"
Giải Phóng Sức Mạnh Tư Duy Phản Biện PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Phóng Sức Mạnh Tư Duy Phản Biện PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
HỘI MÊ SÁCH
Tải eBooks miễn phí tại https://hoimesach.com Nhận eBooks miễn phí qua Zalo: https://zalo.hoimesach.com Group: https://facebook.com/groups/mesachhoi
GIẢI PHÓNG SỨC MẠNH TƯ DUY PHẢN BIỆN ----------------*----------------
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG
Trụ sở: Số 655 Phạm Văn Đồng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội Điện thoại: 024-3 934 1562
Fax: 024-3 938 7164
Website: http://nhaxuatbancongthuong.com E-mail: nxbct@moit.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản
Giám đốc - Tổng Biên tập
NGUYỄN MINH HUỆ
Biên tập: Tôn Nữ Thanh Bình
Sửa bản in: Phương Nguyễn
Trình bày: Vũ Lê Thư
Thiết kế bìa: Trang Fu
CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH ALPHA
www.alphabooks.vn
VP HN: Tầng 3, Dream Center Home, số 11A, ngõ 282 Nguyễn Huy Tưởng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội
Tel: (84-24) 3 722 62 34 | Fax: (84-24) 3 722 62 37
Chi nhánh TP. HCM: 138C Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh
Tel: (84-28) 38220 334 | 35
In 3000 cuốn, khổ 12 x 18 cm tại Công ty Cổ phần In và Thương mại Prima
Địa chỉ: số 35, ngõ 93 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội Số xác nhận đăng kí xuất bản: 4436-2022/CXBIPH/05-251/CT
Số Quyết định xuất bản: 457/QĐ - NXBCT ngày 08 tháng 12 năm 2022
In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2023
Mã số ISBN: 978-604-362-511-0
NHỮNG NGƯỜI CÓ TƯ DUY PHẢN BIỆN
không tiếp nhận thông tin một cách thụ động.
Thay vào đó, họ áp dụng các quy tắc logic và kinh nghiệm của bản thân để diễn giải các thông điệp mà mình nghe và nhìn thấy một cách đúng đắn.
Tư duy quan trọng nhất trong thế giới hiện đại
Kỹ năng nào trong cuộc sống có thể còn quan trọng hơn bằng đại học? Đó là tư duy phản biện (Critical Thinking), một kỹ năng cơ bản đang ngày càng trở nên quan trọng trong thế giới hiện đại.
Một trong những lý do khiến hầu hết chúng ta đưa ra các quyết định sai lầm, nhiều khi đi theo đám đông, đầu tư theo xu hướng và hành động theo phong trào dẫn đến thất bại mà thiếu những quyết định đúng đắn là vì hệ thống giáo dục không dạy tư duy phản biện. Đó là lý do khiến hầu hết chúng ta không bao giờ phát huy hết tiềm năng của mình, không có tư duy phản biện dẫn đến suy luận kém, không có khả năng phân biệt sự thật từ hư cấu, từ những lừa dối và ngụy biện.
Trong một xã hội tràn ngập thông tin và đầy cạm bẫy như ngày nay, nhận thấy tư duy phản biện ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với mọi người, từ các em học sinh đến sinh viên, người lao động, quản lý, điều hành và cả những nhà lãnh đạo, nên Alpha Books tìm kiếm và lựa chọn những cuốn sách hữu ích nhất về chủ đề này để giới thiệu tư duy phản biện là gì, cách xây dựng thói quen tư duy phản biện và phân biệt sự thật với hư cấu, qua đó, giúp các bạn vững chắc hơn trong hành trình của mình.
Bộ sách này bao gồm:
Tư duy phản biện từ làm quen đến thói quen: 9 tiêu chuẩn, 8 yếu tố, 7 đặc điểm đối với nhà tư duy phản biện
Rèn thói quen tư duy phản biện: Công cụ và ứng dụng kiến tạo tư duy ưu việt
Bẫy ngụy biện trong tư duy phản biện: Bốn quy luật logic và các lỗi thường gặp
Giải phóng sức mạnh tư duy phản biện: Giải mã 10 kiểu ngụy biện, triệt tiêu chiêu trò lừa đảo và hiểu chính xác về ngụy khoa học
Chúng tôi tin rằng, bộ sách này sẽ cung cấp cho các bạn:
• Khung tư duy phản biện được phát triển bởi hai trong số những nhà khoa học về tư duy phản biện giàu kinh nghiệm nhất mọi thời đại và cách biến nó thành của riêng bạn.
• 8 đặc điểm tư duy phản biện bạn đã có, nhưng không biết cách tối ưu hóa chúng.
• Cách xác định tin giả và thông tin sai lệch – tìm hiểu điều này và bạn sẽ có lợi thế LỚN hơn hầu hết mọi người xung quanh mình ngay bây giờ.
• Lý do bạn nên nghi ngờ bất cứ ai trích dẫn một nhân vật có thẩm quyền.
• 6 quy tắc biến thói quen hiện tại của bạn thành thói quen lành mạnh.
• Các bài tập dễ áp dụng, dễ thực hiện để bạn luyện tập mọi điểm đã đề cập. Bạn sẽ không “đọc và quên” bộ sách này.
… và nhiều, nhiều hơn thế nữa!
Chúng tôi tin rằng, những người không ngừng học tập sẽ tiếp tục phát triển và thành công. Vì thế, cách thức trở thành một người có tư duy độc lập và đưa ra các quyết định thông minh là mục đích của chúng tôi. Chúng tôi mong rằng bộ sách thực tế, dễ đọc này sẽ giúp bạn xây dựng những lập luận vững chắc hơn, đưa ra các quyết định tự tin hơn và phát hiện ra những lỗi logic trong cuộc sống.
Tư duy phản biện sẽ giúp bạn có các quyết định đúng đắn hơn, thông minh hơn trong cuộc sống cá nhân và nghề nghiệp của bạn.
NGUYỄN CẢNH BÌNH
Chủ tịch Alpha Books Viện trưởng Viện lãnh đạo ABG
GIỚI THIỆU
Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao lại có quá nhiều thông tin sai lệch ngoài kia? Với việc tin giả tiếp cận số người dùng trên Twitter nhiều gấp hàng trăm lần so với tin thật, có lẽ không có gì lạ khi chúng ta gặp khó khăn trong việc phân biệt sự thật với những điều vô nghĩa. Điều đó dẫn chúng ta đến một câu hỏi khác: ai nghĩ ra sự thật, và làm thế nào để họ biết điều gì là có thật? Tại sao một số người tin vào những giải thích chính thức hoặc khoa học, trong khi những người khác lại thích tin vào các giải pháp khác?
Có phải lừa dối là một phần không thể tránh khỏi đối với sự tồn tại của con người? Chúng ta có thể phát triển các kỹ năng để đối phó với làn sóng lừa dối tiềm ẩn này và tìm ra sự thật không?
Tất cả chúng ta đều học tư duy phản biện ở trường phổ thông và đại học, nhưng chúng ta có thường xuyên áp dụng nó trong cuộc sống hằng ngày không? Quan trọng hơn, chúng ta có thường xuyên tương tác với những người không áp dụng phương pháp tư duy phản biện trong công việc và cuộc sống cá nhân của họ không? Nhiều người vui vẻ tin vào những ý tưởng vô nghĩa, cho dù đây là những quan niệm sai lầm vô tội hay (trong một số trường hợp) thông tin sai lệch nguy hiểm. Bằng cách phát triển kỹ năng tư duy phản biện của mình hơn nữa, bạn có thể học cách đối phó với những người khó tính này và trình bày mạch lạc về lý do tại sao có lẽ họ nên nghiên cứu để củng cố quan điểm của mình.
Tư duy phản biện cũng giúp chúng ta làm việc hiệu quả và năng suất hơn, cho phép chúng ta tập trung vào những thông tin liên quan và loại bỏ những thông tin không cần thiết hoặc không chính xác. Điều này giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn cho những thứ và những người mình thích. Nếu đang cố gắng đạt được sự cân bằng, bạn nên dành thời gian để trau dồi những kỹ năng này và học cách áp dụng chúng trong nhiều tình huống.
Nhiều người có tính cầu toàn, và điều đó không có gì sai. Chúng tôi biết rằng những người cầu toàn mang lại kết quả tốt hơn nhờ tiêu chuẩn cao của họ, nhưng tại sao bạn không hợp lý hóa tính cầu toàn của mình và làm điều tương tự hoặc tốt hơn với ít nỗ lực hơn? Đó là nơi các kỹ năng trong cuốn sách này phát huy tác dụng.
Cuốn sách này sẽ hướng dẫn bạn chi tiết về cách sử dụng tư duy phản biện để xác định sự thật. Nó bao gồm các ví dụ cụ thể, câu chuyện minh họa, giải thích cặn kẽ và bài tập thực hành; tất cả được hỗ trợ thông qua một loạt nghiên cứu khoa học được các chuyên gia trong lĩnh vực của họ thực hiện.
Mỗi chương có nội dung độc lập và được sắp xếp hợp lý, có nghĩa là bạn không cần phải đọc tất cả trong một lần để hiểu nội dung. Bạn sẽ hiểu cách phân biệt sự thật trong nhiều bối cảnh khác nhau, từ tin tức trực tuyến đến các tuyên bố khoa học, hay những tương tác cá nhân. Bạn sẽ tìm hiểu thêm về phương pháp khoa học, bao gồm cả chủ nghĩa hoài nghi khoa học và cách phân biệt khoa học với ngụy khoa học.
Bạn cũng sẽ tìm hiểu xem tâm trí có thể ngăn cản bạn tìm ra sự thật như thế nào bằng một cuộc thảo luận về những thiên kiến, phương pháp phỏng đoán và ngụy biện phổ biến, bao gồm cả những cách khắc phục chúng. Biết thêm về những điều này cũng sẽ giúp bạn đối phó hiệu quả hơn với những người khó tính, kể cả những người đang cố bán cho bạn những ý tưởng giả mạo hoặc những sản phẩm tinh vi. Bằng cách tìm hiểu thêm về cách phân loại sự thật khỏi những điều dối trá, bạn có thể đưa ra kết luận và quyết định đúng đắn hơn. Bạn cũng có thể giúp những người chưa có kiến thức này cảm thấy tự tin hơn vào bản thân.
Tác giả của cuốn sách này là Camilla J. Croucher. Cô tốt nghiệp với bằng tiến sĩ chuyên ngành khoa học nhận thức tại Đại học Cambridge năm 2007 và sau đó hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại City, Đại học London. Chuyên môn học thuật của cô bao gồm trí nhớ cảm xúc, xử lý hình ảnh, phán đoán và ra
quyết định. Cô rất xuất sắc về số liệu thống kê nhưng không muốn làm bạn cảm thấy nhàm chán vì điều đó. Cô cũng đã làm việc trong lĩnh vực bán lẻ, quản lý nghiên cứu lâm sàng, thương mại điện tử, hỗ trợ học tập và (tất nhiên) viết lách tự do. Mối quan tâm của cô đối với những ảo ảnh do mắt và tâm trí tạo ra vẫn không đổi trong mỗi vai trò này, và cô rất thích viết cuốn sách này. Cuốn sách không đi theo hướng toàn lý thuyết về tư duy phản biện, cũng không phải là một văn bản triết học. Thay vào đó, nó tóm tắt những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy và ý kiến của các chuyên gia, đồng thời gợi ý những kỹ thuật và bài tập thực hành mà bạn có thể sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Còn bây giờ, bạn đã sẵn sàng khám phá ý nghĩa của việc trở thành một nhà tư duy phản biện chưa?
TIẾN SĨ CAMILLA J. CROUCHER
- 1 -
Ý NGHĨA CỦA TƯ DUY PHẢN BIỆN TRONG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
Cô hiệu trưởng Sham Anderson hít một hơi và cúp điện thoại. Trưởng ban tài chính của trường đã không bắt máy. Sáng hôm đó có một tin động trời: Giám đốc của Loofberger Inc. từ chức, khiến cổ phiếu của công ty đột ngột lao dốc.
Hiển nhiên, cô Anderson giờ đang vô cùng lo lắng về khoản đầu tư hàng triệu đô-la của trường vào công ty đó. Quyết định đầu tư vào một công ty vừa chào hàng một sản phẩm hoàn toàn mới hẳn là rất rủi ro. Tuy nhiên, Nhà trường vẫn có được kinh phí, bất chấp áp lực rất lớn từ khoa khoa học và công nghệ.
Việc xây dựng một trung tâm nghiên cứu không gian mới sẽ cho phép nhà trường xây dựng các tàu thăm dò để đi tìm sự sống trên các vệ tinh tự nhiên khác nhau khắp Hệ Mặt trời. Điều này là bất khả thi nếu không có một số tiền lớn.
Công ty hoạt động trơn tru trong thời gian đầu, và điều này cho thấy rủi ro là thấp. Ban Tài chính nhanh chóng quyết định rằng danh tiếng của Loofberger xứng đáng để họ đầu tư.
Chẳng bao lâu, những dấu hiệu đầu tiên của việc Loofberger gặp rắc rối đã xuất hiện. Sản phẩm của họ không bán được như mong đợi. Giá cổ phiếu từ từ sụt giảm. Tuy nhiên, Keller đảm bảo với Ban Tài chính rằng đó chỉ là một nhiễu động nhỏ và tình hình sẽ sớm khởi sắc.
Sham giật mình khi chuông điện thoại reo: màn hình hiển thị số lạ. Một giọng nói u ám xác nhận Loofberger đã phá sản: Nhà trường đã mất toàn bộ khoản đầu tư.
Khi cân nhắc lại, một vài manh mối đã lộ ra.
Marvin Keller đã không tiết lộ rằng anh rể của mình chính là Giám đốc của Loofberger. Là một người bạn lâu năm và cũng là đồng nghiệp, cô Anderson chưa từng nghĩ sẽ nghi ngờ anh ta. Vài tháng sau khi hoàn tất thỏa thuận, Keller đã nghỉ phép dài ngày để thực hiện các dự án đặc biệt tại ngôi nhà ven hồ của mình.
Còn dữ liệu về thị trường đầy hứa hẹn ban đầu của Loofberger thì sao? Chúng quá đẹp – một sự giả mạo khá thông minh.
Nhà trường không bao giờ có được trung tâm nghiên cứu không gian đó, và rất nhiều cán bộ đã chuyển đến các tổ chức khác ít lúng túng hơn. Đồng nghiệp của Anderson khuyên cô nên nghỉ hưu sớm, và cô đã làm như vậy. Các sinh viên đã “vote” sơn trần căng-tin màu đen để sự mất mát, và những mảnh sơn nhỏ đã bong ra khiến nó trông giống như bầu trời đêm.
Chuyên gia tài chính trong kịch bản này có những động cơ đáng ngờ, nhưng không ai nghĩ đến việc đặt ra nghi vấn về chúng. Lời khuyên của chuyên gia thường đáng tin cậy, nhưng chúng ta không nên xem xét vấn đề chỉ trên bề mặt. Hãy đặt câu hỏi về việc làm sao bạn biết người cung cấp thông tin thực sự là chuyên gia, và làm thế nào họ có được những kiến thức này.
Thật khó để đưa ra những quyết định phức tạp khi chúng ta có thông tin hạn chế, nhưng điều quan trọng vẫn là kiểm chứng nguồn và nội dung của nó bằng cách thu thập bằng chứng để hỗ trợ các quyết định và kết luận của chúng ta.
Tư duy phản biện là một cách tiếp cận hiệu quả, có thể giúp bạn ra quyết định chính xác hơn. Những người có tư duy phản biện không tiếp nhận thông tin một cách thụ động. Thay vào đó, họ áp dụng các quy tắc logic và kinh nghiệm của bản thân để diễn giải các thông điệp mà mình nghe và nhìn thấy một cách đúng đắn1.
SƠ LƯỢC VỀ TƯ DUY PHẢN BIỆN
Các quy trình lập luận trực quan rất hiệu quả với các mục đích thường nhật, nhưng lại có thể khiến chúng ta đi sai hướng khi áp dụng vào các tình huống phức tạp hơn. Lý do là bộ não người thích đi lối tắt trong khi tư duy phản biện cắt giảm các lối tắt và quá trình xử lý tự động: đó là một quy trình tự kiềm chế bản thân.
Nói như vậy không có nghĩa là tư duy phản biện hoàn toàn khác với tư duy trực quan và suy luận; có thể sẽ tốn thêm công sức, nhưng ai cũng có thể hình thành tư duy phản biện. Các nguyên tắc khá đơn giản, nhưng mọi người không áp dụng chúng một cách nhất quán.
Lập luận ngụy biện rất phổ biến. Mọi người hút thuốc, bất chấp những nguy hiểm đã biết với sức khỏe. Họ cũng đánh bạc triền miên, bán hết của cải và đánh mất cả những người thân yêu chỉ vì cơn nghiện của mình.
Tư duy phản biện là công cụ quan trọng giúp tránh khỏi bẫy lập luận ngụy biện, vì nó giúp chúng ta giải quyết vấn đề tốt hơn. Thật không may, lập luận ngụy biện có thể trở thành thói quen. Ví dụ, nếu ai đó tự lý giải rằng “chiêm tinh học chỉ để giải trí và chúng ta không cần chứng minh nó như một môn khoa học”, thì cũng ổn thôi, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu họ áp dụng lý luận tương tự vào một ý tưởng ngụy khoa học khác? Con dốc trơn tuột này có thể khiến chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng chưa được chứng minh và thậm chí là bị thao túng2.
Tuy tư duy phản biện bao gồm các nguyên tắc đơn giản, nhưng bạn vẫn cần mài giũa. Những người có tư duy phản biện sắc sảo nhất sở hữu chung một số đặc điểm sau3:
Họ luôn đặt câu hỏi: Họ xác định những thông tin có liên quan và ghép nối chúng với những ý tưởng trừu tượng. Họ đưa ra các kết luận phù hợp rồi kiểm tra chúng.
Họ không bao giờ cho rằng mình đúng ngay lần đầu tiên: Họ thử các phương pháp tiếp cận và đóng khung vấn đề khác nhau.
Họ kết luận bằng lập luận chứ không hợp lý hóa kết luận: Lập luận có nghĩa là sử dụng logic để kết luận, trong khi hợp lý hóa có nghĩa là tìm một logic phù hợp với kết luận4. Nói cách khác, hợp lý hóa là một kiểu lập luận ngược.
Họ rất giỏi kết nối với người khác: Đây không chỉ là việc chia sẻ rõ ràng ý tưởng của mình mà còn liên quan đến việc lắng nghe và hợp tác. Bạn thậm chí có thể cải thiện tư duy phản biện bằng cách làm việc với những người có kỹ năng tư duy phản biện trình độ cao5.
Vậy tại sao tư duy phản biện lại quan trọng? Một mặt, nó giúp chúng ta phân biệt sự thật, quan điểm, tuyên bố và bằng chứng. Chúng ta phải phân định rõ bốn khái niệm có mối liên hệ chặt chẽ này, nếu không người khác có thể sử dụng chúng để thuyết phục, đánh lạc hướng hoặc thậm chí thao túng chúng ta.
Sự thật
Chính xác thì sự thật là gì? Quan trọng hơn, làm thế nào để bạn biết một điều là sự thật? Điều gì sẽ xảy ra nếu nó chỉ là một quan điểm hoặc một tuyên bố?
Sự thật là thông tin mà chúng ta có thể xác minh. Chúng ta có thể tận mắt nhìn thấy hoặc xác minh sự thật từ một nguồn đáng tin cậy. Ví dụ, số nguyên tử của cacbon là 6; Nội chiến Mỹ diễn ra từ năm 1861 đến năm 1865; Armstrong là người đầu tiên đi bộ trên Mặt trăng. Những thông tin này đều là sự thật.
Nếu không đi sâu vào triết học, chúng ta có thể lưu ý ở đây rằng “sự thật” là một ý tưởng trừu tượng. Không ai dám chắc điều gì là thật (hay giả). Ở phần sau, khi xem xét chủ nghĩa hoài nghi khoa học, chúng ta sẽ kiểm chứng điều này chi tiết hơn. Giờ hãy giả sử rằng sự thật có thể tồn tại và tư duy phản biện ít nhất sẽ đưa chúng ta đến gần nó hơn.
Là người có tư duy phản biện, bạn nên xác minh bất kỳ sự thật nào gặp phải. Làm sao bạn biết được đó là một sự thật chứ không phải giả định? Hãy cố gắng tự xác minh “sự thật”; có thể đó là một giả định nếu bạn không thể xác minh. Trong quá trình kiểm chứng, có thể bạn sẽ nhận ra giả định đó là không chính xác.
Trong một số trường hợp, giả định là điều tốt nhất chúng ta có thể làm. Ví dụ: khi đang thiết kế một sản phẩm mới, trước tiên, bạn có thể cho rằng nó sẽ thu hút những khách hàng mua các sản phẩm có liên quan. Sau đó, bạn có thể thu thập bằng chứng qua các nghiên cứu thị trường.
Khi xác minh một sự thật, bạn có thể phát hiện ra nó đã lỗi thời hoặc là một khái niệm hoàn toàn sai. Hãy xem xét kỹ các dữ kiện, đồng thời học cách công nhận những dữ kiện đúng và bác bỏ những dữ kiện sai.
Quan điểm
Quan điểm có thể giống với sự thật, nhưng đó là những nhận định chủ quan. Mọi người thường nhầm lẫn rằng quan điểm cũng là sự thật, có lẽ bởi những quan điểm được bảo vệ bằng lập luận vững chắc mang đến cảm giác rất thật. Quan điểm luôn có tính đánh giá hoặc so sánh, ngay cả khi chúng xuất hiện dưới hình thức giống như
sự thật bằng cách mô tả hay định nghĩa. Vì vậy, việc cho rằng một thứ gì đó là tốt nhất chắc chắn phải là một quan điểm.
Hãy xem xét câu sau:
“Joseph Bloggs là vận động viên trượt tuyết đổ đèo giỏi nhất vì đã giành được nhiều huy chương vàng nhất.”
Câu này là một quan điểm dựa trên một sự thật. Bạn có thể xác minh hoặc bác bỏ việc người này đã giành được nhiều huy chương nhất bằng cách đọc bảng tổng sắp huy chương. Quan điểm cho rằng sự thật đó khiến Joseph Bloggs trở thành vận động viên trượt tuyết đổ đèo giỏi là không thể xác minh: đó chỉ là góc nhìn của một người.
Một vận động viên trượt tuyết mới nổi có thể là người giỏi nhất, ngay cả khi chưa giành được bất cứ danh hiệu gì. Anh/cô ta có thể đánh bại Joseph Bloggs trong mọi cuộc đua, nhưng nếu số huy chương là thước đo tốt nhất để đánh giá khả năng trượt tuyết, thì vận động viên trượt tuyết mới nổi kia không thể là người giỏi nhất.
Động cơ, thái độ và trạng thái cảm xúc có ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm của chúng ta6 7. Điều này khiến các quan điểm dễ bị ảnh hưởng bởi đủ loại thiên kiến; hai người nắm được thông tin giống hệt nhau hoàn toàn có thể có quan điểm trái ngược nhau. Tất nhiên, quan điểm hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian và không cần dựa trên sự thật nào cả.
Tuyên bố
Tương tự quan điểm, tuyên bố cũng thường bị hiểu lầm thành sự thật. Tuyên bố có thể là thật, nhưng đó là một khẳng định được trình bày mà không có bằng chứng. Do đó, rất dễ để phân biệt
tuyên bố với sự thật; bạn chỉ cần kiểm tra xem nguồn thông tin có cung cấp bất kỳ bằng chứng nào cho tuyên bố hay không.
Tuyên bố có thể là hàm ngôn chứ không phải hiển ngôn. Những bức ảnh “trước và sau” trong các quảng cáo làm đẹp là một ví dụ điển hình. Các quảng cáo có thể tuyên bố rõ ràng hoặc úp mở rằng phương pháp điều trị giúp cải thiện làn da, nhưng làn da chắc chắn trông khỏe mạnh hơn trong bức ảnh “sau”.
Các công ty sản xuất quảng cáo để khiến người xem tiêu tiền chứ không phải để đưa ra sự thật, dẫn đến việc các nhà quảng cáo đưa ra các tuyên bố không khác gì sự thật. Nhưng các tuyên bố cũng xuất hiện trong tự nhiên.
Những người theo thuyết âm mưu cho rằng loài người không đặt chân tới Mặt trăng vào năm 1969, tất cả là do NASA đã đánh lừa bằng các thủ thuật phim ảnh trong một studio truyền hình. Đó chỉ được coi là một tuyên bố vì không có bằng chứng gì chứng minh đó là giả mạo.
Việc tạo ra một cuộc đổ bộ giả lên Mặt trăng đòi hỏi làm giả rất nhiều bằng chứng. Dữ liệu kỹ thuật giả và cảnh quay giả chỉ là bước đầu. NASA hẳn phải thuyết phục toàn bộ nhân viên của họ nói dối, chưa kể đến việc làm giả giấy tờ.
Bằng chứng
Không chỉ những kẻ điên theo thuyết âm mưu mới kiên định với điều mình nói kể cả khi có bằng chứng phản bác rõ ràng8. Tất cả chúng ta đều làm vậy. Đôi khi, chúng ta đều bỏ qua hoặc hiểu sai bằng chứng. Điều này dẫn đến câu hỏi quan trọng: bằng chứng chính xác là gì, và chúng ta nên sử dụng nó như thế nào?
Bằng chứng là một thuật ngữ thường đàm, nhưng là những người có tư duy phản biện, chúng ta cần một định nghĩa khoa học hơn. Bằng chứng đề cập đến một thông tin hỗ trợ một lập trường nhất định.
Chúng ta thường dùng bằng chứng để chứng minh hay bác bỏ một niềm tin hoặc quyết định xem một phán quyết hay quan điểm có hợp lý không. Tất nhiên, ta cần bằng chứng từ các nguồn khác nhau.
Một bằng chứng xác đáng đến từ nhiều nguồn đáng tin cậy. Hãy tưởng tượng bạn đang nghe lén một cuộc trò chuyện trong một bữa tiệc. Có người tuyên bố: “Đầu tư là một cách tuyệt vời để kiếm tiền.” Một nhà đầu tư thành công đang lắng nghe; anh ta gật gù đầy hào hứng và bắt đầu khoe khoang về những thành tựu to lớn của mình. Bạn có muốn nghe quan điểm ngược lại không?
Càng có nhiều bằng chứng hỗ trợ cho một kết luận, kết luận đó càng nhiều khả năng là đúng. Bạn có thể lấy bằng chứng từ các nguồn có sẵn hoặc tự thu thập chúng.
Hãy nghĩ về việc một loạt chuyên gia quan tâm đến lý do tại sao mọi người sa vào cờ bạc. Vị bác sĩ không cho rằng điều tra xã hội học là cách tốt nhất để nghiên cứu vấn đề này, trong khi vị giáo sư xã hội học lại quả quyết đó là phương án hợp lý duy nhất.
Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu sẽ xem xét các khía cạnh khác nhau của chứng nghiện cờ bạc. Bác sĩ quyết định xem xét sự khác biệt về thể chất trong cơ thể và bộ não của người nghiện so với người bình thường; có thể sự khác biệt sẵn có sẽ dự đoán việc ai thỉnh thoảng đánh bạc mà không bị nghiện. Ngược lại, nhà xã hội học muốn xem xét các yếu tố kinh tế xã hội như hoàn cảnh gia đình, vấn đề nhà ở và tình trạng nghèo đói của những người đánh bạc.
Nghiên cứu về cờ bạc có thể liên quan đến khoa học thần kinh, các cuộc phỏng vấn người đánh bạc, khoa học dữ liệu lớn… bên cạnh các cuộc khảo sát và nghiên cứu lâm sàng. Các cách tiếp cận
này đều hữu ích vì chúng nhìn nhận vấn đề ở những cấp độ khác nhau. Khi tập hợp và xử lý theo logic hợp lý, những bằng chứng thu thập được có thể mang lại dữ liệu chắc chắn hơn so với chỉ riêng bác sĩ hoặc giáo sư. Nhóm này có thể điều tra tất cả các nguyên nhân tiềm ẩn của cờ bạc và so sánh xem các yếu tố khác nhau dự đoán ra sao về việc ai có thể trở thành con nghiện cờ bạc.
Tóm lại, sự không chắc chắn là rất tốt vì nó thúc đẩy chúng ta xem xét vấn đề sâu hơn. Bạn có thể thu thập mọi sự thật hay xác minh mọi bằng chứng. Điều tốt nhất bạn có thể làm là kiểm chứng các ý tưởng và niềm tin của mình đồng thời cải thiện chúng dựa trên những bằng chứng thu được trong suốt quá trình tìm hiểu.
SO SÁNH SỰ THẬT VÀ CÁC PHẠM TRÙ KHÁC
Người có tư duy phản biện luôn biết đánh giá thông tin chứ không phải cứ thế tiếp thu. Bạn cần phân biệt rõ ràng giữa sự thật và ba phạm trù: quan điểm, dữ kiện hư cấu và cảm xúc.
Sự thật và Quan điểm
Thứ nhất, phân biệt rõ sự thật và quan điểm là tối quan trọng. Hãy nhớ rằng, chúng ta có thể chứng minh sự thật nhưng không thể chứng minh quan điểm (góc nhìn chủ quan). Hàng loạt sự thật giả tạo vẫn tấn công chúng ta hằng ngày, nhưng thực ra, đó thường là các quan điểm được ngụy trang.
Các tài liệu kinh doanh, và thậm chí cả các báo cáo khoa học, đôi khi trình bày quan điểm như sự thật. Tác giả có thể phạm phải lỗi này trong khi theo đuổi các kết quả tích cực nhằm thuyết phục người khác đồng ý với mình. Đôi khi, họ có thể hiểu sai cách diễn đạt thông tin bằng lời nói. Ví dụ, việc trình bày quan điểm dựa trên dữ liệu như thể các quan điểm đó chính là dữ liệu là hoàn toàn sai.
Các dữ kiện giống nhau được trình bày khác nhau có thể dẫn đến những kết luận trái ngược. Điều này nguy hiểm ở chỗ, người đọc sau đó sẽ coi các quan điểm là sự thật.
Sự thật và Dữ kiện hư cấu
Thứ hai, chúng ta cần phân biệt rõ sự thật và dữ kiện hư cấu. Việc này khó hơn bạn tưởng. Các dữ kiện hư cấu được gán mác sự thật không phải là vấn đề, mặc dù những tay xuyên tạc có thể nói rằng chúng là thật theo một cách nào đó. Internet đầy rẫy những người tin vào những điều khó xảy ra.
Một trong số đó là việc người ngoài hành tinh đã để lại những “Cổng trời” trên khắp vũ trụ, kể cả Trái đất. Các Cổng trời này cho phép mọi sinh vật du hành tức thì từ hành tinh này sang hành tinh khác. Có lẽ bạn sẽ nhớ đến một bộ phim truyền hình dài tập về chủ đề này.
Có rất nhiều ví dụ khác về những người coi khoa học viễn tưởng là sự thật. Tuy nhiên, các kiểu dữ kiện hư cấu quy mô nhỏ hơn cũng tồn tại. Thuyết âm mưu là ví dụ điển hình về những dữ kiện hư cấu được trình bày dưới dạng sự thật mà lý do có thể xuất phát từ sự nhầm lẫn, lời nói dối, suy nghĩ hoang đường hay khoảnh khắc mơ hồ9 10.
Sự thật và Cảm xúc
Phân biệt sự thật với cảm xúc cũng rất quan trọng. Chúng ta có thể rất tự tin với các quan điểm mà mình coi là sự thật, và tương tự, cảm xúc cũng có thể khiến chúng ta hành xử như thể chúng là sự thật11. Chúng ta cũng tin rằng các lập luận ủng hộ những lập trường sẵn có của chúng ta chặt chẽ và mạnh mẽ hơn12.
Việc phân biệt sự thật và cảm xúc nghe có vẻ dễ dàng, đặc biệt nếu bạn coi mình là người có tư duy lý trí, nhưng việc đó không phải lúc nào cũng đơn giản.
Hãy xem ví dụ về một cặp vợ chồng đang tranh cãi nảy lửa. Người vợ hét lên:
“Tôi ghét anh! Anh lúc nào cũng chỉ tay năm ngón. Tôi ước mình chưa từng gặp anh!”
Những ý nghĩ này mang lại cảm giác sống động và rất thật vào thời điểm nói, nhưng khi đã bình tâm và làm hòa với nhau, họ sẽ hối hận vì đã nói ra những lời này. Họ nhận ra những ý tưởng này thể hiện cảm xúc chứ không phải sự thật về mối quan hệ giữa họ.
Sự hấp dẫn là nền tảng của nhiều mối quan hệ và cũng là một trong những cảm xúc tô điểm cho nhận thức của chúng ta. Trước đó, trong mối quan hệ vừa được đề cập, hai vợ chồng cũng có thể nói những điều như:
“Em là cô gái xinh đẹp nhất anh từng gặp. Em không giống những người khác, em tốt hơn nhiều.”
Một lần nữa, những ý tưởng này mang đến cảm giác cụ thể và rất thật vào thời điểm nói, nhưng cũng chỉ là những lời có cánh. Cảm xúc tích cực có thể thú vị hơn, nhưng không hề thật hơn cảm xúc tiêu cực.
Vậy, làm thế nào chúng ta phân biệt được sự thật và cảm xúc?
Đầu tiên, hãy phân định rõ chất lượng cảm xúc và trạng thái cảm xúc13.
Chất lượng cảm xúc là cảm xúc mà ai đó muốn truyền tải trong một bức ảnh, bài báo, quảng cáo hoặc các thông điệp khác. Thông thường, quảng cáo cho các chiến dịch từ thiện sẽ truyền tải hình ảnh con người hoặc động vật trong hoàn cảnh đáng thương, có thể là trẻ em đang khóc, khiến người xem thấy đau buồn và tội lỗi. Trong trường hợp này, nỗi buồn là chất lượng cảm xúc của quảng cáo.
Trạng thái cảm xúc là cảm giác của bạn vào thời điểm hiện tại: bình tĩnh, phấn khích, nuối tiếc hay lo lắng.
Bạn có thể có hoặc không cảm thấy chất lượng cảm xúc mục tiêu của một đoạn quảng cáo từ thiện. Điều đó không quan trọng. Để đánh giá thông điệp bằng tư duy phản biện, bạn chỉ cần tìm ra cảm xúc mà bạn phải cảm thấy và nhận thức được nó trong quá trình xử lý thông điệp.
Khi đánh giá một tuyên bố hoặc thông điệp, hãy lưu ý xem tác giả có đang nhầm lẫn cảm xúc của họ với sự thật hay không. Người ta thường có cảm giác mạnh mẽ với các nguyên nhân, và cảm xúc sẽ thúc đẩy chúng ta biện minh cho các quyết định hoặc hành động của mình.
Tất cả chúng ta đều bị trạng thái cảm xúc và những kinh nghiệm trong quá khứ ảnh hưởng. Cái khó nằm ở chỗ cảm xúc có tác động rất lớn vào thời điểm xảy ra. Việc nhận ra cảm xúc ảnh hưởng đến nhận thức mới chỉ là bước đầu tiên.
Để cân bằng, chúng ta nên bình tĩnh và cố gắng để không bị cảm xúc cốt lõi ảnh hưởng (cảm giác của chúng ta khi tiếp nhận thông tin) thay vì xem xét thông tin một cách khách quan. Hãy tạo khoảng lặng và cố gắng nhận diện chính cảm xúc đó như một thực thể riêng biệt với thông tin bạn đang xử lý. Tương tự, chất lượng cảm xúc của một thông điệp cũng khác với ý nghĩa của nó.
Chúng ta cần cân bằng những cảm xúc như vậy bởi trạng thái cảm xúc ảnh hưởng đáng kể đến quá trình lập luận của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta thường sử dụng cảm xúc để hợp lý hóa các quyết định và hành vi của mình.
Mua sắm là một ví dụ điển hình. Người tiêu dùng thường mua những thứ họ không muốn hoặc không cần. Bản thân điều này không phải là vấn đề, vì nó có lợi cho nền kinh tế. Tuy nhiên, chi tiêu quá mức thì lại là vấn đề. Ví dụ: câu chuyện sẽ đáng nói nếu ai đó không thể cưỡng lại việc chi 300 đô-la cho một đôi giày thể thao mới khi họ cần trả tiền thuê nhà, nhưng lại biện minh cho việc mua đôi giày đó bằng lý do là họ thực sự muốn chúng.
Nghiên cứu cho thấy rằng các chuyên viên lâm sàng, như y tá và bác sĩ, thường xuyên đưa ra các quyết định thiên về cảm xúc14. Đáng lý, quyết định về việc có dừng điều trị hay không nên được đưa ra dựa trên các lý do về mặt y tế chứ không phải dựa trên cảm xúc. Do đó, các bác sĩ cần đào tạo thực tập sinh nhằm đánh giá khách quan nhất có thể, ngay cả khi đối mặt với những tình huống nhiều cảm xúc.
Trí tuệ xúc cảm vô cùng quan trọng với các chuyên viên lâm sàng. Họ không được để những phản ứng cảm tính ảnh hưởng tới quyết định của mình, nhưng cũng phải cảm thông và cư xử tốt với bệnh nhân cũng như gia đình của họ. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy các quyết định vẫn mang tính thiên kiến ngay cả trong những điều kiện này.
Bất kể có phải là bác sĩ hay không, bạn vẫn phải đưa ra những quyết định quan trọng hằng ngày, vì vậy hãy chú ý đến trạng thái cảm xúc của bản thân khi đọc hoặc tiếp nhận một thông điệp. Nếu bạn hoàn toàn đồng ý hoặc không đồng ý với thông điệp, bộ não cảm xúc có thể tạo ra thiên kiến không ngừng hướng bạn tới những thông tin nhất quán. Chúng ta thường hay đồng tình với các lập luận ủng hộ điều mình cảm thấy15. Thiên kiến cảm xúc như vậy đồng nghĩa với việc bạn có thể bỏ lỡ những chi tiết và sự thật quan trọng.
Ngược lại với cảm xúc là bẩm sinh, chúng ta có thể chủ ý trau dồi tư duy phản biện và logic16 17. Là giống loài thông minh, con người có khả năng tìm ra những phương cách tư duy mới, phát triển chúng trong suốt chiều dài lịch sử và truyền lại cho các thế hệ tương lai.
Hãy so sánh điều này với việc học một ngôn ngữ. Chúng ta vốn sinh ra với bản năng ngôn ngữ, nhưng phải tìm hiểu từng yếu tố (như âm thanh, từ vựng,…) và tập hợp chúng lại để tạo thành các diễn ngôn có nghĩa và hữu ích.
Để đánh giá thông tin hợp lý và tránh nhầm lẫn giữa sự thật, quan điểm, dữ kiện hư cấu và cảm xúc, chúng ta cần luyện tập và sử dụng các kỹ năng tư duy phản biện. Từ đó, chúng ta có thể đánh giá và đưa ra quyết định một cách sáng suốt, hiệu quả hơn.
THÔNG ĐIỆP ẨN SAU THÔNG ĐIỆP
Trước khi hiểu được thông tin, chúng ta phải hiểu được toàn bộ thông điệp. Chúng ta sẽ không đánh giá được thông tin nếu không biết người đưa ra nó cũng như mục đích của nó: nội dung chỉ là một phần của câu chuyện.
Nguồn của thông điệp
Đầu tiên, hãy tìm hiểu về nguồn thông tin. Nguồn thông tin có thể đến từ cá nhân hoặc tổ chức, và lời khuyên sau đây có thể áp dụng trong cả hai trường hợp.
Nguồn thông tin có thể đến từ người có hiểu biết về một số chủ đề nhưng không biết gì về các chủ đề khác. Tác giả của nguồn thông tin có thể mang thiên kiến, có hứng thú về một số chủ đề
nhất định, có các lý thuyết ưa thích. Họ có thể đáng tin cậy, hoặc không. Hãy suy nghĩ về các khía cạnh sau đây của nguồn thông tin:
Đó là một ấn phẩm mang tính học thuật hay của chính phủ? Hãy giả định rằng tác giả của những nguồn này đáng tin hơn các nhà báo. Lý do là bởi họ quan tâm đến việc cung cấp thông tin chính xác cho mọi người, trong khi động cơ của nhà báo thì đa dạng hơn.
Tác giả của nguồn thông tin có được trả tiền (bằng nhiều cách) để truyền tải thông điệp không? Các nhà xuất bản có thể và có trả tiền cho chuyên gia để họ truyền đạt một số thông tin cụ thể.
Họ lấy thông tin ở đâu? Nguồn thông tin là sơ cấp hay thứ cấp? Nguồn thứ cấp có thể trích dẫn sai nguồn sơ cấp. Họ thậm chí có thể coi các nguồn thứ cấp khác như nguồn sơ cấp. Điều này có thể dẫn đến các lỗi sai trầm trọng hơn. Hãy tìm kiếm thông tin gốc nếu bạn muốn đánh giá chính xác.
Chuyên môn của bạn cho thấy điều gì? Nếu biết nguồn thông tin gốc, bạn có thể cũng sẽ biết rằng, chẳng hạn, tác giả thường đưa ra các tuyên bố không hợp lý. Điều này có thể ảnh hưởng đến đánh giá của bạn.
Khi phân tích các thông điệp, đặc biệt là từ những người bạn biết, hãy nhớ rằng kỹ năng lập luận của mỗi người mỗi khác. Tác giả của nguồn tin có thể không nhận thức được tất cả các khía cạnh được mô tả, và có thể cảm thấy rằng mình đã tạo ra một nguồn tốt. Sau một cuộc tranh luận, có thể bạn sẽ giúp họ cải thiện quan điểm.
Đôi khi, tất cả chúng ta đều quên mất những giả định và động lực sâu xa của mình. Đừng quên rằng tư duy phản biện phải luyện mới thành.
Mục đích của thông điệp
Bước tiếp theo, hãy kiểm tra lý do tạo ra thông điệp. Biết được mục đích tạo thông điệp có thể cảnh báo bạn về những sai lệch và sự thật nửa vời có thể có. Động lực thực sự của người tạo thông điệp là gì?
Tại đây, bạn cần xem xét chi tiết thông điệp. Nếu nó nằm trên một trang web, thì đó là loại trang web nào? Ví dụ: blog cá nhân có mục đích khác với trang web của chính phủ. Hãy xem tác giả có tuyên bố bất kỳ mối quan tâm nào đến các sản phẩm hoặc chủ đề mà
• Bằng chứng được trình bày khách quan hay mang tính thiên kiến?
• Đó là một sự thật hay một quan điểm? Có cảm xúc trong đó không?
• Nguồn thông tin có dùng đến cảm xúc để cố gắng tác động đến bạn (người đọc) không?
Hãy đặt ra bất kỳ câu hỏi nào khác có liên quan mà bạn nghĩ đến, dựa trên những gì đã xem xét trong chương này. Khi đã hoàn thành việc này, bạn sẽ có một bộ khung để đánh giá các thông điệp mà mình nhận được bằng tư duy phản biện.
Nghiên cứu quan sát
Thứ nhất, hãy hình dung một người mà bạn nghĩ rằng có các kỹ năng tư duy phản biện tốt. Ghi chú về các kỹ năng này bằng cách sử dụng các câu hỏi sau đây hoặc lập sơ đồ tư duy.
Họ là người như thế nào? Họ đã nói hoặc làm gì khiến bạn nghĩ rằng họ rất giỏi tư duy phản biện? Họ tạo ra kết quả gì?
Hãy kiểm tra bằng chứng mà bạn đã viết và kết luận xem người này tư duy phản biện có tốt không. Bạn có thể ghi nhớ bài tập này vào lần tới nói chuyện với họ hoặc chứng kiến việc họ thể hiện tư duy phản biện và nhận xét bổ sung.
Giờ hãy lặp lại quy trình với một người mà bạn cho rằng có kỹ năng tư duy phản biện kém, bao gồm cả những gì khiến bạn nghĩ rằng họ như vậy. So sáng các ghi chú hoặc sơ đồ tư duy của bạn với nhau.
Bài tập này sẽ giúp bạn tập trung vào những hành vi và đặc điểm của một người có kỹ năng tư duy phản biện tốt (hoặc tệ), đồng thời cũng giúp bạn liên hệ với các tình huống thực tế áp dụng tư duy phản biện.
TÓM TẮT
Trong câu chuyện ở đầu chương, nhà trường dựa vào thông tin mà nhân viên hé lộ về những xung đột lợi ích, và tin tưởng vào dữ liệu thị trường mà công ty nọ đã báo cáo. Tuy nhiên, nhiều yếu tố, bao gồm cả việc đặt niềm tin không đúng chỗ vào Keller, đã khiến họ đầu tư vào một công ty đang thua lỗ.
Một quyết định sai lầm khiến ngôi trường trên phải trả giá không chỉ bằng tiền. Tại sao vậy? Liệu điều này có thể được ngăn chặn nếu Ban tài chính áp dụng những gì chúng ta đã học được trong chương này? Có thể.
Cảm xúc đóng vai trò quan trọng trong đầu tư: khao khát thành công, tin tưởng vào Keller. Họ đánh giá sự thành công của công ty
Loofberger không chính xác do không đủ bằng chứng (chỉ dựa vào dữ liệu thị trường). Keller, nguồn khuyến nghị đầu tư, hóa ra không đáng tin cậy do có lợi ích cá nhân trong công ty này.
Trong câu chuyện, nhà trường không có đủ thông tin cần thiết để đưa ra quyết định chính xác. Rõ ràng bạn cũng sẽ gặp trường hợp tương tự. Hy vọng rằng các kỹ thuật được đề cập cho đến nay đã trang bị cho bạn nhiều công cụ hơn để xử lý những thông tin gặp phải trong tương lai.
Ngoài các đặc điểm về thông tin mà chúng ta nhận được, còn điều gì khác khiến chúng ta không tìm ra sự thật? Câu trả lời rất phức tạp, và chúng ta sẽ xem xét sâu hơn trong chương tiếp theo.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
1. Người có tư duy phản biện phải phân biệt giữa sự thật, quan điểm, tuyên bố và bằng chứng.
2. Bạn nên thực tế và khiêm tốn về kiến thức của bản thân. Tuy nhiên, kết hợp logic với kinh nghiệm của bản thân là một phần quan trọng của tư duy phản biện.
3. Nhớ đánh giá tác giả và động cơ của họ, cũng như thông điệp.
4. Hãy sử dụng nhiều nguồn thông tin đáng tin cậy, bao gồm cả việc tham khảo những người xung quanh để đưa ra kết luận và quyết định chính xác hơn.
- 2 -
ĐIỀU GÌ NGĂN CHÚNG TA ĐI TÌM SỰ THẬT?
“Mẹ! Bố! Con có chuyện cần nói!” đứa bé hét lên. Nó vừa về nhà sau ngày đầu tiên đi học và đang cảm thấy vô cùng khó chịu.
“Chuyện gì vậy con?”, bố mẹ cậu bé hỏi.
“Các bạn cười nhạo con.”
Bạn có thể nghĩ rằng đây là một câu chuyện đáng buồn về tình trạng bắt nạt học đường. Đúng, nhưng còn hơn thế. Cậu bé này đã bắt đầu đến trường mà không có một thứ rất quan trọng đối với đời sống xã hội của mình.
Khi cậu ra đời, bố mẹ cậu rất vui. Vì là những người thành đạt, họ muốn con mình cũng thành công trong cuộc sống.
Bố cậu đã nghe được một nghiên cứu thú vị. Ông kể cho vợ mình nghe và cả hai đều đồng ý rằng nó chẳng hại gì đến con mình.
Nghiên cứu này chính là Hiệu ứng Mozart nổi tiếng. Được công bố lần đầu tiên vào đầu những năm 1990, nghiên cứu chỉ ra rằng so với nhóm học sinh không nghe nhạc Mozart, những học sinh nghe nhạc Mozart đã biểu hiện tốt hơn trong một số bài kiểm tra về nhận thức1. Kết quả của các em này như thể IQ của chúng cao hơn 8-9 điểm so với các em nghe băng thư giãn hoặc không nghe gì. Hơn nữa, nghiên cứu này được công bố trên một tạp chí khoa học uy tín.
Điều này khiến các bậc phụ huynh cũng như các nhà khoa học rất phấn khởi. Mọi người đều muốn con mình tăng IQ theo cách đó. Thậm chí doanh số bán tai nghe cho trẻ em và đĩa CD Best Of Mozart (Những bản nhạc hay nhất mọi thời đại của Mozart) đã bùng nổ (hãy nhớ rằng đó là những năm 1990).
Tuy nhiên, gia đình trong ví dụ của chúng ta đã khá cực đoan. Cậu bé nọ học xong mẫu giáo một cách bình thường, nhưng khi lên tiểu học, những yếu kém ngày càng bộc lộ rõ hơn. Ngạc nhiên thay, cậu chẳng nghe gì ngoài nhạc Mozart.
Hơn nữa, điểm kiểm tra cao nhất của cậu cũng chỉ đạt trung bình, và cậu là nạn nhân của nhiều vụ bắt nạt nghiêm trọng chỉ trong vài tuần đi học.
Đó chính là lúc người mẹ quyết định nghiên cứu sâu hơn.
Các nhà khoa học nhận thấy nghiên cứu về Hiệu ứng Mozart rất khó tái lập, nhưng vẫn tiếp tục cố gắng. Thông thường, những người nghe Mozart cũng chỉ giỏi tương đương những người nghe các loại nhạc khác hoặc không nghe gì2 3.
Người mẹ cũng phát hiện ra tác dụng nâng cao nhận thức của nhạc Mozart không đáng kể và có lẽ chỉ kéo dài một lúc sau khi bản nhạc kết thúc – bất cứ thứ gì kích thích nhẹ đều khiến học sinh làm bài kiểm tra tốt hơn một chút.
Tuy nhiên, bà thấy hối hận vì đã đặt tên cho con trai mình là Wolfgang.
Với Hiệu ứng Mozart, nghiên cứu thử nghiệm đó đã trở nên nổi tiếng đến mức mọi người thậm chí không chú ý đến các nghiên cứu tiếp theo. Các nghiên cứu khác ít kịch tính hơn nên không thu hút được sự chú ý của các bậc phụ huynh.
Mozart có đặc biệt không? Tất nhiên là có, về mặt âm nhạc. Nhưng có lẽ, trong não người không có một mô-đun Mozart đặc biệt mang lại khả năng học tập siêu phàm.
Việc không thể tái lập Hiệu ứng Mozart cho thấy hiệu ứng ban đầu là do đặc điểm chung của âm nhạc, giống như sự phức tạp hoặc sự thú vị. Các khía cạnh của tình huống thử nghiệm cũng có thể dẫn đến kết quả ấn tượng4 5.
Phân tích gần đây cho thấy các nhà khoa học đã công bố thêm các kết quả “dương tính với Mozart” do những thiên kiến trong công bố khoa học. Điều này cũng giống như hiện tượng “thiên kiến xác nhận” mà chúng ta sẽ xem xét chi tiết trong chương này.
Bộ não mang lại cho chúng ta nhận thức và ký ức6, vì vậy chúng ta cần liên tục đánh giá và đặt câu hỏi về các ý tưởng của mình. Bộ não tạo ra ấn tượng về thế giới 3D dựa vào ảnh võng mạc 2D. Chúng ta cũng tự động có cảm giác về thế giới 3D ngay trong các bản vẽ 2D7. Tương tự, ý tưởng đầu tiên nảy ra trong đầu từ trí nhớ có thể dễ dàng bắt nguồn từ các quá trình nhận thức của chúng ta chứ không phải là một sự phản ánh chân thực hoặc một bản ghi của thực tại. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng nhận thức rõ hơn về việc trí óc có thể bóp méo thực tại như thế nào.
Tư duy phản biện (hoặc sử dụng lý luận hợp lý) không đơn giản như bề ngoài. Tất cả chúng ta đều có những thói quen ăn sâu vào suy nghĩ về con người, sự kiện, tình huống và vấn đề.
NÃO BỘ KHIẾN LOGIC “CHẬP MẠCH” NHƯ THẾ NÀO
Giống như bất kỳ kiểu tư duy nào, tư duy logic sử dụng các quá trình và hệ thống nhận thức hằng ngày của chúng ta. Nói ngắn gọn, các quá trình này bao gồm sự chú ý, trí nhớ, khả năng phán đoán, cùng khả năng ra quyết định và giải quyết vấn đề. Niềm tin, cảm xúc, ngụy biện, thiên kiến và sự tự nghiệm (heuristic) đều ảnh hưởng đến quá trình nhận thức của chúng ta.
Chúng ta phải thực tế về điều này, nhưng không quá bi quan. Những phán đoán và quyết định của chúng ta thường sẽ bị đẩy sang các hướng khác nhau bởi nhận thức và ký ức bị bóp méo.
May thay, chúng ta có thể giảm thiểu các khuynh hướng này bằng cách tìm hiểu về những sự biến dạng này và cách chúng hoạt động. Chúng ta có thể cân bằng chúng, nhưng trước tiên cần định nghĩa và giải thích từng thuật ngữ quan trọng.
Niềm tin
Niềm tin là một phần quan trọng trong cuộc sống. Tất cả chúng ta đều có niềm tin sẵn có về sự vật, con người và ý tưởng, và thế hệ này sẽ truyền lại chúng cho thế hệ sau thông qua học tập xã hội. Đôi khi, chúng ta chỉ tin những gì mình muốn tin bất chấp bằng chứng chống lại nó; chúng ta có thể coi đó là mơ tưởng8.
Vậy những niềm tin sai lệch bắt nguồn từ đâu? Bộ não không cố ý lừa dối con người, nhưng biết sự thật không phải lúc nào cũng là mối quan tâm chính của nó. Niềm tin sai lệch là sản phẩm phụ từ quá trình thích ứng tâm lý trong học tập xã hội9. Học tập xã hội hỗ trợ nhiều nhiệm vụ hữu ích, chẳng hạn như học tiếng mẹ đẻ. Là loài có tính xã hội, con người cần kết nối xã hội cũng như chia sẻ kinh nghiệm, và chúng ta bắt đầu chú ý đến người khác (đồng thời có khả năng học hỏi từ họ) từ khi còn nhỏ10. Vì vậy, thật tự nhiên khi chúng ta cởi mở tiếp thu ý kiến trực tiếp từ người khác, đặc biệt là những người mình tin tưởng.
Thông tin thứ cấp có nhiều khả năng dẫn đến niềm tin sai lệch hoặc bị bóp méo. Con người thích kể những câu chuyện hay, và người kể chuyện có thể nêu bật một số khía cạnh nhất định và bỏ qua những khía cạnh khác để khiến câu chuyện trở nên thú vị hơn hoặc nhấn mạnh một số điểm nhất định11.
Đổi lại, những niềm tin sẵn có có thể dẫn đến nhận thức sai lệch về con người, sự vật và sự kiện, do đó ảnh hưởng đến nhận thức và kinh nghiệm trong tương lai. Mọi người sau đó có thể truyền những niềm tin mang thiên kiến này cho người khác. Điều này có thể khiến bạn nhớ đến trò chơi “tam sao thất bản”, trong đó mọi người xếp thành một hàng dài, người trước thì thầm một thông điệp
nào đó với người sau. Đến cuối cùng, thông điệp đã không còn giống như ban đầu nữa.
Một khía cạnh khác về niềm tin là chúng ta có xu hướng tin những gì mình muốn tin12, và điều này bao gồm cả niềm tin về bản thân. Chúng ta có xu hướng áp dụng những niềm tin được xã hội chấp nhận để tránh bị người khác bác bỏ13. Giống như nhiều xu hướng tâm lý, điều này không có vấn đề gì, nhưng đôi khi nó có thể cản trở tư duy phản biện.
Cảm xúc
Cảm xúc xã hội, như sự tin tưởng hay mong muốn được chấp nhận, có thể ảnh hưởng đến điều chúng ta tin, nhưng cảm xúc nói chung lại có tác động vô cùng lớn đến nhận thức. Các nhà tâm lý học đã ghi nhận những tác động đồng thời của tâm trạng đối với bộ nhớ và sự chú ý14 15.
Điều này có nghĩa là mọi người thường sẽ chú ý và ghi nhớ thông tin phù hợp với tâm trạng hiện tại của mình; nếu chú ý, bạn có thể thấy hiện tượng này thường xuyên trong cuộc sống thường nhật. Ví dụ, khi cảm thấy vui vẻ, ta sẽ thích thú hơn với cảnh đẹp hoặc thấy bữa ăn ngon so với khi có tâm trạng bình thường. Do đó, cảm xúc của chúng ta không chỉ phụ thuộc vào các thông tin đầu vào mà cả cách trí óc xử lý chúng.
Trong các thí nghiệm có đối chứng, một người đang sợ hãi hoặc buồn bã nhiều khả năng sẽ nhìn nhận vẻ mặt của người khác theo hướng tiêu cực. Ngược lại, một người đang có tâm trạng vui vẻ, phấn chấn lại rất dễ cho rằng khuôn mặt đó là thân thiện. Người thứ nhất dễ nhớ lại những sự kiện khó chịu, trong khi người thứ hai thường nhớ tới những trải nghiệm vui vẻ hơn17.
Ví dụ này cho thấy việc truy xuất bộ nhớ là một quá trình chủ động; bộ nhớ của bạn không giống thư viện và không cung cấp cho bạn cùng một ký ức vào mọi thời điểm. Thay vào đó, hệ thống nhận thức sẽ tái cấu trúc các ký ức tùy theo thời điểm18.
Ngụy biện
Thuật ngữ ngụy biện thường dùng để chỉ những niềm tin sai lệch nhưng phổ biến, bao gồm một số ví dụ về kiến thức dân gian. Chẳng hạn, nhiều người tin rằng trẻ sơ sinh được sinh ra nhiều hơn vào thời điểm trăng tròn19. Sự thật là (sự thật này có thể xác minh, đáng tin cậy, tôi hứa đấy!) trẻ sơ sinh ra đời vào lúc trăng tròn không nhiều hơn bất kỳ pha nào khác của Mặt trăng.
Những nguỵ biện dựa trên niềm tin sai lệch có thể ảnh hưởng đến quá trình lập luận nếu chúng ta cho rằng những kiến thức mình nhận được là đúng mà không kiểm tra chi tiết hơn.
Thuật ngữ này cũng bao hàm ngụy biện logic. Đây là những lỗi lập luận thường được gọi là lập luận không logic. Để lập luận đúng, chúng ta phải đảm bảo các kết luận được rút ra một cách logic từ các lập luận. Vô số lỗi ngụy biện logic tồn tại và đã được nghiên cứu từ lâu20.
Tự nghiệm và thiên kiến
Thiên kiến là một đặc điểm quan trọng khác của hệ thống nhận thức ảnh hưởng đến cách bộ não tiếp thu và xử lý thông tin. Thiên
kiến có chủ đích khiến chúng ta chú ý đến hoặc lờ đi những điều nhất định. Khi đánh giá và đưa ra quyết định, chúng ta cũng sẽ gặp phải các thiên kiến không chủ đích.
Một loại thiên kiến thú vị cần lưu ý là thiên kiến vị kỷ, trong đó vị kỷ có nghĩa là “hướng tới bản thân”. Mọi người luôn đánh giá khả năng của bản thân ở mức trên trung bình21. Bạn có thấy gì sai không? Theo định nghĩa, hầu hết mọi người không thể thể hiện được khả năng trên mức trung bình vì mức trung bình rơi vào khoảng giữa. Các nhà khoa học đã quan sát được hiệu ứng này trong mọi tình huống từ việc tự đánh giá phẩm chất lãnh đạo đến khả năng mắc bệnh ung thư, và ở mọi đối tượng từ sinh viên đến giáo sư22.
Chúng ta phải hiểu về thiên kiến, vì chúng có thể trực tiếp dẫn đến ngụy biện và cũng có thể hỗ trợ cho những niềm tin sai lệch.
Tự nghiệm là các lối tắt tinh thần23 24. Tự nghiệm sẵn có (availability heuristic) là một ví dụ, là khi chúng ta sử dụng thông tin sẵn có nhất để giải quyết một vấn đề nhất định. Chúng ta cũng có thể gọi tự nghiệm là những quy tắc ngón tay cái: các phương pháp nhanh chóng để giải quyết vấn đề mà không cần tính toán hoặc sử dụng logic quá nhiều. Tự nghiệm rất hữu ích, nhưng chúng cũng dẫn đến các câu trả lời gần đúng và khiến chúng ta mắc lỗi.
Trong một số tình huống, tự nghiệm có thể dẫn đến những thiên kiến hệ thống. Đây là một vấn đề rất tai hại vì nó khiến ta bỏ qua các thông tin liên quan khác.
Vậy tại sao ta có các tự nghiệm? Tổ tiên của chúng ta cần các giải pháp nhanh và hiệu quả cho nhiều vấn đề trong quá trình tiến hóa, nhưng các giải pháp này lại phải chính xác. Họ đã tồn tại và thành công; nếu không, họ sẽ không phải là tổ tiên của chúng ta. Kết quả là, bộ não của chúng ta thoải mái dựa vào các lỗi sai, miễn là những gì chúng ta biết đủ hiệu quả trong thực tế, ngay cả khi kinh nghiệm hằng ngày hoàn toàn trái ngược với tự nghiệm.
MỘT SỐ VÍ DỤ: TẠI SAO NHỮNG YẾU TỐ TRÊN LẠI GÂY RẮC RỐI?
Cảm xúc có thể là một vấn đề cản trở suy luận logic. Hãy nghĩ về những câu cửa miệng mà chúng ta sử dụng để nói chuyện hằng ngày. Ví dụ, không ai muốn “trái tim nhầm chỗ để trên đầu”, nhưng có lẽ vẫn muốn làm theo “tổ tiên mách bảo”. Vậy như thế nào mới đúng?
Câu trả lời không hề đơn giản. Trạng thái cảm xúc của chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt rất lớn trong cách tiếp nhận và giải thích thông tin đầu vào. Tâm trạng chỉ mang tính thời điểm, vì vậy, chúng ta không nên tin vào các quyết định và kết luận được đưa ra trong điều kiện cảm xúc dâng trào. Tuy nhiên với con người, cảm xúc sống động hơn nhiều so với các quá trình lập luận khô khan26. Vì thế, chúng ta khó cân nhắc ảnh hưởng của chúng.
Các ngụy biện logic có thể vô tình xuất hiện hoặc được sử dụng có chủ ý như một công cụ thao túng. Cả hai đều có thể cản trở chúng ta tìm kiếm sự thật. Ngụy biện là một vấn đề cụ thể vì chúng ta không lập luận riêng từng chủ điểm. Thông thường, kết quả của một quá trình lập luận sẽ có tác động đến quá trình tiếp theo.
Ví dụ: một CEO có thể dùng tư duy phản biện để vạch ra kế hoạch mở rộng lĩnh vực kinh doanh, bắt đầu bằng cách tìm ra sản phẩm hiệu quả nhất, rồi lựa chọn một nhóm để dẫn dắt dự án mới, sau đó tiếp tục lập kế hoạch mở rộng chi tiết hơn. Nếu mắc lỗi ngụy biện logic trong giai đoạn đầu của dự án, các quyết định đưa ra có thể không tối ưu và tiềm ẩn rủi ro cho những giai đoạn tiếp theo.
Thiên kiến nhận thức và tự nghiệm có thể khiến chúng ta tin vào những điều không thể xảy ra. Ví dụ, khi biết xác suất của hai sự kiện, logic giúp chúng ta xác định được xác suất của việc cả hai cùng xảy ra. Nếu khả năng xảy ra của sự kiện A là 50% và sự kiện B là 10%, về logic, bạn sẽ kỳ vọng mọi người nhận ra rằng xác suất gộp của hai sự kiện này còn thấp hơn xác suất của riêng sự kiện B.
Tuy nhiên không phải như vậy. Ngay cả các chuyên gia y tế khi đánh giá xác suất của các triệu chứng cũng mắc phải lỗi này27. Ví dụ này cho thấy thiên kiến nhận thức của chúng ta lan rộng như thế nào, và đôi khi ta không biết chúng có xuất hiện28. Thiên kiến như vậy dễ ảnh hưởng đến suy nghĩ của mọi người mà họ không hề hay biết, dẫn đến những hậu quả xấu như đầu tư sai hoặc chẩn đoán sai.
TOP 10 NHỮNG CÚ XOẮN NÃO
Trong quá trình tách biệt điều có ý nghĩa khỏi điều vô nghĩa, một số lỗi ngụy biện nhất định có mối liên quan mật thiết với nhau. Chúng ta cần thận trọng với chúng. Nếu có thể, hãy cẩn thận để tránh phạm phải những điều này khi tranh luận hoặc thảo luận hằng ngày. Một số lỗi ngụy biện khá khó nhận ra, trong khi số khác lại rất rõ.
1. Ngụy biện công kích cá nhân
Ngụy biện này là tấn công cá nhân thay vì chỉ đánh vào luận điểm của họ29 30. Lỗi ngụy biện này có thể xuất hiện trong các cuộc tranh luận chính trị.
Ví dụ, một chính trị gia đang tích cực phản đối việc mở một trung tâm mua sắm mới trong thị trấn. Tuy nhiên, đối thủ trong cuộc tranh luận lại cho rằng vị chính trị gia này đang sống trong thị trấn và việc xây dựng một trung tâm thương mại mới sẽ tạo ra nhiều tiếng ồn cũng như thu hút thêm người qua lại, từ đó kết luận rằng vị chính trị gia chỉ quan tâm đến bản thân mà không chú ý đến dân chúng.
Ở đây, chính trị gia đầu tiên đưa ra một vấn đề, nhưng đối thủ lại công kích cá nhân ông ta mà lờ đi chủ đề đang tranh cãi. Tấn công đối thủ không phải là cách hiệu quả để phản bác ý tưởng của họ, vì vậy công kích cá nhân là một lỗi ngụy biện. Giống như các yếu tố khác được nêu ở đây, lỗi ngụy biện này có thể làm chệch hướng khỏi các chủ đề quan trọng. Đôi khi, người ta cố ý tận dụng phương pháp này nhằm đánh lạc hướng một số chủ đề nhất định.
Có hai loại ngụy biện công kích cá nhân31. Loại thứ nhất là công kích hoàn cảnh cá nhân (circumstantial), là khi một người đưa ra quan điểm một cách đạo đức giả và bị người khác vạch mặt. Loại công kích cá nhân này có thể tạo thành một luận điểm chính đáng, nhưng vẫn là một lỗi ngụy biện logic. Thứ hai là loại ngụy biện công kích lạm dụng cá nhân (abusive), nghĩa là lợi dụng các đặc điểm cá nhân của một người để công kích quan điểm của người đó, trong khi các đặc điểm này không liên quan đến quan điểm.
Trên thực tế, những ý kiến phản bác mang tính công kích cá nhân không phải luôn vô lý. Hãy nghĩ đến một tranh luận chính trị. Một chính trị gia đả kích tính cách hoặc lối sống của chính trị gia khác chẳng hạn. Nhưng nếu sự đả kích này có liên quan đến điều đang tranh luận thì sao?
Ví dụ này minh họa kiểu ngụy biện công kích hoàn cảnh cá nhân: chính trị gia thứ hai chỉ ra sự đạo đức giả của chính trị gia thứ nhất. Giả sử chính trị gia thứ nhất không có tư lợi rõ ràng trong việc phản đối xây dựng trung tâm thương mại mới. Trong trường hợp đó, chính trị gia thứ hai vẫn có thể công kích chính trị gia thứ nhất để thuyết phục quần chúng rằng người này không đáng tin cậy và làm mất uy tín của ông ta. Chúng ta nên cố gắng tránh lỗi ngụy biện công kích hoàn cảnh như vậy.
2. Ngụy biện khái quát hóa vội vã
Khái quát hóa vội vã là một lỗi ngụy biện quan trọng khác, có nghĩa là đi đến một kết luận dựa trên quá ít bằng chứng. Một định nghĩa mang tính kỹ thuật hơn là khái quát hóa từ một mẫu hoặc một trường hợp đơn lẻ thành một tổng thể. Tuy nhiên, mẫu có thể quá nhỏ hoặc không đại diện cho trường hợp tổng quát.
Hãy tưởng tượng một người bạn nói:
“Ông của tôi sống đến 96 tuổi và mỗi ngày đều uống một chai whisky!”
Không may là ông của người bạn này không chứng minh được rượu giúp người ta sống lâu và khỏe mạnh hơn. Đây chỉ là một trường hợp đơn lẻ và không phản bác được những bằng chứng y học của nhiều thập kỷ.
Nhiều thế hệ các nhà tư tưởng đã mô tả lỗi ngụy biện này. Aristotle là người đầu tiên bàn luận về nó, sau đó là nhiều nhà khoa học và triết gia khác. Khái quát hóa vội vã còn có nhiều tên gọi khác, bao gồm khái quát hóa sai lệch (faulty generalization), ngụy biện ngẫu nhiên (fallacy of accident), ngụy biện bỏ qua các thông tin giới định (fallacy of neglecting qualifications)...32
Đây là lỗi ngụy biện rất dễ mắc phải. Những người chịu áp lực vì công việc bận rộn, hoặc được coi là có uy tín về chủ đề bàn đến, có thể đưa ra các kết luận vội vàng và không chính xác. Khái quát hóa vội vã cũng có thể dẫn đến giả định sai rằng mọi trường hợp đều giống nhau dù chỉ dựa trên một hoặc hai ví dụ. Nó cũng có thể dẫn đến việc bỏ qua các tình huống mà trong đó, kết luận đã đưa ra là
sai. Trong ví dụ về người ông và rượu whisky, người nói tập trung vào một ví dụ duy nhất mà bỏ qua trường hợp tổng quát.
Tóm lại, khái quát hóa vội vã có thể trở thành một vấn đề nghiêm trọng và ngăn cản chúng ta đến với sự thật.
3. Ngụy biện phong trào
Đây là cái bẫy của việc tin rằng số đông luôn đúng. Chúng ta mắc lỗi ngụy biện này khi đồng ý với số đông mà không cần tìm thêm thông tin33.
Một nghiên cứu tâm lý kinh điển cho thấy nhiều người sẽ đồng ý với ý kiến của số đông ngay cả khi nhận ra số đông đã sai34. Thử nghiệm này rất đơn giản: những người tham gia phải chọn ra đoạn thẳng dài nhất từ một vài đoạn có độ dài khác nhau. Nhóm thử nghiệm phân công từng người tham gia vào cùng nhóm với những người đóng giả làm người tham gia, và tất cả những người đóng giả này đều chọn đoạn thẳng không phải là dài nhất.
Nghiên cứu của Asch cho thấy nhiều người đồng tình với số đông nhưng sau đó lại tỏ ra lo lắng và bối rối vì số đông đưa ra câu trả lời sai. Thử nghiệm trên đặt mọi người vào một tình huống phi tự nhiên, nhưng chúng ta cũng có thể gặp nhiều trường hợp hiệu ứng đám đông trong thực tế.
Trong cuộc sống, ý kiến của số đông thường khá ổn, và chúng ta có thể lựa chọn tin theo mà không gây hậu quả nghiêm trọng35. Ví dụ, hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng chó là vật nuôi phù hợp còn tê giác thì không. Tuy nhiên, chọn vật nuôi là một quyết định tương đối vô hại.
Ngược lại, môi trường bất ổn dễ dẫn đến tình trạng tam sao thất bản, trong các tình huống mơ hồ36, sẽ rất khó để nhận ra đâu mới là điều đúng đắn. Trong những môi trường kinh doanh áp lực cao, nơi tình hình phức tạp hơn và thay đổi chóng mặt, điều này càng liên quan và có ảnh hưởng. Với những tình huống như vậy, các doanh nghiệp thường bắt chước quyết định của nhau nhiều hơn so với trong một môi trường kinh doanh ổn định37.
Các cá nhân và tổ chức mắc lỗi ngụy biện khái quát hóa vội vã vì nhiều lý do. Có thể vì họ tin rằng một lựa chọn nào đó là tốt nhất, hoặc thấy những người họ ngưỡng mộ cũng nằm trong nhóm ủng hộ, khiến lựa chọn đó có vẻ đáng tin cậy hơn38. Tuy nhiên, hiệu ứng đám đông là một sự thất bại trong việc áp dụng logic và kinh nghiệm. Thông tin về ý kiến và lựa chọn của đám đông là rất dễ thu thập và xử lý, nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Ngay cả ý kiến đa số của một nhóm chuyên gia cũng không phải luôn chính xác.
4. Nguỵ biện người rơm
Chúng ta dùng lối ngụy biện người rơm để gây ảnh hưởng lên người khác. Nó liên quan đến việc thay đổi quan điểm hoặc lập luận của ai đó nhằm thiết lập một mục tiêu dễ dàng rồi đánh gục nó bằng các lập luận của chính mình39. Việc này không khác gì với việc tát một người đứng bên cạnh đối thủ của bạn.
Các lập luận kiểu người rơm cực kỳ phổ biến. Sau đây là một ví dụ. Hai chính trị gia tổ chức một cuộc tranh luận công khai vài tuần trước cuộc bầu cử hội đồng địa phương. Sam McAdams đưa ra thông báo:
“Chúng ta sẽ không đầu tư vào việc xử lý rác thải trong thành phố. Thay vào đó, ta sẽ tái tổ chức cơ sở hạ tầng và nâng hiệu quả
lên 200% trong hai tháng đầu tiên tôi đảm nhận chức vụ.” Đám đông cổ vũ, nhưng đối phương lại có điều muốn nói.
“Tôi không thể tin được rằng ngài McAdams lại đề xuất cắt giảm quy mô của lực lượng xử lý chất thải!”
Cuộc tranh luận tiếp diễn; McAdams cố gắng chỉ ra rằng mình không bao giờ đề nghị cắt giảm nhân sự.
Chúng ta có thể cố ý dựng một người rơm chỉ để đánh gục nó, nhưng việc này có thể tạo ra khác biệt lớn. Trong ví dụ này, đối thủ dựng người rơm để McAdams chuyển sang thảo luận về một chủ đề khác. Điều đó rõ ràng đã dắt mũi cuộc tranh luận và có lẽ cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến khán giả.
5. Thiên kiến xác nhận
Thiên kiến xác nhận là thiên kiến ủng hộ thông tin nào xác nhận điều chúng ta đã biết. Xét ví dụ sau:
Jayshree tin chắc rằng tất cả các diễn viên Hollywood trên 30 tuổi đều từng phẫu thuật thẩm mỹ. Mỗi khi nhìn thấy một diễn viên có khuôn mặt trẻ trung hơn năm trước, cô đều khẳng định điều này với bạn bè.
Bạn nghĩ Jayshree sẽ nói gì khi xem một bộ phim mà các diễn viên trông không có gì khác biệt? Tất nhiên là không nói gì. Chuyện các diễn viên già đi là hoàn toàn tự nhiên. Jayshree chú ý tới các bằng chứng ủng hộ niềm tin của mình, nhưng lại bỏ quên những bằng chứng chống lại nó.
Thiên kiến xác nhận rất phổ biến, nó ảnh hưởng đến việc chúng ta nhận biết và tìm kiếm những thông tin gì. Mọi người thường xuyên tìm kiếm các thông tin xác nhận niềm tin của họ vì rất muốn duy trì những niềm tin đó41. Quay trở lại ví dụ của chúng ta, Jayshree có thể tìm kiếm thông tin về “người nổi tiếng phẫu thuật thẩm mỹ” trên Internet, nhưng sẽ không quan tâm tới những người chưa phẫu thuật.
Khi đối diện với một thông điệp, hãy cẩn thận với thiên kiến xác nhận. Loại thiên kiến này cũng giống như mơ tưởng: đôi khi chúng ta tin vào những gì mình muốn tin và bằng chứng ủng hộ điều chúng ta tin tưởng sẽ thu hút sự chú ý của chúng ta.
6. Thiên kiến mỏ neo
Thiên kiến mỏ neo xuất hiện khi ta quá phụ thuộc vào đặc điểm nổi bật nhất của một tình huống, người hoặc sự vật. Loại thiên kiến này tác động rất mạnh đến phán đoán và ước tính của chúng ta42. Đó có thể là thông tin đầu tiên ta tiếp nhận, hoặc thông tin mà chúng ta thấy là quan trọng nhất. Các điểm neo thường là con số. Ví dụ: Người vay tiền mua xe hơi có thể sẽ tập trung vào lãi suất được trình bày dưới dạng các số liệu lớn trên trang web chứ không xử lý những thông tin khác.
Thiên kiến mỏ neo khiến các phán đoán của chúng ta sai lệch, và cũng tác động tương tự đến những thứ như các ước tính. Khi đến một showroom ô tô, bạn có thể vẫn còn không gian thương lượng. Tuy nhiên, tâm trí của bạn sẽ neo giữ mức giá đề xuất ban đầu xung quanh mức giá được báo trên màn hình. Đây được gọi là neo và điều chỉnh: con số đầu tiên mà chúng ta thấy sẽ làm sai lệch tư duy sau này43 44.
Các thí nghiệm tâm lý học cho thấy các điểm neo khác nhau có thể dẫn đến các quyết định rất khác nhau. Hơn nữa, điểm neo thậm chí không cần phải liên quan đến câu hỏi thì mới tác động được đến câu trả lời45 46. Điều này chứng tỏ thiên kiến mỏ neo rất phổ biến và ở một mức độ nào đó, chúng tự động xuất hiện.
Thiên kiến mỏ neo đôi khi còn được biết đến như một kiểu tự nghiệm, và nó cho phép tâm trí của chúng ta đi tắt và ngừng xử lý thêm thông tin. Tuy nhiên, có lúc chúng tự động xuất hiện, có lúc lại được tạo ra có chủ ý hơn47. Thiên kiến mỏ neo tự động giống như một đề xuất: điểm neo nhồi nhét vào ước tính hoặc lựa chọn của một người bằng cách kích hoạt các con số hoặc ý tưởng tương tự trong trí óc, và người trải qua việc này có thể không nhận ra nó.
Mặt khác, thiên kiến mỏ neo có chủ đích là khi bạn điều chỉnh một cách có ý thức ước tính ban đầu của mình để đến gần hơn với câu trả lời thực sự. Quá trình này dễ kiểm soát hơn, nhưng mọi người thường từ bỏ quá sớm, nghĩa là điểm neo vẫn thiên vị phản ứng cuối cùng của họ. Nhiều khả năng chúng ta sẽ ngừng điều chỉnh quá sớm nếu chịu áp lực thời gian hoặc đang phải làm nhiều việc cùng lúc48 49.
7. Thiên kiến đồng thuận giả
Loại thiên kiến này xuất phát từ tâm lý học xã hội, ngành nghiên cứu về tính cách và tương tác xã hội. Thiên kiến đồng thuận giả tập trung vào cách chúng ta so sánh bản thân với người khác. Như một kẻ cố ý đốt nhà có thể nói: “Chà, ai mà chả thích nhóm lửa, đúng không?”, chúng ta thường ước tính xem những hành động hoặc đặc điểm của mình phổ biến đến đâu.
Loại thiên kiến này xuất hiện khi mọi người nghe được phản hồi của người khác50 51. Bất kể là đọc được câu trả lời của người khác cho một tập hợp câu hỏi hay nghe được một quyết định đưa ra trong hoàn cảnh nào đó, chúng ta sẽ cho rằng những phản hồi này là phổ biến và đặc thù nếu nó phù hợp với câu trả lời của chính mình. Ngược lại, chúng ta sẽ nghĩ chúng kỳ lạ và không phổ biến nếu chúng khác với quan điểm của mình.
Câu hỏi càng mơ hồ thì các hiệu ứng đồng thuận giả càng lớn. Một nghiên cứu đặt ra cho người tham gia những câu hỏi đóng như “bạn có phải là con cả không?” và những câu hỏi mở hơn như “bạn có cạnh tranh không?” Báo cáo cho thấy hiệu ứng đồng thuận giả rõ rệt hơn nhiều ở các câu hỏi mở52. Điều này cung cấp thêm bằng chứng về hiệu ứng trên và cho thấy khi có thêm không gian để trả lời câu hỏi theo cách của mình, họ sẽ thấy rằng quan điểm của người khác giống mình hơn.
8. Hiệu ứng hào quang
Hiệu ứng hào quang không nói tới hào quang của thiên thần; hãy nghĩ đến hào quang mà bạn nhìn thấy xung quanh đèn đường trong sương mù. Loại thiên kiến này xảy ra khi một điều được nhìn nhận một cách tích cực vì có mối liên hệ với điều gì đó khác tích cực, như ánh sáng đèn đường tỏa ra khi nó khúc xạ qua các hạt sương mù. Nó cũng được gọi là thiên kiến “danh tiếng nhờ quan hệ”.
Chúng ta đều biết rằng ấn tượng đầu tiên rất quan trọng trong các mối quan hệ. Thiên kiến này là một phần của điều đó. Ấn tượng ban đầu của chúng ta về con người và sự vật có thể tạo ra một vầng hào quang, ảnh hưởng quan trọng đến những gì chúng ta nghĩ về chúng.
Khi phải đánh giá người khác dựa trên các tiêu chí tích cực như năng lực hay trí tuệ, người ta thường bị ảnh hưởng bởi việc những người này tốt bụng và thân thiện đến đâu53. Hiệu ứng hào quang thậm chí còn xảy ra với những đặc điểm mà chúng ta biết là không liên quan gì đến nhau, như chiều cao và trí tuệ.
Điều tương tự cũng đúng với sự vật và ý tưởng. Các công ty thích sử dụng người đẹp và phong cảnh trong quảng cáo và khuyến mại vì điều này mang lại những ấn tượng tích cực về công ty cũng như sản phẩm đối với khách hàng tiềm năng.
9. Tự nghiệm sẵn có
nghiệm sẵn có ảnh hưởng đến chúng ta khi phải đánh giá xác suất hoặc tần suất54. Chúng ta cho rằng những thứ mình có thể tưởng tượng hoặc nhớ lại dễ dàng là phổ biến hơn hoặc có nhiều khả năng xảy ra hơn. Nói cách khác, con người thường giả định rằng điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là điều quan trọng nhất55 56.
Tự nghiệm sẵn có rất hữu ích. Khi quyết định địa điểm du lịch, nơi đầu tiên hiện lên trong đầu bạn nhiều khả năng sẽ là nơi bạn muốn đến chứ không phải một địa điểm xa lạ bạn hiếm khi nghe đến. Điểm đến mong muốn đó là sẵn có và cũng sống động hơn trong não bộ của bạn.
Loại tự nghiệm này dựa trên một số đặc điểm của trí nhớ57 58 59. Thứ nhất, hiệu ứng gần: chúng ta có những ký ức tốt hơn về những sự kiện vừa xảy ra hoặc những điều vừa nhìn hoặc nghe thấy. Thứ hai, chúng ta nhớ những điều mang lại cảm xúc mạnh. Cuối cùng, chúng ta thu thập những thông tin thú vị và sống động tốt hơn nhiều so với những thứ khô khan và nhàm chán. Bất
kỳ thông tin nào trên đây hoặc tất cả kết hợp lại có thể tạo ra tính sẵn có rất cao.
Điều ngược lại cũng đúng. Nếu không thể nghĩ ra nhiều ví dụ cho một trường hợp nào đó, bạn sẽ cho rằng nó không phổ biến hoặc không khả thi. Khi các nhà nghiên cứu yêu cầu người tham gia liệt kê một số lượng lớn những lợi điểm của một thứ gì đó, chẳng hạn như khóa đại học mà họ đang theo học, họ sẽ thấy khó để liệt kê đầy đủ. Các sinh viên này sẽ đánh giá rằng khóa học của họ không bằng khóa học của các sinh viên phải nghĩ đến ít lợi điểm hơn60.
Ví dụ này thoạt nghe có vẻ khác thường, nhưng khi nghĩ đến tính sẵn có thì không phải vậy. Những người được yêu cầu liệt kê nhiều điểm tích cực của khóa học hơn sẽ cảm thấy khóa học có ít lợi điểm hơn vì không thể liệt kê toàn bộ số lợi điểm được yêu cầu. Điều này cho thấy mức độ rắc rối của tự nghiệm sẵn có tùy thuộc vào các kỹ thuật đặt câu hỏi.
Nếu dễ dàng nhớ được các ví dụ, chúng ta sẽ nghĩ rằng các sự kiện có nhiều khả năng từng xảy ra hoặc sẽ xảy ra lần nữa trong tương lai. Ví dụ, người ta thường sợ rằng khủng bố có thể xảy ra hoặc thậm chí rất dễ xảy ra. Gia đình của một sinh viên trẻ mới tốt nghiệp cảnh báo rằng anh không nên chuyển đến New York, Paris hoặc London vì ở đó “toàn khủng bố”. Những cuộc tấn công này có sẵn trong tâm trí của mọi người, vì vậy họ cảm thấy chúng dễ xảy ra hơn vốn có.
Tự nghiệm sẵn có là hữu ích vì nó cho phép chúng ta đưa ra các phán đoán và quyết định nhanh chóng. Người ta dễ bị ảnh hưởng hơn bởi tính sẵn có khi xử lý thông tin nhanh và theo phản xạ, ví dụ như lúc cảm thấy vui hoặc phân tâm61.
10. Tự nghiệm điển hình
Tự nghiệm điển hình (representativeness heuristic) xảy ra khi chúng ta đánh giá mọi thứ theo mức độ tương tự của chúng với những thứ mình đã biết62 63.
Tính điển hình hoạt động khi chúng ta phải đánh giá các xác suất. Cụ thể:
Phân loại các đối tượng: xác suất để đối tượng, người hoặc tình huống thuộc về một danh mục nhất định.
Xác định nguồn gốc: xác suất của việc sự kiện này xuất phát từ một quá trình nhất định.
Dự đoán: xác suất của việc một quá trình nhất định tạo ra một sự kiện trong tương lai.
Đây là một ví dụ về tính điển hình trong thực tế. Có người nói:
“Ryan đeo kính nên tôi nghĩ anh ấy là nhà khoa học máy tính chứ không phải nông dân.”
Người nói có khuôn mẫu về một nhà khoa học máy tính điển hình trong tâm trí, và Ryan phù hợp với một tiêu chí trong đó. Vì thế, người này phân loại Ryan là nhà khoa học máy tính (xem ví dụ gốc ở chú thích số 64 cuối sách).
Khi áp dụng tự nghiệm điển hình, mọi người thường vô cùng tự tin, mặc dù một ấn tượng mơ hồ, chứ không phải một loạt bằng chứng, là thứ xác định lựa chọn của họ. Chẳng hạn, người nói không xem xét tỷ lệ phần trăm của nông dân và nhà khoa học máy tính trong dân số. Do đó, phương pháp tự nghiệm này đôi khi có thể dẫn
đến kết luận không chính xác và là nguyên nhân cho một số sai lầm, chẳng hạn như định kiến hay phân biệt đối xử.
CÁCH “GIẢI THIÊN KIẾN” CHO NÃO BỘ
Niềm tin và cảm xúc
Bước đầu tiên để đối phó với những niềm tin sai lệch là sử dụng logic: tìm xem để niềm tin đã nêu đúng thì điều gì khác phải đúng65.
Tiếp theo, bạn cần nhận ra một số niềm tin rõ ràng là sai, và có thể chứng minh bằng cách tìm kiếm bằng chứng chống lại chúng. Bạn có thể dễ dàng chê bai một người bạn khi họ tin rằng Martina Navratilova đã giành được nhiều Grand Slam nhất trong lịch sử quần vợt nữ. Niềm tin này là một sự thật sai lệch, vì vậy bạn có thể đánh giá nó giống như đánh giá một sự thật có chủ đích hoặc một tuyên bố vô căn cứ. Bạn có thể tra cứu nhanh trên web và tìm câu trả lời chính xác từ một nguồn đáng tin cậy, chẳng hạn như cơ quan trao giải (Hiệp hội quần vợt nữ).
Ngược lại, chúng ta không thể bác bỏ những niềm tin khác. Khi đứng độc lập, chúng là chấp nhận được, nhưng lại không tương thích với các niềm tin khác. Trong tình huống này, bạn phải đánh giá tính chân thực của mỗi niềm tin và tiến tới một tri thức mới.
Ví dụ, những người tin rằng Trái đất phẳng cũng phải có những niềm tin nhất quán khác. Họ phải tin rằng các công ty vận tải ngày nay nói dối về khoảng cách của việc đến gần Bắc Cực và Nam Cực. Nếu thế giới phẳng, một trong hai cực sẽ nằm ở trung tâm, còn cực kia sẽ là một đường rìa vòng quanh thế giới. Về logic, bạn chỉ cần bác bỏ một trong những niềm tin là cả tập hợp đã không còn đúng nữa.
Cảm xúc thì khó giải quyết hơn. Thay vì kìm nén hoặc phớt lờ cảm xúc, hãy thừa nhận rằng chúng tồn tại và có thể ảnh hưởng đến khả năng phán đoán. Sự thay đổi đơn giản này có thể giảm thiểu sức mạnh của cảm xúc và giúp ta tránh được việc rơi vào bẫy hợp lý hóa66.
Tách biệt cảm xúc khỏi sự thật là phương cách chính giúp bạn tránh việc bị ảnh hưởng cốt lõi cùng cảm xúc ẩn trong các thông điệp làm chệch hướng. Hãy xem chi tiết trong Chương 1.
Ngụy biện, thiên kiến và tự nghiệm
Để chống lại ba yếu tố này, trước tiên chúng ta cần thừa nhận rằng chúng thuộc về bản chất của trí óc con người. Điều này không có gì sai. Chúng ta có thể làm theo một số nguyên tắc tư duy phản biện sau đây:
Kiểm tra sự thật của vấn đề: Hãy đảm bảo rằng bạn xem xét mọi thứ có liên quan và chắc rằng thông tin là sự thật chứ không phải là niềm tin hay quan điểm.
Áp dụng cách tiếp cận thận trọng: Cần nhận ra rằng mọi tình huống đều không ngừng biến chuyển. Hãy cố gắng tìm kiếm những thông tin tốt nhất có thể tại thời điểm đó.
Nghi vấn về mọi thứ: Chỉ đưa ra giả định khi không sẵn có các sự thật.
Hạn chế các thiên kiến: Điều này có lúc rất dễ hiểu, có lúc không.
Tự rút ra kết luận cho mình: Các kết luận tốt nhất nên dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về những sự thật sẵn có và trên chính kinh
nghiệm sâu sắc của bạn.
Để đối phó với lỗi ngụy biện công kích cá nhân, hãy hiểu rằng kiểu ngụy biện này đôi khi là một cách phê bình phù hợp nếu hoàn cảnh hoặc đặc điểm của họ có liên quan đến những gì họ đang tranh luận. Hãy cố gắng kiềm chế việc thực hiện nó, trừ khi đó là một chiến thuật cụ thể để loại bỏ đối thủ của bạn. Mặt khác, việc lạm dụng ngụy biện công kích cá nhân biến một cuộc thảo luận thành một cuộc công kích tay đôi. Khi gặp phải những lập luận công kích cá nhân, hãy chỉ ra rằng việc tấn công đó không làm tổn hại đến ý tưởng và hướng cuộc thảo luận trở lại sự thật.
Nếu muốn ra quyết định tốt hơn, hãy tránh việc khái quát hóa vội vã. Hãy cẩn thận với việc người khác đưa ra những kết luận không hợp lý. Hãy đảm bảo rằng họ đã cân nhắc mọi thông tin mang tính định tính. Ví dụ: một nguồn có thể cho bạn biết rằng quảng cáo trên điện thoại di động luôn tạo ra doanh thu. Điều này có thể là sự thật hay không? Hẳn trong đó có một thông tin mang tính định tính nào đó; có lẽ ý họ muốn nói rằng quảng cáo trên điện thoại di động thường tạo ra doanh thu khi xác định đúng khách hàng mục tiêu. Hãy chú ý sự thay đổi giữa “luôn” và “thường”: những từ tuyệt đối như “luôn” có thể là dấu hiệu của việc người khác khái quát hóa quá mức.
Ngụy biện phong trào có vẻ khá dễ tránh, nhưng cũng như mọi nguyên tắc tư duy phản biện khác, việc này đòi hỏi bạn không chỉ chấp nhận những gì mình nhìn hoặc nghe thấy. Hãy tỉnh táo và chủ động xử lý thông tin. Hãy cởi mở với các thông tin và giải pháp thay thế, đón nhận những góc nhìn mới và chấp nhận rằng đám đông có thể dễ dàng mắc sai lầm. Hãy liên tục tìm kiếm thông tin mới, xem xét thông tin và bằng chứng trong bối cảnh, đồng thời cố gắng đừng đơn giản hóa quá mức.
Hãy nhớ, ngụy biện phong trào, và cả những lỗi ngụy biện khác vừa thảo luận, là kết quả của các lối tắt tinh thần. Phương pháp tiếp
cận thận trọng sẽ giúp bạn hạn chế điều này và vô cùng hữu ích67 68.
Ngụy biện người rơm khá dễ nhận diện. Hãy tỉnh táo trước những lập luận hoặc tuyên bố của người nói. Cẩn thận với việc ai đó nêu lại một luận điểm bằng một cách nói khác của riêng họ. Họ đã thêm, bớt gì chưa? Họ đã thay đổi lập luận chưa?
Hãy chống lại sức ảnh hưởng của tự nghiệm sẵn có và thiên kiến xác nhận bằng cách không dừng lại ở những suy nghĩ đầu tiên và khuyến khích người khác cũng làm như vậy. Hãy công nhận rằng ý tưởng ban đầu có thể đúng, nhưng đồng thời hãy tìm kiếm các bằng chứng bác bỏ nó. Hãy nghĩ tới nhiều khả năng khác nhau. Điều này mang lại cho bạn một nền tảng vững chắc hơn để tiếp tục tiến lên.
Khi xử lý dữ liệu số, hãy chú ý các hiệu ứng mỏ neo. Hãy đảm bảo bản thân có thời gian để tính toán đầy đủ và tránh được việc neo câu trả lời của mình vào một giải pháp tạm thời.
Hãy lưu ý rằng các giá trị hoàn toàn không liên quan có thể dễ dàng neo giữ những ước tính số học. Thêm vào đó, mọi người xung quanh và các nguồn khác có thể cố ý neo giữ những câu trả lời của bạn, bất kể là số hay hình thức khác. Phương pháp tiếp cận thận trọng sẽ giúp ích trong những trường hợp như vậy, và thậm chí bạn cũng có thể tái neo giữ các ước tính của mình. Ví dụ: trong đàm phán tài chính, khi đối phương đã đưa ra một con số ban đầu, bạn có thể nghĩ về một con số hoàn toàn khác (kể cả nếu nó chỉ xuất hiện trong đầu bạn) để giảm thiểu hiệu ứng mỏ neo có thể xảy ra.
Thiên kiến mỏ neo có thể lý giải sự lạc quan quá mức trong các dự án phức tạp vì chúng ta có thể đánh giá quá cao cơ hội thành công của mình mà chỉ dựa vào những thành công bước đầu. Hãy chấp nhận rằng ước tính tốt nhất của bạn vẫn có thể sai và tuân theo quy trình tư duy phản biện bằng cách đánh giá đầy đủ thông
tin và bằng chứng mới rồi đưa nó vào những dự án mà bạn đang tiến hành.
Thiên kiến đồng thuận giả ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn nhận người khác và ý kiến của họ cũng như cách họ nhìn nhận chúng ta. Hãy cố gắng tránh giả định về người khác, và nếu người khác giả định sai về bạn, hãy chỉ ra một cách lịch sự.
Trong công việc, thiên kiến đồng thuận giả ở cấp độ tổ chức có thể dẫn đến một loạt các vấn đề. Giả sử các nhà quản lý tại một công ty cho rằng các đối thủ cạnh tranh đều hoạt động theo cách giống như công ty của họ. Trong trường hợp đó, họ có thể bỏ lỡ những cơ hội đổi mới do không tiếp thu những cách làm việc khác. Họ cũng có thể không nhận ra thời điểm mà mình có lợi thế cạnh tranh có thể khai thác. Bạn nên dành thời gian nghiên cứu những sự thật mà mình có được.
Chúng ta cần khách quan trong việc đưa ra nhận định để vượt qua được hiệu ứng hào quang. Hãy xử lý riêng biệt các yếu tố riêng biệt: ví dụ, bên hông một chiếc xe cũ gỉ được sơn một bức tranh đẹp không nên khiến bạn nghĩ rằng chiếc ô tô là tốt. Hãy nhớ một trải nghiệm tốt có ảnh hưởng rất lớn, đôi khi quá mức cần thiết. Đừng để hiệu ứng hào quang che mắt bạn trước những thứ (hoặc người) vốn sẽ tồi tệ hơn theo thời gian. Hãy đánh giá riêng từng con người/sự vật/sự kiện, dựa trên những đặc điểm riêng.
Tự nghiệm sẵn có có thể là vấn đề đặc biệt với tư duy phản biện. Khi cố gắng suy nghĩ hợp lý, chúng ta phải vượt ra ngoài những điều hiển nhiên và xem xét chi tiết các tình huống. Tự nghiệm sẵn có đẩy chúng ta theo hướng ngược lại, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể phản đòn. Ví dụ, nếu bạn phải đưa ra một quyết định khó khăn, hãy viết một danh mục những điểm tốt và xấu. Điều này sẽ giúp bạn tập trung vào tình huống toàn cảnh và ngăn cản những thông tin sẵn có nhất thống trị quá trình ra quyết định.
Tự nghiệm điển hình có thể khó xử lý vì mọi người thường quá tự tin với nhận định của mình. Để tránh rơi vào tình trạng đó, hãy tìm tỷ lệ cơ sở của bất kỳ điều gì bạn đang đánh giá. Hãy nhớ lại ví dụ về việc người nói cho rằng một người là nhà khoa học máy tính chứ không phải là nông dân vì anh ta đeo kính. Một cách đáng tin cậy hơn để quyết định là xem xét tỷ lệ phần trăm của nông dân và nhà khoa học máy tính trong dân số, sau đó chọn ra công việc phổ biến hơn.
Nói chung, việc xác định tỷ lệ cơ sở là một cách cực kỳ hữu ích để tránh tự nghiệm điển hình khi phân loại mọi thứ. Khi làm việc với các quy trình, bạn có thể thu thập thêm dữ liệu hoặc thực hiện cùng một quy trình nhiều lần và quan sát kết quả: mẫu lớn hơn thường cho kết quả có tính đại diện hơn.
TẠI SAO BẠN KHÔNG NÊN SỢ THAY ĐỔI SUY NGHĨ CỦA MÌNH?
Các loại thiên kiến và tự nghiệm được thảo luận ở đây chỉ chiếm một phần nhỏ trong số những loại thiên kiến mà các triết gia cùng các nhà tâm lý và kinh tế học cho rằng não bộ chúng ta phải xử lý. Hãy nhớ rằng đây là đặc điểm tự nhiên của cách trí óc vận hành, và về mặt nào đó, là tự động và chúng ta cần phản bác những niềm tin cũng như cách thức
Các loại thiên kiến và tự nghiệm được thảo luận ở đây chỉ chiếm một phần nhỏ trong số những loại thiên kiến mà các triết gia cùng các nhà tâm lý và kinh tế học cho rằng não bộ chúng ta phải xử lý. Hãy nhớ rằng đây là đặc điểm tự nhiên của cách trí óc vận hành, và về mặt nào đó, là tự động và chúng ta cần phản bác những niềm tin cũng như cách thức suy nghĩ khác nhau mà không cảm thấy bản thân bị đe dọa hay khiến người khác cảm thấy như vậy.
Tiền đề đúng và logic đúng sẽ dẫn đến một kết luận đúng. Nếu “sự thật” là sai, lập luận sẽ sai. Kết luận có thể tình cờ vẫn đúng, nhưng lập luận đưa ra không chứng minh cho kết luận đó. Tất cả
các yếu tố được liệt kê trong chương này, và nhiều yếu tố khác, có thể khiến chúng ta hiểu sai sự thật.
Tiền đề của một lập luận thậm chí có thể là giả định chứ không phải sự thật, nhưng điều này dẫn đến một lập luận yếu hơn. Những giả định thường được trình bày giống như các sự thật nhưng không có bằng chứng. Đôi khi giả định lại là thứ tốt nhất mà chúng ta có thể đạt đến trong một tình huống nhất định. Ví dụ, có những lúc chúng ta chỉ đơn giản là không thể tìm ra bất kỳ bằng chứng nào cả. Các nhà khoa học, cùng những người có vai trò đổi mới khác, gặp phải vấn đề này khá thường xuyên. Mặc dù vậy, bạn không nên quá tự tin với một kết luận rút ra từ các giả định và cần tìm bằng chứng để hỗ trợ hoặc bác bỏ các giả định này bất cứ khi nào có thể.
Các nhà tâm lý học lần đầu sử dụng thuật ngữ “sự bất hòa về nhận thức” vào những năm 197069. Nó đã trở thành một ý tưởng phổ biến kể từ đó và được mọi người chấp nhận70. Khi chúng ta bắt gặp thông tin mới không phù hợp với ý tưởng hoặc kết luận hiện tại của mình, bộ não sẽ hoạt động để khiến nó phù hợp hoặc từ chối thông tin mới đó.
Khi những niềm tin trái ngược nhau dẫn đến sự bất hòa về nhận thức, tâm trí của chúng ta có thể cố gắng giữ lấy cả hai niềm tin bằng cách chia tách chúng ra; trí óc giữ cho các niềm tin này độc lập với nhau. Chúng ta không gặp phải vấn đề với sự mâu thuẫn này, và vì thế bỏ qua nó71. Thay vì như vậy, hãy cố gắng xem xét các niềm tin, xem một hay cả hai trong số đó cần được cập nhật dựa trên các bằng chứng bổ sung.
Hãy lưu ý rằng sự bất hòa về nhận thức là một quá trình hợp lý hóa. Não bộ khó có thể lưu giữ những thông tin trái ngược nhau, vì vậy các sự thật có thể bị bóp méo hoặc bỏ qua trong nỗ lực quay trở lại trạng thái cân bằng.
Khi tự giải quyết vấn đề, hãy giảm bớt sự bất hòa bằng cách tập trung vào quá trình logic chứ không phải kết luận72. Hãy đảm
bảo logic của bạn là hợp lý. Miễn là tất cả các tiền đề đều đúng và kết luận đều được rút ra từ các tiền đề đó thì bạn có thể chấp nhận kết luận xuất hiện từ quá trình lập luận của mình.
Một đặc điểm tâm lý khác khiến thiên kiến dễ xuất hiện là ta có kỹ năng toán học trực quan khá kém. Ngay cả những người giỏi toán cũng không thường xuyên áp dụng vào việc lập luận hằng ngày73 74.
Ví dụ, hãy tưởng tượng một chương trình xổ số rút ra năm số từ một hòm 50 số. Một tuần nọ, các con số chiến thắng là 1, 2, 3, 4 và 5. Phản ứng đầu tiên của bạn với kết quả đó là gì? Nhiều người sẽ nói rằng rất khó xảy ra. Khó đến mức có thể bị nghi là gian lận.
Nhóm các con số này cũng khả thể như bất kỳ sự kết hợp nào khác của các con số được rút ngẫu nhiên từ một tập hợp. Chúng không phù hợp để đại diện cho các số ngẫu nhiên; mọi người thường mong đợi các con số rải rác hơn. Sẽ còn ngạc nhiên hơn nhiều nếu cùng một bộ số – bất kỳ số nào – xuất hiện trong ba tuần liên tiếp.
Tóm lại, bạn không nên sợ thông tin mới và cũng không nên sợ thay đổi suy nghĩ của mình. Hãy cởi mở, cho phép bản thân phát triển, tính đến tất cả các yếu tố được thảo luận ở đây và chia sẻ kỹ năng tư duy phản biện với bạn bè, đồng nghiệp.
CÁC YẾU TỐ NHẬN THỨC KHÁC ẢNH HƯỞNG ĐẾN SUY NGHĨ CỦA CHÚNG TA
Ngoài các yếu tố đã được thảo luận, các đặc tính khác của hệ thống nhận thức và cả bản thân thông tin cũng có thể ảnh hưởng đến suy nghĩ của chúng ta.
Nhận dạng mẫu
Não bộ cực kỳ giỏi nhận dạng mẫu. Mọi người thường nhìn thấy các khuôn mặt trong những hình dáng giống như khuôn mặt, chẳng hạn như đầu xe ô tô, một chứng được gọi là ảo giác thị giác. Một phần lớn bộ não thị giác của chúng ta được dành riêng cho việc xử lý khuôn mặt, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi chúng ta cảm nhận được chúng ngay cả khi chúng không ở đó75.
Ảo giác là vô thức: mọi người không cố tình nhìn thấy những mẫu này mà chúng cứ thế xuất hiện76. Chắc hẳn bạn đã trải qua điều này. Vô số meme trên Internet hiển thị các vật thể như nhà và ô tô trông giống khuôn mặt. Đôi khi có thể mất một vài phút để mẫu tự phân giải thành hình ảnh. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, bạn lập tức gặp ảo ảnh và khó có thể nhìn hình ảnh một cách bình thường hơn.
Ảo giác cũng có thể xảy ra ở các giác quan khác: nghe thấy các thông điệp của Satan trong âm nhạc phát ngược hoặc giọng nói ma quái trong tiếng nhiễu của sóng vô tuyến.
Nhận thức mẫu tự động cũng tạo ra xu hướng tương tự trong ảo ảnh quang học, chẳng hạn như hình 2D trông giống 3D. Điều này không phải lúc nào cũng hay ho. Cả nhận dạng mẫu và những sự sai lệch về giác quan đều có thể dẫn đến niềm tin sai lệch, và mọi người có thể và thực sự tìm kiếm thông tin để hỗ trợ chúng.
Tóm lại, bộ não của chúng ta cực kỳ giỏi trong việc nhận diện mẫu nhưng lại kém về thống kê77. Chúng ta thường xuyên nhận ra ý nghĩa từ những yếu tố kích thích ngẫu nhiên.
Dữ liệu bị thiếu hoặc ẩn
Các thông tin mà bạn không biết đôi khi ảnh hưởng đến bất kỳ điều gì bạn đang lập luận. Mối nguy nằm ở chỗ, những dữ liệu bị thiếu có thể rất quan trọng; nếu có chúng, kết luận hoặc quyết định của bạn có thể sẽ hoàn toàn khác.
Trong các thử nghiệm y tế, dữ liệu bị thiếu là phổ biến. Ví dụ, trong một nghiên cứu về những bệnh nhân từng mắc đột quỵ, các bác sĩ lâm sàng có thể không thu thập được đủ dữ liệu cho mọi câu hỏi nghiên cứu từ tất cả các bệnh nhân. Một số bệnh nhân có thể không đủ khả năng hoàn thành những nhiệm vụ nhất định. Một cách để giải thích điều này là sử dụng số liệu thống kê để tìm ra những khoảng trống, chẳng hạn như thay thế các điểm dữ liệu bị thiếu với tất cả các bệnh nhân khác78.
Các nhà nghiên cứu lập kế hoạch thử nghiệm lâm sàng rất chi tiết và thường xây dựng các phương pháp bù đắp cho dữ liệu bị thiếu. Bạn có thể cân nhắc làm điều này cho các dự án của mình nếu có thể: hãy lập kế hoạch về cách bù đắp cho những dữ liệu không thể truy xuất.
Ngoài ra, thông tin bị ẩn có thể xuất phát từ thiên kiến xác nhận khi mọi người bỏ qua hoặc không thể báo cáo các sự kiện bác bỏ một ý tưởng cụ thể79. Việc phát hiện ra những sự kiện này là rất quan trọng nếu bạn muốn loại bỏ thiên kiến xác nhận đó.
Hồi quy về giá trị trung bình và ngụy biện con bạc
Mặc dù đây không phải là một bài kiểm tra toán học, nhưng bạn nên biết hiện tượng hồi quy về giá trị trung bình (regression to the mean). Đây không phải là ngụy biện hay thiên kiến mà là một đặc điểm của dữ liệu. Hồi quy về giá trị trung bình xảy ra khi ai đó liên tục làm một bài kiểm tra hoặc thực hiện một nhiệm vụ. Một mức điểm rất cao hoặc rất thấp, hay một ngoại lệ, có thể xuất hiện, nhưng sau đó dữ liệu sẽ quay trở lại điểm trung bình trước đó80 81 82.
Hiện tượng này giải thích tại sao một năm tuyệt vời của một đội thể thao có nhiều khả năng kéo theo một năm tồi tệ chứ không phải một năm tuyệt vời khác. Những cải thiện về năng lực là có thể và sẽ xảy ra, nhưng ta không thể coi một năm thành công duy nhất như một sự cải thiện về trình độ trung bình. Thành tích xuất sắc là sự kết hợp của khả năng cơ bản và may mắn ngẫu nhiên83.
Hồi quy về giá trị trung bình có thể có những tác động thú vị trong thế giới thực. Một nhà khoa học đã làm việc với những người hướng dẫn bay trong không quân, và một người trong số họ báo cáo rằng khi mình khen ngợi thành tích của một học viên thì học viên này thường làm tệ hơn vào lần sau84. Người hướng dẫn nghĩ rằng lời khen ngợi khiến mọi người lái máy bay tệ hơn sau đó. Tuy nhiên, chuyến bay đặc biệt xuất sắc của họ là một trường hợp ngoại lệ, và họ sẽ hồi quy về mức trung bình trong những chuyến tiếp theo.
Tương tự, một màn thể hiện kém có khả năng được tiếp nối bằng một màn thể hiện trung bình thay vì một màn thể hiện ảm đạm khác.
Nói chung, hồi quy về giá trị trung bình là khó nhận biết bởi chúng ta cân nhắc đến các xác suất chưa đủ nhiều. Hồi quy về giá trị trung bình cũng dẫn đến một số loại thiên kiến và tự nghiệm đã nêu85. Lỗi ngụy biện sau đây minh họa một điểm tương tự.
Ngụy biện con bạc là niềm tin rằng sau một lần thể hiện tốt những lần tiếp theo cũng sẽ thành công. Việc bình luận về các môn thể thao đồng đội như bóng rổ đôi khi cũng mắc lỗi này86.
Ngụy biện con bạc là niềm tin rằng sau một lần thể hiện tốt những lần tiếp theo cũng sẽ thành công. Việc bình luận về các môn thể thao đồng đội như bóng rổ đôi khi cũng mắc lỗi này86.
Loại ngụy biện này liên quan đến hồi quy về giá trị trung bình: hồi quy về giá trị trung bình là tình huống thực tế, trong khi ngụy biện con bạc là điều người ta cho rằng sẽ xảy ra. Nó cũng liên quan đến thiên kiến xác nhận: mọi người có thể nhận ra trường hợp mà hiệu ứng con bạc xuất hiện, nhưng lại bỏ qua những trường hợp mà nó không xuất hiện87.
Ngụy biện bàn tay nóng cũng có thể đúng với các trò đánh bạc, mà người chơi đôi khi coi là không ngẫu nhiên. Lỗi ngụy biện con bạc diễn ra theo chiều ngược lại: vì con bạc đã thua nhiều lần nên lần sau chắc chắn sẽ thắng88.
Lỗi ngụy biện con bạc cho thấy ngay cả khi cơ hội ngẫu nhiên là yếu tố chính chi phối kết quả thì người ta vẫn không ngừng nhận diện mẫu. Hãy tưởng tượng bộ não của chúng ta có thể làm gì khi việc kết quả sẽ mang tính ngẫu nhiên là không rõ ràng!
CÁC BƯỚC HÀNH ĐỘNG
Bộ não xử lý rất nhiều thông tin mà không phải lúc nào chúng ta cũng nhận thức được. Chúng ta thật may mắn khi tất cả các lối tắt này giúp xử lý thông tin hiệu quả hơn. Hãy thử các bài tập dưới đây trước khi đi tiếp.
1. Những ngụy biện huyền bí và nơi tìm ra chúng
Hãy tìm danh sách các loại ngụy biện (fallacy), thiên kiến (bias) và tự nghiệm (heuristic) trong một trang web tâm lý học hoặc bách khoa thư trực tuyến. Hãy tìm hiểu xem có bao nhiêu loại. Hãy đọc về một số loại và ghi lại suy nghĩ của mình. Bạn có thể đặt các câu hỏi sau:
• Mọi người thường không nhận ra những loại nào khi gặp phải?
• Chúng có phải là những biện pháp tu từ được sử dụng một cách có chủ đích để thuyết phục không? Hay chúng có tính tự động?
• Chúng có liên quan đến các loại mà chúng ta đã bàn không?
• Bạn có thể nghĩ về những ví dụ phù hợp với định nghĩa từ các phương tiện truyền thông hoặc từ cuộc sống của chính mình?
• Bạn giải quyết những lỗi này trong suy nghĩ của chính mình và người khác ra sao?
2. Đừng công kích cá nhân
Hãy tìm bản ghi của một tranh luận, trong đó có người cố tình áp dụng ngụy biện công kích cá nhân, rồi viết lại toàn bộ (hoặc một phần)
của lập luận, tập trung vào chủ đề đang tranh luận. So sánh phiên bản của bạn với phiên bản gốc, có thể cho bạn bè hoặc đồng nghiệp cùng đọc và nghĩ xem phiên bản nào cho ra kết quả logic hơn.
TÓM TẮT
Câu chuyện ở đầu chương cho thấy đôi khi chúng ta hiểu sai vấn đề; điều này có thể đúng ngay cả khi chúng ta đã thực hiện tốt các kỹ năng tư duy phản biện. Các quá trình nhận thức của chúng ta có thể phức tạp, nhưng đôi khi chúng cũng khá sơ sài. Trong câu chuyện, các bậc phụ huynh tin rằng bật nhạc Mozart tốt cho con họ vì họ tin tưởng những bài báo khoa học uy tín nói rằng nhạc Mozart khiến người ta thông minh hơn.
Các bậc cha mẹ chỉ đọc nghiên cứu ban đầu về Hiệu ứng Mozart. Họ đã không theo dõi nó: đây là lỗi khái quát hóa vội vã. Họ không nhận ra các nhà khoa học khác đã thấy rất khó để tái tạo Hiệu ứng Mozart. Họ rơi vào thiên kiến khi chỉ chú ý đến các báo cáo truyền thông ca ngợi (và đánh giá cao) Hiệu ứng Mozart.
Hiệu ứng hào quang cũng có thể xuất hiện vì Mozart thường được coi là một trong những nhà soạn nhạc cổ điển xuất sắc nhất. Nếu đó là một nhà soạn nhạc ít người biết đến, liệu bài báo có được nhiều người ủng hộ như vậy? Người ta rất dễ ưa thích ý tưởng rằng nhạc Mozart là một loại nhạc đặc biệt.
Cha mẹ cũng không hoài nghi; nếu hoài nghi, họ sẽ nghiên cứu hiệu ứng trên chính con mình chứ không chấp nhận nó ngay lập tức. Các nhà khoa học luôn hoài nghi ở tất cả các giai đoạn trong công việc, từ ý tưởng đến phân tích dữ liệu trong nghiên cứu đã hoàn thành. Chương tiếp theo sẽ bàn chi tiết hơn về chủ nghĩa hoài nghi khoa học.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
1. Trí óc của chúng ta bị giới hạn bởi các ngụy biện, niềm tin, cảm xúc, thiên kiến và tự nghiệm, đồng thời tất cả chúng đều tác động đến nhận thức cũng như quá trình xử lý thông tin.
2. Những điều này có thể gây ra các ảnh hưởng lớn, vì vậy chúng ta cần loại bỏ những ảnh hưởng của chúng nếu muốn đi đến những kết luận chắc chắn và quyết định đúng đắn.
3. Chúng ta có thể không hoàn toàn vượt qua được những thiên kiến của não bộ, nhưng tư duy phản biện sẽ giúp ích phần nào.
- 3 -
TẠI SAO TƯ DUY HOÀI NGHI KHOA HỌC LẠI GIÚP BẠN KHÁM PHÁ SỰ THẬT?
Alanna Thomas, 15 tuổi, bật khóc và lấy tay che mặt.
“Cháu xin lỗi.” Cô bé thở hổn hển và ngước lên nhìn viên cảnh sát đang đứng trước mặt. “Cháu đã làm điều đó, cháu đã… cháu đã đẩy thầy ấy xuống. Cháu xin lỗi...”
Ở phía bên kia thị trấn, nhà báo địa phương Lin Rodriguez cũng vò đầu bứt tai. Cô cần viết cho xong bài báo, nhưng câu chuyện quá phức tạp. Thật khó để biết đâu là thật.
Hai tuần trước, thi thể thầy Gomez, một giáo viên khoa học tại trường trung học Mildenhall, đã nổi lên, ngửa bụng, ở một mỏ đá bỏ hoang ngập nước. Lin nhớ đến các lớp học của thầy. Thầy ấy khá nghiêm khắc, nhưng vẫn truyền cảm hứng cho học sinh bằng một cách nào đó. Cô sẽ không bao giờ theo học ngành pháp y ở đại học nếu không có thầy Gomez.
Ở trường không phải ai cũng thích thầy, nhưng Lin không thể hình dung nổi tại sao vị giáo viên này lại bị sát hại dã man như vậy. Những sự kiện như vậy chẳng bao giờ xảy ra ở thị trấn nhỏ này; cộng đồng đã bị sốc. Hiển nhiên, ngay sau khi tin tức được tung ra thì đã có những lời đồn đại. Giết người? Tự sát? Tai nạn? Không ai biết, nhưng mọi người đều nói về nó.
Sếp của Lin đã cử cô đến hiện trường ngay khi nghe tin, và cô đã phỏng vấn đội pháp y khi họ đang tỉ mẩn thu thập bằng chứng. Họ đã che thi thể, nhưng điều tra viên chính nói với Lin rằng ông Gomez có một số vết bầm tím đáng ngờ. Họ cũng tìm thấy dấu chân của hai người khác nhau xung quanh đỉnh của vách đá.
Hôm sau, nhiều bằng chứng khác đã được phơi bày. Một người đàn ông địa phương nói với cảnh sát rằng khi đang dắt chó đi dạo, anh ta đã nghe thấy có ai đó đi qua bụi rậm cách vách đá không xa. Khu này đầy những bụi mâm xôi, và anh có thể nghe thấy rằng họ đang gặp rắc rối. Anh ta cho rằng điều này xảy ra không lâu sau khi thầy Gomez ngã và tử vong.
Lin hỏi xung quanh xem có ai biết nhiều hơn không. Nếu đó là tự sát, hẳn thầy Gomez phải thể hiện sự buồn bã, đau khổ trong những ngày và tuần trước khi qua đời. Cô hỏi các thầy cô ở trường và nghe được một số thông tin thú vị.
Bốn người riêng biệt đã nhấn mạnh cùng mội mối lo: một nhóm nhỏ học sinh dường như có ác cảm khá lớn với vị giáo viên này. Họ thậm chí còn nói rằng có các bài đăng trên mạng xã hội kể chi tiết những câu chuyện tưởng tượng của học sinh về việc chơi khăm thầy Gomez, như dùng chìa khóa rạch xe của thầy hoặc thậm chí là làm hại chính bản thân thầy. Các nhóm này bao gồm những học sinh mà các thầy cô khác trong trường cũng đồng ý rằng hay bị cô lập. Một trong số chúng là Alanna Thomas, một cô bé nhút nhát, con gái của một luật sư địa phương.
Lin đã nghiên cứu các bài đăng trên mạng xã hội và tìm thấy một số chủ đề đáng buồn. Chắc chắn chủ đề “hãy giết thầy Gomez” đã xuất hiện nhiều lần.
Vấn đề là Lin không thể tin rằng bất kỳ đứa trẻ bất mãn nào trong số chúng lại có thể giết giáo viên của mình. Hài lòng với sự hoài nghi của mình, cô đã nghiên cứu và tìm ra một lời giải thích thay thế.
Cha của Alanna Thomas đang nhắm đến việc thăng chức: ông muốn trở thành luật sư cấp quận. Hơn nữa, một nhóm các chủ doanh nghiệp địa phương hùng mạnh lại cực lực phản đối ý tưởng này. Ông Thomas là một nhà môi trường nhạy bén, và mọi người đều mong chờ ông thực hiện lời hứa xây dựng một nhà máy điện
lớn ở rìa Mildenhall. Thay vì một nữ sinh giận dữ, nhiều khả năng ai đó đã thuê một kẻ giết người chuyên nghiệp để vô hiệu hóa ông Thomas bằng cách khiến con gái ông ta dính líu đến một vụ giết người.
Bên cạnh đó, cô bé là một diễn viên đóng thế hoàn hảo. Mọi người biết đến cô như một học sinh thù ghét thầy giáo của mình và không hòa đồng với xã hội, một đối tượng dễ sụp đổ khi bị cảnh sát thẩm vấn.
Như chúng ta đã thấy, đó chính xác là những gì đã xảy ra. Lời thú nhận đẫm nước mắt của Alanna đã trở thành xương sống của vụ án chống lại cô bé. Em đủ cao và khỏe để đẩy thầy Gomez khỏi vách đá khi ông đang dắt chó đi dạo ban đêm, một thói quen mà cả thị trấn đều biết.
Lin đã công bố kết quả điều tra của mình. Sau bài báo của Lin, cảnh sát đã từ bỏ vụ án do thiếu bằng chứng. Họ chính thức kết luận rằng lời thú nhận của Alanna là không đáng tin cậy và không có đủ bằng chứng. Thầy Gomez đã rơi xuống mỏ đá; đó là một tai nạn khủng khiếp.
Cùng ngày, Lin nhận được một e-mail nặc danh viết rằng: “Bạn nên lắng nghe. Gomez đã bị sát hại.”
Người gửi đính kèm một bức ảnh có độ phân giải cao chụp từ đỉnh vách đá. Ngày và giờ chính xác, đồng thời dữ liệu vị trí cũng vậy. Hình ảnh cho thấy Alanna Thomas đang đứng gần mỏm đá và bên dưới là thi thể của một người đàn ông úp mặt xuống nước.
Nếu hoài nghi đúng mức trong suốt cuộc điều tra của mình, Lin đã không phải gánh chịu hậu quả thảm khốc này. Cô nghi ngờ lời giải thích đầu tiên – rằng Alanna đã giết thầy giáo – đến mức nghĩ ra một giải pháp thay thế thậm chí còn ít hợp lý hơn. Cô thuyết phục bản thân và người khác rằng đó là sự thật, mặc dù lý thuyết âm
mưu của cô có ít bằng chứng hỗ trợ hơn lý thuyết của cảnh sát. Cuối cùng, tất cả mọi người đều bỏ lỡ sự thật.
Chủ nghĩa hoài nghi khoa học không chỉ đơn giản là sự nghi ngờ. Những người hoài nghi giữ một tâm trí cởi mở, nghi ngờ mọi lời giải thích chứ không tin rằng mình đã có câu trả lời cuối cùng. Có cách tiếp cận hoài nghi dựa trên các nguyên tắc khoa học giúp chúng ta tiến gần hơn đến những kết luận đúng chứ không cố gắng sắp đặt để điều chúng ta muốn là đúng1. Những người có tư duy phản biện có thể tự bảo vệ bản thân khỏi việc bị dẫn dắt và tin vào những lời nói dối hoặc thông tin sai lệch.
CHỦ NGHĨA HOÀI NGHI KHOA HỌC LÀ GÌ?
Theo nghĩa chung, hoài nghi chỉ một thái độ thiếu tin tưởng vào người/sự vật/sự việc. Những người hoài nghi trên các phương tiện truyền thông thường chỉ trích những ý tưởng mà họ cho là khó xảy ra, chẳng hạn như các vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh hoặc các thuyết âm mưu. Những người theo chủ nghĩa hoài nghi khoa học thì có đủ lý do để tin hoặc không tin vào một tuyên bố nào đó, dựa trên việc phân tích các bằng chứng một cách công tâm.
Các nhà khoa học, vốn có tính hoài nghi, dành nhiều năm để thu thập bằng chứng trước khi công bố kết luận. Hơn nữa, các nhà khoa học không bao giờ tuyên bố mình đã khám phá ra sự thật mà chỉ cập nhật kiến thức hiện tại. Nghiên cứu khoa học là hoạt động không có hồi kết.
Bạn chỉ có thể áp dụng phương pháp tiếp cận hoài nghi khoa học với những tuyên bố có thể xác minh và bác bỏ. “Có thể xác minh” nghĩa là bạn có thể thử nghiệm với khái niệm hoặc tuyên bố đó2. Đầu thế kỷ XX, các triết gia châu Âu đã dành rất nhiều thời gian để tìm xem tính “có thể xác minh” nghĩa là gì. Một điều là có thể xác minh nếu bạn nhận ra được điều đó là đúng bằng cách quan sát hoặc đo lường. Một số triết gia lồng ghép khái niệm xác minh logic vào định nghĩa này, nhưng các nhà khoa học thường chỉ thích tập
trung vào các tuyên bố có thể thử nghiệm trong thế giới thực. Các ví dụ có thể bao gồm liệu sâu răng có phải là tiền đề của việc mất răng không, hoặc việc đầu tư vào giáo dục có liên quan đến việc cải thiện nền kinh tế địa phương không. Khoa học tập trung vào những thứ chúng ta có thể đo lường, thường là định lượng.
Nói rõ hơn, bạn không cần chứng minh ý tưởng để nó có được tính “có thể xác minh”. Ví dụ, chúng ta hoàn toàn nói được rằng sự sống có thể sẽ được phát hiện trong các hệ mặt trời khác trong tương lai, mặc dù hiện tại chúng ta không có nhiều phương pháp để làm điều đó. Tuyên bố này là có thể xác minh bởi ta có thể đến đó trong tương lai và quan sát xem sự sống có tồn tại không. Khoa học hiện nay đo lường môi trường của các hành tinh bằng cách sử dụng kính viễn vọng để nghiên cứu hóa học khí quyển, từ đó tìm ra các điều kiện có thể hỗ trợ sự sống cũng như những dấu hiệu hóa học của sự sống3.
Ví dụ về một tuyên bố không thể xác minh là: “Một đứa trẻ từng nuốt cả một cái bánh xe đạp mà vẫn sống.” Ta không thể xác minh điều này vì không có thông tin để nhận dạng đứa trẻ. Những báo cáo mang tính giai thoại như thế này có thể sai lệch. Ngay cả các nguồn đáng tin cậy cũng có thể lan truyền những thông tin không đáng tin cậy, vì thế bạn phải đặc biệt hoài nghi với các bằng chứng thứ cấp4.
Do đó, các tuyên bố không thể xác minh thì không có tính khoa học. Thay vào đó, ta có thể gọi chúng là các tuyên bố “siêu hình” nếu chúng chỉ dựa trên niềm tin5 6, hoặc có thể gọi chúng là các niềm tin hoặc tuyên bố chưa xác minh. Vấn đề nằm ở chỗ, không phải lúc nào chúng ta cũng xác minh được thông tin7. Đó là lý do tại sao tính “có thể bác bỏ” lại quan trọng và phần nào đã làm lu mờ khái niệm tính “có thể xác minh” trong những thập kỷ gần đây.
Tính có thể bác bỏ nghĩa là khả năng chứng minh một tuyên bố hoặc đề xuất là sai8. Ví dụ: nếu ai đó tuyên bố Robert de Niro sinh
ra ở New Zealand, bạn có thể bác bỏ tuyên bố này với các bằng chứng từ hồ sơ khai sinh.
Tiêu chí này mạnh hơn tính “có thể xác minh” vì tìm cách bác bỏ các tuyên bố thì dễ hơn là chứng minh chúng. Bác bỏ là nguyên tắc thông thường trong nghiên cứu khoa học hiện đại: thay vì cố gắng chứng minh điều gì đó, các nhà khoa học sẽ cố gắng bác bỏ điều ngược lại. Tính “có thể bác bỏ” cũng giúp các nhà khoa học duy trì tính khách quan trong khi tiến hành và phân tích nghiên cứu.
Các nhà khoa học tham gia vào hai loại nghiên cứu chính: quan sát và thử nghiệm. Cả hai loại nghiên cứu này đều có giá trị và có thể sử dụng để nghiên cứu các tuyên bố. Nghiên cứu quan sát là công cụ lý tưởng để thu thập bằng chứng ban đầu về một chủ đề. Trong một nghiên cứu quan sát, các nhà khoa học không thay đổi bất cứ điều gì về tình huống đang được nghiên cứu. Họ chỉ cần ghi chép và phân loại dữ liệu để xem liệu hai hay nhiều tình huống có khác nhau không.
Ví dụ, một nhà tâm lý học có thể nghĩ rằng phụ nữ chi tiền cho kem chống nắng nhiều hơn nam giới khi trời nắng nóng. Để nghiên cứu về chủ đề này, họ sẽ so sánh doanh số bán kem chống nắng cho nam và nữ ở các mức nhiệt độ khác nhau.
Tuy nhiên, họ không cố gắng xác minh ý kiến rằng phụ nữ chi nhiều hơn cho kem chống nắng mà sẽ thử nghiệm ý tưởng rằng doanh số cho hai giới không khác nhau để xem liệu có thể bác bỏ nó không. Nếu số tiền bỏ ra là khác nhau, họ có thể kết luận rằng có lẽ mình đã đúng và thực hiện thêm các nghiên cứu khác. Nếu số tiền bỏ ra không khác nhau, họ sẽ phải chấp nhận kết quả đó. Có lẽ mức chi tiêu của nam và nữ trên thực tế không có khác biệt, hoặc một số khía cạnh nghiên cứu đã tác động đến kết quả.
Các nghiên cứu quan sát có thể cung cấp rất nhiều thông tin, nhưng các nghiên cứu thực nghiệm lại mạnh mẽ hơn. Trong nghiên
cứu thực nghiệm, nhà khoa học kiểm soát càng nhiều biến càng tốt, nhằm giữ cho mọi thứ bằng nhau ngoại trừ biến cần nghiên cứu.
Chẳng hạn, bạn muốn thiết kế thử nghiệm để xem các khoản thưởng cho nhân viên bán hàng có làm tăng doanh số trong năm kế tiếp không. Để làm được điều này, bạn phải thưởng một số người và không thưởng cho những người khác rồi đo lường hiệu suất của họ. (Bạn có thể thưởng bù cho nhóm chưa được thưởng sau.)
Một nguyên tắc khoa học quan trọng khác là tính lặp lại. Nếu lặp lại nghiên cứu, ta có thu được cùng một kết quả hay không? Nếu kết quả chỉ xuất hiện một lần thì không đáng tin cậy. Ý tưởng rằng việc nghe nhạc Mozart làm cho mọi người thông minh hơn không có tính lặp lại9, mặc dù một nghiên cứu đã tìm ra kết quả này10.
Một điểm khó khăn khi áp dụng phương pháp tiếp cận khoa học là mọi người thường thích những kết quả tích cực. Chúng ta thích đưa ra kết luận dựa trên các sự kiện chứ không phải những thông tin không dự đoán được, và điều này thể hiện rằng chúng ta thích những thứ có ý nghĩa hơn là sự ngẫu nhiên. Đôi khi người ta thích một kết quả khoa học đến mức bỏ qua các kết quả khác có thể bác bỏ nó, và điều này rất giống thiên kiến xác nhận12 13.
Khoa học thường áp dụng quan sát và đo lường nên thường sẽ lập luận theo kiểu quy nạp thay vì diễn dịch.
Lập luận diễn dịch
Lập luận từ trường hợp chung sang trường hợp cụ thể. Nếu chim cánh cụt biết bơi, và Benjamin là chim cánh cụt, thì Benjamin biết bơi.
Thì ngược lại. Bạn khái quát hóa từ các trường hợp cụ thể. Nếu toàn bộ chim cánh cụt mà bạn nhìn thấy có màu đen và trắng, bạn sẽ kết luận rằng chim cánh cụt đều có màu đen và trắng. Việc nhìn thấy một con chim cánh cụt màu xanh sẽ bác bỏ tuyên bố này.
Trong ví dụ về chim cánh cụt ở trên, việc nhìn thấy một con chim cánh cụt màu xanh sẽ buộc chúng ta phải thay đổi kết luận của mình thành “hầu hết chim cánh cụt có màu đen và trắng, và một số có màu xanh lam”, điều này có thể chấp nhận được cho đến khi chúng ta có thêm thông tin. Có lẽ ai đó đã phát hiện ra một vị trí mới có những chú chim cánh cụt màu xanh lam, làm nghiêng sự cân bằng để chúng tôi thay đổi kết luận của mình một lần nữa, giờ đây tuyên bố rằng “hầu hết các chú chim cánh cụt đều có màu xanh lam.”
Những tuyên bố dựa trên niềm tin nằm ngoài phạm vi khoa học vì chúng không thể xác minh, cũng không thể bác bỏ. Điều này không có nghĩa là chúng sai, mà chỉ là chúng ta không nghiên cứu chúng bằng phương pháp khoa học. Chẳng hạn, chúng ta không thể nói các tín điều tôn giáo là đúng hay sai.
Những điều dị thường trong khoa học như vật chất tối và năng lượng tối cũng tương tự ở chỗ người ta vẫn tranh luận rằng liệu chúng có tồn tại hay không và được giải thích như thế nào nếu có tồn tại. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, có thể nói ta đang chờ một lời giải thích, và các phương pháp khoa học có khả năng giải thích chúng (vì cả vật chất và năng lượng đều là những chủ đề cốt lõi của vật lý).
TƯ DUY PHẢN BIỆN VÀ CHỦ NGHĨA HOÀI NGHI PHỐI HỢP NHƯ THẾ NÀO
Chủ nghĩa hoài nghi khoa học phối hợp với tư duy phản biện để giúp chúng ta phân biệt giữa sự thật và phi sự thật. Các kỹ thuật nghiên cứu khoa học nhắm đến việc kiểm tra mọi bằng chứng trước khi kết luận. Quá trình này giúp chúng ta ít mắc lỗi hơn. Cả các nhà
khoa học và những người hoài nghi không phải không có sai sót và thiên kiến, nhưng họ luôn cố gắng khách quan nhất có thể.
Bạn cũng biết rằng thường thì ta sẽ không thể kiểm tra mọi bằng chứng. Ví dụ, các nhà sinh vật học không thể mổ xẻ từng cá thể của một loài nhất định để xem xét hoạt động bên trong, và các nhà khoa học xã hội cũng không thể mong đợi tỷ lệ hoàn trả 100% cho bảng khảo sát của mình. Trong những trường hợp này, các nhà khoa học sẽ tính toán xem bao nhiêu điểm dữ liệu có khả năng mang lại kết quả có tính đại diện cho toàn bộ quần thể nghiên cứu, có thể bằng cách thực hiện một nghiên cứu thí điểm nhỏ hơn để kiểm tra, rồi dùng một mẫu có kích thước nhỏ hơn tương ứng cho nghiên cứu của mình.
Khi phân tích dữ liệu, chúng ta phải đề phòng dương tính giả và âm tính giả. Giống như một thử nghiệm chẩn đoán bệnh, một thử nghiệm khoa học không thể chính xác 100%; các yếu tố may rủi có thể can thiệp và tạo ra một kết quả không phản ánh đúng thực tế.
Kết quả dương tính giả xuất hiện khi một thử nghiệm cho thấy một sự kiện xảy ra có tác động lên một sự kiện khác, nhưng thực ra kết quả này là hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngược lại, kết quả âm tính giả là khi hiệu ứng là thật nhưng do ngẫu nhiên lại không xuất hiện trong thử nghiệm. Điều nguy hiểm trong cả hai trường hợp là nhóm nghiên cứu có thể chấp nhận kết quả sai và bỏ sót điều quan trọng hoặc tiến hành nghiên cứu một điều không quan trọng14.
Chúng ta có nhiều cách để tránh được các kết quả sai lệch, có thể là lặp lại cùng một thử nghiệm nhiều lần trong các trường hợp khác nhau để kiểm tra tính lặp lại, hoặc sử dụng các thử nghiệm có đối chứng để hé lộ điều sẽ xảy ra trong các tình huống có đôi chút khác nhau.
Khoa học ứng dụng như nghiên cứu y học có thể sử dụng giả dược trên nhóm đối chứng. Giả dược là một chất không hoạt động (hoặc một cách can thiệp khác) nhưng giống với phương pháp điều
trị đến mức không thể phân biệt. Các nhà nghiên cứu nói với người tham gia rằng họ có thể được dùng giả dược hoặc được điều trị. Do những lo ngại về đạo đức xung quanh việc duy trì lợi ích cho người bệnh, các phương pháp điều trị mới thường được thử nghiệm với nhóm chứng sử dụng phương pháp điều trị hiện có. Ví dụ trước đó cũng tương tự: quyết định không trao thưởng cho một số nhân viên bán hàng như một phần của nghiên cứu sẽ là không công bằng.
Tư duy phản biện tạo ra khuôn khổ cho sự nghi ngờ: giống như các nhà khoa học, chúng ta liên tục đặt câu hỏi về mọi thứ và thu thập bằng chứng để đưa ra kết luận đáng tin cậy hơn. Hãy cố gắng tránh rơi vào cái bẫy của việc nghĩ rằng mình đã tìm ra sự thật tuyệt đối. Bạn nên có tư duy cởi mở, linh hoạt và luôn cập nhật hiểu biết hiện có bằng cách bổ sung các bằng chứng mới mà bạn tìm được. Đồng thời, hãy nhớ rằng một số lý thuyết có logic và bằng chứng ủng hộ tốt hơn những lý thuyết khác16.
Nếu muốn đánh giá xem một lý thuyết có phải là tốt về mặt khoa học hay không, hãy áp dụng các nguyên tắc sau:
Tính có thể bác bỏ
Hãy nhớ rằng các tuyên bố mà chúng ta không thể bác bỏ thì không có tính khoa học, và chúng ta nên gán nhãn chúng là niềm tin hoặc giả định chứ không phải lý thuyết.
Dao cạo của Occam
Nếu có từ hai lý thuyết cạnh tranh nhau trở lên, chúng ta nên dùng lý thuyết đơn giản nhất (cho đến khi có thêm bằng chứng). Một số nhà tư tưởng phát biểu định luật này như sau: Hãy chấp nhận lý thuyết yêu cầu chúng ta đưa ra ít giả định nhất. Đồng thời, các lý thuyết không nên chứa những yếu tố phụ không tạo ra sự khác biệt cho nội dung tổng thể17.
Năng lực lý giải
Một lý thuyết tốt cần có khả năng giải thích về đối tượng của nó đầy đủ và hợp lý hơn các lý thuyết cạnh tranh. Bằng chứng mới có thể khiến nó phù hợp hoặc ít phù hợp hơn với dữ liệu. Một lý thuyết cũng có thể bị phủ định bởi một bằng chứng mới, khiến năng lực lý giải của nó giảm xuống bằng không18.
Năng lực dự đoán
Một lý thuyết cần có khả năng đưa ra các dự đoán kiểm chứng được. Ví dụ, trong hóa học, bảng tuần hoàn có thể dự đoán những nguyên tố chưa tồn tại, sau đó các nhà khoa học đã khám phá hoặc tạo ra chúng trong phòng thí nghiệm. Tương tự, Darwin đã dự đoán về một loài bướm đêm thụ phấn cho một loài hoa có hình thù đặc biệt, và các nhà thực vật học sau này đã phát hiện ra một loài giống với dự đoán của ông19.
Để minh họa những điểm này, hãy tưởng tượng một người kể cho bạn nghe câu chuyện sau đây:
“Ở tuổi 96, gan của ông tôi vẫn khỏe dù mỗi ngày ông đều uống hết một chai whisky!”
Thật không may, người ông không chứng minh rượu tốt cho gan. Ý tưởng này có thể bác bỏ được khi bạn nhìn vào toàn bộ những người uống rượu: người ông này không phải trường hợp điển hình. Câu chuyện này cũng minh họa cho thiên kiến xác nhận, khi một ví dụ duy nhất vượt mặt thực tiễn y học của hàng thập kỷ. Định luật dao cạo Occam cho chúng ta biết người ông là trường hợp ngoại lệ. Vận may của ông ấy không mang lại điềm báo tốt cho những người nghiện rượu nặng khác: lý thuyết của người bạn này có năng lực lý giải và dự đoán yếu.
Với rất nhiều cân nhắc, chúng ta cần tiếp tục hoài nghi về kết luận ngay cả khi đã cảm thấy tự tin. Điều này không có nghĩa là chúng ta nên nghi ngờ người khác hoặc bản thân quá mức, mà chỉ là chúng ta nên liên tục thay đổi suy nghĩ của mình.
TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI HOÀI NGHI?
Một giả thuyết cho rằng trí óc con người rất bảo thủ trong việc ra quyết định, và khi đã quyết định, chúng ta thường không muốn đổi ý. Điều này là do chúng ta có hai “tác tử” (agent) hoặc hệ thống xử lý thông tin khác nhau trong trí óc. Chúng ta có thể gọi đây là hệ thống nhanh và hệ thống chậm20.
Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao một số chuyên gia dường như có thể đưa ra quyết định và giải quyết vấn đề ngay lập tức? Một lời giải thích cho kiến thức chuyên môn là các kỹ năng được học kỹ và trở nên gần như tự động thông qua thực hành. Chúng gồm tư duy và các kỹ năng thể chất. Những hành động tinh thần tốc độ cao này sử dụng hệ thống nhanh, và hệ thống này cũng xử lý việc nhận biết cảm xúc từ giọng nói của mọi người cũng như việc tự động đọc từ ở những người có khả năng đọc lưu loát.
Hệ thống chậm xử lý các suy nghĩ có chủ ý, chẳng hạn như thực hiện một phép tính khó. Bạn có thể quan sát thấy rằng trí óc cần tập trung, cố gắng lấy thông tin từ bộ nhớ và giải bài toán theo các giai đoạn tuần tự. Hệ thống này bị sự phân tâm tác động rất nhiều, đó là lý do tại sao đôi khi bạn có thể tập trung cao độ đến mức ai đó phải gọi tên nhiều lần để thu hút sự chú ý của bạn.
Hệ thống nhanh và chậm cũng phối hợp với nhau. Hệ thống chậm giúp đỡ hệ thống nhanh trong các tác vụ khó, và chúng ta đều đôi lúc gặp phải sự xung đột giữa việc xử lý tự động và xử lý có chủ đích. Việc chống lại niềm thôi thúc chỉ trích ai đó khi tức giận là một ví dụ: hệ thống nhanh thúc đẩy hành vi nóng nảy, nhưng hệ thống chậm sẽ kiểm soát nó.
Những phản xạ về tinh thần cũng gần giống với các kỹ năng, niềm tin sẵn có và những thứ khác mà chúng ta cho rằng có thể “tự động hóa”. Nếu muốn vượt qua chúng, chúng ta cần nỗ lực đáng kể, và ngay cả vậy thì phản ứng tự động mang tính bản năng cũng vẫn có thể xuất hiện.
Đó là lý do tại sao chúng ta cần tiếp tục hoài nghi về kết luận của mình ngay cả khi đã tự tin. Chúng ta phải cảnh giác với các “lỗi” trong trí óc, bao gồm cả những khuynh hướng như bị người khác ảnh hưởng quá mức hay những cảm xúc và niềm tin sẵn có của chúng ta, cùng với những thiên kiến vốn có và việc não bộ thích đi đường tắt.
Tuy nhiên, tin tốt là chúng ta có thể thay đổi thói quen nhận thức của mình và thậm chí còn có thể tạo ra những thay đổi trong não bộ thông qua luyện tập. Tính mềm dẻo thần kinh (neuroplasticity) cho não bộ khả năng tự tổ chức khá mạnh, và điều này không chỉ xảy ra ở người trẻ tuổi với bộ não đang phát triển. Việc “tổ chức lại bản đồ” trong não đặc biệt thú vị. Nghiên cứu cho thấy học và luyện tập giúp các vùng não liên quan phát triển, trong khi việc bỏ luyện tập sẽ khiến các vùng này thu nhỏ lại và trở về kích thước cơ bản21.
Sự miễn cưỡng của mọi người trong việc thay đổi quyết định là rất khó xử lý. Việc ném vào họ cả mớ dữ kiện và bằng chứng có thể chỉ khiến mọi thứ tệ hơn. Thay vào đó, hãy hiểu về bất kỳ yếu tố văn hóa và xã hội nào có thể ảnh hưởng đến ý kiến của họ, thử thuyết phục họ suy nghĩ một cách có ý thức về quan điểm của mình (sử dụng hệ thống chậm) và nhắc nhở họ tại sao bằng chứng lại quan trọng22.
Điều này nghe thì mâu thuẫn, nhưng chúng ta cần cả sự hoài nghi và cởi mở23 24. Chúng ta có thể coi sự cởi mở trong tư duy như một tập hợp các thói quen tinh thần:
• Suy nghĩ linh hoạt, tránh cứng nhắc.
• Chấp nhận các quan điểm có thể mâu thuẫn với nhau, ít nhất là cho đến khi đánh giá được chúng.
• Tránh bị niềm tin của bản thân tác động.
• Cố gắng tránh thiên kiến ngay cả khi bạn không đồng ý với một tuyên bố.
• Sẵn sàng khám phá những ý tưởng mới.
Với một số người, những cách suy nghĩ này có vẻ không “tương thích” với chủ nghĩa hoài nghi. Rõ ràng, khái niệm chủ nghĩa hoài nghi mà chúng ta có thường ngày tập trung hơn vào việc có tư duy phản biện và phản bác các ý tưởng chứ không cởi mở với chúng. Một người hoài nghi có thể tỏ ra khó tiếp nhận những ý tưởng mới cho đến khi có thêm bằng chứng, trái với quan điểm cởi mở được mô tả ở trên. Nhưng bạn hãy nhớ rằng một phần quan trọng của chủ nghĩa hoài nghi là cởi mở tư duy để thay đổi lập trường và xem xét những quan điểm khác.
Những người phản đối cách tiếp cận hoài nghi có thể cho rằng chủ nghĩa hoài nghi là nghịch lý vì bản thân nó cũng là một hệ thống niềm tin. Những người này cho rằng người theo chủ nghĩa hoài nghi
vận dụng ngụy biện công kích cá nhân, ngụy biện người rơm và những kỹ thuật tương tự để làm mất uy tín của các khám phá có thể có ý nghĩa lớn25 26. Tuy nhiên, người thực sự theo chủ nghĩa hoài nghi lại có quan điểm cân bằng và luôn cởi mở với ý tưởng rằng bản thân mình có thể sai. “Những người theo chủ nghĩa hoài nghi giả” là những người gần như luôn không tin và phủ định các tuyên bố; họ cũng giống những người thích hạ bệ, luôn đặt việc bác bỏ các tuyên bố làm sứ mệnh của mình27.
Tóm lại, hãy coi hoài nghi và cởi mở là hai khía cạnh bổ sung cho nhau của cùng một quá trình: tư duy phản biện. Chúng không phải là không tương thích. Hãy nhớ rằng thái độ cởi mở cho phép bạn cứu vãn những điểm tốt của các ý tưởng tệ, trong khi một tư duy hoài nghi cứng nhắc sẽ vứt bỏ mọi thứ. Tư duy cởi mở là một phần quan trọng của sáng tạo và đổi mới.
Sự sáng suốt và siêu nhận thức
Sáng suốt là một trạng thái tư duy cởi mở mà ở đó, chúng ta có thể nhìn vượt khỏi những niềm tin sẵn có và tiếp thu sự thật như nó vốn có. Đây là một trạng thái tuyệt vời mà bạn nên hướng tới nếu muốn đánh giá toàn diện các thông tin mới.
Mọi người có sẵn khả năng miễn nhiễm với những ý tưởng mới và thích gắn bó với điều mình đã biết. Ta thậm chí có thể coi những ý tưởng mới là sự đe dọa và tự động giả định rằng điều mình đã tin thì tốt hơn. Đó là lý do tại sao việc khám phá nguyên nhân hoặc quá trình thực sự của điều gì đó chỉ là bước đầu. Các nhà khoa học sau đó phải tiếp tục nghiên cứu và cố gắng thuyết phục người khác rằng lý thuyết của họ là đúng28. Đồng thời, họ phải duy trì quan điểm hoài nghi, chấp nhận bản thân mình có thể sai.
Mọi người gặp khó khăn với những ý tưởng mới, đặc biệt là ý tưởng khoa học, vì một số lý do. Thứ nhất, nguyên nhân thực sự của các hiện tượng thường không đơn giản hoặc rõ ràng. Thứ hai, mọi người thường hiểu sai nguyên nhân khi xem xét những điều mà mình đã có quan điểm rõ ràng. Thứ ba, để khám phá ra cách đi đến những lời giải thích chính xác là không dễ (đó là lý do tại sao khoa học luôn tìm cách cải tiến phương pháp cũng như kiến thức). Thứ tư, mọi người cần liên tục được tạo động lực để khám phá các nguyên nhân thực sự rồi đề xuất những lời giải thích mới. Bạn có thể thấy tại sao các nhà khoa học lại bận rộn đến vậy.
Bằng chứng cho thấy kỹ năng tư duy phản biện cao có liên quan đến siêu nhận thức. Siêu nhận thức nghĩa là nhận thức và kiểm soát được quá trình xử lý thông tin của mình; đó là một quá trình phản tư được gọi là “tư duy về việc tư duy”31.
Chúng ta có thể dùng siêu nhận thức làm hoa tiêu cho quá trình học tập, phát triển và ra quyết định của chính mình. Những người có siêu nhận thức cao biết rất rõ về các quá trình nhận thức của bản thân cũng như các kết quả của chúng. Cũng như tư duy phản biện, siêu nhận thức có thể được học và cải thiện qua luyện tập. Ví dụ:
John biết mình có trí nhớ kém – anh thường quên làm những việc mà mình nói rằng sẽ làm. Gia đình và đồng nghiệp của anh thường không hài lòng vì điều đó. Tuy nhiên, John có kỹ năng siêu nhận thức tuyệt vời: anh biết trí nhớ của mình kém, và điều này giúp anh làm một việc. Anh rèn luyện trí nhớ bằng cách đặt lời nhắc và viết danh sách công việc. Sau một thời gian, anh không còn cần đến những lời nhắc và đi thẳng vào danh sách.
Bạn có thể hình dung rằng người có siêu nhận thức không cao thì chưa chắc đã thành công như vậy. John không ngại thừa nhận việc mình có một vấn đề nhỏ về trí nhớ và đã giải quyết được nó.
Điều thú vị là các giáo viên thực tập nhiều kinh nghiệm hơn cũng thể hiện siêu nhận thức và kỹ năng tư duy phản biện cấp cao
"""