" Giải Thoát - Matthew Fitzsimmons PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Thoát - Matthew Fitzsimmons PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Cánh cửa chắc sẽ không bao giờ mở ra. Giờ thì gã tù đã chấp nhận chuyện đó. Anh đã bao nhiêu tuổi rồi? Chính anh cũng không chắc chắn. Lại một dấu neo nữa dần tuột xa khỏi tầm mắt trong căn ngục kín bưng không cửa sổ này. Một thứ đã làm anh mất dần sự kết nối với thế giới bên ngoài những bức tường. Căn khám, nơi ánh sáng chẳng bao giờ tắt, thời gian ngập tràn và nhấn chìm mọi thứ của anh, những phút, những giờ, những ngày tháng của anh, đến nỗi anh còn chẳng nhận ra khi nào thì một thời khắc bắt đầu và khi nào thì thời khắc đó chấm dứt. Đồ ăn được đưa đến khi anh còn đang ngủ. Luôn luôn là khi anh còn đang ngủ. Đôi khi anh giả vờ như vậy. Chỉ cần nhìn thấy một bàn tay người cũng là một sự an ủi với anh rồi. Để biết rằng vẫn còn có con người tồn tại ở phía ngoài xa của cánh cửa kia. Anh đã không còn nghe thấy một âm thanh nào kể từ lúc họ nhốt anh vào đây. Thậm chí ngay cả khi anh ép tai vào cánh cửa và cố gắng cưỡng lại sự tĩnh mịch tuyệt đối để tìm lấy một âm thanh nào đó. Không một hơi hắng; không một tiếng ho hay một lời cầu nguyện, không một tiếng bước chân hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống. Vì thế, anh giả vờ ngủ như một đứa trẻ trong buổi sớm Giáng sinh, chỉ hy vọng có thể thu hút được sự chú ý của ai đó, bất kỳ ai cũng được. Nhưng tất cả họ đều biết tỏng rồi. Làm sao họ biết được điều đó khi anh nằm im bất động như thế này chứ? Chẳng lẽ họ thừa thấu tâm can anh? Những bữa ăn chẳng khác gì nhau. Không có bữa sáng, chẳng có bữa trưa cũng không hề có bữa tối. Vứt ở trên sàn - không khay, không đĩa cũng chẳng có dụng cụ để ăn. Anh dùng tay để ăn, những miếng đồ ăn chế biến sẵn, chẳng biết là cái thể loại gì, và bữa nào cũng thế. Anh cũng không thể khẳng định rằng anh ăn ba bữa một ngày, bởi vì ngày là cái gì cơ chứ? Khi thức ăn đến, anh ăn. Khi không có thì anh thôi. Anh chẳng bao giờ thấy đói cho đến khi thức ăn được mang đến, và rồi anh ăn ngấu nghiến như thể đã trôi qua cả đời kể từ lần cuối anh được ăn. Không gương - anh ao ước được nhìn thấy khuôn mặt mình. Chỉ để biết rằng anh vẫn là chính anh. Có lẽ chúng đã biến đổi khi anh ngủ. Đây có phải là đôi cánh tay của anh? Đôi cẳng chân và bàn chân của anh? Cái bụng của anh? Khuôn ngực của anh? Những thứ này nhìn có vẻ giống của anh nhưng cũng có thể đó là vì chúng là tất cả những thứ mà anh có thể nhìn thấy mà thôi. Anh có phải là anh không? Giá mà anh có thể nhìn thấy khuôn mặt mình, anh cảm thấy chắc chắn rằng mình sẽ biết được câu trả lời. Anh biết câu hỏi đó có vẻ điên khùng, nhưng nó cứ choán lấy tâm trí anh cho đến khi giấc ngủ nhấn chìm anh. Những giấc ngủ cứu rỗi. Địa ngục là đây và cánh cửa sẽ không bao giờ mở ra. Giờ gã tù đã chấp nhận điều đó. Nếu anh chết, liệu có ai đến không? Liệu cuối cùng cánh cửa có mở ra không? Hay nơi này cũng sẽ chính là mồ chôn anh? Không, cánh cửa sẽ không bao giờ mở ra. Giờ anh đã chấp nhận điều đó rồi. Trong cơn tuyệt vọng, anh đã lao đầu vào tường, giáng mạnh trán vào bức tường gạch xám bê tông chẳng hề suy suyển lấy một tấc. Anh tỉnh dậy ở trên sàn, ngập trong ánh hào quang đầy máu. Thức ăn vẫn còn ở chỗ như mọi khi. Máu đã biến mất từ lâu, để lại một đường viền rỉ sét. Anh thấy nó đẹp và gắng gượng gặm vào cánh tay cho đến khi lớp da bị rách ra. Cẩn thận, anh nhỏ giọt máu lên trên sàn nhà để xem nó có thể tạo ra hình thù gì. Anh tự phác họa ra hình dung của chính mình. Khi họ nhốt anh vào đây, anh la hét phản kháng dữ dội. Thề rằng chúng sẽ phải trả giá. Rằng anh sẽ không bao giờ khuất phục dù chúng làm gì với anh đi chăng nữa. Giờ anh đã bị khuất phục, và họ chẳng làm gì với anh cả. Mặt trời màu huỳnh quang lạnh lẽo của anh phản chiếu trên những bức tường trắng của căn khám, lách qua kẽ tay, xuyên qua mắt anh và đổ bóng lên tâm trí anh. Anh chờ đợi khoảnh khắc của bóng tối. Sợ hãi những gì bóng tối có thể mang lại. Lúc đầu, anh chỉ có thể ngủ được bằng cách lấy cánh tay che kín mắt, nhưng giờ không thứ gì có thể ngăn cản anh ngủ. Ngủ là tất cả những gì anh có và anh bám riết lấy nó. Anh ghét phải thức dậy. Để sống sót, anh thoái lui ngày càng xa hơn vào những ký ức. Hồi tưởng lại những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc đời anh hết lần này đến lần khác. Lễ cưới của anh. Nụ hôn anh trao cho Nicole ở trước bàn làm lễ. Đêm tân hôn cùng nhau của hai người trong chính căn nhà của họ. Ngày chào đời của con gái họ, Eleanor. Anh thêm những chương mới, anh viết lại quá khứ. Thay đổi những lỗi lầm mà anh đã phạm phải. Anh và Nicole vẫn kết hôn. Vẫn sống ở Mulberry Court, trong căn nhà hai tầng vững chãi của họ ở Cape Cod. Anh có thể nghe thấy tiếng Ellie chơi trên lầu, nhưng con bé chẳng bao giờ đi xuống, và anh cũng chẳng khi nào đi lên. Cuối cùng, anh bắt đầu nói chuyện với những ký ức của mình và với những người ở trong đó. Anh sống trong những ký ức. Những ký ức là người bạn đồng hành tuyệt vời của anh và sẽ ngồi im lặng trong khi anh ăn, nghe anh nói lan man đủ thứ chuyện. Ở một chừng mực nào đó, anh biết tất cả những thứ đó đều không có thật; ở một chừng mực khác, đó là tất cả những gì anh có. Phải chăng không muốn cô đơn một mình là dấu hiệu của sự điên loạn? Và rồi cũng đến lúc những ký ức trả lời anh. Những ký ức đó hiện ra dưới khuôn mặt của Suzanne Lombard - Gấu của anh. Cô ấy lại trở về hình hài của một cô bé thêm lần nữa, trước khi tấn bi kịch kéo đến, và anh cần cô như vậy. Cô bé nói cho anh biết về lối đi bí mật. Rằng cô có thể dẫn anh trốn đi. Miễn là cơ thể anh còn ở lại, lính canh sẽ chẳng đời nào biết rằng anh đã bỏ trốn. Điều này, anh biết rõ đó sẽ là một tiền lệ nguy hiểm, nhưng anh chẳng hề chần chừ. Thà hành động một cách điên khùng còn hơn là ở lại với những bức tường trắng lạnh lẽo cô tịch kia. Đêm đầu tiên, Gấu cầm tay anh và dẫn anh đi. Cô ấy dẫn anh qua lối đi bí mật tới ngôi nhà của cô ấy ở Pamsrest. Họ tìm thấy một chiếc ghế thoải mái và anh đọc sách cho cô nghe như anh từng làm khi còn là một cậu bé. Tựa vào vai anh, Gấu lật giở những trang sách. Cô nói với anh rằng Ellie vẫn ổn, vẫn lớn đều đều. Mạnh khỏe và hạnh phúc. Anh hỏi cô rằng liệu anh có thể được nhìn thấy con bé không, nhưng Gấu lắc đầu và bảo anh rằng điều đó là không thể. Gã tù muốn cãi lại nhưng hiểu ra rằng như vậy là tốt nhất. Gấu siết lấy bàn tay anh. “Anh phải sống sót,” cô nói. “Vì con bé.” “Cánh cửa sẽ không bao giờ mở,” anh nói. “Con bé là tất cả những gì anh phải quan tâm lúc này.” Gấu lật trang sách. Khi thấy cô bé thiu thiu ngủ, anh gấp một góc trang sách để đánh dấu. Cô dẫn anh trở lại phòng giam nhưng hứa sẽ sớm trở lại. Đêm hôm sau, gã tù theo chân cha mình dẫn lối về lại quán ăn cũ ở Charlottesville. Nghi thức mỗi sáng Chủ nhật của họ. Họ ngồi vào cái bàn vẫn hay ngồi và gọi món từ một cô bồi bàn đang khấp khởi khi nhìn thấy họ. Khoảng thời gian đó là tuần lễ trước khi cha của anh qua đời; nhưng không hiểu sao, bằng cách nào đó, ông biết được tất cả mọi thứ đã xảy ra trong suốt những năm tháng kể từ sau đám tang của chính ông. Khi bữa sáng được mang đến, ông đã nói với anh rằng đó là lý do mà ông ấy có mặt ở đó. “Cái gã đã đưa con vào đây.” “Damon Washburn.” Gã tù lẩm nhẩm cái tên như thể đang cầu nguyện trong một nhà thờ bỏ hoang. “Hắn phải trả giá.” Gã tù đồng ý nhưng phân bua rằng cánh cửa sẽ không bao giờ mở ra, rằng giờ anh đã chấp nhận chuyện đó. Cha anh nháy mắt theo kiểu riêng của ông. “Thời khắc của chúng ta sẽ tới.” Gã tù không tin chuyện đó, nhưng việc lên kế hoạch báo thù sẽ giúp lấp đầy những khoảng thời gian anh không thể ngủ. Vậy nên, họ cùng nhau vạch ra kế sách. Cuối cùng, đó là tất cả những gì họ đã trò chuyện với nhau. Cha anh có đầu óc xảo quyệt đến mức khôn tả, và sự tàn bạo trong kế hoạch của ông ấy khiến gã tù cảm thấy sốc. Người cha nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt con trai mình. “Ta đã xong việc với những kẻ đã làm điên đảo gia đình mình và ra đi với điều đó. Con hiểu điều ta nói không?” Gã tù quay mặt đi, khuôn mặt tối sầm lại và xấu hổ, nhưng người cha vẫn chưa xong. Calista Dauplaise. Gã tù biết rõ rằng anh nên nói to cái tên đó ra nhưng anh chỉ nói, “Con xin lỗi.” “Không được tái phạm nữa!” “Vâng, thưa cha.” Người con theo bước người cha trở lại trong khám. Anh cố hối lỗi thêm lần nữa, trong lòng sợ rằng cha sẽ bỏ rơi mình ở nơi này. Người cha chỉ cười và ôm lấy anh. “Cha sẽ không chết thêm lần nữa đâu. Vì con.” Đúng là như vậy. Tuần tiếp theo, khi người con trở về nhà, anh đã không thấy người cha treo cổ ở trong tầng hầm nữa. Thay vào đó, tay cầm một chai bia, người cha đang lật miếng bít tết dày cộp trên vỉ nướng ở vườn sau. “Một lát nữa mẹ con sẽ xuống.” ông nói. “Sao con không dọn sẵn bàn ăn cho ba người nhỉ?” Người mẹ của anh, đã khuất núi từ khi anh mới có ba tuổi, sẽ xuống đây trong ít phút nữa. Và mặc dù bà ấy chưa bao giờ đi xuống để ăn cơm cùng cha con anh, nhưng thật nhẹ lòng khi biết rằng bà ấy sắp ở gần kề. Nhờ lối đi bí mật mà thế giới bên ngoài chỉ mở ra mỗi khi gã tù cần. Đó là một quyền năng đầy quyến rũ - để nếm trải cuộc sống như những gì anh muốn - và anh dùng nó để trốn thoát khỏi ngục tù mỗi khi có cơ hội. Tại sao lại không chứ? Nếu có thể, anh sẽ vui vẻ đón nhận cái chết để chấm dứt sự tồn tại đầy cô độc này. Để thoát khỏi căn khám này, anh sẵn sàng làm bất cứ điều gì mà những kẻ giam cầm anh yêu cầu. Giá mà chúng có yêu cầu nào đó. Nhưng chúng sẽ không bao giờ đưa ra yêu cầu. Cánh cửa sẽ chẳng bao giờ mở ra. Giờ anh đã chấp nhận điều đó. Và rồi, sau một ngàn năm hoặc có lẽ sau chỉ một ngày, một điều không được báo trước đã xảy đến. Cánh cửa đã mở ra. Chiếc máy bay nghiêng về bên trái và tiếp tục lao xuống. Bên dưới cái mũ trùm, Gibson Vaughn nghe như có tiếng vỗ phành phạch trong tai. Một chi tiết nhỏ, nhưng chỉ cần một chi tiết đó đã làm anh tin rằng tất cả những điều này thực sự có thể là thật. Làm sao có thể tưởng tượng ra được sự thay đổi áp suất trong cabin cơ chứ? Anh hy vọng điều đó là không thể. Trong suốt thời gian bị cầm tù, đã không biết bao nhiêu lần anh tưởng tượng mình được thả ra. Đó là trò lừa bịp tàn nhẫn nhất mà tâm trí anh đã “chơi” anh và giờ anh sợ rằng đây chỉ là một trong những sản phẩm của sự hoang tưởng đó mà thôi. Nó khiến anh sợ rằng anh không thể phân biệt được một cách dễ dàng sự hoang tưởng này với sự hoang tưởng khác. Bối rối với điều đó, mặc dù trong tâm tưởng, anh hiểu rằng rồi sẽ đến lúc anh mất trí, anh vẫn không thể khuất phục được sự hoang mang của mình. Ngồi trên ghế, anh ngả người về phía trước để rướn căng ra khỏi xiềng xích trói chặt cổ tay và mắt cá chân. Bàn tay anh râm ran khi những cảm giác ùa về những ngón tay. Cảm giác đó rất thật. Nó phải là thật chứ nhỉ? Lưỡng lự trong một khoảnh khắc, anh vẫn không thể nhận ra họ đã ở trên không trung bao lâu rồi. Những kẻ bắt giữ đã cho anh một liều thuốc an thần để trấn an anh và trước khi liều thuốc hết tác dụng, họ đã ở trên không rồi. Đó quả là một ân huệ lớn, vì nó đã bảo vệ tâm trí của anh trước những tác động quá mạnh, quá sớm. Sau một thời gian quá dài bị giam hãm trong cô tịch, thế giới bên ngoài căn khám của anh đã trở thành những thứ dễ gây tổn thương - một sự quá tải của những xúc cảm tàn bạo. Nó đã khóa chặt những giác quan của anh, choáng ngợp lấy anh và lúc đầu anh đã chống lại những người canh gác như một kẻ điên loạn. Những động chạm đơn giản của con người với anh giống những ngọn lửa bỏng rát trên làn da; giọng nói của con người không khác gì tiếng máy khoan của nha sĩ trên hàm răng giòn. Trớ trêu thay, đó lại là tất cả những gì anh từng ao ước được có. Phải cần đến ba gã đàn ông khóa khớp đè anh xuống đất và trấn tĩnh anh. Hai bàn tay chắc nịch đè lên vai anh, ấn anh ngồi xuống dưới ghế, kiểm tra sức căng ở các chỗ khóa xích và thắt chặt dây an toàn. Nhịp rung của hệ thống hạ cánh thủy lực tạo nên những tiếng ầm ầm khi máy bay hạ bánh để chuẩn bị đáp xuống đường băng. Cảm giác đó cũng thật. Nỗi sợ hãi và phấn khích quét qua tâm trí anh khi chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh. Anh chẳng biết đó là nơi nào và thậm chí là tại sao, nhưng là cái gì đó mới mẻ, và thế là đủ. Duke Vaughn khịt mũi từ ghế cửa sổ. “Con tin vào những thứ đó chứ? Chỉ là một trò lừa thôi, con trai ạ. Họ cho con bay vòng tròn. Giờ con sẽ bị tống vào cái khám cũ. Để khuất phục con.” “Con đã sụp đổ từ lâu rồi.” Tiếng Gibson thì thầm từ trong mũ trùm. Chiếc máy bay chạm bánh xuống đường băng. Gibson ngã chúi về phía trước khi cỗ máy giảm độ cao trong tiếng gầm rú. Khi nó mới vừa dừng lại, những cánh tay nhấc Gibson khỏi ghế và đẩy anh vào lối đi. Anh lết về phía trước bằng những bước nhát gừng với đôi chân bị cùm. Một cơn gió lạnh cắt qua làn áo mỏng của anh. Gót chân anh khuỵu xuống, rên rỉ như một con chó bị đánh đập và vật lộn cưỡng lại cánh cửa đang mở, chắc rằng chúng sẽ ném anh xuống đất từ cửa máy bay. Một bàn tay kẹp lấy sau gáy anh; một giọng nói chẳng hề thiện chí bảo anh hãy bình tĩnh lại. Gibson nhớ ra rằng chiếc máy bay đã dừng lại. Làm sao anh có thể quên béng việc đó được chứ? Bàn tay ghì ở cổ dẫn anh xuống sân bay. Anh vấp ngã ở bậc thang cuối cùng, dù đã cố gượng dậy nhưng rồi vẫn nằm sóng soài trên đường nhựa. Cách máy bay một quãng ngắn, một giọng nói ra lệnh cho anh quỳ xuống, dúi anh khuỵu gối xuống một cách thô bạo khi anh chậm làm theo. Trong gió, anh nghe thấy tiếng cạch. Anh chuẩn bị đón nhận viên đạn sẽ chấm dứt cuộc đời anh. Nhưng thay vào đó, xiềng xích rời ra. Giọng nói kia lại bảo anh nằm úp mặt xuống đất và luồn những ngón tay ra sau gáy. Đường băng là một khối lạnh băng giá, đến nỗi làm cho xương khớp anh đau đớn. Nhưng đó là sự đau đớn đầy sung sướng, nỗi đau còn được sống. Bên ngoài. Không xiềng xích. Một phép màu. Cánh cửa đã mở ra. Cơn gió thổi lạnh buốt vào tấm áo mỏng của anh và anh cười điên dại trong cơn lạnh đó. Động cơ máy bay gầm lên một tiếng rồi bắt đầu mất hút ở phía xa. “Có ai không?” Anh gọi với ra. Không lời đáp. Anh gọi toáng lên lần nữa, rồi thêm lần nữa. Gibson loạng choạng đứng dậy, hất cái mũ trùm ra khỏi đầu. Ánh sáng ban ngày, hắt lại từ đống tuyết bị gạt ra rìa đường băng, đốt cháy đôi mắt anh. Anh giơ tay che mặt, nheo mắt từ từ để thích nghi với ánh sáng chói lòa ấy. Anh nháo nhác nhìn xung quanh, kiếm tìm những kẻ cai ngục, nhưng chẳng thấy một ai. Ở cuối xa đường băng, một chiếc máy bay đang vút cao dần trong bầu trời buổi sáng. Bầu trời, ơn Chúa, bầu trời. Anh choáng váng chao đảo khi cố gắng định hình nó. Những chiếc kính vạn hoa nổ tung trước mắt anh. Tim thắt lại. Anh ngã khuỵu và quỳ xuống trước sự hùng vĩ của buổi sáng mùa đông xám xịt, chắc rằng cái chết đã cận kề. Khi cơn buồn nôn đi qua, tầm nhìn rõ hơn rồi, anh mạnh dạn mở mắt ra. Cách đó trăm thước, có một căn nhà mái tôn và phía bên ngoài, có một căn phòng. Tuyết trên mặt đất có lẽ phải dày đến sáu mươi centimet, màu vàng muối. Sân bay nhìn có gì đó quen thuộc, nhưng tâm trí anh đang rối tung và anh không thể trấn an được chính mình. Dưới chân, anh thấy chiếc túi vải thô cũ của mình, chiếc túi mà anh đã mang theo khi bị CIA tóm cổ. Rùng mình, anh quỳ xuống, mở khóa chiếc túi và quờ qua mớ quần áo bẩn thỉu. Tất cả đều là những quần áo mùa xuân mỏng manh mà anh đã mang đến West Virginia từ cả thế kỷ trước. Rất ít khi dùng được vào mùa đông, nhưng anh khoác lên cái áo gió vì tất cả những gì tốt nhất mà nó có thể giúp được lúc này. Mũ lưỡi trai của Gấu bị mất, anh đâm ra hoảng hốt cho đến khi anh nhớ ra được rằng anh đã để nó lại ở chỗ Gavin Swonger. Anh ước gì nó ở đây lúc này; anh nghĩ nó nhất định sẽ có thể cho anh biết liệu điều này có phải thật hay không. Điều này có phải là thật hay không? Có thật là anh đã đi qua lối đi bí mật mà anh cũng chẳng nhận ra việc đó? Anh mò tay vào trong túi xách lần nữa nhưng chỉ thấy một cái túi nhựa. Bên trong là ví, chìa khóa và điện thoại của anh. Chiếc điện thoại đã hết pin từ lâu cũng chẳng được sạc thêm. Anh cất điện thoại vào túi, chỉ để thấy giống bình thường. Bên kia đường băng, một người đàn ông đội mũ trùm đầu khác cũng đang bò lổm ngổm trên đôi chân của gã. Người đàn ông cũng đang nằm úp mặt trên đường băng, nhưng bộ đồ màu xám của gã ta là sự ngụy trang hoàn hảo. Gibson nhìn hắn kéo mũ trùm đầu ra và bối rối nhìn xung quanh. Ngay cả dưới mái tóc dài ngang vai và bộ râu xồm xoàm, Charles Merrick vẫn không thể bị nhầm lẫn với một ai khác. Người cuối cùng mà Gibson mong đợi, nhưng, khi nhìn thấy gã ta, Gibson biết rằng đó không thể là ai khác. Kẻ đã kết án anh vào buồng giam chết tiệt đó. Hai người đàn ông, đứng trên đường băng độc đạo, mái tóc hoang dã bay như múa trong gió, hẳn là một cảnh tượng kỳ lạ. Tuyết rơi thưa thớt trên đường băng khi họ nhìn nhau như những tay súng vô hại. Trong những ngày đầu bị giam cầm, Gibson đã nghĩ về những điều anh sẽ làm nếu gặp lại gã. Nhưng khi thời gian trôi qua, cảm quan của anh về Charles Merrick ngày càng ít đi. Cha của anh đã lập luận rằng người đàn ông đó là một con vật và đã làm những gì mà một con vật sẽ làm khi bị dồn vào đường cùng. Sẽ thật ngu ngốc khi mong đợi bất cứ điều gì khác biệt; sự đổ lỗi thuộc về nơi khác. Với những người lẽ ra phải biết nhiều hơn. Với CIA và người đàn ông tự xưng là Damon Washburn. “Mày!” - Giọng Merrick vọng lại từ những tán cây xung quanh sân bay. Cây… Gibson nhận ra nơi anh đã bị mang tới. Lần cuối cùng anh nhìn thấy nơi này là vào mùa xuân, giờ anh đã không còn nhận ra nó nữa. Anh trở lại West Virginia - Sân bay Dule Tree. CIA đã ném hai người xuống nơi đã bắt họ, và đã bao lâu rồi thì chỉ có Chúa mới biết. Sáu tháng chăng? Hay một năm rưỡi? Hay lâu hơn? Điều gì đã bảo đảm cho họ được thả ra? Tâm trí anh cảm thấy như không đủ khả năng để giải câu đố đó. Hơn thế, anh cũng chẳng thèm quan tâm. Anh được tự do và có thể nghĩ tới những nơi sẽ tới hơn là cứ đứng ở trên đường băng với Charles Merrick, suy tính về việc được thả ra. Thực sự, chỉ có một nơi anh muốn đến. Chỉ có một người anh muốn gặp. Ellie. Con gái anh giờ bao nhiêu tuổi rồi? Anh đã bỏ lỡ bao nhiêu dịp sinh nhật của con bé? Câu hỏi đó đã kéo anh ra khỏi vòng quán tính. Không nói một lời, anh xách chiếc túi vải thô lên vai và quay lưng lại với Charles Merrick. Anh chẳng có mối bận tâm gì với gã đó. Ở rìa đường băng, anh leo qua bờ tuyết và khởi hành qua bãi đất trống nhắm tới văn phòng sân bay, có lẽ là để gọi một cuộc điện thoại. Tuyết dày đến đầu gối và phải mất những sải chân dài để phá vỡ lớp vỏ băng giá. Với cơ thể rệu rã, anh khó nhọc vượt qua bãi đất phủ đầy tuyết với tiếng thở hổn hển và nhịp tim đập thình thịch nghe rõ bên tai. Duke đi phía sau theo lối mà Gibson đã cắt qua tuyết. Cha anh bắt đầu hát. Đức ngài, đêm đã tối hơn rồi, Gió đã mạnh thêm nữa, Trái tim đã lạc lối, không biết tại sao Chân không thể bước… “Dừng lại, cha.” Thỉnh thoảng, Duke sẽ hát. Nếu Gibson không ngăn ngay từ đầu, bài hát sẽ kéo dài mất một lúc, mà anh thì không có tâm trạng nghe những bài thánh ca Giáng sinh. Anh cần phải đi khỏi nơi này. Đi khỏi Charles Merrick. Anh cũng không nghĩ rằng Charles Merrick có cảm giác khác. Merrick túm lấy anh từ phía sau và làm cho anh ngã sóng soài. Hai gã đàn ông vật lộn với nhau trong đống tuyết, Merrick gằn giọng: “Mày…mày…mày…” như thể hắn có nhiều điều để nói hơn nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Sự giận dữ trong giọng nói của hắn cho thấy rõ điều đó. Gibson luồn lách thoát khỏi sự kìm kẹp của Merrick và cố đứng dậy trong đống tuyết dày. Merrick bò theo, túm lấy và kéo anh ngã ngược trở lại theo kiểu cầm chân túm giật. Hai gã đàn ông lại vật lộn với nhau một trận nữa - một trận chiến yếu ớt như giả vờ. Sau hồi lâu giằng giữ lấy nhau, cả hai gã đều kiệt sức nhanh chóng. Họ đình chiến và nằm vật ra bãi đất đầy tuyết, thở hổn hển và túm lấy nhau như những kẻ đang bị sóng cuốn trôi đi. Gấu đứng ngay cạnh, một tay cầm quyển Đoàn Hộ Tống NhẫnThe Fellowship of The Ring, đầu nghiêng sang một bên, nhìn Gibson. Cô ấy mỏng manh đến nỗi lớp tuyết dưới chân chẳng hề lún xuống mà chỉ chạm vào chỏm tuyết nổi lên, lơ lửng trên không như một thiên thần. Ống tay áo bằng sợi tơ hồng bay phấp phới trong gió và đôi chân cô đang để trần. Gibson lo rằng cô sẽ chết cóng mất. Cô đặt cuốn sách nằm thăng bằng ở trên đầu và chìa hai bàn tay ra như thể cô ấy đang được treo trên một sợi dây cuốn quanh cổ. “Đến lúc về nhà rồi.” Cô nói. “Ellie đang đợi.” Gibson gật đầu hạnh phúc, nước mắt chảy ra từ khóe mắt: “Có thể chúng ta sẽ không gặp lại nhau.” “Anh ngốc quá,” Gấu trả lời. “Mày sẽ ước thà rằng đừng gặp còn hơn.” Merrick nói, hắn không thấy Gấu và tưởng rằng Gibson đang nói với mình. “Anh sẽ về chứ?” Gấu hỏi. Gibson đẩy Merrick ra. Merrick vật ngửa mặt lên, thở khò khè. Gibson đứng lên và rũ tuyết khỏi người. Anh đảo mắt xung quanh tìm Gấu, nhưng không thấy bóng dáng cô ấy đâu cả. Cô đã đi trước rồi. Tốt. Anh hy vọng cô ấy sẽ tìm được nơi nào đó ấm cúng. Gibson với lấy cái túi của mình, mắt nhìn Merrick đầy cảnh giác, đề phòng hắn có thể túm được anh lần nữa. “Mày đã làm vậy.” Merrick rên rĩ. Gibson đã chẳng còn hơi sức hay ý định để tranh luận với hắn nữa. Merrick chẳng là cái gì với anh lúc này. Thứ quan trọng bây giờ là trở về nhà với con gái anh. Anh bỏ lại Merrick và lê bước về phía văn phòng sân bay. Anh xem cánh cửa - đã khóa. Không có giờ làm việc ghi trên cửa. Gibson nhìn lách qua cửa sổ nhưng không thấy một cái đồng hồ nào trong bóng tối. Nếu nhìn mặt trời thì có thể đoán là mới qua lúc bình minh. Trời quá lạnh nên không thể đứng đó đợi xem có ai đến làm việc hay không. Nếu hôm nay là Chủ nhật thì anh sẽ phải đợi dài dài. Ánh mắt anh tìm đến cái điện thoại trong văn phòng; anh có thể gọi cho người vợ cũ và báo cho cô ấy biết rằng anh đang trên đường về. Nhưng muốn làm vậy thì phải đột nhập vào trong. Anh mới được trả tự do mà thôi và hành động phạm tội như một kẻ lang thang hè phố, gây nguy hại cho sự tự do đó quả là một việc làm ngu ngốc. Anh còn có hẳn một tội lớn hơn nhiều. Một tội lỗi mà cha anh và anh đã lên kế hoạch với nhau từ trước. Anh nhìn về phía Charles Merrick lần cuối, hắn ta đang nằm bất động trong đống tuyết. Có lẽ hắn bị trụy tim. Gibson hy vọng không phải vậy. Anh muốn tên tỷ phú thất sủng đó phải sống một cuộc đời dài với hai bàn tay trắng. Đó có lẽ là sự trả thù tốt hơn tất thảy. Anh mang theo ý nghĩ phấn khích làm anh thấy ấm lòng đó và bắt đầu bước xuống con đường lầy lội của sân bay để trở về nhà. Ở chân đồi, Gibson dừng lại bên cạnh tấm biển Sân bay Dule Tree để tính toán bước tiếp theo. Nhìn lên nhìn xuống con đường, anh chẳng thấy một dấu hiệu nào của sự sống loài người. Nếu anh nhớ đúng, và anh cũng chẳng biết rằng trí nhớ của anh là đúng thật hay không thì cái sân bay chết tiệt này khá là biệt lập. Vậy phải đi theo đường nào đây? Trái hay phải? Đường bên phải dẫn trở về thị trấn Niobe. Đi bộ sẽ phải mất hơn một ngày. Sẽ chẳng ai tự nhiên cho anh đi nhờ xe với cái bộ dạng như một người rừng mất trí. Hơn nữa, ở Niobe toàn là những ký ức buồn và anh cũng không chắc rằng anh có được chào đón ở đó hay không. Bên trái vậy. Về với nhà của anh, với con gái của anh sẽ tốt hơn, nó sẽ giúp anh đi tới chứ không dẫn anh trở lại. Có thể anh sẽ gặp may và sẽ thấy một thị trấn nào đó. Điều kiện thời tiết khiến cho việc đi lại trở nên chậm hơn - tuyết đã được kéo sang hai bên vệ đường thành những dãy cao, tuyết ở phía trên đã tan chảy xuống và đóng băng lại thành những chiếc răng trắng sắc nhọn. Điều đó có nghĩa là nên đi dọc theo mép của con đường trơn trượt với đôi giày thể thao. Sau khi một chiếc xe đầu kéo xô anh nằm dài trên bờ tuyết để đảm bảo an toàn cho đường chạy của nó, anh băng qua đường và đi ngược lại chiều xe cộ để ít nhất anh có thể nhìn rõ chiếc xe đã suýt giết chết anh. Những cơn gió mạnh dần khi anh bước đi, luồn qua khoảng trống giữa rừng cây sang phía bên kia đường. Gibson nghiêng người về phía trước, tựa vào gió, mắt ngấn nước. Sau một phần tư dặm, anh đã không thể cảm nhận được khuôn mặt của mình nữa. Anh dừng lại, người run lên bần bật không kiểm soát được và mặc vào từng chiếc áo có trong chiếc túi vải thô. Với chiếc áo phông của Thủy quân lục chiến, anh đã tạo ra một bộ cánh trùm đầu thật thô thiển để che cổ, miệng và mũi. Anh kéo chặt khóa áo gió lên, thụt hai tay vào trong ống tay áo và lại lên đường. Anh trông thật lố bịch nhưng nó sẽ làm chậm lại quá trình giảm nhiệt của cơ thể. Đến đoạn đường cong, anh bắt kịp với Gấu, cô đang đứng dưới một gốc cây đọc sách. Váy áo của cô vẫn phất phơ trong gió. “Em không lạnh sao?” Anh hỏi. “Em ổn mà.” Cô trả lời. “Đi với em chứ?” Họ sóng bước với nhau. Không ai nói gì, nhưng có cô ấy đồng hành, anh như được tiếp thêm sức mạnh để đi về phía trước, kể cả khi anh cảm thấy cơ thể anh đang yếu dần. Cơn đói cồn cào và cơn khát cào siết cổ họng anh. Có lẽ, nếu anh nằm lại xuống bãi tuyết, anh sẽ tỉnh lại ở trong căn khám chăng? Sẽ có đồ ăn đợi sẵn ở đó; anh đã từng mong rằng sẽ không bao giờ phải ăn lại những thứ đồ ăn đó thêm một lần nào nữa. Thật là nực cười khi ta tìm ra những thứ đã bỏ lỡ mất. “Không được nghĩ về thứ đó.” Gấu nói, như đọc được tâm trí anh. “Anh mệt quá.” “Anh đã ngủ trên máy bay.” “Ý anh không phải là vậy.” “Anh đã luôn chỉ nhắc về Ellie. Anh không được bỏ cuộc.” Khi nhắc đến tên con gái anh, anh cảm thấy hổ thẹn. So với tất cả sự phấn khích khi nghĩ đến kế hoạch trả thù Damon Washburn, chính Ellie mới là điều giữ cho anh tiếp tục sống. Mong mỏi được gặp lại con gái là niềm hy vọng duy nhất mà sự giam cầm đã không thể lấy đi khỏi anh, nhưng anh thực sự muốn tìm một lối thoát đơn giản. Anh cúi đầu và lê bước về phía trước cho đến khi anh bị thôi miên bởi sự di chuyển của đôi chân. Anh không còn cảm nhận được chúng nữa, vì thế anh tự trấn an rằng anh có thể thấy đôi chân mình đang hoạt động chăm chỉ. Khi anh ngước nhìn lên một lần nữa, anh thấy những ngôi nhà đơn sơ lùi xa khỏi lề đường. Anh nên hỏi xin giúp đỡ, nhưng ý nghĩ gõ cửa một căn nhà bất kỳ nào đó làm anh sợ hãi. Gõ cửa tức là phải nói chuyện với ai đó, không phải là Gấu hay cha anh, những người hiểu mọi chuyện mà anh đã trải qua. Những người bên trong những ngôi nhà này sẽ chỉ nhìn thấy một gã điên được bọc trong chiếc áo gió. Hoặc thậm chí sẽ nhầm anh với một nghi can bỏ trốn, điều mà anh cho rằng cũng không khác sự thật là mấy. Đã có những khoảnh khắc lóe lên trong đầu rằng anh sẽ thuyết phục những người chủ nhà, nhưng giờ anh cũng chẳng nhớ nổi như thế nào nữa. Anh sẽ nói gì với họ đây? Anh sẽ bắt đầu như thế nào đây? Duke Vaughn dựa vào một chiếc xe bán tải cũ hiệu Ford với tâm biển Cần bán dán trên cửa sổ xe. Người cha đã chết vẫy gọi anh và Gibson đi xuống lối xe vào nhà. Gấu đã biến mất một lần nữa. Cô và cha của anh đã tránh gặp mặt nhau, anh nhận thấy như vậy. Dạo này họ có vẻ không được hòa hợp với nhau cho lắm. “Con không thể làm điều này.” Anh nói với cha mình, mắt đánh về phía cánh cửa trước của ngôi nhà. “Con có biết là trong sự nghiệp của mình, cha đã gõ cửa biết bao nhiêu căn nhà không? Để đề nghị những người hoàn toàn xa lạ bỏ phiếu cho ứng viên của mình?” Gibson lắc đầu. “Có giống như này không?” Duke thừa nhận điều đó. “Ta không định nói rằng con vô trách nhiệm. Con thường thích sự thử thách.” “Đây không phải là thử thách. Đây là một điều bất khả thi.” “Đa số mọi người nói rằng Damon Washburn không thể chạm vào được. Nhưng chúng ta vẫn sẽ làm điều đó. Trước hết, con cứ gõ cửa căn nhà này đi đã.” “Con sẽ nói gì đây?” “Con có bao nhiêu tiền mặt trong túi?” Duke nói. Gibson không biết. Anh lục lọi trong ví và đếm được mười tờ hai mươi đô. Anh không nhớ là mình có số tiền này từ khi anh bị bắt. Một món quà từ CIA ư? Họ thật là rộng rãi, hào phóng khi đưa anh số tiền thôi việc này cho khoảng thời gian mà anh đã phục vụ cho họ. Hai trăm đô-la đó hẳn sẽ không giúp được nhiều cho anh. Anh vẫn còn có những tấm thẻ tín dụng của mình, nhưng chắc là chúng đã bị đóng băng rồi vì đã không thanh toán từ cách đây rất lâu. Anh nhìn đứa trẻ sáng sủa trên tấm bằng lái xe của mình, lòng dấy lên một cảm giác như nỗi nhớ nhà. Nó vẫn còn hiệu lực cho đến ngày sinh nhật của anh ở năm 2021. Anh thắc mắc liệu nó đã hết hạn sử dụng hay chưa. Gibson nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ của chiếc xe tải. Anh cởi bỏ chiếc áo phông quấn quanh đầu xuống, ngắm nghía gã đàn ông đang nhìn lại anh từ trong gương, nửa lạ, nửa quen, quen mà lại lạ. Khuôn mặt của một kẻ lang thang, hoang dã và bị xa lánh. Nhưng ít nhất cuối cùng, anh cũng có câu trả lời cho câu hỏi đã hành hạ anh bấy lâu. Anh vẫn là anh. Đúng là như vậy. Nhưng đó không phải một khuôn mặt mà người ta sẽ mở cửa trước nhà mình để đón chào. Anh trông không phù hợp cho việc làm bạn với con người. Hốc mắt đỏ ngầu như màu đỏ của băng tự hoại. Bộ râu của anh tõe ra như một mớ bụi rậm rối tung thả xuống ngực anh, và mái tóc dài, dày cộm của anh rơi thõng xuống vai. Gibson đã cố gắng chải vài đường vào mớ tóc đó, nhưng tóc của anh tựa như dây thép gai quấn lên trên những ngón tay màu xanh đen của anh. “Chắc đôi trăm đồng là đủ để con có được thứ này, cưng ạ.” Duke nháy mắt và vỗ nhẹ vào chiếc xe tải. “Nhưng ai mà biết được, có lẽ họ đang có tâm trạng tốt và vui vẻ đàm phán. Chỉ cần đưa họ cái thứ ma lực đó là được rồi.” “Ồ, con chắc là cái đó sẽ có hiệu quả.” “Tinh thần phải thế chứ.” Gần đây, người cha của anh chỉ đưa ra những lời mỉa mai trong tình huống phù hợp với anh. Gibson đi lên lối vào dẫn tới cửa trước, phân vân không biết là anh sẽ tạo ra ấn tượng tệ hơn với một chiếc áo phông quấn quanh đầu hay với kiểu Sasquatch đúng bộ. Cuối cùng, anh gỡ chiếc áo phông xuống, mở cánh cửa chắn bão bằng kính ra và bấm chuông. Một cậu bé không quá tám tuổi đã mở cánh cửa bên trong. Một luồng nhiệt lớn tựa bức tường phả ra chào đón Gibson, khiến khuôn mặt anh râm ran. Cậu bé mặc áo phông sát nách và quần soóc, ngước nhìn Gibson từ dưới chiếc mũ bảo hiểm của hãng Cincinnati Bengals. “Trông chú không ổn cho lắm.” Thằng bé nói. Gibson há miệng, nhưng không nói được lời nào. Anh chỉ tay vào chiếc xe bán tải. Cánh cửa đóng lại và Gibson nghe thấy cậu bé ríu rít gọi ai đó. “Con sẽ phải làm gì đó tốt hơn là chỉ tay vào mọi thứ theo kiểu như vậy, Tarzan ạ.” Duke nói. “Con đang cố làm đây.” Một người phụ nữ ngoài năm mươi tuổi, nắm cổ chiếc áo choàng tắm và đi ra cửa. Chị ta đang trang điểm dở. Chị ta mở cánh cửa với một tiếng kêu khẽ, ném cho anh một cái nhìn chóng vánh từ trên xuống dưới và hỏi anh có việc gì. Gibson đứng đó trong nỗi hoảng loạn câm lặng, đầu óc trống rỗng. Bất chấp cái lạnh, mồ hôi lăn dài sau gáy anh. Người phụ nữ nheo mắt lại, đang chuẩn bị đóng cửa thì mắt chị ta lại rơi xuống chiếc áo phông trên tay anh. “Cậu là lính Thủy quân Lục chiến à?” Chị ấy hỏi. Anh gật đầu. “Mở miệng ra xem nào.” Duke nói. “Hát tôi nghe bài Hành khúc Thủy quân lục chiến,” chị ấy nói. “Thật sao, thưa chị?” “Cậu nghe tôi nói rồi đây. Và đừng hát từ đoạn mở đầu Halls of Montezuma, bỏ qua đoạn đó tới khổ thứ ba luôn.” Anh biết rõ điều đó. Bất kỳ người lính Thủy quân Lục chiến nào cũng đều biết. Họ có thể để anh trong căn khám chết tiệt đó cho đến khi não của anh chỉ còn là một món trứng khuấy nhão nhoét, cho đến tận khi anh chẳng thể nhớ nổi tên mình nữa, nhưng anh vẫn sẽ nhớ rõ từng câu từng chữ trong bài thánh ca của lực lượng Thủy quân lục chiến. Nhưng ý nghĩ phải nói quá nhiều đã biến thành nỗi sợ hãi, làm anh hóa đá. Anh mở miệng ra rồi lại ngậm vào. “Tôi không có nhiều thời gian đâu.” Người phụ nữ nói. “Con có thể làm được mà.” Duke khích lệ. Gibson hắng giọng và thốt ra khô khan: “Hiến thân này cho nhân dân và cho Quân chủng chúng ta. Chúng ta tự hào được phục vụ; trong mỗi trận chiến chúng ta chiến đấu vì sự sống. Chúng ta không bao giờ đánh mất lòng dũng cảm của mình. Nếu…” “Được rồi, thế là đủ.” Lời nói của người phụ nữ dịu lại. “Cậu cần gì hả, con trai?” “Nhà…” Anh lúng búng. Chị ta gật đầu như thể biết chính xác nơi mà anh muốn nói đến. “Tôi sẽ cho cậu vào… cậu có làm điều gì ngu ngốc không đây? Vì tôi sẽ cho cậu một phát súng vào sọ đấy?” Anh lắc đầu. “Vậy thì cởi giày ra và vào trong nhà cho ấm người đi.” “Con đã làm được.” Duke nói, vui mừng tột độ. “Đây là bước đầu tiên, con trai ạ. Cha tự hào về con.” Anh không có chung niềm hứng khởi với cha mình và đang cảm thấy giống như một đứa trẻ vừa giành được món quà thưởng vì đã thể hiện tốt. Chị ấy dẫn anh theo lối đi qua sảnh xuống bếp, anh ngồi xuống một cái bàn nhỏ ở đó, sung sướng thưởng thức hơi ấm của căn nhà. Chị ấy mang cho anh một cốc nước và một quả chuối. Anh uống hết chỗ nước trong một ngụm và nuốt chửng quả chuối; mùi thơm từ vỏ chuối khiến anh muốn khóc, đó là thứ đồ ăn thật đầu tiên mà anh được ăn trong bao nhiêu lâu rồi thì có trời mới biết được. Chị ấy lấy lại cái cốc và rót thêm nước vào. Cậu bé nhảy nhót trong bếp, chiếc mũ bóng bầu dục lắc lư trên đầu. Cậu ta quăng một quả bóng tưởng tượng rồi lao ra. “Tôi cần phải cho thằng bé trở lại trường rồi.” Người phụ nữ cười thầm. “Thằng bé nghịch như tăng động vậy.” Gibson gật đầu - một vấn đề mà anh biết rõ ngọn ngành. Anh đã từng là một đứa trẻ như vậy khi anh ở tuổi thằng bé. Ellie đã được thừa hưởng điều đó từ anh. Với con bé, ngồi im tức là chạy theo vòng tròn. “Hôm nay là ngày mấy, thưa chị?” Người phụ nữ nheo mắt. “Chà … chắc hẳn cậu đã có một trận quá chén rồi. Không biết ngày tháng luôn. Hôm nay là hai mươi sáu tháng Mười hai.” Anh muốn biết năm nay là năm mấy rồi nhưng sợ rằng điều đó có thể đẩy mọi chuyện đi quá xa. Anh đã lỡ mất ngày lễ Giáng sinh cùng Ellie vào ngày đó. Một cú chơi đểu cuối cùng của lũ CIA. Chà, Ellie và anh vẫn có thể tổ chức lễ cùng nhau, vẫn chưa quá trễ để làm việc đó. Có đứa trẻ nào mà không nhảy dựng lên vào buổi sáng thứ hai của kỳ nghỉ lễ Giáng sinh đâu chứ? “Tôi là Cheryl.” Gibson ngập ngùng. “John.” Anh nói. Anh không biết tại sao anh lại phải nói dối chị ấy. “Vậy nhà cậu ở đâu, John?” “Virginia. Gần Thủ đô. Tôi có đủ tiền để mua vé xe, nếu tôi có thể đến được Morgantown.” Chị ấy rót đầy nước thêm lần nữa trong lúc suy nghĩ. “Không thể chở cậu đến Morgantown được. Tôi có ca làm lúc mười một giờ.” “Tôi hiểu. Tôi rất biết ơn…” “Nhưng tôi có thể thả cậu xuống điểm dừng xe tải ở trên cao lộ I-79. Cậu có thể đi nhờ từ đó.” Gibson gật đầu đầy biết ơn. Chị ấy để anh lại một mình trong bếp và quay trở lại hoàn thành nốt việc sửa soạn đi làm. Anh đứng dậy để rót thêm nước, đứng cạnh bồn rửa, uống cạn nước rồi rót thêm lần thứ tư. Đồng hồ trên lò vi sóng chỉ 9:42. Vậy là chín giờ bốn mươi hai phút sáng ngày hai mươi sáu tháng Mười hai. Chỉ là một thông tin đời thường như vậy, nhưng nó là cánh cổng quan trọng đứng giữa chốn địa ngục giam hãm anh bấy lâu với nơi này. Định gọi đó là đời thực, nhưng anh ngưng lại, ít nhất là trong lúc này. Anh vẫn còn chất đầy những hoài nghi. Trên bức tường phía xa trong căn phòng có treo một tấm ảnh đóng khung cẩn thận của một người phụ nữ đang đứng chào trong bộ lễ phục màu xanh. Anh nâng cốc nước hướng về phía người phụ nữ trong hình. Semper Fi - Luôn Trung thành. Cheryl thả anh xuống điểm dừng xe tải và từ chối nhận khoản tiền mà anh cố đưa cho chị, gọi là có chút tiền xăng xe. Anh cảm ơn người phụ nữ và bắt tay chị khi chị chủ động đưa tay ra. Bàn tay chị săn chắc, làn da nứt nẻ và chai sạn. Cử chỉ tương tác với con người đầu tiên của anh. Nó làm sống dậy ý thức gắn bó với mảnh đất của sự sống. Một sự khác biệt hoàn toàn đối với một người đàn ông mà toàn bộ thế giới của anh chỉ là căn khám có bốn bức tường. Bên trong cánh cửa của cửa hàng tạp hóa mini có một kệ báo. Gibson nhặt lấy một tờ Gazette Mail của Charleston và nhìn vào chỗ ghi năm tháng. Mười tám tháng. Chúng đã giữ anh trong căn khám đó mười tám tháng. Anh hoàn toàn tin rằng đó là mười tám năm. Dù là bao lâu đi chăng nữa thì nó cũng giống như cả một đời người vậy. Làm sao anh có thể giải thích cho Nicole hiểu? Anh đã bỏ lỡ hai lần sinh nhật của Ellie. Con gái anh giờ đã chín tuổi. Và anh đã sang tuổi ba mươi mốt. Sự giam cầm với anh có thể đã kéo dài hơn nữa, hơn rất nhiều so với những gì mà sự thoải mái ít ỏi lúc này mang lại. “Con nghĩ Damon Washburn đã tổ chức những dịp sinh nhật của hắn ra sao?” Duke hỏi, đứng dựa vào quầy. “Ta cá là hắn có cả một bữa tiệc để thác loạn đến chết.” Ý nghĩ về việc đó làm bỏng rát tâm can anh. Gibson mua một tờ báo và một chai nước lớn. Anh nhờ người phụ nữ ở quầy quét cái thẻ tín dụng của anh, nhưng đúng như những gì anh dự đoán, cái thẻ đó đã bị từ chối. Liền kề với tiệm tạp hóa mini là một nhà hàng đơn sơ; anh ngồi một mình và đặt mấy tờ hai mươi đô lên bàn để người phục vụ thấy rằng anh có thể trả tiền cho bữa ăn. Thực đơn chỉ là tờ giấy một trang được ép bóng, nhưng nó đủ để làm cho Gibson choáng ngợp. Đã quá quen với việc chỉ ăn một loại đồ ăn cho mọi bữa, anh không biết chọn món gì cho mình. Làm thế nào mà một việc đơn giản như vậy bỗng trở thành một lựa chọn mang tính sống-hay-chết được cơ chứ? Khi người phục vụ đi tới, mũi nhăn lại tỏ vẻ không ưa, anh chỉ tay bâng quơ vào thực đơn và giơ lên cho cô phục vụ kia nhìn thấy. Người phục vụ mang tờ thực đơn đi và mang lại cho anh một chiếc burger gấp đôi phô mai. Anh ăn nó quá nhanh và tự làm bụng mình bị đau. Nhưng giống như một con chó chẳng biết khi nào mới no bụng, anh gọi thêm cái thứ hai. Chờ đợi, anh đọc báo từ đầu tới cuối, và, dù rằng tờ báo chỉ có những mẩu tin tức địa phương, nó giống như một sợi dây tinh tế buộc anh với thế giới này. Nhìn ngước qua tờ báo, anh dò xét những người tài xế xe tải ở những bàn xung quanh, cố tìm lấy một gương mặt thiện cảm. Hoặc là chẳng có một tài xế nào có được gương mặt thiện cảm hoặc là anh đã quên béng mất rằng như nào mới là một gương mặt thiện ý. Tới lượt Gấu đóng vai trò làm hoạt náo viên. “Anh có thể làm được mà. Đang là dịp Giáng sinh. Người ta luôn cảm thấy rộng lượng vào mỗi dịp Giáng sinh.” Gibson chẳng hiểu gì về điều đó cả, nhưng anh lấy một hơi thật sâu và đứng lên. “Xin thứ lỗi.” Anh bắt đầu. Tất cả những cái đầu đều quay lại để xem ai đang làm phiền buổi sáng của họ. Anh rón rén tiến về phía trước. “Tôi muốn xin đi nhờ tới Morgantown để bắt một chuyến xe về nhà. Tôi có một ít tiền, không nhiều, nhưng tôi xin gửi một ít gọi là tiền xăng. Tôi là cựu lính thủy đánh bộ, một người lính đã chẳng còn một chút may mắn. Nếu các bạn có thể giúp, tôi sẽ biết ơn lắm lắm. Cảm ơn các bạn và chúc Giáng sinh vui vẻ.” Anh ngồi lại xuống ghế và nhìn chằm chằm vào tờ báo, mặt phát đỏ vì xấu hổ. Hóa ra cảm giác ăn xin là như vậy; anh không nghĩ rằng anh sẽ nhìn vào một người vô gia cư theo cách đó thêm một lần nữa. Gấu mỉm cười đầy thông cảm, nhưng chẳng có ai nhân dịp đó mà cho anh một lời đề nghị cho đi nhờ. Sau một giây ngập ngừng, những người trong phòng trở lại với hoạt động ăn uống và nói chuyện, đồng lòng gạt bỏ sự ngắt quãng vừa rồi khỏi mớ ký ức lộn xộn và tiếp tục buổi sáng của họ. Gibson đã ăn xong chiếc bánh thứ hai và gọi cà phê, anh nghĩ tới những cách khác để đi tới Morgantown. Cuối cùng, anh chọn cách tiếp cận riêng rẽ. Anh chờ những chiếc xe tải mới tới và khẩn cầu người lái xe. Trao đổi riêng với từng người một. Quá nhiều tương tác với con người thật đau đớn nhưng anh chấp nhận điều đó, miễn là nó có thể giúp anh về nhà với Ellie. Giải quyết xong, Gibson thanh toán hóa đơn và đi ra. Một người đàn ông chặn anh trên lối ra cửa và nói rằng sẽ thả anh xuống Morgantown. “Đó là ngựa chiến của tôi.” Người đàn ông nói, tay chỉ về phía chiếc xe bán tải ở phía xa của bãi đậu. “Hai mươi phút nữa sẽ đi.” “Thấy chưa?” Gấu nói. “Giáng sinh mà.” Tốc độ bảy mươi dặm một giờ đưa họ đến Morgantown chỉ trong vòng hơn 60 phút một chút. Người lái xe tải, không muốn nói tên của mình ra, đã cho Gibson xuống trước nhà ga Mountaineer. Gibson đưa anh bốn mươi đô, người lái xe lấy hai mươi đô, và hai người đàn ông bắt tay nhau mà chẳng nói gì nhiều hơn những gì cần thiết. Gibson cảm thấy biết ơn sự im lặng đó. Cảm giác tự do ngắn ngủi đã làm anh kiệt sức - mỗi sự tương tác, mỗi quyết định đều vậy. Những phần nào đó trong con người anh vẫn thuộc về những thói quen bất khả xâm phạm trong căn khám. Sự trớ trêu không thể đơn giản hơn thế - lúc nào anh cũng mơ trốn thoát khỏi đó, nhưng giờ, chỉ một vài giờ sau khi được phóng thích, tất cả những gì anh muốn lại là trở lại nơi anh cảm thấy an toàn. Đây có phải là điều mà sự giam hãm đó đã gây ra cho tâm trí anh? Anh ngước nhìn trạm xe buýt. Trễ giờ xe chạy tận 18 tháng. Khi đó anh đang trên đường tới Morgantown thì tin nhắn đầy tuyệt vọng của Lea đã kéo anh trở lại Niobe. Cuộc đời hẳn sẽ khác biết bao nếu anh phớt lờ cô ta. Anh sẽ không bao giờ gặp phải Damon Washburn. Không bao giờ gặp phải Charles Merrick. Đúng là một chuyến đi lòng vòng. Anh vẫn tiếp tục gặp may, chuyến xe khách tiếp theo sẽ khởi hành trong mười phút nữa. Chừng đó là đủ thời gian cho anh mua vé, đi vệ sinh và tìm một ghế trống ở cuối xe. Lúc đầu, anh ngồi nhìn xe cộ qua lại trên đường cao tốc, nhưng chẳng mấy chốc, chiếc xe đu đưa ru anh chìm vào giấc ngủ. Anh tỉnh dậy, hét lên, chắc hẳn anh mơ thấy mình bị nhốt trở lại trong căn khám và mất phương hướng khi sự thực không phải thế. Một hành khách phía bên kia lối đi nhìn chằm chằm đầy nghi ngờ vào hành động của anh. Gibson ngồi thẳng dậy và dụi mắt cho tỉnh ngủ. Anh đoán rằng chiếc xe đã về đến Maryland vì tuyết rơi mỏng đi khi họ dần đi ra khỏi vùng núi. Giờ thì rất gần rồi. Gấu lững thững đi lại và ngồi cạnh anh. Họ chơi trò chữ cái trên lớp kính cửa sổ cho đến khi anh bắt gặp ánh mắt nhìn chằm chằm của vị khách kia lần nữa. Đã hơn bảy giờ khi Gibson đi vào đường taxi ngoằn ngoèo bên ngoài Ga Union. Đám đông là một mớ hỗn độn gồm khách du lịch trong kỳ nghỉ và người đi làm xa trở về từ Philadelphia, New York vào đêm tháng Mười hai sắc lạnh này, Gibson không thuộc về họ. Trên đầu, những vòng hoa lớn được treo giữa các mái vòm của nhà ga. Anh cúi đầu xuống và lê bước về phía trước. Những người điều phối xe điều tiết các dòng xe taxi hối hả để giữ cho xe cộ được lưu thông, nhưng vẫn phải mất hai mươi phút anh mới đến được phía trước. Duke đứng xếp hàng chờ cùng anh. “Con trở về đó để làm gì?” Duke hỏi. “Con nghĩ rằng họ thật sự muốn gặp con sao?” “Đó là gia đình con.” “Chỉ là vợ cũ và một bé con chẳng hề biết người cha chết dẫm của nó, kẻ đã bị nhốt trong căn khám bí mật của lũ CIA suốt mười tám tháng, là ai. Con trai, đây không phải gia đình, đây chỉ là sự xuất hiện của một vị khách trên chương trình của Maury Povich mà thôi.” Duke ngừng lại để điều đó ngấm vào đầu anh. “Vậy thì… sao nào? Con nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra? Con nhảy nhót tới trước cửa nhà họ, trông như một anh chàng Chewbacca hẹn hò lần đầu và họ sẽ dang rộng cánh tay đón chào con ư? Con đã nghĩ kỹ về những điều đó chưa?” Gibson nhìn cha anh đầy cầu khẩn. “Nhưng con không có nơi nào khác để đi cả.” “Đây không phải là một lý do hợp lý để con đi đến chỗ nào đó.” “Cha muốn con làm gì đây?” “Điều con đã hứa với ta.” Khuôn mặt Duke dí sát vào mặt Gibson. “Con muốn Nicole tôn trọng con đúng không? Vậy thì hãy chứng tỏ con là một người đàn ông xứng đáng được tôn trọng đi. Gã Damon Washburn phải trả giá. Nếu con đến gặp cô ấy lúc này, trong bộ dạng thế này thì thế nào? Sẽ chẳng có gì tốt đẹp đâu. Ta bảo đảm với con điều đó.” Một nhân viên điều phối chỉ Gibson đến một chiếc taxi đang đợi. Tay tài xế phản đối rằng anh ta không muốn chở một kẻ ăn mày và sẽ không mở cửa xe cho tới khi Gibson chìa tiền ra cho anh ta thấy. Khi được thỏa mãn, người tài xế mới nhập địa chỉ nơi đến của Gibson trên thiết bị định vị GPS và lái xe phóng về phía Massachusetts. Ý nghĩ đoàn tụ với con gái làm anh phấn khích, nhưng cha anh lại đánh thức những nỗi sợ hãi nguyên sơ nhất của anh. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu quả thực anh đã đi quá lâu? Ellie không nhớ anh là ai thì sao? Có lẽ anh nên đợi thêm, sửa sang lại bộ dạng một chút để không làm con bé sợ hãi. Đã hai lần anh rướn người lên trước, định nói với người lái xe chở anh tới một nhà nghỉ rồi lại tự dừng lại. Anh không có đủ tiền để ở một nơi sang trọng như thế; hơn nữa, anh cần gặp Ellie để gợi nhắc lại cho chính mình vì sao anh muốn được sống. “Sẽ ổn thôi.” Gấu nói. “Nicole sẽ hiểu. Cô ấy biết anh yêu con bé tới nhường nào.” “Nếu tôi làm con bé sợ thì sao?” “Anh sẽ không như vậy. Anh là cha nó cơ mà.” “Nhưng nếu tôi làm nó sợ thật thì sao?” “Con bé sẽ vượt qua được.” Gấu trấn an anh. Ý nghĩ Ellie sẽ tránh xa anh thật quá khủng khiếp trong tưởng tượng của anh. Gibson để ý thấy tia mắt của người tài xế qua gương chiếu hậu. “Anh đang làm gì vậy?” Người lái xe hỏi. “Xin lỗi.” Gibson nói. “Tôi chỉ đang nói với chính mình thôi.” “Đừng làm thế nữa.” “Anh ta thật hẹp hòi.” Gấu nói. Gibson nhìn cô một cách khẩn khoản như cầu xin Gấu hãy giữ im lặng. Anh không muốn bị đuổi cổ ra khỏi xe. Anh sắp về tới nhà rồi. “Hừm, đúng vậy mà.” Gấu nói, cố vớt vát thêm một câu nữa. Nhưng sau đó, cô ấy giữ im lặng thật. Họ rời khỏi đường vành đai và đi vào khu dân cư nơi Nicole và Ellie sống. Nơi anh đã từng sống. Gibson ngồi hướng về trước, để cánh tay trên hai đùi và cố kìm giữ nhịp tim đang đập nhanh dần. Chiếc taxi tấp vào lề đường. Gibson hít một hơi thật sâu rồi nhìn qua cửa sổ. Căn nhà đó không đúng. Người lái xe taxi đã chở anh đến nhà khác. Tay tài xế đọc lại địa chỉ mà anh đã đưa cho mình - Số 53, Mulberry Court - và cho Gibson xem địa chỉ trên thiết bị định vị GPS của mình. Gibson không hiểu. Chẳng nhẽ anh đã quên địa chỉ căn nhà mà Nicole và anh cùng nhau đi mua hay sao? Căn nhà mà Ellie đã được sinh ra và lớn lên. Căn nhà mà anh phải vật lộn để giữ lại khi anh không tìm được công việc. Chẳng nhẽ anh điên đến mức đó sao? Anh cố nghĩ ra cái địa chỉ đúng nhưng đầu anh hoàn toàn âm u. Gibson với ra tay cầm cửa xe nhưng cánh cửa bị khóa. Người tài xế nhắc lại số tiền xe và Gibson dúi tất cả số tiền cho người lái xe, gã này đếm cẩn thận rồi mới đồng ý mở khóa cửa. Gibson loạng choạng bước ra khỏi xe, người chậm rãi quay vòng tròn. Anh nhận ra mọi thứ. Những căn nhà bên kia đường. Những nhà hàng xóm. Cái cây có khúc thân gồ ghề vì bị một tay lái xe tuổi teen nhảy chồm khỏi lề đường và húc vào nó. Mọi thứ vẫn y nguyên. Ngoại trừ căn nhà. Căn nhà đâu rồi? Anh thật sự đã mất trí thật rồi. Hoặc tệ hơn, có lẽ anh vẫn chưa thoát khỏi căn khám. Đây chỉ là một chuyến đi khác của anh qua lối đi bí mật. Anh không thể tin nổi là cảm giác này lại thật đến như thế nhưng cũng chẳng có cách giải thích nào khác cho trò đùa tàn ác mà tâm trí anh tạo ra này. Tất cả những gì anh muốn lúc này là được Gấu dẫn trở lại căn khám. Anh gọi tên cô, nhưng cô không trả lời. Có lẽ cô ấy đang chơi trò trốn tìm giống như đôi khi cô ấy hay làm. Anh chạy xuống dưới lòng đường gọi cô ấy và tìm kiếm phía sau những chiếc xe đang đậu ở đó. Đến góc đường, anh bỏ cuộc và tự tát thật mạnh vào mặt mình. Cố gắng lấy lại tỉnh táo. Anh không muốn bị mắc kẹt trong tấm gương mờ ảo của ký ức, anh véo vào da sau cổ tay cho đến khi nó bầm tím. Làm ơn hãy đưa con ra khỏi chốn địa ngục này, anh ngước lên cầu xin bầu trời đêm. “Gấu. Làm ơn trở lại đây. Giúp anh với.” Anh thút thít, hy vọng rằng cô ấy chưa đi quá xa khỏi tầm nghe những lời của anh. “Làm ơn mà.” Chẳng có gì. Anh ngước lên nhìn biển hiệu tên đường ghi rõ chỗ giao nhau của đường Macomb Lane và Mulberry Court. Anh quay lại con phố và đọc lên số nhà của từng căn: 47, 49, 51… Anh nhận ra tất cả những căn nhà này. Mọi thứ đều đúng như những gì anh nhớ được, nhưng khi anh dùng lại trước số nhà 53 Mulberry Court, căn nhà vẫn không đúng. Nó to gấp đôi căn nhà trong trí nhớ của anh. Màu sắc khác. Phong cách khác. Đầu anh nhói đau. Có lẽ đây là căn nhà đúng. Có lẽ họ đang ở bên trong đợi anh và chỉ anh nhớ sai căn nhà. Hẳn là như vậy. Một chiếc xe màu bạc tấp xuống lối vào. Một người đàn ông mặc vest bước ra khỏi xe. Anh ta nhìn Gibson từ trên xuống dưới, không có vẻ gì là quá ấn tượng. Anh ta bước hướng về cửa trước nhưng rồi nghĩ lại và đi ngang qua khoảnh vườn để gặp Gibson trước cổng. “Tôi có thể giúp gì không?” Người đàn ông hỏi. “Anh sống ở đây à?” “Anh là ai?” “Đây là số 53 đường Mulberry Court phải không?” “Vâng, đúng vậy. Tôi có thể giúp gì không?” Người đàn ông hỏi lần thứ hai. Cánh cửa trước hé mở. Một người phụ nữ nhìn ra với một đứa trẻ bám bên hông. Hai cậu nhóc đùn đẩy nhau về phía trước để xem chuyện ồn ào gì ở ngoài kia. “Tom, chuyện gì vậy?” “Không có gì, em ạ, cho lũ trẻ ở trong nhà nhé.” “Căn nhà này của anh là thế nào?” Gibson nói. “Chuyện gì xảy ra với căn nhà trước đây vậy?” Người đàn ông cứng người. “Anh là ai?” “Tôi từng sống ở đây. Chuyện gì xảy ra với căn nhà cũ hả?” Người đàn ông quay về phía vợ mình: “Đóng cửa lại. Gọi cảnh sát.” “Chuyện gì vậy anh?” Giọng người phụ nữ vang lên. “Lấy khẩu súng ở trên tầng hai xuống. Đừng mở cửa.” Người vợ tái nhợt đi nhưng không cử động, cứng đờ người không biết nên chọn làm theo những gì người chồng bảo hay đi ra góp sức với chồng mình. “Chuyện gì xảy ra với căn nhà ở đây trước kia?” Gibson hỏi lại lần nữa. “Nó cháy rụi rồi.” Người đàn ông nói. Gibson mò mẫm cái chốt cửa cố tìm cách vào trong. Đây hẳn là một trò bịp bợp. “Anh đang nói cái gì vậy?” “Căn nhà đó đã cháy rụi rồi,” người đàn ông lặp lại, hai tay anh ta bám trên cửa, giữ cho nó không bị mở ra. Gibson cảm thấy một nỗi sợ hãi như người vừa vào phòng cấp cứu. Nỗi sợ hãi của một con bệnh đang cố đoán xem cử chỉ bộ dạng của vị bác sĩ sẽ mang đến thông tin gì về bệnh tình của anh ta. “Ý anh là sao, cháy rụi là sao?” “Dừng lại. Anh cứ dừng lại đã. Anh đang làm lũ trẻ sợ hãi.” Gibson ngước lên nhìn khuôn mặt lũ trẻ, thấy nỗi sợ hãi của chúng. Anh buông tay khỏi cánh cổng, giơ hai tay lên. “Tôi xin lỗi. Chỉ xin anh nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra được không? Có ai bị thương không?” “Tôi không biết. Chúng tôi chuyển đến đây chỉ mới vài tháng trước.” “Anh mua nhà từ ai?” “Qua một người môi giới. Anh nhìn xem, rõ ràng là chẳng có thứ gì liên quan với anh ở đây cả. Vợ tôi đang gọi điện cho cảnh sát. Anh nên đi đi.” Gibson nhìn lần cuối kẻ mạo danh đang đứng tại nơi từng là căn nhà trong mơ của anh. Anh lùi xa khỏi cánh cổng, lảo đảo bước xuống đường. Cơ thể như kiệt sức, anh khuỵu xuống, nôn mửa. Anh nhắm nghiền mắt lại và cố dùng tâm trí thu người trở về căn khám, nhưng khi mở mắt ra, anh vẫn ở đó, trên phố Mulberry Court. Gibson cầu nguyện để điều đó không phải là sự thật. Nhưng nếu đúng thật như vậy thì sao? Và chuyện gì xảy ra nếu họ đã ở nhà? Chúa ơi, chuyện gì chứ, nếu lúc đó họ ở trong nhà? Tê dại và mất trí, giờ anh cũng chẳng có nơi nào để đi nữa. Gibson đi thẳng theo một hướng vô định, hy vọng sẽ tìm thấy lối đi bí mật trở về căn khám. “Ta đã cảnh báo con chớ có quay trở về nơi đó.” Duke nói. “Cha biết trước rồi sao?” “Ta không nghĩ con có thể chịu đựng được chuyện đó. Ta chỉ cố bảo vệ con khỏi chính bản thân con.” “Dẫn con trở lại. Làm ơn!” Gibson nói. “Con không thể ở lại đây thêm được nữa.” Một chiếc xe cảnh sát tuần tra đi vượt qua anh và tấp vào lề đường cách dãy phố chừng sáu mét. Viên sĩ quan mặc đồng phục với khuôn ngực vâm váp sau lớp áo giáp bước ra từ trong xe. Những người chủ của căn nhà mới số 53 Mulberry Court đã không nói dối. “Chào buổi tối, thưa ông. Tôi có thể nói chuyện một lát với ông được không?” Giọng của viên sĩ quan khá nhẹ nhàng và thân thiện. Những sải chân dài của Gibson vẫn không dừng lại. Anh đã phải nói chuyện cả một ngày trời. Viên cảnh sát có thể bắn anh là tất cả những gì Gibson quan tâm lúc này. Anh phải trở về căn khám ngay. Lối đi bí mật phải ở đâu đó ngay đây. “Thưa ông, tôi chỉ xin vài phút thôi. Ông làm ơn đứng lại một lát được không?” Khi thấy Gibson không có dấu hiệu dừng lại, viên cảnh sát nhảy lên vỉa hè, đứng chắn lối đi của anh. Một chiếc xe tuần tra khác xuất hiện ở phía góc phố và đi tới từ một hướng khác. Một phần ý thức xa xưa và rệu rã của Gibson cho anh biết rằng chuyện này sẽ chỉ mang đến điều tồi tệ. Anh không nghe theo lời viên cảnh sát, lách người sang một bên để tránh, viên cảnh sát cũng bước sang ngang để chắn lối của anh. Viên cảnh sát đưa một tay lên, chìa lòng bàn tay. “Thưa ông. Dừng lại, được chứ? Ngay tại đây.” Viên sĩ quan đã đưa ra lời đề nghị lịch sự lần thứ hai nhưng lần này giọng anh ta đanh lên. Ở phía trước, Gibson nhìn thấy một cái ngách tõe ra trên hàng rào bên đường. Đó là lối đi bí mật dẫn vào nơi mà căn nhà cũ của anh chưa bị cháy và Nicole và Ellie đang vui vẻ, an toàn ở đó. Gibson thả cái túi xuống, bước một bước thật nhanh sang bên trái và gạt tay về phía trước để né viên cảnh sát. Chỉ cần nhích người lên một chút là sẽ thoát được. Nếu anh có thể vươn tới được lối đi bí mật thì họ sẽ không thể nào theo kịp được. Nhưng gạt tay lên người viên cảnh sát là một hành động khiến cho tình huống từ chỗ chỉ là trạng thái căng thẳng trở thành đối đầu. Viên cảnh sát nắm lấy cổ tay Gibson, và xoay người, khóa cẳng tay Gibson về phía sau. Đà bẩy trên khớp ép Gibson lao người về phía trước. Gibson vung chân đá người đàn ông kia, bất lực không thể thoát ra được. Chân anh chạm vào đầu gối viên sĩ quan. Viên cảnh sát lầm bầm và buông tay một lát. Chiếc xe tuần tra thứ hai rú lên, dừng lại và bật lên lề đường, chặn lối thoát. Một cảnh sát khác nhảy ra. Gibson bò xuống vỉa hè bằng cả bốn chi cho đến khi viên sĩ quan đầu tiên gí súng điện Taser vào anh. Một đầu gối thúc vào lưng anh, và hai viên cảnh sát chộp còng tay vào, rồi ngồi phịch xuống trên lưng. Duke liếc mắt chán nản nhìn người con: “Con chọn thời điểm chết tiệt nhất để phá luật.” Gibson trải qua một đêm ở trụ sở cảnh sát. Anh đã qua được mười hai giờ liên tục sống trong tự do rồi lại tìm đường trở lại một phòng giam. Rõ ràng, anh đã tấn công một cảnh sát, nhưng Gibson nhớ rằng chỉ va chạm một chút thôi. Anh hồi tưởng lại cái gì đó như là có xe cảnh sát tuần tra và một cuộc vật lộn nhưng chỉ lóe lên trong chốc lát. Anh đổ tại những chỗ trí nhớ bị mất là do vết bỏng súng điện Taser trên lưng, vết thương bầm tím và thô rát, và anh đã trải qua một đêm trằn trọc thất thường. Mỗi lần anh nhắm mắt chìm vào giấc ngủ thì những cơn mơ đầy lửa và những cơn đau đuổi theo anh lại kéo đến. Ellie la hét gọi anh từ cửa sổ phòng ngủ của con bé. “Điều này là thật sao?” Anh hỏi người cha đang đứng lờ mờ cạnh mình mỗi lần anh tỉnh giác. “Đó là vấn đề à?” “Cha trả lời con kiểu gì vậy? Cha chỉ cần nói cho con biết Ellie có bình an hay không thôi.” “Tại sao ta phải quan tâm chứ? Con có thèm đếm xỉa gì đến những điều ta nói đâu?” Đến sáng, một viên sĩ quan ít nói dẫn anh đến phòng thẩm vấn và còng tay anh vào bàn. Gibson hỏi viên sĩ quan về Ellie và Nicole; nhưng, giống như đêm hôm trước, anh không nhận được câu trả lời nào. Vì sự an toàn của gia đình, anh cầu ước trong tuyệt vọng rằng tất cả những thứ này chi là một trong những ảo tưởng phức tạp của mình, nhưng thẳm sâu trong tâm trí anh biết rằng đó là thật. Phải rất nhiều giờ sau đó mới có người đến thẩm vấn anh. Anh mệt nhừ với sự bất công đó, tầng lớp cơn giận chất đống lên trong lòng anh như những mớ củi khô chỉ đợi một mồi lửa. Anh cảm thấy lòng mình như cơn giận của một đứa trẻ sắp hết chịu nổi cho đến khi Gấu nói anh đọc sách cho cô ấy nghe. Cô ấy cũng cảm thấy tan nát về vụ cháy và anh có thể nhìn thấy rằng chính anh đang là kẻ thật ích kỷ. Họ đọc khe khẽ cho đến khi Gấu bình tâm trở lại. Cuối cùng, cánh cửa đã mở ra. Gibson ngừng lại ở giữa câu và trao quyển sách lại cho Gấu. Một viên thanh tra mặc thường phục mang theo một tệp hồ sơ đến ngồi đối diện với anh. Người đàn ông có đôi mắt tự tin, gần như tự phụ và chải mái tóc ngắn màu vàng về phía trước theo kiểu Ceasar mà anh ta có thể vuốt nhẹ nhàng chỉ bằng một lòng bàn tay. Anh ta giói thiệu rằng tên anh ta là Jim Bachmann. “Sáng nay anh thấy thế nào?” Anh ta hỏi Gibson như thể họ gặp nhau để chơi một trận golf. “Đừng để mất sự tỉnh táo của mình.” Gấu nói, đứng dậy và đi ra khỏi phòng. Đó là một lời khuyên hữu ích nhưng Gibson không chắc rằng mình có làm theo được hay không. Anh muốn đánh liên hồi viên thanh tra Jim Bachmann đó, đánh bầm dập đôi mắt anh ta trong vũng máu và hủy hoại mái tóc hoàn hảo của anh ta. “Đừng nói với hắn điều gì.” Duke nói. “Hắn ta có thể cũng là CIA giống Washburn đây.” Gibson nghĩ có lẽ Duke bị hoang tưởng. “Không ai nói cho tôi biết về vụ cháy nhà cả.” Gibson nói. Duke bực bội, thở dài thườn thượt. “Chúng ta sẽ nói về chuyện đó.” Viên thanh tra nói. Ba mươi phút sau đó, viên thanh tra nhắc cho anh biết những quyền lợi của mình trong khi cũng ngụ ý rằng sẽ là sai lầm nếu anh đòi thực hiện bất kỳ quyền lợi nào trong số đó. “Anh có thể yêu cầu một luật sư, chúng ta sẽ dừng tại đây, nhưng sau đó thì tôi không thể làm bất cứ điều gì cho anh nữa.” Đưa chuyện này ra tòa quả là một chuyện lớn - những tay luật sư và tòa án sẽ chỉ là kẻ thù của anh, và chỉ có người bạn già tốt bụng Jim Bachmann này có thể giúp giải quyết mớ lộn xộn mà thôi. Gibson lấy làm ngạc nhiên khi anh ngu ngốc nghĩ như thể trước khi anh nhận ra rằng mình chưa yêu cầu luật sư cho mình. “Anh có thể làm ơn nói cho tôi biết có ai bị thương không?” Thanh tra Bachmann bỏ qua câu hỏi đó và cũng chẳng hê bị suy suyển bởi lời cầu khẩn của anh. “Anh trả lời những câu hỏi của tôi, rồi chúng ta sẽ bàn đến câu hỏi của anh.” “Con gái tôi… nó có an toàn không?” Gibson nói. “Chúng ta có thể nói về tất cả những chuyện đó sau khi anh trả lời tôi.” Gibson dò xét Jim Bachmann. Anh vốn luôn có năng khiếu trong việc đọc vị người khác và cố gắng tìm ra ý định của viên thanh tra qua những cử chỉ của anh này. Tâm trí anh lại không thể tập trung đuợc, còn khuôn mặt viên thanh tra thì trông như một tập hợp hình khối của những chiếc máy bay góc cạnh. Gibson thất vọng hỏi lại: “Tại sao lại ngăn tôi lại?” “Cảnh sát nhận đuợc báo cáo về một người được mô tả có ngoại hình giống anh đã gây rối ở số nhà 53, phố Mulberrry Court.” “Không có gây rối nào cả. Chỉ là nói chuyện thôi.” Bachmann ghi chép cái gì đó. Gibson nhận ra là anh đã thừa nhận sự có mặt của mình ở nơi đó. “Chúng tôi chỉ trao đổi một chút. Tôi thề.” Bachmann nở một nụ cười đồng tình. “Người chủ nhà lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác.” “Và vì thế nên các anh bắn súng điện vào tôi à?” Viên thanh tra liếc nhìn Gibson. “Anh đã không tuân thủ lời hướng dẫn của cảnh sát. Rồi anh tấn công cảnh sát đó. Đó là lý do anh bị bắn điện.” “Tôi không nhớ mình đã làm vậy.” “Đừng lo. Đã có camera gắn trên người ghi lại việc đó rồi. Nhân tiện, nó là camera 1.5 luôn đấy.” Jim Bachmann mở tập hồ sơ ra. “Vậy… số 53 Mulberry Court. Đó là địa chỉ nhà vợ cũ của anh, phải không?” Gibson gật đầu, trong lòng cảm thấy không thoải mái ngay khi nhắc đến Nicole. Duke nhìn qua bờ vai của viên thanh tra xuống tệp hồ sơ. “Thằng chó đẻ này đang dựng lên chuyện gì đó để gán cho con đây.” “Vậy điều gì đã khiến anh có chuyến thăm ngoài dự kiến vậy?” “Tôi nghĩ tôi bị bắn vì hành động tấn công cảnh sát. Và nếu anh có bằng chứng về việc đó trong camera gắn trên người thì tại sao anh phải hỏi những điều này chứ?” “Đừng lo lắng về chuyện tấn công. Anh cảnh sát đó là một người bạn. Nếu anh hợp tác với chúng tôi trong cuộc điều tra thì tôi dám chắc với anh rằng anh ta có thể bỏ qua chuyện đó.” “Anh thực sự muốn gì?” “Anh có thể chứng thực cho việc anh đã ở đâu vào ngày căn nhà người vợ cũ của anh cháy rụi không?” Câu hỏi đó khiến Gibson ngạc nhiên, nhưng giờ anh đã hiểu ra vì sao anh bị bắt về đây và vì sao gia đình đó hoảng loạn cả lên. Căn nhà của Nicole không tự cháy; mà đã bị đốt cháy rụi. Và anh là một nghi phạm, có lẽ là nghi phạm duy nhất. Một người chồng cũ thất nghiệp, bất mãn thì đương nhiên sẽ được liệt kê lên đầu danh sách nghi phạm rồi. Kết tội tấn công chẳng là gì khác ngoài một cái cớ để thẩm vấn anh về vụ hỏa hoạn. Điều đó làm cho cơn giận dữ của anh bốc hỏa lên hết. Bachmann nhắc lại câu hỏi. “Đừng trả lời.” Duke mách nước. Gibson lườm cha. Anh thấy không cần phải được nhắc nhở rằng những câu chuyện thêu dệt về hành động bắt cóc của CIA và những nhà tù bí mật sẽ chỉ mang lại tác dụng tồi tệ. Viên thanh tra nhìn theo ánh mắt của Gibson tới bức tường trống nơi Duke vừa đứng và viết thêm lời ghi chép. Gibson đồ rằng đó chỉ là hành động làm màu. “Anh Vaughn, tôi không thể nói rõ cho anh được nếu anh không trả lời câu hỏi của tôi.” “Anh đã làm rõ cho tôi rồi.” “Tôi đã làm rồi ư?” Bachmann đáp với nụ cười nhượng bộ, đầy xảo quyệt. “Anh chẳng có cái quái gì để chống lại tôi cả, vì thế nếu anh chưa làm rõ cho tôi thì hẳn anh là một kẻ ngốc hoặc một tên nói dối.” “Đùng biến mình thành trẻ con như vậy. Tôi có thể tóm anh bao lâu cũng được.” Bachmann giờ trông không còn vẻ gì là hài hước nữa. “Vớ vẩn. Tôi biết thừa anh không thể vì tôi chẳng có cái quái gì liên quan tới việc đó cả. Cái trò mèo vờn chuột trẻ con này cũng chỉ để chứng minh rằng tôi vô tội mà thôi.” “Gibson…” Gấu khẩn cầu. “Đừng.” Cô ấy không hề sai. Kích động tên thanh tra này sẽ chẳng giúp ích gì nhưng Gibson mệt mỏi với việc phải chiều theo tên đầu đất này rồi. “Có. Ai. Bị thương. Không?” “Thứ lỗi cho tôi, được chứ?” Bachmann nói. “Nếu anh quan tâm đến con anh như thế thì chắc anh đã không thiêu cháy căn nhà của con bé rồi.” Mười tám tháng trời mà anh đã trải qua với nỗi dằn vặt rằng không biết mình có được phóng thích hay không đã là địa ngục, nhưng nó chẳng là gì nếu so với mười hai giờ qua anh không thể biết được rằng Ellie còn sống hay đã chết. Anh cũng chẳng nhận thức được rằng anh muốn biết câu trả lời, nhưng không biết câu trả lời hóa ra lại là luyện ngục đáng sợ nhất mà anh có thể tưởng tượng được. Sự chế nhạo của Bachmann là giọt nước bằng lời cuối cùng làm tràn ly. Gibson nổi đóa. “Có ai bị thương không?” Gibson hét lên, tâm trạng trấn tĩnh chuyển thành cơn cuồng nộ chi trong nháy mắt. “Con gái tao có làm sao không, thằng chó này?” Nước bọt phọt qua mặt bàn. Ghế của Gibson đập sầm vào tường khi anh chồm dậy lao về Bachmann, cái còng tay giật anh lại. Bachmann giật lùi lại, mất cảnh giác bởi hai bộ mặt trong con người Gibson. Hai viên cảnh sát mặc đồng phục khác đạp cửa lao vào phòng, sẵn sàng đè đầu, nhưng Bachmann đứng vào giữa họ với Gibson và đẩy họ lui khỏi phòng, ra ngoài hành lang. Gibson giận giữ giằng co với cái còng tay, không thể kìm nén được những lời chửi bới, dọa nạt đang tuôn như suối ra khỏi miệng, cũng không thể giữ được dòng nước mắt tuôn ra từ khóe mắt chảy dài xuống khuôn mặt. Bachmann đóng cửa lại rồi tựa lưng vào đó. Anh đợi cho cơn giận dữ của Gibson tự nguôi đi. Gibson ngã gục xuống sàn, hai tay vặn vẹo trên đầu, còng tay vẫn gắn vào bàn. Đáng lẽ nó phải đau, nhưng anh không cảm thấy gì. “Anh nguôi rồi chứ?” Bachmann hỏi. “Làm ơn…” Bachmann nhìn xuống Gibson và lấy làm thương hại. “Không ai có ở nhà, anh Vaughn ạ. Vợ cũ và con gái anh vẫn còn sống và yên ổn.” Gibson nuốt lấy những lời đó. Thứ gì đó cứng ngắc và lởm chởm gai trong tim anh như giãn ra, và anh hít lấy hơi thở tái sinh đầu tiên. Cảm giác nhẹ nhõm nguyên sơ và anh cầu nguyện để tạ ơn Đức Chúa trên cao. Kiệt sức, cạn cả năng lượng hồi phục, Gibson phải nhờ đến Bachmann giúp đỡ mới ngồi lại lên ghế được. “Cảm ơn anh.” Gibson nói. “Nếu anh còn làm vậy nữa, tôi sẽ cho anh vào phòng giam thêm một tuần.” “Ellie ở đâu?” “Câu hỏi đó không phù hợp…” “Họ ở đâu?” “Họ chẳng hề quan tâm đến việc gặp anh. Anh cần phải hiểu rõ điều đó. Vợ anh đã yêu cầu ra lệnh cấm đối với anh, vì thế tôi không thể nói cho anh kể cả nếu tôi có biết.” Cụm từ “lệnh cấm” vang vọng trong tai Gibson. Anh bắt gặp ánh mắt Duke, người cha chỉ đứng lắc đầu và nhìn ra chỗ khác. Viên thanh tra tiếp tục nói với anh những lời gì đó, nhưng những lời anh ta nói bỗng mờ nhạt và không rõ. “Đó, tôi đã trả lời tất cả những câu hỏi mà tôi sẽ phải trả lời anh, thế anh sẽ đáp lại thế nào đây nhỉ? Anh đã ở đâu vào cái ngày căn nhà bị cháy rụi? Ở đâu?” “Nơi khác.” Gibson nói. “Một mình.” “Đừng có chơi trò trẻ con với tôi. Lòng tốt tôi dành cho anh ngày hôm nay đã cạn rồi đây.” “Tôi không biết mình đã ở đâu.” “Anh không biết mình đã ở đâu suốt mười tám tháng qua ấy hả?” Khi Gibson bị tắc lại với câu chuyện của mình, viên thanh tra đề cập lại từ đầu và hỏi tất cả câu hỏi lần thứ hai. Rồi lần thứ ba. Sau đó, Gibson không có chú ý gì đến nữa. Kẻ nào đó đã phóng hỏa căn nhà của Nicole, và anh đã không có ở đó để ngăn chặn việc này. Thêm một việc nữa có liên quan đến Damon Washburn. Từ khóe mắt, anh thấy Duke gật đầu tán thành. “Làm sao mà anh lại không biết mình ở đâu được cơ chứ?” Bachmann hỏi đến cả trăm lần. Cuối cùng, Gibson nhượng bộ và tiết lộ sự thật. “Tôi không biết. Tôi đã bị cầm tù.” Bachmann ngồi nhổm về phía trước. “Gibson.” Duke nói. “Cẩn thận.” “Anh bị cầm tù á? Ở đâu?” “Tôi đã nói với anh là tôi không biết.” Gibson nói. “Anh không biết là mình đã bị cầm tù ở đâu ấy hả?” “Hỏi CIA ấy.” Khuôn mặt viên thanh tra mang một biểu cảm như thể anh đi dự tiệc và bắt đầu trò chuyện với một người trông bình thường nhưng rồi lại mắc kẹt trong cuộc tranh luận liệu có phải Jimmy Hoffa đã ám sát Kennedy không. Duke cũng mang một bộ mặt tương tự nhưng vì lý do khác. Bachmann nói. “Anh bị nhốt trong tù của CIA sao?” “Ừm, đúng vậy.” Không nói một lời, Bachmann đứng lên và rời khỏi phòng. Anh ta đi ra khỏi phòng trong một khoảng thời gian đủ lâu để Duke lên lớp cho Gibson một bài về sự im lặng cần thiết. Bachmann trở lại cùng một đám các sĩ quan mặc đồng phục. Đã có quyết định nào đó được đưa ra. “Nếu chúng tôi có thêm những câu hỏi, anh có số điện thoại nào để chúng tôi gọi cho anh không?” “Tôi không có điện thoại.” “Anh Vaughn, anh có nhà chứ? Một nơi nào đó để anh sống?” Gibson lắc đầu. “Thế có ai mà chúng tôi có thể gọi được không? Người mà có thể đến đón anh ấy.” Gibson mất một lúc đâu để nghĩ về điều đó mặc dù danh sách người quen của anh cũng rất ngắn ngủi. Anh có một bà dì ở Charlottesville, nhưng từ đó tới đây ít nhất phải hai giờ đi xe, và ý nghĩ lôi bà ấy vào một vụ rắc rối pháp lý của anh nghe không có vẻ gì là hợp lý cho lắm. Bà ấy đã giúp đỡ anh rất nhiều rồi. Tất cả những người khác mà anh biết hoặc là đã chết, hoặc mất tích hoặc chẳng muốn dây dưa gì với anh cả. Cuối cùng, anh đưa cho họ cái tên Toby Kalpar. Anh cũng không hề muốn Toby phải dính dáng vào chuyện này, nhưng thực sự là không còn ai khác nữa. Với vóc dáng mảnh khảnh và phong thái học giả thích xã giao, Toby Kalpar trông lạc lõng với khung cảnh trong phòng đợi ở trụ sở cảnh sát cũng như khi anh ta ở sau quầy thanh toán của nhà hàng Nighthawk vậy. Sau khi ly dị, Gibson chuyển đến ở trong một căn hộ có một phòng ngủ, cách nhà hàng Nighthawk chỉ vài bước chân. Căn hộ buồn tẻ và chán ngắt, còn nấu nướng chẳng phải là kỹ năng mà anh học được khi còn phục vụ trong lực lượng Thủy quân Lục chiến. Nhà hàng trở thành ngôi nhà thứ hai của anh sau căn nhà đi thuê. Anh đã dành hàng giờ ngồi trong một quầy ăn ở phía sau nhà hàng, để tìm việc. Rồi thì đâu đó trên đường đời, anh và Toby đã trở thành bạn tốt của nhau. Người bạn cũ này vốn thường đưa ra những lời khuyên và góc nhìn cần thiết cho Gibson, điều mà Gibson thấy rất cảm kích, cho dù anh chưa bao giờ làm theo những lời khuyên ấy. Anh lấy hết can đảm để lướt vội ra khỏi căn phòng. Tất cả những kẻ lạ mặt ở đó nhìn anh đúng cái kiểu - người lạ. Đó là thứ hoàn toàn khác hẳn với Toby. Trước khi anh có thể đi ra khỏi phòng, Toby đã nhìn thấy Gibson. Nếu anh ta có một phản ứng nào đó trước vẻ ngoài tàn tạ của Gibson thì hẳn anh ta là một kẻ khéo che giấu. Toby đẩy gọng kính trên sống mũi cao lên, vòng tay quanh người Gibson và ôm anh thật chặt. Gibson thấy những giọt nước cay cay chảy ra từ khóe mắt trước sự ấm áp trong vòng tay của Toby, còn anh này thì hiểu nhầm lý do của những giọt nước mắt đó, ra sức ôm anh chặt hơn. Gấu, với một chút thiện cảm trong lòng dành cho Toby, đứng gần đó, mỉm cười. “Tôi không biết phải gọi cho ai cả,” Gibson nói khi họ ra tới bãi đậu xe. Trời đã chạng vạng và một cơn mưa nhẹ, lạnh cóng bắt đầu rơi. “Tôi mừng vì anh đã gọi.” Đúng theo phong cách của Toby, anh ta không đưa ra những câu hỏi đáng nhẽ ra phải hỏi mà nhẫn nại chờ đợi cho đến khi sự thật tự nó được tiết lộ ra. Gibson định rời bỏ Toby vì rằng bây giờ anh đã được thả ra, nhưng anh có những câu hỏi cần được trả lời trước đã. “Họ ở đâu?” “Chúng ta sẽ nói về chuyện đó ở trong xe,” Toby nói. “Cứ nói tôi biết trước đã.” Toby giữ cửa xe mở và kiên nhẫn chờ đợi. “Tôi sẽ nói cho anh biết tất cả những chuyện đó trên đường về nhà.” Gibson liếc nhìn chiếc xe đầy thận trọng. Trông nó như cái bẫy. Nhà là gì chứ? Đó là nơi quái quỷ gì chứ? Nhưng Toby cũng không nói gì thêm, vì thế Gibson chui vào trong xe, chiếc túi vải thô để sẵn trên đùi, phòng khi anh cần vọt ra khỏi xe thật nhanh. Toby nổ máy và điều chỉnh nhiệt độ. Những cửa sổ xe đã bị đóng băng, và ánh sáng xuyên qua mờ nhạt như ma ám. Nhạc *Ghazal4 phát ra khe khẽ từ máy chơi nhạc. Toby và Sana Kalpar đã nhập cư từ Pakistan hơn hai mươi năm trước và ở một vài khía cạnh nào đó, họ đã chấp nhận phong tục và văn hóa của đất nước mới. Nhưng cha của Toby là một nhà thơ và ca sĩ Ghazal cũng khá nổi tiếng và đó cũng là thể loại nhạc mà Toby thích mỗi khi anh thấy nhớ nhà vào những tháng mùa đông lạnh lẽo. Ở trong xe, Toby kể lại câu chuyện giống hệt những gì viên thanh tra đã nói. Căn nhà của Nicole đã cháy rụi, chỉ còn lại đống tro tàn. Thật may mắn là không có ai ở nhà. Những dấu hiệu rõ nét của chất gây cháy. Không có nhân chứng. “Cảnh sát nghĩ tôi đã làm chuyện đó.” Gibson nói. “Anh đã không có ở đây để bảo vệ chính mình. Có vẻ như… hừm, có vẻ như không được tốt lắm.” “Ellie ở đâu?” “Tôi không biết.” Gibson trở nên giận dữ. “Đừng nói với tôi như vậy. Vì sao Nicole lại không nói với anh chứ?” Toby thở dài. “Vì cô ấy biết tôi sẽ nói với anh nếu anh trở lại.” Điều đó, và tất cả những ẩn ý từ đó, đã nói lên tất cả. Gibson ngồi ngả ra sau và nhìn qua vết sáng nhỏ trên cửa sổ nơi băng tan. Nicole đã biến mất cùng Ellie. Cô ấy đã yêu cầu ra lệnh cấm gặp đối với anh rồi bỏ chạy. Cô ấy tin rằng anh hoàn toàn có khả năng làm chuyện đó. Tất cả đã dẫn đến điều này. Gibson chui ra khỏi xe, chắc chắn rằng mình sẽ bị cảm. Toby theo sau anh, hối thúc anh trở vào trong. “Tôi không thể.” Gibson nói. “Tôi biết ơn anh đã giúp tôi lúc hoạn nạn, nhưng tôi không phải là rắc rối của anh.” “Anh không phải là rắc rối gì cả. Làm ơn vào xe đi.” “Và đi đâu chứ? Rồi tôi sẽ làm gì đây?” “Anh sẽ cần thời gian để trả lời câu hỏi đó,” Toby khuyên nhủ. “Anh ta nói đúng.” Gấu nói. “Anh sẽ cần thời gian để tìm Ellie.” “Tôi không biết làm thế nào nữa,” Gibson nói với cả hai người họ. Đứng trước ngục tù, anh sẽ nói rằng anh có thừa kỹ năng lên kế hoạch và ra quyết định, nhưng giờ anh chẳng thể nói lại điều đó nữa. Nicole và Ellie đã biến mất, và anh chẳng còn thời gian nữa. Nếu có một khẩu súng trong tay, anh cũng không chắc là mình có để khẩu súng vào miệng không. Anh không thể nghĩ ra bất kỳ lý do nào để không làm chuyện đó - tất cả những lý do mà anh có đã biến đi đâu hết. “Ellie.” Gấu nói. “Đó luôn là lý do.” “Hãy mặc kệ tôi.” Anh ta nài nỉ Toby. Lần đầu tiên kể từ khi quen biết Toby, Gibson thấy anh ta phát cáu ra ngoài. “Chui vào xe đi, đồ con lừa cứng đầu. Tôi sẽ không nói lại thêm một lần nữa đâu đấy.” Toby vốn nổi tiếng về sự lịch lãm trong lời ăn tiếng nói của mình, và kể cả những từ tục tĩu như vậy nghe cũng kỳ lạ khi phát ra từ miệng của anh ta. “Anh có thể tử vì đạo vào một lúc nào đó anh thích. Nhưng tôi sẽ không quay về nhà và nói với Sana rằng tôi đã tới đón anh và rồi bỏ rơi anh ở bãi xe trong trời mưa lạnh giá thế này. Không, anh không thể coi thường tôi như thể được.” “Toby…” “Vào xe đi! Không thì tôi sẽ… tôi sẽ đá vào mông anh đây.” Toby giật lấy túi xách của Gibson rồi đi ra phía sau thùng xe, quẳng vào đó và đóng nắp đánh sầm một cái. Rồi anh ta chui vào trong xe, ngồi đó chờ đợi, hai tay để sẵn trên vô lăng, rồi thì Gibson cũng chui trở vào xe, ngồi ở ghế sau. “Tôi xin lỗi vì những lời lỗ mãng.” Toby và Sana Kalpar sống ở một căn nhà trong thị trấn ở Arlington. Họ cùng là chủ nhà hàng Nighthawk và một trong hai hoặc cả hai người sẽ luôn ở đó. Sana về nhà khá trễ vì thế mà Toby đậu xe trên phố, để lại chỗ trong nhà xe cho vợ mình. Gibson đứng trên lối vào sảnh chính trong khi Toby bật điện ở phòng khách lên. Đó là một căn nhà ấm cúng, tiện nghi. Trong lòng mình, Gibson luôn có một sự ghen tỵ nho nhỏ với gia đình rất gắn bó của Toby, nhưng giờ đây anh chỉ cảm thấy một nỗi đau đớn chứ không còn sự ghen tỵ nào nữa. Những bức ảnh được đóng trong khung gỗ treo rải rác trên các khoảng trống của tường nhà và trên những bức tường là cả một bộ sưu tập đầy chất nghệ thuật. Đó là tác phẩm của đứa con một của Toby - Maissa - một nghệ sĩ thiên bẩm và từng học ở Trường Nghệ thuật và Thiết kế Corcoran. Những gì gần nhất mà Gibson biết về cô bé là cô đã chuyển đến San Francisco sinh sống, nhưng còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm một công việc ổn định. Toby thương con bé vô cùng và thật là đau lòng khi phải nhìn thấy nó vật lộn kiếm sống. “Maissa có việc rồi.” Toby nói với sự minh mẫn không lẫn vào đâu được. “Thế thì tốt quá. Con bé làm gì?” “Thiết kế đồ họa cho một công ty quảng cáo.” “Nó có thích việc đó không?” “Không.” Toby cười. “Nhưng từng bước một.” Hai con mèo, một xám, một đen luẩn quẩn bên chân Toby rồi biến khỏi tầm mắt, mất hút ở lối vào nhà bếp. Toby tỏ vẻ xin lỗi rồi đi theo những con mèo đang đói bụng vào trong bếp, anh ta nói Gibson hãy cứ thoải mái như ở nhà. Gibson chẳng thể nghĩ ra được làm thế nào để thực hiện được như lời nói của người bạn nên khi Toby trở ra từ bếp, anh vẫn ngồi im tại chỗ. “Chà, anh không bỏ chạy ra phố, tôi nghĩ như thế cũng là tiến bộ rồi.” Toby nói, nhưng câu đùa của anh ta cũng không thể che giấu được sự không thoải mái bên trong. “Rồi, bạn tôi, tôi có một câu hỏi thế này.” Gibson cảm thấy căng thẳng. Toby đã cố gắng kìm nén không hỏi câu nào nhưng cuối cùng thì chúng cũng đến rồi đây. Anh chẳng biết phải giải thích cho bạn mình như thế nào về mười hai tháng qua. “Anh có biết người anh bốc mùi kinh tởm thế nào không?” Không phải câu hỏi mà Gibson dự đoán. “Tôi nghĩ đó là anh.” “Một cái hộp thịt bốc mùi.” Toby trông như giãn ra, như thể câu trả lời đùa cợt nhạt nhẽo của Gibson trấn an anh ta rằng anh ta đã không để một gã điên vào nhà. “Tôi biết đó vẫn là anh mà.” Gibson không chắc, nhưng cảm thấy nhẹ lòng hơn không kém gì người bạn mình khi mình vẫn còn được nhận diện. Toby nói. “Bằng tất cả tấm chân tình, bạn tôi ạ, anh thật sự rất rậm rạp đấy.” Anh ta dẫn Gibson lên tầng, tới phòng ngủ của Maissa. Cô bé về thăm nhà mỗi năm chỉ một đôi lần, nhưng ông bố bà mẹ vẫn để căn phòng y nguyên như khi cô bé rời đi. Phần lớn, căn phòng cho thấy hình ảnh của một cô gái đã trưởng thành, nhưng vẫn có những dấu tích của tuổi mới lớn. Ở một góc phòng, bộ màu nước để nguyên trên giá vẽ như thể cô bé chỉ để tạm xuống đó rồi quay lại vẽ tiếp bất cứ lúc nào. Nếu Gibson có sống đến một trăm tuổi thì lần tắm hôm nay vẫn sẽ là lần tắm sung sướng nhất cuộc đời anh. Phải mất ba lần lấy dầu gội từ chai dầu thơm mùi dừa của Maissa thì mái tóc dài đến vai của anh mới có cảm giác sạch và phải mất bốn lần lấy dầu như thế cho bộ râu. Anh ngâm mình xuống nước, dựa vào nền gạch và để cho nước chảy xuống. Trong trạng thái như bị thôi miên, anh nằm im như thế đến khi nước chuyển sang lạnh. Anh lấy khăn tắm, lau khô người rồi nhìn khuôn mặt lạ hoắc trong gương, đứng chải mớ râu tóc rối bù. Anh chải thật chậm, những lọn tóc đã dính lấy nhau thành hai mớ chảy xuôi xuống hai bên vai một cách ngẫu nhiên. Anh hẳn nhiên là rất cần phải cạo râu, nhưng cần phải có thợ cạo chuyên nghiệp - hay là hẳn một đội làm vườn - để xẻ được bộ râu tóc dày cộm tới mức này. Cho tới lúc ấy, anh mượn tạm một cái dây buộc tóc của Maissa rồi buộc túm mớ tóc lại thành cái đuôi ngựa phía sau. Nếu như chỉ huy cũ của anh mà nhìn thấy bộ dạng này, chắc hẳn anh sẽ phải trả giá đắt. Có lẽ sẽ bị đuổi cổ về căn cứ Saskatchewan, hoặc cũng có thể là căn cứ Brooklyn, những nơi mà anh chưa bao giờ cảm thấy giống như nhà của mình. “Đây là một bước đi tốt.” Duke nói. “Chúng ta cần căn cứ để hoạt động.” “Cha có thể không xuất hiện lúc này được không?” Duke chỉ ngón tay về phía Gibson khuyên nhủ. “Toby Kalpar chỉ chịu tiết lộ cho ta biết khi anh ta muốn và bây giờ thì anh ta không muốn đâu.” Mùi thịt xông khói trên chảo kéo Gibson khỏi dòng suy tưởng. Bữa ăn gần đây nhất của anh là món burger kẹp thịt ở trạm dừng xe tải trên cao tốc ở West Virginia và ý nghĩ Toby đang nấu ăn khiến dạ dày của anh sôi sục, quay cuồng. Toby chỉ nấu cho nhà hàng vào những dịp cần thiết, nhưng người đàn ông này biết cách nấu nướng trong căn bếp của mình. Gibson kéo quần lên và mặc chiếc áo phông ít bẩn nhất rồi theo mùi thức ăn xuống nhà, tới nơi phát ra nó. “Vừa kịp lúc. Tôi đang định gọi cảnh sát để áp tải anh đây.” Toby nói, mũi đánh hơi khịt khịt trong không khí. “Anh có mùi như rượu rum kem dừa vậy.” “Tôi dùng dầu gội của Maissa đấy.” Toby đặt một cặp trứng ốp la vào đĩa rồi tưới lên một chút tương ớt. Cái bàn ăn mà Toby để đĩa trứng lên vốn đã bị đè nặng bởi một cái khay đồ ăn có thịt xông khói, xúc xích và khoai tây, bánh mì nướng, dưa vàng và một bình nước cam tươi. Nếu không có những thứ này thì chắc là Gibson sẽ ăn tạm cái áo phông mốc của mình vậy. Gibson và Toby cùng nhau thưởng thức bữa sáng và cảm thấy thời gian trong ngày đang trôi qua cũng chẳng phải là vấn đề gì lớn. Hai người đàn ông ngốn sạch bữa ăn thịnh soạn của Toby ngay tắp lự. Nó hoàn toàn đánh bại hương vị của cái burger kẹp thịt ở trạm dừng xe tải. Người đàn ông này đúng là một đầu bếp thực thụ. Gibson đang ăn dở món trứng ốp la của mình thì mới tình cờ phát hiện ra điều đó. Toby vươn người qua bàn ăn và nắm lấy bả vai của Gibson, không nói lời nào. Lần đầu tiên, Gibson cảm nhận được sự đụng chạm của những con người với nhau sau một khoảng thời gian dài và đặt bàn tay mình lên tay Toby. Rồi bỗng anh thấy Duke lượn lờ ở cửa, đứng nhìn và cái cảm giác đó liền biến mất. “Anh có nghĩ rằng đó là tôi không?” Gibson cất tiếng hỏi khi đống thức ăn đã được ngốn hết. “Người đàn ông mà tôi biết chắc sẽ không bao giờ làm chuyện đó.” Toby nâng cái đĩa lên vét cho sạch, cân nhắc xem sẽ hỏi gì tiếp theo. “Anh có phải…” anh ta hỏi “…là người mà tôi quen biết không?” Đó là một câu hỏi công minh. Đến lượt Gibson ngừng lại trước khi trả lời. “Tôi không biết. Tôi không biết tôi là ai, nhưng tôi không làm chuyện đó. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói với anh.” Toby gật đầu và nhún vai. “Với tôi thế là đủ rồi. Giờ thì đứng dậy và giúp tôi dọn đống bát đĩa này nào.” Khi nhà bếp đã được dọn sạch sẽ, hai người đàn ông đứng lên và đi sang phòng khách để uống cà phê. Toby nói luôn mồm, kể chuyện về nhà hàng và cập nhật cho Gibson biết tình hình gia đình mình. Gibson có thể cảm nhận rõ người bạn của anh đang cố kéo anh ra khỏi mớ hỗn độn trong đầu. “Sao anh không hỏi tôi?” Gibson hỏi. “Anh sẽ tự nói cho tôi biết khi anh sẵn sàng.” “Không biết là khi nào thì tôi sẽ như vậy.” Toby nâng ly cà phê lên và gật đầu: “Một nguy cơ mà tôi sẵn lòng đón nhận.” “Sáng dậy tôi sẽ đi.” “Và anh định làm gì?” Gibson đã lên giường nhưng vẫn còn nằm nghiền ngẫm về câu hỏi của Toby. Anh biết rằng Duke có câu trả lời cho câu hỏi đó, còn Gấu cũng có một câu trả lời khác. Anh hứa với mỗi người họ, có thể cảm nhận được sự nôn nóng của họ và anh chờ đợi xem anh sẽ làm cho ai thất vọng. Anh sợ rằng có lẽ sẽ là cả hai. Một bản năng lạ lẫm mách bảo anh nằm xuống và chờ chết đã thắt lại quanh trái tim. Anh đã nếm trải mọi nỗi thống khổ trong cuộc đời: cái chết của người cha, bị bắt và kết án trước tòa, cuộc hôn nhân đổ vỡ. Anh vẫn luôn tự vực dậy và dấn thân về phía trước, luôn tìm thấy ý chí chiến đấu để thúc giục bản thân tiến lên: những ký ức về người cha, tự do của anh, con gái của anh. Nhưng cảm giác này hoàn toàn khác lạ. Những người thân yêu từng là động lực cho anh chiến đấu giờ đây không còn cần đến anh nữa. Anh hoàn toàn có thể lần theo dấu người vợ cũ và cô con gái của mình, nhưng nhỡ Nicole quá sợ anh và lại biến mất lần nữa cùng Ellie, vậy thì việc đó để làm gì cơ chứ? Nếu anh mất nốt Ellie thì sợ rằng thứ mà tù đày đã tước mất của anh còn nhiều hơn chỉ riêng lương tri nữa. “Đó là lý do mà Washburn phải trả giá.” Duke gầm gừ. “Đó là lý do anh phải tìm Ellie.” Gấu rủ rỉ. Anh đã quen với việc ngủ trên tấm nệm trần, những tấm ga trải giường ở xung quanh anh lúc này bỗng dưng trở thành một cái áo bó. Anh đá chúng ra, cái nọ xoắn vào cái kia, hỗn độn nhưng vẫn không thể nằm thật thoải mái. Anh tắt cái đèn ngủ cạnh giường. Bóng tối bất chợt, nhầy nhụa và đắng ngắt trỗi dậy, bao trùm lấy anh như một đại dương đen. Nó lấp đầy phổi, khiến anh nghẹt thở. Gibson vùng vẫy điên cuồng. Đá cái đèn bay khỏi bàn. Anh bò ra khỏi giường, lổm ngổm trên sàn nhà cho đến khi vớ được cái đèn. Anh bật nó lên, ôm chặt lấy nó, run rẩy và hổn hển. Ngay lúc đó, anh choàng dậy, bật hết mọi ngọn đèn trong phòng lên, mỗi cái đèn bật sáng như thắp lại sự bình tĩnh trong anh. Anh đi vào phòng tắm và tấp nước lên mặt. Khi trở ra phòng ngủ, người cha vẫn đang ngồi trên giường, khuôn mặt lộ rõ vẻ không hài lòng. “Nhìn đi, xem chúng đã làm gì với con.” Gibson quay mặt đi. “Con thật sự không thể nghĩ ra lý do gì đáng để chiến đấu hay sao?” Duke hỏi. “Con thực sự ngã gục, khuất phục trước bọn chúng hay sao? Đó là những gì hắn muốn, con biết mà.” “Ai?” “Tên khốn đã tống con vào căn khám đó. Chẳng lẽ bỏ qua cho hắn ư? Thế còn kế hoạch của chúng ta thì sao? Tất cả những thứ chúng ta đã bàn bạc với nhau?” “Con phải tìm Ellie. Mà, hắn là người của CIA.” “Còn con là một lính Thủy quân lục chiến được trao huân chương và từng tham gia tiêu diệt Bin Laden. Chẳng lẽ con muốn chỉ là một cái chú thích trong cuộc đời hắn thôi sao? Một cái tên mà chắc hắn cũng chẳng nhớ nổi trong khi con thì rơi vào cảnh thập tử nhất sinh? Con chấp nhận như vậy sao?” “Không.” Gibson thừa nhận. “Vậy hãy khiến hắn ta phải nhớ ra con.” Khi Duke đi khỏi, Gibson nằm lăn ra sàn nhà bên cạnh giường, ở đó còn thoải mái hơn nằm trên đệm. Gấu đến và buông mình xuống giường. Cô ấy chăm chú nhìn về phía anh. “Ellie cần anh.” “Em không biết được đâu.” Gibson nói. “Em biết con bé cần anh. Anh không thể để bất cứ thứ gì cản bước anh. Anh phải tìm con bé. Anh đã tìm thấy em. Nhớ chứ?” “Gấu, anh tìm thấy em quá trễ.” Gấu mỉm cười với anh. “Vậy thì nhanh lên.” Gibson thức dậy trong căn nhà trống. Chưa đến bảy giờ sáng nhưng Toby và Sana đã đi đến nhà hàng từ lâu. Gibson từng hỏi Sana rằng làm sao cô ấy có thể làm việc với thời gian biểu như vậy. Cô ấy trả lời rằng công việc sẽ không còn là công việc khi người ta yêu thích nó. Anh hiểu điều cô ấy muốn nói. Cơ thể anh như muốn ngủ thêm nữa, nhưng Gibson phớt lờ và ngồi bật dậy trên sàn. Anh chỉ có thể nghỉ ngơi sau khi tìm thấy Ellie. Anh đi tắm thêm lần nữa, đơn giản chỉ để đắm chìm trong làn nước ấm. Anh ăn mặc y nguyên như tối hôm trước. Giặt sạch quần áo không phải là việc ưu tiên trong sáng nay. Có quần áo sạch vừa lấy ra khỏi máy sấy để mặc tất nhiên là một cái gì đó quá ư sang trọng, nhưng anh phải chấp nhận vậy. Anh cảm thấy bình thường một cách đáng ngạc nhiên; có lẽ, lần tắm giặt hôm trước và bữa sáng ngon lành với một người bạn là tất cả những gì cần có để khởi động lại. Từ lúc ngủ dậy tới giờ, anh vẫn chưa thấy Duke hay Gấu, và anh coi đó là một dấu hiệu tốt lành, rằng anh đã sẵn sàng bỏ tất cả những thử thách lại phía sau. Lòng đầy lạc quan, anh bước xuống cầu thang thì nhìn thấy Duke đang ngồi đó đọc sách. Vậy có nghĩa là anh vẫn chưa hẳn sẵn sàng để được nhận tờ giấy chứng nhận sức khỏe tốt của bác sĩ. Qua tờ báo, người cha nhìn Gibson đang cắm dây nguồn máy tính. “Con sẽ không truy đuổi…Washburn.” Gibson nói. “À ta đã nghe thấy rồi.” “Cha có biết tại sao không?” “Hê, đây là cuộc đời con mà, nhóc ạ.” Gibson cũng không hy vọng cha mình sẽ dễ dàng từ bỏ. “Thực ra như thế có chút thấp kém.” Duke nói. Nó đến rồi đây. “Gì cơ ạ?” “Ta từng là Chánh văn phòng cho một Thượng Nghị sĩ. Ta đã từng thương thảo với những nhà hoạt động xã hội về mấy chuyện giảm thuế cho người giàu, rồi thì… với mấy nhà truyền giáo bỏ phiếu chống lại chuyện cầu nguyện ở trường học. Ấy thế mà giờ ta không thể cãi lại một thằng nhóc. Ta đã trượt sang bên kia sườn dốc cuộc đời rồi.” “Cha sẽ không làm như vậy nếu cha là con ư?” Gibson hỏi. “Ta nói rồi đấy, đó là cuộc sống của con. Ta chỉ là một kẻ đã chết, một kẻ mà cả thế giới vẫn nghĩ là tự tử vì chán sống. Vậy thì ta biết được gì chứ?” Gibson quyết định sẽ không tranh luận. Anh đã tuân theo hành trình của chuyến đi lầm lạc này trong suốt mười tám tháng qua rồi. Thay vào đó, anh chỉ tay vào tờ báo đang trải trên bàn. “Liệu con có thể…” “Ồ, cứ tự nhiên, đừng để ta bước vào lối con đi.” Duke cầm tờ báo đi sang một phòng khác. Gibson thở phào khi chiếc laptop khởi động lên được luôn, bất chấp đã nằm im trên kệ suốt mười tám tháng. Anh bẻ khóa mật khẩu wi-fi của nhà hàng xóm và đăng nhập vào e-mail của mình, cố tìm thông tin từ Nicole. Anh thấy rất nhiều, nhưng tất cả đều là thông tin trước ngày xảy ra vụ hỏa hoạn. Trước vụ cháy đó, dòng thư hồi đáp giữa hai người diễn ra rất đều đặn. Rồi sau đó thì chẳng có gì nữa. Tắt ngấm như đài hết giờ. Quá thất vọng với sự thật đó, với một sự tò mò bệnh hoạn kỳ dị, anh tìm kiếm trên Google thông tin về chính mình. Trong thời gian anh vắng mặt, những giả thuyết về việc anh dính líu tới cái chết của Phó Tổng thống Benjamin Lombard ngày càng nhiều lên. Americanjudas.com - một trang web chuyên dựng chuyện và cũng là trang đầu tiên đưa ra những bằng chứng xác định Gibson ở Atlanta - tiếp tục là kẻ đi đầu cáo buộc anh. Nó mô tả rằng Gibson, một cựu lính thủy, chính là Lee Harvey Oswald thứ hai, vốn có mối thâm thù vô cớ với Benjamin Lombard suốt hơn một thập kỷ. Nhưng theo những gì American Judas nói, Gibson chỉ là một con tốt đen - kẻ bóp cò súng - trong một âm mưu tinh vi nhằm thay đổi cục diện bầu cử tổng thống. Thật là phi lý hết mức, đến nỗi Gibson chỉ còn biết lắc đầu. Sự thật vừa đơn giản hơn thế và cũng tồi tệ hơn thế. Không có chi tiết nào đề cập đến Niobe, West Virginia, hay Charles Merrick, nhưng vụ cháy và sự biến mất sau đó của Nicole và Ellie Vaughn thì được mô tả tỉ mỉ. Những bằng chứng khác nữa cho thấy điều gì đó rất bất chính đã xảy ra ở Atlanta. Một bản phác thảo lộ trình di chuyển trong năm ngoái đã định vị Gibson ở khắp nơi từ Las Vegas chơi bài cửu, đến Victoria, British Columbia, nơi anh ta ăn Oreos trên một chuyến phà. Gớm ghiếc, anh nghĩ, chúng biến anh thành Bigfoot cơ mà. Chúa ơi, mong rằng Ellie đừng thấy những thứ rác rưởi này trước khi con bé đủ khôn lớn để hiểu mọi chuyện. Gibson đóng trình duyệt web lại, đã đến lúc phải làm việc rồi. Máy tính là một thứ gì đó tôn nghiêm đối với anh từ khi còn là một cậu bé. Chúng luôn có ý nghĩa với anh về mặt trực giác và trò bẻ khóa ban đầu vốn chỉ là một bài tập trí tuệ trừu tượng mà thôi - đột nhập vào các mạng lưới đơn giản chỉ như giải một câu đố. Chìm đắm vào thứ công việc mà anh có thể kiểm soát được trong lúc cuộc đời đang như một mớ hỗn loạn khiến anh tỉnh táo. Anh nghĩ rằng bất cứ ai giỏi một cái gì đó đều cảm thấy giống như thế. Nó cũng có ảnh hưởng tương tự với anh ngay lúc này, và, khi anh chạy chương trình chẩn đoán, rồi cập nhật các ổ cứng và hệ điều hành của chiếc máy, một thứ gì đó về Gibson Vaughn của ngày trước hiện trở lại. Thị giác của anh dần rõ ràng hơn khi nhìn vào những góc cạnh, và màn khói mù như bụi xịt của bình chữa cháy vốn bao phủ đầu óc anh từ từ biến mất. Anh hối thúc mình ngày càng nhanh hơn, thích thú với những cảm giác dứt khoát và say sưa trong niềm yêu thích công việc. Duke và Gấu chắc hẳn cũng nhận thấy những điều đó vì họ đã biến đi đâu mất tiêu. Ba mươi năm trước, người ta có thể biến mất ngay trong nước Mỹ và rồi tái sinh ra một thân phận khác. Giờ thì việc đó đòi hỏi phải có tính toán kỹ lưỡng và chắc chắn không bao giờ được kết nối trở lại với cuộc đời cũ. Trên hết, sự hấp dẫn của Internet là quá lớn, khó có thể kháng cự - thúc giục chúng ta tìm kiếm thông tin về bản thân trên Google, hay tìm kiếm trên Facebook những người mà mình đã bỏ lại phía sau. Sự thật đơn giản là chẳng có thứ gì gọi là bắt đầu một cuộc đời mới cả. Thứ tốt nhất mà người ta có thể làm là tạo ra một thương hiệu mới thuyết phục cho bản thân. Một lớp sơn hoàn toàn mới, tất cả chỉ có thể. Người ta có thể thay tên. Người ta có thể đổi mặt. Nhưng không ai có thể thay đổi con người bên trong được, con người bên trong đó vẫn còn nguyên những ham muốn và ao ước, những thói quen và khẩu vị, những điểm mạnh và điểm yếu. Khi Gibson đã chấp nhận rằng anh sẽ không thể tìm thấy dấu vết của Nicole hay Ellie Vaughn, anh trở lại với những gì anh đã hiểu về người vợ cũ. Cô ấy là một người đọc sách cuồng nhiệt, và vẫn sẽ chẳng có gì khác dù cô ấy đổi tên thành gì đi nữa. Trong hơn chục năm qua, tính ra Nicole đã đánh giá đến cả ngàn cuốn sách trên Goodreads, một trang web dành cho những người yêu thích đọc sách. Cô ấy làm nhà phê bình cho hàng loạt tiểu thuyết gia và nhận đọc những bản sơ thảo của các cuốn tiểu thuyết mới. Mạng lưới những người theo dõi cô ấy thường đọc những đánh giá của cô ấy và tin tưởng những gợi ý từ cô. Mặc dù không thể tìm thấy hồ sơ ban đầu của cô ấy trên Goodreads, Gibson chắc như đinh đóng cột rằng cô ấy sẽ chỉ thay đổi tên tài khoản của mình chứ không xóa toàn bộ. Người vợ Nicole mà anh hiểu rõ hẳn sẽ vô cùng khổ sở nếu bỏ đi tất cả tâm huyết của mình khi làm như thế. Dựa vào linh cảm, anh lục tìm trong vô vàn những đánh giá sách trên trang đó, hòng cố tìm được cái gì đó nghe thật quen. Một tài khoản thuộc sở hữu của một người có tên “Gwen Hodges” thu hút sự chú ý của anh - thể loại tương tự và giờ có khoảng gần hai ngàn đánh giá. Cô ấy quả nhiên đã đọc và viết rất nhiều đánh giá trong thời gian anh vắng mặt. Nhưng chính những đánh giá đó mới là điểm mấu chốt. Nicole có một phong cách viết độc nhất vô nhị, và hồi họ còn ở với nhau, Nicole thường đọc to những đánh giá của mình cho anh nghe trước khi đăng lên mạng. Giờ thì anh có thể nghe thấy chất giọng của Nicole trong văn phong của Gwen Hodges. Anh tiếp tục đọc cho đến khi cảm thấy chắc chắn. Tiếp đó, Gibson tìm kiếm trang web của các công ty kết nối quan hệ công chúng ở Manhattan, nơi thường đăng tải hình ảnh của nhân viên công ty họ. Sự chú ý của anh tập trung vào một cộng sự trẻ có tên Anne DeWitt. Khuôn mặt của Anne hiện rõ sự tốt bụng và cởi mở. Bước tiếp theo, anh làm giả một địa chỉ e-mail mạo danh Anne và trông có vẻ như được gửi đi từ công ty của cô này. Sau đó, anh dùng e-mail giả đó, viết một lá thư mô tả những cố gắng kết nối với Nicole. Anne “giả” có trong tay bản thảo truyện kinh dị của một tác giả mới ra mắt đầy tiềm năng và muốn gửi cho Nicole bản sơ thảo để Nicole đánh giá. Gibson viết nháp ba lần, sửa chữa văn phong và từ ngữ, rồi gửi e-mail cho mẹ của Nicole. Làm trò lừa đảo qua mạng internet với một người phụ nữ đã sáu mươi tuổi khiến Gibson cảm thấy tồi tệ hơn cả một trò bẩn. Cha mẹ Nicole không hiểu gì nhiều về công nghệ và họ chỉ mới miễn cưỡng bước sang thế kỷ 21 mà thôi. Anh có thể nghĩ ra hàng chục cách để hack địa chỉ của họ, nhưng lừa bịp qua thư có vẻ mang đến ít sự xâm phạm nhất. Anh không muốn xâm phạm vào cuộc sống của mẹ Nicole quá mức cần thiết. Họ chưa bao giờ chào đón anh và hành động này đã chứng tỏ mọi thứ đúng như họ đã luôn nghĩ về anh. Duke đi ngang qua nhà bếp và khen ngợi người con về hành động hào hiệp đó. “Con thật là cao quý đây. Đúng là nguồn cảm hứng chết tiệt giữa lúc tối tăm như thế này.” Gibson chẳng có lời gì để đáp lại. Anh cảm thấy tội lỗi khi hack Nicole, và anh vật vã tìm lấy thứ gì đó để cho mình không giống một tên theo dõi trộm. Để tách mình khỏi nhóm những tên chồng cũ bị ghẻ lạnh xuất hiện nhan nhản trên bản tin, những kẻ tìm mọi cách bám víu vào cuộc đời của những người sẽ sống tốt hơn mà không có họ. Gấu biện luận rằng việc làm lần này là hoàn toàn khác. Rằng Nicole đã bỏ chạy vì một sự hiểu nhầm - cô ấy nghĩ rằng Gibson đã phóng hỏa căn nhà. Một khi cô ấy biết rằng đó chỉ là sự hiểu nhầm, mọi thứ sẽ trở lại bình thường. Lời lẽ của Gấu nghe thật xuôi tai, và hẳn là Chúa cũng biết, Gibson muốn mình bị thuyết phục bởi những lời ấy. Anh nhớ con bé Ellie khủng khiếp. Máy tính hiện lên thông báo có thư điện tử mới đến. Mẹ Nicole đã cắn câu. Với sự cẩn trọng của mình, bà Elizabeth Anne đã không hé miệng nói ra địa chỉ của con gái mình với một người lạ trên mạng Internet. Ít nhất là khi hai bên chưa hề gửi thư nói chuyện qua lại với nhau lần nào. Họ trao đổi thư từ qua lại cả buổi chiều. Mẹ Nicole không ngừng đặt câu hỏi cho “Anne”. Gibson giữ nhịp nói chuyện thật thư thả và lạc quan, cứ khoảng ít nhất ba mươi phút mới trả lời. Không thể tỏ ra quá háo hức được, và khi nhịp nói chuyện có vẻ đã bắt đầu giãn ra, anh gửi một thư trả lời thật ngắn rồi im bặt, không trả lời thư tiếp theo của bà cụ nữa. Anne DeWitt là một người bận rộn và có nhiều thứ hay ho để làm hơn việc đi xin xỏ một người bình sách nghiệp dư xem sách cho mình. Hai giờ trôi qua. Gibson nín thở cho đến khi một lời nhắn xin lỗi được gửi tới cùng với địa chỉ một hòm thư bưu tín thuộc vùng ngoại ô Seattle. Gấu nhảy nhót sung sướng quanh bếp. Hòm thư bưu tín quả là một động thái khôn ngoan - một bức tường lửa nữa bảo vệ Nicole khỏi thế giới bên ngoài. Nhưng không phải với Gibson. Một cuộc điện thoại khoảng chừng năm phút với người quản lý bưu cục ở Seattle đã giúp anh lấy được tên của chủ sở hữu hòm thư - Gwen Hodges. Con người luôn là mắt xích yếu nhất của bất kỳ hệ thống an ninh nào. Anh gác máy và quay lại làm việc. Một giờ sau, lúc Toby về đến nhà thì Gibson đang dán mắt vào căn nhà của Gwen Hodges trên Google Street View, mưu tính cho bước tiếp theo. Sau khi tìm được dấu vết của Nicole, anh mới bắt đầu nhận ra rằng hóa ra đó lại là phần dễ nhất. Tiếp cận được với cô ấy lại là một câu chuyện hoàn toàn khác và anh chẳng thể nghĩ ra được phải bắt đầu như thế nào. Không thể lấy cớ có công chuyện tình cờ mà gặp nhau như cách mà anh đã làm với người quản lý bưu cục được. Sẽ phải hành xử theo cách thật nhất, mà sự thật đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc sắp xếp các sự việc ra sao. “Anh vẫn ở đây à?” Toby nói, cố giữ cho giọng của mình nghe vừa mỉa mai vừa vui mừng trong cùng một câu. “Sáng mai tôi sẽ đi.” “Đủ rồi đấy. Xin cậu.” Toby tán chuyện với Gibson trong vài phút, vẫn giữ được thái độ thật đáng ngưỡng mộ khi cố giả vờ rằng con quỷ tóc dài đang ngồi trong bếp nhà anh ta, theo cách nào đó, vẫn là một người bình thường. Một trong những nhân viên của Toby có vợ đang mang bầu. Và tình huống lầm tưởng cô vợ mang bầu ấy vỡ ối buộc Toby phải đến thay ca làm của anh chồng kia vào lúc nửa đêm. Chuyện đó khiến Toby vẫn chưa lấy lại được trạng thái tỉnh táo nhất. Toby cáo lỗi vì phải đi xử lý công việc. Sau đó ít phút, anh ta trở lại. “Tôi phải mang đồ đi giặt là.” Toby nói, tay nhấc cái túi xách vải thô của Gibson lên. “Tôi xử lý tất cả mấy thứ trong túi đồ này của anh luôn nhé?” “Nếu mà cái lò đốt đồ thừa nhà anh đầy rồi thì cứ tự nhiên.” “Đồng ý.” Toby nói rồi rời đi, để anh lại một mình trong bếp tiếp tục mưu tính việc Nicole. Sáng nay, Gibson đã trải qua một cơn giận dữ mà anh tự cho là chính đáng. Anh mường tượng thấy cảnh gặp Nicole mặt đối mặt. Cô ấy đã đánh cắp con gái khỏi tay anh trong khi anh chẳng hề làm gì sai cả. Nhưng sau một ngày theo dấu vợ cũ trên mạng, lương tâm anh cắn rứt và giờ anh chẳng biết nên làm thế nào. Có trong tay địa chỉ của cô ấy, anh có thể đặt vé đến Seattle và gặp cô ấy ngay tại ngôi nhà đó. Nhưng dù cố thế nào, anh vẫn không thể nghĩ ra được cách để giải thích rằng đó không phải là một hành động vụng trộm sau lưng. Anh đang hy vọng đạt được cái gì chứ? Sẽ chẳng có gì khác ngoài việc khiến cho một người phụ nữ vốn đã đủ sợ hãi phải sợ hãi thêm, đến mức cô ấy phải yêu cầu một lệnh cấm gặp từ tòa cũng như khiến cho mọi nghi ngờ của cô ấy về anh được chứng thực. E-mail, anh nghĩ, có lẽ là một lựa chọn an toàn hơn. Anh sẽ có đủ thời gian để định hình suy nghĩ của mình. Đó sẽ là cơ hội tốt nhất cho anh giãi bày rằng thủ phạm phóng hỏa căn nhà không phải là anh. Như thế sẽ tốt hơn nhiều so với việc đột ngột xuất hiện trước cửa nhà cô ấy mà không báo trước. Vấn đề là anh cần một địa chỉ e mail để gửi cho cô ấy. Cố gắng mọi cách, anh vẫn không thể tìm ra một e-mail hợp lý. Chẳng có gì phải nghi ngờ chuyện cô ấy biết thừa rằng anh sẽ tìm cô ấy. Thế rồi Gibson bỗng nhớ ra cái địa chỉ e-mail khẩn cấp trước kia mà hai người họ đã tạo ra khi anh phải đi thực hiện nhiệm vụ. Đó là một tài khoản e-mail vô danh mà không hề liên quan tí gì đến e-mail của bất kỳ người nào trong số họ và cũng cái tài khoản ấy, chưa có một lần nào nó được sử dụng đến. Trong tình huống khẩn cấp, bất kỳ người nào cũng có thể gửi một thư điện tử đến chính địa chỉ e mail đó, tạo ra một vòng tin nhắn kín. Nếu cô ấy chưa hủy kích hoạt nó, anh có thể liên hệ được với cô ấy qua cách này. Anh đăng nhập vào tài khoản đó để soạn một tin nhắn cho cô ấy. Trong hộp thư đến, anh thấy một thư chưa mở, có ngày gửi cách vụ hỏa hoạn sáu tuần; dòng chủ đề có chữ “Gibson”. Anh bỏ tay khỏi bàn phím như thể anh sợ lỡ tay mở chiếc hộp Pandora ra. Anh đi ra bồn nước, tấp nước lên mặt - việc đó chỉ có tác dụng vào tối hôm trước, còn giờ thì nó chỉ làm mặt anh ướt nhoẹt - rồi quay trở lại bàn bếp và đọc tin nhắn của Nicole: Ellie an toàn. Em hy vọng anh cũng thế. Mặc dù việc anh vẫn chưa liên hệ lại với em khiến em không khỏi nghĩ đến tình huống xấu nhất. Em cầu nguyện mọi chuyện không phải như vậy, nhưng em vẫn không thể hình dung nổi lý do khiến anh biệt tăm là gì. Cảnh sát đã xác nhận vụ cháy căn nhà là một âm mưu phóng hỏa. Em không muốn tin như vậy, nhưng không ai hỏi ý kiến em. Họ xác định anh là nghi can trong cuộc điều tra. Việc anh biết rằng em không tin anh có động cơ gì liên quan đến vụ cháy là vô cùng quan trọng với em. Em đã nói vã bọt mép với cảnh sát rằng họ đánh giá sai về anh rồi và rằng những gì họ phác thảo trong hồ sơ về anh là hoàn toàn không đúng với con người thật của anh, nhưng họ chẳng thèm đếm xỉa đến lời em nói. Em không tin anh là người phóng hỏa nhưng em tin vụ hỏa hoạn đó là vì anh. Em nghĩ có chuyện rắc rối gì đó mà anh tự gây ra cho chính mình trong hai năm qua đã theo dấu anh đến chỗ con gái anh và gây ra hành động phóng hỏa căn nhà của nó thành tro. Vì thế, em không trách anh vì chuyện đã xảy ra nhưng em cũng sẽ không bao giờ tha thứ cho anh. Không ai dí súng vào đầu anh. Anh đã chọn con đường đi này vì những lý do ích kỷ của chính anh và anh là một người đàn ông có thừa sự thông minh để biết rằng sẽ có những hệ quả khôn lường khó tránh vì lựa chọn đó. Gibson, em không nghĩ anh là một người đàn ông xấu xa, nhưng anh không tốt với con gái mình. Em không biết anh còn sống hay đã chết, nhưng em vẫn phải đưa con đi đến nơi mà những kẻ muốn hại anh không thể đụng đến con bé. Nếu anh còn là một người đàn ông như em từng biết khi chúng ta cưới nhau, anh sẽ hiểu điều đó và sẽ giúp em bảo vệ con bằng cách tránh xa nó ra. Em đoán rằng anh sẽ tìm mẹ con em nếu anh muốn; em xin anh đừng cố. Vì Ellie, anh phải để con bé rời xa anh. Hãy cho con một cơ hội được sống một tuổi thơ an lành và bình dị. Hãy tin rằng em sẽ chăm sóc con thật tốt và tránh xa ra. Làm ơn. Gibson đứng dậy và lùi xa khỏi chiếc máy tính. Không thể đứng vững được, anh đi qua đi lại ở trong phòng, bất lực không tìm ra được lý lẽ phản biện nào để cãi lại cô ấy. Hoàn toàn mất phương hướng, không nghĩ ra được thứ gì, nên làm sao. Ở một khía cạnh trần trụi nhất, anh sợ rằng lá thư điện tử của Nicole là thứ gì đó thật nhất và đúng nhất mà anh từng thấy. Anh không tìm thấy sai sót nào trong lý lẽ của Nicole, rằng vụ hỏa hoạn có liên quan đến anh. Gấu nhìn anh đầy thương cảm: “Anh phải trả lời.” “Để nói gì nữa? Cô ấy đúng mà.” “Cô ấy không thể làm vậy.” Gấu nói. “Ellie cần anh.” Gibson không chắc là Gấu có bị phán đoán lệch với tình huống hay không. Những lý do khiến anh đi tới Seattle đều là những lý do ích kỷ. Ellie sẽ khiến anh cảm thấy như được sống. Ellie sẽ yêu quý anh. Ellie sẽ cứu rỗi anh. Chăm lo cho một người cha không phải là trách nhiệm của một đứa trẻ mới có chín tuổi. Và ngược lại, anh có thể làm được gì cho con gái mình chứ? Anh dừng lại trước một bức ảnh của Toby và Sana cùng cô con gái của họ. Gibson lấy nó xuống, chắc là để nhìn rõ hơn hoặc để đập nó ra thành từng mảnh nhỏ. Nếu có bao diêm trong tay, chắc anh sẽ đốt cái gia đình hoàn hảo trong bức ảnh đó của họ thành tro bụi. Chợt anh nghe thấy tiếng bước chân của Toby đi lên gác, cổ họng anh tắc lại không thở được. Dùng cả hai tay, anh treo bức ảnh trở lại lên tường, tự trừng phạt mình vì đã nghĩ như vậy về người bạn của anh. Nhưng cơn giận dữ quen thuộc trong quá khứ đã thổi bùng trở lại trong lòng anh. Một hòn than cháy âm ỉ trong đống tro tàn. Cũng chính là cơn giận dữ mà anh đã đổ lên đầu tên Thượng Nghị sỹ Benjamin Lombard sau cái chết của cha mình và cũng chính cơn giận đó đã cuốn anh vào cuộc truy lùng mớ tài sản bị đánh cắp của Charles Merrick. Cơn giận dữ đã giam hãm anh suốt mười tám tháng trong căn khám cô tịch. Toby và Sana không phải là người phải hứng chịu cơn giận đó, nhưng Gibson biết kẻ phải chịu tội là ai. Tên khốn CIA đã ra lệnh bắt anh ở Sân bay Dule Tree. Damon Washburn. Trong tâm khảm, Gibson hiểu rõ rằng nếu CIA không bắt anh vào tù, bằng một quy trình tư pháp vô lý, anh đã có thể có mặt ở nơi này để ngăn chặn kẻ phóng hỏa, hoặc ít nhất là kéo mọi sự nguy hiểm về phía mình, thay vì để nó hướng vào Nicole và Ellie. Damon Washbum phải chịu trách nhiệm cho điều đó. Ở nơi nào đó, hẳn là hắn ta đang sống sung túc, sau khi đã đá bay Gibson như gạt một vết bẩn trên gót giày. Chuyện đó giờ phải khác. Gibson muốn Damon Washburn phải lo nghĩ về anh nhiều như những gì mà anh lo nghĩ về hắn. Toby đi vào bếp. Anh ta cầm một cái đồng hồ đeo tay. Trông có vẻ đắt tiền. Toby nhìn Gibson bằng ánh mắt đầy thắc mắc và giơ nó về phía anh. “Nó ở trong đống quần áo bẩn của anh. Nó là của anh à?” Gibson cầm lấy chiếc đồng hồ và nhìn nó. Anh thấy nó ở sảnh tầng năm của khách sạn Wolstenholme, Niobe. Cảnh tượng lúc đó hỗn loạn và đẫm máu nên anh đã nhét chiếc đồng hồ vào túi, không một chút do dự. Chắc chắn nó vẫn còn trong túi khi Damon Washburn tóm cổ anh ở sân bay. Giờ thì Gibson đang nhìn nó. Trông có vẻ đắt tiền, nhưng Gibson không coi trọng một thứ như thế. Anh nhớ là có một dòng chữ khắc trên mặt sau. Anh lật lên, đọc thấy dòng chữ “Merrick Capital 1996-2006”. Kế hoạch trả thù Damon Washbum cần có tiền và chiếc đồng hồ này sẽ giúp anh thu về một khoản tiền lớn từ tay một nhà sưu tập đồng hồ nào đó. Vấn đề đã được giải quyết. Gibson mỉm cười với chính mình. Quả là một sự cân xứng mâu thuẫn khi Charles Merrick lại hậu thuẫn tài chính cho anh thực hiện kế hoạch nhắm tới Damon Washburn. “Ngày mai tôi mượn anh cái xe được không?” Gibson hỏi Toby. “Đi đâu à?” “Chắc tôi phải cắt tỉa một chút.” Anh nói. “Chà, có lẽ là chỉ cần một chút phía trên thôi nhỉ,” Toby làm bộ nghiêm túc góp ý. “Tôi nghĩ là nó có thể chải được.” Gibson cảm ơn anh bạn, sau đó Toby trở lại với việc nhà của mình. Duke hiện ra. “Cuối cùng thì con đã sẵn sàng làm những việc phải làm rồi chứ?” Gibson nói: “Sao cha không nói trước với con chuyện Nicole chứ?” “Nhóc, tất cả những điều cha cố làm là cảnh báo con. Con phải tự thấy trước sự việc chứ?” “Cha là đồ chết dẫm.” “Một trong hai chúng ta là đồ chết dẫm.” Duke nói. “Cha thực sự nghĩ là chuyện đó sẽ thay đổi thật sao?” “Con là một người hoàn toàn mới rồi.” “Được rồi.” Gibson đầu hàng. “Nói tên hắn đi.” “Damon Washburn.” “Đúng rồi.” Duke nói. “Giờ thì khiến hắn phải nhớ đến con đi.” Lại thêm một đêm nữa trên sàn nhà, Gibson vẫn để đèn sáng. Sớm hôm sau, anh đã thấy giỏ đồ giặt là với đống quần áo sạch đặt bên ngoài cửa phòng. Một chiếc áo dạ mùa đông và một chiếc áo len được treo trên tay cầm cửa. Toby để lại một mẩu tin nhắn với chìa khóa xe ô tô và một trăm đô. Trong tin nhắn, Toby khuyên anh để kiểu tóc buộc túm và viết địa chỉ của quán cắt tóc. Ở đoạn cuối mẩu tin nhắn ghi, “Đến thăm và ôm chào Sana sau khi tân trang nhé. Cô ấy gửi lời hỏi thăm tới anh.” Trong khi anh còn đang cân nhắc những lựa chọn cho tương lai, Toby và Sana đã đưa ra lý lẽ thuyết phục, hút anh về hướng đi hòa nhập trở lại với cuộc đời. Còn Damon Washburn thì lộ rõ nguyên hình bản chất vắt chanh bỏ vỏ sau tất cả những khổ đau đã gây ra cho anh. Thật không may, mặc dù anh vô cùng trân quý gia đình Kalpar, nhưng anh không thể giống như họ được. Giữa hai con đường đó, chỉ có Damon Washburn mới cho anh một mục đích để đi tiếp. Gibson sẽ cảm ơn Washburn vì điều đó khi họ gặp nhau. Gibson lật ngược lại tờ ghi chú của Toby và liệt kê những thứ lặt vặt cho lộ trình của mình. Những thứ mà anh sẽ cần cho cuộc đi săn. Bước một: cho dù anh không còn cảm thấy như ở nhà mình trên cõi đời này nữa thì anh cũng cần gửi gắm lại thân xác cho ai đó còn sống. Anh không nên đi quá xa với cái hình dáng trông như vừa trốn thoát khỏi một trại tị nạn như thế này. Chiếc áo dạ và áo len của Toby có cái ống tay thật dài nhưng Gibson lại thích thú khi mặc vào. Anh lấy tiền và chìa khóa xe rồi gói gém túi xách vải thô. Anh sẽ không ngủ thêm một đêm nữa dưới mái nhà của họ. Toby và Sana coi anh như một người đang trong quá trình tái hòa nhập cuộc sống, còn anh thì không muốn bản thân mình tái hòa nhập tí nào. Damon Washburn sẽ phải trả giá; và Gibson, ngược lại, cũng sẽ chấp nhận trả giá để đạt được điều đó. Gấu hắng giọng: “Còn Ellie thì sao? Anh đã hứa sẽ chăm sóc con bé cơ mà?” “Tôi sẽ.” “Anh đang bỏ cuộc. Đồ tồi! Anh làm cha cái kiểu quái gì vậy chứ?” “Một người cha tồi.” “Anh đã hứa cơ mà. Sao anh lại làm như này?” Gấu khoanh tay, đợi câu trả lời, và dậm chân khi thấy anh chuẩn bị rời đi thay vì trả lời câu hỏi. “Em ghét anh.” “Ừ.” Gibson nói. “Anh cũng ghét chính mình.” Gibson bắt đầu lái xe từ lúc mười ba tuổi và việc ngồi sau vô lăng xe của Toby khiến anh cảm thấy mình như một cậu bé mười ba. Anh lượn một vòng quanh dãy nhà vài lần, cho đến khi cảm thấy quen với chiếc xe đó. Tiệm cắt tóc Arlington pha trộn hài hòa giữa phong cách xưa cũ và sự đa văn hóa. Những người đàn ông gốc Hy Lạp đảm nhiệm ba trong số sáu ghế cắt đã ở vào tuổi sáu mươi, chiếc ghế thứ tư đặt dưới bàn tay chăm sóc của một phụ nữ gốc Philippines, chiếc thứ năm do một thanh niên gốc Phi với nụ cười nồng hậu trên môi đứng cắt và chiếc cuối cùng thuộc về một phụ nữ đẫy đà gốc Brazil đang vừa làm vừa hát. Năm trong số sáu chiếc ghế đó đã có người ngồi và còn một vài khách đang đợi để được cắt định kỳ. Các vị khách lẫn nhân viên tiệm tóc đều ngừng lại khi Gibson xuất hiện trong bộ dạng kỳ quặc trên ngưỡng cửa và còn đang vật lộn với sự xấu hổ muốn bỏ đi. Một thợ cắt Hy Lạp đang nằm dài trên ghế, đọc mục tin tức thể thao trên tờ Post, huýt sáo một cách vui sướng trước sự hiện diện của vị khách trên ngưỡng cửa. “Chúa gửi cho chúng tôi một người thông thái.” Người thợ tóc nói. “Anh từ phương Đông mang đến cho chúng tôi tin tốt lành gì đây, anh bạn?” Cả tiệm tóc rộ lên những tiếng cười. “Và chuyện gì đã xảy ra với hai người bạn của anh?” Một thợ tóc khác nói, nối tiếp mạch câu chuyện cười. “Trầm hương ở đâu rồi?” Người thứ ba tiếp lời. Khi người thợ tóc thấy Gibson không bước vào, anh ta ngồi nhổm dậy và ra hiệu mời ngồi vào chiếc ghế. “Vào đi cho khỏi lạnh, anh bạn. Vào đây. Xin mời ngồi.” Cả tiệm tóc trầm xuống trở lại với nhịp sống khi Gibson ngồi xuống ghế. Người thợ tóc choàng tấm vải quanh người Gibson và nhìn ngắm vị khách trong gương. Anh ta lấy lược chải một đường lên mớ tổ quạ trên đầu Gibson nhưng không được. “Tóc của anh cần chăm sóc đặc biệt, anh bạn. Anh muốn cắt thế nào?” “Cao và gọn.” Gibson trả lời. Người thợ không hiểu nên Gibson giơ ngón tay cái và ngón trỏ lên, cách nhau một khoảng một phân để ra hiệu. “Dài chừng này.” Anh thu hẹp hai ngón tay lại cho đến khi chúng gần chạm nhau. “Hai bên chừng này.” “Còn bộ râu?” “Cạo sạch.” Người thợ gật đầu đồng ý. “Một khởi đầu mới. Sau cùng thì anh vẫn là người thông thái.” Người thợ cắt tóc bắt đầu công việc của mình, tóc rơi xuống những mớ dài như lúa mì mùa đông ngả xuống dưới lưỡi liềm và một gương mặt mà Gibson thấy quen đang dần hiện ra. Khi bộ râu chỉ còn lún phún, người thợ ngả ghế ra và thoa một lớp bọt ấm lên mặt anh rồi cạo bằng một con dao cạo thẳng. Người thợ giơ một chiếc gương lên để Gibson ngắm tác phẩm bằng tay của anh ta. “Quả là một sự lột xác,” Người thợ nói. “Rất đẹp trai.” Gibson nhìn khuôn mặt hốc hác trong gương. Anh đã sụt cân rất nhiều nhưng trông văn minh. Gần như vậy. Vết sẹo chạy dài trên cổ từ tai này đến tai kia khiến anh có nét đáng sợ. Và nó khiến anh dễ gây ấn tượng, chắc sẽ phải để bộ râu mọc dài trở lại thôi. Nhưng để râu ria sạch sẽ một ít ngày hẳn cũng rất dễ chịu. Ngón tay anh lần theo vết thương cũ đã thành sẹo - một dấu hiệu trường tồn gợi nhắc cho anh biết cái chết đã cận kề tới mức nào trong tầng hầm dưới căn nhà tuổi thơ của anh và cái gã đã cố treo cổ anh ở nơi đó. """