"Giải Mã Cách Ngôn Tây Du Ký PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Mã Cách Ngôn Tây Du Ký PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo GIẢI Mà CÁCH NGÔN TÂY DU KÝ By Đông A Sáng Copying Đông A Sáng Smashwords Edition. Chương một :NHỮNG KINH NGHIỆM CÕI ĐỜI Chương hai: GIỚI LUẬT CÕI NGƯỜI Chương ba :CHUẨN TẮC THÀNH CÔNG Chương bốn: BÍ QUYẾT BIẾT NGƯỜI SÁCH THAM KHẢO MỤC LỤC AUTHOR Ch ương một:NHỮNG BÀI HỌC CÕI NGƯỜI 1. NH ỮNG LỜI MỚI QUA TAI, CHỚ NÊN TIN CHẮC (LƯU BANG DÙNG THUẬT LI GIÁN) Hồi 10 Lão Long vương tính phạm phép thiên đình Ngụy thừa tướng gửi thư nhờ âm phủ Quỷ dạ xoa chạy về hoảng hốt báo với Long vương : - Tai vạ ! tai vạ ! Long vương hỏi : - Tai vạ gì ? Dạ xoa nói : - Hạ thần đi tuần đến bờ sông, nghe thấy người hái củi và anh thuyền chài nói với chuyện vãn với nhau. Anh thuy ền chài nói : Phố cửa Tây trong thành Trường An có một người thầy bói, tính tóan rất đúng, mỗi ngày biếu y một con cá chép, y sẽ bói cho một quẻ, trăm lần đánh trăm lần trúng. Nếu họ cứ bói như thế, thì lòai thủy tộc chúng ta sẽ bị tiêu diệt hết ! Hỏi còn lấy gì mà tô điểm cho thủy phủ ? Lấy ai mà vượt sông lên ghềnh, giúp đỡ oai lực cho đại vương ? Long vương nghe nói nỗi giận, cầm gươm định đi ngay lên Trường An giết chết lão thầy bói. Bọn con rồng, cháu rồng, các quan tầm giải, quân sư cá cháy, thiếu khanh cá thạch quế, lí thái tể cá chép liền chạy ra tâu bày : - Xin đại vương hãy nguôi giận. Người ta thường nói : Những lời mới qua tai chớ nên tin chắc. Đại vương đi lần này, hẳn có mây theo, mưa giúp, sợ làm kinh động đến dân Trường An, Trời sẽ quở trách. Đạ i vương là bậc phép thuật khôn lường, biến hóa tám lối, chỉ nên biến thành một kẻ tu sĩ, vào thành Trường An, dò la thăm hỏi, nếu quả có bọn đó, sẽ tru diệt cũng chưa muộn. Nếu không có bọn đó, chẳng hóa giết bậy người ta ư ? Long vương nghe nói, buông gươm xuống, ra bờ sông vặn mình thành tu sĩ đi vào thành Trường An. * Qu ân Hán, ở Vinh Dương, xây con đường chạy suốt đến phía Nam bờ sông Hoàng Hà để lấy thóc ở kho Ngao Sơn. Năm thứ ba đời Hán 208.TCN), con đường vận lương của Hán bị Hạng vương cướp phá nhiều lần, vì vậy quân Hán lâm vào cảnh thiếu lương thực và sợ phải xin hòa, đề nghị chia ranh giới : Từ Vinh Dương trở về Tây thuộc Hán. Hạng vương muốn chấp nhận hòa ước. Lịch Dương hầu Phạm Tăng nói : - Phá Hán dễ mà ! Bỏ lỡ cơ hội sau tất hối. Hạng vương nghe lời, cùng Phạm Tăng vây Vinh Dương. Hán vương lấy làm lo, mới dùng kế của Trần Bình li gián Hạng vương với Phạm Tăng. Sứ giả của Hạng vương tới, Hán vương làm cỗ thái lao thết đãi. Các món ăn lần lượt dâng lên. Khi giáp mặt sứ giả, Hán vương làm bộ ngạc nhiên hỏi : - Ngỡ là sứ giả của Á Phủ Phạm Tăng), không ngờ sứ giả của Hạng vương ! Nói rồi, cho lệnh bưng cỗ thái lao đi và dọn ra mời sứ giả những món ăn tồi tệ. Sứ giả về tâu với Hạng vương. Hạng vương nghi ngờ Phạm Tăng có ý riêng với Hán vương và dần dần tước hết quyền hành của Phạm Tăng. Phạm Tăng cả giận nói : - Việc thiên hạ êm thắm rồi, xin đại vương tự lo liệu lấy, cho phép nắm xương tàn này được lui về làm lính. Hạng vương bằng lòng cho Phạm Tăng rút lui. Phạm Tăng chưa về tới Bành Thành, thì bị bệnh hậu bối mà chết. LẠM BÀN 1. Nghe người khác nói, sinh ra nghi ngờ hoặc vội vã hành động là khuyết điểm của con người, dễ sai lầm hoặc rơi vào kế li gián, cũng là một trong những mầm tai họa. Người Việt Nam có câu : Trăm nghe không bằng mắt thấy. Tức là phải kiểm chứng lời đồn, lời dèm pha, mới không phạm sai lầm. 2. Hạng Vũ thất bại có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân là trúng kế li gián của Hán vương và Trần Bình, ruồng bỏ mưu sĩ Phạm Tăng. 2. LƯU TÌNH KHÔNG NỠ ĐÁNH, ĐÁNH THÌ KHÔNG LƯU TÌNH (CON ĐƯỜNG TIẾN ĐẾN QUYỀN LỰC CỦA VÕ TẮC THIÊN) Hồi 21 Hộ pháp làm nhà lưu Đại Thánh Tu Di Linh C át bắt Phong Ma Đường Tăng bị tay chân của Hoàng Phong bắt về giam trong động, chờ ngày ăn thịt. Tôn Hành Giả đến khiêu chiến với yêu quái đòi trả sư phụ. Hòang Phong ra đối địch. Yêu quái nhìn thấy hình Hành Giả dáng bỉ ổi, mặt mũi gầy guộc, cao không đầy bốn thước, bèn cười nói : - Đáng thương ! Đáng thương ! Ta tưởng mi là một trang hảo hán, ngang trời dọc đất thế nào, chẳng hóa ra giống con quỷ ốm thế kia à ? Hành Giả cười nói : - Thằng nhãi không có mắt, ông ngọai tuy nhỏ bé thế này, nhưng mi lấy cán đĩa đánh vào đầu ta một nhát, ta sẽ cao lên sáu thước. Yêu quái nói : - Đầu mi rắn nhỉ ! Hãy nếm một cán chơi ! Yêu quái đánh vào đầu Hành Giả một nhát. Hành Giả vặn mình, chân dài đủ sáu thước, người cao vọt hơn một trượng. Yêu quái dừng tay, tức nói : - Tôn Hành Giả ! Sao mi lại đem cái phép biến hóa hộ thân ra đùa với ta ? Hãy lại đây đấu sức cùng ta ! Hành Giả cười nói : - Con ơi ! Người ta thường nói : Nghĩ tình không nỡ đánh, đã đánh chẳng lưu tình. Tay ông ngoại mi nặng lắm, không biết mi có chịu nổi cây gậy này không ? Quái vật không để cho Hành Giả nói hết, vác đĩa đâm luôn vào bụng Hành Giả. Đại Thánh là người sành sỏi, không hề hoang mang, đưa gậy sắt đánh miếng ô long lược địa gạt cái đĩa ra, lại đánh luôn vào đầu yêu quái. Thế là hai bên hỗn chết, liều chết quên mình. * Võ Tắc Thiên là con gái của Võ Sĩ Hoạch, Đô đốc Kinh Châu; vì có nhan sắc hơn người, năm thứ 11 Trinh Quán, Võ Tắc Thiên được Lý Thế Dân tuyển vào cung, làm tài nhân, lúc ấy mới 14 tuổi. Thái tông Lý Thế Dân có một con ngựa đen, đốm trắng, tên là Sư Tử Thông, rất dữ tợn, không ai trị được. Một hôm, Lý Thế Dân đứng xem con Sư Tử Thông, quay sang hỏi : - C ó ai trị được con ngựa này không ? Võ Tắc Thiên đứng bên cạnh thưa : - Nô tì có cách trị nó. Lý Thế Dân hỏi : - Trị bằng cách nào ? Võ Tắc Thiên đáp : - Trước hết lấy roi sắt để đánh nó, nếu nó không thuần phục thì lấy chùy sắt mà nện nó, nếu nó vẫn không chịu thì lấy cây chùy loại kiếm có mấu) để cứa cổ nó. Thái tông nghe nói, bật cười, cho đó là lời nói của trẻ con. Nhưng lời nói đã bộc lộ tính cách cương quyết, tàn nhẫn của Võ Tắc Thiên. Sau n ày, Võ Tắc Thiên trị quần thần như cách thuần ngựa. Sau khi Lý Thế Dân qua đời, theo lệ của cung đình, Võ Tắc Thiên được đưa vào chùa Cảm Nghiệp làm ni cô. Cao tông Lý Trị khi còn là Hoàng tử đã để ý đến Võ Tắc Thiên. Năm thứ năm Vĩnh Huy 654), Lý Trị và Vương Hoàng hậu đến dâng hương ở chùa Cảm Nghiệp, Lý Trị gặp lại ni cô tươi son mặn phấn, có chiều lưu luyến. Vương Hoàng hậu biết ý, một mặt muốn lấy lòng Lý Trị, mặt khác muốn có thêm vây cánh để đối địch với Tiêu Thục phi đang được Lý Trị sủng ái, liền đem Võ Tắc Thiên về cung. Không bao lâu, Võ Tắc Thiên được Lý Trị yêu mến, phong làm Chiêu Nghi. Sau m ột năm vào hậu cung, Võ Tắc Thiên sinh một bé gái. Một hôm, Vương Hoàng hậu đến chơi đùa với đứa con gái nhỏ của Võ Tắc Thiên. Đợ i Vương Hoàng hậu về, Võ Tắc Thiên bóp cổ đứa con gái cho đến chết, rồi đắp chăn lại. Cũng vừa lúc Cao tông đến thăm, thấy con gái chết đột ngột, bàng hoàng, hỏi ai là người mới đến ? Lúc ấy, Võ Tắc Thiên vật vã, kêu gào, khóc lóc. Cao tông đau đớn, bực bội, có ý phế truất Vương Hoàng hậu. Tháng 10 năm thứ sáu, niên hiệu Vĩnh Huy, bất chấp sự can gián của quần thần, Cao tông phế truất Vương Hoàng hậu và lập Võ Tắc Thiên. Người can gián và muốn loại bỏ Võ Tắc Thiên là Thừa tướng Trưởng Tôn Vô Kỵ. Tháng sau, Võ Tắc Thiên cho bắt Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi giam vào lãnh cung. Hai ng ười này chết trong cung lạnh. Có sách cho rằng, Võ Tắc Thiên Đã cho người đánh Tiêu Thục phi một trăm trượng, sau đó dìm vào thùng rượu cho đến chết. Sau khi loại được Vương Hoàng hậu và Tiêu Thục phi, Võ Tắc Thiên thuận đà thanh toán nhóm Trưởng Tôn Vô Kỵ. Thừa tướng Trưởng Tôn Vô Kỵ bị cách chức, bị đày, sau đó bị ép phải tự sát; những đại thần, tôn thất hoặc thuộc phe cánh của Vô Kỵ đều bị bãi chức, bị giết hoặc bị đày. Một mặt thanh toán các đối thủ, mặt khác Võ Tắc Thiên đề bạt tâm phúc Hứa Kính Phủ Lý Nghi làm Thừa tướng, cất nhắc tâm phúc của mình vào những chỗ trống. Quy ền lực dần dần nắm trong tay Võ Tắc Thiên. Từ đó, Võ Tắc Thiên lấn lướt cả Hoàng đế. Lý Trị là một Hoàng đế u mê, bất tài nhưng thấy Võ Tắc Thiên quá lộng hành, tỏ ra hối hận, bèn bày mưu tính kế phế truất Võ Tắc Thiên. Việc ấy không qua được tai mắt Võ Tắc Thiên. Võ Tắc Thiên liền hạ lệnh xử tử Thượng Quang Nghi và cả gia tộc vì Thượng Quang Nghi là người đang tìm cách phế truất Võ Tắc Thiên. Sai việc này, Võ Tắc Thiên xưng là Thánh đế, ngang hàng với Lý Trị, gọi là nhị thánh, cùng trông coi việc triều chính. Thực ra, mọi việc đều do Võ Tắc Thiên định đoạt, người ta gọi là nam bên phải, nữ bên trái, trên phượng dưới rồng. Võ Tắc Thiên còn cho bắt giết, thảm sát hàng loạt vương tôn, đại thần, từng chống hoặc có ý chống lại bà. Võ Tắc Thiên có bốn người con trai, thứ nhất là Lý Hoằng, thứ nhì là Lý Hiền, thứ ba là Lý Hiển, thứ tư là Lý Đán. Năm thứ hai, niên hiệu Thượng Nguyên 675), Lý Trị có ý nhường ngôi cho Lý Hoằng. Võ Tắc Thiên không ưa Lý Hoằng, tháng tư năm ấy, Võ Tắc Thiên cho đầu độc con trai mình, lập Lý Hiền lên làm Thái tử. Tháng 12, năm thứ hai niên hiệu Vĩnh Thuần, Lí Trị ốm nặng, triệu đại thần Bùi Viêm vào cung tiếp nhận di chiếu, sau đó băng hà. Di chiếu truyền ngôi cho Lí Hiển. Năm ấy, Lý Hiển 28 tuổi nhưng mọi việc đều do Võ Tắc Thiên định đoạt. Lí Hiển trọng dụng Vy Hoàng hậu, mục đích liên kết để kiềm chế quyền hành của Võ Tắc Thiên. Nhưng trứng không thể khôn hơn vịt, kẻ cắp không qua mặt được bà già, chưa đầy ba tháng Võ Tắc Thiên giáng Lý Hiển xuống làm Lư Lăng vương, Vy Hoàng hậu bị đuổi ra khỏi Trường An và bị giam giữ ở Quân Châu. Võ Tắc Thiên lập con thứ tư là Lý Đán, tuy danh nghĩa là Hoàng đế nhưng cho ở một cung điện khác, không được tham dự triều chính. Tháng giêng năm thứ hai, Võ Tắc thiên xuống chiếu giao mọi việc triều chính cho Lý Đán. Lý Đán khôn khéo không nhận. Tháng chín, năm thứ nhất, niên hiệu Tản Sơ, Võ Tắc Thiên phế truất Lý Đán, tự lên ngôi xưng là Thánh Thần Hoàng Đế. Lúc ấy, Võ Tắc Thiên 67 tuổi, cầm quyền thên 16 năm nữa, thực tế là cầm quyền trước đó 36 năm 655 - 690), tổng cọng 52 năm. LẠM BÀN 1. C âu cách ngôn thể hiện mâu thuẫn giữa tình cảm với tham vọng, tư tình với quyền lực và sự quyết đoán. 2. Để củng cố địa vị và ngai vàng Võ Tắc Thiên đã không không ngại hi sinh con cái của mình. Người ta nói, hổ dữ cũng không ăn thịt con; tham vọng và quyền lực có sức mạnh hơn cả tình mẫu tử, biến người ta thành dã thú. 3. NGƯỜI K HÔNG HẠI HỔ, HỔ CHẲNG HẠI NGƯỜI (PHÙ KIÊN CHẾT DƯỚI TAY HÀNG TƯỚNG) Hồi 16 Viện Quan  m sư lừa bảo bối Núi Hắc Phong yêu quái trộm cà sa Thầy trò Đườ ng Tăng đến ở viện Quan Âm, mất áo cà sa, đến đêm thì chùa bị cháy, Tôn Hành Giả không dập lửa lại cho thêm một luồng gió nữa. Tam Tạng thấy vậy, kêu lên : - Trời ơi là trời ! Lửa cháy phải lấy lửa giúp người ta, sao còn thổi gió ? Hành Giả nói : - Sư phụ không nhớ cổ nhân có câu : Người không hại hổ, hổ chẳng hại người. Họ không đốt lửa, thì tôi thổi gió làm gì ? Tam Tạng hỏi : - Cà sa đâu ? Hay là cháy mất rồi ? Hành Giả nói : - Không việc gì ! Không việc gì ! Để ở nhà phương trượng không bị cháy. Tam Tạng tức giận nói : - Mặc kệ nhà ngươi, nếu hư hỏng, ta niệm thần chú, ngươi sẽ bỏ đời ! Hành Giả sợ nói : -Sư phụ ! Đừng niệm, tôi đi tìm áo cà sa về trả. * Th ời Thập lục quốc, Phù Kiên nhà Tiền Tần, lên ngôi tự xưng là Đại Tần vương, trọng dụng Vương Mãnh là một hiền tài. Tiền Tần đã lần lượt đem quân tiêu diệt được các thế lực như Tiền Yên, Tiền Lương, chiếm các châu Lương, Yên, nước Đại, tiến quân vào Tây Vực, thống nhất được cả vùng phương Bắc rộng lớn, đối đầu với Đông Tấn, phương Nam. Trong quá trình chinh phạt, Phù Kiên thường tha cho các vua bại trận. Không những vậy, Phù Kiên còn tin dùng các hàng tướng bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng. Trong đó có Diêu Trường con tù trưởng Diêu Dặc Trọng, nhà Hậu Tần) và Mộ Dung Thùy thuộc Tiền Yên). Di êu Trường dẫn bộ hạ mình xin đầu hàng, Phù Kiên cho đầu hàng. Mộ Dung Thùy lúc bại trận quỳ xuống khóc to, Phù Kiên cảm động, đỡ dậy và cũng cho hàng. Có lần Vương Mãnh tâu với Phù Kiên : - Bệ hạ quá nhân từ, không phân biệt thù và bạn. Hiện nay, kể thù lớn của ta không phải chỉ là nước Tấn, mà còn có kẻ thù trong nước là đầu lĩnh người Tiên Ty, người Khương và các hàng tướng đang nắm chức vụ trọng yếu và binh quyền của triều đình, nếu gặp lúc nguy biến họ trở mặt thành mối nguy của quốc gia. Bệ hạ phải đề phòng mới được ! Phù Kiên không nghe. Sau khi Vương Mãnh mất, Phù Kiên lại càng sủng ái và tin dùng các hàng tướng. Năm 383, bất chấp sự can ngăn của quần thần, Phù Kiên đem quân đánh Tấn và bị thua ở trận Phì Thủy phải quay về. Như đã nói, Mộ Dung Thùy tuy đầu hàng Phù Kiên, nhưng cho người bí mật nói với em là Mộ Dung Hoằng : - Ta không thể bảo vệ được tông miếu, là tội nhân của gia đình họ Mộ Dung, em đừng lo cho ta, hãy tận tâm, tận lực lo khôi phục nước Yên. Mộ Dung Hoằng nghe lời, lập tức phái người đi tìm những người thân thuộc, con em của họ Mộ Dung chờ ngày quật khởi. Sau trận Phì Thủy, Phù Kiên sai Mộ Dung Thùy đến Nghiệp Thành để giúp Phù Phi, con của Phù Kiên. Dọc đường Mộ Dung Thùy liên kết với Hoắc Bân dân tộc Đinh Linh, phản lại Phù Kiên. Năm 384, tự xưng là Đại đô đốc, sau đó lại xưng làm vua, lập nên chính quyền Hậu Yên. Sau trận Phì Thủy, Diêu Trường phản Phù Kiên, tự xưng là Đại Thiền vu, xây dựng chính quyền nhà Hậu Tần. Năm 385, Diêu Trường, Hậu Tần, sai Ngô Trung tiến đánh Phù Kiên, bắt sống được Phù Kiên. Ph ù Kiên nghĩ, thế nào Diêu Tường cũng nghĩ tình xưa tha chết cho mình. Không ngờ, tháng tám năm ấy, Diêu Trường sai người thắt cổ giết chết Phù Kiên. LẠM BÀN 1. Phù Kiên nhân từ, quan niệm người không hại hổ, thì hổ không hại người, tha và tin dùng Mộ Dung Thùy và Diêu Trường. Không ngờ lúc sa cơ thất thế bị hai người này phản bội, đúng là nuôi hổ trong nhà. Đôi khi chính trị và lòng nhân từ không đi chung một đường. 2. Người xưa có nói, hại người thì không nên, nhưng phải nên phòng người Hại nhân chi tâm bất khả hữu, phòng nhân chi tâm bất khả vô). Lòng người khó đóan, phòng người cũng là cách bảo tòan tính mạng. 4. Đà BỊ XÔ XUỐNG ĐẤT THẤP TẸT ĐÂU DÁM NGẨNG ĐẦU LÊN (THUẬT CO DUỖI CỦA QUÝ BỐ) Hồi 28 Núi Hoa Quả lũ yêu hợp nghĩa Rừng Hắc tùng Tam Tạng gặp ma Ở rừng Hắc tùng, Tam Tạng thấy ngọn tháp, định vào quét tháp làm công quả, bị bọn yêu ma bắt. Bọn tiểu yêu khiêng Tam Tạng để ở ngoài mành trúc, rồi vui sướng chạy vào báo với chủ : - Thưa đại vương, đã bắt được hòa thượng khiêng về đây. Yêu quái đưa mắt liếc nhìn, thấy Tam Tạng đầu thẳng thắn, mặt đường hoàng, quả nhiên là một vị hòa thượng tốt, liền nghĩ trong bụng : Hòa thượng đẹp thế này, hẳn là nhân vật thượng lưu, không ví như bọn tẹp nhẹp được, nếu không ra vẻ oai phong đời nào hắn hàng phục ? Ngh ĩ xong, yêu quái vễnh râu chỗi xễ ra, tóc rễ tre dựng ngược, mắt trợn xếch, cáo giả oai hùm, nó đùng đùng quát, nạt : - Lôi lão hòa thượng vào đây ! Lũ yêu quái răm rắp đồng thanh trả lời : - Tuân mệnh ! Thế rồi, chúng chỉ đẩy mạnh một cái, Tam Tạng đã bị xô xuống đất thấp tẹt, đâu còn dám ngẩng đầu lên. Tam Tạng chỉ còn chắp tay vái chào. * Qu ý Bố, người nước Sở, trọng chí khí, thích nghĩa hiệp, là người có tiếng tăm ở nước Sở. Qu ý Bố được Hạng Vũ sai cầm quân, từng cho Hán vương nhiều phen khốn đốn. Đến khi Hạng Vũ bị diệt, Lưu Bang xuống lệnh : Ai nộp Quý Bố thì được thưởng ngàn vàng, ai chứa chấp, che đậy thì bị tru di tam tộc. Quý Bố trốn trong nhà một người họ Chu ở Bộc Dương. Người họ Chu nói : - Vua Hán đặt giá mua tướng quân cao lắm, lệnh bắt gấp, nhà tôi sắp sửa bị khám xét đến nơi rồi. Tướng quân chịu nghe lời tôi thì tôi hiến kế, bằng không thì tôi xin tự vẫn trước mặt tướng quân. Quý Bố bằng lòng. Họ Chu bèn cạo đầu Quý Bố, lấy gông sắt gông vào cổ, cho mặc bộ quần áo vải thô, nhốt chung vào một vào một chiếc xe lớn, lọai xe dùng chở quan tài, với mấy chục tên đồng nô của nhà và cho chở đem bán cho Chu Gia ở đất Lỗ. Chu Gia biết là Quý Bố, mua đem về quê, cho làm công việc đồng áng và dặn con rằng : - Công việc đồng áng nên nghe theo tên gia nô này. Ăn phải cho ngồi chung một mâm. Chu Gia dùng chiếc xe nhẹ một ngựa đến Lạc Dương yết kiến Nhữ Âm hầu Đằng Công. Đằ ng Công giữ Chu Gia ở lại mấy ngày. Chu Gia th ừa dịp hỏi Đằng Công : - Quý Bố phạm tội gì ghê gớm mà Hòang đế truy tìm gấp thế ? Đằng Công nói : - Quý Bố giúp Hạng Vũ, mấy tao làm cho Hòang đế khốn đốn, cho nên ngài căm, muốn bắt cho kì được. Chu Gia hỏi : - Ngài thấy Quý Bố là người thế nào ? Đằng Công đáp : - Người hiền. Chu Gia nói : - Làm tôi thì tùy chủ sử dụng. Hạng Vũ sử dụng Quý Bố, Quý Bố chỉ làm phận sự thôi. Có thể giết hết bầy tôi của họ Hạng chăng ? Nay H òang đế mới thu phục được thiên hạ, chỉ vì óan thù riêng mà truy nã người, sao mà coi nhỏ thiên hạ như vậy nhỉ ? Vả lại, người hiền như Quý Bố mà bị Hán truy nã gắt như thế, thì chẳng chạy lên phía Bắc với rợ Hồ cũng chạy xuống phía Nam với nước Việt thôi ! Giận hờn tráng sĩ thành ra làm lợi cho nước địch, ấy chính vì thế có chuyện Ngũ Tử Tư quật mã Kinh Bình vương. Sao ngài không vì Hòang thượng mà tâu rõ điều hơn lẽ thiệt ? Trong lòng biết Chu Gia là bậc đại hiệp và đóan chừng Chu Gia dấu Quý Bố trong nhà, bèn nói : - Vâng ! Chờ cơ hội, Đằng Công tâu Cao đế đúng như lời Chu Gia đã nói với mình. Cao đế bèn xá tội cho Quý Bố. Bấy giờ mọi người khen Quý Bố đã khiến con người sắt đá trở nên yếu mềm; Chu Gia nhân việc này mà nổi tiếng với đời. Được vua vời. Quý Bố ra mắt lạy tạ. Vua cho làm lang trung. Thời vua Huệ đế, Quý Bố giữ chức trung lang tướng. Vua H ung Nô từng gửi thư cho Lữ hậu, lời lẽ hỗn xược, Lữ hậu giận lắm, đòi các vị tướng vào triều bàn việc. Th ượng tướng quân Phàn Khóai nói : - Xin cho thần mười vạn quân, thần sẽ dọc ngang trên đất Hung Nô như giữa chỗ không người. Các tướng lãnh chiều ý Lữ hậu đều nói : - Phải ! Quý Bố tâu : - Ngày xưa, đức Cao đế mang hơn bốn mươi vạn quân, mà bị vây khốn ở Bình Thành. Bây giờ, Phàn Khóai mang mười vạn quân mà dọc ngang trên đất Hung Nô như vào chỗ không người được ? Thế là nói dối trước mặt quân thượng ! Vả lại, Tần chiến tranh với Hung Nô cho nên phát sinh vụ Trần Thắng nổi dậy, vết thương nay vẫn chưa lành, mà trước mặt quân thượng Phàn Khóai a dua cho đẹp ý, muốn làm cho thiên hạ phải lao đao. Tội Phàn Khóai đáng chém ! Lúc ấy, tất cả mọi người trên điện đều sợ hãi và thái hậu bãi triều, không bàn đến chuyện đánh Hung Nô nữa. Quý Bố làm quận thú Hà Đông, dưới thời vua Văn đế, có người nói đến tai vua rằng, Quý Bố là người hiền, vua bèn triệu về, muốn cử làm ngự sử đại phu. Sau, c ó người nói đến tai vua rằng, Quý Bố là người hiếu dũng, có máu mê rượu, rượu vào khó gần. Đế n kinh sư, Quý Bố được lưu lại ở khách quán một tháng, rồi bị bãi chức. Nh ân việc bị bãi miễn này, Quý Bố xin vào yết kiến vua và tâu rằng : - Thần không có công trạng mà được dự phần vinh sủng, làm quận thú Hà Đông. Bệ hạ vô cớ vời thần về kinh sư, duyên do vì có người đã nói hay cho thần với bệ hạ. Nay thần về đây, không có chỗ thu dụng, lại bị bãi chức, duyên do là kẻ nói xấu thần với bệ hạ. Bệ hạ vì một lời khen của một người mà cho vời thần, vì một lời chê của một người mà bỏ thần. Như vậy, thần e các bậc thức giả trong thiên hạ nghe chuyện, sẽ thấy rõ chỗ nông sâu trong việc dùng người và bỏ người của bệ hạ. Vua có vẻ ngượng, nín thinh, rồi nói : - Hà Đông là một quận quan trọng, vai vế của ta, cho nên mới đặc biệt triệu ông về. Bố cáo từ về lại Hà Đông. Một biện sĩ người Sở tên là Tào Khâu, nhiều lần làm việc hối mại quyền thế. Hắn là tay chân bọn họan quan Triệu Đồng và được cảm tình của Đậu Trường Quân. Việc này đến tai Quý Bố. Quý Bố viết thư can Đậu Trường Quân : Tôi nghe Tào Khâu không phải là bậc trưởng giả, không nên đi lại với ông ta. Khi Tào Khâu từ kinh sư trở về Sở, hắn xin Đậu Trường quân viết một lá thư, để được gặp Quý Bố. Đậ u Trường Quân nói : - Quý tướng quân không thích túc hạ. Túc hạ chớ có tới ! Tào Khâu cố nèo bằng được, mới lên đường. Tào Khâu cho người trình thư trước. Quý Bố nổi giận và đợi gặp Tào Khâu. Tào Khâu đến, vái Quý Bố, rồi nói : - Người nước Sở nói với nhau : Được trăm cân vàng, không bằng được Quý Bố ừ cho một tiếng. Tại sao mà túc hạ được cái thanh danh ấy trên dải đất Lương, Sở ? Là vì kẻ hèn này đem thanh danh của túc hạ nói cho thiên hạ rõ. Việc làm của kẻ hèn này chẳng đáng đồng xu này hay sao ? Tại sao túc hạ ghét kẻ hèn này đến thế nhỉ ? Quý Bố lấy làm bằng lòng, đón vào, lưu lại mấy tháng, đãi như thượng khách. Lúc đi đưa tiễn rất hậu. Thanh danh Qu ý Bố trở nên rộng là nhờ có Tào Khâu. LẠM BÀN 1. Tam Tạng là vị thánh tăng, đức cao vọng trọng, lại có đại đồ đệ Tôn Hành Giả thần thông quảng đại, Bát Giới, Sa Tăng võ nghệ cao cường, thế mà khi bị yêu quái bắt, đơn thân độc mã phải quỳ xuống, vái tay chào yêu quái. Dù tu hành nhưng Tam Tạng cũng giỏi về thuật co – duỗi, tùy cơ ứng biến. 2. Tư Mã Thiên bàn rằng : Vì Hạng Vũ ưa chuộng khí lực, cho nên Quý Bố nhờ dũng cảm mà hiển dương ở nước Sở, đích thân cướp cờ, quật tướng mấy phen, thật đáng mặt tráng sĩ ! Nhưng đến khi bị hình lục, thì lại đành làm tôi mọi cho người, chứ không chịu chết. Sao mà lép thế ? Hẳn là ý thức được tài mình, vững tin vào đó, cho nên chịu nhục mà không thấy xấu hổ, muốn còn có dịp thi thố chỗ sở trường chưa được dùng, cho thỏa lòng hòai bão. Vì vậy, chung cục trở thành danh tướng nhà Hán. Ng ười hiền thường biết tiếc cái chết của mình, chứ bọn tì thiếp, kẻ hèn kém vì chúng tiểu tiết cảm kích mà tự sát thì đâu được là dũng, chẳng qua họ không có lối thóat đó thôi ! 5. TAY XÁCH GIỎ CÁ, TRÁNH SAO ĐƯỢC HÔI TANH (LƯU VŨ KHÓ MINH OAN) Hồi 86 Bát Giới giúp oai trừ quái vật Ng ộ Không hóa phép diệt yêu tà. Sau khi sai Sa Tăng ngồi giữ ngôi mộ giả) của Tam Tạng và giữ hành lí, Hành Giả và Bát Giới đi đến cửa động, quát tháo vang trời : - Trả lại Đường Tăng sống của ta đây ! Bọn yêu lớn bé ở trong động, đứa nào đứa nấy hồn xiêu phách lạc, đều óan trách Tiên Phong làm điều không phải. Lão yêu già hỏi Tiên Phong : - Bọn hòa thượng ấy đánh phá tới cửa, nên xử trí như thế nào ? Tiên Phong nói : - Cổ nhân nói đúng : Tay xách giỏ cá, tránh sao khỏi hôi tanh. Một là làm, hai là không, bây giờ ta đem hết tả hữu gia binh ra, đánh cho bọn hòa thượng ầy một mẻ ! Lão quái không biết làm thế nào, bèn truyền lệnh : - Chúng bay đâu ? mang hết khí giới tinh nhuệ theo ta ra trận. Quả nhiên, bầy yêu hò reo rầm rĩ, xô ra cửa động. * Lương Hiếu vương Lưu Vũ là anh em cùng một mẹ với Hiếu Cảnh đế Lưu Khởi. Hi ếu Cảnh đế không chỉ em Lưu Vũ chỉ là vua tôi, anh em, mà còn xem nhau như bè bạn. Lưu Vũ là người rất có hiếu với mẹ là Thái hậu họ Đậu. Thái hậu rất vui lòng. Có lần, Hiếu Cảnh đế và Lương Hiếu vương cùng uống rượu, Hiếu Cảnh đế nói với Lương Hiếu vương : - Một mai ta qua đời, ta sẽ truyền ngôi lại cho em. Lương Hiếu vương nghe nói, hỏang sợ, đứng dậy tạ rằng : - Bệ hạ còn có thái tử. Hạ thần không dám ! Không dám ! Hiếu Cảnh đế nghe xong, rất vui vẻ. Khi Ngô Sở làm phản, Hiếu Cảnh đế sai Lương Hiếu vương đến trấn nhậm tại thành Duy Dương, rồi sai Hàn An Quốc và Trương Vũ đị đánh dẹp Ngô Sở. Sau khi đánh dẹp xong Ngô Sở, Hiếu Cảnh đế trọng thưởng và phong đất cùng đất tốt cho Lương Hiếu vương. Tình cảm vua tôi, anh em giữa Hiếu Cảnh đế và Lương Hiếu vương càng thân thiết, hai người cùng ngồi chung một xe, kể cả những lúc vui chơi, săn bắn. Lương Hiếu vương không về đất phong, thường ở lại kinh đô, tự do ra vào cung cấm, sớm hôm thăm viếng thái hậu. Lúc Hiếu Cảnh đế phế thái tử, thì thái hậu khuyên Hiếu Cảnh đế nên lập Lương Hiếu vương làm người kế vị. Đại thần Viên Anh cực lực phản đối. Lương Hiếu vương thấy vậy, liền xin về đất phong là nước Lương, mục đích tránh việc khó xử cho nhà vua. Lúc ấy, có hai người tâm phúc của Lương Hiếu vương là Công Tôn Ngụy và Dương Thắng, tức giận Viên Ang can ngăn không cho chủ kế vị, đã thuê thích khách tìm cách giết Viên Ang. Viên Ang bị thương nhưng quân của Viên Ang bắt được thích khách. Hiếu Cảnh đế sai người tra khảo, tên thích khách khai hai người chủ mưu là Công Tôn Ngụy và Dương Thắng. Hiếu Cảnh đế sai quân đến phủ Lương Hiếu vương để bắt Công Tôn Ngụy và Dương Thắng. Lương Hiếu vương chần chừ không muốn giao nộp hai tên tâm phúc. Hàn An Quốc thuyết phục mãi, Lương Hiếu vương mới giao nộp Công Tôn Ngụy và Dương Thắng. Hiếu Cảnh đế nghe thuật lại việc trên, nổi giận và trách cứ Lương Hiếu vương. Lương Hiếu vương sợ hãi, liền đến quỳ trước cửa cung xin chịu tội. Hiếu Cảnh đế tha tội nhưng ra lệnh phải về ngay ở đất phong. Sau đó, Lương Hiếu vương mấy lần dâng thư xin được vào cung bệ kiến nhưng đều bị Hiếu Cảnh đế từ chối. Từ đó, Lương Hiếu vương lo buồn, mỗi ngày một tiều tụy. Một hôm, có người thợ săn dâng một cái đầu và một cái chân bò. Lương Hiếu vương trông thấy, hỏang hốt và sinh bệnh nặng. Không lâu thì mất. LẠM BÀN 1. Tay c ầm giỏ cá tránh sao được hôi tanh. Tương tự câu Lý Hạ nổi tiếng là người hiền lương) nhưng đã vào vườn dưa, không hái trộm dưa cũng khó trần tình. Hàm ý, đa nghi là bản tính của con người, người bị nghi ngờ khó mà minh oan. Đa nghi là hố sâu ngăn cách giữa con người và con người, kể cả tình anh em ruột thịt. 2. Lương Hiếu vương đã bị Hiếu Cảnh đế nghi ngờ chủ mưu ám sát Viên Ang, lại còn không chịu giao nộp Công Tôn Ngụy và Dương Thắng, thì mối nghi ngờ càng tăng thêm, khác nào tự dẫn lửa đốt thân. Vua đã nghi ngờ thì bề tôi phải chết. Cảnh đế không trừng trị, nhưng Lương Hiếu vương lo buồn mà chết. 3. Vì chiếc ngai vàng mà anh em trong gia đình đế vương trở nên nghi ngờ, tàn sát lẫn nhau. 6. HỎANG HỐT, HỒ ĐỒ (THÚC TÔN THÔNG – NGƯỜI HỒ ĐỒ) Hồi 27 Thây ma ba lượt trêu Tam Tạng Đường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu vương Tam T ạng đọc thần chú. Hành Giả không chịu được, quỳ xuống mé đường nói : - Đừng đọc ! Đừng đọc ! Cần gì cứ nói ra ? Đường Tăng nói : - Con khỉ, còn nói cái gì ? Người xuất gia làm điều lành như cỏ trong vườn Xuân, tuy không thấy lớn lên nhưng càng ngày càng tăng. Những kẻ làm ác như mài giao trên đá, tuy không thấy nó trũng xuống nhưng mỗi ngày một khuyết đi. Mi ở nơi đồng không mông quạnh, một lúc đánh chết luôn ba người, không ai tra hỏi, không kẻ đối đầu, thảng ở trong chốn thành thị, người ở đông đúc, mỗi khi chẳng biết hay hay dở, đánh người bừa bãi, gây ra tai vạ, ta làm thế nào tránh khỏi ? Mi về đi thôi ! Hành Giả nói : - Sư phụ mắng oan con. Con kia rõ ràng là yêu quái, quả thực nó có lòng hại người. Con đánh chết nó, để trừ hại cho người. Thầy không chịu nhận rõ, lại nghe lời chú ngốc kia dèm pha, mấy lần đuổi con. Ng ười ta thường nói, sự bất quá tam. Con mà đi, thực là cái phường hạ lưu không biết hổ thẹn. Con đi đã đành, che e sự phụ thiếu người thủ hạ. Đường Tăng nỗi giận nói : - Con khỉ này, càng ngày càng vô lễ ! A ! chỉ có mày mới là người ? Còn Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh kia không phải là người hay sao ? Đại Thánh nghe thầy nói như vậy, không chịu nỗi, cất giọng thê thảm : - Khổ lắm ! Kể lúc người mới ra khỏi Trường An có Lưu Bá Khâm đưa người lên đường đến Lưỡng Giới Sơn, cứu con ra, con mới nhận người làm sư phụ. Con đã từng vào động cổ, vượt rừng sâu, bắt ma tróc quái, thu Bát Giới, hàng phục được Sa Tăng, nếm đủ trăm cay ngàn đắng. Bây giờ sư phụ sinh ra hỏang hốt hồ đồ, khăng khăng đuổi con đi. Thế mới biết, chim hết bỏ nỏ, thỏ chết chó săn bị mổ. Hành Giả năn nỉ mãi. Đường Tăng viết tờ giấy đuổi. Hành Giả không có cách nào, ngậm ngùi từ biệt sư phụ, lộn nhào lên mây, về thẳng Hoa Quả Sơn. * Th úc Tôn Thông, người Tần, giỏi văn học, tài hoa làm đến chức bác sĩ. Ông thấy Tần Thủy Hòang quá tàn bạo, không hề tâu trình việc gì và cũng không hề tranh cãi với ai, đôi khi còn giả bộ ăn nói chẳng đâu vào đâu. Một người bạn thân cùng ở trong triều nói : - Tôi quen ông đã lâu, vốn biết ông là người có chí lớn, hay tranh luận, lí sự sắc sảo, miệng lưỡi chẳng vừa và rất hiếu thắng. Nhưng nay ông rất thay đổi, chẳng nói chẳng rằng là tại sao ? Thúc Tôn Thông nói : - Hòang thượng là người ít đọc sách, không coi trọng những người đọc sách, lại cương cường quyết đóan mọi chuyện. Nay tôi lại tỏ ra học rộng tài cao, khiến cho Hòang thượng ghét bỏ, thì tôi làm sao có đất sống ? Người bạn nghe vậy, gật gù. Tần Thủy Hòang đã chôn sống 460 Nho sinh, nhưng Thúc Tôn Thông thóat nạn. Dưới thời Tần Nhị Thế Hồ Hợi, Trần Thắng và Ngô Quảng nổi lên, Hồ Hợi rất lo lắng, liền triệu tập quần thần để bàn bạc, tìm đối sách. Quần thần tranh luận huyên náo, có một bác sĩ Nho sinh) mạnh dạn tâu : - Bọn Trần Thắng, Ngô Quảng dám chống đối triều đình, là bọn phản lọan. Xin bệ hạ xuất binh để đánh dẹp bọn phản tặc ấy đi. Hồ Hợi nghe nói đến mấy chữ phản lọan, phản tặc, liền sa sầm nét mặt. Thúc Tôn Thông thấy vậy, bước ra nói : - Các vị nói sai cả rồi ! Bệ hạ là bậc thánh minh, khắp chốn quy phục. Lại thêm, từ khi thống nhất thiên hạ, thì vũ khí trong bốn phương đã được thu gom lại nung chảy ra cả rồi ! Trần Thắng, Ngô Quảng có tấc sắt nào đâu mà dám làm phản ? Ch ẳng qua, chúng chỉ là bọn trộm gà, bắt chó, chỉ cần quan địa phương truy bắt chúng, đem về trị tội là xong. Bệ hạ không nên quá lo lắng ! Hồ Hợi nghe tâu như cởi tấm lòng, nói : - Tốt ! Tốt ! Nhà ngươi nói, ta nghe rất có lí ! Nói xong, truyền bắt những bác sĩ nói các từ phản lọan, phản tặc, nhốt vào ngục, trị tội. Rồi thưởng cho Thúc Tôn Thông 24 tấm lụa, một bộ y phục và thăng lên một cấp. Lúc ra khỏi cung, các Nho sinh đi theo trách mắng : - Ông được cái thói a dua, đón ý hòang thượng, chẳng biết ất giáp, không hiểu sự thực gì cả ! Chúng tôi không thể nào hiểu nổi ông ? Thúc Tôn Thông nói : - Cái mạng của tôi mong manh lắm, mong các ông thông cảm ! Các ông cũng nên nghĩ về con đường sống của mình đi, đừng trách móc chi tôi mà phí tâm lực. Tối hôm đó, Thúc Tôn Thông thu vén hành trang, nửa đêm trốn ra khỏi Lạc Dương, đến đầu hàng Trần Thắng và Ngô Quảng. Trần Thắng và Ngô Quảng thất bại, Thúc Tôn Thông lại đầu hàng Hạng Vũ. Sau c ùng lại đầu hàng Lưu Bang. Bấy giờ, Lưu Bang mới lên ngôi, quần thần uống rượu, tranh công lao, có người quá chén la hét om sòm, có người còn tuốt gươm chém bừa vào cột. Cao đế thấy vậy làm lo. Biết Cao đế chán ghét bọn này, Thúc Tôn Thông bèn tâu : - Bọn Nho sinh không giúp được bệ hạ lập nên sự nghiệp, nhưng giúp bệ hạ giữ sự nghiệp. Thần xin trưng cầu bọn Nho sinh nước Lỗ và cùng học trò thần để chế định triều nghi. Cao đế bằng lòng. Chế định xong, thì nghi lễ được cử hành, từ lúc lễ cử hành đến lúc bãi tửu, không ai còn dám to tiếng lộn xộn. Thấy vậy, Cao đế nói : - Bây giờ ta mới biết, cái vinh quang, tôn quý của một vị hòang đế ! Bèn cất Thúc Tôn Thông lên làm thái thừơng và ban cho năm trăm cân vàng. Th úc Tôn Thông thừa dịp tiến lên tâu rằng : - Các học trò và các Nho sinh theo thần đã lâu, họ đã cùng với thần chế định triều nghi. Dám mong bệ hạ ban tước cho họ. Cao đế cho làm quan lang hết. Ra về, Thúc Tôn Thông đem tất cả số vàng vua ban, chia chác cho các Nho sinh. Các Nho sinh mừng quá, nói : - Ông Thúc Tôn Thông thật là một vị thánh nhân. Ông thấy rõ nhu cầu khẩn cấp của thời đại. Thúc Tôn Thông còn là trọng thần dưới thời Huệ đế. LẠM BÀN 1. Th ông minh, sáng suốt và hồ đồ là hai mặt thống nhất. Trịnh Bản Kiều cho rằng, ai cũng thích tự cho mình là thông minh, sáng suốt, không ai tự cho mình là kẻ hồ đồ; nhưng người thông minh, sáng suốt, làm kẻ hồ đồ là khó nhất. 2. Đường Tăng tự cho mình là sáng suốt nhưng thực ra là kẻ hồ đồ, không phân biệt chân giả, hơn thiệt. 3. Thúc Tôn Thông giả bộ hồ đồ nhưng thực sự thông minh, sáng suốt. Vì chí lớn bỏ qua những tiểu tiết hết làm tôi người này, đến làm tôi kẻ khác). 4. Biết người, biết dùng người, người ta sẽ đem hết sự thông minh, sáng suốt để phụng sự. Không biết người, không biết dùng người, thì chỉ thấy cái bóng hồ đồ của người. 7. MỘT NGƯỜI CÓ PHÚC, CẢ NHÀ THƠM LÂY (GIA ĐÌNH HỌ VỆ QUYỀN NGHIÊN G THIÊN HẠ) Hồi 69 Tâm chủ thâu đêm hòan xong thuốc tễ Quân vương trên tiệc thuật chuyện yêu tà Hành Giả, Trư Bát Giới và Sa Tăng suốt đêm bào chế thuốc để chữa bệnh cho quốc vương nước Chu Tử. Phương thuốc gồm đại hòang, ba đậu, nhọ nồi, nước đái ngựa rồng Tây Hải), gọi là Ô kim đan, uống với nước vô căn nước bọt Long vương). Quốc vương uống thuốc xong, khỏi bệnh, viết thiếp mời, bày tiệc tạ ơn. Bát Giới thấy quan đưa thiếp mời, mừng rỡ khôn xiết, nói nịnh với Sa Tăng, cố ý cho Hành Giả nghe : - Anh ạ ! Quả là tễ thuốc hay, ngày nay được đền ơn to là công của huynh trưởng Hành Giả). Sa T ăng nói : - Anh Hai nói chi vậy ! Thường có câu : Một người có phúc, cả nhà thơm lây. Chúng ta ở đây chế thuốc, đều là những người có công cả. Không cần nói nhiều, chỉ làm sao có ăn là được. Mấy huynh đệ rất vui vẻ, cùng nhau đi vào triều. * Hán Vũ đế Lưu Triệt tức vị nhưng không có con. Một hôm, Vũ đế đến chơi nhà chị gái là Bình Dương công chúa. Bình Dương công chúa thấy sắc mặt nhà vua không vui, liền cho gọi mười cô gái ra múa hát. Hán Vũ đế thấy cô gái họ Vệ, còn gọi là Vệ Tử Phu, là ca nữ, thì yêu thích lắm. Bình Dương công chúa biết ý liền ngõ ý cho cô gái họ Vệ tiến cung. Nhà vua bằng lòng. Lúc tiễn cô gái họ Vệ, công chúa Bình Dương dặn : - Đi đi ! Nếu ngày nào đó được tôn quý thì đừng có quên tôi đấy nhé ? Cô gái họ Vệ cúi đầu, vâng dạ. Tuy Vệ Tử Phu được tiến cung nhưng lâu ngày không gặp được Vũ đế. Nhân Vũ đế lệnh cho các cung nữ luống tuổi ra khỏi cung, Vệ Tử Phu xin gặp Vũ đế để xin xuất cung. Hán Vũ đế không cho và bắt đầu sủng ái Vệ Tử Phu. Không lâu, Vệ Tử Phu có thai và sinh con trai, từ đó Hán Vũ đế càng thêm quý mến Vệ Phu Nhân. Trần hòang hậu thấy vậy sinh ghen ghét, tìm mọi cách để hại Vệ Tử Phu và đứa con trai, tên là Lưu Kịch. Hán Vũ đế biết được, phế truất Trần hòang hậu và lập Vệ Tử Phu lên làm hòang hậu. Sau khi V ệ Tử Phu được làm hòang hậu thì em của hòang hậu là Vệ Thanh cũng phong làm Tướng quân. Con trai của chị Vệ Tử Phu là Hoắc Khứ Bệnh, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung, cũng được Vũ đế chiếu cố, cho làm Thị trung. Vệ Thanh được Vũ đế sai đem quân đi đánh Hung Nô. Vệ Thanh tòan thắng trở về. Hán Vũ đế nói với quần thần : - Đại tướng Vệ Thanh mưu trí, dũng cảm, đã lập được công to. Nay, phong thưởng sáu vạn hộ; con cái Vệ Thanh đều được phong tước hầu. Vệ Thanh tâu : - Thần xuất quân đánh bại Hung Nô là nhờ hồng phúc của bệ hạ và công lao của các tướng sĩ. Nay, bệ hạ phong thưởng cho thần là quá nhiều rồi ! Các con thần không có công lao và còn tuổi nhỏ, xin bệ hạ không nên ban thưởng. Hoắc Khứ Bệnh theo Vệ Thanh chinh chiến, lập nhiều chiến công. Vũ đế hạ chiếu rằng : - Ho ắc Khứ Bệnh dũng cảm giết giặc, bắt sống được chú của tướng giặc là La Cô Tỷ, đệ nhất công lao, được phong làm Quán quân hầu. Hoắc Khứ Bệnh thích trầm tư, ít nói nhưng rất quyết đóan. Vũ đế thấy vậy, cho Hoắc Khứ Bệnh coi việc xây dựng, tu tạo các phủ đệ trong hòang cung. Hoắc Khứ Bệnh từ tạ, tâu rằng : - Mặc dù lực lượng quân Hung Nô suy giảm nhưng cũng không thể không đề phòng. Vũ đế nghe vậy, càng yêu mến Hoắc Khứ Tật. Kh ông may, Hoắc Khứ Tật qua đời rất trẻ, mới 24 tuổi. Vũ đế thương tiếc lắm, sai mấy đội quân xây lăng mộ cho Hoắc Khứ Tật và thay phiên canh gác hương khói. Con của Hoắc Khứ Tật cũng được phong hầu. Phò mã mất, khi mãn tang Bình Dương công chúa ngõ ý muốn tái giá. Có người nói với Vệ Thanh: - Đại tướng có chị là hòang hậu, nếu mà lấy được công chúa, chị nhà vua, thì con cái sẽ được phong tước hầu, dòng họ sẽ cao sang tột bậc, thiên hạ ai mà sánh kịp. Thế là, đám cưới Vệ Thanh và công chúa Bình Dương được tổ chức. Thời ấy, danh giá gia đình họ Vệ nổi tiếng thiên hạ. Vì thế, trong dân gian lưu truyền bài hát : Sinh con trai ch ớ vội vui Sinh con g ái cũng đừng buồn Hãy xem nhà họ Vệ Quyền, thiên hạ nghiêng Song, phước bất trùng lai, họa vô đơn chí, năm 106.TCN, em của hòang hậu Vệ Thanh, cột trụ của gia đình họ Vệ không may qua đời. Cũng trong thời gian ấy, Công Tôn Kính, người nhà họ Vệ tham ô quân lương một ngàn chín trăm vạn tiền. Lưu Triệt giao vụ này cho Đỗ Chu điều tra. Kết quả điều tra, một nửa nhà họ Vệ dính líu đến vụ án. Kết cục, con của Vệ Thanh bị chặt đầu, cả nhà Công Tôn Kính bị giết. Lưu Triệt ốm nhiều ngày không khỏi, cận thần Giang Sung cho rằng, có lẽ các tên thầy bói, đồng bóng trong kinh thành dùng tượng gỗ mộc ngẫu ) trù yểm hòang đế, nên hoàng đế mới ốm dai như thế. Lưu Triệt sợ chết, ra lệnh cho tìm bắt bọn thầy bói, đồng bóng hoặc bị nghi là đồng bóng hoặc nhà nào có tượng gỗ, tất nhiên trong đó có kẻ thù của Giang Sung, đều bị đem ra giết sạch. Số người bị giết lên đến hàng vạn, nhiều gia đình bị tàn sát, tiếng khóc vang trời. Gi ết xong cả vạn người, Giang Sung còn nói với Lưu Triệt, đại bản doanh của bọn đồng bóng không dâu xa chính là hậu cung. Lưu Triệt nghe theo và giao cho Giang Sung mở cuộc điều tra. Sau khi điều tra, Giang Sung thưa rằng đã tìm được những tượng bằng gỗ, dùng để trù yểm hòang đế chôn ở trong cung hòang hậu và thái tử Lưu Kịch. Ng òai ra, Giang Sung còn nói tìm được nhiều giấy tờ quan trọng, âm mưu phản lọan ở phòng thái tử Lưu Kịch. Th ái tử Lưu Kịch nghe tin, hỏang hốt, không có cách nào khác bèn khởi binh làm lọan. Cu ộc chiến diễn ra năm ngày, năm đêm, thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Lưu Kịch thất bại, bỏ chạy, sau tự vẫn ở Huyền Lương. Vệ phu nhân, mẹ của hòang hậu, nghe tin thái tử thất bại, kêu khóc thảm thiết, rồi tự ải. Lưu Triệt tức giận ra lệnh giết Vệ hòang hậu và cả ba họ. Tất cả con cái, người nhà thái tử buộc phải tự vẫn; các quan chức quan hệ xa gần với thái tử, nặng thì bị giết, nhẹ thì tống vào ngục. Số người bị giết lên đến 10 vạn người, sử gọi là vụ án vu cổ. LẠM BÀN 1. M ột người có phúc cả nhà thơm lây. Tương tự câu của Việt Nam :"Một người làm quan cả họ được nhờ". Thế giới thần thọai, nhờ công lao của Hành Giả mà Đường Tăng được trọng vọng, Sa Tăng, Bát Giới được mời mọc, đãi đằng no nê. Ở cõi người, nhờ Vệ Tử Phu sinh con trai, được phong làm hòang hậu, mà anh em, bà con dắt díu nhau lên vũ đài chính trị. Triều đình, đất nước, lọt thỏm vào tay một nhóm người. Nhóm người này tha hồ khen nhau, thưởng cho nhau vô hồi kì trận. 3. Nhưng rồi bi kịch xảy ra, những người có quyền chức, có bỗng lộc có vay có trả bị chết đã đành. Nhưng người ăn ít, thậm chí chẳng được xơ múi gì cũng bị lôi vào cửa địa ngục trần gian hoặc địa phủ. 4. Trong thơm lây đã ẩn tàng vạ lây ! Nhưng đáng buồn, nhiều người chỉ vênh váo, khoe mẻ, lúc thơm lây, ít nghĩ đến lúc vạ lây. 8. T ỘI TO NHẤT LÀ TỘI BẤT HIẾU (TIÊU DIỄN ĐỨC – ĐỨA CON BẤT HIẾU ) Hồi 31 Bát Giới lấy nghĩa khích Hành Giả Ngộ Không dùng trí phục ma vương Để giải cứu cho Sa Tăng, Hành Giả bắt hai đứa con của yêu quái Hòang Bào và công chúa nước Bảo Trượng. Sa T ăng được tha nhưng Hành Giả không trả lại hai đứa con cho công chúa. Hai người sinh ra đấu khẩu. Công chúa nói : - Vị hòa thượng này không có tín nghĩa gì hết, người bảo thả sư để người ra, người sẽ trả lại hai dứa con cho ta, ta đã trả sư đệ người rồi, sao vẫn giữ con ta ? Còn đến đây làm gì ? Hành Giả cười nói : - Công chúa đừng ngại, nàng ở đây đã lâu rồi, để mang các cậu đến thăm ông ngọai. Công chúa nói : - Hòa thượng đừng nói bậy bạ, lão Hòang Bào nhà tôi không phải tay vừa, nếu người dọa nạt con tôi, để chúng nó sợ hãi thì người cũng không còn. Hành Giả cười nói : - Công chúa ạ ! Người ta sống ở trong trời đất, thế nào là kẻ có tội ? Công chúa nói : - T ôi biết rồi ! Hành Giả nói : - N àng là hạng nữ lưu thì biết cái gì ? Công chúa nói : - Tôi hồi nhỏ ở trong cung, được cha mẹ dạy bảo. Nhớ trong sách có câu : Ba nghìn đi phạm vào tội ngũ hình, tội to nhất là tội bất hiếu. Hành Giả nói : - Chính nàng là người con bất hiếu ! Bởi vì công cha nuôi con, công mẹ mớm con, thương thay cha mẹ vì con hao mòn ! Cho nên hiếu thảo là trăm nết tốt, là gốc trăm điều lành, nở nào đem thân bám lấy yêu tinh, không tưởng nhớ tới cha mẹ ? Không phạm tội bất hiếu là tội gì ? Công chúa nghe nói, đỏ mặt tía tai, trăm chiều hổ thẹn. * Sau khi g iết hai ông vua nhà Tề, Tiêu Diễn lên ngôi, sáng lập nhà Lương, lúc ấy ông ta chưa có con, liền nhận con của người em trai là Tiêu Chính Đức làm con nuôi. Năm 37 tuổi, Tiêu Diễn mới có con, đặt tên là Tiêu Thống và lập Tiêu Thống làm thái tử. Việc này đã là cho Tiêu Chính Đức bất mãn, sinh óan hận Tiêu Diễn và đầu hàng nước Ngụy, vốn là kẻ thù của nước Lương, tự xưng là Lương Phế thái tử. Vua nước Bắc Ngụy liền triệu tập quần thần để bàn bạc. Có người tâu rằng : - Tiêu Diễn là vua là bác của Tiêu Chính Đức, thân phụ của Tiêu Chính Đức cũng là bậc vương. Thế mà hắn đầu hàng nước ta, là lâm vào tội đại nghịch, bất đạo. Nếu hắn đến thì giết hắn đi, dung nạp hắn làm gì ? Tiêu Chính Đức nghe tin, thất vọng, trốn ra khỏi nước Bắc Ngụy, trở về nước Lương. Tiêu Diễn biết chuyện, trách mắng qua loa, không trị tội Tiêu Chính Đức, chỉ mong Tiêu Chính Đức hối cãi. Tiêu Chính chẳng những không hối cãi còn làm nhiều xằng bậy, tha hồ giết người, cướp của, cướp vợ con người khác, thậm chí bắt em gái của mình làm vợ. Nguyên, Hầu Cảnh là tướng nước Bắc Ngụy, đầu hàng nước Lương, gây nên cảnh nội chiến đẫm máu kéo dài suốt 4 năm. Ti êu Chính Đức âm mưu với Hầu Cảnh, trong ứng ngọai hợp lật đổ Tiêu Diễn và lên làm vua. Vi ệc Hầu Cảnh phản bội Tiêu Diễn và Tiêu Chính Đức lên làm vua đã làm cho dân chúng óan hận. Để yên lòng dân, Hầu Cảnh lại lập Tiêu Diễn lên làm vua và ra lệnh treo cổ Tiêu Chính Đức. Sau đó, Hầu Cảnh lại cho giam lỏng Tiêu Diễn, ba năm sau Tiêu Diễn chết vì đói đói khát. LẠM BÀN 1. Trung Qu ốc là nước đề cao lễ nghĩa, trong ngũ luân, lấy hai chữ trung, hiếu làm đầu. Không trung thành với vua là bất trung, không nuôi dưỡng cha mẹ là bất hiếu. Trung, hiếu là chuẩn tắc của mọi hành vi. 2. Tiêu Chính Đức vừa bất trung, vừa bất hiếu. 9. LẤY CÓ MẶT, KHUẤT MẶT ĐỀU LÀ ĂN TRỘM (HÒA THÂN VÀ TẬP ĐÒAN THAM NHŨNG) Hồi 50 Tình rối, tính theo vì ái dục Thần mờ tâm động gặp yêu ma Bát Giới trở ra thưa với Đường Tăng : - Sư phụ ạ ! Trong đó không có một bóng người, chỉ như cái nhà thờ vong linh. Lão trư đi vào bên trong, lên thẳng trên lầu cao, có một đống hài cốt ở trong một cái màn lụa vàng. Cạnh nhà ngang có ba bức bối tâm quấn bụng thêu gấm, con lấy mang về đây, cũng là cái may tạm thời cho chúng mình. Đương lúc trời rét thế này, cần phải dùng đến. Sư phụ cởi cái áo chẽn ra, đem nó quấn vào phía dưới, dùng tạm cho đỡ rét. Tam Tạng nói : - Không được ! Không được ! Luật có câu : Lấy có mặt, khuất mặt đều là ăn trộm. Thảng có người biết, đuổi theo chúng ta, bắy đem trình quan, tất nhiên phạm vào tội trộm cắp, của người ta ở đâu đem trả lại đấy ! Chúng ta ngồi ẩn gió một lúc, đợi Ngộ Không về rồi sẽ cùng đi. Người xuất gia, không ăn cắp vặt như vậy ! Bát Giới nói : - Chung quanh không có người, đến gà chó cũng không biết được, người nào kiện mình, có bằng chứng gì, cũng như là được của rơi, còn bảo lấy mặt, khuất mặt gì nữa ? Tam Tạng nói : - Con bậy quá ! Tuy rằng người ta không biết, nhưng có dấu trời được không ? Trong kinh Nguyên đế thùy huấn có nói rằng : Dối trong lòng, nhà tối mắt Thần như điện. Muốn tốt đem trả cho người ta, đừng ham những vật phi nghĩa. Bát Giới cười nói : - S ư phụ ơi ! Từ khi con làm người đến nay, cũng được mấy cái bối tâm nhưng chưa từng có cái nào thêu gấm cả. Người không mặc thì để lão Trư mặc một cái, thử nếm của lạ cho nó ấm cật một tí. Đợi sư huynh về, sẽ cởi trả cho người ta, rồi đi. Sa Tăng nói : - Đã như vậy, tôi cũng mặc một cái. * Hòa Thân tự là Chí Trai, người Mãn Châu, thuộc Giáp lạt hồng kì, thuở nhỏ được học ở Cung học quan. Hòa Thân chăm chỉ học hành, khổ công học tập, thông thạo kinh điển; các ngôn ngữ Hán, Mông, Tạng; lại dày công luyện thư pháp, chữ viết giống vua Càn Long. Lớn lên, nhờ Anh Khiêm, quan trong triều nâng đỡ, Hòa Thân được làm Tam đẳng thị vệ, rồi được sung vào đội quân chuyên lo nghi vệ cho vua Càn Long. Một hôm, Càn Long đọc sách, trời tối lờ mờ, không đọc ra chữ gì, liền hỏi quân hầu chẳng ai biết, chỉ có Hòa Thân quỳ xuống giải thích rõ ràng. Càn Long thấy Hòa Thân tuấn tú, trắng trẻo, ăn nói họat bát, giảng sách thao thao như nước chảy, lấy làm bằng lòng lắm. Từ đó, Hòa Thân cũng không ngừng hầu hạ, đón ý Càn Long. Từ một anh lính hầu, Hòa Thân từ từ bước lên đài danh vọng, đỉnh cao quyền lực : 27 tuổi giữ chức Quân cơ đại thần; 37 tuổi giữ chức Đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ lại; năm 47 tuổi Hòa Thân chỉ dưới quyền Càn Long. Càn Long thích gì thì Hòa Thân chiều đó : Thích đồ cổ thư họa, thì có thư họa, đồ cổ; thích xướng họa thơ văn, có người xướng họa; thích sử sách ghi chiến công, thì có sử viết về chiến công; thích tuần du thì tha hồ tuần du; thích gái đẹp, có gái đẹp; thích xây cung hành cung có hành cung; thích lễ lược, có lễ lược. Không ai đón ý, chiều chuộng, an ủi, ngon ngọt, chia xẻ vui buồn với Càn Long bằng Hòa Thân. Ngược lại, Càn Long cũng để cho Hòa Thân vô số cơ hội, tạo thành một tập đòan tham nhũng để kiếm tiền để thù phụng cho ông và làm giàu : Tạo ra lệ dâng, biếu xén của các quan chức địa phương và triều đình; xoay tiền những ông quan trấn nhậm những nơi béo bở; bán tin mật khi vua đi tuần du; độc quyền thu thuế ở cửa Sùng Văn; bán đề thi, bán chức cho người đỗ đạt; bớt xén trong xây dựng và mua sắm; vòi tiền các thương nhân giàu có; cho vay nặng lãi; cướp giật và đầu cơ điền sản; kinh doanh những nhu yếu của quốc gia. Hòa Thân sống xa hoa cực điểm : Nhà cửa, lầu đài tráng lệ, vườn hoa cây cảnh, ao hồ không thua gì nhà vua; trân châu bảo ngọc, đồ ngon vật lạ không thiếu; thê thiếp đàn hát rập rình; khách khứa xe ngựa đi lại, vào ra nườm nượp như nước chảy. Hòa Thân lo xa, phòng khi yên nghỉ được nơi tươm tất, yên tĩnh, cho xây lăng, đắp mộ, gọi là Hòa lăng đồ sộ nguy nga. Triều thần có kiện cáo gì về Hòa Thân, hoặc tập đòan Hòa Thân thì cũng được vua Càn Long tìm các che chở hoặc tạo cơ hội cho Hòa Thân biện bác, minh oan. Ngày 7 thánh 2 năm 1799 Thượng hòang Càn Long băng hà. Vua Gia Khánh và những người tâm phúc, bị đè nén lâu ngày, cùng bày mưu định kế bủa lưới bắt Hòa Thân và bè đảng. Gia Khánh sợ để lâu sinh biến, liền phá lệ, trong ngày quốc tang vẫn triệu tập quần thần xử Hòa Thân. Hòa Thân bị ghép vào 20 đại tội, bị xử lăng trì. Nhưng sau đó Công chúa Cố Luân Hòa Hiếu con dâu Hòa Thân) van xin, Gia Khánh cho chết Hòa Thân tòan thây, tự treo cổ. Oá i oăm là Gia Khánh bắt Phúc Trường An, tay chân tâm phúc của Hòa Thân phải dâng giải lụa cho chủ ! Gia Khánh hạ lệnh triệt hạ Hòa lăng, bắt đem xác Hòa Thân về chôn ở Lưu thôn. Xe tang ch ỉ có hai người là con trai và con nuôi của Hòa Thân đi theo, lặng lẽ, thê lương ? Có sách nói, tài sản của Hòa Thân bằng 5 năm thu nhập của nước Trung Hoa thời đó. Gia Khánh thu được tài sản lớn của Hòa Thân, dân gian có câu : Hòa Thân chết, Gia Khánh no. Ám chỉ, của cải do Hòa Thân cướp được từ tay dân chúng, chuyền tay sang Gia Khánh, còn dân thì mất trắng. LẠM BÀN 1. B át Giới, Sa Tăng tuy đã thí phát, quy y, không được trộm cắp, nhưng khi lạnh quá cũng trở thành kẻ ăn trộm. Tam Tạng khuyên nhủ nhưng hai đồ đệ cũng không nghe. Xem ra, lời Phật dạy, kinh điển răn, lời khuyên của Đường Tăng cũng không thắng được vật dục và cái lạnh. 2. Việt Nam có câu tương tự : Con ơi ! Nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan Hòa Thân và cả tập đòan tham nhũng trở thành bọn cướp ngày trắng trợn. Cướp đêm thì họa hoằn mới có, có thể phòng được, chống được. Cướp này thi xảy ra liên miên, không chống được, chỉ phục tùng. Cướp đêm thì chỉ hại một số nhà, số người. Cướp ngày thì hại nước, hại dân. 10. TH ẦN BẤT ĐỊNH, TU ĐẠO BẤT THÀNH (XUÂN THÂN QUÂN MUỐN LÀM CHA VUA) Hồi 56 Điên hồn trừ giặc cỏ Mê đạo đuổi Hầu vương Đường Tăng lầm rầm đọc bài chú khẩn cô nhi làm cho đầu Hành Giả bị thắt lại, mặt mũi đỏ gay, mắt sưng đầu lọan, giẫy dụa dưới đất kêu la : - Đừng đọc ! Đừng đọc ! Sư trưởng đọc hơn mười lượt nửa, đau đớn không chịu được chỉ kêu : - Sư phụ tha tội cho con, có chuyện gì thì cứ nói ra ! Đừng đọc ! Đừng đọc ! Tam Tạng dừng miệng đọc, nói : - Chẳng có chuyện gì cả ! Mi hãy về đi ta không cần mi đi theo ta nữa ! Hành Giả gượng đau, dập đầu nói : - S ư phụ ! Tại sao người đuổi con ? Tam Tạng nói : - Cái tuồng khỉ nhà mi hung ác quá chừng, không phải là người đi lấy kinh. Hôm qua, mi đánh chết hai tên tướng cướp dưới sườn núi, ta đã trách mi là bất nhân. Khi ban chi ều đến nhà ông trưởng giả, được người ta cho ăn ngủ, lại được người ta mở cửa sau thả cho chúng mình đi thóat chết, tuy con trai người ta chẳng lành, không can gì đến ta, cũng không được bêu đầu người ta. Hu ống chi lại đánh chết nhiều người, hủy họai bao nhiêu sinh mạng, thương tổn bao nhiêu hòa khí trời đất. Mấy mươi lần khuyên ngăn, mi không có một chút thiện niệm nào. Người ta nói, tâm nóng gấp thì không thể luyện đan, thần bất định thì tu đạo bất thành. Cần mi làm chi nữa. Xéo ngay ! Xéo ngay ! Chớ để ta phải đọc chân ngôn. Hành Giả sợ hãi, chỉ cầu : - Đừng đọc ! Đừng đọc ! Con đi đây ! Đọan lộn lên mây, mấy tích, mất tăm không thấy đâu nữa. * Vua S ở là Khảo liệt vương không có con, Xuân Thân quân lấy làm lo, kiếm những phụ nữ có tướng mắn con để dâng, đã gặp nhiều người nhưng vẫn không có con. Có người nước Triệu là Lí Viên muốn dâng em gái cho vua Sở, ngờ rằng tướng em gái không mắn con, sợ vua không yêu, bèn xin làm được làm kẻ hầu hạ Xuân Thân quân. Một hôn, Lí Viên xin về nhà, nhưng quá hẹn mới trở lại. Xu ân Thân quân hỏi. Lí Viên đáp : - Vua Tề sai sứ giả đến xin cưới em tôi, tôi đã tiệc sứ giả nên trễ hẹn. Xuân Thân quân hỏi : - Đã gả chưa ? - Thưa chưa. - Cho tôi gặp được không ? - Thưa được ! Lí Viên đem em gái dâng cho Xuân Thân quân. Nàng liền được Xuân Thân quân sủng ái. Khi biết em gái của mình đã có mang, Lí Viên bày mưu cho em gái có dịp nói với Xuân Thân quân rằng : - Vua Sở quý ông hơn là anh em ruột, ông làm Tướng quốc nước Sở trên hai chục năm. Nay, vua không có con, sau này vua trăm tuổi, tất lập anh hoặc em. Vua mới lên ngôi, sẽ yêu quý những người thân cận của mình, lúc đó e ông không được sủng ái nữa ? Chẳng những vậy, ông giữ chức đã lâu năm, chắc nhiều lần đã thất lễ với anh, em của vua. Nếu mấy người này lên ngôi, là mối họa của ông, làm sao ông còn giữ tướng ấn, cùng đất phong ở Giang Đông nữa ? Nay thiếp tự biết mình đã có thai nhưng người khác thì chưa biết. Thiếp được hầu hạ ông chưa bao lâu, được ông quý mến, nay ông dâng thiếp cho vua Sở thì vua sẽ sủng ái thiếp. Nh ờ trời thiếp có con trai, thì con ông sẽ được làm vua, ông có thể chiếm hết đất Sở. So v ới cái họa có thể thình lình bị tội thì cái nào hơn ? Xuân Thân quân cho rằng, kế đó rất hay, bèn cho em gái Lí Viên ra ở nhà riêng, rồi nói chuyện với vua Sở. Vua S ở vời em Lí Viên vào cung và rất yêu quý. Không lâu, nàng sinh con trai, được lập làm thái tử, nàng cũng được phong làm hòang hậu. Vua Sở cũng quý Lí Viên và cho Lí Viên được tham dự việc cầm quyền. Khi em gái được lập làm hòang hậu, cháu làm thái tử, Lí Viên sợ Xuân Thân quân tiết lộ câu chuyện bí mật giữa ba người, lén nuôi bọn thích khách, chờ dịp giết Xuân Thân quân để bịt miệng. Chuyện này, một số người nước Sở biết. Lúc vua Sở ốm, có người tên là Chu Ánh nói với Xuân Thân quân : - Đời có cái phước bất kì, có cái họa bất kì. Nay ông ở vào cái thời biến đổi bất thường, lại thờ một ông vua phản phúc bất thường, thì sao tránh được cái bất kì ? Ông có thể dung cho con người cuồng vọng không ? Xuân Thân hỏi : - Thế nào là cái phước bất kì ? Chu Ánh đáp : - Hai chục năm danh tuy Tướng quốc, thực sự ông là Sở vương, năm người con của ông cũng làm Tướng quốc các nước chư hầu. Nay vua bị bệnh nặng có thể mất trong sớm tối, thái tử thì suy nhược, đau không dậy được. Nhân cơ hội này, ông đích thân làm nhiếp chính cho ông vua nhỏ tuổi, trị nước như Y Dõan, Chu Công ngày xưa, đợi vua lớn lên trao lại chính quyền. Nếu không thì nên quay mặt về phía Nam xưng vương, rồi chiếm cả nước Sở. Như vậy là cái phước bất kì. Xuân Thân quân hỏi : - Thế nào là cái họa bất kì ? Chu Ánh nói : - Lí Viên tuy không làm được Tướng quốc nhưng là cậu của vua, không làm tướng quân nhưng lén lút nuôi thích khách trong nhà. Vua Sở băng hà, thì Lí Viên vào cung trước, chiếm địa vị then chốt, giả mạo vương lệnh giết ông để bịt miệng. Đó là cái họa bất kì. Xuân Thân hỏi : - Còn thế nào là dung người cuồng vọng ? - Trước hết, ông cho tôi làm chức Lang trung. Khi nào vua băng, Lí Viên vào cung, tôi xin vì ông mà đâm bụng hắn. Như vậy, tôi là người cuồng vọng. Xuân Thân quân nói : - Tiên sinh gác chuyện đó lại, đừng bàn nữa. Lí Viên là người nhu nhược, tôi với ông ta lại hòa hiếu với nhau. Đâu có tới nỗi như vậy ? Chu Án h nghe nói, hỏang hồn, trốn mất. Mười bảy ngày sau, vua Sở mất, Lí Viên vào cung trước, cho thích khách mai phục trong cửa Cức Môn. Xu ân Thân quân vào sau, vừa đến cửa Cức Mông, bị thích khách chặt đầu quăng ra ngòai cửa. Lí Viên sai tay chân tìm giết hết gia thuộc Xuân Thân quân. Rồi Lí Viên lập con của em gái lên làm vua, gọi là Sở U vương. LẠM BÀN 1. Xưa nay, những người làm nên sự nghiệp lớn là người có mưu trí xuất chúng, biết phán đoán tình hình và quyết đóan. Xuân Thân quân muốn giữ chức vụ lâu dài nhưng lại do dự, không hiểu tình hình và thiếu quyết đóan. 2. Đã thế Xuân Thân Không nghe lời Chu Ánh nên từ phúc bất kì chuyển sang họa bất kì. 3. T uy làm Tướng quốc, nhưng Xuân Thân Quân chỉ là con rối của Lí Viên. 11. TÀI LƯƠNG ĐỐNG GẦN ĐẾ VƯƠNG TRIỆU NHAN THẬM VÀ CÁC ĐỜI VUA) Hồi 64 Núi Kinh Cức, Ngộ Năng gắng sức Am M ộc tiên Tam Tạng làm thơ Th ầy trò Đường Tăng đi đến núi Kinh Cức, bị yêu quái bắt về núi gặp Thập Bát Công, Cô Trực Công, Phất Vân Tẩu và Kính Tiết cùng làm thơ. Dưới trăng thanh gió mát, mọi người xướng họa. Trong b ài thơ của Lăng Không Tử có mấy câu : Lương đống chi tài cận đế vương Th ái Thanh cung ngoại hữu thanh dương * Triệu Nhan Thậm mồ côi cha từ nhỏ, rất có hiếu với mẹ, nhà nghèo. Khi Triệu Nhan Thậm mới năm tuổi, người mẹ than rằng : - Nh à thì nghèo, con thì còn nhỏ, làm sao mà sống nổi ! Tri ệu Nhan Thuận thưa rằng : - M ẹ đừng lo buồn ! Con sẽ cố gắng hết sức học hành, chắc ông trời cũng không nỡ bỏ mẹ con ta. Khi Tri ệu Nhan Thậm lên 10 tuổi, quan Tư đồ Thôi Quang nói với khách khứa rằng : - Ng ười xưa cho rằng, nhìn con mắt thì cũng có thể biết được tương lai của người đó. Xem con mắt của cậu bé này, thì tiền đồ không nhỏ. Tri ệu Nhan Thuận thông minh, chăm học, đọc nhiều sách, có biệt tài về tính tóan chính xác không hề sai chạy, nên được quan Thượng thư lệnh Tư Mã Tử Như rất yêu mến. Nhân lúc Cao Hoan, nắm quyền lớn nhà Bắc Tề, muốn chọn hai quan chức, Tư Mã Tử Như tiến cử Triệu Nhan Thậm với Cao Hoan. Cao Hoan cho Triệu Nhan Thậm là Đại thừ tướng công tham sự quân, chuyên cai quản những việc cơ mật của quốc gia. Triệu Nhan Thuận được phép ngồi trước mặt Cao Hoan để thảo quân lệnh. Cao Hoan th ường lấy tay vò đầu Triệu Nhan Thuận, rồi khen : - Khanh có khả năng làm việc lớn. Cao Hoan nói với quan Tư đồ Tôn Thắng : - Triệu Nhan Thuận cung kính, lễ phép, làm việc gì cũng rất cẩn thận. Người như Triệu Nhan Thật thật hiếm ? Sau khi Cao Hoan m ất, do vùng Hà Nam có biến, con trai trưởng của Cao Hoan là Cao Đăng chưa vội phát tang, đích thân đến Hà Nam để xem xét tình thế. Tr ước khi lên đường, Cao Hoan nắm tay Triệu Nhan Thậm, khóc rồi nói : - Mọi việc ở trong cung đều trông cậy vào ông, ông phải cố gắng giúp tôi ! Triệu Nhan Thâm tuân lệnh. Lúc Cao Hoan trở về, thấy mọi việc yên ổn đâu vào đấy, bằng lòng lắm, khen ngợi và phong Triệu Nhan Thậm làm An quốc huyện bá. Sau khi Cao Đăng bị thuộc hạ giết chết, Cao Dương thay anh Cao Đăng) nắm quyền, rồi tự xưng làm vua, gọi là Văn Tuyên đế. Văn Tuyên đế Cao Dương cũng rất tin dùng Triệu Nhan Thậm, giao cho cai quản việc cơ mật của quốc gia và liên tiếp được thăng chức, phong làm Tuyên Dương vương. Tri ệu Nhan Thậm vui buồn không lộ ra nét mặt, cẩn thận, giữ gìn lễ nghĩa, khiêm tốn. Nh ững ngày lễ tiết, được vua vời vào cung, cho ngồi lên long sàng, Triệu Nhan Thậm hết sức giữ lễ vua tôi. Mặc dù, được nhà vua tín nhiệm, đưa ra nhiều quyết sách quan trọng nhưng không hề tỏ ra kiêu ngạo. Khi được đề bạt hoặc dùng những người khác, Triệu Nham Thậm lấy sự nghiệp và sự thành công làm trọng, không đề bạt và không dùng những người không đức, không tài, nên được nhiều người nể nang. Cao D ương mất, Cao Diễn đưa cháu là Cao Ân con Cao Dương), lúc ấy mới 15 tuổi, lên làm vua. Quần thần nhiều lần nói với Cao Diễn là nên phế truất Cao Ân và lên làm vua. Cao Di ễn chần chừ. Có lần Cao Diễn nói với Triệu Nhan Thậm trước mặt bá quan : - Các đại thần ai nấy đều trình rằng, thiên hạ quy phục ta, ta nên làm vua. Chỉ riêng ông không nói câu nào, là tại sao ? Chứng tỏ, Cao Diễn rất coi trọng ý kiến của Triệu Nhan Thậm. Vũ Bình năm thứ bảy, Triệu Nhan Thậm bị bệnh, mất. Sử đánh giá, dưới thời Bắc Tề, nhiều động lọan, thay bậc đổi ngôi, triều đình là nơi xảy ra nhiều cuộc tranh giành, chém giết, chỉ có Tể tướng Triệu Nhan Thậm là vô sự, có trước có sau. LẠM BÀN 1. Th ông thường, mỗi ông vua lên ngôi đều dùng những tay chân thân tín, bà con họ hàng, để thêm vây, thêm cánh, nhằm củng cố thế lực của mình. Th ừa dịp, nhiều kẻ bất tài cũng ra sức nịnh nọt để kiếm chác quan chức bỗng lộc. 2. Ông vua sáng thì tin dùng hiền tài, ông vua tối thì tin dùng kẻ siễm nịnh, gian tham. Vua sáng dùng tôi hiền thì dân chúng được nhờ, vua tối dùng kẻ siễm nịnh, gian tham là gánh nặng lao khổ của dân. 3. Chuyện kể, Bùi Củ nhờ nịnh nọt, ngã theo chiều gió, đã làm quan dưới năm triều vua. Có người nói, Bùi Củ là mụ già trải qua năm đời chồng ! Riêng, Triệu Nhan Thậm nhờ có tài, cẩn thận, khiêm tốn mà được cả mấy đời vua tin dùng. Quả là hiếm trong quan hệ vua tôi ! 12. M ỘT KHIẾU THÔNG THÌ TRĂM KHIẾU THÔNG (TÔ THỨC TỈNH NGỘ GIỮ ĐƯỢC MẠNG SỐNG) Hồi 2 Th ấu lẽ bồ đề vào chánh quả Dứt căn ma quỷ rõ nguyên thần Một hôm, Tôn Ngộ Không nghe Tổ sư giảng, sướng đến nổi véo tai, vuốt má, chớp mắt luôn, không nhịn được giậm chân, khoa tay. Tổ sư trông thấy, gọi lên bảo : - Ngươi ở trong ban, sao lại điên rồ như thế ? Không nghe ta giảng à ? Ngộ Không thưa : - Con thực để tâm nghe. Nghe đến những chỗ sư phụ giảng nhiệm mầu, không xiết vui mừng, không ngờ có những điệu bộ như vậy, xin sư phụ tha tội. Tổ sư hỏi : - Ngươi nói đã hiểu rõ chỗ nhiệm mầu. Ta thử hỏi ngươi, ngươi đến đây đã bao lâu rồi ? Ngộ Không nói : - Con lú lấp không biết bao nhiêu ngày tháng, con chỉ nhớ nhưng khi trong bếp có lửa, thường ra kiếm củi, thấy đào ở núi có quả ngon, bảy lần con đã ăn no. Tổ sư nói : - Núi ấy gọi là Lạn Đào Sơn, ngươi đã bảy lần ăn quả đào, tức là bảy năm rồi. Nay ngươi muốn học đạo gì ? Ngộ Không nói : - Sư phụ giáo hóa, hễ có mùi đạo là con xin học. Sư tổ liền đưa ra các môn học, hết môn này đến môn khác, Ngộ Không nói là không học. Tổ sư bực mình hứ một tiếng, nói : - Con khỉ kia, cái này cũng không học, cái kia cũng không học, còn đợi cái gì ? Rồi đi đến trước mặt Ngộ Không, gõ vào đầu ba cái, quay lưng, giơ tay, đi thẳng vào trong, đóng cửa lại, bỏ mọi người ở ngòai. Đám nghe giảng, ai cũng hỏang sợ, đều óan Ngộ Không và nói : - Đồ con khỉ, hỗn láo vô tích sự ! Sư phụ truyền đạo phép cho anh sao anh không học ? Lại dám cãi lại sư phụ, làm cho sư phụ phật ý, biết bao giờ sư phụ mới lại ra ? Bấy giờ mọi người đều óan ghét và kinh bỉ Ngộ Không. Ngộ Không chỉ cười, không nói năng gì. Nguy ên Ngộ Không trong bụng đã hiểu ý ngầm của sư phụ, nên không tranh cãi với bạn, chỉ biết tổ sư đánh ba cái, tức là báo cho y phải để ý đến canh ba, ngỏanh lưng giơ tay đi vào đóng cửa trước lại, là bảo cho y đi cửa sau mà đến, để trong nơi bí ẩn sư phụ sẽ truyền đạo cho y. Đêm hôm ấy, Ngộ Không đi ngay đến cửa sau, thấy cửa nửa khép, nửa mở, mừng thầm, nói : - Quả là sư phụ chú ý truyền đạo cho ta. Bèn nghiêng mình bước vào đi thẳng đến trước giường nằm của tổ sư. Th ấy tổ sư nằm quay vào trong ngủ, Ngộ Không không dám động đậy, quỳ ở trước giường. Một lúc, tổ sư thức dậy, duỗi thẳng hai chân ngâm một bài thơ. Đợi thầy ngâm thơ xong, Ngộ Không cất tiếng : - Bạch sư phụ, đệ tử quỳ đợi đã lâu. Tổ sư nghe tiếng Ngộ Không, liền vùng dậy, mặc áo, ngồi xếp bằng, nói : - Con khỉ kia sao không ngủ, đến đây làm gì ? Ngộ Không nói : - Hôm qua trước đàn, sư phụ dạy con đến canh ba đi cửa sau đến sẽ truyền đạo cho, nên con mới dám đến đây lạy sư phụ. Tổ sư hoan hỉ, bụng nghĩ rằng : Người này quả là trời đất sinh thành ra, nếu sao hiểu được câu nói bóng của ta. Tổ sư liền ban cho Ngộ Không mật quyết, truyền cho phương pháp tránh ba tai nạn, dạy Ngộ Không 72 phép địa sát và phép cân đẩu vân. Việc Ngộ Không hiểu ý ngầm của sư phụ, nghĩa lí của câu nói bóng hoặc ngộ tính thấu lẽ bồ đề, tương tự câu cách ngôn một khiếu thông, trăm khiếu đều thông. * Tô Thức, hiệu Đông Pha cư sĩ, đỗ tiến sĩ dưới thời Tống Nhân Tông, cha là Tô Tuần, em là Tô Triệt, cả ba người đều nổi tiếng về văn chương. Thuở nhỏ, Tô Thức được mẹ là Trình thị hết lòng dạy dỗ, khuyến khích đọc nhiều sử sách. Một hôm, đọc Hậu Hán thư, đến truyện Phạm Bàng, Tô Thức cảm động, rơi nước mắt nói : Sau này, lớn lên nên bắt chước Phạm Bàng, thà chết không bỏ đạo nghĩa. Lúc làm đại học sĩ, tính cách của Tô Thức rất thẳng thắn, cứng cỏi, quật cường, nói năng chẳng nể nang ai cả, kể cả những người quan cao, quyền thế. Vì thế, có nhiều người ghét, con đường thăng quan tiến chức của Tô Thức cũng không mấy hanh thông. Có một người bạn, thấy thế, sợ Tô Thức gặp tai họa liền khuyên : - Ông không phải là ngự sử, cũng chẳng phải gián quan, nhưng lại thích bàn luận cái này đúng, cái kia sai, người này phải, kẻ kia trái ... không khác nào ôm đá mà nhảy xuống sông, thế nào cũng chuốc họa vào thân ! Tô Thức không nghe, chứng nào tật ấy. Lúc làm quan ở phủ Khai Phong, Tô Thức thẳng thừng phản đối việc biến pháp của tể tướng Vương An Thạch, ông cho rằng việc biến pháp là không hợp thời. Thế là, Tô Thức bị biếm đi làm quan nơi khác, xa kinh đô. Lúc bị biếm, Tô Thức cũng không ngừng viết tấu sớ dâng lên nhà vua, phản đối Vương An Thạch và phe biến pháp. Phe biến pháp không chịu đựng Tô Thức được nữa, liền vạch lá tìm sâu, trích văn đọan nghĩa, tìm cách quy án, tâu trình lên nhà vua Tô Thức. Tô Thức nghe tin, càng làm già, không chịu khuất phục phe biến pháp. Cuối cùng, Tô Thức bị viên quan phụ trách phiên trấn bắt giam, thẩm vấn, có thể ghép vào tội chết. Ông bạn ngày nào thấy thế, lại khuyên nhủ Tô Thức, nên nhẫn nhục, bỏ tính cương trực, thì mới giữ được mạng sống. Tô Thức nói : - Tôi không sợ chết vì quốc gia ! Tôi chỉ sợ sống nhục, mang tiếng xu phụ quyền thế và thời thế. Ông cứ khuyên can tôi nhẫn nhục, sống nhục, thì tôi từ ông. Chẳng bạn, chẳng bè với ông nữa. Người bạn nói : - Ông và tôi là bạn bè thâm giao, thấy ông tự đi vào con đường chết, tôi đến khuyên ông, tìm đường sống cho ông. Thế mà ông còn mắng mỏ, từ tôi, là thế nào ? Tô Thức nói : - Bạn bè mình là những người quân tử. Ông lại khuyên tôi sống như một kẻ tiểu nhân. Tôi không giận ông sao được ? Người bạn cười nói : - Người quân tử nhẫn nhục, cầu sống, còn sống thì còn lo cho được thiên hạ. Chỉ có kẻ tiểu nhân, không chịu được nhục, mới tìm con đường chết. Hành vi của ông không phải hành vi của người quân tử ! Thế mà ông tự nhận ông là người quân tử. Thực là tức cười ! Tô Thức nghe xong, tỉnh ngộ, đứng dậy tạ lỗi, nói : - Đúng ! Tôi đã quá sai lầm. Mấy hôm sau, Tô Thức tự nhận hết mọi tội lỗi về việc chống đối biến pháp. Viên quan phiên trấn rất ngạc nhiên trước sự thay đổi của Tô Thức, lại kính phục văn tài, nên tâu trình lên nhà vua, xin được miễn tội chết cho Tô Thức. LẠM BÀN 1. C âu cách ngôn, một khiếu thông thì trăm khiếu thông, ảnh hưởng Trung y. Ám chỉ hiểu ngầm được ý của người khác, sự biến thông, là ngộ tính, sự tỉnh ngộ, giác ngộ. 2. Tôn Ngộ Không hiểu ngầm được ý thầy, ngộ tính nên được thầy truyền dạy 72 hai phép thần thông. Tô Thức tỉnh ngộ, biến thông về mục đích và lẽ sống chết nên bỏ tính quật cường, tìm ra con đường sống. 13. LÀM NHƠ NHỚP DANH DỰ, HỦY HỌAI ĐẠO ĐỨC NGƯỜI TA, KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI NHÌN XA (THỤ ĐIÊU NÓI XẤU QUẢN TRỌNG) Hồi 64 Núi Kim Cúc, Ngộ Không gắng sức Am Mộc tiên, Tam Tạng làm thơ Tam T ạng bị mấy cây lâu đời hóa thành yêu tinh bắt về Am Mộc tiên làm thơ xướng họa. Trong đó có một người con gái, tên là Hạnh Tiên, ngâm thơ xong, dần dà ra vẻ yêu mến, xê xê nhích nhích đến gần Tam Tạng thì thầm : - Giai khách chớ bỏ hòai, đêm đẹp thế này, không chơi Xuân còn định chơi gì ? Cảnh vui của đời người có được là bao ! Thập Bát Công nói : - Hạnh Tiên đã hết tâm tình ngửa trông lên, Thánh tăng sao lại không để ý xuống dưới, nếu không yêu đương là người không biết thú ở đời. Cô Trực Công cũng nói vào : - Thánh tăng là một văn sĩ, có đạo danh, quyêt không làm việc cẩu thả, cắt đặt thế vật, chúng ta có lỗi cả rồi. Làm nhơ nhớp danh dự người ta, hủy họai đạo đức người ta, không phải là người nhìn xa. Nếu Hạnh Tiên quả muốn như vậy, nên để Phất Vân Tẩu cùng Thập Bát Công làm mối, tôi và Lăng Không Tử làm gia trưởng, thành gia thất chẳng tốt ư ? Tam Tạng nghe nói, biến sắc, đứng dậy la to. * Th ụ Điêu, người nước Tề, thời Xuân Thu, thuở nhỏ nhà nghèo, được tiến cung hầu hạ Tề Hòan Công. Thụ Điêu thông minh, lanh lợi, được Tề Hòan công yêu mến. Lúc bấy giờ, Tề Hòan Công tin dùng Quản Trọng, tôn Quản Trọng làm trọng phụ, ông giao hết việc nước cho Quản Trọng, còn ông mặc sức vui chơi. Thụ Điêu thấy Tề Hòan Công tin dùng Quản Trọng, thì ghét Quản Trọng lắm. Sau khi Quản Trọng làm cho nước Tề mạnh lên, giàu có, làm bá chủ các nước chư hầu, Tề Hòan Công lại càng biệt đãi Quản Trọng, khiến cho Thụ Điêu càng ngày càng ghét Quản Trọng nhưng chưa tìm ra cách nào hại được Quản Trọng. Một hôm, có người vào tâu trình việc nước, Tề Hòan Công nói với người ấy : - Ông cứ đi bẩm bảo với trọng phụ, tâu trình với ta để làm gì ? Người ấy, tuân mệnh lui ra. Th ụ Điêu tâu : - Bệ hạ làm vua một nước, bá chủ chư hầu, thực tế chư hầu và dân trong nước chỉ biết đến trọng phụ, không biết đến bệ hạ. Bề tôi thấy lo lắm ! Tề Hòan Công nói : - Mi không biết đó thôi, ta với trọng phụ như tay chân, có đủ cả tay chân thì thân thể mới hòan hảo. Nhờ có trọng phụ ta mới làm vua, làm bá chủ. Mi đừng nói nhiều lời. Bị quở, Thụ Điêu sợ hãi, vái lạy nhưng trong lòng rất hậm hực. Hôm khác, Tề Hòan Công cưỡi ngựa đi săn, mãi mê đuổi theo con mồi, đến gần một cái đầm, bỗng nhiên thấy một con quái vật nhìn trừng trừng. Tề Hòang Công sợ hãi, hỏang hốt. Thụ Điêu đuổi theo, thấy vậy, liền hỏi : - Đại vương thấy gì mà hỏang hốt thế ? Tề Hòan Công hòan hồn đáp : - Ta thấy một con quái vật, nó trợn hai mắt nhìn ta trừng trừng, trông rất đáng sợ. Không biết là điềm lành hay là điềm gỡ ? Về đến cung, Tề Hòan Công sai Thụ Điêu đến mời Quản Trọng vào để hỏi lai lịch quái vật. Thụ Điêu tâu : - Tâu bệ hạ, Quản Trọng đâu phải là thánh nhân, mà cái gì cũng biết. Huống hồ, ông ta có thấy quái vật đâu, mà hỏi cho mất công. Tề Hòan Công nói : - Lúc trước, trên đường hành quân ta cũng thầy một con quái vật. Ta hỏi trọng phụ. Trọng phụ nói đó là con Du Nhi. Thụ Điêu nói : - Trên đời, không ai biết con vật ấy, hình dáng nó ra sao, tên gì ? Quản Trọng miêu tả lờ mờ, nói đó là con Du Nhi, tất người ta sẽ tin. Nói nhăng, nói cuội, thì ai nói chẳng được. Ông ta lừa gạt bệ hạ đó thôi. Chỉ có thánh mới biết nó là con gì ? Tề Hòan Công nghe Thụ Điêu nói có lí nên không sai mời Quản Trọng nữa. Nửa đêm, Tề Hòan Công thấy tim đập hồi hộp, phát bệnh, người lúc lạnh, lúc nóng, lập tức sai người đi mời Quản Trọng. Quản Trọng đến, Tề Hòan Công kể lại chuyện đi săn và chuyện thấy con quái vật, rồi hỏi là con gì ? Quản Trọng thưa, để ông ta tìm hiểu, rồi sáng mai sẽ trả lời. Sáng sớm hôm sau, không thấy Quản Trọng đến, Thụ Điêu cười, tâu : - Thần biết ngay mà ! Không ta không biết, trốn biệt, không dám đến. Một lúc sau, hòang tử đến, kể là Quản Trọng bảo hòang tử đi hỏi mấy người nông dân về lai lịch con vật. Mấy người nông dân nói : Ở trên sông nước, núi, đồi đều có quái vật. Riêng ở đầm, có con quỷ tên Ủy xà. Chỉ có người có chân mạng vương, bá mới thấy được con vật này. Nghe hòang tử kể xong, Tề Cảnh Công vui vẻ, nhẹ người và khỏi bệnh. Thụ Điêu thấy không dèm được Quản Trọng, tiu nghĩu. Sau khi, Tề Hòan Công mất, Thụ Điêu âm mưu đưa công tử Ngụy lên làm vua. Công tử Chiêu được Tống Nhương vương giúp, đem quân về nước Tề giành lại ngai vàng, rồi giết chết Thụ Điêu. LẠM BÀN 1. Có lần Tề Hòan Công nói với Quản Trọng : - Ta có tật ham gái đẹp. Quản Trọng nói : - Ham gái đẹp cũng không hại đến việc nước. Tề Hòan công hỏi : - Thế cái gì mới tổn hại việc nước ? Quản Trọng đáp : - Làm việc lớn mà để bọn tiểu nhân chen vào. 2. Lúc Quản Trọng còn sống, biết Tề Hòan công tin dùng bọn tiểu nhân như Dịch Nha, Thụ Điêu và Điền Khai Phương. Lúc hấp hối, Quản Trọng khuyên Tề Hòan công nên đuổi bọn này đi. Tề Hòan công hỏi : - Sao trước đây, ông không nói tôi đuổi bọn chúng ? Quản Trọng đáp : - Tôi sống như cái đê để chặn bọn tiểu nhân, gian tà. Tôi chết, như cái đê vỡ, bọn chúng như nước sẽ tràn vào, phương hại đến quốc gia. 3. Từ vua chúa đến quan lớn ai cũng thích người ta tâng bốc, nịnh nọt, lâu dần thành nghiện, không có kẻ tâng bốc, nịnh nọt thì thấy nhớ, thấy thèm. Quản Trọng chết, Tề Hòan công đuổi Dịch Nha, Khai Phương và Thụ Điêu. Nhưng sau đó, lại nhớ bọn chúng, ăn không ngon, ngủ không yên, thân thể hao gầy, liền phải gọi chúng về. Cuối cùng, Tề Hòan công chết dưới tay Dịch Nha, Khai Phương và Thụ Điêu. Đươ ng thời, Tề Hòan công là bá chủ, không chết trong trận mạc, mà chết dưới tay bọn nịnh nọt. Tề Hòan công chết, nước Tề đại lọan. 4. Vẫn biết theo câu chuyện, kết cục của bọn tiểu nhân là không ra gì ? Nhưng không thể không sáng suốt, phòng tránh nghiện ninh nọt bợ đỡ. 14. BỎ ĐIỀU XẤU LÀM VIỆC LÀNH SÁI (NGƯNG VÀ LÝ NGUYÊN LƯỢNG) Hồi 100 Về thẳng phươngĐông Năm thánh thành Phật Tám vị Đại kim cương dẫn bốn thầy trò Đường Tăng và cả con ngựa cưỡi gió về Linh Sơn về ra mắt Như Lai. Như Lai nói : - Thánh tăng, kiếp trước con nguyên là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi là Kim Thuyền Tử, chỉ vì con không nghe thuyết pháp, khinh nhờn đạo giáo của ta, nên ta đuổi linh hồn con đi thác sinh sang Đông Thổ. Nay m ừng con đã quy y, giữ đạo nhà chùa, theo giáo lí của ta đi lấy chân kinh, có nhiều công quả, vậy gia thăng chính quả chức to, phong làm Chiên Đàn Công Đức Phật. Tôn Ngộ Không con vì đại náo Thiên cung, ta đem pháp lực sâu xa ép con ở dưới chân núi Ngũ Hành, may mà tai trời đã hết, đi theo đạo Thích, rất mừng con biết bỏ điều xấu làm việc lành , trên đường phục ma hàng quái, gia thăng chức to chánh quả phong làm Đấu Thắng Chiến Phật. Tr ư Ngộ Năng, con xưa là thủy thần sông Thiên hà, chức Tiên bồng nguyên soái, vì con say rượu trêu ghẹo tiên nga ở chốn Bàn Đào nên phải đầu thai xuống hạ giới làm thân súc vật, tạo ra yêu nghiệt ở núi Phúc Lăng, động Vân Sạn, may mà ưa theo đạo lớn, vào cửa Sa Môn, bảo hộ thánh tăng đi đường, vì long tham chưa dứt, tình sắc vẫn còn nhưng biết gắng công quay gành, gia thăng lean chức chính quả, là Tịnh Đàn sứ giả. Bát Giới nói lẩm bẩm : - Bọn họ đều thành Phật cả, sao chỉ cho tôi là, Tịnh Đàn sứ giả ? Nh ư Lai nói : - Vì con người khỏe, tính lười, dạ dày to. Khắp cả bốn bộ châu lớn trong thiên hạ tôn kính đạo ta rất nhiều, phàm công việc Phật cho con đi khám đàn cũng là phẩm cấp có ăn uống, sao lại không tốt ? Sa Ng ộ Tĩnh, vốn xưa là Quyển Liêm tướng quân chỉ vì đánh vỡ chén lưu li trên hội Bàn Đào phải xuống hạ giới, đày ở long sông Lưu Sa, tạo ra yêu nghiệt, giết người ăn thịt, may theo đạo ta, thành kính tu hành, giữ thân, bảo hộ Đường Tăng, dắt ngựa trèo núi có công, gia thăng chính quả chức to, làm La Hán mình vàng. Lại nói đến ngựa bạch : - Con vốn là con trai Tây Dương đại hải Long vương là Quãng Tấn, vì con làm trái mệnh cha, phạm vào tội bất hiếu, may biết quy thân, quy pháp theo Sa môn ta, hằng ngày nhờ con đèo cõng thánh tăng về Đông, con cũng là kẻ có công, gia thăng lên chức chính quả, làm Bát Bộ Thiên Long. Bốn thầy trò trưởng lão, đều cúi đầu tạ ơn. Con ngựa cũng tạ ơn. * Thời Bắc Tống, đời vua Huy Tông, có một người tên là Sái Ngưng dạy học ở Thái học. Trong s ố học sinh, có một người tên Lí Nguyên Lượng, cháu của quan Thượng thư đương triều. Nguyên Lượng ỷ mình tài giỏi, lại cậy thế thân thích với quan lớn, sinh ra kiêu ngạo, xem ai chẳng ra gì, có lần vô lễ với thầy giáo Sái Ngưng. Những người cùng học bất mãn lắm. Có người thưa với Sái Ngưng : - L ý Nguyên Lượng thật là vô lễ, xem thầy và bạn học không ai ra gì. Thầy nên hỏi tội anh ta mới được. Sái Ngưng nghe xong, chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Lúc học xong ai nấy đều được bổ đi làm quan, riêng Nguyên Lượng không được bổ nhiệm phải trở về quê. Năm thứ hai thời Huy Tông, Sái Ngưng được triều đình trọng dụng, làm quan đến Tổng sự trung. Sau đó, cho đi làm quan ở Hòa Châu. Lúc đến Hòa Châu, Sái Ngưng dặn quân hầu và binh lính : - Ph àm sĩ đại phu, các quan chức cao hay thấp, các người cao quý hay thấp hèn, giàu hay nghèo, muốn vào gặp ta thì phải bẩm báo ngay và tiếp đãi họ đàng hòang. Mùa Đông năm ấy, Lý Nguyên Lượng lần nữa lại về Thái học để xin học và đi ngang qua Hòa Châu nghỉ lại. Sái Ngưng biết được, liền cho người sửa sọan xe ngựa, đích thân đến quán trọ để gặp Lý Nguyên Lượng. Lý Nguyên Lượng thấy Sái Ngưng đến, chạy vội ra cửa đón, vừa vui mừng, vừa cảm kích, thưa : - Học sinh định ngày mai, đem chút lễ vật ra mắt, thăm hỏi tiên sinh. Không ngờ, tiên sinh lại đến thăm học sinh, khiến cho học sinh rất cảm kích, hồi hộp. Sái Ngưng thấy tính tính Lý Nguyên Lượng thay đổi, lễ phép, khiêm tốn nên rất vui. Hai ng ười nói chuyện hàn huyên xong, Sái Ngưng chia tay ra về. Sáng hôm sau, Lý Nguyên Lượng sắm sanh ít lễ vật, đến ra mắt Sái Ngưng. Sái Ngưng cũng vội ra đón khách và sai người mở tiệc khỏan đãi Lý Nguyên Lượng. Hai người nói chuyện râm ran, xướng họa thơ văn, rất tương đắc : Nhân nhàn tri thi vịnh Hoa lạc kiến Xuân thâm Triêu vũ vị hưu mộ vũ Li ệp hàn tài ngộ hựu Xuân hàn Mãi đến chiều, Lý Nguyên Lượng mới cáo từ. Sái Ngưng biếu Lý Nguyên Lượng một ít ngân lượng, nói là dùng làm lộ phí và viết một lá thư tiến cử Lý Nguyên Lượng với bạn bè ở trong triều. Sau này, Lý Nguyên Lượng được bổ làm quan. LẠM BÀN 1. Người ta thường nói, viên ngọc đẹp vẫn có tì vết, con người không ai hòan tòan. Lại có câu, nước trong thì không có cá, người cầu tòan sẽ ít bạn. 2. Cái quý của Sái Ngưng là thấy được ưu điểm, bỏ qua những khuyết điểm của Lý Nguyên Lượng, giúp Lý Nguyên Lượng thành người hữu dụng. 3. Kh ông nói xấu những sở đỏan của người, nói tốt những sở trường của người, gọi là ẩn ác, giương thiện, là một đức tính. 15. QUÊN ƠN CHẲNG PHẢI NGƯỜI QUÂN TỬ ( DỰ NHƯỢNG TRẢ THÙ CHO TRÍ BÁ) Hồi 27 Th ây ma ba lượt trêu Tam Tạng Đườ ng Tăng giận đuổi Mĩ Hầu vương Thấy Hành Giả đánh chết người con gái mang cơm, lại nghe lời xúc xiễm của Trư Bát Giới, Đường Tăng nỗi giận đuổi Hành Giả. Hành Giả nói : - Thưa sư phụ, con đi thì được thôi, chỉ hiềm vì chưa báo đền được công ơn sư phụ. Đườ ng Tăng nói : - Ta đâu có ơn nghĩa quái gì với mi ? Hành Giả quỳ xuống khấu đầu nói : - Lão Tôn này nhân vì đại náo thiên cung, tự gây nên tội hại mình, bị Như Lai Phật tổ giam cầm ở Lưỡng Giới Sơn, nhờ được Quan Aâm Bồ Tát cho đệ tử thụ giới hạnh, lại nhờ sư phụ cứu thóat ra, nếu không cùng sang Tây Thiên với người thì tránh sao khỏi câu : Quên ơn chẳng phải người quân tử Muôn kiếp nghìn đời để tiếng chê ! Đường Tăng thấy vậy liền nói : - Đã nói vậy, ta tha cho ngươi một lần, không được vô lễ nữa. * Dự Nhượng, người nước Tấn, đã từng thờ họ Phạm và họ Trung Hành nhưng chẳng ai biết tiếng. Bỏ về thờ Trí Bá, Trí Bá rất kính yêu. Đến khi Trí Bá đánh Triệu Tương Tử, thì Triệu Tương Tử cùng với hai nước Hàn và Ngụy hợp mưu diệt Trí Bá, chia đất đai Trí Bá ra làm ba. Triệu Tương Tử vốn rất óan Trí Bá, cho sơn xương sọ của ông, dùng làm tô đựng rượu. Dự Nhượng trốn vào trong núi, nói : - Hỡi ơi ! Kẻ sĩ vì tri kỉ mà hy sinh, người đẹp vì tình lang mà trang điểm. Trí Bá là tri kỉ của ta, ta tất phải hy sinh mà báo thù để tạ lòng tri kỉ, thì hồn phách ta mới không hổ thẹn. Rồi Dự Nhượng đổi họ, đổi tên, giả làm tù nhân vào cung sửa nhà xí, dắt sẵn cây chủy thủ, cốt để giết Tương Tử. Tương Tử đi tiêu, chột dạ, bắt hỏi tên tù sửa nhà xí, thì ra Dự Nhượng, khám trong người thấy có giắt khi giới. Dự Nhượng khai : - Muốn vì Trí Bá báo thù. Quân tả hữu của Tương Tử muốn giết. Tương Tử nói : - Hắn là người có nghĩa khí, ta nên coi chừng để tránh hắn thôi. Vả lại, Trí Bá chết đi mà không có con, hắn làm bề tôi muốn báo thù cho chúa, hắn là người hiền trong thiên hạ. Nói rồi, thả cho Dự Nhượng đi. Ít lâu sau, Dự Nhượng bôi sơn vào mình, cho sưng lóet như người bị hủi, nuốt than cho mất tiếng, để khỏi cho ai nhận ra mình. Dự Nhượng làm ăn mày giữa chợ, vợ cũng không nhận ra; gặp bạn, bạn nhận được hỏi : - Anh có phải là Dự Nhượng không ? Dự Nhượng đáp : - Đúng ! Người bạn khóc, nói : - Có tài như anh, kiếm cách mua chuộc về thờ Tương Tử, tất được Tương Tử yêu mến. Được yêu mến, gần gũi, bấy giờ thực hành ý muốn thì khó gì ? Việc gì mà phải hủy họai thân thể, mong trả thù Tương Tử, chẳng phải là khó lắm sao ? Dự Nhượng nói : - Đã đem thân về thờ người ta, mà lại chực giết người ta, như thế thờ chủ mà hai lòng. Công việc tôi mưu đây, quả là khó nhưng phải làm vậy là để cho thiên hạ đời sau kẻ nào làm tôi mà thờ chủ không một lòng, một dạ, lấy đó là, thẹn. Dự Nhượng bỏ đi được một lát, thì Tương Tử tới. Dự Nhượng phục dưới cây cầu, nơi Tương Tử qua. Tương Tử tới cầu, thì con ngựa hỏang sợ. Tương Tử nói : - Chắc là Dự Nhượng ! Sai người xem, thì đúng là Dự Nhượng. Tương Tử trách : - Nhà ngươi đã từng thờ họ Phạm, họ Trung Hàng. Tr í Bá diệt hết bọn họ sao nhà ngươi không báo thù, lại còn đem thân làm tôi cho Trí Bá ? Tr í Bá cũng đi đời rồi, sao nhà ngươi nặng lòng với Trí Bá làm vậy ? Dự Nhượng đáp : - Tôi thờ họ Phạm, họ Trung Hàng, họ coi tôi như người thừơng, tôi cũng báo đáp lại như người thường. Còn Trí Bá đãi tôi như một trang quốc sĩ, nên tôi cũng phải lấy tư cách của một trang quốc sĩ mà báo đáp ông ta. Tương Tử thở dài, ứa nước mắt, nói : - Chao ôi ! Ông Dự ! Ông vì Trí Bá mà báo thù, cái danh ấy đã thành rồi. Quả nhân tha thứ cho ông cũng đã đủ rồi ! Ông suy nghĩ đi, quả nhân không thả cho ông đi nữa đâu. Nói rồi sai linh bũa vây bắt Dự Nhượng. Dự Nhượng nói : - Tôi nghe nói, đấng minh quân không che bít cái hay của người ta, kẻ trung thần vì nghĩa mà hi sinh. Lần trước, nhà vua đã rộng lượng tha cho tôi, thiên hạ đều khen nhà vua là người hiền. Hôm nay, tôi biết thế nào cũng bị giết, nhưng tôi xin nhà vua cái áo, cho tôi đâm vào đó để tỏ bày cái chí báo thù. Dù có chết tôi cũng không ân hận. Tôi biết chưa chắc được nhà vua chấp nhận nhưng đó là ý nguyện của tôi. Tương Tử cảm động vì những lời nghĩa khí, sai sứ đưa áo cho Dự Nhượng. Dự Nhượng tuốt gươm, nhẩy đâm vào cái áo ba lần. Rồi kề gươm vào cổ tự vẫn. Hôm Dự Nhượng chết, các chí sĩ nước Triệu đều rơi lệ. LẠM BÀN 1. Người Trung Quốc có câu : Nhận người một chén nước, phải báo ơn người bằng một dòng suối trong. 2. Sở dĩ, Dự Nhượng hết lòng báo thù cho Trí Bá, vì Trí Bá trọng dụng, kính yêu Dự Nhượng. Nếu Trí Bá chỉ xem Dự Nhượng như bọn tay chân, tôi tớ tầm thường thì Dự Nhượng đã không quyết tâm báo thù cho Trí Bá. 16 . TÌM LÀNH, LÁNH DỮ (BÀI THƠ CUỐI CÙNG CỦA DƯƠNG TỐ) Hồi 37 Vua quỷ vương đang đêm cầu trưởng lão Ngộ Không hóa phép dẫn hài nhi Thầy trò Đường Tăng đến nước Ô kê, Hành Giả biết vua Ô Kê là yêu quái cướp ngôi vua, bèn mớm cho Đường Tăng nói khích thái tử là thù cha không trả và nói Hành Giả lập đế hóa) là người biết được việc trăm năm về trước, trăm năm hiện tại và trăm năm về sau … Th ái tử hỏi Hành Giả : - Lập đế hóa, vị hòa thượng đây nói nhà ngươi có thể biết được việc lành dữ quá khứ, vị lai. Vậy thì nhà ngươi có phép bói rùa, có phép bói cỏ thi, theo lời day trong sách đóan họa phúc cho người ta phải không ? Hành Giả nói : - Không dùng những cái đó một li nào, chỉ dùng ba tấc lưỡi mà đóan mọi việc đều trúng. Thái tử nói : - Tên loắt chắt này thật là nhảm nhí. Từ xưa tới nay, bộ sách Chu Dịch rất huyền diệu, đóan hết việc lành, việc dữ trong thiên hạ, để cho người ta biết đường mà theo, mà tránh, cho nên mới có phép bói rùa và cỏ thi. Cứ như ngươi nói, thì bằng cứ vào đâu ? Quàng xiên họa phúc, mê hoặc lòng người. * Dương Tố tự Ngọai Đạo, người có chí lớn, không câu nệ những chuyện nhỏ nhặt. Có một người tên là Dương Khoan bình rằng : Ngọai Đạo Dương Tố) có tài năng phi thường, siêu quần bạt tụy. Thời Chu Vũ đế Bắc Chu), Dương Tố được phong chức Xa kị đại tướng quân, Nghị đồng tam tư. Có lần, Vũ đế thấy Dương Tố sọan thảo chiếu thư, khen rằng : - Người tài năng như ông, lo gì không giàu sang, phú quý ! Vũ đế ban cho Dương Tố một cây gậy, sai làm tiên phong bình định Bắc Tề. Sau khi b ình định xong Bắc Tề, Dương Tố được Vũ đế khen thưởng và phong chức tước. Bấy giờ, thừa tướng nhà Bắc Chu là Dương Kiên. Mối quan giữa Dương Kiên và Dương Tố rất thân tình. Sau khi Dương Kiên, truất phế vua Bắc Chu là Vũ Văn Siển, tự xưng làm vua, thành lập vương triều nhà Tùy, Dương Kiên phong Dương Tố làm Thượng trụ quốc, rồi phong Ngự sử đại phu. Dương Kiên sai Dương Tố và Lưu Nhân bình định nước Trần. Sau khi dẹp yên nước Trần, Dương Tố được phong làm Việt quốc công, sau còn được phong Nội sử lệnh. Dương Tố tinh thông thao lược, trị quân rất nghiêm, thưởng phạt rõ ràng, dù một tội nhỏ cũng không tha, một công nhỏ cũng không quên thưởng. Qu ân sĩ rất sợ hãi nhưng cũng rất kính phục. Dương Tố có công bình định các cuộc phản lọan, lập được nhiều chiến công hiển hách, nên được Tùy Văn đế Dương Kiên rất sủng ái và tin dùng. Vì vậy, anh em bà con họ hàng của Dương Tố, không có công lao cũng được phong chức tước. Nh à cửa Dương Tố nguy nga lộng lẫy không khác gì hòang cung; thê thiếp lượn lờ; kẻ hầu người hạ đầy nhà; khách khứa ra vào nườm nượp. Ở chốn triều đình, Dương Tố nắm quyền lớn, sinh độc đóan chuyên quyền. Ai nịnh bợ tuân theo, dù không có tài năng cũng được trọng dụng, sống yên ổn, bỗng cao, lộc hậu. Ai chống đối, Dương Tố âm mưu ám hại, quyết không tha, làm cho đày đọa ngóc đầu chẳng lên. Con rễ của Tùy Văn đế thấy vậy, chịu không nổi, mật tâu với nhà vua : - Dương Tố cậy có nhiều công lao, nắm quyền lớn, xem bệ hạ và quần thần chẳng ra gì, lại còn kết bè, lập đảng, khiến cho hạ thần không khỏi lo lắng ! Tùy Văn đế nghe tâu sinh nghi ngờ Dương Tố, muốn dùng Chiêu Dụ để tước bớt quyền lực của Dương Tố, cho gọi Chiêu Dụ vào, nói bóng gió rằng : - Ông là Phụ chính đại thần, phải tham dự vào việc quốc gia đại sự và có ý kiến, không phải việc gì cũng vâng vâng dạ. Chiêu Dụ vâng dạ, lui ra. Khi Tùy Văn đế mất, Dương Tố có công lập Dương Quảng lên ngôi, lại gặp lúc Dương Kinh làm phản. Dương Tố lại được Dương Quảng sai đi đánh dẹp Dương Kinh. Quân Dương Tố giao chiến với quân Dương Kinh. Dương Kinh núng thế, phải đầu hàng. Mặc dù, Dương Tố có công lập Dương Quảng lên ngôi, đánh dẹp Dương Kinh nhưng Dương Quảng vẫn nghi ngờ. Ngòai mặt, Dương Quảng trọng đãi nhưng trong lòng muốn lọai bỏ Dương Tố để trừ hậu họan. Dương Quảng lấy cớ đất Sở là đất tốt, trọng địa, phong cho Dương Tố, rồi bảo Dương Tố nên về ở đất đã phong. Dương Tố phải nghe theo, biết là mình đã bị lọai ra khỏi vũ đài chính trị. Về đất Sở, không bao lâu Dương Tố lâm bệnh. Người nhà lo thuốc thang, Dương Tố không uống thuốc, nói với em là Dương Ước rằng : - Ta không sống được bao lâu nữa, thuốc thang cũng vô ích ! Mấy ngày sau, Dương Tố chết. Tr ước khi chết, Dương Tố có làm một bài thơ. Từ Đạo Hành đọc bài thơ, cảm khái nói rằng : Con người ta sắp chết, mới nói được những lời lương thiện ! LẠM BÀN 1. Khi ở đỉnh cao của quyền lực, người không nghĩ đến những việc đáng làm và những việc không nên làm, cứ gieo gió, quên việc sẽ gặp bão. 2. Lúc mất quyền, mất chức mới hối hận, thì đã quá muộn màng. 17 . THỈNH TƯỚNG KHÔNG BẰNG KHÍCH TƯỚNG (TÔ TẦN KHÍCH TRƯƠNG NGHI) Hồi 31 Bát Giới lấy nghĩa khích Hành Giả Ngộ Không dùng trí phục ma vương Tang Tạng, Sa Tăng, Tiểu Long đi ngang rừng Hắc Tung, nước Bảo Tượng bị yêu quái bắt sạch, Bát Giới phải đến Hoa Quả sơn cầu cứu Hành Giả. Sau khi nghe Bát Giới kể chuyện, Hành Giả nói : - Sao chú ngốc thế ? Khi bước chân ra đi, tôi đã dặn đi dặn lại : Nếu có yêu ma bắt sư phụ, chú bảo cho nó biết Lão Tôn là đại đồ đệ của người. Cớ sao không nói tên tôi ra ? Bát Giới ngẫm nghĩ : Thỉnh tướng không bằng khích tướng, để nói khích y một câu. Li ền nói : - Thưa anh ! Giá cứ không nói đến tên anh thì lại càng tốt, chỉ vì nhắc đến tên anh thì hắn lại càng làm già. Hành Giả nói : - Hắn nói thế nào ? Bát Giới nói : - Tôi bảo nó : Yêu tinh kia, mi chớ có vô lễ, chớ làm hại sư phụ ta ! Ta còn một đại sư huynh nữa, tên gọi là Tôn Hành Giả, thần thông quảng đại, bắt yêu quái rất nghề, người mà tới đây, mi chết không có chỗ chôn. Yêu quái nghe nói thế, lại càng tức tối, quát mắng : Tôn Hành Giả là cái quái gì ? Ta không sợ. Nó đến đây, ta sẽ lột da nó, rút lấy gân, vạc lấy xương, ăn hết tim gan ! Có tha giống khỉ còm thì cũng lạng lấy thịt ướp muối, rán ăn. Hành Giả nghe nói, tức tối nhảy phắt lên nói : - Đứa nào dám mắng tôi như thế ? Bát Giới nói : - Xin anh hãy nguôi giận, yêu quái Hòang Bào nó mắng anh như vậy, tôi chỉ thuật lại lời nó cho anh nghe đấy thôi ! Hành Giả nói : - Hiền đệ, chú hãy đứng dậy, tôi mà không đi thì không xong, lẽ nào nó chửi tôi mà tôi không đi bắt nó ! Tôi sẽ đi với chú. * Trương Nghi, người nước Ngụy, trước đã cùng với Tô Tần theo học Quỷ Cốc tiên sinh. Tô Tần tự lượng tài mình không bằng Trương Nghi. Học xong, Trương Nghi đi thuyết chư hầu. Có lần, Nghi uống rượu với tướng quốc nước Sở, về sau tướng quốc nước Sở mất viên ngọc bích, bọn môn hạ ngờ Trương Nghi, chúng nói : - Nghi nghèo và vô hạnh, đúng hắn đã lấy trộm viên ngọc của quan tướng quốc, chứ còn ai vào đấy ? Rồi họ xúm lại bắt giữ Trương Nghi, đánh cho mấy trăm roi. Trương Nghi không nhận tội. Được tha về, vợ nhiếc : - Hừ ! Không đọc sách, không đi du thuyết thì đâu có cái nhục này ! Trương Nghi hỏi vợ : - Hãy coi thử lưỡi ta còn hay không ? Vợ cười, đáp : - Còn đấy ! Trương Nghi nói : - Thế là đủ ! Lại nói về Tô Tần, lúc ấy đã thuyết phục được vua Triệi và sáu nước Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy) liên kết thành một khối hợp tung. Nhưng sợ Tần đánh các nước này, dùng võ lực uy hiếp làm hỏng tung ước. Tô Tần muốn đặt một người cạnh vua Tần, nhưng thấy không ai làm nổi việc này, bèn cho người mớm ý với Trương Nghi. - Xưa ông thân với Tô Tần lắm. Hiện Tô Tần đã có địa vị, nắm quyền bính trong tay, sao ông không đến nhờ ông ấy giúp đỡ, kiếm đường cho ông thực hiện ý nguyện ? Trương Nghi bèn sang Triệu, dâng thư xin được yết kiến Tô Tần. Tô Tần dặn người canh cửa không cho Trương Nghi vào cũng không để cho Trương Nghi đi, bắt chờ đợi mấy ngày rồi mới tiếp. Lúc tiếp, còn cho ngồi dưới thềm, cho ăn như lũ con đòi đầy tớ. Lại còn châm chọc, lớn lối : - Tài năng như anh mà chịu khổ nước ấy ! Tôi có thể giúp anh giàu sang nhưng xét ra anh là người tôi không đáng giúp ! Rồi thóai thác mặc cho Trương Nghi ra đi. Trương Nghi đến thăm Tô Tần, trong lòng chắc mẩn là bạn bè, thế nào Tô Tần cũng giúp đỡ mình. Ai dè chỉ thấy mang nhục vào thân ! Nghi ngh ĩ, chư hầu chẳng có nước nào thờ được, chỉ trừ nước Tần mới có thể làm cho nước Triệu khốn đốn mà thôi. Trương nghi bèn đến nước Tần. Tô Tần làm nhục Trương nghi rồi, nói với viên xá nhân của mình : - Trương Nghi là bậc hiền sĩ trong thiên hạ, ta có chỗ không bằng ông ấy. Ta được đắc dụng trước, chẳng qua là nhờ may mắn. Người có thể cầm quyền ở nước Tần thì chỉ có Trương Nghi. Có điều là ông ta nghèo quá, không có tiền lo lót chạy chọt để vào gặp vua Tần. Vậy, ông ngầm thay ta giúp ông ấy. Rồi Tô Tần vào tâu với vua Triệu, xin xuất vàng lụa, ngựa xe và cho người ngầm đi theo Trương Nghi, trọ cùng với Trương Nghi một quán. Người này lân la làm quen, rồi giúp Trương Nghi mọi thứ. Nhờ vậy, Trương Nghi được yết kiến Tần Huệ vương. Hu ệ vương dùng Trương Nghi làm khách khanh cùng Trương nghi bàn định đánh các nước chư hầu. Bấy giờ, viên xá nhân của Tô Tần, xin vào cáo biệt Trương Nghi. Nghi nói : - Nhờ ông tôi mới được hiển đạt. Tôi sắp sửa đền ơn ông, sao ông lại bỏ đi ? Người ấy nói : - Tôi không biết ông, người biết ông là ngài Tô. Ngài Tô sợ Tần đánh Triệu làm hỏng kế họach hợp tung, và cho rằng ngòai ông ra, thì khôgn ai nắm nổi quyền hành của nước Tần. Cho nên, mới chọc tức ông, rồi sai tôi ngầm giúp ông tiền bạc. Tất cả đều theo kế họach của ngài Tô. Nay, ông đã được đắc dụng, tôi xin được về báo tin để ngài Tô hay. Trương Nghi nói : - Trời ơi ! Thì ra tôi trúng kế Tô Tần. Rõ ràng tôi không bằng Tô Tần. Vả lại, tôi mới cầm quyền, làm sao tính chuyện đánh Triệu cho được ? Ông hãy cảm ơn ngài Tô dùm tôi. Ngài Tô còn sống ngày nào thì tôi không dám nói năng điều gì. Vả chăng, còn ngài Tô còn thì Nghi này có tài chi ? Tr ương Nghi được phong tướng ở Tần rồi, liền gởi hịch cho vua Sở : Ngày trước ta không hề lấy ngọc bích của mi, vậy mà mi đã đánh ta. Lo mà giữ cho kĩ, kẻo ta sẽ lấy thành trì của mi đó ! LẠM BÀN 1. Tôn Ngộ Không vốn có tính tự cao tự đại, đã tự xưng là Tề Thiên đại thánh, tự xưng là Lão tôn, nay nghe Bát Giới dùng chiêu kích tướng, thì tức khí, nổi giận và muốn đánh Hòang Bào để báo thù. Tương tự, Trương Nghi bị coi thường, ngược đãi phải tìm cách báo thù. Đó là thuật kích tướng. 2. Trong Tam quốc chí, Gia Cát Lượng nhiều lần kích Chu Du, Tôn Quyền để liên minh đánh Tào Tháo. Chu Du không chịu nỗi chiêu chọc tức của Gia Cát Lượng phải hộc máu mà chết. 18 . MỀM MỎNG KHẮP NƠI ĐẾN ĐƯỢC, CƯƠNG CƯỜNG NỬA BƯỚC CŨNG KHÔNG RỜI (THÂN ĐỒ GIA – NGAY THẲNG NHƯNG VÔ MƯU) Hồi 81 Gái trẻ gạ trai chay Nguyên thần giữ đạo lớn Bát Giới đi xuống tìm thầy, bị yêu tinh đánh cho bươu đầu, vội chạy vọt lên núi nói với Hành Giả : - Anh ạ ! Trở về thôi, yêu quái hung tợn lắm ! Hành Giả hỏi : - Hung tợn thế nào ? Bát Giới nói : - Trong hốc núi có hai đứa nữ quái đi kín nước giếng, tôi mới gọi một tiếng, đã bị chúng nện cho ba bốn cái đòn gánh. Hành Giả hỏi : - Chú gọi chúng thế nào ? Bát Giới nói : - Tôi gọi chúng là yêu quái. Hành Giả nói : - Đánh thế là còn ít đấy ! Bát Giới nói : - Cám ơn anh đã chiếu cố, đầu sưng tấy cả lên, anh còn bảo là đánh ít. Hành Gải nói : - Mềm mỏng khắp nơi đến được, cương cường nửa bước cũng không rời. Ch úng nó là yêu ở đất này, bọn mình là sư xa mới đến, chú lại có một mình, phải ôn tồn, mềm mỏng. Chú lại gọi nó là yêu quái, nó đánh cho là phải rồi. Người ta phải lấy lễ nhạc làm đầu chứ ! Bát Giới nói : - Anh nói cao xa, tôi chẳng hiểu gì ráo. Hành Giả hỏi : - Chú ở trong rừng, ăn thịt người từ thuở nhỏ, nhưng có biết hai thứ gỗ không ? Bát Giới nói : - Chẳng biết lọai gì với lọai gì ! Hành Giả nói : - Một thứ là cây dương, một thứ là cây đàn. Tính cây dương mềm mại, thợ khéo lấy về tạc tượng Thánh, tượng Phật, thếp vàng sơn phấn, nạm ngọc trang hoa, muôn người lễ bái, hưởng thụ biết bao phúc đức. Tính cây đàn quánh rắn, nhà ép dầu đem về, dùng làm nêm, lấy vành sắt đai lên đầu, rồi lại lấy búa sắt nện xuống, vì cương cường, nên chịu khổ sở. Bát Giới nói : - Anh ạ ! Những câu nói hay ho ấy, anh dạy tôi trước thì tôi đâu đến nổi bị chúng đánh bươu đầu, sứt trán ? * Th ân Đồ Gia, người đất Lương, thuở nhỏ đã theo Lưu Bang chinh chiến, tranh giành thiên hạ, lập được nhiều chiến công. Thân Đồ Gia ngay thẳng, thanh liêm, khiêm tốn, dưới thời Hán Văn đế giữ chức Thừa tướng. Lúc bấy giờ, Văn đế rất sủng ái Thái trung đại phu Đặng Thông. Có lần, thấy Đặng Thông đứng bên cạnh Văn đế, thái độ suồng sã, không giữ lễ vua tôi, Thân Đồ Gia tâu : - Bệ hạ sủng ái thần tử có thể ban của cải, bổng lộc, chức tước, nhưng phải coi trọng lễ nghĩa vua tôi ở chốn triều đình, không nên quá tùy tiện. Văn đế nói : - Ông nói quá đấy thôi ! Trẫm đâu có tùy tiện, buông thả lễ nghĩa. Sau khi bãi triều về nhà, Thân Đồ Gia sai người gọi Đặng Thông đến tướng phủ. Đặ ng Thông sợ quá không dám đến. Th ân Đồ Gia tức giận, muốn giết Đặng Thông. Đặng Thông nghe tin liền chạy vào cung kể lễ : - Thân thừa tướng thấy bệ hạ yêu mến tiểu thần, có ý ghét, muốn giết tiểu thần. Xin bệ hạ cứu mạng ! Văn đế anh ủi : - Khanh cứ về đi, nếu có chuyện gì xảy ra thì ta sai người đến giải cứu khanh. Đặng Thông lạy tạ, lui ra. Về đến nhà, Đặng Thông vẫn còn sợ, vội đến tướng phủ ra mắt Thân Đồ Gia, khấu đầu tạ tội. Thân Đồ Gia lớn tiếng quát mắng : - Triều đình là chốn uy nghiêm, phải giữ lễ nghĩa. Ngươi đi ngang đi dọc, ăn nói huyên thuyên, chẳng giữ phép tắc, tội đáng chém đầu ! Nói xong thét quân hầu bắt trói, lôi đi chém. Đặng Thông sợ xanh máu mặt, van lạy vô hồi. Có người báo tin, Văn đế bèn sai một viên quan chạy đến, lệnh triệu Đặng Thông vào triều. Viên quan phi hộc tốc đến phủ Thân Đồ Gia, bẩm : - Hòang thượng có lệnh triệu Đặng Thông vào triều gấp nhưng sợ Thừa tướng bắt giữ không cho vào, nên tôi đến đây truyền ý chỉ của hòang thượng. Hòang thượng cũng nói, mong Thừa tướng mở rộng lòng tha tội cho Đặng Thông. Thân Đồ Gia bực lắm nhưng không dám cãi lệnh vua. Đặng Thông thóat chết chạy vào triều lạy tạ nhà vua, rồi nói : - Tiểu thần đến phủ xin tạ tội với Thừa tướng nhưng Thừa tướng không mở lượng khoan dung, đòi giết tiểu thần bằng được. Nếu không có bệ hạ ra tay cứu vớt chắc tiểu thần đã làm ma không đầu ? Văn đế nghe nói, trong lòng không vui. Hán Văn đế mất, Hán Cảnh đế lên ngôi. Cảnh đế rất sủng ái quan Nội sử Triều Thác, cho Thác nắm quyền lớn. Ph ủ Nội sử ở cửa phía Đông của cung đình, vào ra rất bất tiện, để tiện việc ra vào, Triều Thác dời phủ mình đến cửa phía Nam, có bức tường, gần nơi mà ngày trước Cao tổ dùng để thiết triều. Thân Đồ Gia biết được, nói với các quan : - Triều Thác dời phủ làm việc đến gần bức tường, gần chỗ Cao tổ sinh thời dùng để thiết triều, là phạm tội bất kính. Tôi sẽ tâu với hòang thượng chặt đầu hắn đem bỏ chợ ! Có một môn khách của Triều Thác nghe được cấp báo với Triều Thác. Triều Thác lại vội vàng vào tâu với Cảnh đế. Sáng hôm sau thiết triều, Thân Đồ Gia làm một bản tấu sớ dài, kể tội Triều Thác. Tri ều Thác cũng đã chuẩn bị sẵn một bản tấu sớ, lập luận chặt chẽ, để tự biện hộ cho mình. Cảnh đế nghe xong, bênh Triều Thác, trách Thân Đồ Gia : - Đã cách nhau một bức tường, thì trong và ngòai đâu có quan hệ gì với nhau ? Trong thì nơi giữ gìn tôn nghiêm của Cao tổ. Ngòai bức tường là nơi làm việc quan chức của triều đình. Chuy ện này, Tiều Thác đã bẩm báo với trẫm rồi. Khanh không có việc gì lớn để làm hay sao mà lại đem chuyện bé xé ra to ? Bị quở trách, Thân Đồ Gia tẻn tò, giận tím mặt. Ra khỏi triều, Thân Đồ Gia nói với quan Trưởng sử : - Tôi suy nghĩ không nhanh, lại kém mưu mẹo ! Đáng lẽ chặt đầu Triều Thác trước, rồi bẩm báo với hòang thượng sau, thì mọi chuyện đâu vào đấy rồi. Thua hắn keo này thật xấu mặt. Về đến nhà, Thân Đồ Gia uất ức, thổ huyết, không bao lâu thì chết. LẠM BÀN 1. Cương cường còn gọi là tranh khí, là cái dũng của kẻ thất phu, thuộc về cương. Mềm mỏng còn gọi là nhẫn khí, nhẫn nhục, mưu trí, thuộc về nhu. Nhu thường thắng cương, nhu nhược thường thắng cương cường. Lúc cần nhu thì dùng nhu, lúc cương thì dùng cương, có khi vừa nhu vừa cương là cái dũng của người mưu trí. 2. Thân Đồ Gia chỉ biết dùng cương, không biết dùng nhu, không biết dùng mưu, gọi là hữu dũng vô mưu nên thất bại. 19. KẺ TÀ ĂN TRƯỚC NGỒI TRÊN, LÀM CHO NGƯỜI CHÍNH Ủ Ê CÚI ĐẦU (ĐỔNG TRÁC VÀO LẠC DƯƠNG) Hồi 40 Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối Vượn múa đao về mộc mẫu trơ Thấy một đứa trẻ bị trói khóc lóc trên cây, Tam Tạng thương tình sai Bát Giới cởi trói và bắt Hành Giả cõng đứa bé. Hành Giả nói : - Thôi được, ta cứ cõng mi, muốn đái ỉa thì phải nói với ta. Đường Tăng, Bát Giới, Sa Tăng đi trước, Hành Giả cõng đứa bé đi sau. Hành Giả biết mình phải cõng yêu ma, trong lòng óan trách sư phụ : Đi trên đường hiểm dốc thế này, đi một mình cũng khó lòng bước được, còn bắt Lão tôn cõng người ! Thằng này chẳng phải yêu ma, dù là người tử tế, cũng không còn có cha mẹ, cõng nó rồi thì giao cho ai ? Chi bằng ngần giết phứt nó cho rảnh. Quái vật biết ngay ý đồ của Hành Giả, liền hóa phép thần thông, quay bốn mặt, hít bốn ngụm hơi, phu lên mình Hành Giả. Hành Giả liền thấy trên lưng nặng đến ngàn cân. Hành Giả cười nói : - Con ơi ! Còn dùng phép nặng để đè bố xuống ư ! Yêu quái nghe, sợ Đại Thánh hại nói, liền dùng phép giải thi, xuất nguyên thân, nhảy vọt lên, đứng trên chín tầng mây, lưng Hành Giả càng nặng. Hành Giả phát cáu, kéo lại đằng trước, quai một cái vào tảng đá ở bên đường, quật cho hài nhi nhũn ra chẳng khác gì thỏi thịt. Nh ưng vẫn sợ nó giở trò, bèn thẳng cánh xé tứ chi, quẳng xuống bên đường, vụn ra như cám. Quái vật ở trên không, trông thấy, không nén được giận, tức khí chửi Hành Giả một thôi một hồi, rồi thổi một cơn gió lốc, cát bay đá chạy, cực kì dữ dội, cuốn Đường Tăng đi mất. Thật là : Kẻ tà ăn trước, ngồi trên Làm cho người chính ủ ê cúi đầu Khách tà đắc chí không hoan hỉ Tất cảnh viễn tòng chính xử tiêu) * Đổng Trác, tước là Ngao hương hầu, sung chức Thứ sử Tây Lương. Tr ác đánh giặc Khăn Vàng bị thua, triều đình đã toan trị tội, bởi có đút lót cho mười tên họan quan nên không can gì. Sau, lại khéo kết giao với bọn quyền quý trong triều, làm chức lớn, thống lĩnh hai mươi vạn quân Tây Lương. Lúc Đổng Trác được triệu về kinh để trừ họan quan, trong lòng vui mừng hớn hở, điểm binh lục tục khởi hành, sai con rể là Trung lang tướng Ngưu Phu đóng giữ Thiểm Tây, còn Đổng Trác tự đem bọn Lí Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù và mưu sĩ Lí Nho tiến về Lạc Dương. Trên đường về Lạc Dương, Đổng Trác gặp Thiếu đế và Trần Lưu vương đang chạy lọan, Trác liền phò Thiếu đế và đưa Trần Lưu vương về cung. Cũng trên đường đi, Đổng Trác thấy Thiếu đế Lưu Biện rụt rè sợ hãi, lại thấy Trần Lưu vương Lưu Hiệp đỉnh đạc, rắn rõi, lòng rất phục, liền muốn phế Thiếu đế, lập Trần Lưu vương lên thay. Đến Lạc Dương, Đổng Trác đóng đồn ở ngòai thành, hàng ngày đem quân mặc áo thiết giáp vào trong thành, đi nghênh ngang các phố, nhân dân rất sợ hãi. Còn Trác tự ra vào cung cấm, không kiêng sợ gì cả. Đổng Trác chiêu dụ được quân bộ hạ Hà Tiến, Hà Tiến về cả tay mình, dùng mưu thu phục Lữ Bố, rồi mượn tay Lữ Bố để giết Đinh Nguyên. Từ đó, uy thế Đổng Trác mỗi ngày một lớn, tự lĩnh chức Tiền tướng quân, phong cho em là Đổng Mân làm Tả tướng quân, tước Vu hầu, nhận Lữ Bố làm con nuôi, phong Lữ Bố làm Kị đô úy, Trung lang tướng, tước Đô đình hầu. Lí Nho khuyên Đổng Trác định ngay việc phế lập. Tr ác bèn đặt một tiệc lớn ở trong dinh, mời cả công khanh đến. Sai Lữ Bố đem hơn một ngàn quân giáp sĩ, canh gác hai bên. Hôm ấy, quan Thái phó Viên Ngỗi và cả trăm quan đều đến. Rượu được vài tuần, Trác cầm gươm nói : - Nay vua ngu yếu, không thờ được tôn miếu. Ta muốn làm Y Dõan, Hoắc Quang ngày xưa, phế vua cho làm Hoằng Nông vương, lập Trần Lưu vương lên nối nghiệp. Ai không theo ta chém ! Quần thần run sợ, không ai dám đáp lại, duy có quan Trung quân hiệu úy là Viên Thiệu đứng vụt lên, nói : - Thiên tử mới lên ngôi, không làm điều gì thất đức. Mày dám bàn bỏ con cả, lập con thứ, định làm phản hay sao ? Trác tức giận, quát : - Thiên hạ ở trong tay tao, nay tao làm đấy, ai dám không nghe ? Mày thử xem lưỡi guơm tao có sắc không ? """