năm liên tục tại trang trại. Những người khác thì đến và ở lại chỉ một vài tuần hay vài tháng rồi lại xuống núi. Tình bằng hữu ở đó thật là tuyệt vời. Chúng tôi tụ họp cùng nhau mỗi sáng và lên kế hoạch làm việc trong ngày. Anh Hi-de đã ở đó lâu nhất và có hiểu biết sâu sắc nhất về công việc ở nông trại, vì thế được mọi người mặc định coi là trưởng nhóm. Các công việc nhà nông như tỉa thưa cây ăn trái, cắt thấp lớp cỏ phủ vườn và thu hoạch, có thể kéo dài vài tuần hoặc vài tháng. Công việc thường ngày bao gồm gánh nước, nấu nướng, chăm nom vật nuôi và tổ ong, đi nhặt củi và chặt củi, làm mi-sô (tương đậu nành lên men) và đậu hũ (sữa đông của đậu nành), và chuẩn bị nước nóng để tắm. Thi thoảng các căn chòi cũng cần phải được sửa chữa hoặc thay thế nữa. Ông Fukuoka thường làm cùng với chúng tôi, chỉ dẫn các kỹ thuật và thao tác cụ thể, như cách vo những viên đất chứa hạt giống, trồng rau theo lối bán hoang, cách sử dụng đúng và chăm chút cho nông cụ. Ông khá là thân thiện và kiên nhẫn, nhưng sự kiên nhẫn của ông tắt rất nhanh khi phải trông thấy những thứ mà ông cho là làm không tới nơi tới chốn. Ông Fukuoka thật không biết mỏi mệt. Ngay cả khi đã sáu mươi lăm tuổi, ông vẫn leo lên leo xuống các sườn đồi của vườn cây trái như một con sơn dương. Tất cả chúng tôi đều chẳng theo kịp. Thỉnh thoảng, thường là chủ nhật hoặc những khi mưa nặng hạt, ông Fukuoka tập hợp chúng tôi lại để thảo luận các triết lý của ông. Những buổi như thế đối với tôi thật khó nhằn. Mặc dù có thể nói tiếng Nhật lưu loát, nhưng tôi chỉ thạo thứ ngôn ngữ sử dụng hằng ngày. Cách diễn đạt mang tính triết học và tâm linh mà ông dùng trong các buổi thảo luận thì tôi không tài nào hiểu nổi. Ông Fukuoka còn luôn miệng bảo chúng tôi rằng triết lý là tất cả, còn làm nông thì chỉ là sự minh họa cho triết lý ấy thôi. Ông nói, “Nếu các cậu không hiểu triết lý thì tất cả những thứ khác sẽ trở thành những hành động vô nghĩa”. Vậy nên mỗi ngày tôi phải cố gắng hết sức, và tự nhủ rằng tới một lúc nào đó mình sẽ lĩnh hội được. Một buổi chiều, trong lúc chúng tôi đang tuốt lúa trên sân nhà ông ở trong làng, ông Fukuoka xuất hiện từ nhà đi ra, khuôn mặt rạng rỡ. Ông đang cầm trên tay cuốn Cuộc cách mạng một-cọng rơm phiên bản tiếng Nhật do nhà xuất bản gửi tới. Ông Fukuoka vốn đã viết nhiều sách, nhưng buộc phải tự xuất bản vì không thể tìm được một nhà xuất bản sẵn lòng đặt cược vào những ý tưởng quá khác lạ so với tư tưởng chính thống như thế. Và rồi cuộc khủng hoảng dầu mỏ đầu tiên diễn ra vào đầu những năm 1970. Nhật Bản, một nước công nghiệp hầu như không có nguồn nhiên liệu nội địa nào, bị ảnh hưởng trầm trọng. Đột nhiên nhà nhà đều chuyển sang tìm kiếm các phương vii thức thay thế cho nền sản xuất dựa trên xăng dầu. Cuối cùng thì một nhà xuất bản liên hệ với ông Fukuoka và yêu cầu ông viết một cuốn sách giới thiệu về phương pháp làm nông tự nhiên của ông và về việc làm thế nào mà ông lại đi đến cách làm nông đó. Ông đã viết quyển sách ấy trong vòng có ba tháng. Sau khi đã đọc cuốn sách, các học viên khác và tôi quyết định rằng bọn tôi sẽ dịch nó ra tiếng Anh và cố gắng xuất bản nó ở nước Mỹ. Triết lý và các kỹ thuật của ông Fukuoka đơn giản là quá quan trọng để bị mai một đi ở nước Nhật, nơi mà tương đối ít người biết đến công việc của ông. Tôi đã nghiên cứu khoa đất trồng và dinh dưỡng cây trồng tại Đại học California ở Berkeley, và biết về rất nhiều vấn đề gây ra bởi việc cày xới đất. Có nhiều nông dân và nhà nghiên cứu, thậm chí thuộc trường phái nông nghiệp chính thống, cũng đang cố gắng phát triển một hệ thống không cày xới cho việc trồng hạt cốc và các cây trồng khác, nhờ đó sẽ tránh được các vấn đề như sử dụng quá nhiều năng lượng, gây ra xói mòn đất và cạn kiệt vật chất hữu cơ trong đất; nhưng không ai tìm được cách để làm chuyện đó thành công, ít nhất là thoát khỏi việc không làm cho ruộng đồng ngập trong thuốc diệt cỏ. Thế nên, ngoài sức lôi cuốn nội tại trong triết lý của ông Fukuoka, tôi còn biết rằng câu chuyện hai mươi lăm năm thu hoạch sản lượng cao, không dùng tới hóa chất và không cày xới của ông sẽ được chào đón trong giới nông nghiệp. Không ai trong chúng tôi có kinh nghiệm trong việc viết lách, biên tập hay dịch thuật gì cả, nhưng chúng tôi đã không để cho điều đó làm mình nhụt chí. Hồi đó chưa có máy vi tính cá nhân hay phần mềm xử lý văn bản, thế nên việc đầu tiên cần làm là sửa lại chiếc máy đánh chữ cũ kỹ đang để lăn lóc trong một căn chòi. Nó không có ruy băng, các phím chữ d và e bị mất, con trượt thì hay có kiểu bị kẹt khi quay trở về đầu hàng rất bực mình. Tôi đáp tàu đi thành phố Matsuyama nhiều lần để sửa nó cho xong, tiện thể tới thăm lâu đài Matsuyama và ghé qua tắm ở các suối nước nóng công cộng trên đường đi. Chris Pearce là một người bạn tôi đã gặp được trong khoảng thời gian sống ở các công xã nông thôn. Anh ấy lớn lên ở Nhật Bản và có thể nói trôi chảy cả hai thứ tiếng Nhật và Anh. Anh ấy đưa cho chúng tôi bản dịch đầu tiên. Nhưng Chris chưa bao giờ tới nông trại của ông Fukuoka, anh cũng không có kinh nghiệm làm nông, vì thế một số đoạn của bản thảo có vẻ tối nghĩa hay rất khó hiểu. Trong số các học viên khác sống ở nông trại vào thời điểm đó có anh Kurosawa mới quay về sau một năm đi thăm các nông trại hữu cơ ở Mỹ. Ba hay bốn lần mỗi tuần, sau khi làm lụng cả ngày, hai chúng tôi ngồi cùng ông Fukuoka chỉnh sửa những đoạn bản thảo tối nghĩa và khó hiểu. Cuối cùng, khi có được một bản thảo mà chúng tôi thấy là ổn rồi, tôi được tin tưởng phái đi Mỹ để tìm nhà xuất bản. Đấy là vào năm 1976. Tôi tìm cách gửi được bản thảo tới tay Wendell Berry, người đang sống và làm nông ở Kentucky. Dù bản dịch nháp còn khá thô và chưa chuyên nghiệp, nhưng ông Berry thấy thích nội dung của nó và nhận làm công việc hỗ trợ xuất bản. Ông khuyên chúng tôi dùng dịch vụ của Rodale Press, một phần là vì ông không muốn cuốn sách và triết lý của ông Fukuoka bị xem như một tác phẩm thuộc dòng “new age”4. Ông muốn đảm bảo rằng cuốn sách sẽ đến được tay của những nông 4 Th i đ i m i, đ phân bi t v i các tri th c và tri t lý c x a truy n l i (ND). ờ ạ ớ ể ệ ớ ứ ế ổ ư ề ạ viii dân thực thụ, bởi ông nghĩ thông điệp của nó sẽ có ích lợi cho họ và có khả năng giúp đảo ngược cách làm nông phi tự nhiên của nền nông nghiệp thời hiện đại. Rodale Press là đơn vị xuất bản tạp chí Organic Gardening (Làm vườn hữu cơ), vào thời gian đó có số ấn bản lưu hành trên một triệu bản, và sở hữu một câu lạc bộ sách vươn tới được hàng chục ngàn nông dân ở miền Trung nước Mỹ. Trong chừng một năm tiếp sau đó, ông Berry và tôi cùng làm công việc sửa cho bản thảo trôi chảy hơn và làm rõ những đoạn có thể sẽ khó hiểu đối với người Mỹ. Cuốn sách được xuất bản trong năm 1978 và thành công ngay lập tức. Kể từ đó, Cuộc cách mạng một-cọng-rơm đã được dịch sang hơn hai mươi lăm thứ tiếng (chẳng ai biết chính xác là bao nhiêu), tất cả đều dịch từ bản tiếng Anh của chúng tôi. Việc xuất bản cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm tạo nên một lằn ranh trong cuộc đời ông Fukuoka. Ba mươi năm trước đó, ông làm lụng trong ngôi làng nhỏ của mình, gần như là không ai biết tới. Sau khi cuốn sách được xuất bản, ông trở nên nổi tiếng và được kính trọng trên toàn thế giới, và bắt đầu nhận được lời mời đi thăm từ những người ủng hộ ở khắp mọi nơi. Lời mời đầu tiên là vào năm 1979, từ Herman và Cornelia Aihara, hai người đó tài trợ cho một trại hè thực dưỡng ở French Meadows, Sierra Nevada. Đấy là lần đầu tiên ông Fukuoka và Ayako, vợ ông, đi ra khỏi nước Nhật, cũng là lần đầu tiên hai người đi máy bay. Trong sáu tuần tiếp sau đó, ông đi khắp các bang California, New York và Massachusetts. Bảy năm sau, ông quay trở lại nước Mỹ cho chuyến đi sáu tuần nữa, lần này có ghé thăm bang Oregon và bang Washington. Trong vòng ba mươi năm cuối cuộc đời mình, ông còn tới thăm Ấn Độ (năm lần), Thái Lan (nhiều lần), Philippines, châu Phi (bao gồm Somalia, Ethiopia và Tanzania), châu Âu (hai lần) - trong đó có một chuyến đi đáng nhớ tới Hy Lạp, và Trung Quốc. Khi lần đầu tiên trông thấy tình trạng đất đai ở California, ông đã sốc vì độ cằn cỗi của nó. Ông để ý thấy rằng, một phần tình trạng đó là do khí hậu, khi không có được lượng mưa mùa hè như ở Nhật Bản, nhưng hầu hết có nguyên nhân từ cách thực hành nông nghiệp bất cẩn, quản lý nước yếu kém, chăn thả quá độ, khai thác gỗ quá mức. Cuối cùng, ông gọi đó là “thảm họa sinh thái của California”. Sau khi thăm Ấn Độ và châu Phi, ông biết được mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng sinh thái trên phạm vi toàn thế giới là như thế nào. Kể từ đó trở đi, ông dành hết mọi năng lượng của mình sử dụng cách làm nông tự nhiên để tháo gỡ vấn đề sa mạc hóa. Ông Fukuoka tin rằng hầu hết các sa mạc trên thế giới được tạo ra do hoạt động của con người. Những hành động kém hiểu biết này đều dựa trên sự hiểu biết không đầy đủ của loài người. Ông cảm thấy rằng các sa mạc có thể được phủ cây trở lại bằng việc gieo hạt giống trên diện rộng, phát tán càng nhiều loài cây và vi sinh vật cùng với nhau càng tốt. Do các điều kiện đã bị biến đổi quá trầm trọng, việc cố đưa mọi thứ trở về y như trạng thái ban đầu sẽ không thể làm được nữa. Bằng việc cung cấp nhiều loại hạt giống cây và vi sinh vật khác nhau, tự nhiên sẽ có thể tái tạo theo con đường phù hợp nhất với các điều kiện thổ nhưỡng hiện tại. Ông gọi đây là lần Sáng Thế thứ hai. Điều quan trọng nhất là định kiến của con người phải được loại bỏ khỏi tiến trình đưa ra quyết định. Ông tin rằng để phủ cây trên sa mạc, con người cần chấm dứt việc cách ly kiểm dịch thực vật và bắt tay xây dựng những ngân hàng hạt giống quy mô lớn. ix Kế hoạch chặn đứng sa mạc hóa của ông Fukuoka và tư tưởng của ông về những thứ như kinh tế, chính trị, chế độ ăn, giáo dục chính thống, nghệ thuật, chăm sóc sức khỏe và khoa học - tất cả những điều được bàn luận trong cuốn sách này - đều xuất phát trực tiếp từ triết lý cốt lõi của ông, cái đã đến với ông một cách bất ngờ ở Yokohama vào buổi sáng hôm đó, lúc ông mới 25 tuổi. Ông đã thấy được tự nhiên như là một thực tại đơn nhất, liền mạch, không hề có các đặc tính thường tại. Ông thấy thời gian như một khoảnh khắc liên tục của hiện tại, bao gồm cả quá khứ và tương lai. Trong nỗ lực vô ích để hiểu tự nhiên và thiết lập một khung tham chiếu, người ta áp lên tự nhiên những khái niệm như bắc và nam, trên và dưới, tốt và xấu, phân loại tạo vật như các thực thể khác biệt, và chế ra một thứ “thời gian của con người” không dựa trên cái họ trải nghiệm mà dựa trên đồng hồ và lịch. Làm như thế, con người tạo ra một thế giới của các ý niệm rồi sống luôn trong đó, vì vậy ngăn cách bản thân ra khỏi tự nhiên. Trong thế giới khởi thủy tuyệt đối, theo như ông Fukuoka, các khái niệm và cách đánh giá của con người là không hề hiện hữu. Trong nhiều năm trời, điểm cốt lõi trong thế giới quan của ông Fukuoka vẫn thật khó hiểu đối với tôi, nhưng tới một ngày, tất cả đã trở nên rõ ràng. Khi ấy tôi đang đi bộ trong rừng cây gỗ đỏ ở bờ bắc bang California. Lúc ngồi xuống nghỉ cạnh một con lạch nhỏ, tôi nhìn lên và thấy cái gì đó chưa từng bao giờ nhìn thấy trước kia… sự yên bình và vẻ đẹp của chính bản thân tự nhiên. Vì một lý do nào đó, tôi không còn bị chia cắt khỏi tự nhiên bởi bộ lọc được làm từ ý niệm của riêng tôi nữa. Thay vì nhìn vào tự nhiên, giờ tôi ở trong nó. Tự nhiên chẳng hề thay đổi, nhưng nhận thức của tôi đã khác đi. Tôi không đừng được mà cười phá lên. Suốt bấy lâu tôi gian nan vật lộn với triết lý của ông Fukuoka, trong khi cái mà ông nói tới đó thực tế ra lại quá đơn giản và vẫn luôn ở ngay trước mắt tôi. Khi tôi đi cùng với ông Fukuoka trong các chuyến đi tới nước Mỹ, người ta thường hỏi ông liệu có thể phối hợp cách làm nông tự nhiên với cách làm chính thống hoặc hữu cơ hay không. Ông cương quyết bảo rằng ta không thể làm thế. Và giờ, cuối cùng thì tôi cũng hiểu được vì sao. Người ta hoặc là sống trong thế giới tuyệt đối của tự nhiên, hoặc là trong thế giới được làm bằng ý niệm của con người. Chẳng hề có thế giới nào là nửa nọ nửa kia cả. Với thế giới quan của ông Fukuoka như thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi cách làm nông tự nhiên của ông và kế hoạch mà ông cổ vũ nhằm phủ cây cho các sa mạc trên thế giới lại có vẻ đi ngược lại kiến thức chính thống và cách suy nghĩ khoa học hiện nay đến vậy. Đấy là một kế sách thực sự có tầm nhìn và sáng tạo mà ông tin rằng sẽ trả loài người về mối quan hệ đúng đắn với tự nhiên và chữa lành sự hoang mang đau khổ trong trái tim con người. Mục tiêu của ông không gì khác hơn là tái tạo vườn Địa đàng, nơi người ta sống cùng nhau trong thịnh vượng, tự do và an bình. Larry Korn Ashland, bang Oregon, 2012 x Ghi Chú Của Người Biên Tập (Bản Tiếng Anh) PHIÊN BẢN TIẾNG NHẬT của cuốn sách Gieo mầm trên sa mạc được xuất bản lần đầu vào giữa những năm 1990. Phiên bản thứ hai, có sửa chữa đôi chút ra đời vài năm sau đó. Ông Fukuoka đặc biệt yêu thích cuốn sách này bởi lẽ nó giải thích được trọng tâm triết lý của ông và bàn đến điều đã trở thành niềm đam mê trong ba mươi năm cuối đời ông - áp dụng cách làm nông tự nhiên để ngăn chặn sự lan rộng của sa mạc, và phủ lại cây cho trái đất. Chúng tôi rất vui khi đem lại cho các bạn đọc tiếng Anh tác phẩm quan trọng này5. Việc dịch từng chữ theo nguyên văn từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác có những thách thức xuất phát từ khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa. Dịch thuật từ tiếng Nhật sang tiếng Anh mang những khó khăn đặc trưng thuộc cả hai dạng trên. Một vấn đề chính về ngôn ngữ cần chú ý là câu trong tiếng Nhật thường ở dạng bị động, trong khi với tiếng Anh, các thể chủ động lại chiếm ưu thế hơn. Việc dịch từng chữ theo nguyên văn từ tiếng Nhật sang sẽ có xu hướng tạo ra một tông biểu đạt trang trọng và gián tiếp ở bản tiếng Anh, điều không xảy ra đối với người đọc tiếng Nhật. Khi sửa bản dịch gốc, tôi phải diễn đạt lại nhiều đoạn từ giọng bị động sang giọng chủ động sao cho chúng vẫn giữ lại được phong cách thân thiện và trực tiếp của tác giả. Cái dễ thấy nhất của những khó khăn mang tính văn hóa là cách người Nhật kể một câu chuyện hoặc phát triển một luận điểm phức tạp rất khác so với người nói tiếng Anh. Trong tiếng Nhật, tác giả thường bắt đầu với chủ đề hay điểm cốt yếu mà ông ta muốn đưa ra, rồi sau đó mới đưa ra một câu chuyện hoặc một luận điểm giúp kể câu chuyện đó hay ủng hộ điểm cốt yếu đó, trước khi quay trở về với chủ đề, tức là kết luận lại. Tác giả sẽ tiếp tục một vòng kể chuyện và luận điểm khác, xong rồi lại trở về chủ đề chính. Người ta có thể nói rằng các câu chuyện bên lề hay các luận điểm này tạo nên những cánh hoa của một bông hoa, với chủ đề nằm ở đài hoa. Việc này giúp tạo lập độ thành thật và tính thuyết phục của vị tác giả đó trong tâm trí độc giả Nhật. Tuy nhiên, phong cách vòng quanh này chẳng mấy chốc sẽ trở nên tẻ ngắt đối với độc giả Anh ngữ, vốn đã quen với cách tiếp cận trực tiếp hơn. Bởi vì thế, một số đoạn của cuốn sách này đã được tái cấu trúc sao cho thứ tự trình bày các ý tưởng của ông Fukuoka đem lại cảm giác tự nhiên hơn đối với độc giả nói tiếng Anh. Trong cả hai trường hợp - cách xây dựng câu chủ động so với bị động, và cách tiếp cận vòng tròn so với tiếp cận trực tiếp trong việc kể một câu chuyện hoặc đưa ra điểm chính yếu - thì mục đích đều là làm cho cuốn sách được đọc một cách vừa trôi chảy vừa rõ ý đối với độc giả Anh ngữ, giống như bản gốc làm được với độc giả người Nhật vậy. 5 Tên ti ng Anh là “Sowing seeds on the desert” (ND). ế xi Ở một số chỗ, ông Fukuoka có sử dụng các thuật ngữ hay các kiểu diễn đạt đòi hỏi một ngữ cảnh thuộc về văn hóa mà những độc giả Anh ngữ có thể không thấy quen thuộc. Trong những trường hợp đó, sẽ có giải thích thêm ở trong phần ghi chú. Các phần lấy từ các tác phẩm khác của ông Fukuoka, cũng như những phần (chúng tôi) trao đổi cùng với ông, cũng đã được đưa vào. Nhà xuất bản và biên tập viên xin được cảm ơn Michiyo Shibuya và Wayne Olson vì sự trợ giúp của họ trong việc chuẩn bị cho cuốn sách này. L. K. xii Về Hình Minh Họa TẤT CẢ HÌNH MINH HỌA trong cuốn sách này đều do Masanobu Fukuoka vẽ tay, sử dụng kỹ thuật dùng cọ và mực gọi là sumi-e. Một số bức được làm ra dưới dạng chữ viết tay trong các bản in của cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm. Các bức khác được tạo ra ngẫu hứng và đem cho. Đi tới đâu ông cũng mang theo bộ đồ vẽ của mình. Mỗi bức vẽ đều có dụng ý giải thích triết lý của ông theo cách này hay cách khác. Chúng cũng thể hiện tính cách khôi hài và hồn nhiên của ông Fukuoka. HÌNH VẼ ĐỐI DIỆN BÌA TRONG Bức vẽ này thể hiện “cái hang trí năng”, được mô tả ở trang 16. Vô vi, vô tưởng, vô tri. TRANG NHAN ĐỀ Hết thảy chỉ một bầu trời. TRANG ĐỀ TỪ Đức Phật ngồi bế một đứa bé và một sợi dây buộc vào quả bóng bay. Quả bóng đại diện cho thế giới suy tưởng tương đối của con người. Đức Phật và đứa bé, những người không ở bên trong quả bóng, đại diện cho thế giới tuyệt đối của tự nhiên. Tất thảy mọi thứ đều ở bên trong quả bóng. PHẦN LỜI GIỚI THIỆU Hai người đang ngồi cạnh đống lửa bên trong một cái nồi đất. Chiếc nồi đại diện cho thế giới được tạo ra bởi tư tưởng của con người. Ba con chữ xung quanh hai người đó là phong (gió), quang (ánh sáng) và hỏa (lửa). Con chữ ở trong đám khói, tìm cách thoát ra khỏi cái nồi là Vô (Mu), hay cái rỗng rang. Người thứ ba, không ở bên trong cái nồi, đang thư giãn và vui thú một mình. Cái lò là vũ trụ/ vũ trụ này cũng chỉ là một giấc mơ trưa. xiii HÌNH ẢNH LẶP LẠI ĐẶT Ở ĐẦU MỖI CHƯƠNG Hình ảnh được lặp lại ở đầu mỗi chương này thể hiện một cái nồi nấu đang treo trên một đống lửa. CHƯƠNG 1 Ở bên phải, người ta đang tự vui thú với tự nhiên. Ở bên trái, họ làm việc mệt nhọc trong “cái hang trí năng”. Sự tương phản này là cố ý và nổi bật. Cái lò là vũ trụ Người ta không cày cấy đất đai/ họ nuôi dưỡng tri thức của cái hang. CHƯƠNG 2 Dưới mặt đất này chẳng hề có rộng hẹp/ Trên bầu trời kia không có chậm nhanh. CHƯƠNG 3 Bức vẽ này lấy cảm hứng từ trải nghiệm của ông Fukuoka tại trại hè ở French Meadows, vùng núi Sierra Nevada. Trong tranh người ta đang cắm trại ngoài trời, vui sướng với rừng, với sông và không khí trong lành miền sơn cước. Cái nồi nấu bên trên bếp lửa được treo bằng mặt trăng lưỡi liềm. Ở nơi không có gì, mọi thứ đều hiện hữu. CHƯƠNG 4 Ở đây, người ta đang thực hiện nhiều kiểu hoạt động khác nhau của con người, với ý tưởng rằng mình đang hoàn thành một cái gì đấy. Dòng chữ cuối nói tới hình ảnh một người ở phía bên trái, đang thực hiện sứ mệnh riêng - sửa chữa những hư hại gây ra bởi hoạt động con người. Khởi thủy chẳng hề có đông/tây, cao/thấp, nhanh/chậm, dễ/khó, yêu/ghét. Người này đang gieo hạt trong sa mạc. xiv CHƯƠNG 5 Hãy nói đi, ông dế, nhà của ông ở bên trong trái dưa leo/ nhà tôi thì ở tận trời xanh. Ánh sáng của tôi tới từ mặt trăng và các vì tinh tú, nên tôi thực chả cần tới ngọn đèn. CHƯƠNG 6 Ý nghĩa tranh này được miêu tả ở phần “Hai hội nghị quốc tế” thuộc chương 6, trang 82. MỞ ĐẦU PHẦN PHỤ LỤC Hai người đang nằm, ngồi bên cạnh một cái nồi nấu ngoại cỡ. Nếu dịch nguyên văn thì dòng chữ đầu ám chỉ một dạng lao dịch, nhưng ý nghĩa trong tiếng Nhật thì tươi sáng hơn nhiều. Một cuộc đời đơn giản với những hoạt động thường ngày mang tới niềm vui mà tự nó là sự tưởng thưởng. Ăn, ngủ, ăn rồi lại ngủ/ cả trăm năm cũng chẳng có việc gì làm. 1 CHƯƠNG MỘT Tiếng Gọi Đến Với Nông Nghiệp Tự Nhiên NĂM MƯƠI NĂM TRƯỚC, tôi đã có một trải nghiệm làm thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi. Lúc ấy tôi mới 25 tuổi. Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Nông nghiệp Gifu ngành bệnh học cây trồng, tôi nhận việc ở bộ phận Thanh tra cây trồng thuộc Cục Hải quan của chính phủ, thực hiện thanh tra những loại cây được nhập vào hoặc xuất đi khỏi nước Nhật. Là một người tin vào khoa học, tôi đã dành hầu hết thời gian của mình với chiếc kính hiển vi trong phòng thí nghiệm, bên cạnh một công viên nhỏ ở vùng Yamate của Yokohama. Sau khoảng ba năm ở đó, không có gì báo trước, tôi mắc chứng viêm phổi cấp, thứ đưa tôi mặt đối mặt với nỗi sợ chết. Sau khi hồi phục, tôi bắt đầu đặt dấu hỏi về ý nghĩa sự tồn tại của con người. Chìm đắm trong buồn bã, tôi lang thang qua những ngọn đồi, ngày lẫn đêm. Sau nguyên một đêm lang thang vô định, tôi sụp xuống, kiệt sức, dưới một gốc cây chỗ con dốc nhìn xuống bến cảng. Tôi ngồi đó mê mụ, ngủ thức lơ mơ cho tới hừng đông. Đột nhiên có tiếng kêu chói tai của một con diệc ăn đêm đánh thức tôi, như thể từ một giấc mơ. Mọi hoang mang, mọi thống khổ từng ám ảnh tôi biến mất cùng với làn sương buổi sớm. Một cái gì đó mà tôi gọi là “bản chất thực” được hiển bày. Tôi đã biến đổi, cả cơ thể lẫn tâm hồn. Những lời đầu tiên thốt ra từ môi tôi là, “Thực sự chẳng có gì sất”. Tôi nhìn quanh trong niềm sửng sốt đầy vui sướng. Vẻ đẹp bình an của thế gian đối với tôi trở nên thật hiển nhiên sống động. Tôi vượt qua được cơn xúc cảm và chuyển sang cơn run rẩy. Tôi đã ngờ nghệch kiếm tìm một thứ gì đó trong khi nó vẫn luôn ở đấy, ngay trước mắt tôi suốt bấy lâu. Ánh long lanh của giọt sương mai, màu xanh của những cái cây tắm trong nắng sớm, tiếng rộn rã líu lo của lũ chim tụ tập lúc trời hửng… thật kỳ diệu là cả tôi nữa cũng có thể dành cho mình một chỗ trong cái địa hạt của tự do này, thế giới của sự ngất ngây này. Tôi đã thấy tự nhiên một cách trực tiếp. Nó thanh khiết và rực rỡ, y như tưởng tượng của tôi về chốn thiên đường. 2 MASANOBU FUKUOKA Tôi thấy núi, thấy sông, cỏ và cây, những đóa hoa, những con chim nhỏ và những cánh bướm như thể mới lần đầu. Tôi cảm thấy nhịp đập rộn ràng của sự sống, sướng vui khi nghe thấy tiếng chim hót và âm thanh của lá cây xào xạc. Tôi trở nên nhẹ bẫng như cánh chuồn, và cảm thấy như thể mình đang bay tận trên những đỉnh núi cao. Câu hỏi ở đây là, tại sao, chỉ riêng trong cái lần ấy, thế gian mà tôi vẫn thường nhìn thấy mỗi ngày lại hiện ra tươi mới và làm tôi cảm động đến thế? Nói thực lòng, tâm trí tôi vào thời điểm đó không ở trong trạng thái bình thường. Tôi đã đạt tới điểm kiệt quệ về thần kinh và tinh thần sau cơn bạo bệnh, và chẳng còn chút sức lực nào trong tôi nữa. Trong không khí mềm mại, yên tĩnh của ngày mới, tôi không chờ đợi bình minh cũng chẳng mong chờ bất cứ điều gì đặc biệt cả. Thế mà đột nhiên, với độc một tiếng kêu của con chim diệc đó, tôi bừng tỉnh. Trái tim tôi mở toang, và tôi chẳng thể nào chặn lại dòng nước mắt cứ tuôn không dứt. Chỉ trong một phiến lá, một nhành hoa, tôi rung động nhận thức rõ mọi hình tướng xinh đẹp của thế gian này. Cái tôi đã trông thấy đó đơn giản chỉ là màu xanh của lá cây lấp lánh trong nắng. Tôi không thấy vị thần linh nào ngoài bản thân đám cây, tôi cũng không nhìn ra một linh hồn thực vật nào ẩn trong đám cây cả. Khi nhìn thế gian với một tâm trí rỗng rang 6, tôi đã có thể nhận thấy rằng thế giới ở trước mắt tôi kia là hình tướng thật của tự nhiên, và là vị thần duy nhất tôi thờ phụng. Trải nghiệm mà tôi có được vào buổi sáng hôm ấy tạo ấn tượng không thể xóa được trong tâm trí tôi, sự tươi mới của nó cho tới tận ngày hôm nay vẫn chưa bị lu mờ. Nhưng thực tế mà nói, tôi chẳng thể mong chờ những cảm xúc này kéo dài mãi mãi được. Tôi tràn đầy tự tin, tin chắc rằng mình đã có được trong tay sự thông thái mang tính chân lý. Tôi cảm thấy rằng mình có thể giải quyết được mọi vấn đề của thế gian. Nhưng khi ngày trôi qua, cơn lốc xoáy cảm xúc đã suy yếu đi, và hình tướng thực của tự nhiên, cái đã trở nên sáng sủa đối với tôi ấy cũng dần lùi xa. Mặc dù cách nhìn của tôi có thể đã đổi khác, nhưng như thế không có nghĩa là con người tôi đã thay đổi hoàn toàn. Phải mất vài năm để cho hiểu biết mới này hòa nhập vào cuộc sống hằng ngày của tôi, nhưng điều đầu tiên mà tôi đã làm là bỏ việc ở Cục Hải quan. Tôi xuất phát từ bán đảo Boso thuộc tỉnh Chiba và lang thang về phía Tây, trong tầm một, hai tháng gì đó, trên đường đi có dừng lại ở chỗ nọ chỗ kia. Tôi nhảy múa trong vẻ đẹp của tự nhiên trong lúc du hành, tới được Kyushu khi mùa đông đang đến gần. Suốt cuộc du hành của mình, tôi đã nói chuyện với nhiều người về điều tôi nhận ra. Trong các cuộc thảo luận này, tôi có thể thấy rằng các ý tưởng của tôi là kỳ quặc so với cách nghĩ đương thời của xã hội. Khi tôi nói rằng nhân loại đang sống trong một thế giới phi thực tách rời khỏi tự nhiên, tôi được bảo là đơn giản tôi đang tự đánh lừa mình. Rốt cuộc, do tôi chẳng thể tìm được lời lẽ đủ để diễn đạt điều mà tôi thấy được buổi sáng hôm ấy, tôi học được một điều rằng, tốt nhất là nên giữ im lặng. Thời gian trôi đi, cảnh tượng thanh khiết của tự nhiên mà tôi đã trải nghiệm được ấy ngày càng mờ dần. 6 Cách di n đ t này nói v m t tr ng thái vô ngã, trong đó không có s tách bi t gi a cá nhân và toàn th s hi n h u. ễ ạ ề ộ ạ ự ệ ữ ể ự ệ ữ GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 3 Giả như tôi là dạng người có xu hướng khép mình trong một kỷ luật tôn giáo nào đó, hẳn là tôi đã làm lễ tái thệ nguyện. Nhưng tận trong tâm, là một kẻ vô tư lự, tôi đã chọn đi theo cuộc đời làm nông, tách biệt bản thân khỏi sự náo nhiệt của xã hội hiện đại. Tôi trở về với việc làm nông Sau một thời gian sống ở căn chòi ven hồ ngoại vi thị trấn Beppu, tôi quay trở về nông trang của cha mẹ mình ở tỉnh Ehime trên đảo Shikoku7. Đấy là vào mùa xuân năm 1938. Tôi bắt đầu sống một mình trong một căn chòi ở vườn cam, và quyết định bắt tay vào làm nông tự nhiên để biểu đạt dưới dạng vật chất điều mà tôi đã thấy vào buổi sáng hôm ấy. Quan trọng hơn cả, tôi muốn cho người ta thấy những ý tưởng của tôi có ích cho đời như thế nào. Lúc đầu, tôi không chắc phải làm sao, nhưng tôi đã quyết chí biến khu vườn trên đỉnh đồi thành chốn thiên đường. Ý tưởng của tôi là để cho tự nhiên rảnh tay làm mọi chuyện. Vào lúc đó, các cây cam cha tôi trồng đã được tạo hình cẩn thận, nhưng bởi tôi không cắt tỉa chúng - với ý tưởng rằng chúng sẽ quay trở về hình dáng tự nhiên - nên các cành cây mọc ra tứ tung, côn trùng và bệnh hại xuất hiện, và trước khi kịp định thần, tôi đã làm chết sạch hơn hai trăm cây. Thử nghiệm đầu tiên này, đơn thuần là chẳng làm gì, là một thất bại nặng nề. Đấy đâu phải là làm nông tự nhiên; mà đấy là bỏ mặc. Nhưng tôi vẫn lấy làm vui vì ít nhất tôi đã học được từ thảm họa đó sự khác nhau giữa việc không can thiệp và việc nhận lãnh những trách nhiệm thuộc về con người. Cha tôi lo lắng cho tôi, nhưng tôi vẫn kiên trì. Tuy nhiên, thật không may là ngọn triều lịch sử loài người đã kéo tôi theo một hướng không mong muốn và không ngờ tới. Bầu trời Á châu trở nên tối tăm và nguy hiểm. Những người lính lên đường ra trận, tiếng trống dồn càng ngày càng lớn. Quanh tôi không còn sóng yên biển lặng nữa. Việc quay lưng lại với thế gian, sống một mình và vô tư lự trong căn chòi trên đồi trở nên không khả thi. Cha tôi, vào lúc đó đang làm trưởng làng, thúc giục tôi đi tìm việc ở đâu đó, bất kỳ đâu, thậm chí là ở một trạm thí nghiệm nông nghiệp cũng được. Đấy là quãng thời gian khi mà chính phủ và người nông dân đang dốc hết nỗ lực vào việc gia tăng sản lượng lương thực, thế nên tôi quyết định, sau khi vắng mặt năm năm, trở lại làm việc cho chính phủ với tư cách một nhà bệnh học cây trồng. Tôi đã tuân theo ước nguyện của cha và rời khỏi nông trại. Đây là những điều mà tôi đã nguệch ngoạc viết trong căn chòi vào lúc ấy. Ước vọng chuyên tâm với đất, Óc suy xét là cái ta dưỡng nuôi. Ta vung cuốc và mài sắc lưỡi hái 7 Ông Fukuoka l n lên m t ngôi làng nh làm ngh nông cách thành ph Matsuyama 16 d m. Gia t c Fukuoka đã đ nh c ớ ở ộ ỏ ề ố ặ ộ ị ư ở ồ ồ ả ộ ẫ ộ ạ ớ ộ ườ ộ đó vài trăm năm r i. Nông trang bao g m kho ng m t m u ru ng lúa và lúa m ch, cùng v i m t v n cam quýt r ng 10 m u n m trên m t con đ i nhìn ra v nh Matsuyama. M t kho ng hai m i phút đ đi b t ru ng lên v n. Là con c ẫ ằ ộ ồ ị ấ ả ươ ể ộ ừ ộ ườ ả trong gia đình, cu i cùng ông Fukuoka đã đ c th a k nông tr i, và cùng v i v mình, bà Ayako, nuôi l n năm ng i con ố ượ ừ ế ạ ớ ợ ớ ườ ở đó. 4 MASANOBU FUKUOKA Mà chẳng ăn thua gì. Đất đai tiều tụy, cỏ cây héo rũ, Nhìn trời nhìn đất buông một tiếng thở dài, Trong ta nhuốm đầy thất vọng. Khi nào đây Khu vườn Địa đàng ấy Mới tưng bừng trở lại? Chốn ẩn dật nho nhỏ ấy, Musoan8, là kỷ niệm nơi sinh ra nông nghiệp tự nhiên, nhưng tới giờ thì chẳng còn dấu vết nào của nó. Căn chòi đơn sơ tường trát bùn ấy, theo thời gian, đơn giản là đã trở về với đất. Những thử thách thời chiến tranh loạn lạc Và thế là vào những năm chiến tranh thế giới thứ hai tôi làm việc tại trạm thí nghiệm nông nghiệp ở tỉnh Kochi trên đảo Shikoku. Nhìn lại, tôi đã hoàn toàn vô trách nhiệm trong thời gian công tác tại đó. Thay vì tập trung nghiên cứu về bệnh rụi và tổn hại do côn trùng gây ra ở cây cối, tôi lại đi tranh cãi với các đồng nghiệp, bắt họ xem xét những ý kiến phủ nhận tính hợp lệ của khoa học. Hoặc không thì, giả đò đi thanh tra bệnh hại trên cây trồng và côn trùng gây hại, tôi ngao du khắp các vùng núi thuộc địa phận tỉnh Kochi để làm những nghiên cứu về tự nhiên của riêng mình. Tôi đặt một chân trong nông nghiệp tự nhiên còn chân kia trong thế giới của khoa học. Cuộc đời tôi đầy rẫy những mâu thuẫn. Do chính sách của Nhật Bản đang dẫn cả đất nước vào cuộc chiến, tôi tiếc nuối sâu sắc vì mình chẳng thể làm gì để ngăn chặn nó. Một chủ nhật nọ, có năm hay sáu người lính trẻ từ lực lượng không quân đóng quân gần đấy tới thăm vì là ngày nghỉ của họ. Tất nhiên tôi chào đón các chàng lính trẻ ấy. Tôi muốn mời họ thứ gì đó, nhưng lại chẳng có đồ nào ăn được. Thế là họ dành cả ngày nằm nghỉ ngơi trong căn phòng tầng trên của tôi rồi quay trở về căn cứ. Sáng hôm sau, họ biến mất vào bầu trời phương nam. Đến giờ tôi vẫn cảm thấy nhói lòng khi nhớ lại gương mặt búng ra sữa của những người lính năm nào. Khi nước Nhật bước vào năm cuối của cuộc chiến, cả tôi cũng bị gọi đi quân dịch. Thật may mắn là chiến tranh kết thúc ngay sau đó và tôi thoát. Tôi nhận được lệnh xuất ngũ và trở về nhà trong niềm biết ơn. Cuối cùng, tôi cũng được quay trở về với ruộng đồng, thưởng thức niềm vui của việc đơn giản là được sống. Tôi đặc biệt nhớ tiếng động vui vẻ phát ra từ chiếc máy đập lúa khi tôi quay nó lần đầu tiên sau khoảng thời gian dài vắng mặt. Kể từ đó, tôi đã trở thành một nông dân, và không bao giờ chệch ra khỏi con đường làm nông tự nhiên nữa. Tôi đã trải qua biết bao thất bại khi phát triển phương pháp tự nhiên trồng lúa gạo và các loại ngũ cốc mùa đông trên những cánh đồng không cày xới, vãi hạt giống ngay lên mặt ruộng, thế nhưng tôi vẫn cứ kiên trì. Tôi cũng chú tâm tạo lập một vườn cây ăn trái tự nhiên mà không xới đất, 8 Đ c d ch ra thành “ch n n d t c a Vô T ng”. ượ ị ố ẩ ậ ủ ưở GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 5 không sử dụng hóa chất hay làm cỏ bằng tay. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thế mà bốn mươi năm đã trôi qua. Nói thế này không phải là để bảo rằng tôi là một nông dân đặc biệt cần cù. Thực ra, tôi nhắm tới một phương pháp làm nông không-làm-gì-cả9. Phải, nhiều năm đã trôi qua kể từ trải nghiệm tâm linh thời tuổi trẻ của tôi. Giờ tôi đã là một ông già tóc bạc. Khi nhìn lại giai đoạn sau chiến tranh đó, có vẻ như nó đã xảy ra lâu lắm rồi, thế nhưng lại có cảm tưởng như là mới đây thôi. Khi xét tới vài năm cuối đời còn lại, tôi tự hỏi, liệu tôi đã làm mọi điều mà mình có thể làm được chưa. Con đường mà tôi đã chọn là con đường độc đạo. Điểm khởi đầu của cuộc hành trình ấy, hóa ra cũng là điểm kết thúc của nó. Ý nghĩa thực sự của Tự Nhiên Tôi đã bỏ ra nhiều năm tuổi trẻ ngốc nghếch kiếm tìm thứ mà mình “phải” làm. Thay vào đó, đáng lẽ ra tôi phải đặt tất cả niềm tin vào những đóa hoa đang nở trên đồng cỏ mới phải. Ngay cả khi con người chả làm gì sất, cỏ, cây và những chú sơn ca vẫn hồn nhiên sống đó thôi. Nhà thơ Basho đã sáng tác một bài Haiku thế này, A thật thần thánh Giọt nắng trời Trên những cái lá xanh Đúng ra, tôi có thể chắp tay kính phục và quỳ rạp trước bông hoa cải củ. Dù tôi không thể làm được thơ hay như Basho, trái tim tôi vẫn đang hát lên, “Ôi, màu trắng tinh của hoa cải củ/ Rực rỡ, huy hoàng!” Sự thật đáng buồn là hầu hết quãng đời thanh xuân, chính tôi cũng cảm thấy xa lạ với tự nhiên. Nhưng giờ đây tôi chỉ cần cầm một bông hoa trong tay thôi, tôi còn có thể chuyện trò cùng nó nữa. Cuối cùng thì tôi cũng nhận ra rằng, mặc dầu tự nhiên không chủ động tìm đến con người, thì con người luôn có thể vươn tới tự nhiên và qua đó cứu rỗi chính mình. Tôi thường nghĩ rằng, vào thời xa xưa, người ta hẳn đã biết mục đích tối thượng của đời người là đến thật gần tự nhiên. Có một lần đã lâu lắm rồi, khi sống ở trên núi, tôi đã vô thức viết, “Núi, sông, cỏ cây đều là Phật” lên một mảnh gỗ. Cũng có lúc tôi cho rằng “Chúa” là cái tên để nói về chân lý tuyệt đối vượt không gian và thời gian. Đôi khi tôi nghĩ, có lẽ cách gọi “Vô danh” của Lão Tử10 là đúng hơn cả. 9 V i cách nói này, ông Fukuoka ám ch tính ch t nhàn h m t cách t ng đ i trong ph ng pháp c a ông y. Th c ra, cách ớ ỉ ấ ạ ộ ươ ố ươ ủ ấ ự làm nông t nhiên v n c n t i vi c n ng, nh t là vào th i đi m thu ho ch, nh ng ít h n nhi u so v i các ph ng pháp ự ẫ ầ ớ ệ ặ ấ ờ ể ạ ư ơ ề ớ ươ khác. M c tiêu ông nh m t i là tránh làm công vi c không c n thi t, đ c bi t là nh ng công vi c phát sinh do h u qu ụ ắ ớ ệ ầ ế ặ ệ ữ ệ ậ ả c a các ho t đ ng tr c đó. ủ ạ ộ ướ 10 M t nhà tri t h c th i Trung Hoa c đ i, Lão T đ c nhân lo i bi t đ n nh là ng i sáng l p ra Đ o Lão. ộ ế ọ ờ ổ ạ ử ượ ạ ế ế ư ườ ậ ạ 6 MASANOBU FUKUOKA Thực ra tôi vẫn đang vật lộn với những con chữ. Cuối cùng, tôi nghĩ, hoàn toàn không có ngôn từ thì tốt hơn cho con người. Những sai lầm của tư tưởng loài người Bởi sự phát triển nhanh chóng của khoa học hiện đại, xu hướng sống lặng lẽ và nhìn thế giới như là cõi tạm của người châu Á đang dần biến mất. Ngày nay người ta tôn thờ nền văn minh hiện đại và cho rằng chủ nghĩa vật chất là toàn năng. Trong lịch sử phát triển của khoa học phương Tây, những khám phá mang tính lịch sử có ảnh hưởng to lớn đối với loài người gồm (1) thuyết tiến hóa sinh học, được đưa ra trong cuốn Nguồn gốc muôn loài của Darwin, (2) thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton và thuyết nhật tâm của Galileo, và (3) thuyết tương đối về vũ trụ của Einstein. Darwin đã bắt đầu từ sự tiến triển của loài người trên trái đất, lần theo dấu về sự khởi nguồn và phát triển của các sinh vật, cuối cùng kết luận rằng các sinh vật đã và đang tiến hóa. Cái ý tưởng cho rằng loài người bắt buộc phải tiếp tục phát triển đã trở nên ăn sâu bắt rễ trong tâm trí người ta. Newton, quan sát quả táo rơi, đã khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn và đặt nền móng cho vật lý hiện đại. Galileo hiểu rằng trái đất là tròn và khi bị giáo hội đem ra xét xử, đã không nao núng giải thích cặn kẽ thuyết của mình, rằng trái đất quay quanh mặt trời. Ông phủ định điều sai lầm - rằng bầu trời quay quanh trái đất, và đánh một đòn chí mạng vào thuyết sáng tạo bởi bàn tay thần thánh. Với thuyết tương đối về vũ trụ, Einstein đã đẩy loài người vào kỷ nguyên không gian. Trước sự sửng sốt của tất cả mọi người, ông đã kết luận rằng không có tốc độ nào nhanh hơn tốc độ của ánh sáng, lật lại niềm tin thường được chấp nhận là quãng đường ngắn nhất mà ánh sáng đi qua là theo đường thẳng, và đề xuất một lý thuyết mới rằng ánh sáng bị bẻ cong. Thêm vào đó, Eisntein nói rằng các sóng ánh sáng, sóng radio, sóng điện từ - bất chấp bước sóng của chúng - tất cả đều giống nhau và di chuyển trong không gian ở một tốc độ cố định, không có chuyện tăng tốc. Từ công thức của ông, rằng khối lượng và năng lượng là tương đương nhau, con người đã hiện thực hóa được các vệ tinh nhân tạo và các phương tiện di chuyển trong không gian vũ trụ. Tuy nhiên, Phật giáo phủ nhận tri thức có được qua trí năng của con người, coi đó chỉ là ảo ảnh. Một số thần thoại phương Tây cũng hoài nghi về tri thức của loài người và dạy rằng kể từ khi Adam và Eva ăn trái của Cây tri thức, loài người đã bị đuổi ra khỏi vườn Địa đàng. Tuy vậy, triết học phương Tây bị chia rẽ trong vấn đề này. Socrates, chẳng hạn, đã bắt đầu bằng giả thiết rằng con người không biết gì cả. Descartes, trái lại, tuyên bố, “Tôi suy nghĩ, vì thế tôi tồn tại.”11 Với niềm tin rằng người ta có thể biết và đúng là có biết về bản thân mình, ông biến sự phán 11 “Je pense, donc je suis” (ND). GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 7 xét của con người thành tiêu chuẩn, thiết lập các quy tắc cho thế giới vật chất, và bắt đầu phân tích các thuộc tính của nó. Các khoa học gia, xét về mặt lịch sử, cho rằng việc sử dụng ý chí con người để điều khiển tự nhiên là có thể chấp nhận được. Tự nhiên được nhìn nhận như là “thế giới bên ngoài”, đối lập với loài người. Quan điểm này chính là nền tảng căn bản của văn minh khoa học hiện đại. Nhưng cái “Tôi” hư cấu của Descartes không bao giờ có thể thấu hiểu toàn bộ thực tại. Loài người không hiểu chính bản thân mình, nên họ chẳng thể nào hiểu được kẻ khác. Con người có thể là con cái của “Mẹ Tự nhiên” thật đấy, nhưng họ không còn nhìn thấy hình tướng thực sự của mẹ mình nữa. Tìm kiếm cái toàn thể, nhưng họ chỉ trông thấy các bộ phận. Trông thấy bầu vú mẹ, bọn họ nhầm tưởng rằng đấy chính là người mẹ. Nếu ai đó không biết mẹ mình thì anh ta là đứa con không biết mình là con của ai. Anh ta giống như một con khỉ được con người nuôi ở trong vườn thú, cứ đinh ninh rằng người trông nom vườn thú là mẹ của mình. Tương tự như vậy, tri thức mang tính phân biệt và phân tích của các nhà khoa học có thể giúp họ chia cắt tự nhiên và nghiên cứu từng bộ phận của nó, nhưng lại chẳng có tác dụng gì trong việc nắm bắt thực tại của tự nhiên thuần khiết. Sẽ có ngày các nhà khoa học nhận ra mình đã sai lầm như thế nào khi chia cắt tự nhiên thành từng mảnh nhỏ như thế. Đôi khi tôi dùng một bức tranh vẽ bằng cọ và mực để minh họa cho điểm này. Tôi gọi nó là “cái hang trí năng”. Nó thể hiện hai người đàn ông đang đứng trong một cái hố, hay một cái hang, cần mẫn vung chiếc cuốc chim để đào chỗ đất cứng. Cái cuốc tượng trưng cho trí năng của con người. Càng cuốc thì cái hố càng sâu thêm và họ càng khó lòng thoát khỏi nơi đó. Ở bên ngoài cái hố, tôi vẽ một người ung dung tự tại dưới ánh mặt trời. Người làm nông tự nhiên này vẫn lao động để đáp ứng nhu cầu hàng ngày, nhưng anh ta không cố sức hiểu tự nhiên cho bằng được, và chỉ đơn giản là tận hưởng cuộc sống12. Mỉa mai thay, tự nhiên cũng bị phá hoại bởi những người tự đắc cho là họ đang đi con đường trung dung và đặt lợi ích của thiên nhiên lên trên hết. Những người có ý định tốt đẹp này, được coi là có lòng nhiệt thành và đầu óc thực tế, thường phát biểu: “Ngàn năm nay con người sống trong tự nhiên, khi vui sướng, lúc khổ đau. Chẳng phải đó là bản chất của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên hay sao? Liệu chúng ta có quá ngây thơ khi cho rằng tự nhiên chỉ toàn là chân, thiện, mỹ còn loài người thì vô tâm và xuẩn ngốc?” Mới nghe qua, quan điểm này có vẻ là hợp lý và khách quan. Tuy nhiên những người có tâm địa tốt này vẫn chưa thoát khỏi địa hạt của cách suy nghĩ tương đối. Từ cách nhìn phi tương đối, tự nhiên vượt lên trên cả đẹp và xấu, thiện và ác. Nhìn thế giới đầy những mâu thuẫn hay hài hòa tuyệt hảo là phụ thuộc vào việc chúng ta sử dụng trí năng hay nắm bắt toàn thể tự nhiên với tâm không phân biệt. Chỉ với vế sau thì chúng ta mới thấy được hình tướng thực của tự nhiên. 12 B c v này đ c sao l i làm trang đ u sách và cũng là m t ph n c a hình minh h a trang ngay tr c Ch ng m t. ứ ẽ ượ ạ ầ ộ ầ ủ ọ ở ướ ươ ộ 8 MASANOBU FUKUOKA Sẽ không có Chúa hay Phật nào ra tay cứu lấy loài người Sự hủy hoại của tự nhiên sẽ dẫn đến sự hủy hoại của loài người. Nhưng hình như có nhiều người tin rằng dù loài người biến mất thì Đấng tối cao sẽ cho họ tái sinh. Tuy vậy, ý tưởng này chỉ là tưởng tượng. Loài người sẽ không được sinh ra lần nữa. Khi con người trên trái đất này chết hết, sẽ chẳng có Chúa hay Phật nào tới để cứu họ đâu. Người ta đôi khi cũng cảm nhận được sự thiêng liêng của tự nhiên, chẳng hạn như khi họ nhìn thật kỹ một bông hoa, trèo lên những đỉnh cao, hay đi vào sâu trong núi. Những cảm giác mang tính thẩm mỹ như thế, tình yêu, khả năng lĩnh hội và sự thấu hiểu là những bản năng căn bản nhất của con người - là bản tính thực của họ. Tuy nhiên, ngày nay, con người đang vội vàng lao theo một hướng hoàn toàn khác, nhắm tới cái đích mơ hồ. Có lẽ những người dễ dàng nhận ra tự nhiên thật sự thiêng liêng chính là một vài người có đức tin, những nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm, và trẻ con. Ít nhất là cùng với yêu, họ biết rằng tự nhiên vượt trên khả năng sáng tạo của con người và phải được kính trọng. Nhà thơ viết về tự nhiên, người họa sĩ sáng tác những tác phẩm nghệ thuật, nhà soạn nhạc, nhà điêu khắc... tôi muốn tin rằng họ là những người đang theo đuổi cái thực sự có ý nghĩa. Nhưng nếu người nghệ sĩ chưa thấu hiểu tự nhiên, thì dù độ nhạy cảm của anh ta có sắc bén tới đâu, năng lực biểu đạt của anh ta có ưu tú tới đâu, kỹ thuật của anh ta có tinh tế tới đâu, thì anh ta cuối cùng vẫn sẽ lạc lối. Cánh chuồn sẽ là Đấng cứu thế Chưa từng có một thế hệ nào mà trái tim con người bị thương tổn như thế hệ hiện tại. Điều này đúng cho mọi mặt của xã hội bao gồm chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Nó được phản ánh trong sự xuống cấp của môi trường, hậu quả của con đường vật chất mà loài người đã chọn. Giờ đây chúng ta đang chứng kiến một cảnh tượng xấu xí, khi giới công nghiệp, chính phủ và quân đội đang hợp lực đấu tranh giành lấy quyền lực tối thượng. Trong thời đại của sự tan rã này, đủ loại tôn giáo trên thế giới, cũ và mới, lớn và nhỏ, đang hoạt động ngày càng tích cực. Đúng thế, mỗi khi thế giới rơi vào tình trạng hỗn loạn, các phong trào tín ngưỡng lại nở rộ. Để tôi đưa ra ví dụ về một tôn giáo hứa hẹn sự giàu sang và may mắn. Một người trẻ tuổi, giáo chủ sáng lập ra một tôn giáo mới ở Kobe, đã tới nông trại của tôi với chừng mười tín đồ. Anh chàng này bảo tôi rằng anh ta được đặc biệt truyền dạy để từ một người có tín ngưỡng bình thường trở thành giáo chủ sáng lập ra tôn giáo mới này. Anh ta học được những thứ như xem tướng 13, đọc tâm trí, thuật bói toán, đọc chỉ tay, xem tử vi, thôi miên chữa bệnh, trừ tà, và nhiều bí quyết giao tiếp với thánh thần, chẳng hạn như viết trên cát. Anh ta kể cho tôi rất chi tiết về các chiêu trò dùng 13 Thu t đánh giá tính cách m t ng i qua các đ c đi m khuôn m t. ậ ộ ườ ặ ể ặ GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 9 để điều khiển tín đồ, bắt đầu với những mánh khóe đoán định tính xấu hay những rắc rối của một tín đồ tiềm năng. Anh ta nói, điều này giúp anh ta thu hút được nhiều tín đồ mới. Đây chỉ là một dạng trong rất nhiều những kẻ lừa đảo tôn giáo, bọn họ cầm tù cả thần thánh lẫn con người, chạy quanh để thu nạp tín đồ hòng kiếm chác tiền bạc và quyền lực. Nhưng nhiều kẻ trong số họ rất nổi tiếng và được coi trọng, bọn họ nhìn không giống hình ảnh quen thuộc của một kẻ lừa đảo. Sự ngược đời này khiến tôi suy ngẫm về việc con người không hơn gì những con vật đang nhảy múa theo điệu sáo được thổi bởi những ý tưởng của chính họ. Tôi đang trông chờ tới cái ngày, khi mà con người không còn cần đến những kinh sách linh thiêng nữa. Cánh chuồn sẽ là Đấng cứu thế. Cuộc sống thuận tự nhiên Khi tôi nói xã hội loài người đang đi sai đường, tôi thường nghe lời phản bác, “Thế thì ông hãy chỉ cho tôi một con đường tốt hơn đi”. Bởi vì nó vẫn chưa có một cái tên, nên tôi sẽ gọi nó là “văn hóa và cộng đồng thuận tự nhiên”. Văn hóa thuận tự nhiên là cách sống đơn giản trong đó con người, với trái tim đầy tự do, leo núi, chơi đùa trên đồng cỏ, tắm trong những tia nắng ấm áp, hít thở không khí trong lành, uống thứ nước trong vắt như pha lê, và trải nghiệm niềm vui sống thực sự. Xã hội mà tôi đang mô tả là một xã hội mà trong đó con người sẽ kiến tạo một cộng đồng tự do và hào phóng. Tuy vậy, một khi ngọn nguồn nguyên thủy của tự nhiên đã bị phá hủy, tự nhiên sẽ không thể tự phục hồi, và hình ảnh về một nền văn hóa thuận tự nhiên sẽ lạc thời. Đúng vậy, nhiều loài động thực vật đang tuyệt chủng mỗi ngày, và ý nghĩa sự biến mất của một loài chim hay một loài cây không chỉ là cái chết của loài chim và loài cây đó mà thôi. Nó có tầm quan trọng sinh tử đối với tất cả chúng ta. Nó phá hỏng sự tồn tại hài hòa của mọi sinh vật. Nếu loài người có thể tìm lại được quan hệ gốc gác nguyên thủy của nó với tự nhiên, chúng ta sẽ được sống trong hòa bình và thịnh vượng, không thể khác. Tuy thế, nhìn qua đôi mắt của nền văn minh hiện đại, sống theo phong cách thuận tự nhiên này hẳn phải nhàm chán và sơ khai lắm, nhưng với tôi thì không phải vậy. Có nhiều người khác nữa bên cạnh tôi cũng đang đặt dấu hỏi với con đường của xã hội hiện đại. Trong họ đầy những dự cảm, họ tự hỏi liệu rằng chúng ta có thể giải quyết được, hoặc bằng cách nào đó tránh khỏi thảm họa môi trường hiện nay hay không. Thậm chí có nhiều nhà khoa học tin rằng sự bền vững lâu dài của sự sống trên trái đất, nhìn từ quan điểm về môi trường tự nhiên và các nguồn lực của nó, sẽ được quyết định trong hai mươi hay ba mươi năm tới. Tôi nói là nói trực tiếp với những người này. Chúng ta phải nhận ra rằng cả trong quá khứ lẫn hiện tại, chỉ có duy nhất một lối đi “bền vững” khả dĩ cho chúng ta. Chúng ta phải tìm đường quay về với tự nhiên. Chúng ta phải đặt cho mình nhiệm vụ tái sinh sự sống trên trái đất này. Tái phủ xanh trái đất, gieo những hạt mầm trong sa mạc 10 MASANOBU FUKUOKA - đấy là con đường mà xã hội phải đi theo. Những chuyến đi vòng quanh thế giới đã cho tôi niềm tin ấy. 13 CHƯƠNG HAI Xét Lại Tri Thức Của Con Người LOÀI NGƯỜI lần đầu tiên xuất hiện trên trái đất khoảng vài triệu năm trước, và chúng ta bắt đầu sống một cách gọi là “văn minh” từ vài nghìn năm nay. Tuy nhiên, ở Nhật Bản, điều này chỉ xảy ra trong vài trăm năm qua mà thôi. Khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, còn loài người thì không có thời gian để nhận định xem mình đang đi tới đâu, có vẻ như nền văn minh hiện đại đã lên tới đỉnh điểm và sự hỗn loạn đang lan tràn ở phạm vi toàn cầu. Nhưng liệu cái kết bất hạnh này của lịch sử loài người có phải là không thể tránh khỏi? Điều gì sẽ xảy đến cho thế giới trong tương lai? Sự khởi sinh của tri thức phân biệt Kể từ thời điểm một đứa trẻ trông thấy mặt trăng trôi trên bầu trời đêm và nói, “Con thấy mặt trăng kìa”, cái biết của con người bắt đầu. Khi đứa trẻ thấy mặt trăng lần đầu, nó chỉ đơn giản là ngạc nhiên. Rồi sau một giai đoạn, nó biết phân biệt giữa một chủ thể, “tôi”, và một khách thể, “mặt trăng”. Đứa trẻ đi đến nhận thức cái được gọi là mặt trăng đó như là một “thứ khác”. Vậy đó, ngay cả trong cấu trúc ngôn ngữ, con người cũng được dạy để đặt mình tách khỏi tự nhiên. Con người và tự nhiên đã từng có quan hệ mật thiết và hài hòa, như có thể thấy ở sự ngạc nhiên mang tính bản năng của trẻ con. Nhưng rồi, mối quan hệ này đã trở nên lạnh lẽo và xa cách. Khi chúng ta nói rằng mình biết màu xanh của tự nhiên, đấy đơn thuần chỉ là hiểu biết mang tính phân biệt màu này với màu khác. Nếu không nắm bắt được cái xanh lục nội tại của cỏ và của cây, là thứ bắt nguồn với sự sống trong bản thể của cỏ cây, thì chúng ta không thể nói rằng mình thực sự hiểu màu xanh. Người ta đơn giản tin là họ hiểu bằng cách phân biệt sự vật và hiện tượng dựa trên vẻ bên ngoài. Nếu tri thức về cái toàn thể (cái Một) bị tách làm hai và đem ra giải thích, rồi tiếp tục bị phân chia thành ba và bốn xong đem phân tích, thì khi đó, chúng ta cũng không tới gần hơn với sự hiểu biết về cái toàn thể. Tuy nhiên, khi làm chuyện phân chia này, chúng ta đi đến chỗ ảo tưởng rằng tri 14 MASANOBU FUKUOKA thức đã tăng tiến. Nhưng liệu chúng ta có thể nói rằng bằng cách lặp đi lặp lại sự phân chia và phân tích, rồi tập hợp tất cả những mảnh nhỏ lại, chúng ta đã làm cho tri thức của loài người tiến bộ lên một cách có ý nghĩa không? Bất kể chúng ta tích lũy, tổng hợp và đưa ra phán xét như thế nào, nỗ lực này cũng chẳng có ích gì cho việc làm sáng rõ trạng thái thực sự của vạn vật. Hơn thế nữa, nó ném chúng ta vào trong sự mơ hồ. Một khi con người tạo ra hình ảnh trong tâm trí về “mặt trăng”, thì khi đó mặt trăng nhận lấy một hình tướng cụ thể, và chúng ta thì muốn “biết mặt trăng” là gì, và cứ thế khám phá nhiều hơn về nó. Ham muốn này cuối cùng sẽ dẫn tới việc con người du hành lên mặt trăng và lấy về trái đất những viên đá để nghiên cứu thêm. Tiếp theo là chúng ta đang cho xây dựng các trạm vũ trụ, và ai biết được là còn những gì có thể tiếp diễn đây. Cùng với sự tăng lên của “tri thức” là ham muốn biết nhiều hơn nữa, và rồi người ta bỏ công và gắng sức mãi để sáng chế ra những loại máy móc giúp họ có được kiến thức thậm chí nhiều hơn. Nhưng ngay cả khi “chứng cớ” được tìm thấy, thì con người lại đặt thêm nhiều câu hỏi được gợi ra từ chính những chứng cớ đó. Cái ham muốn kiến thức ấy thành ra không có hồi kết, và chúng ta thì không biết mình đang ở đâu trong thế giới này. Rốt cuộc thì cái tinh túy của mặt trăng được trông thấy còn rõ ràng hơn qua đôi mắt của một đứa bé con. Thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin Thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin cho ta một minh chứng là mặc dù tri thức khoa học mang tính phân biệt có thể là hữu ích cho việc tách nhỏ tự nhiên ra và phân tích từng mảnh nhỏ đó, thì nó chẳng có tác dụng gì trong việc nắm bắt sự chân thực của tự nhiên. Thuyết tiến hóa của Darwin chia nhỏ bốn tỉ sáu trăm triệu năm kể từ lúc trái đất hình thành, quan sát các sinh vật tồn tại ở những quãng thời gian và những nơi chốn nhất định, rồi xem xét mối quan hệ qua lại của chúng. Dựa trên những điều này, ông phỏng đoán về quá trình đa dạng hóa và sự phát triển mang tính hệ thống của các sinh vật, tiến hành phân loại và từ đó phát triển thành thuyết tiến hóa. Nói một cách khác, khi ôxi và nước được tạo thành trên trái đất - mà vào lúc ban đầu chỉ là một khối vô cơ - thì các dạng sống sơ khai bắt đầu xuất hiện. Chúng tiến hóa và các dạng sống mới ra đời. Lúc đầu, những vi sinh vật cực kỳ đơn giản, chẳng hạn như nấm mục và vi khuẩn, được sinh ra; rồi chúng phát triển và phân nhánh, các sinh vật có hình thái khác nhau ra đời, dần dần các loại thực vật bậc cao, phức tạp hơn và động vật bắt đầu sinh sôi nảy nở trên trái đất. Ý tưởng ở đây là các dạng sống trên trái đất thành hình một cách tuần tự, theo sự phát triển của bản thân trái đất. Nhiều dạng sống khác nhau xuất hiện và tồn tại như là một phần của lưới thức ăn, nhưng chỉ có những dạng sống thích nghi thành công với môi trường sống của chúng thì mới sống sót. Điều này được biết đến như là thuyết chọn lọc tự nhiên, thuyết về loài có thể thích nghi cao nhất, và đôi khi được nhắc đến với tên: thuyết về sự sống sót của loài thích hợp nhất. Trong tất cả GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 15 các dạng sống, những loại nào được chọn lọc bởi tự nhiên và sống sót qua cuộc đấu tranh sinh tồn thì sẽ có quyền sống tiếp và sinh sản. Tôi có một câu hỏi về thuyết này như sau: người ta dựa vào đâu để xác định giống loài nào là cao hơn hay thấp hơn, và loài nào là mạnh, loài nào là yếu? Kết luận loài thích hợp nhất sống sót là ý định của tự nhiên và rằng con người đứng ở vị trí cao nhất là loài đã tiến hóa nhất thì có vẻ như phản ánh cái logic kẻ mạnh ở con người hơn là phản ánh trạng thái thực sự của tự nhiên. Thực ra, chẳng ai có thể nói loài nào là mạnh nhất, bởi lẽ tất cả mọi sinh vật đều dựa vào nhau mà tồn tại, sinh sản, và cuối cùng là phân rã, nhờ đó mà sự sống có thể tiếp diễn cho tất cả muôn loài. Đúng là tất cả các dạng sống - vì sự cần thiết và vì thiết kế của tự nhiên - tiêu thụ lẫn nhau để sống, nhưng chúng không cố ý mang đến sự tuyệt chủng của loài khác, không làm cạn kiệt một cách có hệ thống nguồn thức ăn của các loài khác, hay kết bè kết phái và gây ra chiến tranh. Chúng ta không thể nói điều tương tự về con người. Trong nhịp điệu theo chu kỳ của tự nhiên, không có chỗ cho cách nhìn phân biệt - vốn là cơ sở cho quan điểm của Darwin về sự ưu việt và thấp kém. Quan điểm này cho rằng các sinh vật đơn bào là thấp kém, còn các dạng sống phức tạp hơn là ưu việt. Sẽ thích hợp hơn nếu nói rằng tất cả chúng ta đều là một dạng sống liên tục. Việc ta thấy có sự khác biệt hay không giữa những con bướm và con ngài, chuồn chuồn và đom đóm thì tùy thuộc vào việc ta đang nhìn vào tổng thể hay nhìn vào những bộ phận nhỏ hơn. Trong ánh mắt của trẻ con, ếch, cá, chim và sóc, dường như tất cả đều là bạn, nhưng con mắt của người lớn thì lại bị thu hút tới những dị biệt ở vẻ bề ngoài và hình tướng, và vì thế chúng dường như là các loài động vật khác nhau. Nhìn thế giới này một cách vĩ mô hay vi mô thì đơn giản có nghĩa là chúng ta đang sử dụng các thang đo khác nhau. Tùy thuộc vào việc ta dùng thời gian của con người, đo bằng phút và giây, hay dùng thời gian vĩnh cửu của sông Hằng - hoặc tùy vào góc nhìn của ta hẹp như ở bên trong một chiếc hộp hay rộng lớn như cả vũ trụ - vẻ ngoài của thế giới sẽ thay đổi một cách hoàn toàn. Tương tự như thế, nhiều người tin là có sự khác biệt lớn giữa sinh vật sống và những thứ không có sự sống. Ngay cả sự phân biệt đó cũng chỉ nảy nòi do cách lĩnh hội của người ta mà ra. Hiểu về thời gian và không gian chân thực Hiểu biết thông thường cho rằng thời gian là một dòng chảy thẳng băng, tuyến tính từ quá khứ xuyên qua hiện tại đi về phía tương lai. Thuyết tiến hóa của Darwin dựa trên ý tưởng về thời gian này của xã hội loài người, thời gian mang tính lịch sử. Các sinh vật được phân vào các mảnh nhỏ thời gian - nơi chốn và được hệ thống hóa. Sự hệ thống hóa này nhấn mạnh vào những khác biệt giữa chúng. Các loài ban đầu là anh chị em của nhau, nhưng rồi được phân chia ra trong suy nghĩ của con người và biến thành những thứ khác biệt nhau một cách rõ rệt. 16 MASANOBU FUKUOKA Thời gian siêu việt, hay thời gian như nó hiện hữu trong tự nhiên, là một khoảnh khắc liên tục của hiện tại. Khi một người thấy và vận hành trong thời gian và không gian đó, thì cái được lĩnh hội là sự đơn nhất của vạn sự. Ý niệm về thời gian mà người ta thường hay chấp nhận ra đời cùng với việc sáng chế ra lịch và đồng hồ. Nhưng một chiếc đồng hồ, với những cái kim chạy vòng quanh theo một dãy những con số, chỉ là một phương tiện để đo đếm mà thôi. Thời gian không đơn giản chỉ trôi một cách máy móc theo một đường thẳng, theo một hướng cố định. Chúng ta có thể nghĩ về thời gian như trôi lên và trôi xuống, sang phải và sang trái, tiến lên hay giật lùi. Khi thời gian tiến triển và trải ra, đa diện và ba chiều, quá khứ được giấu trong thời khắc hiện tại, và bên trong thời khắc này ẩn chứa cái vô tận của tương lai. Thật dễ để ví dòng chảy của thời gian với dòng chảy của con sông. Nhưng ngay cả hiện tượng nước chảy trong một con sông cũng đặt ra thách thức cho sự lĩnh hội. Khi đứng trên bờ sông và nhìn xuống nước, ta có thể thấy rõ ràng rằng nước đang chảy theo một hướng. Nhưng nếu ta ở trên một chiếc thuyền chuyển động cùng tốc độ nước chảy, dòng sông không có vẻ gì đang trôi cả; thay vào đó, bờ sông dường như đang chuyển động ngược dòng. Như một vị thiền sư có lần đã nói, “Sông nào chảy. Cây cầu trôi”. Gien trội và gien lặn Nhiều năm trước, khi tôi còn là chàng trai trẻ làm việc với tư cách một nhà vi sinh học, thì các vi sinh vật thực khuẩn - là các loại vi-rút lây nhiễm và xơi tái vi khuẩn - đã được khám phá ra. Chúng được coi là những vật không sự sống đầu tiên biết sinh sản. Tôi khá quan tâm tới chúng, như là dạng vật chất trung gian giữa những vật có sự sống và không có sự sống. (Tất nhiên, đến giờ thì nghiên cứu trên các loại vi-rút đã làm mờ nhạt thêm ranh giới giữa những vật có sự sống và không có sự sống rồi). Khi đứng từ điểm nhìn của các hạt cơ bản, sự phân biệt giữa có sinh khí và vô tri vô giác, những vật có sự sống và không có sự sống, thực vật, động vật, vi-rút, chất khí và khoáng chất không còn trở nên quan trọng nữa. Thực tế thì cấu trúc của DNA, và mã di truyền mà nhờ nó vật liệu di truyền này được diễn dịch thành protein, là như nhau đối với mọi sinh vật. Điều đó chỉ ra cho tôi thấy rằng tất cả sinh vật về căn bản có liên hệ với nhau. Các protein này có thể được xem như là đơn vị liên lạc giữa những dạng sống và dạng không có sự sống, và vì thế đóng vai trò là những sợi chỉ buộc cái hữu sinh với cái vô sinh lại với nhau. Vậy là, trong khi tưởng như có sự khác biệt lớn lao giữa thực vật và con người, vật chất di truyền của chúng lại giống nhau. Cái gì đó trở thành một cái cây hay thành một con người phụ thuộc vào việc nhân tố di truyền tương ứng với cây là trội hay lặn mà thôi. Trong thực tế, chỉ một lượng nhỏ cách phối hợp của bốn thành tố di truyền biểu hiện ra một cách thành công, trong khi hầu hết những cách phối hợp khác bị mất đi hoặc nằm im không hoạt động. GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 17 Việc có quá ít các dạng sống trung gian giữa các loài, và việc chúng ta chẳng thể tìm ra hóa thạch của chúng thì không nhất thiết là bởi vì chúng không hề tồn tại. Thay vì nói rằng các gien tương ứng với các loài trung gian không hề hoạt động chút nào, chúng ta chỉ có thể giả định rằng ngay cả khi các loài trung gian đã được sinh ra, chúng cũng chết từ lúc sơ sinh và không lọt vào tầm chú ý của con người. Đó là lý do tại sao chỉ những giống, loài khác nhau và có vẻ như đứt đoạn như thế là còn lại. Cũng giống như một cây keo sản sinh ra hàng triệu hạt giống, mỗi hạt có sự hình thành gien riêng có của nó. Một số ít thực sự nảy mầm và sống tốt. Sau khoảng mười năm, có lẽ là chỉ còn một hay hai cây sống sót như là những hậu duệ của cây mẹ, nhưng tất cả những cây con khác không sống sót được vẫn là những trường hợp khả dĩ. Hãy lấy những hòn đảo ở Nội Hải Seto của Nhật Bản 14 làm một ví dụ khác. Những hòn đảo nằm trong vùng biển này có nhiều hình dạng khác nhau, chúng được đặt cho những cái tên khác nhau, và trông thì có vẻ chúng là những hòn đảo rời rạc, nhưng tất cả chúng đều nối kết với nhau ở dưới đáy biển, thế nên ta có thể xem tất cả chúng như là cùng một “hòn đảo Nhật Bản” duy nhất. Tất nhiên, mở rộng ra, người ta có thể nói rằng chúng được nối kết với tất cả các hòn đảo và lục địa của thế giới, do đều là một phần của vỏ trái đất. Tương tự như vậy, các động thực vật sinh sống trên trái đất trông thì có vẻ là khác nhau, nhưng chúng tất thảy đều kết nối ở gốc rễ. Việc các gien sống sót, nổi lên như những hòn đảo ở Nội Hải, hay là không, chìm xuống bên dưới mặt nước, thì phụ thuộc vào sự sắp xếp của các gien và vào sự tái cấu trúc liên tục của các hạt hạ nguyên tử. Một cách nhìn khác về tiến hóa Có lẽ chuyện đã diễn biến như thế này: Đấng Tạo hóa đã vê hạt giống của mọi sinh vật vào trong các viên đất sét và trao cho các thiên sứ đem đi rải bừa khắp nơi. Một số hạt giống được lập trình để trở nên hoạt hóa ngay sau khi đất đai hình thành. Những hạt khác được lập trình để sống tốt ở trong nước. Một số thì thích hợp với núi non, một số lại thích hợp với sa mạc. Các hạt giống được chỉ định để trở thành con người thì được lập trình để chào đời trong các kỷ sau này của trái đất. Hàng triệu hạt giống được tung ra vào cùng một lúc, và những sinh vật trên trái đất nhận lấy các hình dạng khác nhau. Một số trở thành các vi sinh vật, một số trở thành cây xanh, và một số trở thành các loài động vật biết chạy nhảy, đi lại. Xét về mặt khoa học thì chúng ta có thể nói rằng những hạt giống này đã nảy mầm khi các điều kiện thích hợp cho sự nảy mầm của chúng hội tụ đủ, và chỉ những loài có kiểu dạng phù hợp với môi trường sống của chúng thì mới phát triển và sống sót. Những hạt này rơi xuống biển thì trở thành rong biển, san hô và quỳ thịt, số khác trở thành sò hến và tôm cua, và tất cả sống cùng với nhau. Những hạt giống được rắc trên các vùng đầm lầy thì trở thành các loại cỏ đuôi mèo (cỏ nến), một số biến đổi thành cá da trơn hoặc lươn, và trong một số trường hợp, vẫn cùng các hạt giống đó 14 Vùng bi n nh n m gi a các hòn đ o chính c a Nh t B n, g m Honshu, Kyushu và Shikoku. ể ỏ ằ ữ ả ủ ậ ả ồ 18 MASANOBU FUKUOKA trở thành ếch, rùa hay rắn. Các sinh vật sống mang các gien tương tự nhau nhưng biểu hiện ra ngoài một cách khác nhau trở thành những cây trong rừng, trong khi các sinh vật khác lại trở thành những con chim sống ở trên những cây rừng đó. Cùng giai đoạn mà thực vật sống trên đất liền gia tăng và những cái cây lớn sinh trưởng rất nhiều, những động vật to lớn như hổ và voi xuất hiện. Các vi sinh vật, cây cối và động vật hết thảy đều là anh chị em về mặt di truyền, hiển nhiên rồi, nhưng mỗi loài xuất hiện trong một y phục khác nhau. Theo nghĩa nào đó, cách nhìn này có vẻ giống như đã kịch tính hóa và làm méo mó thuyết tiến hóa của Darwin. Khác biệt lớn nằm ở chỗ chúng ta nghĩ về sự trôi qua của thời gian như thế nào. Trong tâm trí tôi, hàng triệu, hàng triệu năm cũng chỉ như một cú nháy trong khoảnh khắc. Do vậy, vô số giống loài sinh vật không khởi nguồn vào những thời điểm khác nhau ở những nơi khác nhau, mà vào cùng một lúc và ở cùng một nơi. Tự nhiên là một cơ thể. Chúng ta có thể nói rằng, trong khi loài người và loài côn trùng là một phần của tự nhiên, chúng cũng đại diện cho tự nhiên với tư cách một tổng thể. Và nếu là như thế, khi chúng ta làm hại cây cối, các vi sinh vật và các con côn trùng thông qua nông nghiệp quy mô lớn kiểu chính thống (đây mới chỉ là một ví dụ thôi), nghĩa là chúng ta cũng đang làm hại cả nhân loại. Tôi muốn đề xuất một thuyết pháp luân về sự phát triển sinh học thay thế cho thuyết chọn lọc tự nhiên đơn chiều của Darwin. Tôi sẽ gọi nó là thuyết Pháp luân về dòng chảy của vạn vật. Bánh xe pháp có thể được xem như là đại diện cho định luật tự nhiên. Tự nhiên trải ra theo mọi hướng trong không gian ba chiều, và cùng lúc đó, khi nó phát triển, lại hội tụ và thu nhỏ lại. Chúng ta có thể nhìn những thay đổi giãn nở và co rút này như một dạng bánh xe. Cũng giống như vũ trụ vậy - ba chiều, luôn luôn giãn nở và co rút, xoay tròn trong không gian, và tiến về một hướng không ai biết. Vào thời điểm hóa tạo, cùng với sự ra đời phần còn lại của vũ trụ thì trái đất và mọi sinh vật trên nó được sinh ra như một thể duy nhất, thống nhất, cùng chung một số mệnh. Mọi thứ liên quan tới vai trò, mục đích và hoạt động của mỗi loài được hình thành và quyết định vào cùng một lúc. Mọi thứ đều được thiết kế sao cho đơn cũng là đa, cá thể cũng là toàn thể, và cái tổng thể là hoàn hảo, không có sự phí phạm nào, không có gì là vô dụng, và tất cả vạn vật đều làm tốt nhất nhiệm vụ của mình. Có một khía cạnh khác ở bánh xe pháp đa diện, ba chiều đang chuyển động, xoay tròn, giãn nở và co rút này. Tâm của nó, trục bánh xe, thì mãi mãi bất động và vĩnh viễn là một. Thay vì nhìn vào những dị biệt giữa vạn vật trên thế gian này, nếu chúng ta nhìn xuống đáy thì tất cả đều là một, và mục đích của hết thảy đều là như nhau. Những giống lai xuất hiện một cách tự nhiên trong ruộng lúa của tôi Khoảng mười năm trước, tôi đã cố lai tạo giống gạo tẻ (loại không dính) từ Miến Điện với giống lúa nếp của Nhật để phát triển một giống mới phù hợp cho việc làm nông tự nhiên. Hai giống lúa này cực kỳ khác biệt về mặt đặc tính, nhưng các đặc tính di truyền của các giống cha mẹ đã được GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 19 trộn lẫn lại, nhờ đó tôi thu được hai mươi, ba mươi, đôi khi là vài trăm giống lai khác nhau. Khi sắp xếp các giống lai thu được này, tôi để ý thấy rằng đặc tính của chúng tạo nên một dải liên tục. Có loại lúa tẻ gần với lúa nếp, có các dạng trung gian, rồi lúa nếp gần với lúa tẻ, và một số loại thì ở trên cùng một nhánh lúa có lẫn lộn cả hạt nếp lẫn hạt tẻ. Một số cây lúa đạt tới chiều cao chỉ tầm hai mươi lăm tới ba mươi phân, trong khi các cây khác thì khổng lồ cao tận hơn mét rưỡi. Cũng có sự liên tiếp về màu sắc hạt gạo - trắng, đỏ và nâu ngả đen. Một số có hương thơm, một số thì không, một số tơi xốp, một số thì dính. Trong tình huống này, thật không thể nào phát biểu giống nào là tốt giống nào là xấu. Tôi cũng đi đến chỗ đặt dấu hỏi về giá trị của việc phân biệt giữa các giống gạo nếp và tẻ, thậm chí là giữa cách canh tác ruộng ngập và ruộng để khô ráo. Tuy nhiên, sau nhiều năm lai tạo các giống lúa trên ruộng của mình, cuối cùng tôi cũng kết luận được rằng, ở nông trại tự nhiên, người ta chẳng cần phải tạo ra những giống mới bằng phương pháp lai nhân tạo làm gì, bởi bọn côn trùng, mà hầu hết người ta xem như là gây hại ấy, đang tự chúng tạo ra những giống lúa mới. Trong các cánh đồng lúa của mình, tôi để ý thấy rằng sau khi châu chấu và các con côn trùng khác đã cắn thành những lỗ tròn trên hạt lúa non đúng khi các nhánh lúa đang trổ bông, thì ốc sên, sâu ngài và các sinh vật khác kéo đến, bò trùm lên các hạt lúa này vào ban đêm. Chúng ăn xuống tận phần nhị hoa trong những cái lỗ này, sau đó phấn hoa do gió thổi từ các cây lúa khác giống đến bám vào và thụ được phấn. Nói cách khác, lúa gạo, mà người ta nói rằng là tự thụ phấn, cũng có thể được thụ phấn từ các cây lúa khác; và theo cách này, các giống lúa mới xuất hiện một cách tự nhiên. Trong một ruộng lúa nước canh tác theo kiểu chính thống, có phun xịt thuốc trừ sâu, các giống lai tự nhiên không xuất hiện. Tuy nhiên, trên một nông trại tự nhiên, chúng có thể dễ dàng sống sót và sẽ có nhiều cơ hội cho những giống mới xuất hiện. Rốt cuộc thì con người chẳng có lý do gì để phải tự mình lai tạo giống thay cho tự nhiên hết. Mọi việc đều được làm sẵn cho họ cả rồi. Bên cạnh việc lai giống giữa lúa gạo với lúa gạo, tôi còn thử nghiệm lai giống giữa lúa gạo và cỏ dại, chẳng hạn như loại cỏ lồng vực cạn (Echinochloa colona) và cỏ đuôi cáo (hắc mạch hoang), và nghĩ rằng nếu chuyện này trôi chảy, tôi sẽ thử kết hợp thêm với giống kê đuôi cáo và kê Trung Quốc, nhưng mục đích ban đầu của tôi không phải là nghiên cứu lúa gạo chỉ để nghiên cứu. Tôi tiêu khiển cho bản thân bằng cách đi ngược lại những gì được các nhà nông học thời bấy giờ khuyến nghị. Tôi đang làm cái trò lai tạo ngược để tìm ra sự lại giống: sự tái xuất hiện của các giống có thể có giá trị tiềm năng đã bị mất đi qua nhiều thế kỷ. Với công nghệ ngày nay, tôi tin chắc là mình sẽ thành công nếu như đẩy mạnh nghiên cứu đó đi xa thêm, nhưng tôi đã không hề có một chút ý định nào đặt chân vào lĩnh vực của khoa sinh học. Tới điểm xác thực được khả năng ấy thì tôi dừng lại. Khi trông thấy những con côn trùng đang tạo ra một loạt các giống lúa mới trên những cánh đồng trong nông trại tự nhiên của mình, tôi đã nghĩ tốt hơn hết là cứ để những việc ấy cho chúng làm, và tôi lùi lại. Tôi cũng đi đến một kết luận là việc phân loại cây cối, xếp chúng thành các bộ, họ, chi, loài không chỉ là một sự áp đặt lên cây cối, mà còn chẳng có ích lợi gì hết cho con người. Chi bằng 20 MASANOBU FUKUOKA chúng ta cứ đơn giản là trân trọng mọi hình thái đa dạng mà tự nhiên đã ban cho và đừng có can thiệp vào làm gì. Với công nghệ trao đổi gien hiện tại, việc tạo ra các giống rau củ quả khác nhau đã trở nên thật dễ dàng. Tôi gọi đó là “chiều hướng điên rồ của kỹ thuật di truyền”. Sớm thôi, con người sẽ đạt tới trình độ công nghệ để biến động vật thành thực vật, và thực vật thành động vật. Nhưng sự can thiệp của khoa học như thế không chỉ là không cần thiết mà nó còn nguy hiểm nữa. Nếu chúng ta đi theo cách suy nghĩ của Darwin, rằng chỉ một hình thái sự sống đã tiến hóa thành hàng triệu hình thái sự sống tồn tại ngày nay, thì nghe có vẻ cũng hợp lý khi thêm vào một vài chi hay loài mới ở chỗ này chỗ kia. Người ta có thể hy vọng rằng mình có thể tạo ra những sinh vật thậm chí còn tốt hơn và rằng những hình thái mới này sẽ đồng hóa và hòa hợp với các tạo vật của tự nhiên, nhưng kết quả sẽ là điều ngược lại. Bằng việc tạo ra những sinh vật mới qua kỹ thuật sinh học, người ta đang mạo hiểm ném cái cốt truyện tự nhiên của vở kịch thế gian này vào trong sự hỗn độn. Ngay cả khi chúng ta hiểu rằng chức năng các gien của sinh vật sống được xác định bởi cách sắp đặt bốn gốc cơ bản của DNA, thì vẫn là quá lạc quan khi cho rằng các loại thực vật và động vật bị can thiệp về di truyền sẽ không lọt ra ngoài tầm kiểm soát. Có quá nhiều thứ trên thế gian này chúng ta không hiểu, không chỉ về hình dạng và hình thái của các sinh vật mà còn về tính khí và linh hồn của chúng. Khi chúng ta thử một điều gì đó như việc tạo ra các hình thái sự sống mới rồi thả rông chúng ra môi trường, các tác dụng phụ mang tính thảm họa là điều chắc chắn sẽ xảy ra - chỉ là chúng ta còn chưa biết chính xác những tác dụng phụ này sẽ là gì mà thôi. Từ bỏ những gì chúng ta nghĩ là mình biết Mười năm trước tôi có tới thăm người cháu gái của Albert Einstein, sống ở gần Central Park (công viên trung tâm), thành phố New York. Khi tôi hỏi liệu Eisntein có nghĩ là thời gian và không gian thực sự tồn tại không, cô trả lời rằng, mặc dù thấy thời gian và không gian mang tính tương đối, ông ấy chắc cũng không thể đưa ra quan điểm gì về tính có thực của chúng cả. Đó có lẽ cũng sẽ là câu trả lời của ông, giả như tôi đang trò chuyện với chính Einstein, nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực sự biết được. Điều chúng ta biết là Einstein nói rằng khối lượng và vật chất là năng lượng. Chúng ta biết rằng việc mở rộng ý tưởng này dẫn đến những vụ nổ năng lượng kinh khiếp khi đem phân hạch nguyên tử. Các nhà vật lý hạt nhân đã nhận ra rằng nếu các nguyên tử có thể phân hạch thì chúng cũng có thể hợp hạch, và vì thế, gạt sang bên những cân nhắc của Einstein, họ tạo ra bom khinh khí 15. Hẳn linh hồn Einstein vẫn đang vật vờ trong ăn năn hối hận, bị đè nặng bởi phần trách nhiệm của mình trong thảm họa này. Tôi không thể nói thay cho ông, hẳn nhiên là thế, nhưng tôi tưởng tượng là ông sẽ thích thú trò chuyện về những hạn chế của tri thức con người. 15 Bom ch t o t khí hidro - H ế ạ ừ 2 (ND). GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 21 Một vài năm về trước, Fritjof Capra, một vị giáo sư vật lý lý thuyết tại Đại học California, người cũng giảng khoa học với tư cách một môn chính thể luận, đã tới thăm căn chòi trên sườn đồi của tôi. Ông phiền muộn chuyện các lý thuyết hiện tại về các hạt hạ nguyên tử có vẻ như không đầy đủ. Hẳn phải có nguyên lý cơ bản nào đấy, Capra nói, và ông muốn diễn đạt nó bằng toán học. Trong quá trình tìm kiếm nguyên lý căn bản khó nắm bắt được ấy, ông đã tìm thấy một gợi ý trong khái niệm của Đạo Lão về âm và dương. Ông đã gọi nó là khoa học của Đạo, nhưng ông nói thêm rằng chỉ mỗi chuyện đó thì không giải quyết được nan đề này. Capra đã ví điệu vũ sống động của các hạt hạ nguyên tử với điệu vũ thần Shiva của người Ấn, nhưng thật khó để biết các bước nhảy của điệu vũ là gì, hay giai điệu của ống sáo là gì. Tôi đã học được khái niệm về các hạt hạ nguyên tử từ ông, thế nên tất nhiên là tôi chẳng có lời nào khả dĩ có thể trực tiếp giải tỏa nỗi thất vọng trong ông. Việc nghĩ rằng bên trong những thay đổi liên tục của sự vật và hiện tượng hẳn phải có những định luật cố định tương ứng nào đó là một chuyện, nhưng con người có vẻ như không thể thỏa mãn chừng nào họ chưa diễn đạt được các định luật ấy dưới dạng toán học. Tôi tin rằng có một giới hạn cho khả năng hiểu biết tự nhiên dựa vào kiến thức của con người. Khi tôi đề cập rằng đấy có thể là ngọn nguồn vấn đề của ông, Capra bác lại, nói rằng, “Tôi đã viết hơn mười cuốn sách, nhưng chẳng phải ông cũng viết sách vì nghĩ tri thức là hữu dụng đấy thôi?” “Đúng là tôi có viết vài cuốn sách”, tôi trả lời, “nhưng có vẻ như ông viết ra những cuốn sách của mình, tin rằng chúng sẽ có ích lợi cho người khác. Còn tôi viết ra những cuốn sách của mình với ý tưởng rằng sách vở chẳng có lợi lạc gì cả. Có vẻ như cả hai chúng ta, một người tới từ phương Tây và một người tới từ phương Đông, đều đang thẩm xét tự nhiên và mong mỏi một sự trở về với tự nhiên nào đấy, nên chúng ta mới có thể ngồi lại cùng nhau và có một cuộc gặp gỡ mang tính trí tuệ thế này. Nhưng về điểm khẳng định hay phủ định tri thức của con người, chúng ta dường như đang đi theo hai hướng ngược nhau, do vậy đến cuối cùng chắc sẽ không đến được cùng một nơi”. Sau cùng thì, để người ta từ bỏ cái mà họ nghĩ mình biết, đòi hỏi sự dũng cảm và có lẽ là lòng tin không cần tới bằng chứng. 24 CHƯƠNG BA Chữa Lành Cho Một Thế Giới Trong Cơn Khủng Hoảng GẦN ÐÂY TÔI CÓ ÐỌC VỀ MỘT VỊ GIÁO SƯ, người đã tiến hành một đề tài nghiên cứu cơ bản về các sa mạc thuộc Iran và Iraq. Tôi không còn nhớ tên ông nữa, nhưng ông có đi đến một kết luận rằng tốt hơn hết cứ để nguyên các sa mạc như thế, và thôi không can thiệp vào chúng nữa. Cũng có một lý thuyết rằng sẽ tốt hơn khi để cho các sa mạc ở châu Phi và các vấn đề phát sinh về sức khỏe cộng đồng đi theo con đường “tự nhiên” của chúng. Khi xem xét những vấn đề này, chúng ta phải bắt đầu từ việc tự hỏi bản thân, cái gì là bình thường và cái gì là bất bình thường. Nếu một sa mạc xảy ra theo cách tự nhiên, thế thì tốt hơn đừng can thiệp vào, nhưng nếu nó tồn tại như là một điều kiện bất thường, khi đó chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc giúp nó hồi phục lành mạnh như trước. Rất dễ thấy rằng ở nhiều khu vực sa mạc, tự nhiên bị bỏ mặc cho hoang phế và thực phẩm trở nên khan hiếm do hậu quả các hoạt động của con người. Giờ đây chúng ta phải trả giá và nhận lãnh trách nhiệm bằng cách sửa chữa lại những thiệt hại do mình gây ra. Nếu thẩm xét một cách khoa học xem điều gì là đúng hay sai, lành mạnh hay tệ hại với sức khỏe của trái đất và con người, chúng ta có vẻ hiểu biết đấy, nhưng chẳng hề có các tiêu chuẩn tuyệt đối nào để đưa ra những đánh giá kiểu như vậy. Tốt hơn hết là hãy cân nhắc mọi thứ lại từ đầu với một tâm thế cởi mở. Hồi phục lại trái đất và con người của nó Với hệ thống quan sát và đánh giá hiện tại của mình, con người chẳng thể quyết định được liệu rằng sa mạc có phải là một dạng ung thư làm cho trái đất suy yếu đi hay không, hay đó là một hiện tượng tự dọn dẹp - một sự thay đổi mà nhờ đó trái đất lấy lại trạng thái cân bằng. Người ta thấy sự gia tăng dân số ở châu Phi, Trung Quốc và Ấn Độ là bi kịch, nhưng ai đã gây ra sự biến mất của thảm thực vật và sự khan hiếm thực phẩm ở những nơi đó? GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 25 Trong quá khứ, hiện tại và tương lai, khuynh hướng thực sự của tự nhiên là đi về phía thịnh vượng cho con người lẫn muôn loài. Vì thế, câu hỏi đặt ra không nên là “Tại sao lại có quá nhiều người đến vậy?” mà đúng hơn phải là, “Ai đã tạo ra tình trạng khan hiếm mà trong đó người ta được sinh ra?” Và rồi, cuối cùng là, “Làm thế nào chúng ta có thể chữa lành trái đất để nó có thể nuôi sống được các thế hệ tương lai?” Sẽ là quá giản đơn khi mở đầu và kết thúc cuộc đàm luận với cách nhìn chỉ giới hạn trong vấn đề dân số quá đông. Sẽ tốt hơn khi hỏi: Tại sao người ta lại phải chịu đựng chuyện đó? Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể để giảm nhẹ nỗi đau đớn của trái đất và của con người hay chưa? Điều quan trọng là suy ngẫm những gì đã xảy ra có liên quan tới nông nghiệp và y tế trong lịch sử loài người. Chúng ta đã chứng kiến những bước tiến lớn lao trong y học hiện đại, nhưng tiến bộ của y học chẳng có mấy giá trị khi mà số lượng người mắc bệnh cứ tiếp tục tăng cao. Cũng như vậy đối với nông nghiệp hiện đại. Làm sao chúng ta có thể tự khen ngợi mình về sự tiến bộ trong nông nghiệp hiện đại, bao gồm việc tăng năng suất vượt bực, nếu như tốc độ thiếu ăn, khan hiếm thực phẩm, kiệt quệ và bệnh tật thậm chí tăng còn nhanh hơn? Trong tự nhiên, không có những con côn trùng có ích hay gây hại Trong suốt những năm quan sát nông trại tự nhiên của mình phát triển, tôi thấy trái cây, rau củ và ngũ cốc không bị hư hại gì mấy. Cây trồng sinh trưởng mãnh liệt và phát triển tự nhiên, không thấy bị héo úa hay bị chết non. Thế không có nghĩa là không hề có sự tồn tại của sâu bọ. Nếu nhìn kỹ, ta sẽ quan sát thấy nhiều loại côn trùng hiện diện trên các cây ăn trái và có nhiều lá cây mắc bệnh. Thiệt hại mà chúng gây ra chiếm chưa tới năm phần trăm, nhưng số lượng ấy hiển nhiên phải được bỏ ra để cung cấp thức ăn cho chim chóc và côn trùng, và để loại bớt những cá thể cây yếu đuối nhất. Cây cối, con người, bướm và chuồn chuồn có vẻ như là những sinh vật riêng biệt, tách rời, thế nhưng mỗi loài là một hợp phần quan trọng và bình đẳng trong tự nhiên. Chúng chia sẻ cùng một tâm ý và linh hồn của sự sống. Chúng hình thành nên một sinh thể duy nhất. Nói các sinh vật là côn trùng hữu ích, côn trùng gây hại, vi khuẩn gây bệnh hay những con chim gây phiền phức thì cũng giống như nói cánh tay phải là tốt còn cánh tay trái là xấu. Tự nhiên là một vòng tròn vô tận, trong đó vạn vật tham dự vào cùng một điệu vũ của sống và chết, sống cùng nhau và chết cùng với nhau. Đông y và Tây y Trong Tây y, trước tiên cơ thể được kiểm tra để xác định bộ phận nào đang bị bệnh, sau đó người ta sẽ nỗ lực chữa trị căn bệnh đó. Nghĩa là, từ bên ngoài, các bác sĩ sẽ áp dụng cách điều trị triệu chứng tại vị trí đã xác định. Nếu ta có một cơn đau ở đầu, các bác sĩ sẽ yêu cầu chụp CT16, phân 16 Ch p c t l p vi tính (ND). ụ ắ ớ 26 MASANOBU FUKUOKA tích các kết quả thu được, phẫu thuật để cắt bỏ phần “bất thường”, rồi cố gắng dùng mọi khả năng có thể để chữa lành vùng đầu đó. Trong Đông y, các thầy thuốc bắt đầu bằng việc quan sát mắt và màu da, lắng nghe người đó nói và kiểm tra toàn bộ sức khỏe về thể xác và tinh thần của bệnh nhân. Mục tiêu chính là tìm ra cái gì hợp thành nên sức khỏe tổng quát của cá nhân đó. Người ta nghĩ rằng, đến cuối cùng thì cả hai phương pháp đều sẽ có tác dụng trong việc chữa chạy, nhưng trong thực tế, chúng đi theo hai hướng trái ngược nhau. Cũng có thể nhìn nhận chúng như là hai thái cực, một cái có mục đích chữa căn bệnh còn cái kia có mục đích duy trì sức khỏe. Khi sử dụng cách tiếp cận chuyên biệt hóa của Tây y, người ta lờ đi câu hỏi điều gì mang lại sự sống và sức khỏe cho toàn bộ cơ thể. Nói một cách khác, Tây y hiện đại đặt cơ thể con người lên trên tinh thần của họ. Sự chia cách này là điểm khởi đầu cho sự bất an trong đời sống của con người ngày nay. Đông y thì trái lại, xem xét hình thái tự nhiên của một người, mức độ khỏe mạnh của tâm trí và cơ thể, rồi đặt ra câu hỏi làm thế nào để giữ gìn sức khỏe đó. Đánh giá thể xác và tinh thần lành mạnh thì phải dựa trên hình thái tự nhiên của con người. Thế nhưng trong xã hội đương đại, ngày càng khó khăn hơn để duy trì hình thái tự nhiên đó, thậm chí khó nhớ nổi trạng thái ban đầu của nó là gì, bởi người ta đang ngày càng sống trong tâm trí và mất kết nối với cơ thể của mình. Để tìm ra hình thái tự nhiên của con người, nên cân nhắc xem đâu là mối quan hệ thích hợp cần phải có giữa con người và tự nhiên, và họ sẽ phải sống làm sao để hiện thực được mối quan hệ đó. Gần đây có một vụ om sòm liên quan tới chủ đề chết não. Đây là một vấn đề mơ hồ có liên quan tới câu hỏi về sự sống và cái chết sinh học của con người, cũng như các câu hỏi khác về đạo đức. Nó thậm chí còn trở nên phức tạp hơn khi có các quan điểm tôn giáo về sống và chết dự phần vào. Các thầy thuốc quá bận tâm tới tầm quan trọng của việc duy trì sự sống bằng mọi giá, thường cố kéo dài sự sống sinh học ngay cả khi chẳng còn niềm vui và niềm hy vọng nào trong sự sống ấy. Họ xóa nhòa ranh giới giữa sống và chết, đi xa khỏi địa hạt của khoa học. Các thầy thuốc và y tá phải là những người dẫn lối trong cuộc sống. Họ không nên chỉ chuyên tâm vào việc chữa bệnh, đưa ra lời khuyên về chuyện đau bệnh và thuốc thang không thôi. Nghĩa là, có những lúc họ phải trao cho người bệnh niềm an ủi bằng việc sống thực với lòng mình, đơn giản chấp nhận sự chia tay và cái chết. Chúng ta có thể nói rằng đấy là sự chữa chạy tột cùng, nhân đạo nhất. Liên quan tới những câu hỏi về sống và chết, tôi nghĩ tốt hơn hết con người nên quan sát vòng tuần hoàn của sự sống và cái chết trong tự nhiên. Hãy tưởng tượng một đồng cỏ đầy những cây hoa dại và cỏ thơm cùng với những chú ong, và hươu sao đang gặm cỏ trong nắng. Hãy tưởng tượng vòng xoay của các mùa - nhịp điệu của sinh trưởng và tàn rữa, một vẻ đẹp vô tận. Chúng ta chẳng bao giờ có thể hiểu được những hình thái kỳ diệu của thế gian này, nhưng không phải là đủ sao khi chỉ đơn giản tận hưởng quãng thời gian chúng ta ở đây với lòng đầy biết ơn? Đến tận cùng thì thực sự tình yêu mới là cái dưỡng nuôi linh hồn chúng ta. Sự sống không có tình yêu, sự sống không có GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 27 niềm vui - giống như một đồng cỏ cằn cỗi chẳng thu hút được đám động vật hoang dã đến - sẽ dẫn tới một môi trường sống khó chịu, một cơ thể bệnh hoạn và một cuộc sống bất hạnh. Khi tôi hỏi một thanh niên người Nhật “Cậu tìm hạnh phúc ở nơi đâu?” anh ta bảo, “Cháu thấy hạnh phúc khi đời mình đầy thức ăn ngon và quần áo đẹp, có một nơi tử tế để sống, một chiếc xe hơi, có thời gian nhàn tản và được đi chơi nước ngoài”. Một bạn trẻ đến từ Nepal thì với cùng một câu hỏi trả lời như sau: “Từ cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm cháu đã học được rằng niềm vui thực sự đến từ tự nhiên, và chúng ta có thể tìm thấy nó bằng cách từ bỏ những thứ ràng buộc mình”. Một người thì cố gắng tìm vui trong lòng xã hội loài người, người kia thì trong tự nhiên. Kẻ thì mắc bả của chủ nghĩa vật chất, trong khi người kia mong muốn được chữa lành. Trong sa mạc, ta có thể nghe thấy tiếng của gió và cát. Đấy là thứ âm thanh buồn bã, khô khốc, một tiếng thì thào, một điệu nhạc than van. Tiếng kêu be be buồn thảm của một con lừa ở vùng xa van17 châu Phi vẫn còn lưu lại trong tai tôi. Ai oán và rít lên, nghe giống như tiếng khóc của một đứa bé sắp chết vậy. Sa mạc ấy cũng đang khao khát được chữa lành. Tôi cảm thấy mình đã thấy được thực chất của việc điều trị y tế trong bệnh viện, nếu có thể gọi đấy là bệnh viện, tại một khu trại được lập trên vùng sa mạc cho hàng ngàn người tị nạn Ethiopia. Những chiếc lá cọ được đặt lên trên đỉnh vài chiếc cột khẳng khiu để lấy một chút bóng râm, và chỉ thế thôi là thành bệnh viện. Ở đó có một cái thước đo và một cái cân. Đứa trẻ sẽ được coi là bị bệnh khi chiều cao của nó là quá cao khi đem so tương ứng với cân nặng, và bệnh nhân đó sẽ được phát cho một ly sữa có nhỏ một giọt bổ sung dinh dưỡng. Mỗi sáng có hai hay ba trăm người tụ tập lại ở đó, bao gồm đám trẻ con và những người thân đi cùng, nhưng chỉ tầm hai mươi hay ba mươi đứa được cho là bị bệnh thôi. Mục đích đặt ra là có chân trong những người được nhận ly sữa vào ngày hôm đó. Những đứa trẻ không nhận được ly sữa nào sẽ kêu khóc thút thít. Chúng không khóc vì bị bệnh, mà khóc vì được khám và đánh giá là khỏe mạnh. Sự có mặt và quan tâm của các y tá tại bệnh viện này dường như đem lại cho người ta dũng khí để sống. Ánh mắt của những đứa trẻ đang vui chơi chạy nhảy ở chốn đó thật đẹp và sáng lấp lánh. Sống ở một cộng đồng xa xôi hẻo lánh, nơi không có chữ viết cũng chẳng có tiền bạc, những đứa trẻ này thật ngây thơ và chất phác. Trong quãng thời gian ở đấy, chúng tôi đã cùng nhau trồng những hạt giống rau trên những lối đi rải sỏi quanh khu bệnh viện. Tất nhiên, bọn trẻ hiểu khá rõ sẽ tuyệt như thế nào nếu chỗ này biến thành một thảm xanh trù phú, với đám rau lớn lên dưới bóng những cây chuối và đu đủ, thế nên chúng vui vẻ đem vãi những hạt giống đi thật rộng, thật xa. Dần dà, tôi đi đến chỗ nhận ra rằng quá trình cứu lấy cái sa mạc trong trái tim con người và việc phủ cây cho sa mạc, thật ra là cùng một thứ. 17 Savannah - nh ng đ ng c l n v i r t ít cây (ND). ữ ồ ỏ ớ ớ ấ 28 MASANOBU FUKUOKA Nỗi sợ chết Tôi nghĩ, nỗi sợ chết thì không phải là sợ cái chết của cơ thể nhiều lắm. Người ta sợ phải mất đi giàu sang và danh vọng mà mình đã gắn bó, cả những ham muốn trần tục vốn là một phần của cuộc sống hằng ngày nữa. Mức độ sợ chết của một người thường tỉ lệ thuận với chiều sâu những gắn bó và đam mê thế gian của người đó. Vậy làm thế nào để chết một cách thanh thản nếu chúng ta không tiêu trừ được những dính chấp của mình đây? Tất nhiên, thực chất của những luyến lưu này chính là ảo mộng, không hơn. Cũng giống như khi một người, tin rằng mình sở hữu một kho của cải toàn vàng bạc và trang sức, nhưng mở hòm ra thì chỉ thấy toàn những mảnh kính và đá cuội vô dụng. Tôi đã nói rằng, những thứ đồ vật chất thì chẳng có chút giá trị thực chất nào cả. Chúng có vẻ có giá trị đơn giản là vì người ta đã tạo ra những điều kiện khiến cho chúng có vẻ có giá trị nào đó. Thay đổi những điều kiện đó đi và thế là giá trị ấy biến mất. Giá trị được sinh ra và mất đi tùy thuộc vào những bất chợt của thời gian. Người ta chẳng có gì để được, cũng chẳng có gì để mất. Chừng nào người ta còn sống tuân theo định luật của tự nhiên thì họ cũng có thể chết đi một cách thanh thản, vào bất cứ lúc nào, giống như đám cỏ tự khô héo đi vậy. Nếu một người chết theo cách tự nhiên thì không chỉ có riêng người ấy được thanh thản, mà tâm của những người quanh anh ta cũng được an, và sau này sẽ không để lại điều gì hối tiếc. Rốt cục thì, kẻ thông báo cái chết đang tới và nói lời sau cùng không phải là một vị giáo sĩ hay người thầy thuốc mà chính là Tự nhiên. Thứ duy nhất người ta có thể quyết định là chọn lấy cách chết tốt nhất tuân theo ý chí của Tự nhiên18. Câu hỏi về linh hồn Người ta đã rút ra kết luận rằng sự sống và cái chết của các sinh vật khác trong tự nhiên là sự sống và cái chết của thể xác chúng, nhưng với con người thì vẫn còn đó một câu hỏi, liệu rằng sự sống có kết thúc với cái chết hay không, hay là vẫn tiếp tục sau đó. Người ta quá khổ sở với biết bao nhiêu là ý tưởng về chủ đề này - liệu linh hồn con người có tiếp tục tồn tại sau khi chết không, liệu có một thế giới khác, nơi các linh hồn chuyển tới sau cái chết không, liệu rằng người ta có tái sinh nữa hay không - tới mức họ khó có thể chỉ đơn giản mà chết. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta biết tâm trí có ý thức bắt nguồn từ khi nào và ở đâu, nhưng thực tình chúng ta không biết. Vậy đâu là tính có thực của thứ được tưởng tượng là linh hồn ấy? 18 Ông Fukuoka lìa đ i vào ngày 16/08/2008, tu i 95. S c kh e c a ông đã y u đi k t mùa thu năm 2007. Vào đ u tháng ờ ở ổ ứ ỏ ủ ế ể ừ ầ 8, ông đã yêu c u th y thu c c a mình b vi c đi u tr . Ch ng bao lâu sau đó thì ông m t, thanh th n, trong nhà mình, ầ ầ ố ủ ỏ ệ ề ị ẳ ấ ả ở vào th i gian di n ra l h i Obon. Obon là m t d p l gi a hè Nh t B n, th i gian t tiên đã m t tr v thăm ng i ờ ễ ễ ộ ộ ị ễ ữ ở ậ ả ờ ổ ấ ở ề ườ s ng trong ba ngày. Đ y là kho ng th i gian vui v . Dân làng sang s a m m , còn b n tr con thì ch y nh y vui ch i ố ấ ả ờ ẻ ử ồ ả ọ ẻ ạ ả ơ cùng nhau. Vào đêm th ba, các v t tiên s quay tr v n i c a mình trong s ti n đ a b ng các bài ca, đi u vũ và pháo ứ ị ổ ẽ ở ề ơ ủ ự ễ ư ằ ệ hoa. Ông Fukuoka đã ra đi vào đêm th ba c a l h i Obon nh th . ứ ủ ễ ộ ư ế GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 29 Ngay cả khi chúng ta nói nó là hoạt động tinh thần diễn ra trong bộ não, điều ấy cũng chẳng khai sáng bản chất thực của nó được chút nào. Cách để chúng ta làm sáng tỏ bản chất thực của tâm trí là xem xét nó từ vị trí của cái Vô (Mu), là sự nhận biết mà người ta có trước khi đi đến nhận biết về bản thân. Nó là cái tâm nguyên thủy có trước cả cái “tôi nghĩ” của Descartes. Cái “tôi” mà Descartes nói đến chẳng gì khác chính là cái ngã. Nó không phải là cái tâm thanh tịnh, siêu việt, không một vết nhơ. Mục tiêu tối thượng của các triết gia phương Tây - những người đang thám hiểm thế giới của bản ngã mang tính cá thể, và của những người theo tín ngưỡng phương Đông - những người đang đi tìm bản thể siêu việt, chính là làm sáng tỏ cái tâm nguyên thủy diễn ra một cách huyền bí, như là một phần của bản thân sự hiện hữu ấy. Chỉ thông qua tự nhiên chúng ta mới có thể thấy được cái tâm nguyên thủy này. Dẫu vậy, không cái nào trong những ý tưởng này - sống, chết, linh hồn - thoát ra khỏi được khung suy nghĩ tương đối. Chúng chẳng là gì khác ngoài những khái niệm trừu tượng dựng lên bởi những phán xét và cách lập luận lòng vòng của con người. Người ta đã tạo ra một thế giới của những bóng ma gọi là kiếp sau. Nhưng cho dù con người luôn cố sức tìm kiếm tự do để thoát khỏi nỗi sợ hãi cái không biết, đến cuối cùng, điều họ nên làm đơn giản vẫn là quay trở về với thực tại của tự nhiên và sống cuộc đời mình trong bình an. Nền kinh tế bạch tuộc hút tiền Điều đầu tiên tôi thắc mắc khi nghe tin Liên Xô sụp đổ là: chuyện gì sẽ xảy đến với nền kinh tế của các nước tư bản những năm sắp tới đây? Tất nhiên, nền tảng học thuyết chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản là khác nhau, ở chỗ chủ nghĩa tư bản tập trung vào sản xuất và tiêu thụ dựa trên cạnh tranh tự do, trong khi chủ nghĩa cộng sản lại nhấn mạnh vào sản xuất và phân phối một cách bình đẳng không thiên vị. Tuy nhiên, trái với niềm tin thường thấy, tự do và bình đẳng không thể cùng tồn tại, tách biệt một cách hoàn toàn khỏi sự kìm hãm và bất bình đẳng. Ngay cả khi chúng ta nói về tự do của chủ nghĩa tư bản, người ta cũng không thể hành động theo ý mình một cách tự do không giới hạn, và không phải cái gì cũng có thể đem phân phối một cách bình đẳng được như chủ nghĩa cộng sản đề xuất. Tự do và bình đẳng tồn tại trong một mối quan hệ qua lại giữa sợi dọc và sợi ngang của tấm vải19, không thể tách rời khỏi cái bóng của chúng và khỏi nhau. Khi xét kỹ ra, nội dung của hai thứ này chẳng mấy khác biệt. Ngay cả khi mục tiêu của chúng ta là bảo vệ rừng, phủ lại cây cho sa mạc và cách mạng hóa nền nông nghiệp, nhưng nếu không giải quyết được các vấn đề cơ bản của nền kinh tế và lối sống của con người, chúng ta cũng sẽ không thể thành công trong bất cứ chuyện gì. Tôi thường vẫn nói rằng giá trị không nằm ở trong bản thân hàng hóa vật chất, nhưng khi người ta tạo ra những điều kiện khiến cho chúng có vẻ như là cần thiết thì giá trị của chúng tăng lên. Hệ thống tư bản dựa trên ý tưởng về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa vật chất ngày càng tăng trưởng, và vì 19 Đây là nh ng s i v i t o nên t m v i d t. Các s i d c ch y theo chi u dài, vuông góc v i các s i ngang c a kh v i. ữ ợ ả ạ ấ ả ệ ợ ọ ạ ề ớ ợ ủ ổ ả 30 MASANOBU FUKUOKA thế, trong nền kinh tế hiện đại, giá trị của con người thành ra được xác định bởi những gì họ sở hữu. Nhưng nếu người ta tạo lập những điều kiện và môi trường khác đi, không khiến cho những thứ này trở nên cần thiết, thì chúng, bất kể có là gì, cũng không còn giá trị nữa. Chẳng hạn, với những người không có việc gì phải vội vàng thì xe hơi sẽ không được coi là có giá trị. Những nền kinh tế nhắm vào mục tiêu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm không cần thiết thì bản thân chúng cũng vô nghĩa. Người ta có thể sống hoàn toàn tốt không cần tới những hàng hóa không thiết yếu, nếu họ sống một cuộc sống trong đó tự nhiên cung cấp mọi thứ - tất nhiên với giả định là họ đến được với thế giới tự nhiên. Nhưng điều này đã trở nên ngày càng khó khăn trong bối cảnh nền nông nghiệp mang tính hàng hóa và sự thống trị toàn cầu của ngành kinh doanh thực phẩm. Quả thực, một người có thể thắc mắc về chủ nghĩa tư bản thế này: “Tại sao con người lại không thấy thỏa mãn, như là những con chim, với những gì họ có thể lượm được? Tại sao họ phải đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm ăn và chịu đựng khổ cực vậy?”20 Tôi vẫn còn nhớ từng lời của một người bộ lạc ở Ethiopia, người lúc đầu đã gạt bỏ ý tưởng về làm nông tự nhiên của tôi. “Ông đang yêu cầu tôi trở thành nông dân đấy à?” anh ta hỏi. “Bám lấy đất đai và tích cóp dành dụm là hành động của một kẻ thoái hóa”. Những lời đầy kiêu hãnh của người sống du cư nay đây mai đó này chính là sự chỉ trích sâu sắc đối với xã hội hiện đại. Dường như đã qua lâu rồi cái thời cái gì càng có nhiều thì càng rẻ; khi mà ta có thể kiếm tiền đơn giản bằng cách sản xuất ra những gì mà người ta cần - cái thời của nền kinh tế địa phương quy mô nhỏ. Mặc dù bí ngô sẽ nuôi sống hàng trăm người, nhưng khi đào kim cương, mỗi viên nặng chỉ vài gram mà lại bán được nhiều tiền hơn, tất cả mọi người đều bỏ không trồng bí ngô nữa. Một khi hệ thống phân phối nằm dưới sự kiểm soát của các công ty lớn, toàn bộ cấu trúc giá cả sẽ bị bóp méo lệch lạc. Chẳng hạn, khi tới thăm châu Âu, tôi thấy rằng ở Vienna, Áo, giá trái cây cực kỳ mắc. Khi hỏi về chuyện này, người ta bảo tôi rằng những nông dân Ý đang từ chối không trồng cây ăn trái, thế nên giá tăng cao vì trái cây không sẵn có. Ngày hôm sau, khi tiếp tục hành trình sang nước Ý, tôi trông thấy xe ủi đang phá nát những cây đào đẹp đẽ trong một vườn cây phía nam Milan. Khi tôi hỏi người nông dân ở đó tại sao lại làm thế, ông nói rằng người dân Áo không chịu mua trái đào. Tất nhiên, lý do là giá đào ở Vienna cao quá, nên lượng cầu sụt giảm, và thế là giá tiền trả cho người trồng đào ở Ý cũng rớt xuống theo. Người nông dân đó nói ông đang tuân theo mệnh lệnh “hạn chế sản xuất” của hợp tác xã nông nghiệp địa phương, và vì thế ông phải phá vườn đi. Cùng ngày hôm đó, một tờ báo Pháp cho đăng một tấm hình chụp những người nông dân Pháp tại biên giới với nước Ý, đang lật đổ năm, sáu chiếc xe tải chở đầy nho để ngăn không cho chúng nhập khẩu vào Pháp. Người tiêu dùng ở các thành phố nước Pháp vào thời điểm đó chuộng mua trái cây và rượu vang nhập khẩu với giá cao, không đếm xỉa gì tới mối bận tâm có thể hiểu được 20 Có th câu nói này căn c trên Matthew 6:25-34, mà m t ph n có n i dung là, “Hãy xem nh ng con chim trên tr i: chúng ể ứ ộ ầ ộ ữ ờ không gieo cũng ch ng g t hay tích tr vào kho, y th nh ng Cha trên Tr i c a các ng i v n cho chúng đ ăn… Hãy ẳ ặ ữ ấ ế ư ờ ủ ươ ẫ ủ xem nh ng cây loa kèn trên đ ng, chúng sinh tr ng ra sao: chúng không nh c công v t v , nh ng ta nói các ng i ữ ở ồ ưở ọ ấ ả ư ươ nghe, ngay c Solomon v i t t c nh ng vinh quang c a ông ta cũng không sánh b ng m t trong s chúng”. ả ớ ấ ả ữ ủ ằ ộ ố GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 31 của những người nông dân ở chính nước họ, về chuyện giá cả mà người nông dân thu được từ sản xuất thấp thế nào. Chuyện kiểu này xảy ra bởi vì những công ty thương mại đứng ở vị trí trung gian có thể thao túng giá tùy theo thông tin mà họ xì ra. Nếu họ bảo với người tiêu dùng rằng giá cả tăng cao vì nguồn cung trái cây thấp, rồi lại bảo với người sản xuất rằng doanh số bán ra kém, thì đối với kẻ môi giới trung gian, mọi chuyện vẫn tốt đẹp cả thôi, vì anh ta kiểm soát dòng tiền. Dưới hệ thống này, không ai biết đâu là sự thật nữa. Các doanh nhân và các nhà tài phiệt, những kẻ biết và kiểm soát thông tin thực tế trong sản xuất và chi phí, sẽ quyết định giá cả, luôn theo hướng có lợi cho họ. Tôi gọi đấy là nền kinh tế bạch tuộc hút tiền. Nằm ở trung tâm là các chính trị gia và các tổ hợp quân sự-công nghiệp-chính phủ (trái tim con bạch tuộc), những kẻ có quyền lực được tập trung hóa. Tám cái xúc tu của con bạch tuộc là công cụ để phục vụ cho trái tim đó, bao gồm: (1) duy trì mạng lưới vận tải, bao gồm đường bộ, đường sắt và đường không; (2) kiểm soát các đầu mối quản lý hệ thống vận tải; (3) giám sát truyền thông; (4) thiết lập một mạng lưới thông tin kinh tế; (5) giáo dục và cố vấn quản trị; (6) kiểm soát các thiết chế tài chính; (7) kiểm soát thông tin; và (8) kiểm soát máy tính cá nhân và việc đăng ký của công dân. Mọi thứ đều được kéo về phía trung tâm nhờ tám cái xúc tu trên. Mặc dù hoạt động này được tiến hành dưới danh nghĩa kích thích kinh tế vùng ở các khu vực ngoại vi, hay là duy trì văn hóa vùng miền, thì sự giàu có cuối cùng vẫn tích tụ lại ở trung tâm. Cái khăn mà con bạch tuộc quấn quanh đầu nó, giống như một người làm món sushi quấn quanh đầu ông ta, là cái vòng kim cô tiền bạc, và tiền này, giống như một thỏi nam châm, hút về càng nhiều tiền hơn qua tám cái xúc tu của nó. Chuyện này cứ tiếp tục mãi. Và sự giàu có ấy được dùng vào việc gì? Nó được dùng để đẩy mạnh tập quyền và tăng cường vũ trang - nghĩa là đổ thêm nhiên liệu vào dạ dày con bạch tuộc. Việc này sẽ mang lại sức mạnh quân sự và sự giàu có cho quốc gia - mà, nếu cứ để cho leo thang không kiểm soát, kết quả sẽ là tham vọng điên khùng muốn kiểm soát cả thế giới. Nhưng tự phụ luôn kéo theo sụp đổ, đến cuối cùng, con bạch tuộc sẽ bị câu lên bởi ngư ông lọc lõi, hoặc sẽ tự xơi các xúc tu và làm hại chính mình. Điệu vũ bi kịch của con bạch tuộc hút tiền này được biểu diễn trên lưng của thường dân và nông dân. Rốt cuộc, con bạch tuộc ấy, với các xúc tu vung lên điên loạn theo mọi hướng, chẳng là gì hơn ngoài một vở hài kịch của loài người. Điều này nhắc tôi nhớ tới khoảng thời gian đến thăm Lumbini ở Nepal, nơi Đức Phật Thích Ca chào đời. Lúc tôi nghỉ chân trong làn sương mù dày đặc dưới tán cây sung, một vài nông dân địa phương xuất hiện theo tốp hai và ba người, đi quanh cái hồ đằng trước mặt tôi. Bọn họ đang xoay những cái luân xa dùng cho cầu nguyện, họ tụng kinh, và rồi biến đi mất dạng. Thời gian với tôi dừng lại. Trong khoảnh khắc đó, tôi nghĩ mình đã nghe thấy tiếng của Phật Đà. Trong hành trình trở về quê nhà ngày hôm ấy, một người có liên quan tới việc giữ gìn các di tích Phật giáo đã cho tôi xem bản đề xuất của một kiến trúc sư người Nhật, muốn biến nơi đó thành điểm du lịch. Tôi bị sốc hoàn toàn. Kế hoạch đưa ra là kết nối hồ nước với một chuỗi những con kênh, sao cho người ta có thể cúng bái ngay trên du thuyền. Ở trung tâm của công viên, mô hình 32 MASANOBU FUKUOKA của những đền thờ, nhà thờ và miếu thờ vĩ đại của thế giới sẽ được xây dựng và sử dụng làm khách sạn. Họ muốn làm cho việc thăm viếng những chốn linh thiêng được tiện lợi hơn và rút ngắn khoảng thời gian cần thiết để nắm bắt được Phật tâm. Tôi có cần phải nói trắng ra rằng với công viên giải trí theo chủ đề tôn giáo và đèn lồng xoay tròn, con người chẳng thể nào nhận ra chân thân của Đức Phật không? Mặc dầu chính phủ cảm thấy hãnh diện là Nhật Bản đã trở thành một cường quốc về kinh tế, và đa số người dân tự xếp mình là thành viên giai cấp trung lưu, nhưng ở đó ai ai cũng có thể cảm nhận được một điều rằng, cùng với sự phồn vinh hiện tại là một cuộc khủng hoảng kinh tế sắp ập đến. Trước đây không lâu, hơn tám mươi phần trăm người Nhật còn là nông dân, và chỉ một phần nhỏ hoạt động trong lĩnh vực buôn bán hay sản xuất công nghiệp. Đến giờ thì tình hình hoàn toàn đảo ngược. Ngành đầu bảng, nông nghiệp hiện đại, chỉ chiếm chưa tới năm phần trăm dân số, và ngay cả ngành công nghiệp chế tạo và thương mại, đứng thứ nhì, cũng đã bị vượt mặt về cơ cấu dân số bởi các ngành công nghiệp phục vụ tiêu dùng, đứng thứ ba. Nếu một cơn bão đình trệ kinh tế mà nổi lên thì cái cấu trúc này chắc chắn sẽ sụp đổ. Phong cảnh ruộng đồng, cho tới mới gần đây thôi còn có thể thấy ở Nhật Bản, vẫn tồn tại ở nông thôn nhiều vùng châu Á, châu Phi và Ấn Độ. Trong thực tế, một trong những công cụ làm nông thông dụng nhất là chiếc xe trâu vẫn được sử dụng ở nhiều ngôi làng Ấn Độ ngày nay. Tôi cảm nhận thấy lòng tự hào tràn đầy trong lời của một nông dân, khoe với tôi rằng thiết kế của chiếc xe này đã không phải thay đổi hay cải tiến gì trong suốt ba nghìn năm qua. Nằm ở căn cốt những nước được gọi là kém phát triển này là một đạo lý đáng tự hào của những người gắn bó với ruộng đất. Nếu những nền kinh tế theo kiểu địa phương này mà bắt chước các nước phát triển với mô hình tập trung quyền lực và tài nguyên của chúng, thì người dân thường sẽ nghèo hèn đi, dù rằng những kẻ trục lợi trong nước đó có nhất thời giàu lên. Những người nông dân đường hoàng mà tôi đã từng gặp này nhìn những tòa nhà chọc trời ở các quốc gia phát triển như những bia mộ cho loài người. Tôi nhớ tới một bài dân ca Thái, hát như thế này: Lúa ở trên đồng Cá bơi trong nước Người bán rong rao những món hàng Ta có thể mua những gì mình muốn Hạt giống chúng ta đã gieo rồi Nhanh tay nào, đi tưới nước Kẻo chúng sẽ chết khô Đêm nay trăng tròn. Bài ca này tán dương niềm tin rằng những người nông dân sống tối giản là những người vui sướng nhất. GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 33 Ảo tưởng về luật nhân quả Các nhà khoa học tự nhiên phát hiện ra rằng nếu ta làm lạnh một cốc nước, nó sẽ đông thành đá, còn nếu ta hâm nóng nước đá, nó sẽ quay về thành nước. Cứ lặp đi lặp lại những thí nghiệm như thế, họ thấy rằng có một nguyên nhân và một kết quả trong sự biến đổi của vật chất. Khi nước biển bị mặt trời hâm nóng, nó bốc thành hơi bay lên tạo thành các đám mây, biến thành mưa, rơi xuống đất, chảy xuống theo các dòng suối con sông, rồi quay trở về với biển. Với vòng tuần hoàn ấy, các nhà khí tượng học thấy rõ nguyên nhân tạo ra mây và mưa, nghĩ rằng họ đã nắm bắt được bản chất thật của nước. Nhưng họ chẳng hề hiểu nguyên nhân căn bản giải thích lý do tại sao có nước ở trên trái đất và tại sao mây lại trôi trên trời. Khi các nhà khoa học tự nhiên xác định các biện pháp để đối phó với tình trạng sa mạc hóa, họ bắt đầu bằng việc khảo sát các nguyên nhân và kết quả trông thấy được. Họ tiến hành các nghiên cứu về môi trường sa mạc, khí hậu, đất, và hệ sinh thái của các sinh vật. Sau đấy họ lập kế hoạch trồng cây gây rừng. Nói cách khác, giống như với Tây y, họ chế ra một phép điều trị triệu chứng mau chóng và cục bộ. Nhưng những nguyên nhân mà họ dựa trên đấy để đưa ra giải pháp của mình không phải là những nguyên nhân căn bản. Các biện pháp đối phó của họ không có tác dụng chữa lành, mà thực ra lại khuếch đại mức độ của vấn đề lên. Cho tôi một chút ít thời gian để nói về trải nghiệm của riêng tôi với các rừng thông ở Nhật Bản. Những cây thông xanh mướt đáng yêu mọc lên gần những bờ biển cát trắng đã từ lâu là phong cảnh biểu trưng cho các hòn đảo Nhật Bản, nhưng vào giữa những năm 1970, thông bắt đầu chết như ngả rạ. Chỉ trong một thời gian ngắn, những cây thông đẹp đẽ bao phủ các ngọn đồi biến mất ở nhiều vùng của Nhật Bản. Bộ Lâm nghiệp xác định rằng nguồn gốc của thiệt hại này là một loài giun tròn, sống trên vật chủ là bọ cánh cứng sừng dài. Trong vòng mười năm qua, người ta đã thực hiện việc phun hóa chất diện rộng từ trên không trong nỗ lực tiêu trừ loài bọ cánh cứng này. Làng của tôi nằm trong vùng có rừng thông gỗ đỏ, thứ gỗ này nuôi được nấm thông (matsutake), một loại nấm rễ21 bán được giá cao nhờ mùi vị đặc trưng của nó khi nấu nướng. Tôi không thể ngồi nhìn khi mà những cây xanh tươi cao lớn quanh nông trại của tôi đột nhiên chết hết cây này tới cây khác. Và nữa, tôi có những hoài nghi của mình về cái cách mà Bộ Lâm nghiệp xác định loài bọ cánh cứng và giun tròn là nguyên nhân, nên tôi đem kinh nghiệm trước đây trong ngành bệnh học cây trồng ra sử dụng, dành hơn ba năm nghiên cứu trong một cái chòi trên sườn đồi của mình. Theo giả thuyết của Bộ Lâm nghiệp, khi những con bọ cánh cứng đó đẻ trứng lên ngọn thông, loài giun tròn sống cộng sinh với chúng xâm chiếm cây thông, đi vào hệ thống mao mạch của cây, rồi nhân lên, làm tắc nghẽn dòng chảy của nước cũng như dưỡng chất bên trong thân và cành cây. Việc này được phát biểu là nguyên nhân khiến cho những cây thông đột ngột héo và chết. Tuy nhiên, các thí nghiệm của tôi lại cho thấy một kết quả hoàn toàn khác. Trước hết, những cây thông khỏe mạnh ít có khả năng chết, ngay cả khi bị nhiễm giun tròn. Thứ hai tôi đã không tìm thấy loài nấm sợi, thức ăn cho loài giun tròn (theo Bộ Lâm nghiệp, là những 21 Loài n m s ng m t ph n nh vào b r c a cây và m t ph n vào đ t. Đây là m t m i quan h mà c cây ch và loài ấ ố ộ ầ ờ ộ ễ ủ ộ ầ ấ ộ ố ệ ả ủ n m này đ u đ c l i. ấ ề ượ ợ 34 MASANOBU FUKUOKA loại mốc xanh và đen không rõ ràng), hiện diện ở trong thân những cây thông khỏe mạnh, mà bọn giun tròn thì không thể chỉ sống nhờ vào mỗi mình nhựa cây. Rồi, khi tôi nghiên cứu thân những cây thông bắt đầu có dấu hiệu chết đi, tôi phát hiện có ba hay bốn loại nấm bệnh (eumycete) khác nhau, thậm chí chưa từng được nhắc tới. Những sinh thể này được cho là vào nước Nhật qua gỗ nhập khẩu. Nhưng ngay cả khi tôi cho lây nhiễm lên cây thông các sợi nấm mà bọn nấm bệnh này sản sinh ra, thì chúng cũng không ảnh hưởng mấy tới độ khỏe mạnh nói chung của cây. Điều hay ho nhất từ nghiên cứu của tôi là phát hiện rằng những cây thông bắt đầu thể hiện những dấu hiệu bất thường chỉ sau khi loại nấm matsutake cộng sinh với rễ cây không còn hiện diện nữa. Cây thông và nấm matsutake có một mối quan hệ cộng sinh. Nấm matsutake xâm nhập và phá vỡ các khoáng chất trong đất, hấp thụ một lượng nhỏ dưỡng chất từ đó, mà sau này cung cấp lại cho cây thông. Nói cách khác, sự suy giảm số lượng cây thông và sự suy giảm đột ngột của nấm matsutake, điều đang xảy ra trên khắp nước Nhật, dường như có một mối liên quan trực tiếp. Điều gì đã gây ra sự biến đổi các cộng đồng vi sinh trong đất ở những khu rừng thông của nước Nhật? Chúng ta đều biết rằng đất ở các rừng thông càng ngày càng axit hơn, và chỉ riêng chuyện đó thôi cũng có thể giải thích được sự biến đổi xảy ra trong đám vi sinh vật. Tôi tin rằng những cơn mưa axit là nguồn gốc của tính axit này, nhưng tôi không thể nói thế một cách chắc chắn. Tôi vẫn chưa đi đến được một kết luận nào cả, nhưng liên quan tới nguyên nhân thì các kết quả nghiên cứu của tôi chỉ ra một hướng hoàn toàn khác so với giả thuyết của Bộ Lâm nghiệp. Nguồn gốc của vấn đề không phải là loài giun tròn phiền toái, mà đúng hơn là do loài nấm matsutake đang chết dần đi, và kết quả là cây thông trở nên yếu đuối. Các loại nấm sợi xâm chiếm thân cây và cuối cùng đến lượt loài giun tròn ăn nấm sợi xâm nhập vào cây. Giun tròn và bọ cánh cứng không phải là căn nguyên gây nên chuyện. Chúng đang không làm gì cả ngoài chuyện dọn dẹp xác của những cây đã chết hoặc sắp chết. Nhiều lắm thì chúng cũng chỉ là tòng phạm gây tội ác, trong khi kẻ chủ mưu thì lại nằm ngầm ở dưới đất. Nhưng ngay cả khi giả thuyết của tôi là chính xác đi nữa, nếu khói mù và mưa axit hóa ra là nguồn gốc của vấn đề, thì gần như chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát ban đầu. Tất nhiên, nghiên cứu này được thực hiện trong cái chòi tồi tàn của tôi ở trên đồi, nên vẫn có chỗ cho sai sót tồn tại, nhưng điểm cần nói ở đây là, nguyên nhân và kết quả mà thế gian nhìn thấy có thể sai lầm. Mặc dầu tôi nói về chu trình nhân quả đấy, nhưng không ai thực sự biết chuyện gì đang diễn ra cả. Ấy vậy mà Bộ Lâm nghiệp vẫn quyết định phun thuốc trừ sâu lên khắp các khu rừng. Ai mà biết được việc làm này có thể dẫn tới thảm họa môi trường khôn lường nào, và có thể diễn biến nghiêm trọng hơn nhiều thì sao? Cách tiếp cận hiện tại của các phương thức đối phó với sự sa mạc hóa Khi thấy mưa không rơi xuống và không có nước trong sa mạc, điều đầu tiên người ta nghĩ tới là dựng một con đập để lưu giữ nước sông. Rồi họ xây các đường dẫn nước và các kênh tưới tiêu. Họ nghĩ rằng muốn sử dụng nước được hiệu quả, tốt nhất là tạo nên những đường thẳng tuột để nước GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 35 chảy nhanh hơn. Con đập Aswan trên sông Nile đã được xây dựng rồi và sớm thôi sẽ có những con đập lớn tương tự được xây trên sông Hoàng Hà ở Trung Quốc, trên sông Narmada ở Ấn Độ. Chúng có thể là những phương cách ngắn hạn, thiết thực, nhưng về lâu dài chúng sẽ biến thành những sai lầm thế kỷ. Lý do chính khiến nước đang dần biến mất khỏi các dòng sông là bởi vì mưa đã thôi không còn rơi xuống nữa. Bước đầu tiên chúng ta phải thực hiện trong việc chống lại sa mạc hóa không phải là bẻ hướng dòng chảy của các con sông, mà là khiến cho mưa lại rơi xuống. Việc này liên quan tới tái lập thảm thực vật. Cố phủ cây cho sa mạc bằng việc dùng tới lượng nước hiếm hoi còn lại ở các con sông là đang đặt cỗ xe phía trước con ngựa. Không, trước hết chúng ta phải đồng loạt phủ cây cho những dải sa mạc rộng lớn, nhờ đó khiến cho mây bốc lên được từ đất, tạo thành mưa. Hiện thời đang có một kế hoạch xây dựng trên hai trăm con đập nữa dọc theo sông Narmada, con sông linh thiêng thứ nhì ở Ấn Độ chỉ sau sông Hằng. Nhưng khi bị đập ngăn lại, nước dâng lên sẽ nhấn chìm các rừng cây, lấy mất sinh kế của những người sống ở đó, và thế là hàng triệu người sẽ bị đẩy ra các sa mạc quanh dòng sông. Dòng người này sẽ tạo một áp lực lớn hơn lên các nguồn lực vốn đã hiếm hoi của sa mạc, và với sự mất đi của rừng, các sa mạc sẽ còn mở rộng ra thêm22. Chính phủ Ấn Độ cần phải quyết định liệu tốt hơn hết nên tiếp tục xây dựng các nhà máy thủy điện theo kế hoạch trăm năm của quốc gia, hay là nên tái phủ cây cho sa mạc và làm cho đất đai sống lại. Một điều cũng quan trọng cần để ý là, ngay cả khi không có các con sông chảy qua trên bề mặt của sa mạc thì bên dưới vẫn có nước. Ở Saudi Arabia và khu vực sa mạc phía Đông dãy núi Rocky ở Bắc Mỹ, nước được bơm lên từ các tầng ngậm nước nằm sâu bên dưới bề mặt đất cả trăm mét. Ở Hoa Kỳ, nước được bơm tới các cánh đồng rộng lớn kiểu vòng tròn, tại đó nó được phun tỏa ra nhờ vào các vòi tưới khổng lồ, tạo thành những vòng tròn có đường kính lên tới nửa dặm. Nhìn những vòng tròn màu xanh mà các nông trại này tạo nên trên sa mạc, người ta có thể thấy được sức mạnh của công nghệ hiện đại. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi những vòi phun này đã hút lên tất cả lượng nước ngầm còn lại, vốn là lượng nước đã được lọc, thấm xuống từ các khu rừng trên dãy núi Rocky và tích tụ trong hàng chục ngàn năm? Khi nước trở nên khan hiếm, người ta nghĩ tới chuyện tiết kiệm. Với hệ thống tưới nhỏ giọt, các ống nhựa được rải ra trên sa mạc trong nỗ lực sử dụng lượng nước ít nhất mà vẫn cho hiệu quả cao nhất. Một trường đại học của Nhật Bản đang cho tiến hành các cuộc thử nghiệm sử dụng kiểu tưới này ở Mexico, và nó cũng đã được áp dụng ở Israel được một thời gian. Tất nhiên, phương pháp này có hiệu quả với tư cách ‘chữa cháy’ cục bộ, nhưng xét về tổng thể số lượng vật liệu và năng lượng cần dùng tới, liệu rằng cách tưới nước nhỏ giọt có thể đưa vào sử dụng như một giải pháp thiết thực và lâu dài hay không thì vẫn còn là dấu hỏi. Một thử nghiệm đem cày trộn thứ nhựa siêu hấp thụ vào trong đất để tăng khả năng giữ nước của nó đã được tiến hành ở Ai Cập. Các thử nghiệm khác thì tập trung vào nhiều loại vật liệu khác 22 Bu n thay, k t th i đi m ông Fukuoka vi t cu n sách này vào năm 1992, chuy n này đã thành hi n th c. ồ ể ừ ờ ể ế ố ệ ệ ự 36 MASANOBU FUKUOKA nhau thay thế cho mùn trong việc giữ nước, nhưng những cách thức này cũng chỉ là những kế chước ngắn hạn mà thôi. Ở Trung Quốc, chính phủ đã khởi động một dự án đồ sộ, với nỗ lực chặn đứng sự bành trướng của đại sa mạc Taklamakan. Như ở Sudan và Tanzania, họ dùng vệ tinh và máy bay để khảo sát những vùng xa xôi về mức độ sa mạc hóa đang diễn ra. Họ phân tích nước ngầm, độ mặn của đất và những điều kiện khác bằng cách khoan những hố rất sâu, lượng hóa các kết quả thu được, thực hiện giả lập trên máy vi tính, và kiểm tra khả năng chống chịu của các loại cây được nuôi trồng trong môi trường sa mạc khắc nghiệt. Nhưng hết thảy các kế hoạch tái phủ cây được lập ra theo cách này đều thất bại. Thế rồi chính phủ, chịu trách nhiệm tiến hành các nghiên cứu này, nói rằng họ cần phải quay lại, phân tích lại các số liệu - mà tất nhiên là vụ này sẽ tốn thêm nhiều thời gian và tiền bạc. Hẳn rồi, ta có thể tạo ra những cánh đồng tươi tốt ở một vùng đất khô cằn nếu bơm nước ngầm lên và phun tưới lên sa mạc, như họ làm ở những nông trại trồng theo dạng vòng tròn ở Mỹ. Nhưng do nước được tưới theo cách này nhanh chóng bốc hơi mất, muối trong nước tưới kết tủa lại, trơ ra và tích tụ ở các lớp bề mặt của đất. Để tránh tình trạng này, lượng muối từ nước tưới được rửa trôi ra các con sông hoặc các “khu vực rác thải” gần đấy, thực sự gây nên những điều kiện độc hại tại đó23. Các phương pháp được sử dụng ở Saudi Arabia, Israel và những nơi khác, chẳng hạn lọc nước biển qua một màng nhựa tổng hợp, tách muối ra để biến nước mặn thành nước ngọt, đem lưu chuyển tuần hoàn, và nhờ thế tạo nên những trang trại ngay giữa sa mạc, cũng chẳng là gì khác ngoài những biện pháp ngắn hạn, ngốn năng lượng khủng khiếp. Một số người nghĩ rằng để tăng số lượng cây trên trái đất, tốt nhất là trồng những giống cây mọc nhanh. Ngày nay, nhiều loại cây mau lớn, chẳng hạn như bạch đàn, đang được trồng khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, những loại cây này cần rất nhiều nước khi còn non, thế nên sẽ mất cực kỳ nhiều sức lực để tưới đủ nước cho cây. Khi cây cối chỉ được tưới chút ít nước phía trên bề mặt, đất sẽ trở nên chắc đặc lại. Khi đó nước không thể ngấm sâu xuống dưới, rễ cây không thể lan rộng ra; rốt cuộc, việc ta tưới thì cũng giống như đem đổ nước lên những tảng đá bị hâm nóng. Vì lý do này, nhiều cây bị héo và chết. Sa mạc hóa gây ra bởi cừu, bò và dê cũng là một vấn đề nghiêm trọng. Chúng không chỉ ăn hết số thực vật hiếm hoi sẵn có mà còn ăn cả những cái cây mà con người trồng lên với mục đích hồi phục đất và rừng. Có vẻ như chúng ta sẽ phải quyết định chọn ra cách thức kiểm soát số lượng và quản lý gia súc sao cho phù hợp, nhằm tạo ra được một hệ thống phục hồi và tái tạo lớp đất mà chúng gặm cỏ cây ở trên đó, đồng thời sẽ phải giải quyết vấn đề dân số thế giới. Khi thấy rằng nguồn thực phẩm không còn đủ nữa, người ta vội vã đốn cây đi và cố gắng trồng cây lương thực lên 23 M t ví d mang tính bi k ch và n i ti ng cho v n đ này đã x y ra m t phía Tây khô c n c a thung lũng San Joaquin ộ ụ ị ổ ế ấ ề ả ở ặ ằ ủ ở California. N c đ c b m lên t t ng đ t ng m n c đ r a mu i kh i l p đ t m t, nh đó có th tr ng bông và các lo i ướ ượ ơ ừ ầ ấ ậ ướ ể ử ố ỏ ớ ấ ặ ờ ể ồ ạ cây mùa v khác. Th n c ch a đ y mu i này sau đó đ c x vào khu trú n c a đ ng v t hoang dã Kesterson, gây ra tình ụ ứ ướ ứ ầ ố ượ ả ẩ ủ ộ ậ tr ng tích t các lo i mu i đ c h i và selen. Selen có trong t nhiên và không có h i v i l ng nh , nh ng khi m t đ tích ạ ụ ạ ố ộ ạ ự ạ ớ ượ ỏ ư ậ ộ t cao nh th thì nguy hi m ch t ng i. Vào năm 1983, m t s l ng l n tôm cá đ c phát hi n đã ch t, cũng nh hàng ụ ư ế ể ế ườ ộ ố ượ ớ ượ ệ ế ư ngàn con chim b ch t hay d d ng. Vi c (b m n c) này đã b ng ng l i vào năm 1985, nh ng selen, chì, boron và các ch t ị ế ị ạ ệ ơ ướ ị ừ ạ ư ấ đ c h i có hàm l ng cao khác thì v n còn nguyên đó. ộ ạ ượ ẫ GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 37 đó càng nhanh càng tốt, thường là trên những đồng đất đã đốt trụi. Tuy nhiên, xét tổng thể, lượng thực vật đang giảm nhanh hơn là được tái tạo, và sa mạc hóa đang tiến triển với một tốc độ ngày càng tăng. Các phương cách tái phủ cây kiểu khoa học nhằm làm cho sa mạc lành lặn trở lại thường chỉ xét đến một cách thức chuyên biệt. Như tình trạng bây giờ, hàng loạt những nỗ lực khác nhau mang tính cục bộ, manh mún hòng chặn đứng tình trạng sa mạc hóa đã trở thành những biện pháp nửa vời được triển khai bởi các viên chức chính phủ. Vấn đề là ở chỗ, nước, đất và cây trồng được xét tới một cách riêng biệt, mỗi thứ được thúc đẩy bởi một ban ngành riêng. Không bao giờ có thể đi đến giải pháp lâu dài theo cái cách như thế. Trong khoảng năm mươi năm vừa qua, tôi đã trồng các loại cây lương thực mà không xới tung đất lên, cũng không sử dụng phân bón hay các hóa chất nông nghiệp. Thực tế ra mà nói, tôi đã chẳng làm gì cả, thế mà đất ở ruộng của tôi trở thành loại đất tốt nhất trong làng. Tôi chỉ việc vãi hạt giống bọc trong các viên đất sét, rải rơm lên và tạo một lớp phủ đất có lợi, bao gồm cỏ ba lá hoa trắng và đậu tằm. Tôi cung cấp cho tự nhiên những công cụ đó, rồi phó thác cho nó sinh sôi nảy nở. Mặc dù thời tiết và các điều kiện khác không giống nhau, tôi tin rằng phương pháp cơ bản này cũng sẽ có tác dụng trong việc phủ cây cho các vùng đất sa mạc. 40 CHƯƠNG BỐN Sự Sa Mạc Hóa Toàn Cầu MẶC DÙ BỀ MẶT đất đai ở châu Âu và Hoa Kỳ nhìn thì có vẻ được bao phủ bằng một màu xanh đáng yêu, nhưng nó chỉ là một màu xanh mô phỏng theo kiểu cảnh quan sắp đặt. Bên dưới bề mặt đó, đất đang kiệt quệ đi do kiểu thực hành nông nghiệp sai lầm suốt hai nghìn năm qua. Hầu hết đất châu Phi ngày nay vắng bóng cây, trong khi chỉ vài trăm năm trước thôi nơi này được bao phủ bởi những cánh rừng già. Theo Ủy ban nghiên cứu thống kê của Ấn Độ, thảm thực vật ở Ấn Độ cũng đã biến mất nhanh chóng trong 45 đến 50 năm qua, và giờ đây chỉ bao phủ chưa tới mười phần trăm bề mặt của đất đai. Khi tôi tới Nepal, các nhà chức trách đã xót xa trước thực tế là trong hai mươi năm qua, dãy Himalaya đã trở thành những ngọn núi trọc lóc, chẳng còn cây cối. Ở Philippines, trên các hòn đảo Cebu và Mindanao, có những đồn điền chuối đấy nhưng lại không có rừng, và người ta đang lo là trong vài năm nữa, ngay cả nước uống cũng có thể trở nên khan hiếm. Ở Thái Lan, Malaysia và Indonesia, khi mà những phương thức làm nông bảo vệ tự nhiên đã bị nuốt chửng bởi làn sóng văn minh hiện đại, tình trạng của đất đai cũng xấu đi. Nếu quá trình phá rừng ở những cánh rừng mưa nhiệt đới tại châu Á và Brazil cứ tiếp tục với tốc độ hiện tại, lượng ôxi trên trái đất sẽ suy giảm và niềm vui của mùa xuân trên hành tinh này sẽ bị thay thế bởi sự cằn cỗi của mùa đông. Nguyên nhân trực tiếp của việc thảm thực vật mất đi nhanh chóng là do nạn phá rừng bừa bãi và nông nghiệp quy mô lớn, được tiến hành nhằm phục vụ cho đời sống văn hóa vật chất của các nước phát triển, nhưng nguyên nhân sâu xa của nó thì bắt nguồn từ hàng nghìn năm trước. Thế giới tự nhiên không tự nó biến thành sa mạc. Cả trong quá khứ lẫn hiện tại, con người với tri thức “siêu việt” của mình vẫn luôn là kẻ đầu sỏ trong việc biến trái đất và trái tim con người thành những mảnh đất chết. Nếu chúng ta diệt trừ được cái nguyên nhân gốc rễ của sự phá hoại này - chính là kiến thức và hành động của con người - chắc chắn thiên nhiên sẽ trở về với sự sống lần nữa. Không phải tôi đang đề xuất việc loại bỏ loài người, mà đúng hơn, tôi đề xuất thay đổi nền chính trị và cách chúng ta thực hành quyền hạn của mình. GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 41 Các cách thức để chống lại sa mạc hóa của tôi thì giống y như phương pháp làm nông tự nhiên căn bản. Người ta có thể gọi nó là một cuộc cách mạng nông nghiệp tự nhiên, mà mục đích là trả trái đất về thành nơi thiên đường như đã từng. Những bài học từ các cảnh quan ở châu Âu và Hoa Kỳ Lần đầu tiên tôi trông thấy sa mạc và bắt đầu quan tâm đến nó là vào mùa hè năm 1979, khi lần đầu bay đến Hoa Kỳ. Tôi chắc mẩm rằng lục địa châu Mỹ là một vùng bình nguyên bát ngát, xanh tươi màu mỡ với những cánh rừng sum suê, nhưng ngạc nhiên làm sao, nó lại là một vùng bán sa mạc màu nâu hoang vắng. Tôi đã có một buổi nói chuyện với Cục Bảo tồn của bang California ở Sacramento, chủ trì bởi cô Priscilla Grew, vào lúc đó đang là người đứng đầu của Cục. Tôi nói rằng môi trường ở California có những vấn đề nghiêm trọng, là hậu quả của cách thực hành nông nghiệp tồi, quản lý nước kém, khai thác gỗ quá mức và chăn thả quá độ. Tôi nói với nhóm người đó rằng những việc này đang kết hợp lại và hình thành nên một “đại sa mạc California”. Sau buổi nói chuyện, tôi được mời tới trao đổi riêng với cô Grew, một nhà địa chất, tại văn phòng của cô trên tầng 13 tòa nhà Resources Building. Chúng tôi thảo luận về việc Nhật Bản và California gần như là ở cùng một vĩ độ, cả thảm thực vật lẫn nền đá kiến tạo của hai nơi là tương đồng, và trước đây rất lâu, các lục địa châu Á và châu Mỹ đã từng là một lục địa liền. Chẳng hạn như, các mẫu hóa thạch cho thấy các cánh rừng rộng lớn của loài cây thủy sam Metasequoia24 đã tồn tại ở cả hai nơi. Các loài rêu và địa y mà tôi thấy mọc ở những khu rừng không ai động chạm tới ở Sierra Nevada và ở Coast Range thì cũng giống hệt như tôi quan sát được ở các cánh rừng nguyên sinh Nhật Bản. Phỏng đoán của tôi là quá trình sa mạc hóa và thay đổi khí hậu ở California bị đẩy nhanh bởi cách thức làm nông nghiệp sai lầm. Tôi đưa ra giả thuyết rằng việc phá rừng và sự thay đổi từ các loại cỏ bụi sống lâu năm từng có lúc bao phủ các bình nguyên sang các loại cỏ hàng năm như đuôi cáo và yến mạch hoang đã góp phần làm lượng mưa giảm đi 25. “Mưa không chỉ rơi xuống từ trên trời”, tôi nói. “Nó còn rơi ngược lên từ đất nữa”. Thảm thực vật, đặc biệt là cây cối, thực sự khiến cho mưa rơi. Sau khi chúng tôi rời khỏi văn phòng của cô, có ai đó đề nghị tôi cùng đi thăm một nơi thú vị gần đấy. “Nơi thú vị gần đấy” hóa ra là một cao nguyên khô, nóng ở Coast Range, cách chừng hơn một trăm dặm. 24 Đây là m t trong ba lo i cây tùng g đ , hai lo i kia là tùng b bi n và c tùng kh ng l . ộ ạ ỗ ỏ ạ ờ ể ủ ổ ồ Metasequoia, hay tùng r ng đông, ạ đ c cho là đã tuy t ch ng, cho t i khi m t vài khu r ng nh đ c phát hi n t i mi n Nam Trung Hoa vào năm 1944. Hi n ượ ệ ủ ớ ộ ừ ỏ ượ ệ ạ ề ệ gi nó là m t loài cây phong c nh ph d ng có m t r ng kh p các v n m. ờ ộ ả ổ ụ ặ ộ ắ ở ườ ươ 25 Các vùng đ t c m c California lúc ban đ u g m có các lo i c lâu năm. Nh ng lo i th c v t này có h r đâm sâu và ấ ỏ ọ ở ầ ồ ạ ỏ ữ ạ ự ậ ệ ễ r ng, xanh su t mùa hè. Khi ng i Tây Ban Nha đ a loài c u và ng a chăn th t i đây vào cu i nh ng năm 1700, h cũng ộ ố ườ ư ừ ự ả ớ ố ữ ọ mang theo h t gi ng c a nh ng lo i c hàng năm, ch ng h n nh h c m ch và y n m ch. B n gia súc chăn th kén ch n ăn ạ ố ủ ữ ạ ỏ ẳ ạ ư ắ ạ ế ạ ọ ả ọ nh ng lo i c lâu năm b n đ a có nhi u dinh d ng h n, khi n cho các lo i c hàng năm có nhi u l i th đ sinh sôi. Ch ữ ạ ỏ ả ị ề ưỡ ơ ế ạ ỏ ề ợ ế ể ỉ trong m t vài th h , các lo i c b n đ a b l n át b i các lo i c m i kia, khi n cho l p đ t m t b ki t qu và khô h n. ộ ế ệ ạ ỏ ả ị ị ấ ở ạ ỏ ớ ế ớ ấ ặ ị ệ ệ ơ 42 MASANOBU FUKUOKA Có khoảng hai mươi thanh niên đến từ nhiều quốc gia khác nhau, bằng cách nào đó đã xoay xở để sống được ở nơi xa xôi hẻo lánh trên mảnh đất thuộc phạm vi rừng quốc gia này. Họ đã yêu cầu tôi dạy cho cách sử dụng nông nghiệp tự nhiên để tạo sinh kế. Họ thậm chí còn không có cái liềm hay cái cuốc nào cho ra hồn. Nguyên cả vùng đó bao phủ bởi cỏ khô, không thấy một đốm xanh lá cây nào trong tầm mắt. Chỉ có lác đác vài cây sồi. Nằm giữa những cảnh trạng vô vọng như thế này, tôi chẳng thể nào ngủ nổi. Sáng sớm ngày hôm sau, khi đang rửa mặt ở một con suối nhỏ, tôi để ý thấy nước ngập lên một cái lỗ chuột khiến cho một số hạt cỏ dại nảy mầm và mọc cao chừng gần chục phân. Tôi đã luôn nghĩ rằng cỏ ở California chết đi là bởi vì mùa hè ở đây nóng và khô quá, nhưng tôi nhận ra rằng việc đưa các loại cỏ mọc lại hàng năm vào đã tạo ra cái ấn tượng đó. Chúng ngóc lên vào mùa thu cùng với cơn mưa đầu tiên, kết hạt và rồi chết đi vào đầu mùa hè. Những loài cỏ hàng năm này đã đánh bật các loài cỏ bản địa, là những loài vẫn xanh suốt hè. Việc chăn thả chắc có liên quan nhiều tới vấn đề này, nhưng trong khu vực này hiện không còn thú ăn cỏ nữa. Với suy nghĩ rằng những loài thực vật xanh lâu năm phải quay trở lại nếu chúng ta muốn loại bỏ cỏ dại hàng năm, tôi quyết định thực hiện một thử nghiệm. Sau khi quăng hạt nhiều giống rau Nhật khác nhau vào giữa đám cỏ khô và dùng lưỡi liềm chế tại chỗ cắt chúng xuống, tôi dùng ống nhựa đưa nước từ con suối gần đỉnh một ngọn đồi và phun đẫm khắp khu vực đó. Tôi nghĩ chờ vài ngày cho tới khi nước bốc hơi hết thì sẽ biết thế nào ngay. Cuối cùng, màu xanh đã bắt đầu nhô lên giữa đám cỏ nâu. Tất nhiên, đấy là màu xanh của bọn cỏ đuôi cáo. Như tôi đã dự kiến, sau một tuần khi nước đã biến mất, chỗ cỏ đã nảy mầm đó bắt đầu héo đi trong cái nóng, nhưng trong đám ấy những cây bí Nhật, dưa leo, cà chua, đậu bắp, củ cải và ngô bắt đầu phát triển tốt um. Phần trung tâm của cánh đồng biến thành một vườn rau. Bọn cỏ đuôi cáo cứng đầu đã nảy mầm, rồi héo đi và trở thành lớp bổi, và từ chỗ của chúng, những cây rau lớn lên26. Chúng ta phải tái lập thảm thực vật cho California. Chúng ta phải đánh thức hạt cỏ dại đang nằm ngủ trong thời gian mùa hè bằng cách cấp nước cho chúng, rồi để cho chúng chết trước khi có thể kết thêm nhiều hạt khác. Cùng lúc đó, sẽ rất tốt nếu chính phủ bang cho rải hạt các giống cỏ mọc lâu năm được bọc trong các viên đất sét xuống từ trên không. Tuy nhiên, sau thử nghiệm này, tôi buộc phải đi tiếp cho đúng lịch trình, thế nên tôi đã chia tay ngọn núi và giao phó giấc mơ của mình cho những con người có tinh thần cứng cỏi nơi đây. Cuối năm đó, tôi được đưa đi quanh châu Âu bởi một quý ông người Hy Lạp và một phụ nữ trẻ người Ý, người đã từng đến ở trong một cái chòi trên sườn đồi của tôi. Các nước châu Âu đa phần là rất cẩn trọng trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên và duy trì được một thảm thực vật xinh tươi. Mới nhìn thì toàn vùng trông như một công viên quốc gia, nhưng đấy chỉ là vẻ đẹp của một tấm bưu 26 K thu t t i n c cho c d i (lo i m c l i hàng năm) khi n cho chúng n y m m và r i héo đi tr c khi có th k t h t ỹ ậ ướ ướ ỏ ạ ạ ọ ạ ế ả ầ ồ ướ ể ế ạ m i - đ c bi t đ n nh là k thu t cho n y m m s m - đã đ c các nông dân theo ph ng th c h u c s d ng đ ki m ớ ượ ế ế ư ỹ ậ ả ầ ớ ượ ươ ứ ữ ơ ử ụ ể ể soát c d i nhi u năm r i. Khi b n c d i này l n lên, chúng che bóng và làm mát m t đ t đ lâu giúp các lo i rau c có m t ỏ ạ ề ồ ọ ỏ ạ ớ ặ ấ ủ ạ ủ ộ kh i đ u t t, và r i chúng có tác d ng nh l p ph b i cho v n rau, làm mát đ t và gi m. Khi nh ng c n m a mùa thu ở ầ ố ồ ụ ư ớ ủ ổ ườ ấ ữ ẩ ữ ơ ư t i, s có ít c d i nhú lên h n vì đã b “l a” n y m m quá s m vào lúc tr c r i. Ông Fukuoka đang g i ý r ng k thu t ớ ẽ ỏ ạ ơ ị ừ ả ầ ớ ướ ồ ợ ằ ỹ ậ này cũng có th h u ích trong vi c c i t o ph c h i đ t trên di n r ng, đ cây l n, cây b i và các lo i c lâu năm có th tr ể ữ ệ ả ạ ụ ồ ấ ệ ộ ể ớ ụ ạ ỏ ể ụ v ng đ c. ữ ượ GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 43 thiếp. Nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy rằng có rất ít các chủng loại cây. Lớp đất trồng thì mỏng, cứng và không màu mỡ. Đối với tôi, có vẻ như đất ở châu Âu đã bị hư tổn bởi một nền nông nghiệp bao gồm những đồng cỏ dùng để sản xuất thịt cho hoàng gia được quản lý tồi, và những vườn nho để sản xuất rượu vang cho nhà thờ. Nói chung thì, ta càng đi xa về phía Nam của đất nước Hà Lan, ngược dòng sông Rhine về phía nước Ý, thì càng thấy số lượng cây cối giảm đi và màu xanh lu mờ dần. Thêm vào đó, đa phần dãy Alps được tạo thành bởi đá vôi và có rất ít cây lớn. Càng đi về phía Nam, nhiệt độ của lớp đất mặt càng cao và khí hậu càng khô đi. Lớp đất trồng mỏng đi và kém màu mỡ hơn hẳn. Ấn tượng của tôi là ở châu Âu, đất bị khô và bạc màu ngay bên dưới lớp bề mặt. Khi người ta bắt đầu cày xới đất, việc đó đã đánh dấu cho sự khởi đầu của nền văn minh hiện đại ở châu Âu. Culture (văn hóa), nghĩa gốc ban đầu là “xới đất lên bằng một lưỡi cày”. Khi máy kéo được đưa vào sử dụng, năng suất tăng lên, nhưng đất đánh mất đi sức sống của nó thậm chí còn nhanh chóng hơn. Trong suốt lịch sử loài người, các nền văn minh đã được lập nên ở những khu vực đất màu mỡ và giàu tài nguyên khác. Sau khi đất bị bạc màu, hậu quả của việc chặt quá nhiều cây, của chăn thả quá mức, của các phương thức tưới tiêu tai hại và nông nghiệp dựa trên cày xới đất, thì các nền văn minh từng được đeo cho cái mặt nạ của sự thịnh vượng đó đã trở nên suy tàn và thường là biến mất hoàn toàn. Chuyện này vẫn xảy ra hết lần này tới lần khác. Từ những quan sát của mình ở châu Âu và Hoa Kỳ, tôi có thể thấy những sai lầm của nông nghiệp hiện đại đang gây hại cho đất đai như thế nào. Điều đó củng cố thêm niềm tin của tôi, rằng các phương pháp làm nông tự nhiên là cách duy nhất có khả năng đảo ngược sự thoái hóa này. Để chứng minh điều này, tôi nhìn sang châu Phi. Bi kịch của châu Phi Tôi có nghe về một kế hoạch của nhóm người thuộc một tổ chức phi chính phủ tư nhân nhằm đẩy mạnh các phương pháp nông nghiệp hiện đại ở Somalia, nên tôi đã bay tới châu Phi tham gia cùng họ, hy vọng có cơ hội kiểm chứng phương pháp tái phủ cây cho sa mạc bằng cách làm nông tự nhiên của mình. Ngạc nhiên đầu tiên đến với tôi là khi bay trên đất Somalia và trông thấy con sông Juba rộng lớn. Nước sông chảy quanh năm, băng qua vùng bán sa mạc. Đầu nguồn con sông nằm ở những ngọn núi xa xôi tận Ethiopia. Con sông nằm cận kề với Ấn Độ Dương, ở một số đoạn nó biến mất dưới cát. Vào một thời kỳ nào đó, hẳn phải có rất nhiều những con sông vô hình như thế ở châu Phi, bởi lẽ, khi nhìn từ trên không, hầu như lúc nào tôi cũng có thể trông thấy một hoặc hai hồ nước nằm lọt thỏm giữa vùng bán sa mạc này, mà những người địa phương gọi là “mảnh đất của những cây gai”. Lại nữa, khi đi theo đường bộ, tôi trông thấy những cây rất lớn không biết là cây gì. Người ta bảo với tôi rằng hàng trăm năm trước, những cây lớn này đã hình thành một khu rừng rậm rạp. Đương nhiên là tôi đã cố tìm hiểu xem tại sao khu rừng này lại biến mất. 44 MASANOBU FUKUOKA Từ những giải thích mà một vị cao tuổi người Ethiopia và một số nông dân Somalia đưa ra cho tôi, thì nguyên nhân chính là các chính sách nông nghiệp thực dân, mang tới bởi những người phương Tây. Họ đã đưa vào trồng chỉ toàn những cây có giá trị thương mại như cà phê, chè, mía đường, bông, thuốc lá, lạc và ngô. Việc sản xuất những cây lương thực cho mục đích cá nhân bị cấm. Chuyện này được tiến hành dưới danh nghĩa làm giàu cho nền kinh tế quốc gia. Khi đi xin thị thực từ chính phủ Somalia, tôi chẳng thể thốt nên lời khi họ thông báo với tôi rằng bất cứ chương trình truyền đạt kiến thức nào mà khích động nông dân và khuyến khích họ trở nên độc lập tự chủ sẽ không được chào đón. Nếu hành động như thế đi quá xa, họ nói, có thể sẽ bị khép vào tội phản quốc. Ngày nay, sau hai trăm năm cai trị thực dân, những hạt giống cây trồng đảm bảo cho nhu cầu tự cung tự cấp gần như đã biến mất ở châu Phi. Khi không còn hạt giống và nông dân chỉ được trồng những cây thương mại, thì từ địa vị người nông dân họ bị hạ cấp chỉ còn là những nhân công giản đơn. Họ sẽ không có cơ hội nào tự đứng trên đôi chân của mình lần nữa, và bất cứ một khả năng nào mà nông nghiệp có thể làm lợi cho tự nhiên cũng sẽ bị loại bỏ. Vì đất đai không thể cấp dưỡng cho việc canh tác cà phê và mía đường liên tục không ngừng, chúng ta phải gieo trồng những hạt giống khác để khôi phục lại chu kỳ của tự nhiên, từ đó kéo theo sự lành mạnh của đất. Nếu nguyên nhân hàng đầu gây ra sa mạc ở châu Phi là những sai trái trong làm nông, thì nguyên nhân thứ hai chính là những chính sách sai lầm liên quan tới dân du mục. Trong quá khứ, nhiều tộc người châu Phi sống theo kiểu du mục. Từ khoảng 2300 năm trước, họ sinh sống bằng cách lang thang tự do trên các triền đồi và bình nguyên cùng với lũ lạc đà và dê của họ. Tuy nhiên, dưới chế độ cai trị thực dân, cách sống này bị nghiêm cấm. Ban đầu, có nhiều bộ lạc khác nhau, nhưng không hề có các quốc gia. Khi người phương Tây tới chinh phục và tùy tiện vạch ra những đường biên giới để tạo thành các nước khác nhau, họ cũng lập ra các công viên quốc gia rộng lớn, dưới danh nghĩa bảo tồn môi trường và động vật tự nhiên. Người thường không được phép tự do đi vào các công viên này, hay chăn thả súc vật ở đó nữa. Đây là đòn chí tử đối với dân du mục. Nhìn bề ngoài, kiểu chăn thả cũ có vẻ như là ngẫu nhiên tùy tiện, nhưng trong thực tế, chúng được giới hạn bởi những luật tục nghiêm khắc của bộ lạc. Với sự ra đời của các công viên quốc gia, hệ thống luật lệ bộ lạc này đã bị phá vỡ. Thời trước, dân du mục, cùng với đám gia súc của mình sẽ sống tại một thung lũng trong một khoảng thời gian nhất định, giả dụ là ba tháng. Khi lượng cỏ nuôi sống bọn gia súc khan hiếm đi, cả bộ lạc sẽ chuyển tới một nơi ở mới. Họ sẽ rời đi trước khi thảm thực vật mất khả năng hồi phục lại. Sẽ không ai cho phép đám gia súc của mình gặm cỏ ở các khu vực đã bỏ đi này trong sáu tháng hay một năm. Khi cỏ đã hồi phục và um tùm trở lại, các thành viên của một bộ lạc khác sẽ chuyển tới và bắt đầu sinh sống ở đó. Kiểu vận hành này là thỏa thuận không cần nói ra nhưng được tuân theo một cách nghiêm ngặt. Nhưng một khi các đường biên giới quốc gia được vạch ra và các công viên được thành lập, những tộc người du mục đã phải đi một quãng đường rất xa để vòng qua chúng. Và để khỏi bất tiện, họ bắt đầu ở lại một chỗ trong một khoảng thời gian dài. Khi chuyện này xảy ra, cỏ khô cũng trở GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 45 nên khan hiếm, tất cả cây cối dùng được làm củi đun đều bị chặt xuống, và nguồn nước trở nên khô cạn. Khi thực phẩm, quần áo mặc và chỗ trú thân bị hạn chế, các cuộc xung đột xảy ra, và người ta bắt đầu tranh đấu với nhau. Tình trạng này thường được những kẻ nắm quyền lợi dụng để duy trì sự kiểm soát về mặt chính trị. Một giáo viên có liên quan tới phong trào chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi có lần đã tới căn chòi trên đồi của tôi ở Nhật Bản và yêu cầu được dạy cho các phương pháp làm nông tự nhiên. Tình cờ là khi ông ta đến, tôi đang dùng liềm thu hoạch lúa. Ông nói ông muốn học cách sử dụng lưỡi liềm. Từ những câu chuyện ông kể thì có vẻ như hầu hết những người ở Nam Phi không biết cách gieo hạt hay chăm sóc cây một khi chúng đã nảy mầm. Nhiều năm sau đó, ông chia sẻ với tôi rằng mình đã thành công trong việc dạy cho người dân biết rằng họ có thể giành độc lập bằng cách bắt đầu làm nông tự nhiên, nhiều hơn là những gì đạt được qua con đường tuyên truyền các thông điệp chính trị của phong trào đòi độc lập. Hiện tại, có vẻ như người châu Phi đang phải chịu đựng sự đói nghèo cực độ, nhưng họ vốn là những người rất kiêu hãnh. Có lẽ là những người du mục, những kẻ ngao du tùy ý thích khắp các ngọn đồi và bình nguyên châu Phi ấy đã sống một cuộc sống giống như các nhà sư Thiền tông, lang thang tự do như mây trời. Đúng vậy, khi nhìn thấy hình dáng tôn kính của một thanh niên Somalia đang cầu nguyện hướng về Mecca trong buổi hoàng hôn đỏ rực, tôi cảm thấy mình như đang nhìn thấy cả một châu Phi trường tồn. Gieo những hạt giống trong một trại tị nạn ở châu Phi Người ta bảo tôi rằng việc đem hạt giống trao cho những người du mục có thể bị coi là bất kính, bởi lẽ nông dân bị xem là một giai cấp thấp kém hơn dân du mục. Một người đàn ông trẻ tuổi người Nhật đi cùng với tôi nhắc rằng bọn họ có thể sẽ cảm thấy bị xúc phạm và thậm chí còn có khả năng tôi sẽ gặp nguy hiểm nữa, nhưng tôi tảng lờ lời anh nói. Tôi đã đi đến khu định cư của những người tị nạn Ethiopia và bắt đầu phân phát hạt giống. Ban đầu, chỉ có những đứa trẻ là lại gần tôi, chắc bởi vì trông tôi lạ mắt. Khi tôi đưa cho chúng một vốc đầy hạt giống, chúng nắm chặt đến nỗi vết móng tay hằn cả lên trên lòng bàn tay. “Đây là cái gì? Có phải thức ăn không?” chúng hỏi. Khi tôi bảo chúng rằng đừng có ăn những hạt giống này mà hãy vùi xuống đất rồi tưới nước cho chúng trong ba ngày, chúng nhún vai và nói, “Bọn cháu không thể hiểu nổi thứ tiếng Anh kỳ lạ của ông”. Tất nhiên là bọn chúng không hiểu được một từ tiếng Nhật nào rồi. Sau bốn hay năm ngày gì đấy, có khoảng hai mươi tới ba mươi đứa trẻ tới và yêu cầu tôi đi theo. Tôi thấy rằng mỗi đứa đã tạo một khoảnh tròn trên cát, đường kính tầm một mét đến một mét rưỡi, trong đó những hạt dưa leo, bí, đậu, cà tím và củ cải đã nảy mầm. Ba trong số đám trẻ đó bắt đầu gõ nhịp lên một cái xô hỏng và cất tiếng hát. Nhìn thấy vậy trái tim tôi thật ấm áp. Kể từ sau đó, ngay cả phụ nữ và những người già cũng tham gia vào việc gieo hạt. 46 MASANOBU FUKUOKA Tốc độ lớn của cây ở đó thật đáng kinh ngạc. Tất cả, bao gồm các loại cây cho trái của Nhật, đều lên bời bời. Cụ thể là cam, nho và lựu mọc nhanh gấp hai hoặc ba lần so với tôi thường thấy. Một cây đu đủ sẽ mang khoảng mười trái trong vòng bốn đến sáu tháng, còn chuối thì sẽ cho trái trong vòng một năm. Sau một năm rưỡi là có chuối chín để ăn. Nông nghiệp hiện đại trên sa mạc dựa trên ý tưởng rằng ta có thể trồng bất kể cây gì, chỉ cần ta có nước. Mỗi ngày, họ bơm nước lên từ những con sông, cho nó chạy vào các rãnh, rồi sau đó phun tưới cho các cánh đồng. Các nông trại lớn hiện đại được tài trợ bởi nguồn vốn viện trợ nước ngoài đều đi theo cách này. Như đã dự kiến, tất cả nông trại hiện đại tôi thấy đều thất bại. Chúng biến thành các cánh đồng muối và bị bỏ hoang. Ngược lại, tôi đã khuyên người ta sử dụng trên sa mạc càng ít nước càng tốt. Tôi khuyến khích họ trồng keo kèm với các loại rau và ngũ cốc, chẳng hạn như cỏ lồng vực và kê. Tôi cũng gợi ý họ thêm vào một số loại cây có độc mà dê sẽ không xơi được, và trồng những giống cây hiệu quả trong việc đưa nước từ sâu bên dưới đất lên. Ở giữa những cây này, họ nên gieo hạt giống của ngũ cốc và rau. Tôi cũng thử trồng tre, sậy và liễu, có tác dụng chống xói mòn trong cát ở dọc các bờ sông. Đặc biệt là tre, nó có vẻ như là một lựa chọn tốt. Trồng mía đường cũng sẽ có tác dụng tốt trong việc tạo bóng mát và kiềm chế xói mòn. Dưới sông có rất nhiều cá. Mặc dù dân bộ lạc bị suy dinh dưỡng, nhưng họ lại không quen ăn cá, vì một niềm tin tôn giáo là nếu anh ăn cá hoặc ăn rắn, trong tương lai anh sẽ biến thành cá hay rắn. Nhưng đến cuối cùng thì cánh trẻ cũng đã vui vẻ ăn con cá khô nhỏ mà tôi mang theo từ Nhật, và bọn họ tấm tắc bảo nó rất ngon. Tôi đã trò chuyện rất lâu cùng với một người già trong bộ lạc về tình trạng cộng đồng của ông ấy. “Mưa đã thôi rơi ở châu Phi, và vì thế chúng tôi chẳng thể làm được cái gì hết. Có vẻ như đất đai đã chết”, ông xót xa. Tôi trả lời, “Bị ô nhiễm bởi phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ nên đất đai có vẻ như đã chết, nhưng đất châu Phi chỉ là đang nghỉ ngơi thôi. Lớp đất đỏ ấy đang chợp mắt. Nếu con người chịu làm việc để đánh thức lớp đất đang ngủ này, khi đó ta sẽ có thể trồng được bất cứ thứ gì”. “Chúng ta phải làm sao để đánh thức nó dậy? Hãy nói cho tôi biết một cách khoa học vào”, ông đáp lời. “Vấn đề không phải là đất trồng thiếu hụt các dưỡng chất như ni-tơ, phốt-pho và ka-li. Vấn đề nằm ở chỗ những dưỡng chất này đã bị hút vào lớp đất sét và không tan trong nước, nên rễ cây không thể hấp thụ được chúng. Cái mà ta cần là đôi kéo để cắt những dưỡng chất này ra khỏi lớp đất sét”. Ông cười lớn và nói, “Loài duy nhất sẵn có đôi kéo ấy là cua”. GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 47 Tôi trả lời, “Các vi sinh vật ở trong đất sẽ làm việc đó cho ta, mà không cần ta phải làm việc gì nặng nhọc cả. Thậm chí ta còn chẳng cần biết chút gì về các vi sinh vật hết. Khi gieo hạt giống lương thực và cây cối, ta chỉ cần đảm bảo trộn lẫn vào đó các hạt giống cây họ đậu, chẳng hạn như cỏ ba lá Ai Cập (Trifolium alexandrinum) và cỏ linh lăng. Càng có thêm cộng sự thì càng tốt mà. Khi sự sống trong đất đã trở lại, các dưỡng chất một lần nữa sẽ trở nên sẵn sàng cho cây trồng hấp thụ”. Khi tôi giải thích theo cách này, ông có vẻ như hiểu ra. Ở trong sa mạc, nhiệt độ cao từ bức xạ nhiệt là vấn đề đáng bận tâm hơn là chuyện thiếu nước. Nhưng cả điều này nữa sẽ thay đổi nếu bề mặt của đất trồng được bao phủ bởi thảm thực vật. Với một lớp phủ đất lành mạnh, nhiệt độ của đất sẽ dịu đi rất nhiều. 50 CHƯƠNG NĂM Tái Phủ Cây Cho Trái Đất Thông Qua Những Phương Pháp Tự Nhiên KHI VỊ GIÁM ÐỐC của Ủy ban phòng chống sa mạc hóa tại Liên hiệp quốc nói với tôi rằng ông nghĩ phương pháp làm nông tự nhiên của tôi có thể sẽ đắc dụng trong việc ngăn chặn sự bành trướng của sa mạc, tôi đã thấy ngạc nhiên. Dầu vậy, nhìn lại, tôi nhận ra rằng các kỹ thuật mà tôi đã phát triển qua nhiều năm ở Nhật Bản, trong thực tế, có thể đem ra sử dụng một cách hiệu quả để chống lại sa mạc hóa. Kể từ thời Đồ Đá, người ta vẫn từng sống ở chỗ mà hiện tại là nông trại tự nhiên của tôi. Thời xa xưa, khu vực ấy đã được bao phủ bởi một cánh rừng già của ít nhất tám loài thủy sam thuộc họ những cây thông lớn cổ xưa (Metasequoia). Người ta nói rằng nơi này khoảng chừng một nghìn năm trước đã từng là trung tâm văn hóa địa phương. Khu vực này có thể đem so với Con đường tơ lụa khi xét tới cái cách nền văn hóa nở rộ, cho đến khi đất đai rốt cuộc cũng trở nên kiệt quệ, kéo nền văn hóa đầy sức sống đó lụi tàn theo. Đất đai ở nơi đã từng có thời là đất rừng màu mỡ này đến cuối cùng cũng bị xói mòn đến tận lớp đất sét bên dưới. Nhiều năm trước, ở chỗ hiện tại là nông trại tự nhiên của tôi, người ta đã thử trồng quýt nhưng chúng phát triển không tốt, thế nên phần lớn họ bỏ đất hoang. Đấy là mảnh đất mà tôi đã bắt đầu khởi sự. Kể từ đó tới giờ, tôi đã biến đất ở khu vườn cây trái của gia đình thành đất màu mỡ y như đất rừng thời trước đây. Khi tôi quay về nông trại của cha tôi sau chiến tranh, những cái cây trong vườn cam quýt đang sống một cách chật vật. Chẳng có mấy loại thực vật phủ trên bề mặt, còn đất thì đã trở nên cứng đơ. Lúc đầu, tôi nghĩ đất sẽ được cải thiện nhanh chóng nếu đem dương xỉ và thân cây mục tìm thấy ở trong rừng về chôn xuống, nhưng thử nghiệm đó là một thất bại, chủ yếu bởi vì phải tốn quá nhiều công chôn đủ lượng vật liệu thì mới tạo nên khác biệt đáng kể. Kỹ thuật làm nông hữu cơ đó xét cho cùng có thể giúp cải thiện đất trồng, nhưng nó đòi hỏi nhiều công lao động mà kết quả lại rất ít ỏi. Giống như nhiều kỹ thuật làm nông khác, đây là kỹ thuật mà xét về tổng thể là lỗ. GIEO MẦM TRÊN SA MẠC 51 Khởi đầu của phương pháp làm nông “không-làm-gì-cả” đến với tôi khi tôi quyết định chỉ đơn giản trồng ngẫu nhiên, pha trộn cả cây ăn trái, rau, ngũ cốc và cỏ ba lá giữa những cây keo mọc trên sườn đồi, rồi quan sát xem cây nào phát triển mạnh, xem chúng xoay xở sống với nhau ra sao. Tôi không phát quang đất cũng không cày xới, và tôi cũng không sử dụng phân bón, thuốc diệt cỏ hay thuốc trừ sâu. Bây giờ, sau khoảng bốn mươi lăm năm, nó đã biến thành một rừng cây ăn trái. Tôi tin rằng các kỹ thuật mà tôi đã hoàn thiện sau từng ấy năm cũng có thể đem áp dụng để lấy lại màu xanh cho các sa mạc27. Và thế là, tuy sau này trong đời tôi đi theo giấc mơ tái lập thảm thực vật cho sa mạc, nhưng không giống như một nhà khoa học điển hình, tôi không cố thu thập số liệu hay thiết lập ra các phương pháp phòng chống sa mạc hóa một cách có hệ thống. Thay vào đó, các biện pháp phòng tránh sa mạc của tôi hoàn toàn theo trực giác và dựa trên sự quan sát. Tôi đi đến các biện pháp ấy bằng cách sử dụng một phương pháp suy diễn. Nói cách khác, tôi đã bắt đầu với nhận thức rằng sa mạc hóa diễn ra ở hầu hết các khu vực là do hiểu biết sai lầm và hành động lạc lối của con người. Lúc đó tôi đã tin rằng, nếu chúng ta loại trừ được những nguyên nhân này, tự nhiên nhất định sẽ tự chữa lành. Nhưng thật không may, ở một số nơi, sự tàn phá tệ hại đến nỗi tự nhiên sẽ khó mà tự hồi phục được, nó thiếu ngay cả những hạt giống, là thứ sẽ hình thành nên nền tảng cho sự phục hồi. Công việc duy nhất mà con người phải làm ở những nơi như thế là đi thu thập hạt giống và những loài vi sinh vật mà tự nhiên cần, rồi gieo chúng xuống đó. Một ví dụ tuyệt vời là nông trại tự nhiên của cô Aveliw, một phụ nữ đang làm việc cho tổ chức Magsaysay Foundation ở Philippines. Cô đọc cuốn Cuộc cách mạng một-cọng-rơm, tiến hành nghiên cứu thực tế và quan sát trên mảnh đất của mình trong gần mười năm, rồi thiết lập nông trại tự nhiên của mình trong bốn năm, chủ yếu là bằng việc vãi hạt giống và trồng cây. Cô đã tạo nên một thiên đường thực sự. Có đủ các loại cây ăn trái như chuối, đu đủ, ổi, sầu riêng, và vài cây cà phê. Bên dưới chúng là một lớp phủ đất rậm rạp gồm những cây lâu năm và cây phân xanh. Phong lan nở hoa rực rỡ khắp nơi, chim bay rào rào, còn cá bơi lội tung tăng dưới ao. Đất trồng ở các hòn đảo Philippines thật ra là đất nghèo, và do nạn phá rừng bừa bãi, chẳng còn thấy những cánh rừng mưa nhiệt đới ở bất cứ đâu. Làm thế nào mà cô ấy lại có thể trồng một khu rừng rậm rạp phong phú đủ loại cây ăn trái như thế này trong chỉ có ít năm? Yếu tố bí mật chính là sự hòa hợp hiện hữu giữa cô Aveliw và tự nhiên. Nếu chúng ta liệt kê những thứ cần thiết cho cây trồng sinh trưởng thì ánh nắng mặt trời, dưỡng chất, nước và không khí là đủ để tạo ra một thiên đường. Mọi yếu tố đó đều được bản thân tự nhiên tạo ra cả. Ngay cả khi không có trong tay các nhạc cụ nhưng tự nhiên vẫn có khả năng trình diễn một bản nhạc giao hưởng hùng tráng. 27 Ông Fukuoka không nói r ng nông tr i c a ông là m t sa m c khi ông b t đ u làm nông đ y, nh ng l p đ t m t đã b ki t ằ ạ ủ ộ ạ ắ ầ ở ấ ư ớ ấ ặ ị ệ qu và c n ph i t o l i sinh khí cho nó. B n thân ph n l n s phát tri n c a nông tr i t nhiên c a ông là m t d án tái l p ệ ầ ả ạ ạ ả ầ ớ ự ể ủ ạ ự ủ ộ ự ậ môi tr ng s ng. ườ ố 52 MASANOBU FUKUOKA Nếu ta tin vào sự thấu suốt mang tính trực giác, con đường sẽ tự mở ra theo cách riêng của nó. Nếu như ta tin rằng Philippines lúc ban đầu đã là một nơi thiên đường, rồi gieo hạt xuống nơi đó, tự nhiên sẽ tạo nên một khu rừng của sự phong phú, đa dạng và của vẻ đẹp. Tôi thấy cảm động sâu sắc bởi tấm gương của cô Aveliw. “Sản xuất” nông nghiệp thực chất ra là tiêu xuất Cũng giống như thảm thực vật trên những bình nguyên ở châu Âu và châu Mỹ càng ngày càng hiếm hoi do hậu quả của việc phá rừng, tình trạng thoái hóa ở các cao nguyên miền núi và các vùng đồng bằng đã trở nên đáng báo động ở Philippines, Thái Lan và Ấn Độ. Các nước châu Á, nơi mà việc đốn quang đang được tiến hành, tình trạng thậm chí còn tệ hại hơn. Ở những nơi này, màu xanh đậm của những cánh rừng rậm rạp chẳng còn thấy đâu nữa. Núi thì trọc lóc, chỉ còn lơ thơ vài cây nhỏ. Cây cối ở những vùng đất trũng và gần sông đều đã bị đốn hạ, dọn chỗ lấy đất cho nông nghiệp. Người ta thường không để ý, nhưng việc phá rừng đang dần dần tác động lên nền nông nghiệp sản xuất lúa gạo. Tuy rằng đất vẫn còn màu mỡ ở một số vùng trồng lúa ở Philippines, Thái Lan và Ấn Độ, tôi vẫn đang lo không biết sức sản xuất ở những khu vực này còn có thể kéo dài được bao lâu. Mối bận tâm trực tiếp của tôi lúc này là những thay đổi bất ngờ đang diễn ra ở hệ thống cây trồng và vi sinh vật trong đất, do việc sử dụng hóa chất của con người. Cũng có trường hợp, giống cỏ cải tiến dùng cho chăn nuôi gia súc đã biến thành những thứ cỏ dại rất khó kiểm soát. Việc cơ giới hóa và sử dụng quá nhiều các hóa chất nông nghiệp đã hủy hoại không chỉ đất đai mà còn cả các cộng đồng làm nông khắp thế giới. Thêm vào đó, trong khi nông nghiệp hiện đại có vẻ như gia tăng sản lượng, nhưng hiệu quả thật trong thực tế lại đang đi xuống. Nếu so sánh năng lượng bỏ ra để sản xuất một vụ lúa gạo và lúa mạch - với năng lượng thu lại ở trong bản thân sản lượng thu hoạch được đó, chúng ta sẽ thấy một xu hướng đáng giật mình. Năm mươi năm trước ở Hoa Kỳ, mỗi ca-lo năng lượng đầu tư để trồng lúa cho kết quả thu được khoảng hai ca-lo dưới dạng hạt gạo. Khoảng 30 đến 40 năm trước, hai con số này trở thành cân bằng, và giờ, đầu tư hai ca-lo năng lượng mới sản xuất ra được một ca-lo hạt. Nguyên nhân phần lớn là do việc chuyển từ sử dụng lao động tay chân, sức động vật và cây che phủ sang sử dụng máy móc và hóa chất, là những thứ đòi hỏi phải có các nhà máy để chế ra các loại máy kéo, máy cày và hóa chất, phải khai mỏ, khoan địa chất để có được nguyên liệu thô và nhiên liệu hóa thạch mà dùng. Đất trồng ở Nhật Bản khá là màu mỡ, và trong một thời gian dài nền nông nghiệp truyền thống của Nhật vẫn duy trì được sản lượng thu hoạch trên hai ca-lo gạo cho mỗi ca-lo năng lượng đầu tư. Tuy nhiên, khi cơ giới hóa được đưa vào, việc tăng sản lượng thu hoạch đã trở thành mục tiêu lấn át, còn hiệu quả lại tụt xuống đột ngột. Đến giờ, cũng giống như ở nước Mỹ, năng lượng sản xuất ra chỉ còn bằng một nửa so với đầu vào. Nói cách khác, chúng ta đang tiêu xuất chứ không phải là sản xuất nữa. """