"
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 10 PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 10 PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”.
“Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”.
“Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”.
Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”.
LỜI NÓI ĐẦU CỦA BỘ SÁCH
“SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI” (CREATIVITY AND INNOVATION)
Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (viết tắt là PPLSTVĐM, tiếng Anh là Creativity and Innovation Methodologies) là phần ứng dụng của Khoa học về sáng tạo (Sáng tạo học, tên cổ điển – Heuristics, tên hiện đại – Creatology), gồm hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể giúp nâng cao năng suất và hiệu quả, về lâu dài tiến tới điều khiển tư duy sáng tạo (quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định) của người sử dụng.
Suốt cuộc đời, mỗi người chúng ta dùng suy nghĩ rất nhiều, nếu không nói là hàng ngày. Từ việc trả lời những câu hỏi bình thường như “Hôm nay ăn gì? mặc gì? làm gì? mua gì? xem gì? đi đâu?...” đến làm các bài tập thầy, cô cho khi đi học; chọn ngành nghề đào tạo; lo sức khỏe, việc làm, thu nhập, hôn nhân, nhà ở; giải quyết các vấn đề nảy sinh trong công việc, trong quan hệ xã hội, gia đình, nuôi dạy con cái..., tất tần tật đều đòi hỏi phải suy nghĩ và chắc rằng ai cũng muốn mình suy nghĩ tốt, ra những quyết định đúng để “đời là bể khổ” trở thành “bể sướng”.
Chúng ta tuy được đào tạo và làm những nghề khác nhau nhưng có lẽ có một nghề chung, giữ nguyên suốt cuộc đời, cần cho tất cả mọi người. Đó là “nghề” suy nghĩ và hành động giải quyết các vấn đề gặp phải trong suốt cuộc đời nhằm thỏa mãn các nhu cầu chính đáng của cá nhân mình, đồng thời thỏa mãn các nhu cầu để xã hội tồn tại và phát triển. Nhìn dưới góc độ này, PPLSTVĐM giúp trang bị loại nghề chung nói trên, bổ sung cho giáo dục, đào tạo hiện nay, chủ yếu, chỉ đào tạo các nhà chuyên môn. Nhà chuyên môn có thể giải quyết tốt các vấn đề chuyên môn nhưng nhiều khi không giải quyết tốt các vấn đề ngoài chuyên môn, do vậy, không thực sự hạnh phúc như ý.
Các nghiên cứu cho thấy, phần lớn mọi người thường suy nghĩ một cách tự nhiên như đi lại, ăn uống, hít thở mà ít khi suy nghĩ về chính suy nghĩ của mình, xem nó hoạt động ra sao để cải tiến, làm suy nghĩ của mình trở nên tốt hơn, như người ta thường chú ý cải tiến các dụng cụ, máy móc dùng trong sinh hoạt và công việc. Cách suy nghĩ tự nhiên nói trên có năng suất, hiệu quả rất thấp và nhiều khi trả giá đắt cho các quyết định sai. Nói một cách nôm na, cách suy nghĩ tự nhiên ứng với việc lao động bằng xẻng thì PPLSTVĐM là máy xúc với năng suất và hiệu quả cao hơn nhiều. Nếu xem bộ não của mỗi người là máy tính tinh xảo – đỉnh cao tiến hóa và phát triển của tự nhiên thì phần mềm (cách suy nghĩ) tự nhiên đi kèm với nó chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiềm năng của bộ não. PPLSTVĐM là phần mềm tiên tiến giúp máy tính – bộ não hoạt động tốt hơn nhiều. Nếu như cần “học ăn, học nói, học gói, học mở” thì “học suy nghĩ” cũng cần thiết cho tất cả mọi người.
PPLSTVĐM dạy và học được như các môn học truyền thống: Toán, lý, hóa, sinh, tin học, quản trị kinh doanh... Trên thế giới, nhiều trường và công ty đã bắt đầu từ lâu và đang làm điều đó một cách bình thường. Dưới đây là vài thông tin về PPLSTVĐM trên thế giới và ở nước ta.
Từ những năm 1950, ở Mỹ và Liên Xô đã có những lớp học dạy thử nghiệm PPLSTVĐM. Dưới ảnh hưởng của A.F. Osborn, phó chủ tịch công ty quảng cáo BBD & O và là tác giả của phương pháp não công (Brainstorming) nổi tiếng, Trung tâm nghiên cứu sáng tạo (Center for Studies in Creativity) được thành lập năm 1967 tại Đại học Buffalo, bang New York. Năm 1974, Trung tâm nói trên bắt đầu đào tạo cử nhân khoa học và năm 1975 – thạc sỹ khoa học về sáng tạo và đổi mới (BS, MS in Creativity and Innovation).
Ở Liên Xô, G.S. Altshuller, nhà sáng chế, nhà văn viết truyện khoa học viễn tưởng và là tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế (viết tắt theo tiếng Nga và chuyển sang ký tự Latinh – TRIZ) cộng tác với “Hiệp hội toàn liên bang các nhà sáng chế và hợp lý hóa” (VOIR) thành lập Phòng thí nghiệm các phương pháp sáng chế năm 1968 và
Học viện công cộng về sáng tạo sáng chế (Public Institute of Inventive Creativity) năm 1971. Người viết, lúc đó đang học ngành vật lý bán dẫn thực nghiệm tại Liên Xô, có may mắn học thêm được khóa đầu tiên của Học viện sáng tạo nói trên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy G.S. Altshuller.
Chịu ấn tượng rất sâu sắc do những ích lợi PPLSTVĐM đem lại cho cá nhân mình, bản thân lại mong muốn chia sẻ những gì học được với mọi người, cùng với sự khuyến khích của thầy G.S. Altshuller, năm 1977 người viết đã tổ chức dạy dưới dạng ngoại khóa cho sinh viên các khoa tự nhiên thuộc Đại học tổng hợp TpHCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM). Những khóa PPLSTVĐM tiếp theo là kết quả của sự cộng tác giữa người viết và Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên TpHCM), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TpHCM (nay là Sở khoa học và công nghệ TpHCM)... Năm 1991, được sự chấp thuận của lãnh đạo Đại học tổng hợp TpHCM, Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải ra đời và trở thành cơ sở chính thức đầu tiên ở nước ta giảng dạy, đào tạo và nghiên cứu PPLSTVĐM.
Đến nay đã có vài chục ngàn người với nghề nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội, từ Hà Nội đến Cà Mau tham dự các khóa học từng phần hoặc đầy đủ chương trình 120 tiết của TSK dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM.
TSK cũng tích cực tham gia các hoạt động quốc tế như công bố các công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng các báo cáo, báo cáo chính (keynotes) tại các hội nghị, các bài báo đăng trong các tạp chí chuyên ngành và giảng dạy PPLSTVĐM cho các cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu ở nước ngoài theo lời mời.
Năm 2000, tại Mỹ, nhà xuất bản Kendall/Hunt Publishing Company xuất bản quyển sách “Facilitative Leadership: Making a Difference with Creative Problem Solving” (Tạm dịch là “Lãnh đạo hỗ trợ: Tạo sự khác biệt nhờ giải quyết vấn đề một cách sáng tạo”) do tiến sỹ Scott G. Isaksen làm chủ biên. Ở các trang 219, 220, dưới
tiêu đề Các tổ chức sáng tạo (Creativity Organizations) có đăng danh sách đại biểu các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo và đổi mới trên thế giới. Trong 17 tổ chức được nêu tên, TSK là tổ chức duy nhất ở châu Á.
Bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm những quyển sách trình bày tương đối chi tiết và hệ thống dựa theo giáo trình môn học dành đào tạo những người sử dụng PPLSTVĐM, được các giảng viên của Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) dạy ở nước ta trong các lớp do TSK mở và theo lời mời của các cơ quan, trường học, tổ chức, công ty. Những quyển sách này được biên soạn nhằm phục vụ đông đảo bạn đọc muốn tìm hiểu môn học PPLSTVĐM trong khi chưa có điều kiện đến lớp học và các cựu học viên muốn có thêm các tài liệu giúp nhớ lại để áp dụng các kiến thức đã học tốt hơn.
PPLSTVĐM, tương tự như các môn học đòi hỏi thực hành và luyện tập nhiều như thể thao chẳng hạn, rất cần sự tương tác trực tiếp giữa các huấn luyện viên và học viên mà đọc sách không thôi chắc chắn còn chưa đủ. Tuy đây không phải là những quyển sách tự học để sử dụng PPLSTVĐM, lại càng không phải để trở thành cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, người viết không loại trừ, có những bạn đọc với các nỗ lực của riêng mình có thể rút ra và áp dụng thành công nhiều điều từ sách vào cuộc sống và công việc. Người viết cũng rất hy vọng có nhiều bạn đọc như vậy.
Các quyển sách của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” không chỉ trình bày hệ thống các phương pháp và các kỹ năng cụ thể dùng để sáng tạo và đổi mới mà còn có những phần được biên soạn nhằm tác động tốt lên nhận thức, quan niệm, thái độ và xúc cảm của bạn đọc, là những yếu tố rất cần thiết thúc đẩy những hành động áp dụng PPLSTVĐM vào cuộc sống, công việc. Nói cách khác, PPLSTVĐM còn góp phần hình thành, xây dựng, củng cố và phát triển những phẩm chất của nhân cách sáng tạo ở người học.
Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau:
1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo.
3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống.
4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1).
5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2).
6. Các phương pháp sáng tạo.
7. Các quy luật phát triển hệ thống.
8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng
để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới.
Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa.
Người viết gởi lời cảm ơn chung đến các đồng nghiệp trong nước và quốc tế, các cựu học viên đã động viên, khuyến khích để bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” ra đời. Người viết cũng chân thành cảm ơn sự cộng tác nhiệt tình của các cán bộ Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) thuộc Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TpHCM: Th.S. Trần Thế Hưởng, Th.S. Vương Huỳnh Minh Triết, Th.S. Lê Minh Sơn, anh Nguyễn Hoàng Tuấn, đặc biệt là Th.S. Lê Minh Sơn đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho việc trình bày bộ sách này trên máy tính.
Trung tâm Sáng tạo Khoa học – kỹ thuật (TSK) Trường đại học khoa học tự nhiên – Đại học quốc gia TpHCM 227 Nguyễn Văn Cừ, Q.5, Tp.HCM
ĐT: (848) 38301743 FAX: (848) 38350096
E-mail: pdung@hcmus.edu.vn
Website: www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-v.htm (tiếng Việt) hoặc www.cstc.vn
www.hcmus.edu.vn/CSTC/home-e.htm (tiếng Anh)
Phan Dũng
VỀ NỘI DUNG CỦA QUYỂN MƯỜI: “PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI: NHỮNG ĐIỀU MUỐN NÓI THÊM”
Chín quyển sách trước của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” đã tập trung trình bày khá chi tiết các nội dung chính của lĩnh vực phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM), bao gồm trình độ cơ bản – sơ cấp (xem từ quyển một đến quyển bảy) và nâng cao – trung cấp (xem quyển tám và quyển chín).
Như tên gọi, quyển mười là những điều người viết muốn nói thêm liên quan đến PPLSTVĐM. Những điều muốn nói thêm có rất nhiều, người viết không thể nói hết, do vậy, trên thực tế, quyển mười chỉ dành nói về cuộc đời và số phận của môn học, môn khoa học PPLSTVĐM ở Việt Nam.
Toàn bộ quyển mười là chương thứ mười bảy của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” và được chia thành ba mục lớn. Mục thứ nhất (17.1) trình bày quá trình du nhập, phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam với những kịch bản có thể có, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh quá trình du nhập, phổ biến và phát triển PPLSTVĐM đã xảy ra trên thực tế hơn 30 năm qua ở Việt Nam.
Mục 17.2 phản ánh trên báo chí Việt Nam những gì trình bày trong mục 17.1. Mục 17.2 bao gồm một số bài báo, bài trả lời phỏng vấn về khoa học sáng tạo, PPLSTVĐM, hoạt động của Trung tâm Sáng tạo Khoa học-kỹ thuật (TSK) đăng trên các báo chí. Những bài này đã được đăng trên các báo chí Trung ương như báo Nhân Dân, tạp chí Công Tác Khoa Giáo của Ban khoa giáo Trung ương Đảng, cũng như trên báo chí các loại của TP. Hồ Chí Minh, phản ánh khá cụ thể những gì đã làm được để du nhập, phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam.
Mục 17.3 tập hợp một số bài báo, báo cáo hội nghị của người viết công bố ở nước ngoài, chủ yếu, theo lời mời của các ban biên tập tạp chí và ban tổ chức hội nghị. Tất cả các bài đều được viết bằng tiếng Anh. Điều đó, một mặt có thể gây trở ngại cho bạn đọc này nhưng lại giúp bạn đọc khác biết thêm các thuật ngữ PPLSTVĐM bằng tiếng Anh. Người viết hy vọng rằng, ngay cả bạn đọc hiện nay còn chưa giỏi tiếng Anh sẽ vượt qua trở ngại. Các bài trong mục 17.3 giới thiệu các hoạt động của PPSTVĐM ở Việt Nam ra thế giới, chia sẻ các kinh nghiệm với các đồng nghiệp quốc tế, phát triển tiếp về mặt chuyên môn một số ý của PPLSTVĐM.
Quyển mười là quyển cuối cùng của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới”. Nhân đây cho phép người viết chúc bạn đọc:
- Chúc bạn đọc sức khỏe dồi dào vì làm gì cũng cần sức khỏe.
- Chúc bạn đọc tiếp nhận môn học PPLSTVĐM một cách đầy đủ, ổn định và bền vững để trở nên siêu thoát môn học.
- Chúc bạn đọc giải quyết thắng lợi mọi vấn đề gặp trong đời của mình để “đời là bể khổ” dần trở thành “đời là bể hạnh phúc”.
- Có PPLSTVĐM là tốt, có may mắn lại còn tốt hơn. Chúc bạn đọc gặp nhiều may mắn.
CHƯƠNG 17:
PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI:
NHỮNG ĐIỀU MUỐN NÓI THÊM
17.1. DU NHẬP, PHỔ BIẾN VÀ PHÁT TRIỂN PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI (PPLSTVĐM) Ở VIỆT NAM
17.1.1. Mở đầu
Báo “Tuổi Trẻ Cuối Tuần” số ra ngày 8/5/2011, trang 9, có trích đăng lời của thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo:
“Đất nước chúng ta sẽ trở nên vô địch nếu 1,3 tỷ dân có thể tư duy độc lập và sáng tạo”
Tuy không biết ngữ cảnh thực sự của câu nói, người chỉ đọc câu nói trên có thể hiểu nó như sau:
- “Vô địch” nói đến ở đây chắc là vô địch nhiều mặt (nếu không nói là vô địch về mọi mặt) chứ không phải chỉ vô địch về GDP hoặc vô địch về thám hiểm vũ trụ…
- “Vô địch” có lẽ là vô địch cỡ thế giới, chứ không phải vô địch cấp khu vực hoặc vô địch so với các nước đang phát triển…
- “Đất nước chúng ta”, “1,3 tỷ dân” có nghĩa là toàn bộ đất nước, người dân Trung Quốc chứ không phải chỉ có Bắc Kinh, Thượng Hải, chỉ có các cán bộ quản lý, lãnh đạo cấp cao hoặc tầng lớp tri thức, hoặc tầng lớp doanh nhân hoặc giai cấp công nhân…
- “Có thể tư duy độc lập và sáng tạo” là mong muốn, mục đích đề ra cần đạt.
Tuy nhiên, chúng ta chưa biết Trung Quốc sẽ làm những gì và làm như thế nào để đạt mục đích. Chẳng hạn, chỉ dừng ở mức hô hào: “Mỗi người Trung Quốc hãy đổi mới tư duy để trở thành một người tư duy độc lập và sáng tạo”; áp dụng các biện pháp khuyến khích, kích thích, tạo các điều kiện thuận lợi về môi trường để làm xuất hiện thêm những người tư duy độc lập và sáng tạo; dạy và học PPLSTVĐM đại trà để có được tất cả công dân tư duy độc lập và sáng tạo… Rõ ràng, cách làm dạy và học PPLSTVĐM một cách đại trà là cách làm bài bản, căn cơ và ích lợi lâu dài nhất.
- Câu nói trên không phải của người bình thường mà của người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc cho thấy, những người lãnh đạo cấp cao nhất Trung Quốc đánh giá tuyệt đối cao vai trò của tư duy độc lập
và sáng tạo của toàn bộ dân số quốc gia để phát triển đất nước trong thời đại kinh tế tri thức, xã hội tri thức có tính cạnh tranh và hợp tác cao.
- Câu nói trên chắc là không chỉ đúng với Trung Quốc, mà còn có thể suy rộng ra một cách tương tự, đúng với các nước khác.
Tuy nhiên, ở đây có chuyện thấy là như thế, biết là như thế nhưng không phải nước nào cũng có được những hành động, biện pháp, bước đi thích hợp để chắc chắn đạt mục đích. Nếu như cùng với câu nói của mình, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã có sẵn kế hoạch quốc gia chi tiết và triển khai trên thực tế sao cho trong tương lai gần tất cả người Trung Quốc tư duy độc lập và sáng tạo thì chúng ta rất khâm phục và chân thành chúc Trung Quốc thành công.
- Riêng đối với người viết, qua các thông tin, tài liệu, các hội nghị khoa học quốc tế về PPLSTVĐM và những vấn đề liên quan, người viết cho rằng, Trung Quốc hiện nay, chủ yếu, mới đang ở giai đoạn du nhập PPLSTVĐM từ Mỹ, Tây Âu, Nga, Nhật vào Trung Quốc. Trong các danh sách thống kê các trung tâm, tổ chức hoạt động chuyên về sáng tạo, PPLSTVĐM trên thế giới cho đến nay, người viết không
thấy có trung tâm, tổ chức nào của Trung Quốc. Điều này có nghĩa, để đạt được mục đích đề ra trong câu nói của thủ tướng Ôn Gia Bảo, Trung Quốc còn nhiều việc phải làm lắm, đặc biệt là công việc đào tạo thế hệ thứ nhất những nhà chuyên môn có thể giảng dạy, nghiên cứu PPLSTVĐM và có khả năng đào tạo các nhà chuyên môn kế thừa.
- Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo không phải là người đầu tiên nhận ra tầm quan trọng của việc tất cả mọi người trong một đất nước cần tư duy độc lập và sáng tạo.
Người viết nhớ lại, tại “Hội nghị quốc tế lần thứ bảy về tư duy” (The International Conference on Thinking) diễn ra trong tháng 6/1997 tại Singapore, Thủ tướng Singapore lúc đó Goh Chok Tong có đọc bài diễn văn dài 30 phút mở đầu Hội nghị. Trong bài diễn văn này, ông nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ thực hiện sự thay đổi tư duy của người Singapore. Chúng ta cần từ bỏ ý tưởng cho rằng chỉ có những người lãnh đạo cấp cao nhất mới phải suy nghĩ, và công việc của tất cả những người khác là làm như được bảo. Thay vì thế, chúng ta muốn thực hiện tinh thần của đổi mới việc học bằng hành động, của tất cả mọi người ở mọi cấp bậc, luôn đặt câu hỏi làm thế nào anh hay chị có thể thực hiện công việc của mình tốt hơn” (We will bring about a mindset change among Singaporeans. We must get away from the idea that it is only the people at the top who should be thinking, and the job of everyone else is to do as told. Instead we want to bring about a spirit of innovation of learning by action, of everyone at all levels always asking how she or he can do her or his job better).
17.1.2. Du nhập phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) vào Việt Nam
Có sáu người Việt Nam tốt nghiệp Học viện công cộng sáng tạo sáng chế Azerbaigian, thành phố Baku, Liên Xô.
Đấy là các anh Nguyễn Văn Chân, Nguyễn Văn Thông và tôi (khóa 1971 - 1973), Dương Xuân Bảo, Thái Bá Cần và Nguyễn Văn Thọ (khóa 1973 - 1975).
Nếu xét về nhiệm vụ chính trị được Đảng và Nhà nước giao cho: Anh Dương Xuân Bảo và tôi được phân công học vật lý, các anh Nguyễn Văn Chân, Nguyễn Văn Thông và Thái Bá Cần – học toán, anh Nguyễn Văn Thọ học địa chất tại Đại học tổng hợp quốc gia Azerbaigian chứ không phải học PPLSTVĐM. Việc học thêm Học viện công cộng sáng tạo sáng chế xuất phát từ ý thích, sự say mê cá nhân chứ không phải là nhiệm vụ bắt buộc. Do vậy, chúng tôi đã được nhắc nhở không xao nhãng nhiệm vụ chính trị. Rất may, chúng tôi đã hoàn thành tốt cả hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tự đề ra.
Ở Học viện công cộng sáng tạo sáng chế, chúng tôi được học lý thuyết giải các bài toán sáng chế (TRIZ), algôrit giải các bài toán sáng chế (ARIZ), hầu hết các phương pháp sáng tạo của phương Tây và nhiều môn học liên quan khác như patent học, lý thuyết thông tin, lý thuyết hệ thống, điều khiển học, lý thuyết ra quyết định, tâm lý học sáng tạo, môn học phát triển trí tưởng tượng sáng tạo.
Học viện công cộng sáng tạo sáng chế không chỉ đào tạo các nhà sáng chế chuyên nghiệp sáng tạo có phương pháp, mà còn đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu PPLSTVĐM, các cán bộ tổ chức các hoạt động sáng tạo, sáng chế.
Học viện nhận vào học những người đã tốt nghiệp đại học (phần lớn là các kỹ sư), đã có những thành tích sáng tạo. Cùng học với chúng tôi có những người có trong tay cả chục patent. Chúng tôi lúc đó chỉ là những sinh viên, được nhận vào học như những trường hợp thử nghiệm, ngoại lệ. Còn khi vào học thì không có sự phân biệt đối xử nào.
Chúng tôi đã vô cùng may mắn được học trực tiếp thầy G.S. Altshuller. Sự may mắn thể hiện ở chỗ thầy G.S. Altshuller là tác giả TRIZ, có nghĩa, chúng tôi được học với người sáng lập ra một lý thuyết rất mạnh trong PPLSTVĐM. Nói cách khác, chúng tôi được học với sư tổ, học tận gốc. Dễ dầu gì có ai được học cơ học cổ điển với Newton, thuyết tương đối với Einstein, tin học với những người sáng lập ra ngành tin học… Một số trong chúng tôi sau khi học còn
giữ liên lạc, được thầy Altshuller cung cấp các sách, tài liệu TRIZ mới nhất cho đến khi thầy Altshuller bị bệnh nặng, rồi qua đời năm 1998.
Một may mắn nữa cần nhấn mạnh là, khi chúng tôi đi học thêm ở Học viện công cộng sáng tạo sáng chế, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa và học không phải đóng học phí. Nếu bây giờ tôi mới đi học PPLSTVĐM thì cũng phải bó tay vì giá trung bình trên thế giới là vài trăm USD cho một người, một ngày học.
Nếu xem du nhập một khoa học, một môn học vào một đất nước không đơn giản chỉ là nhập khẩu sách, tài liệu vào đất nước đó mà phải là du nhập kiến thức, kỹ năng của khoa học, môn học đó vào đầu và trở thành hành động của người bản xứ, thì thời điểm du nhập PPLSTVĐM vào Việt Nam được tính là năm 1973, khi nhóm ba người đầu tiên tốt nghiệp khóa một Học viện công cộng sáng tạo sáng chế.
17.1.3. Phổ biến và phát triển phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) ở Việt Nam: Các kịch bản
Thông thường, sau giai đoạn du nhập một cái gì đó từ nước ngoài về, người ta thực hiện các giai đoạn tiếp theo là phổ biến và phát triển nó ở trong nước. Ví dụ, sau khi du nhập giống lúa mới, người ta tiến hành nhân giống, để khi có đủ số lượng thì phổ biến trồng đại trà, đồng thời, người ta cải tiến, hoàn thiện việc gieo trồng, chăm sóc, cao hơn nữa, cải tiến chính giống lúa nhập về. Không ai nhập thóc giống về để ăn.
Có thể có một số “kịch bản” liên quan đến việc phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam.
Kịch bản 1
PPLSTVĐM được du nhập thông qua sáu người Việt Nam đi học ở Liên Xô về. Cả sáu người đều không có ý định phổ biến PPLSTVĐM ở Việt Nam mà chỉ dùng riêng cho mình. Điều này có thể hiểu được vì động cơ ban đầu đến với PPLSTVĐM là do sự ham thích, say mê của từng cá nhân.
Thêm nữa, lúc này, không ai, kể cả các cán bộ quản lý, lãnh đạo khoa học, giáo dục Việt Nam đặt vấn đề và tạo điều kiện để sáu người phổ biến kiến thức, kỹ năng môn học PPLSTVĐM cho nhiều người biết.
Nếu kịch bản này xảy ra thì có chuyện du nhập PPLSTVĐM nhưng không có chuyện phổ biến, lại càng không có chuyện phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, có anh Dương Xuân Bảo ở Hà Nội và tôi ở TP. Hồ Chí Minh có ý định phổ biến PPLSTVĐM và triển khai nó trong xã hội.
Kịch bản 2
Năm 1975, ba người tốt nghiệp khóa hai Học viện công cộng sáng tạo sáng chế về nước. Lúc này, tất cả sáu người đã học PPLSTVĐM đều có mặt ở Việt Nam.
Một hôm, những người quản lý chúng tôi mời chúng tôi lên và nói:
“Trong lý lịch các anh có viết, các anh học thêm Học viện công cộng sáng tạo sáng chế, ở đó dạy môn khoa học PPLSTVĐM. Vậy các
anh có thể làm một hoặc vài seminar để chúng tôi biết nó (PPLSTVĐM) là cái gì không?”
Được lời như cởi tấm lòng vì cả sáu người chúng tôi đều có ý định phổ biến, phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam. Chúng tôi tích cực chuẩn bị và các buổi seminar đã diễn ra một cách tốt đẹp.
Sau các seminar một thời gian ngắn, chúng tôi được thông báo, các cơ quan có trách nhiệm thấy đây là khoa học cho tương lai nên quyết định đầu tư ở cấp nhà nước cho việc phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở nước ta.
Công việc được triển khai, trước hết là nhân giống: Từ chúng tôi, đào tạo ra những người có khả năng giảng dạy và nghiên cứu PPLSTVĐM. Những người này sẽ là các thầy, cô giáo dạy môn PPLSTVĐM khi PPLSTVĐM được đưa vào trường học các cấp.
Môn PPLSTVĐM đầu tiên sẽ đưa vào các trường đại học. Khi chuẩn bị đầy đủ người dạy, giáo trình phù hợp với kiến thức, độ tuổi, môn học PPLSTVĐM sẽ đưa xuống trung học phổ thông (cấp 3), trung học cơ sở (cấp 2), tiểu học (cấp 1), thậm chí đến mẫu giáo.
Một cách lý tưởng, môn học PPLSTVĐM sẽ được dạy liên tục từ mẫu giáo đến hai năm đầu của đại học, mỗi năm học vài chục tiết, với các trò chơi (đối với mẫu giáo), các giáo trình phù hợp với từng bậc học (đối với tiểu học trở lên). Các trường đại học và cao đẳng thành lập các trung tâm PPLSTVĐM để những người đang đi làm hoặc quan tâm có thể đến học.
Đến một lúc nào đó (tất nhiên phải rất lâu dài và cần hết sức kiên trì), PPLSTVĐM “phủ sóng” lên hết các người dân Việt Nam từ độ tuổi mẫu giáo trở lên. Đấy là những người biết tư duy sáng tạo có phương pháp khoa học, tư duy sáng tạo một cách có kỹ năng chứ không phải tư duy sáng tạo theo phương pháp tự nhiên thử và sai.
Bạn đọc thử tưởng tượng, nếu mọi cái đi theo kịch bản này, PPLSTVĐM được đầu tư ngay từ năm 1975 đến nay (2011) thì 36 năm vừa qua PPLSTVĐM đã được phổ biến và phát triển đến đâu?
Nhân đây, người viết nói về đầu tư cho PPLSTVĐM: Chi phí đầu tư cho PPLSTVĐM chỉ tương đương với đầu tư cho môn Ngữ văn – tiếng Việt trong trường học các cấp. Nói cách khác, chi phí đầu tư rất ít. Bởi vì, PPLSTVĐM không cần trang thiết bị, máy móc, hóa chất, nguyên vật liệu, năng lượng, thậm chí, không cần mỗi người học phải có một máy tính. Chưa kể, PPLSTVĐM không có chất thải gây ô nhiễm môi trường. Người đi học mang máy tính (bộ óc) của mình đến lớp học. Dạy và học PPLSTVĐM là nạp phần mềm tiên tiến nhất về tư duy sáng tạo vào máy tính (bộ óc) có sẵn, được cha mẹ cho không mất tiền mua.
Còn ích lợi thì sao? Ích lợi vô cùng lớn. Người học, về nguyên tắc, chỉ học đầy đủ chương trình PPLSTVĐM một lần và dùng nó suốt cuộc đời để giải quyết tốt các vấn đề của mình và góp phần giải quyết tốt các vấn đề của cộng đồng, xã hội.
Rất tiếc, kịch bản lý tưởng này đã không xảy ra.
Kịch bản 3
Một số trong chúng tôi có ý định phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam không chờ đợi hơn được nữa, quyết định tìm gặp các vị quản lý, lãnh đạo liên quan để chủ động trình bày PPLSTVĐM là gì và đề nghị được giúp đỡ.
Sau nhiều lần gặp, sau khi gặp được nhiều vị, cuối cùng, các vị quản lý, lãnh đạo có trách nhiệm bị thuyết phục và ra quyết định đầu tư phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở cấp độ nhà nước. Phần tiếp theo sẽ đi theo kịch bản 2, chỉ có khác, thời điểm ra quyết định ủng hộ không phải là năm 1975 mà có thể một số năm sau đó.
Rất tiếc kịch bản này đã không xảy ra, mặc dù tôi và anh Dương Xuân Bảo đã gặp nhiều vị quản lý, lãnh đạo chính quyền, khoa học công nghệ, giáo dục-đào tạo ở địa phương cũng như ở trung ương.
Kịch bản 4
Nếu như chi phí đầu tư cho phổ biến, phát triển PPLSTVĐM ít thì tại sao chúng tôi không tự lực cánh sinh: Tự đầu tư, tự trang trải mà không được nhận kinh phí của nhà nước. Trong khi, là các viên chức nhà nước, lương chúng tôi chỉ thuộc loại ba cọc ba đồng. Nếu làm được như vậy thì bằng việc làm chứng minh được những điều sau:
- Quả thật chi phí đầu tư cho phổ biến, phát triển PPLSTVĐM rất ít.
- Nhiều người thuộc mọi thành phần kinh tế, xã hội đi học chứng tỏ môn học này cần cho xã hội, suy rộng ra, cho đất nước, cho dân tộc.
- PPLSTVĐM mang lại nhiều ích lợi cho người học thể hiện qua các thu hoạch mà các học viên phản ánh lại.
Tất cả những kết quả nói trên được chúng tôi gởi tới các vị quản lý, lãnh đạo liên quan, làm các vị “động lòng” và ra quyết định đầu tư ở cấp nhà nước cho PPLSTVĐM.
Kịch bản này đã và đang tiếp tục xảy ra phần đầu nhưng chưa đến được phần sau: Đến nay vẫn không có quan chức nào động lòng.
Kịch bản 5
Kịch bản 5 tương tự kịch bản 4 ở phần đầu và phần sau không bao giờ xảy ra.
Lúc này, những người thực hiện việc phổ biến, phát triển PPLSTVĐM đều đã già, rồi lần lượt ra đi theo quy luật tự nhiên. PPLSTVĐM dần quên lãng ở Việt Nam và tự khai tử.
Đây là kịch bản xấu nhất, nhưng tôi có cảm giác xác suất xảy ra kịch bản 5 này không nhỏ.
Ngoài ra còn có những kịch bản khác mà tôi không đưa vào đây.
Dưới đây là những gì đã xảy ra trong thực tế 34 năm qua liên quan đến phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam theo cách tự lực cánh sinh.
17.1.4. Phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam trước và từ khi thành lập Trung tâm Sáng tạo Khoa học - kỹ thuật (TSK)
Ngoài những gì viết ở đây, đề nghị bạn đọc xem lại các mục: 4.5. Mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo mọi người; 4.6. Một số kết quả mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng, phần Thay cho kết luận và bốn Phụ lục của quyển một.
Trong thời gian học ở Học viện công cộng sáng tạo sáng chế, thấy được ích lợi to lớn của PPLSTVĐM đem đến cho những người học, tôi bắt đầu nung nấu ý định phổ biến những kiến thức học được cho càng nhiều người Việt Nam biết càng tốt. Bởi vì tôi nhận ra rằng, PPLSTVĐM thực sự cần cho sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Trước khi về nước, tôi đem ý kiến này trao đổi với thầy G.S. Altshuller và được thầy ủng hộ, khuyến khích việc thực hiện phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam.
Phổ biến kiến thức một bộ môn khoa học nào đó thường được thể hiện dưới các hình thức:
- Đăng trên báo chí các bài viết dễ hiểu về môn khoa học đó để nhiều người đọc, từ đó họ sẽ tìm hiểu thêm, sâu hơn.
- Tổ chức các buổi nói chuyện, seminar, hội thảo.
- Viết và xuất bản các sách chuyên về bộ môn khoa học đó.
- Mở các lớp dạy bộ môn khoa học đó cho những người quan tâm theo học.
- Đưa bộ môn khoa học đó vào dạy trong các nhà trường.
Trong các hình thức nói trên, hai hình thức về “dạy và học”, đặc biệt, đưa vào dạy trong các nhà trường là cách làm bài bản, căn cơ và có hiệu quả thực sự to lớn, lâu dài nhất.
Do vậy, kể từ khi về nước năm 1973, tôi cố gắng để ý tìm điều kiện để mở lớp dạy PPLSTVĐM. Năm 1976 tôi chuyển công tác từ Viện khoa học - kỹ thuật miền Nam thuộc Viện khoa học Việt Nam sang Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh. Năm 1977, khi đang là cán bộ giảng dạy Khoa vật lý, tôi được bầu kiêm nhiệm làm ủy viên thường vụ Ban chấp hành Đoàn Trường đại học tổng hợp, phụ trách học tập trong Trường. Thời cơ thuận lợi cho việc mở lớp PPLSTVĐM đã đến, sau khi đạt được sự nhất trí về kế hoạch công tác với Ban giám hiệu và Thường vụ Đoàn Trường, tôi triển khai mở hai lớp học dành cho sinh viên quan tâm:
- Lớp PPLSTVĐM cho sinh viên các khoa khoa học tự nhiên.
- Lớp “đọc nhanh (speed reading)” cho sinh viên các khoa khoa học xã hội và nhân văn.
Tôi dạy lớp PPLSTVĐM, còn lớp “đọc nhanh” tôi mời thầy Đinh Quang Kim phụ trách.
Như vậy, khóa PPLSTVĐM đầu tiên ở Việt Nam được dạy vào năm 1977. Các khóa PPLSTVĐM tiếp theo tôi dạy theo các lời mời như của Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên) thuộc Thành Đoàn, Câu lạc bộ lao động (nay là Nhà văn hóa lao động), Ủy ban khoa học và kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh (nay là Sở khoa học và công nghệ TP. Hồ Chí Minh).
Tôi có hai lần sang lại Liên Xô để làm luận án tiến sỹ (PhD) và tiến sỹ khoa học (D.Sc) về vật lý thực nghiệm các chất bán dẫn. Cả hai lần này tôi đều tranh thủ sử dụng để cập nhật tất cả các kiến thức mới nhất về TRIZ, ARIZ, sưu tập được tất cả các sách và tài liệu cần thiết liên quan. Thầy G.S. Altshuller và các bạn xô-viết về TRIZ đã giúp tôi rất nhiều trong công việc này và tôi luôn nhớ đến với lòng biết ơn sâu sắc, tình cảm ấm áp.
Trở về nước vào mùa hè năm 1989, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sỹ khoa học, tôi dự định sẽ cùng một lúc làm hai việc: Vật lý và PPLSTVĐM. Thế nhưng năm học 1989 - 1990, rồi năm học 1990 - 1991 tôi không được phân công giờ dạy vật lý vì tất cả các môn của Khoa vật lý đều đã có người dạy từ trước. Máy móc, thiết bị nghiên cứu vật lý thì không có gì. Tôi quyết định, nếu như vật lý đã thế thì tôi tập trung vào một việc thôi: Phổ biến và phát triển PPLSTVĐM ở Việt Nam.
Tôi đem những kết quả đã dạy PPLSTVĐM ở nhiều nơi của mình, các tài liệu tiếng Nga, tiếng Anh về PPLSTVĐM đến gặp GS. TS. Nguyễn Ngọc Giao (hiệu trưởng lúc đó) và đặt vấn đề thành lập Trung tâm Sáng tạo Khoa học - kỹ thuật (TSK) như một bộ phận của Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh làm công việc giảng dạy, nghiên cứu PPLSTVĐM. GS. TS. Nguyễn Ngọc Giao đã nhanh chóng nhận ra sự cần thiết và sốt sắng ủng hộ. Tuy nhiên, GS. TS. Nguyễn Ngọc Giao dặn dò: “Trường nghèo lắm, nên các cậu phải tự thân vận động thôi”.
Ngày 23 tháng tư năm 1991, GS. TS. Nguyễn Ngọc Giao đã ký quyết định thành lập Trung tâm Sáng tạo Khoa học - kỹ thuật (TSK) hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải.
Về mặt nhân sự, TSK lúc đó chỉ có hai người: Tôi và thầy Trần Thế Hưởng. Về sau có thêm hai thầy: Vương Huỳnh Minh Triết gia nhập TSK năm 1993, Lê Minh Sơn – 1998. Còn về các mặt khác như diện tích làm việc, tài chính, cơ sở vật chất… đều là những con số không.
Về diện tích làm việc, rất may, chúng tôi mượn được hai phòng nhỏ, một của Bộ môn vật lý chất rắn và một của Bộ môn vật lý điện tử. Chúng tôi luôn mãi biết ơn sự giúp đỡ nhiệt tình này của các đồng nghiệp. Một phòng chúng tôi dùng để làm nơi làm việc của các thầy, tiếp khách, ghi danh. Phòng kia dùng làm lớp học.
Về cơ sở vật chất, chúng tôi đi quanh trường tìm những đồ gỗ các bộ phận khác thải ra, tự sửa lại rồi dùng. Ngoài ra, vận động gia đình cho mang đồ gỗ của nhà đến Trung tâm làm việc.
Chúng tôi có thành lập quyển “Sổ vàng TSK” nhằm mục đích ghi nhận sự ủng hộ đa dạng của các cá nhân, tập thể, tổ chức đối với giai đoạn đầu của việc thành lập và xây dựng TSK. Quyển “Sổ vàng TSK” được GS. TS., hiệu trưởng Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Ngọc Giao khai bút.
Dưới đây là nội dung toàn bộ quyển “Sổ vàng TSK” với những dòng cuối cùng ghi ngày 25/11/1993:
Hôm nay chúng tôi rất hân hạnh được đến thăm Trung tâm Sáng tạo Khoa học - kỹ thuật. Lần đầu tiên đến Việt Nam và được biết các hoạt động khuyến khích sáng tạo như vậy đang được tiến hành mạnh mẽ, chúng tôi tin rằng các hoạt động này chắc chắn sẽ đóng góp cho sự phát triển của đất nước Việt Nam trong tương lai. Đặc biệt, nhiệt huyết của GS.TSKH. Phan Dũng đối với sáng tạo khoa học kỹ thuật đã khiến chúng tôi ngưỡng mộ.
Xin chúc hoạt động của Trung tâm thu được nhiều kết quả, góp phần tạo được nhiều phát minh, sáng chế trong tương lai.
Mitsugaru Oda và Yoshiaki Kawasaki
Chuyên viên giám định patent thuộc Cục patent Nhật Bản Ngày 19/2/1992
Thay mặt bộ môn nơi chúng tôi giảng dạy và đào tạo tại Đại học ChiangMai, chúng tôi kính chúc quí Trung tâm những điều tốt đẹp nhất và chúc mừng sự thành công của Trung tâm Sáng tạo Trường đại học khoa học tự nhiên. Tôi hy vọng mối quan hệ của chúng ta sẽ
thành công và bền vững.
Ngày 25/11/1993
Thỉnh thoảng đọc lại “Sổ vàng TSK”, chúng tôi bồi hồi xúc động nhớ lại ba năm đầu tiên xây dựng TSK và tự hứa với mình phải cố gắng hơn nữa để xứng đáng với niềm tin, hy vọng của những người đã nhiệt tình ủng hộ chúng tôi ngay từ thủa ban sơ. Chúng tôi càng
thấu hiểu câu nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Chúng tôi mãi mãi biết ơn họ. Những tình cảm ấm áp của mọi người đã động viên chúng tôi có đủ nghị lực lâu dài để vượt qua các khó khăn trên đường xây dựng và phát triển TSK, dù có những lúc chúng tôi cảm thấy cô độc, mất hứng và mệt mỏi.
Chúng tôi đã gặp rất nhiều vấn đề liên quan đến việc hình thành, xây dựng, quản lý và phát triển Trung tâm hoạt động trong cơ chế thị trường. Đây là các vấn đề nhân sự, tổ chức, tài chính, chiêu sinh, quảng cáo, marketing, chất lượng, quan hệ quốc tế… Tuy không được trang bị những kiến thức về các chuyên ngành nói trên, chúng tôi đã sử dụng chính PPLSTVĐM giải quyết khá thành công những vấn đề gặp phải, kể cả một số vấn đề thuộc loại tế nhị, tránh những phép thử sai.
Từ những số không ban đầu, bằng hoạt động tự trang trải, chúng tôi đã có tập thể nhỏ cán bộ giảng dạy vững tay nghề, làm việc với nhau khá ăn ý, tương đối đầy đủ cơ sở vật chất để làm việc, dạy và học, viết được các loại sách, giáo trình cần thiết phục vụ các học viên và những người quan tâm, hội nhập quốc tế ở mức độ cao (xem mục 17.3. Một số bài báo, báo cáo hội nghị của người viết về khoa học sáng tạo và phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM) công bố ở nước ngoài của quyển sách này).
Đến nay (cuối năm 2011) chúng tôi đã dạy được hơn 400 khóa học PPLSTVĐM theo chương trình 60 tiết học một khóa. Trong đó, có 13 khóa PPLSTVĐM nâng cao (trung cấp) và còn lại là các khóa PPLSTVĐM cơ bản (sơ cấp). Các khóa này gồm có những khóa dạy tại TSK và các khóa được các công ty, cơ quan, tổ chức… thỉnh giảng. Ngoài ra, TSK cũng thực hiện nhiều buổi nói chuyện chuyên đề, seminar về PPLSTVĐM theo yêu cầu.
Hơn 20.000 học viên đã theo học PPLSTVĐM gồm đủ mọi thành phần kinh tế, xã hội: Người đạp xích lô, tiểu thương, công nhân, học sinh, sinh viên, kỹ sư, bác sỹ, kiến trúc sư, nhà khoa học, cán bộ nhà nước, nhân viên, lãnh đạo công ty các loại, giới tu hành, giới nghệ sỹ, thể thao… Độ tuổi từ 13 đến 75. Trình độ học vấn từ lớp 7 đếùn giáo
sư, tiến sỹ. Có những gia đình mà toàn bộ thành viên đều đã học PPLSTVĐM.
Các học viên, sau khi học, đều nhận thấy nhiều ích lợi của PPLSTVĐM đem lại cho họ, so với trước khi học (bạn đọc xem lại phần trích một số ý kiến của các học viên trong mục 4.6. Một số kết quả mở rộng TRIZ và dạy TRIZ mở rộng cho đông đảo mọi người của quyển một).
Để kết thúc mục nhỏ này, danh sách dưới đây liệt kê các mốc đánh dấu các hoạt động của TSK phổ biến và phát triển PPLSTVĐM theo thời gian:
1. Khóa cơ bản “Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” (PPLSTVĐM) đầu tiên dạy ngoại khóa cho gần một trăm sinh viên thuộc tất cả các khoa khối khoa học tự nhiên của Đại học tổng hợp TP.HCM (nay là Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TP.HCM) năm 1977.
2. Khóa PPLSTVĐM đầu tiên dạy tại chỗ là theo lời mời của Câu lạc bộ thanh niên (nay là Nhà văn hóa thanh niên), Thành Đoàn TP.HCM năm 1978. Đến nay, TSK đã thực hiện các bài giảng, khóa học rút gọn hoặc đầy đủ tại chỗ, theo lời mời cho hơn 100 đơn vị giáo dục, đào tạo, viện nghiên cứu, cơ quan đoàn thể, chính quyền, các công ty sản xuất và kinh doanh thuộc một số tỉnh và thành phố trong cả nước.
3. Bài phỏng vấn đầu tiên về lớp học PPLSTVĐM đăng trên Báo Tuổi Trẻ Xuân năm 1979. Đến nay đã có gần 100 bài báo trên các báo, tạp chí trung ương và địa phương phản ánh các hoạt động giảng
dạy, nghiên cứu và ứng dụng PPLSTVĐM của TSK và các cựu học viên. Đặc biệt, trong đó có hai bài báo bằng tiếng Anh đăng trong “Vietnam News”.
4. Quyển sách đầu tiên về PPLSTVĐM có tên gọi “Algôrit sáng chế” của các tác giả Nguyễn Chân, Dương Xuân Bảo, và Phan Dũng được Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội in và phát hành năm 1983.
5. PPLSTVĐM lần đầu tiên được giới thiệu trên làn sóng của Đài phát thanh và Đài truyền hình TP.HCM năm 1986.
6. Khóa cơ bản PPLSTVĐM đầu tiên dạy cho các học viên cao học theo chương trình chính khóa là khóa dành cho Viện quản lý khoa học (nay là Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học công nghệ), Bộ khoa học, công nghệ và môi trường, Hà Nội, tháng 2 năm 1991. Đến nay, TSK đã dạy cho hơn 1500 học viên cao học và nghiên cứu sinh tiến sỹ các nơi sau: Trường đại học bách khoa, Đại học tài chính - kế toán (nay là Đại học kinh tế), khoa sau đại học thuộc Đại học mở bán công, Khoa Anh văn thuộc Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Viện khoa học nông nghiệp miền Nam, Viện công nghệ hóa học, Viện cơ học ứng dụng thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia TP.HCM, Khoa môi trường và Khoa hóa, Trường đại học khoa học tự nhiên, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
7. Sau thành công của nhiều khóa dạy PPLSTVĐM ở trong và ngoài nhà trường, Hiệu trưởng Đại học tổng hợp TP.HCM chính thức ký quyết định số 50.91/QLKH ngày 23.4.1991 thành lập Trung tâm Sáng tạo Khoa học kỹ thuật (TSK) với giám đốc là tiến sỹ khoa học Phan Dũng. TSK hoạt động theo phương thức tự trang trải về mặt tài chính với các chức năng giảng dạy, nghiên cứu và ứng dụng PPLSTVĐM.
8. TSK trở thành hội viên thông tấn của Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam năm 1991 và hội viên Trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương của Việt Nam (VAPEC) năm 1994.
9. Các ông Mitsuharu Oda và Yoshiaki Kawasaki, chuyên viên giám định patent thuộc Cục patent Nhật Bản (Japanese Patent Office) là những vị khách nước ngoài đầu tiên đến thăm và làm việc với TSK ngày 19.02.1992. Tính đến nay đã có các đoàn khách, đồng nghiệp từ Anh, Bỉ, Canada, Mỹ, Nga, Thái Lan, Thụy Sỹ, Úc đến thăm và làm việc tại TSK.
10. Logo của TSK được thiết kế và sử dụng từ năm 1992. Với logo này TSK mong muốn các cựu học viên và học viên PPLSTVĐM luôn nhớ đến một số ý chính của PPLSTVĐM. Cùng với logo của TSK, logo TRIZ-ARIZ cũng thường được dùng trong các hoạt động của TSK.
11. Đề tài nghiên cứu cấp thành phố đầu tiên của TSK “Bước đầu nghiên cứu thực hiện giảng dạy và tổ chức áp dụng PPLSTVĐM
Ủ
vào hoạt động sở hữu công nghiệp” được Ủy ban khoa học và kỹ thuật (nay là Sở khoa học và công nghệ) TP.HCM nghiệm thu xuất sắc và được nhận tiền thưởng năm 1992. Ngoài ra, TSK cũng tham gia vào đề tài nghiên cứu số 14 của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường với báo cáo “Hiệu quả kinh tế của đổi mới công nghệ: Nhìn từ những quy luật bên trong của chính quá trình đổi mới”, Hà Nội, 1993.
12. Khóa trung cấp PPLSTVĐM đầu tiên được thực hiện tại TSK từ ngày 23.4 đến ngày 21.6 năm 1993.
13. TSKH Phan Dũng trở thành hội viên Mạng lưới sáng tạo quốc tế (International Creativity Network – ICN) có trụ sở tại Buffalo, New York, từ tháng 3 năm 1994; Hiệp hội châu Âu về sáng tạo và đổi mới (European Association for Creativity and Innovation - EACI) có trụ sở tại Hà Lan từ tháng 8 năm 1994; Bản đồ lãnh đạo tri thức toàn cầu (Global Knowledge Leadership Map) có trụ sở tại Wilmington, Massachusetts, Mỹ năm 2000. Nhân dịp TSKH Phan Dũng được mời trình bày báo cáo chính (keynote address) tại Hội nghị TRIZCON2001, Viện Altshuller của Mỹ đã tặng ông danh hiệu hội viên suốt đời của Viện nói trên.
14. Bài báo đầu tiên của TSK đăng ở nước ngoài là ở Vương quốc Anh, nhà xuất bản Blackwell, viết theo lời mời của tạp chí quốc tế “Creativity and Innovation Management” với tựa đề “Introducing Creativity Methodologies into Vietnam”, số ra tháng 12 năm 1994.
15. Hội nghị quốc tế đầu tiên TSK tham dự và trình bày báo cáo dưới dạng bài giảng (lecture) là “The Fifth European Conference on Creativity and Innovation: Impact”, tổ chức tại Vaals, Hà Lan, 28.4 – 02.5.1996. Đến nay, TSK đã có nhiều công trình đăng hoặc báo cáo tại Anh, Hà Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Mỹ, Nhật, Singapore và Thái Lan.
16. Lần đầu tiên TSK được hội nghị quốc tế mời với tư cách báo cáo viên chính (keynote speaker) là “The International Symposium and Seminar : Education – The Foundation for Human and Quality of Life Development”, tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan, 26 – 30.8.1996.
17. Khóa học PPLSTVĐM đầu tiên TSK thực hiện ở nước ngoài là dành cho các quan chức Bộ giáo dục Malaysia, theo lời mời của Viện quốc gia quản lý giáo dục (National Institute of Educational Management), Malaysia, tháng 12 năm 1996.
18. Hoạt động của TSK được GS công huân Morris I. Stein, Đại học tổng hợp New York giới thiệu tại Mỹ lần đầu tiên trong Hội nghị “The 8th Annual National Convention of the American Creativity Association”, được tổ chức tại Park Ridge Hotel, King of Prussia, bang Pennsylvania, 24.4.1997.
19. TSK được đích thân thầy G.S. Altshuller, tác giả của Lý thuyết giải các bài toán sáng chế – TRIZ giới thiệu tại Nga trong Đại hội lần thứ năm Hiệp hội TRIZ quốc tế, tổ chức tại thành phố Petrozavodsk, Liên bang Nga, tháng 7 năm 1997.
20. Bài báo đầu tiên của TSK được nhiều nơi như nhà xuất bản Winslow Press, Mỹ; tạp chí The Korean Journal of Thinking & Problem Solving, Hàn Quốc và TRIZ Home Page in Japan, Nhật Bản xin đăng lại là bản báo cáo có tựa đề “Dialectical Systems Thinking for Problem Solving and Decision Making” tại Hội nghị quốc tế “The 7th International Conference on Thinking”, tổ chức tại Singapore, 01 – 06.6.1997.
21. Lần đầu tiên TSK phát biểu và kiến nghị chính thức với Thủ tướng, các Phó thủ tướng, nhiều bộ trưởng, thứ trưởng các bộ về sự cần thiết đầu tư và phát triển khoa học sáng tạo, PPLSTVĐM ở mức vĩ mô là tại buổi “Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải gặp mặt các doanh nghiệp các tỉnh phía Nam”, tổ chức tại hội trường Thống Nhất TP.HCM, 2 – 3.2.1998. (xem thêm báo Giáo dục và Thời đại số 18, ra ngày 03.3.1998).
22. Vị lãnh đạo cao nhất đến thăm và làm việc với TSK ngày 13.3.1998 là GS, Viện sỹ Đặng Hữu, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban khoa giáo trung ương (xem thêm Tạp chí công tác khoa giáo số 5.1998).
23. Ban liên lạc cựu học viên, học viên PPLSTVĐM được thành lập tháng 10.1998 và hoạt động với sự cộng tác của TSK thường xuyên cho đến nay.
24. Ngày truyền thống hàng năm của các cựu học viên và học viên PPLSTVĐM được chọn là ngày chủ nhật đầu tiên sau ngày Nhà
giáo Việt Nam (20.11). Đến nay, các cuộc họp mặt nhân “Ngày truyền thống” đã được tổ chức thường xuyên hàng năm, kể từ năm 1998.
25. Khóa học PPLSTVĐM đầu tiên dành cho các cán bộ lãnh đạo, chuyên viên chuyên trách cấp bộ ở Việt Nam là Bộ khoa học, công nghệ và môi trường, Hà Nội, 04 - 14.1.1999
26. Bản tin hàng quý với tên gọi “Báo tường TSK” (BTSK) với sự đóng góp tin, bài của các thầy và các cựu học viên, học viên của TSK, ra số đầu tiên ngày 31.3.1999. Các bạn có thể đọc tất cả các số BTSK trên website của TSK.
27. Sinh hoạt chuyên đề do TSK phối hợp với Ban liên lạc tổ chức buổi đầu tiên vào sáng chủ nhật 23.5.1999. Mọi người đã nghe và thảo luận báo cáo của anh Dương Ngọc Thạch, chủ tịch hội đồng quản trị Công ty đồ chơi “Ngọc Thạch”, cựu học viên PPLSTVĐM khóa 27 về “Ứng dụng PPLSTVĐM vào thực tiễn”.
28. Các thông tin của TSK lần đầu tiên đưa lên Internet vào cuối năm 1999. Dưới đây là địa chỉ các website của TSK:
http://www.hcmuns.edu.vn/CSTC/home-v.htm (Tiếng Việt) http://www.hcmuns.edu.vn/CSTC/home-e.htm (Tiếng Anh)
29. Lần đầu tiên bài hát tập thể của các học viên PPLSTVĐM (“Sáng tạo ca”) được tất cả mọi người tham gia buổi Họp mặt truyền thống PPLSTVĐM lần thứ 3, tổ chức ngày 28.11.2000, nhiệt tình luyện tập để dùng trong các buổi sinh hoạt chung.
30. Lần đầu tiên tên và nội dung hoạt động của TSK được đưa vào danh sách “Các tổ chức sáng tạo” (Creativity Organzations) trên thế giới, đăng ở trang 219 của quyển sách “Facilitative Leadership – Making a Difference with Creative Problem Solving”, chủ biên là TS Scott G. Isaksen thuộc Creativity Research Unit, Creative Problem – Solving Group – Buffalo, Nhà xuất bản Kendall/Hunt Publishing Company in tại Mỹ, năm 2000.
31. Bài báo đầu tiên của TSK đã được dịch sang tiếng Nhật theo đề nghị của GS. Toru Nakagawa, Đại học Osaka Gakuin có tựa đề tiếng Anh là “My Experiences with my Teacher Genrikh Saulovich Altshuller” và đăng trên “TRIZ Home Page in Japan” ngày
08.5.2001: http://www.osaka
gu.ac.jp/php/nakagawa/TRIZ/eTRIZ/
32. Ngày 8/1/2004 TSK đã báo cáo trước Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ về vấn đề phương pháp luận sáng tạo KHKT, do bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ra quyết định thành lập, với GS. TSKH. VS. Phạm Minh Hạc làm chủ tịch Hội đồng. Tất cả các thành viên Hội đồng và đại biểu tham dự cùng nhất trí các đề nghị như: Xem xét áp dụng đưa vào đào tạo sau đại học, có thể mở mã ngành và tổ chức viết tài liệu đào tạo giảng viên; Có thể cho phép đào tạo như môn học tự chọn trong trường đại học; Có thể xem xét giảng dạy trong trường quản lý, bách khoa, sư phạm; Cần mở rộng phạm vi phổ biến, tạo điều kiện biên soạn tài liệu, sách chuyên đề, có thể phổ biến phương pháp luận sáng tạo theo phương thức đào tạo từ xa… Tất cả các đề nghị đã được bộ trưởng giao cho các đơn vị chức năng của Bộ nghiên cứu. Rất tiếc, cho đến nay, không một đề nghị nào được các đơn vị chức năng quan tâm thực hiện.
33. TSK là khách mời của chương trình “Người đương thời” với đề tài “Người gieo mầm sáng tạo”, phát trên VTV1 ngày 10/6/2007. 34. Bảy quyển sách đầu của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” (gồm mười quyển) được Công ty Hạnh Phúc và Nhà xuất bản Trẻ liên kết xuất bản lần đầu tiên năm 2010.
17.2. MỘT SỐ BÀI BÁO, BÀI TRẢ LỜI PHỎNG VẤN VỀ KHOA HỌC SÁNG TẠO, PHƯƠNG PHÁP LUẬN SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI (PPLSTVĐM), HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM SÁNG TẠO KHOA HỌC - KỸ THUẬT (TSK), ĐĂNG TRÊN CÁC BÁO CHÍ VIỆT NAM
ARIS? ARIS?(1)
Công nhân trẻ
Có một công nhân trẻ ở xưởng Ba Son lâu nay vẫn nghĩ với trình độ văn hóa lớp 3 - 4 của mình anh không thể có sáng kiến, cải tiến gì được. Sáng kiến, đó là việc của những kỹ sư. Nhưng sau khi học lớp ARIS do Phòng khoa học - kỹ thuật Câu lạc bộ thanh niên tổ chức,
anh đã nghĩ khác và sau đó anh đã có 2 sáng kiến cải tiến. ARIS là gì?
Chúng tôi tìm đến Câu lạc bộ Thanh niên vào một buổi sáng chủ nhật và câu chuyện giữa chúng tôi với anh Phan Dũng, người phụ trách lớp ARIS bắt đầu.
Xin anh cho biết ARIS là gì?
Khi chưa có compa và phương pháp vẽ đường tròn bằng compa, người ta buộc phải vẽ đường tròn bằng tay. Qua những đường tròn đó, người ta có thể đánh giá sự “khéo tay” của từng tác giả và rõ ràng là có sự chênh lệch về khả năng này đối với những người khác nhau. Sau khi có phương pháp vẽ đường tròn bằng compa, sự chênh lệch về “khả năng vẽ đường tròn” biến mất, mọi người đều vẽ “tròn” như nhau. Như vậy, phương pháp và công cụ đã làm bù trừ khả năng của từng người và làm cân bằng khả năng của mọi người. Tuy nhiên, khi đã có phương pháp và công cụ rồi thì khái niệm về khả năng cũng mang thêm nội dung mới: Khả năng sử dụng phương pháp và công cụ đã có với hiệu quả cao nhất.
Trong tư duy sáng tạo cũng có tình hình tương tự như vậy. Trước đây người ta cho rằng trong tư duy không có phương pháp và công cụ, sự sáng tạo phụ thuộc vào khả năng bẩm sinh của từng người. Gần đây người ta đưa ra một số phương pháp tích cực hóa tư duy, trong số đó, đáng kể nhất là ARIS. Từ ARIS là viết tắt của “Algorithm giải các bài toán sáng chế” theo tiếng Nga. ARIS là do nhà sáng chế - kỹ sư Liên Xô G.S. Altshuller đưa và hoàn thiện cho đến nay.
ARIS là một chương trình các hành động tư duy có định hướng, được kế hoạch hóa. Nó có mục đích tổ chức hợp lý và làm tích cực hóa tư duy sáng tạo, bước đầu tạo cơ sở cho lý thuyết chung về tư duy định hướng. ARIS có tính lôgích và linh động. Về mặt lôgích, ARIS có tác dụng phân nhỏ bài toán sáng chế thành từng phần, vừa sức với người giải bình thường. Về mặt linh động, nó khai thác tới mức lớn nhất mặt mạnh của từng người giải như kiến thức, kinh nghiệm, trí tưởng tượng, linh tính… và hạn chế mặt yếu như tính ì tâm lý, sự phân tán trong suy nghĩ… Có thể lấy hình ảnh tương tự sau đây để minh họa: Một hòn than đá không thể bị đốt cháy ngay bởi một que diêm được. Nhưng nếu ta biết cách đập nhỏ hòn than ra thì đến một mức nào đấy chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng có thể làm bùng cháy.
Cần nhấn mạnh rằng ARIS không phải là “cái đũa thần sáng chế”, nó không thể thay thế kiến thức và kinh nghiệm nhưng nó giúp nâng
cao hiệu suất của tư duy sáng tạo.
Xin anh cho biết lợi ích của ARIS nói chung.
Lợi ích của ARIS nói chung là nâng cao hiệu suất tư duy sáng tạo kỹ thuật. ARIS được bắt đầu nghiên cứu từ sau đại chiến thế giới thứ hai. Lúc đầu nó chưa gây được sự chú ý, từ những năm 60 do những kết quả cụ thể, nó bắt đầu được chú ý và sự chú ý đó ngày càng tăng. Năm 1968 ở trung ương Hội các nhà sáng chế và hợp lý hóa toàn Liên Xô thành lập Tiểu ban phương pháp sáng tạo kỹ thuật, sau đó 1 năm thành lập Phòng thí nghiệm công cộng phương pháp sáng chế. Từ năm 1971 ở thành phố Bacu lần đầu tiên mở Trường đại học và viện nghiên cứu công cộng sáng tạo sáng chế. Đến nay các trường sáng chế đã được mở ở 70 thành phố. Tài liệu ARIS được dịch ở Cộng hòa dân chủ Đức. Nhờ ARIS người ta đã nhận được giấy chứng nhận tác giả cho hơn 3000 sáng chế.
Hiện nay Câu lạc bộ Thanh niên có mở lớp nhằm giới thiệu để bước đầu các bạn trẻ yêu thích sáng tạo kỹ thuật áp dụng thử. Để đánh giá đúng lợi ích của nó trong thực tế, ở nước ta, tôi nghĩ cần có thời gian và biện pháp tổ chức hợp lý.
Nếu tôi là một công nhân bình thường, mới học qua lớp 4, 5, tôi có thể theo kịp lớp ARIS được không, có đủ khả năng tiếp thu và ứng dụng nó vào thực tế được không?
Việc giới thiệu ARIS còn mới ở bước đầu thành ra chưa có nhiều ví dụ sống để chứng minh, nhưng điều đó không có nghĩa là không thể có. Theo tôi nghĩ ở đây có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng.
Hình thức giới thiệu ARIS như thế nào đối với các loại đối tượng nghe. Bản thân người nghe tự phấn đấu như thế nào…
Vì thế giới rất đa dạng, cho nên không loại trừ trường hợp với kiến thức lớp 4, 5, có thể có những sáng kiến, cải tiến. Nhưng như trên có nói, ARIS không thể thay thế cho kiến thức và kinh nghiệm, nó giúp ta khai thác tới mức tối đa kiến thức của người dùng nó.
"""