"Giải Mã Các Ca Khúc Của The Beatles PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giải Mã Các Ca Khúc Của The Beatles PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo … Làm thành viên của Thư viện ebook đã khá lâu, down cũng khá nhiều sách đến hôm nay mới đóng góp được cho mọi người một quyển ebook, hi vọng là mọi người thích. ^^ Xin gửi đến mọi người cuốn ebook mà tôi làm cũng lâu rồi, mãi hôm qua mới nhớ đến và có dịp up lên mạng để chia sẻ cùng mọi người. Cuốn ebook tên là : ‘Giải mã các ca khúc của The Beatles.’ Đây là một cuốn ebook tổng hợp lại từ topic cùng tên của thành viên barrygibson trong box The Beatles của diễn đàn TTVNOL.com mà tôi rất thích. Nội dung của cuốn ebook này nói về từng bài hát của Beatles trong suốt 13 albums chính thức của tứ quái và những câu chuyện xung quanh bài hát đó. Hi vọng mọi người thích. Ebook mà tôi làm có 2 định dạng, 1 là dạng quen thuộc .pdf và dạng thứ 2 là .prc có thể đọc bằng Mobipocket Reader cả trên PC cũng như trên các thiết bị PDA. Lời mở đầu Đối với người nghe Beatles, ngoài giai điệu tuyệt vời, ca từ của những bài hát của Beatles đóng một vai trò rất quan trọng. Đằng sau mỗi bài hát của Beatles đều là một câu chuyện lí thú về nguồn gốc, kĩ thuật thu âm và những thứ liên quan khác. Bài viết này sẽ cung cấp cho các bạn những điều cần thiết về các bài hát của Beatles để có thể thưởng thức chúng một cách trọn vẹn hơn Trong khoảng thời gian tồn tại khá ngắn ngủi. Beatles đã cho ra đời 13 album studio. Những album đầu hầu hết đều theo công thức 7/3 (7 bài do nhóm sáng tác và 3 bài cover lại). Trong khuôn khổ bài viết này chỉ giới thiệu về những sáng tác của Beatles, còn những ca khúc cover lại sẽ không được đề cập đến. Nguồn tài liệu chính của chủ đề này tổng hợp từ nhiều ấn phẩm khác nhau của Beatles, chủ yếu là hai cuốn A Hard Day’s Write The Stories Behind Every Beatles Songs và Beatlesongs. Tôi sẽ giới thiệu các ca khúc theo thời gian phát hành để dễ theo dõi hơn là theo thứ tự alphabet. Ở mỗi ca khúc bạn sẽ tìm thấy các thông tin cơ bản như người sáng tác, nhiệm vụ của từng thành viên khi thu âm và vị trí trên bảng xếp hạng nếu có. Phần còn lại là những gì liên quan đến ca khúc đó như nguồn cảm hứng, ý nghĩa, và những thứ liên quan khác. Mục lục (các album) Please Please Me. With the Beatles. A Hard Day’s Night. Beatles For Sale. Help! Rubber Soul. Revolver. Sgt Pepper’s Lonely Hearts Club Band. Magical Mystery Tour. Yellow Submarine. The Beatles (White Album). Let It Be. Abbey Road. Please Please Me Đây là album đầu tay của Beatles năm 1963. Được thu âm ngày 11/2/1963, album được hoàn thành khá nhanh chóng và đơn giản với khoảng 13 giờ thu âm với các nhạc cụ cơ bản nhất. Tại Anh, album được phát hành ngày 22/3/1963 bởi hãng Rush ngay sau khi bài hát chủ đề đứng nhất bảng xếp hạng. Album lọt vào bảng xếp hạng trong vòng 1 tuần sau khi phát hành ở vị trí thứ 9 (7 tuần) sau đó lên thẳng hạng nhất và trụ lại ở vị trí đầu bảng suốt 29 tuần. Tuy nhiên, ở Mỹ, sau khi hãng Capitol từ chối phát hành album này, một công ty không mấy danh tiếng là Vee Jay đã nhận phát hành album với cái tên Introducing the Beatles và loại bỏ hai bài “Please Please Me” và “Ask Me Why”. Album được thu cực kì đơn giản với kĩ thuật thu âm cơ bản nhất. Các ca khúc hoàn toàn được thu live, không chỉnh sửa, không remix hoặc overdub. Mỗi bài hát chỉ được thu lại tối đa là 4 lần vì ông George Martin muốn chuyển tải cái không khí sôi động và chân thực của những buổi diễn tại Cavern Club vào đĩa thu âm. Bìa album được Angus McBean chụp tại tổng hành dinh của công ty EMI ở Manchester Square, London. McBean cũng là người chụp tấm hình của tứ quái tại vị trí này sáu năm sau với dự định dùng nó làm bìa đĩa cho album Get Back. Tuy nhiên album này đã không được thực hiện và tấm hình sau được sử dụng làm bìa cho album hợp tuyển the Beatles 1967-1970. Paul McCartney là người thiết kế bìa đĩa với cái tên Off the Beatle Track. Thiết kế của Paul được sử dụng nhưng cái tên thì đổi thành Please Please Me. Tựa gốc Off the Beatle Track được George Martin sử dụng cho album hòa tấu cover lại các bài hít của Beatles sau này. Một điều thú vị nữa về album này là khi thu âm, các thành viên của Beatles yêu cầu ông George cung cấp cho mình một lọ kẹo ho để giữ giọng và hai bao thuốc lá hiệu Peter Stuveysant để hút. Hai thứ này trở thành vật không thể thiếu của Beatles trong các buổi thu âm sau này. I Saw Her Standing There (McCartney 8/Lennon 2) UK Chart: - US chart 14 McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm guitar, hát bè Harrison: lead guitar Starr: drums. Ca khúc này được Paul viết khoảng tháng 9 năm 1962 với tựa là “Seventeen” và hai câu đầu “She was just seventeen, never been a beauty queen.” Nhưng khi Paul đưa cho John góp ý, John đã sửa câu “never been a beauty queen” thành “you know what I mean” vì theo John, nó có vẻ sexy hơn. Sau này, câu “you know what I mean” được khá nhiều các nhóm nhạc khác sử dụng trong các bài hát của mình. Paul viết ca khúc này tặng cho Iris Caldwell, em gái của ca sĩ Rory Storm của nhóm Rory Storm and the Hurricanes. Paul và Iris từng hẹn hò với nhau khoảng hai năm khi Iris mới 17 tuổi và là một vũ công chuyên nghiệp tại các club ở Liverpool. Mối tình của Paul và Iris tan vỡ khi nhóm Beatles sang Hamburg lập nghiệp nhưng Paul vẫn giữ mối quan hệ với Rory Storm. Paul đã từng có ý định để cho nhóm RS and the Hurricanes chơi bài này nhưng ông bầu Brian Epstein không cho phép vì theo ông đây là một bài hay của Beatles. Được sử dụng để mở đầu album, ca khúc được bắt đầu như một bài hát live với tiếng đếm nhịp 1..2…3..4 của Paul. “I Saw You Standing There” nhanh chóng trở thành một ca khúc không thể thiếu trong các buổi trình diễn của Beatles vì nó có sức hút khá mãnh liệt đối với các khán giả nữ trẻ (vì ai cũng nghĩ rằng bài hát dành cho mình). Paul thừa nhận rằng mình đã copy lại các câu bass của bài “I’m Talking About You” của Chuck Berry năm 1961 cho bài hát này. Misery (Lennon 6/McCartney 4) McCartney: bass/ hát chính Lennon: rhythm guitar, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums George Martin: piano Đây là sáng tác chính của John với sự giúp sức của Paul và hai tay Hollies Allan Clarke và Graham Nash. Nó đánh dấu rõ sự khác biệt giữa các ca khúc của John và của Paul. Các ca khúc của Paul luôn có nội dung vui tươi và tích cực về tình yêu, còn ca khúc của John trong thời kì đầu luôn nghi ngờ và tiêu cực. Lúc đầu ca khúc được dự định bán cho nữ ca sĩ Helen Shapiro nhưng ông bầu của ca sĩ này đã không sử dụng nó vì cho đến năm 1963, các ca sĩ Anh vẫn xem việc cover lại các ca khúc của Mỹ là mode thời thượng. Beatles mặc dù đã chứng tỏ được tài năng sáng tác của mình qua Love Me Do và Please Please Me nhưng vẫn chưa được công nhận một cách rộng rãi với tư cách nhạc sĩ sáng tác. Năm 1964, ca sĩ da đen người Anh Kelly Lynch mua lại “Misery” và biến nó thành một bài hit nho nhỏ theo phong cách gospel. Ask Me Why (Lennon 7/ McCartney 3) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm guitar, hát chính Harrison: lead guitar, bè Starr: drums. Đây là một trong những sáng tác đầu tiên của cặp Lennon/McCartney được thu âm năm 1962. Nhóm Beatles định sử dụng nó làm single đầu tay nhưng George Martin cho rằng bài hát không đủ chất lượng nên chỉ phát hành nó ở mặt B của single “Please Please Me”. Bản gốc thu âm ca khúc này được giới thiệu trong chương trình Teenager’s Turn của đài BBC tháng 6 năm 1962, còn bản phát hành trong album “Please Please Me” là bản thu lại năm 1963. Please Please Me (Lennon 10) UK Chart: 1/ US chart McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm guitar, hát chính, harmonica Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai của Beatles, bài hát đứng hạng nhất ở Anh trong hai tuần nhưng không có tên trong bảng xếp hạng ở Mỹ và bị nhiều hãng đĩa ở Mỹ từ chối phát hành. Mặc dù được kí tên Lennon/McCartney, đây là ca khúc hoàn toàn của John. Là một người thích chơi chữ, John đã lợi dụng tính đa nghĩa của từ “please” để viết ca khúc này sau khi nghe bài “Please” của Bing Crosby phát hành năm 1932. Lúc đầu bài hát được chơi dưới dạng ballad theo phong cách của Roy Orbison nhưng ông George Martin muốn nhóm thu âm nó với tốc độ nhanh kèm với tiếng kèn harmonica. Bản thu âm đầu tiên vào tháng 9 năm 1962 của nhóm là bản với tốc độ chậm đã không được sử dụng. Sau thành công của “Love Me Do”, Beatles muốn phát hành “Please Please Me” dưới dạng single nhưng ông George Martin không thích. Ông muốn nhóm thu ca khúc “How Do You Do It?” viết bởi một nhạc sĩ chuyên nghiệp để làm single thứ hai. Nhưng John và Paul nhất trí với nhau nhóm chỉ phát hành những single do chính mình sáng tác. Cuối cùng ông George Martin đành phải nhượng bộ với một điều kiện, bài “Please Please Me” phải được thu với tốc độ nhanh và Beatles phải thu âm luôn bài hát “How Do You Do It?” để phòng nếu Please Please Me không vào được bản xếp hạng thì nhóm sẽ phát hành ca khúc kia để gỡ gạc. Tuy nhiên khi Please Please Me đứng nhất bản xếp hạng, Beatles đã không cần đến “How Do You Do It?”. Bài hát này được một nhóm nhạc Liverpool khác là Gerry and the Pacemakers thu âm và phát hành, version của nhóm này đạt hạng nhất trên bảng xếp hạng. Love Me Do (Lennon 3/ McCartney 7) UK Chart: 27, 17/ US Chart: 1 (1964) McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm guitar, hát chính Harrison: rhythm guitar, hát bè Starr: tambourine Andy White: drums. Paul viết bài hát này năm 17 tuổi và John đóng góp phần harmonica intro theo phong cách của Delbert McClinton trong ca khúc “Hey! Baby!” John rất ấn tượng với cách chơi harmonica của McClinton nên khi gặp ông này năm 1962 tại Hamburg, John đã năn nỉ McClinton chỉ mình cách chơi harmonica với cây kèn John xoáy được trong một hiệu bán nhạc cụ. Ngoài “Love Me Do”, Lennon còn chơi harmonica trong một số ca khúc khác của Beatles như “Please Please Me,” “Thank You Girl”, “From Me To You,” “I Should Have Known Better” và “I’m a Loser”. Có hai phiên bản của “Love Me Do”, phiên bản đầu tiên được thu ngày 4/9/1962 với Ringo Starr chơi trống. Tuy nhiên ông Martin không thích phiên bản này lắm vì ông nghĩ phần trống vẫn chưa tốt. Một tuần sau, nhóm thu lại bài này với Andy White chơi trống và Ringo gõ tambourine. Buổi thu âm “Love Me Do” là một trong những buổi thu âm tồi tệ nhất của Beatles. Thiết bị phòng thu rất kém, ông George Martin lại tỏ ra khó chịu vì ông không thích lời bài hát này khiến John và Paul khá căng thẳng. Còn George Harrison đến phòng thu với con mắt bầm tím do bị các fan của Pete Best tấn công sau khi tay trống này bị sa thải. Không chỉ có mình ông George Martin không ưa “Love Me Do”, dì Mimi của John cũng chẳng thích gì nó. Bà nói thẳng với John rằng: “Nếu anh nghĩ rằng các anh có thể làm nên chuyện với những ca khúc kiểu này thì hãy suy nghĩ lại!” Tuy nhiên, đối với một số nghệ sĩ sau này như Sting, đây là ca khúc giúp họ lựa chọn âm nhạc làm con đường đi cho mình. Khi bài này được phát hành thành đĩa single đầu tiên của Beatles, ông Epstein đã bỏ tiền ra mua 1000 bản để ca khúc được tăng số giờ phát sóng trên đài. P.S I Love You (Lennon 2/ McCartney 8) UK chart: -/ US chart: 10 (1964) McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic rhythm guitar, hát chính Harrison: lead guitar Starr: Maracas Andy White: drums. Đây là ca khúc Paul viết cho cô bạn gái của mình là Dorothy Dot Rhone năm 1962. Khi nhóm Beatles sang Hamburg biểu diễn, Cynthia Powell và Dot Rhone có sang Đức để thăm người yêu của mình. Tại Hamburg, Cynthia ở chung với Astrid Kirchner còn Dot ở chung với Paul. Paul viết ca khúc này dưới dạng một lá thư gửi cho Dot sau khi cô cùng Cynthia trở về Anh. Tuy nhiên mối tình của hai người chấm dứt chỉ vài ngày sau khi nhóm Beatles kí hợp đồng với ông Epstein. Dot khi thấy Cynthia kết hôn với John nên giục Paul kết hôn với mình. Tuy nhiên là một người đầy tham vọng, Paul nghĩ rằng kết hôn lúc này là quá sớm nên anh chủ động chia tay. Dot đã suy sụp tinh thần sau khi bị Paul bỏ rơi. Cũng như “Love Me Do” ca khúc này có hai phiên bản, một phiên bản do Ringo chơi trống và phiên bản còn lại do Andy White chơi trống. Điều này cho thấy lúc đầu ông George Martin không tin tưởng vào tài năng của Ringo cho lắm. Do You Want to Know a Secret? (Lennon 10) UK Chart: -/ US chart: 2 (1964) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát bè Harrison: lead guitar, hát chính Starr: drums. John viết bài hát này để tặng Cynthia trong ngày cưới của hai người. Lời của bài hát theo John lấy cảm hứng từ bài “Wishing Well” trong bộ phim hoạt hình Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn, bài hát mà bà Julia thường ru John ngủ lúc bé. Về phần nhạc, George Harrison cho rằng ca khúc này chịu ảnh hưởng từ bài hit “I Really Love You” của nhóm R'n'B the Stereos năm 1961. Mặc dù John viết ca khúc này, anh lại để cho George hát chính. Ngoài ra, nhóm Billy J. Kramer and the Dakotas, một nhóm nhạc Beat khác do ông Epstein quản lí cũng cover lại bài này. Bản cover của nhóm Dakotas đạt hạng nhất ở Anh. Điều này khẳng định tài viết nhạc của cặp Lennon/McCartney có thể viết những hit song cho các nhóm nhạc khác. There’s a Place (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm guitar, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums. John viết bài này theo phong cách nhạc blues và soul của hãng Motown. Bài hát phản ánh tính hướng nội của John, đối lập với vẻ sôi nổi bên ngoài. Sau những buổi diễn mệt nhoài và những buổi tiệc tùng, John mong muốn có một nơi yên tĩnh để giấu mình hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Mặc dù đây là ca khúc hoàn toàn của John, Paul nhận rằng tựa của ca khúc là gợi ý của mình lấy ý tưởng từ bài hát chính của bộ phim Westside Story (1957) là “There’s a Place For Us) With the Beatles Sau thành công của album đầu tay, Beatles có 5 tháng để cho mắt album thứ hai của mình. Được phát hành ngày 22/11/1963, album With the Beatles leo thẳng lên hạng nhất bản xếp hạng và trụ lại đó 21 tuần liên tiếp. Ở Mỹ, album được phát hành dưới cái tên Meet the Beatles vào đầu năm 1964. Ngay tuần đầu phát hành, Meet the Beatles đã bán hơn 750,000 đĩa và đến giữa tháng 3, con số này đã lên tới 3,56 triệu, một con số mà không có nhóm nhạc hoặc ca sĩ nào của Anh dám mơ tới trên đất Mỹ. With the Beatles được thu âm trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1963 xen kẽ với những buổi diễn, những chương trình truyền hình và những buổi thu âm cho đài BBC. Hai tay sáng tác chính Paul và John phải tập làm quen với việc sáng tác cấp tốc ở bất cứ nơi nào để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người hâm mộ. Hầu hết các bài hát của album With the Beatles ra đời trong thời gian rảnh rỗi ít ỏi của nhóm khi không phải lưu diễn hoặc tham gia vào các chương trình. Đối với nhiều người, đó là một việc làm quá tải và nguồn cảm hứng sáng tác có thể bị vắt cạn. Nhưng đối với Paul và John, đây lại là thử thách giúp họ cạnh tranh với nhau về tài năng. John và Paul bắt đầu viết những ca khúc riêng lẻ mà không cần sự trợ giúp của nhau mặc dù cả hai vẫn thống nhất việc kí tên chung. Cũng trong album này, George Harrison có cơ hội chứng tỏ tài năng viết nhạc của mình qua ca khúc “Don’t Bother Me”. Về mặt thu âm, album mới được đầu tư kĩ lưỡng và trau chuốt hơn Please Please Me. Kĩ thuật thu âm hiện đại nhất lúc bấy giờ là kĩ thuật thu chồng tiếng (double-tracking) được sử dụng trong một số ca khúc. Trong quá trình thực hiện album này, John và Paul bắt đầu làm quen với việc hòa âm và sản xuất với sự trợ giúp của George Martin. Nhờ đó mà những ý tưởng thu âm tưởng như điên rồ của Beatles được chuyển tải một cách trọn vẹn. Bìa đĩa của album chụp nửa mặt bốn thành viên mặc áo polo kiểu cổ lọ trên nền sáng tối tương phản được chụp bởi Robert Freeman, một người bạn của John và Cynthia, lấy cảm hứng từ tấm hình Astrid Kirchner chụp John khi nhóm còn ở Hamburg. Tấm ảnh bìa đĩa này đã giúp Freeman trở thành nhiếp ảnh chính của nhóm Beatles trong thời gian nhóm lưu diễn tại Mỹ. With the Beatles được đánh giá là album tiên phong của trào lưu British Invasion. Nó có ảnh hưởng rất lớn đối với các nhóm nhạc cùng thời. Maurice Gibb của Bee Gees thừa nhận rằng mình bị sự bí ẩn của bìa đĩa hớp hồn và ông đã học chơi bass theo tất cả các ca khúc trong album này. From Me To You (Lennon 5/ McCartney 5) UK Chart 1/US Chart - McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm guitar, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Đây là single thứ ba của Beatles. John và Paul viết ca khúc này khi đi tour cùng với Helen Shapiro từ York đến Shrewsbury như một lời tán tỉnh cô ca sĩ này cùng với ca khúc “Thank You Girl”. Sự cạnh tranh giữa hai tài năng thể hiện qua việc thách đố nhau, mỗi người viết một câu xen kẽ cho đến khi bài hát hoàn thành. Tuy nhiên Helen Shapiro có vẻ không ấn tượng với ca khúc này lắm khi John và Paul hát thử cho cô nghe. Cảm thấy xấu hổ, cả hai định loại “From Me to You” ra khỏi danh sách những bài hát mới cho tới khi ông James McCartney, cha của Paul khẳng định đây là một ca khúc hay. Tựa của bài hát được lấy cảm hứng từ chuyên mục “From You To Us” của tạp chí New Musical Express và phần hát bè “whooh!!” ở cuối đoạn điệp khúc bắt chước “Twist and Shout”, ca khúc của nhóm Isley Brothers mà nhóm Beatles đã chơi lại. Helen Shapiro kể lại rằng khi hát đến đoạn này, cả John lẫn Paul đều cố hết sức để chứng tỏ rằng mình có thể hát cao hơn người kia để khoe mẽ với người đẹp, một sự cạnh tranh khá trẻ con và dễ thương. Thank You Girl (Lennon 5/ McCartney 5) UK Chart: -/ US Chart: 35. McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm guitar, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums. Được viết cùng một lúc với “From Me to You” với cái tựa “Thank You Little Girl”, bài hát này được John và Paul dự định phát hành mặt A của single mới và “From Me to You” ở mặt B vì cả hai cho rằng “Thank You Girl” hay hơn “From Me to You.” Nhưng ông George Martin thấy được tiềm năng của “From Me to You” nên thuyết phục nhóm sử dụng ca khúc này ở mặt A và “Thank You Girl” ở mặt B. Sau này cả Paul và John đều chê “Thank You Girl” là một trong những ca khúc tồi nhất mà họ từng viết. She Loves You (Lennon 5/ McCartney 5) UK Chart 1/ US Chart 1 (1964) McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm guitar, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Đây là single thứ tư của Beatles trong năm 1963 và là single thứ ba của nhóm đạt hạng nhất ở Anh. Thành tích này đã đưa nhóm lên vị trí “toppermost of the poppermost” mà John vẫn ao ước. Single này bán được trên 1,3 triệu bảng chỉ trong năm 1963. Nó trở thành single bán chạy nhất ở Anh cho đến năm 1978 khi Paul McCartney và nhóm Wings phá kỉ lục bằng single “Mull of Kyntire”. Lấy cảm hứng từ ca khúc “Forget Him” của Bobby Rydell, Paul đề nghị John viết ca khúc này với tư cách một người ngoài cuộc khuyên bạn mình hãy làm hòa với cô bạn gái của mình. Từ trước đến nay, các ca khúc của Beatles đều viết với tác giả là trung tâm của câu chuyện tình, không có người thứ ba. “She Loves You” là bài đầu tiên, tác giả không trực tiếp liên quan đến cuộc tình. Điều này chứng tỏ Paul và John có khả năng thoát khỏi lối mòn trong việc sáng tác ca khúc và sự tinh tế về mặt cảm xúc, có thể nhìn vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau. Lúc đầu, Paul viết “She loves you, yes, yes, yes!” nhưng bị John chê là thiếu thân thiện nên đã đổi thành “yeah, yeah, yeah!” Ba chữ đơn giản “Yeah, yeah, yeah” ấy đã trở thành câu nói cửa miệng của giới trẻ trong hai năm 1963-1964 và được trích dẫn trong hầu hết các bài báo viết về Beatles trong thời gian đó. I’ll Get You Lennon: 5/ McCartney: 5 McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm guitar, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Đây là một trong những ca khúc yêu thích của Paul trong thời đầu của Beatles, dù lời của ca khúc này phần lớn là do John viết. Sau này, những nhà phê bình thường so sánh hai câu đầu của I’ll Get You: “Imagine I’m in love with you, it’s easy ‘cause I know” với hai câu đầu của bài “Imagine”: “Imagine there’s no heaven, it’s easy if you try” để chứng tỏ John luôn là một kẻ mộng mơ ngay từ khi còn rất trẻ. Một điều đáng chú ý nữa trong ca khúc này là việc chuyển đột ngột từ hợp âm D trưởng sang hợp âm Am đoạn “It’s not like me to pretend”, một sự phá cách rất hiếm khi được sử dụng trong nhạc pop thời bấy giờ. Paul và John thừa nhận rằng cảm hứng của việc thay đổi hợp âm đột ngột đó được lấy từ ca khúc “All My Trials” của Joan Baez. It Won’t Be Long (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums John viết ca khúc này như một lời bộc bạch nỗi sợ sự cô đơn của mình khi không có những người thân ở bên cạnh. Bài hát không chỉ đơn thuần là lời của chàng trai kêu gọi người yêu của mình trở về với mình mà nó còn thể hiện sự khao khát được sống chung với cha mẹ mình trong một gia đình, ước mơ không bao giờ được thực hiện của John. Nó giống như ca khúc “Mother” của John sau này. Trong bài này, John thể hiện tài chơi chữ của mình với “be long” và động từ “belong”, điều mà George Harrison đã “mượn” lại trong bài “Blue Jay Way” năm 1967. Đây cũng là ca khúc đầu tiên của Beatles sử dụng kĩ thuật thu chồng âm. All I’ve Got to Do (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead Starr: drums John viết bài này theo phong cách của Smokey Robinson, ca sĩ da đen mà John và Paul rất hâm mộ. Trong album “With the Beatles”, nhóm cũng cover lại “You Really Got a Hold on Me” của Robinson. All My Loving (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm, hát bè Harrison: lead, hát bè Starr: drums. Paul viết ca khúc này dành tặng cho người yêu mới quen Jane Asher, lúc này là một diễn viên truyền hình nổi tiếng của đài BBC. Phần lời của bài hát này được viết trước, Paul viết phần nhạc trên đường đi tour với Beatles. Mặc dù không sôi nổi như các ca khúc trước, “All My Loving” thể hiện sự tinh tế trong việc phối bè và phần guitar phức tạp hơn. John luôn tỏ ra ganh tị với Paul vì theo anh đây là một ca khúc hay và đáng ra phải do mình viết. Khi phát biểu cảm nghĩ về “All My Loving”, John nửa đùa nửa thật bảo rằng: “Thật đáng tiếc khi nó lại là tác phẩm của Paul vì nó là một ca khúc hay. Nhưng phần guitar tôi chơi trong bài này mới đáng chú ý.” Little Child (Lennon 5/ McCartney 5) McCartney: bass, piano, hát chính Lennon: rhythm, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums Một bài hát dễ nghe dễ thuộc nhưng không thật sự xuất sắc. Một tác phẩm mà John và Paul cùng góp công bằng nhau. Don’t Bother Me (George Harrison 10) McCartney: bass, claves Lennon: rhythm guitar, tambourine Harrison lead guitar, hát chính Starr: drums, bongos, loose-skin Arabian bongo. Ca khúc đầu tay của George được Beatles thu âm. Được viết vào tháng 8 năm 1963 khi nhóm Beatles diễn tại rạp Gaumont ở Bournemouth sáu đêm liên tiếp. George ngã bệnh do làm việc quá sức. Trong thời gian anh nằm dưỡng bệnh tại khách sạn Palace Court, anh bị Bill Harry, người sáng lập tòa báo Mersey Beat quấy rầy liên tục. Harry chê rằng George không viết được ca khúc nào có lời như John và Paul ngoài bản hòa tấu guitar “Cry For a Shadow” mà George viết với John trước đó. George viết “Don’t Bother Me” như câu trả lời dành cho Bill Harry, còn bản thân ông thú nhận rằng mình không thích ca khúc này lắm. Đối với George, bài này giống như một bài tập về nhà hơn là một ca khúc thật sự. Hold Me Tight (McCartney 8/ Lennon 2) McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm, hát bè Harrison: lead, hát bè Starr: drums Nhóm Beatles thu một phiên bản của ca khúc này vào đầu năm 1963 với dự định đưa vào mặt B của single “From Me to You” nhưng không sử dụng. Phiên bản trong album “With the Beatles” được thu ngày 12/9/63 với sự ảnh hưởng của nhóm nữ da đen the Shirelles. Đây cũng là ca khúc đầu tiên đề cập đến tình dục một cách khá thẳng thắn chứ không úp mở như những bài hát khác (making love to only you, so hold me tight). Tuy nhiên cả Paul và John đều không thích bài này và thường tránh nhắc đến nó trong các cuộc phỏng vấn. I Wanna Be Your Man (McCartney 7/ Lennon 3) McCartney: bass, hát bè. Lennon: rhythm guitar, organ hiệu Hammond, hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drum, maracas, hát chính Paul và John viết ca khúc này cho nhóm Rolling Stones trong một buổi tập của nhóm Stones ở phòng thu Studio 51. Nhóm Stones lúc này chỉ mới chập chững vào nghề nên cần một ca khúc của một nhóm có tên tuổi với hi vọng biến nó thành một single thành công. Bài hát được viết trong vòng 20 phút với phần lời lặp đi lặp lại dựa trên một đoạn riff mà Paul viết trước đây. Cả Paul và John đều xem đây là một ca khúc “đáng vứt đi” vì vậy cả hai không ngại ngần để cho nhóm Stones thu âm trước. Và để chứng tỏ rằng đây là một bài hát không có giá trị, John và Paul để cho Ringo hát chính. Phiên bản của Beatles không được phát hành thành đĩa single, nhưng phiên bản của nhóm Stones lại là một thành công khi đạt hạng 12 vào tháng 10 năm 1963, khiến nhóm trở thành đối thủ đáng gờm của Beatles trong những năm sau đó. Not a Second Time (Lennon 10) Lennon: acoustic rhythm guitar, hát chính, hát bè. Starr: drums George Martin: piano John viết bài này theo phong cách của Smokey Robinson và nhóm Miracles. Đây là ca khúc đầu tiên của nhóm Beatles không được thu âm với tất cả các thành viên. Đây cũng là ca khúc đầu tiên của Beatles gây được sự chú ý cho một tờ báo không chuyên về âm nhạc. William Mann của tờ Times (London) đã viết cả một bài phê bình về ca khúc này, so sánh nó với bài “Songs of the Earth” của Gustav Mahler. Trong bài viết của mình, Mann có nhắc đến thuật ngữ “Aeolian cadences” bảo rằng John đã sử dụng kĩ thuật này rất tự nhiên trong ca khúc của mình. Nhưng John hoàn toàn mù tịt về cái gọi là “Aeolian cadences”. Khi trả lời phỏng vấn tạp chí Playboy năm 1980, John bảo: “nó giống như tên một loài chim lạ.” Không những đối với John mà những nhà phê bình âm nhạc cũng bó tay với thuật ngữ này. Không ai dám chắc rằng William Mann sử dụng thuật ngữ này để nói về cái gì. I Wanna Hold You Hand (Lennon 5/McCartney 5) UK Chart: 1/US Chart 1. McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums Đây là single đầu tiên của Beatles đạt hạng nhất ở Mỹ mở đầu cho cơn cuồng Beatles trong năm 1964. Trước “I Wanna Hold Your Hand”, các single của Beatles phát hành tại Mỹ đều do hãng đĩa không mấy tên tuổi đảm nhận, do đó hầu như chẳng có cái nào đạt được thứ hạng cao mặc dù luôn đứng nhất ở Anh. Capitol sau nhiều lần từ chối phát hành các đĩa single của Beatles cuối cùng cũng đồng ý phát hành “I Wanna Hold Your Hand” vì ông Epstein bảo đảm rằng, ca khúc này hợp với “khẩu vị của người Mỹ”. Phát hành vào tháng giêng năm 1964, “I Wanna Hold Your Hand” vào thẳng top 40, leo lên vị trí đầu bảng và trụ lại đó suốt 7 tuần. Sau đó nó tiếp tục ở lại top 40 thêm 14 tuần nữa ở các vị trí khác nhau. Capitol lập tức kí hợp đồng nhận làm công ty phát hành chính thức của Beatles tại Mỹ và bỏ ra trên 50,000 bảng để quảng cáo cho Beatles. Đối với các ca sĩ và nhóm nhạc Anh, đây là điều chưa bao giờ xảy ra. Ngôi sao sáng nhất của Anh trên đất Mỹ lúc bấy giờ là Cliff Richards phải chật vật lắm mới có được một bài hit nho nhỏ là “Living Doll” trong top 40 của Billboard. Từ sau “I Wanna Hold Your Hand” trật tự bảng xếp hạng bị đảo ngược. Người Mỹ bắt đầu mê mẩn các nhóm nhạc Anh quốc để cho đến giữa thập niên 60, người Anh gần như chiếm lĩnh thị trường rock and roll ở Mỹ. John và Paul viết ca khúc này ở nhà của Jane Asher trên cây đàn piano của Jane theo cách viết quen thuộc của hai người, mỗi người viết một câu rồi thách người kia viết câu tiếp theo. Chứng kiến sự ra đời của ca khúc góp phần làm thay đổi lịch sử của nhạc rock là hai chàng trai may mắn Gordon Waller và Peter Asher. Peter Asher chính là anh trai của Jane Asher. Hai nhân vật này sau này dưới sự giúp đỡ của John và Paul trở thành nhóm song ca Peter and Gordon khá thành công trong thập niên 60 với “A World Without Love” một sáng tác của Paul. Trở lại với bài “I Wanna Hold Your Hand”, khi bài hát đạt hạng nhất ở Mỹ, nhóm Beatles đang lưu diễn tại Paris và chuẩn bị thu âm tại phòng thu EMI của Pháp. Một buổi tiệc lớn ăn mừng thành công không ngờ của “I Wanna Hold Your Hand” đã diễn ra tại khách sạn George V, Paris với tứ quái, ông Epstein và ông George Martin. Sau thành công vượt bậc của “I Wanna Hold Your Hand” đại diện của hãng EMI tại Đức đã yêu cầu nhóm thu phiên bản tiếng Đức “Komm, Gib Mir Deine Hand”. Bản thu âm tiếng Đức này được thực hiện ngày 29/1/64 tại studio Pate Marconi, Paris. Về ca khúc nổi tiếng này, có nhiều giai thoại khá thú vị. Năm 1969, như một nỗ lực cuối cùng nhằm ngăn chặn sự tan rã của Beatles, tứ quái đã có ý định thu âm lại một trong những ca khúc hit ban đầu với phong cách mới. Cả Paul và John cùng đề xuất thu âm lại “I Wanna Hold Your Hand.” Một giai thoại khác cũng thú vị không kém là nhà thơ của phong trào Beatnik nổi tiếng Allen Ginsberg, người có ảnh hưởng lớn đối với John và Bob Dylan, khi nghe ca khúc này trong một hộp đêm ở New York đã rời chỗ ngồi và nhảy theo, điều mà trước giờ ông không bao giờ làm nơi công cộng. Khi Beatles đến lưu diễn tại Mỹ, họ đã có dịp gặp gỡ Bob Dylan. Dylan rất bất ngờ khi các tay Beatles thú nhận rằng mình chưa từng thử hút cần sa. Hóa ra là do ông vua nhạc folk nghe nhầm câu ” I Can’t Hide” thành “I Get High” This Boy (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums John viết bài này theo phong cách Smokey Robinson.Đây là ca khúc đầu tiên của tứ quái hát bè ba. John luôn tự hào về ca khúc này của mình về phần giai điệu và phần phối bè khá lắt léo. Tuy nhiên, về phần lời, John luôn từ chối nói rõ lấy cảm hứng ở đâu, mặc cho nhiều người đoán già đoán non rằng John viết bài này về một mối tình tan vỡ của mình. Trong bộ phim “A Hard Day’s Night” phần hòa tấu ca khúc này được đặt tên là “Ringo’s Theme” với cảnh Ringo đi dọc bờ sông một mình trước buổi diễn của Beatles. I Call Your Name (Lennon 10) McCartney: bass Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead Starr: drums John thường bảo rằng mình viết ca khúc này năm 17 tuổi khi còn ở trong nhóm Quarry Men. Tuy nhiên theo Rod Davis, một cựu thành viên của Quarry Men, John với vốn liếng guitar ít ỏi lúc đó không sáng tác được ca khúc nào cho đến khi gặp Paul. Rod Davis kể lại rằng ông và John thường cố chép lời những ca khúc rock and roll thịnh hành từ radio xuống để cùng tập với nhóm của mình. Nếu không nghe kịp, John luôn là người chế ra phần lời mới và nhận đó là sáng tác của mình. John đã viết lại toàn bộ lời của ca khúc “Streamline Train” và đổi tên thành “Long Black Train” cũng như sửa lời của bài “Come Go With Me” của nhóm Del Viking. Vì vậy theo Davis, nếu “I Call Your Name” quả thực được sáng tác khi John 17 tuổi, phần nhạc chắc chắn là nhạc của một ca khúc nào đó. Tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu Beatles, I Call Your Name có lẽ được viết trong khoảng năm 63-64 vì đoạn solo guitar giữa bài chịu ảnh hưởng của thể loại Jamaican ska, thể loại khá phổ biến ở Anh đầu thập niên 60. Sau này phần ca từ ” I never weep at night/ I call your name” được so sánh với phần ca từ “In the middle of the night/ I call your name” của ca khúc Oh Yoko năm 1971 trong album Imagine. Năm 1990, Ringo đã thu lại ca khúc này cho chương trình tưởng niệm 10 năm ngày mất của John tại Liverpool A Hard Day’s Night Với thành công của “I Wanna Hold Your Hand”, Beatles đã được ban cho một đặc ân mà trước đây chưa từng có một nhóm nhạc nào ở Anh (và cũng rất hiếm ở Mỹ) có được. Đó là việc cho ra đời một album toàn những ca khúc do nhóm sáng tác. Nếu như ở hai album đầu tiên, cứ khoảng 2-3 bài của Beatles thì nhóm phải chơi lại một bài của các nhóm nhạc và ca sĩ Mỹ thịnh hành. A Hard’s Day Night gồm 13 ca khúc toàn của Beatles. Một điều đáng chú ý hơn là album này đánh dấu vai trò thủ lĩnh của John Lennon đối với nhóm. Trong 13 ca khúc của album, 10 bài là tác phẩm của John. Mối quan hệ giữa Paul và John cho đến lúc này John vẫn là kẻ cả do tuổi tác lớn hơn, nên đôi lúc Paul phải nhượng bộ. Năm 1964 là một năm đặc biệt bận rộn đối với Beatles. Sau tour lưu diễn mệt nhoài ở Mỹ, nhóm trở về Anh để quay bộ phim A Hard Day’s Night rồi lại tiếp tục đi tour thế giới. Hậu quả là Ringo đã bị ngất xỉu trong một buổi thu âm ngày 3/6 để rồi bị thay thế bởi Jimmy Nichol trong một số tour diễn của Beatles. Cái tựa đề A Hard Day’s Night phần nào phản ánh được thực trạng của nhóm Beatles lúc đó. Ở Anh, album được phát hành ngày 26/6/1964 và lập tức leo lên ngôi đầu bảng trong vòng 14 tuần lễ. Đến tháng 10, album đã bán được 2 triệu bảng, một con số khổng lồ lúc bấy giờ. Trong khi đó ở Mỹ, hãng United Artist nhận phát hành album này sau khi đã cắt đi 5 bài, chỉ giữ lại 7 bài trong phim và ca khúc “I’ll Cry Instead”. Bốn bài còn lại trong album là bốn bài nhạc không lời do George Martin sản xuất. Điều này cho thấy, mặc dù bị Beatles hoàn toàn chinh phục, các hãng đĩa Mỹ vẫn tiếp tục cắt manh cắt mún các album gốc của Beatles theo ý của mình. Nhìn chung, A Hard Day’s Night tuy vẫn còn đóng khung trong khuôn khổ guitar, bass và trống, nhưng phần giai điệu và ca từ đã có những tiến bộ vượt bậc, trong đó có thể dễ dàng thấy được bước chuyển hướng từ những ca khúc rock and roll đơn thuần sang những ca khúc uyển chuyển và tinh tế hơn như “And I Love Her” hoặc “If I Fell”. Cũng trong album này, George Harrison giới thiệu với thế giới âm thanh đặc trưng của cây guitar 12 dây mà hãng Rickenbacker đóng riêng theo đơn đặt hàng của George. Tiếng đàn Rickenbacker 12 dây của George đã có ảnh hưởng lớn đến các nhóm folk rock của Mỹ như the Byrds, Buffalo Springfield, Lovin’ Spoonful. Sau khi A Hard Day’s Night ra đời, hầu như các nhóm nhạc đều đưa cây guitar 12 dây vào phần âm thanh của mình. A Hard Day’s Night (Lennon 10) UK Chart 1/ US Chart 1 McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead guitar (Rickenbacker 12 dây) Starr: drums George Martin: piano Ngay sau khi bộ phim “A Hard Day’s Night” được hoàn tất, các nhà làm phim và nhóm Beatles vẫn chưa nghĩ ra được một cái tên thích hợp cho bộ phim. Một số cái tựa như “On the Move”, “Let’s Go” hay “Beatlemania” đều bị bác vì quá tầm thường. Dick Lester, đạo diễn của bộ phim trên đường về nhà chung xe với John và Ringo đã hỏi Ringo rằng anh cảm thấy thế nào, Ringo đáp: “Đây là đêm của một ngày làm việc vất vả!” (It’s been a hard day’s night). Câu nói vô tình ấy của Ringo làm cho ông Dick Lester thích thú. Ông hỏi John có thể viết một ca khúc với cái tựa đề “A Hard Day’s Night” được không? John đồng ý và ngày hôm sau mang đến phòng thu bản nháp của “A Hard Day’s Night” viết trên mặt sau của tấm thiệp sinh nhật của Julian Lennon. Nhóm hoàn thành, tập và thu âm ca khúc ngay trong ngày hôm đó. Theo Maureen Cleave, nữ kí giả tờ Evening Standard, người được đặc cách viết bài về Beatles cho báo, lời gốc của bài hát có đoạn như sau: “But when I get home to you, I found my tiredness is through, and I feel alright.” Lúc này, Maureen Cleave rất được John ưu ái, có thể nói cô là một trong những nhân tình của John trong những năm 64-66. Vì thế John đã đưa phần lời cho Maureen xem thử. Cô cho rằng câu “I feel my tiredness is through” không hay và đề nghị John sửa lại. John đã sửa lại thành “I found the things that you do, they make me feel alright”. Maureen Cleave cũng chính là người đăng cuộc phỏng vấn “nổi tiếng hơn cả chúa cứu thế” năm 66. Cụm từ “a hard day’s night” còn được tìm thấy trong truyện ngắn “Sad Michael” của John trong cuốn “In His Own Write”, trong đó John viết: “He’d had a hard day’s night that day, for Michael was a Cocky Watchtower”. I Should Have Known Better (Lennon 10) McCartney: bass Lennon: acoustic guitar, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar (12 dây) Starr: drums Đây là một trong những ca khúc khá hiếm hoi của John với một happy ending mà không có ẩn chứa cái gì đó cay đắng hoặc bất mãn. Trong bộ phim “A Hard Day’s Night”, tứ quái vừa hát ca khúc này vừa chơi bài ở toa sau xe lửa nơi nhốt gia súc và gia cầm. Trên thực tế, cảnh này được quay trong một chiếc xe van tại trường quay Twickenham, chứ không phải trên xe lửa. If I Fell (Lennon 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums John luôn tự hào về bài hát này của mình như một bản ballad hay. Sau này, anh sử dụng lại vòng hợp âm của bài “If I Fell” để viết “In My Life”. Trong một cuộc phỏng vấn, John úp mở tiết lộ rằng bài hát này là một bản tự truyện của mình. Nhiều người cho rằng, nó phản ánh sự rạn nứt trong hôn nhân giữa John và Cynthia và người thứ ba xen vào không ai khác hơn là Maureen Cleave. Trên thực tế, lời bài hát được John viết trên tấm thiệp Valentine mà Maureen gửi cho John ngày lễ tình nhân năm đó khi nhóm Beatles đang ở Miami. John đã viết: “I hope that she will cry/ when she hears we are two” nhưng rồi sửa lại là “And that she will cry, when she learns we are two” cho đỡ “tàn nhẫn” ít ra là đối với người nghe. Bản thảo lời bài hát này được mua với giá 7800 bảng Anh trong cuộc đấu giá kỉ vật của John năm 1988 tại nhà bán đấu giá Sotherby’s, London. I’m Happy Just to Dance with You (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát bè Harrison: lead, hát chính Starr: drums, Arabian bongo. Trong thời gian làm phim, George có sáng tác vài ca khúc nhưng đều bị John và Paul bác bỏ. Điều này khiến George khá bất mãn. Cảm thấy được sự bất mãn đó, John và Paul nhất trí sẽ viết một ca khúc để George hát trong phim để cho “hắn có việc để làm.” Sự chèn ép của hai ông lớn trong nhóm làm cho George luôn cảm thấy ấm ức vì tài năng của mình không được công nhận một cách đầy đủ. Trong cuốn tự truyện I Me Mine, George đã bày tỏ sự bực tức của mình trong những năm tháng Beatles. John cũng thấy chạm tự ái vì George đã không công nhận sự ảnh hưởng của John đối với việc sáng tác của mình. And I Love Her (McCartney 6,5/ Lennon 3,5) US Chart 12 McCartney: acoustic guitar, hát chính Lennon: acoustic guitar Harrison: acoustic lead guitar Starr: bongos Đẹp một cách đơn giản nhưng cũng thật quyến rũ, “And I Love Her” là một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Beatles, bên cạnh “Yesterday” và “Let It Be”. Từ khi ra đời đến năm 1972, bài này đã được cover lại 372 lần. Đây là lần đầu tiên Paul có can đảm để viết một ca khúc theo đúng ý thích của mình mà không phải là rock and roll. “And I Love Her” cũng là ca khúc đầu tiên mà Beatles thu âm hoàn toàn bằng nhạc cụ acoustic. Theo Paul, giai điệu du dương của bài hát phần nào chịu ảnh hưởng ca khúc “Till There Was You” mà nhóm đã thu âm trước đó. Mặc dù Paul bảo rằng mình viết ca khúc này không dành cho một người đẹp cụ thể nào, nhiều người vẫn tin đây là ca khúc Paul viết để xoa dịu cơn ghen của Jane Asher vì trước đó khoảng 1 tháng, Jane đã than phiền với báo chí ở Mỹ rằng: “Paul là một người ích kỉ. Anh đã có tình yêu của tôi nhưng vẫn muốn những cô gái trẻ tuổi khác. Anh ta không biết rằng chỉ có tình yêu của tôi mới là thật, còn đối với các fan nữ, đó đơn thuần chỉ là sự hâm mộ nhất thời!” Tell Me Why (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums John viết bài hát này theo phong cách của các nhóm nữ da đen như Shirelles và Supreme vì bộ phim cần một bài sôi nổi. Về mặt nội dung, chủ đề quen thuộc của John “tôi yêu em, tôi bị em phản bội và lừa dối” lại ẳ được sử dụng. Thật ra chẳng có cô nào phản bội John cả, chỉ có John là kẻ đùa giỡn với tình yêu. Sau mỗi lần “ăn vụng” John cảm thấy có lỗi với Cynthia và thay vì đứng ra nhận lỗi, anh lại viết một ca khúc đổ lỗi cho người con gái và biến mình thành nạn nhân thay vì thủ phạm. John công nhận mình là một kẻ tồi trong thời gian sống với Cynthia, vì mỗi lần như thế, anh lại kiếm chuyện để hành hạ Cynthia nhằm che giấu tội lỗi của mình. Mãi đến năm 1971, được sự khuyến khích của Arthur Janov, người điều trị cho John bằng phương pháp “Primal Scream”, John mới dám viết những ca khúc bộc bạch hết những nổi niềm của mình. Can’t Buy Me Love (McCartney 9/ Lennon 1) UK Chart 1/ US Chart 1 McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm guitar Harrison: lead guitar (12 dây) Starr: drums Bài hát được viết ở khách sạn George V, Paris ngay sau đêm nhóm được tin “I Wanna Hold Your Hands” đạt hạng nhất ở Mỹ trên cây đàn piano trong đại sảnh. John có lúc bảo mình cùng Paul viết ca khúc này có lúc thì bảo đó là tác phẩm hoàn toàn của Paul. Paul viết bài này như câu trả lời cho bài “Money” của Gordy và Bradford, một ca khúc được Beatles thu âm trước đây. Lúc đầu nhóm định thu âm với phần lời trước nhưng ông George Martin đưa ra ý kiến nhóm nên bắt đầu bài hát bằng phần điệp khúc vì ông cho rằng như thế sẽ hiệu quả hơn. Trong phim, bài hát này được lồng vào cảnh quay tứ quái sau khi chạy lòng vòng trong hành lang tối thoát ra ngoài bằng lối thoát hiểm và cùng vui đùa ngoài trời. Dick Lester nhớ lại rằng đây là cảnh tự nhiên nhất của nhóm Beatles trong phim, có lẽ vì họ đã lâu không được thoải mái vui đùa như thế. Năm 1966, một tờ báo Mỹ khi phỏng vấn Paul về bài hát này đã hỏi rằng liệu có phải bài này ám chỉ về mại dâm không. Paul bực mình bảo rằng họ đã suy diễn quá mức cần thiết. Any Time At All (Lennon 10) McCartney: bass, piano Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums John không đánh giá cao bài này mặc dù đây là tác phẩm của anh viết. Theo John, đây chỉ là một bản copy của “It Won’t Be Long” vì John sử dụng cùng một chuỗi hợp âm cho cả phần điệp khúc và phần lời ở cả hai bài hát. Bản thảo bài hát này được mua với giá 6000 bảng Anh tại chợ đấu giá Sotherby’s năm 1988. I’ll Cry Instead (Lennon 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm, hát chính, tambourine Harrison: lead guitar Starr: drums Một bài hát nữa rất “John”. John đe dọa rằng sau khi đã khóc đã đời, anh sẽ “break the hearts (of girls) around the world” để trả thù. Bài hát cũng phần nào nói lên tâm trạng căng thẳng của John trên đỉnh cao của danh vọng (I got a chip on my shoulder that’s bigger than my feet). Lúc đầu bài hát này được dự định sử dụng cho cảnh nhóm Beatles chạy ra cửa thoát hiểm nhưng sau bị loại ra khỏi phim và thay bằng bài “Can’t Buy Me Love”. Khi bộ phim được tái phát hành năm 1986, bài hát này được sử dụng trong phần giới thiệu đầu phim, trước khi chuyển sang bài “A Hard Day’s Night” Things We Said Today (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic, tambourine, hát bè Harrison: lead guitar Starr: drums Paul viết bài này khi đi nghỉ mát ở Bahamas với Jane Asher và vợ chồng Ringo trên chiếc du thuyền mang tên Happy Day. Bài hát phản ánh khá chân thật mối quan hệ của Paul và Jane lúc bấy giờ. Đây là một trong số ít bài hát của Paul được John khen là hay. When I Get Home (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums Được John miêu tả như một bài hát chịu ảnh hưởng phong cách của Wilson Pickett và Marvin Gaye hãng Motown, ca khúc này có phần lời tương tự như “A Hard Day’s Night.” So với các Beatles khác, sau mỗi tour diễn, John chỉ thích về nhà nằm xem tivi chứ không thích la cà đây đó. Điều này được phản ảnh qua một số ca khúc của John. Có lẽ lúc nào John cũng mong được sống yên ổn trong một mái ấm gia đình do sự thiếu thốn tình cảm từ nhỏ. You Can’t Do That (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: lead guitar, hát chính Harrison: rhythm guitar (12 dây), hát bè Starr: drums, cowbell, bongos Lần đầu tiên John thử chơi lead trong ca khúc của Beatles để khai trương cây Rickenbacker mới cáu Model 1996. Đây cũng là ca khúc đầu tiên George thu âm bằng cây đàn 12 dây. Mặc dù không thích phần lead guitar của mình lắm, John vẫn vớt vát bảo rằng dù có cho George chơi ẳ solo thì cũng chẳng hay hơn được là bao. Trong bài hát này, John công khai đe dọa người yêu của mình rằng sẽ bỏ rơi cô nếu còn bắt gặp cô gái nói chuyện với người con trai khác thêm một lần nữa. John luôn nổi tiếng với các cơn ghen bóng gió nhưng rất khủng khiếp và Cynthia luôn là người gánh chịu hậu quả. Chỉ cần thấy Cynthia nói chuyện khá thân mật với một chàng trai nào đó (trong đó có cả Stuart Sutcliff) là John sẵn sàng dùng vũ lực với cô. Phần video của bài hát được quay trong tour diễn đầu tiên của Beatles ở Mỹ với dự định đưa vào bộ phim “A Hard Day’s Night” nhưng sau bị loại ra vì không biết phải nhét vào đâu cho thích hợp. I’ll Be Back (Lennon 10) McCartney: bass, acoustic guitar, hát bè Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: acoustic guitar, Starr: drums Lúc đầu bài hát này chơi theo nhịp ¾ nhưng John đổi sang nhịp 4/4 cho dễ hát. Phần điệp khúc được John viết dựa trên chuỗi hợp âm của bài “Runaway” do Del Shannon trình bày năm 1961. So với “You Can’t Do That”, ca khúc này có vẻ như lời xin lỗi trước thói ghen tuông quá đáng của mình, nhưng John vẫn đổ lỗi cho người yêu làm tan nát trái tim mình chứ không thành khẩn nhận lỗi. Anh quay trở lại với tư cách người tha thứ chứ không phải là kẻ được tha thứ. Beatles For Sale Sau thành công vượt bậc của “A Hard Day’s Night”, Beatles có 2 tháng để sáng tác và thu âm album tiếp theo. Với một quĩ thời gian eo hẹp như thế thì John và Paul dẫu có tài thánh cũng không thể sáng tác toàn bộ album được. Trong số 14 ca khúc của album, chỉ có 8 bài là của John và Paul, 6 bài còn lại là những ca khúc rock and roll mà nhóm hay chơi khi còn ở Hamburg và Liverpool. So với A Hard Day’s Night, Beatles For Sale đánh dấu một sự trưởng thành về mặt hòa âm phối khí và sự đa dạng về chủ đề trong sáng tác. Nhóm bắt đầu ý thức được tầm ảnh hưởng của mình nên viết những ca khúc mang nhiều tính tự sự hơn là đơn thuần theo công thức “boy meets girl”, một công thức mà hầu như các nhóm nhạc pop thời bấy giờ đều rập khuôn theo. Ảnh hưởng của Bob Dylan có thể thấy rõ trong album này nhất là trong các ca khúc của John về ca từ và cách hát. John Lennon luôn thần tượng Bob Dylan, nhất là sau khi gặp được Bob trong chuyến lưu diễn ở Mỹ. Ảnh bìa album được Robert Freeman chụp bốn chàng trai tứ quái mệt mỏi và bơ phờ. Nó phần nào lột tả được những gì đằng sau ánh hào quang của Beatlemania. Phát hành ngày 4/12/1964, album nhanh chóng lên thẳng ngôi đầu bảng thay thế A Hard Day’s Night và trụ lại 9 tuần lễ. Ở Mỹ, album được phát hành dưới cái tên Beatles’ 65 gồm 8 bài do nhóm sáng tác và một bài lấy từ album trước. Trong tuần đầu tiên, album này đã bán được trên 1 triệu bảng. Dường như tất cả những gì có liên quan tới Beatles đều có thể biến thành vàng cả. I Feel Fine (Lennon 10) UK Chart 1/ US Chart 1 McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, lead, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Được phát hành dưới dạng single tháng 11/64 (ngày 23 ở Mỹ và 27 ở Anh), đây là đĩa đơn đầu tiên của Beatles được phát hành trước ở Mỹ. Nếu như cách đây chưa đầy một năm, các hãng đĩa lớn ở Mỹ luôn từ chối phát hành đĩa của Beatles vì không tin tưởng vào mức độ thành công của nhóm nhạc Anh này trên đất Mỹ thì đến cuối năm 1964, họ lại chầu chực mong được kí hợp đồng phát hành đĩa cho Beat. John viết đoạn riff của ca khúc này dựa trên ca khúc “Watch Your Step” của Bobby Parker năm 1961. Theo lời của Ringo thì anh có giúp John hoàn tất phần lời của bài hát, tuy nhiên khi đăng kí quyền tác giả, bài này vẫn được đăng kí với cái tên Lennon/McCartney chứ không phải là Lennon/Starkey. Một điều nữa thường hay bị ngộ nhận về “I Feel Fine” là tiếng feedback của cây guitar nghe ở đầu bài không phải của George mà là của John. John tựa cây đàn Gibson của mình vào loa sau khi tập và vô tình tạo hồi âm. Thay vì loại bỏ nó như những lần thu âm trước, John đề nghị ông George Martin giữ lại và thế là bài hát được mở đầu bằng tiếng feedback như một kĩ thuật thu âm mới. Sau này Jimi Hendrix và Pete Townshend của the Who khai thác triệt để tiếng feedback khi chơi guitar live. She’s A Woman (McCarney 9/ Lennon 1) US Chart 4 McCartney: bass, piano, hát chính Lennon: rhythm guitar Harrison: lead guitar Starr: drums,maracas. Paul sáng tác bài này ngày 8/10/1964 tại khu St John’s Wood và thu âm cùng ngày hôm đấy. Đây là nỗ lực của Paul bắt chước “Lucille” của Little Richard và cũng là bài đầu tiên của Beatles ám chỉ đến việc sử dụng ma túy (turn me on when I get lonely). Được phát hành ở Mỹ dưới dạng single, bài hát này lúc đầu không được đón nhận nồng nhiệt cho lắm vì nhiều người cho rằng Paul hát lạc tone. Eight Days a Week (McCartney 7/ Lennon 3) US chart 1 McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead Starr: drums Sau thành công của A Hard Day’s Night, ông Epstein muốn Beatles làm thêm một bộ phim nữa, Eight Days a Week được viết như là bài hát chính cho bộ phim tiếp theo. Tuy nhiên khi nhóm quyết định sử dụng Help! để làm ca khúc chủ đề cho bộ phim mới thì Eight Days a Week bị loại. Theo John thì tựa bài hát lấy từ câu than phiền của Ringo về tình trạng làm việc quá tải. Còn Paul thì cho rằng đó là câu nói của tài xế riêng của mình. Ringo không có ý kiến. John luôn chê bài hát này là một bài hát dở. Anh bảo rằng: “Đây là nỗ lực của Paul viết một ca khúc nghe được làm chủ dề cho bộ phim sắp tới, nhưng may mà tôi đã sáng tác “Help!” và thế là nó bị cho ra rìa”. Nhiều người cho rằng Eight Days a Week là ca khúc đầu tiên sử dụng kĩ thuật fade-in (hát nhỏ dần khi kết thúc) trong thu âm. No Reply (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead, hát chính Starr: drums Một bài hát nữa rất John, ghen tuông và đau khổ. John nói rằng bài này được viết dưới sự ảnh hưởng của ca khúc “Silhouettes” của nhóm Rays năm 1957 về chuyện một chàng trai khi đến nhà người yêu thì thấy bóng của cô gái và một chàng trai khác hắt lên tường. Câu “I Saw the Light” lấy ý từ bài hát cùng tên năm 1948 của ca sĩ nhạc đồng quê Hanks William. Tuy nhiên bài hát của William là bài hát mang tính chất tôn giáo, the light trong bài đó có nghĩa là ánh sáng cứu rỗi, còn trong ca khúc của John, anh nhìn lên phòng cô gái, thấy ánh đèn nhưng cô bảo rằng không có nhà. Khi nghe bài hát này, Dick James, một nhà biên tập âm nhạc đồng thời là bạn thân của George Martin đã bảo John rằng: “Cuối cùng thì cậu cũng đã viết được một ca khúc có cốt truyện hoàn chỉnh!” I’m a Loser (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic guitar, harmonica, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Trong một buổi gặp gỡ với nhà báo Kenneth Allsop trong tiệc chiêu đãi của đài BBC tháng 3 năm 1964, Allsop đã khuyên John đừng viết theo lối mòn của nhạc pop thời bấy giờ mà nên viết theo đúng những gì mình nghĩ. Lời khuyên này có ảnh hưởng rất lớn đối với John và có thể nói đối với cả âm nhạc sau này vì sau khi John viết “I’m a Loser” như một lời tâm sự, nhạc pop mới thật sự có chiều sâu và chiều rộng về mặt nội dung. Một ảnh hưởng nữa đối với “I’m a Loser” là phong cách Bob Dylan. John và Paul sau khi gặp Bob và nghe album the Freewheelin’ Bob Dylan đã tìm mua bằng được các album của Bob và nghe từ đầu đến cuối trong suốt hai tuần liền. Chất giọng nhừa nhựa và lối chơi harmonica của John trong bài này cũng là do ảnh hưởng của Bob Dylan mà ra. Lần đầu tiên Lennon công nhận rằng mình là một gã tồi, không như vẻ bề ngoài bảnh bao trên sân khấu. Baby’s in Black (Lennon 5/ McCartney 5) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums, tambourine Bắt đầu từ đầu năm 1964, John và Paul ít khi viết chung với nhau vì mỗi người đều hình thành một tư duy âm nhạc riêng. Cả hai đều không cảm thấy thoải mải làm việc chung với nhau như trước vì họ luôn sợ cái tôi của mình bị cái tôi của người kia chèn ép. Baby’s in Black là một ca khúc hiếm hoi được John và Paul viết cùng với nhau. Tuy nhiên ảnh hưởng của John vẫn rõ nét hơn Paul trong bài này. I’ll Follow the Sun (McCartney 10) McCartney: acoustic guitar, hát chính Lennon: acoustic guitar, hát bè Harrison: hát bè Starr: bongos Được viết năm 1959 sau cái chết của Buddy Holly như một lời tri ân mà Paul dành cho thần tượng của mình. Buddy Holly và nhóm Crickets của ông có ảnh hưởng rất lớn đối với Beatles vì không như các ca sĩ khác, Buddy Holly thành công không nhờ bề ngoài bảnh bao mà do tài sáng tác ca khúc. Chính đôi kính cận của Buddy Holly đã khiến John tự tin hơn vì có thời gian anh luôn mặc cảm khi phải đeo kính. Bài hát còn phản ánh triết lí về tình yêu của Paul. Khác với John, Paul không cho mình là nạn nhân mà luôn nắm quyền chủ động trong tình thế. Về mặt nội dung, “I’ll Follow the Sun” gần giống với ca khúc “Free Bird” của nhóm Lynnyrd Skynnyrd sau này. Every Little Thing (McCartney 9/ Lennon 1) McCartney: bass, piano, hát chính Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums, tympani Paul viết bài này tặng cho Jane Asher, rủi thay đây lại là bài Jane rất ghét vì theo cô, Paul muốn cô hi sinh sự nghiệp riêng để làm một người nội trợ bình thường. Trên thực tế, Paul chưa bao giờ ủng hộ sự nghiệp điện ảnh của Jane và đó cũng là điều khiến hai người tan vỡ. Lúc đầu bài này được dự định phát hành dưới dạng đĩa single nhưng sau bị loại vì theo George Martin, nó quá đơn giản về mặt nội dung. Theo cuốn B-List, Harrison không tham gia thu âm bài này và John là người chơi solo guitar thay George. I Don’t Want to Spoil the Party (Lennon 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums, tambourine John viết bài này ngày 24/8/1964 trong chuyến thăm Los Angeles ngắn hạn của Beatles. Trong hai ngày ở Los Angeles, nhóm Beatles mệt nhoài với những buổi họp báo với hơn 200 phóng viên và buổi diễn ở Hollywood Bowl, vì thế đêm cuối cùng ở Los, John đã từ chối tham gia buổi tiệc chiêu đãi ở nhà của Burt Lancaster. Paul, George và Ringo đều đến tham dự buổi tiệc nói trên. Bài hát thể hiện sự mệt mỏi và chán chường muốn xa lánh những chỗ đông người của John sau mỗi buổi diễn. What You’re Doing (McCartney 9/ Lennon 1) McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm, hát bè Harrison: lead, hát bè Starr: drums George Martin: piano Đến lượt Paul là người than thở về người yêu của mình theo cách của John. Bài hát phần nào tiết lộ những rạn nứt trong mối quan hệ của Paul và Jane Asher. Được thu âm ngày 24/9/64, bài hát bị bỏ quên đến tận gần một tháng sau mới được hoàn tất và đưa vào album. Tim Riley, tác giả của cuốn Tell Me Why ca ngợi bài này như là một đột phá về mặt thu âm của nhạc pop. Help! Sau thành công của “A Hard Day’s Night”, bộ phim thứ hai của Beatles được thực hiện vào năm đầu năm 1965 là một bộ phim màu, một điều khá xa xỉ thời đó. Bộ phim được quay từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1965 ở nhiều địa điểm khác nhau như London, vùng núi Alps ở Áo và đảo quốc Bahamas ở vùng biển Caribean. Trong bộ phim này, Ringo trở thành nhân vật chính, nạn nhân bất đắc dĩ của một giáo phái tà đạo ở Ấn Độ vì chiếc nhẫn anh đeo là chiếc nhẫn hiến tế. Tham gia bộ phim còn có nữ diễn viên Eleanor Bron và một số diễn viên chuyên nghiệp khác. Tuy nhiên khi bộ phim ra đời, nhóm Beatles đều tỏ ra thất vọng về nó. Paul cho rằng nhóm Beatles trong bộ phim này giống như những diễn viên quần chúng hơn là những nhân vật chính. John gọi nó là đồ rác rưởi và vai trò của nhóm Beatles trong bộ phim giống như những con nghêu trong một bộ phim về loài ếch. Tuy nhiên album Help! lại là một album hay của Beatles. So với các album trước, Help! Có khuynh hướng thiêng về folk rock và nặng tính tự sự hơn. John đóng góp hai ca khúc quan trọng là “Help!” và “You Gotta Hide You Love Away” và Paul với một “Yesterday” bất hủ. George Harrison cũng có dịp trổ tài sáng tác với “I Need You” và “You Like Me Too Much”. Cũng trong album này, Paul thử sức với vị trí lead guitar qua “Ticket to Ride” và “Another Girl” còn George lần đầu tiên làm quen với âm thanh quyến rũ kì ảo của cây đàn sitar 21 dây của Ấn Độ. Một điều quan trọng nữa xảy ra với nhóm Beatles trong thời gian này là việc thành lập công ty Northern Song Ltd., chịu trách nhiệm giữ bản quyền các ca khúc của nhóm. Lí do John và Paul để cho Northern Song Ltd. giữ bản quyền là vì trong thập niên 60-70, nghệ sĩ ở Anh phải nộp thuế rất nặng đến 85% tiền bản quyền. Việc lập ra một công ty giữ bản quyền là một hình thức trốn thuế của nhóm Beatles. Nhưng cũng vì việc này mà sau khi nhóm Beatles tan rã, John và Paul không có quyền kiểm soát việc phát hành các bài hát của mình thời Beatles. Help! được phát hành ở Anh ngày 6/8/1965 và lên ngôi quán quân trong suốt 11 tuần. Ở Mỹ album được phát hành ngày 13/8/65 với 7 bài trong phim, mặt B của đĩa là 6 bản hòa tấu được sử dụng làm nhạc phim. Còn những bài còn lại được phát hành trong album “Yesterday and Today”. Nhóm Beatles rất bất mãn với tình trạng album của họ ở Mỹ bị xào nấu một cách vô tội vạ mặc dù nó mang lại cho nhóm nhiều tiền hơn. Yes It Is (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums John không thích ca khúc này. Anh gọi nó là một bản sao thất bại của “This Boy” và cho rằng mình sáng tác bài này chỉ để đáp ứng thị hiếu của thính giả lúc bấy giờ. I’m Down (McCartney 9/ Lennon 1) McCartney: bass, hát chính Lennon: Hammond organ, hát bè Harrison: lead, hát bè Starr: drums, bongos Đây là nỗ lực của Paul bắt chước “Lucille” của Little Richard. Trong nhóm Beatles, Paul là fan trung thành nhất của Little Richard và chịu ảnh hưởng rất lớn của nghệ sĩ rock and roll đàn anh này. Năm 1962, nhóm Beatles có dịp được gặp gỡ với Little Richard khi ông trình diễn tại Hamburg,. Trong tour diễn cuối cùng ở Mỹ, Beatles thường chơi “I’m Down” để kết thúc buổi diễn của mình. Help! (Lennon 10) UK Chart 1/ US Chart 1 McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums, tambourine John luôn coi bài hát này là một trong những ca khúc tâm đắc nhất của mình. Đây là lần đầu tiên, John bỏ đi cái vẻ ngoài kiêu ngạo khinh khỉnh của mình để cất lên lời kêu cứu. Bài hát được viết tại nhà riêng của John ở Kentwood trong giai đoạn mà John gọi là giai đoạn “Elvis béo phì” của mình. Ước mơ ở trên đỉnh cao của thế giới cuối cùng đã đạt được, ở tuổi 25, John có tất cả trong tay, tiền tài, danh vọng, gia đình nhưng anh cũng phải trả cái giá của việc trở thành ngôi sao. Những chuyến lưu diễn và họp báo kéo dài khiến John mệt mỏi. Anh bắt đầu sử dụng chất kích thích và tăng cân do tiệc tùng vô độ. Maureen Cleave, nhà báo kiêm nhân tình của John giúp John hoàn tất phần lời của ca khúc này. Điều duy nhất John không bằng lòng với “Help!” là anh phải chơi bài này theo nhịp nhanh theo kiểu “She Loves You” để thỏa mãn thị hiếu của các fan trong khi John muốn chơi nó theo phong cách của Bob Dylan. The Night Before (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: piano điện, hát bè Harrison: lead, hát bè Starr: drums Paul không nhớ gì nhiều về bài hát này, chỉ nhớ là nó được viết cho bộ phim theo yêu cầu của đạo diễn. Phần ngoại cảnh của bài hát này được quay tại cánh đồng Salibury trong một ngày rét cắt da với tứ quái trong bộ quân phục bị bao vây bởi xe tăng của đối phương. You’ve Got to Hide Your Love Away (Lennon 10) McCartney: acoustic guitar Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: acoustic guitar, Starr: tambourine Session musician: sáo John viết bài này theo phong cách Bob Dylan nhằm ám chỉ đến những mối quan hệ đồng tính của ông bầu Brian Epstein. Trong nhóm Beatles, John luôn là người tai quái nhất. Ở Anh, đồng tính luyến ái được coi là phạm pháp cho tới năm 1967 vì thế các mối quan hệ của ông Epstein được giữ rất kín nhưng John là người luôn tìm cách bới móc ra. Cũng có người cho rằng John viết về những mối tình vụng trộm của mình. Giả thuyết nào cũng có cái lí của nó nhưng giả thuyết về Brian Epstein được John úp mở thừa nhận. Đây là bài hát đầu tiên nhóm Beatles sử dụng nhạc sĩ phòng thu để thu âm phần nhạc cụ mà mình không chơi được. Nó cũng là bài hát đầu tiên bị hát sai lời nhưng không sửa. John viết “feeling two foot tall” nhưng khi hát lại hát thành “two foot small”. Paul phát hiện ra điều này nhưng bảo John cứ để thế vì nghe sáng tạo hơn. Trong năm 65, một nhóm nhạc folk có tên là Silkie đã thu âm lại bài này với sự trợ giúp của John, Paul và George. Paul và George chơi guitar cho bản cover còn John sản xuất bài này dưới dạng đĩa đơn. Phiên bản của nhóm Silkie lọt vào top 40 Billboard ở vị trí 29. I Need You (Harrison 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic, hát bè Harrison, lead, hát chính Starr: drums. Lần đầu tiên pedal wah-wah được sử dụng để thu âm trong lịch sử nhạc rock. Tiếng wah-wah sau này trở thành thứ âm thanh vô cùng thịnh hành trong thập niên 60 và 70 với thể loại psychedelic và disco. Nhiều quyển sách về Beatles cho rằng George viết bài này cho Pattie khi nhóm quay phim ở Bahamas. Trên thực tế điều này không thể xảy ra vì cảnh quay bài hát này trên cánh đồng Salibury cùng với “The Night Before” được quay trước khi nhóm đến Bahamas. Bài này cùng với “You Like Me Too Much” là hai bài duy nhất mà George không nhắc đến trong cuốn tự truyện “I Me Mine” xuất bản năm 1980 của mình. Another Girl (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính, lead guitar (phần outro) Lennon: acoustic guitar, hát bè Harrison: lead, hát bè Starr: drums Paul viết bài hát này trong kì nghỉ 10 ngày ở Tunisia tại tòa nhà nổi tiếng Sebastian’s Villa, nơi dừng chân của nhiều danh nhân như nhà văn Hemmingway, F. Scott Fitzgerald, thủ tướng Anh Churchill và vua Edward II. Bài hát phần nào tiết lộ sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa Paul và Jane Asher. Trước công chúng, hai người vẫn tay trong tay nhưng trên thực tế, Paul bắt đầu hò hẹn với những cô gái khác. Phát biểu về ca khúc này, John nói: “Kể từ giờ trở đi, mỗi ca khúc của Beatles đều chứa đựng một sự thật, có thể vui có thể buồn. Chúng tôi sẽ chỉ viết với những cảm xúc cá nhân chân thật. Chúng tôi chán ngấy việc sáng tác theo đơn đặt hàng rồi.” Phần video của bài này được quay ở Bahamas trên hòn đảo Balmoral với cảnh John chơi trống và Ringo thì ôm guitar của John. You’re Gonna Lose that Girl (Lennon 10) McCartney: bass, piano, hát bè Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums, bongos Nếu trong “She Loves You”cách đó hai năm, John đứng ra làm người hòa giải giữa một cặp tình nhân, bảo chàng trai hãy xin lỗi người yêu của mình thì trong “You’re Gonna Lose That Girl”, John công khai tuyên bố rằng mình sẽ tán cô nàng nếu chàng trai kia không liệu mà gìn giữ cho tốt. George thu âm bài này bằng cây guitar Fender Stratocaster màu xanh nước biển mới đặt từ Mỹ. Cây đàn này sau được sơn lại theo phong cách psychedelic và đặt tên là Rocky. Ticket to Ride (Lennon 10) UK Chart 1/ US Chart 1 McCartney: bass, lead guitar, hát bè Lennon: rhythm guitar, tambourine, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums John gọi bài này là một trong những ca khúc heavy metal được thu âm do nhịp trống mạnh và tiếng guitar biến dạng phát ra từ cây đàn Epiphone Casino của Paul. Nội dung bài hát vẫn là chủ đề quen thuộc của John: bị người yêu phản bội. Tuy nhiên, theo Don Short, một kí giả âm nhạc người đã từng quen với Beatles những ngày còn ở Hamburg, cụm từ “ticket to ride” trong tiếng lóng của người Đức ám chỉ giấy chứng nhận không có bệnh truyền nhiễm và bệnh hoa liễu của gái mại dâm. Ở Đức, mại dâm được hợp pháp hóa và các cô gái bán hoa phải đi khám bác sĩ định kì. Nếu được chứng minh là không có bệnh, các cô sẽ được cấp cho một “ticket to ride”, một giấy chứng nhận của bác sĩ để tiếp tục hành nghề. Don Short cho rằng, mặc dù John không ám chỉ đến vấn đề đó, nhưng cụm từ “ticket to ride” chắc chắn lấy cảm hứng từ những ngày sống trong khu đèn đỏ ở Hamburg. It’s Only Love (Lennon 10) McCartney: bass Lennon: acoustic guitar, tambourine, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums John ghét cay ghét đắng bài này vì ca từ của nó sáo rỗng và giả tạo. Trong bài này John cưa sừng làm nghé mô tả lại cảm giác hồi hộp trong lần hò hẹn đầu tiên. Bài này sau được George Martin dùng để thu âm cho dàn nhạc giao hưởng với cái tựa “It’s a Nice Hat”, tựa đầu tiên của bài hát. You Like Me Too Much (Harrison 10) McCartney: piano, hát bè Lennon: acoustic guitar, piano điện Harrison: lead guitar, hát chính Starr: drums, tambourine George Martin: piano (chơi cùng với Paul trên một chiếc piano) George viết bài này về mối tình của mình và Pattie Boyd, tuy nhiên trong I Me Mine, George không bình luận gì về ca khúc này. John thì gọi đây là một ca khúc “vứt đi” không đáng thu âm. Lúc đầu nó được dự định đưa vào bộ phim “Help!” nhưng sau đó đạo diễn Dick Lester chọn “I Need You” để thay thế. Tell Me What You See (McCartney 10) McCartney: bass, piano điện, hát chính Lennon: washboard guitar (không biết là loại nhạc cụ gì, tìm không thấy thông tin trên net), hát chính Harrison: lead guitar, tambourine Starr: drums, claves (song lang) Paul đánh giá về bài này như một “bài tập về nhà” hơn là một bài hát thực sự. Chính vì vậy, khi nó bị loại ra khỏi bộ phim “Help!” anh đã không phàn nàn gì. I’ve Just Seen a Face (McCartney 10) McCartney: acoustic guitar, hát chính Lennon: acoustic guitar, Harrison: acoustic electric guitar Starr: drums, maracas Cô Ginnie của Paul thích giai điệu của bài hát này nên Paul gọi nó với cái tên thân mật là “Auntie Gin’s theme” Cô Gin của Paul là em út của ông James McCartney và là người được Paul rất yêu quí. Trong bài “Let Them In” của Paul với nhóm Wings sau này, tên của người cô này cũng được nhắc đến. Bài này được George Martin thu âm cho dàn nhạc giao hưởng với cái tên “Auntie Gin’s Theme” Yesterday (McCartney 10) US Chart 1 (Ở Anh bài này đến năm 1976 mới được phát hành dạng đĩa đơn) McCartney: acoustic guitar, hát chính Nhạc đệm do dàn nhạc dây bốn người thực hiện. Đây là bài hát đầu tiên của Beatles được thu riêng lẻ không có sự hợp tác của các thành viên khác. Tuy nhiên khi diễn live, bài hát được phối lại để John, George và Ringo cũng có thể tham gia. Paul khi chơi bass, khi chơi guitar gỗ bài hát này khi diễn live. Ca khúc nổi tiếng nhất của Beatles, đến mức những người không biết Beatles là ai cũng phải biết ca khúc này. Đối với fan của Beatles, có lẽ câu chuyện Paul thức dậy với giai điệu của bài hát trong đầu và bắt đầu ngồi xuống cây đàn piano để viết bài hát này với tựa đề “Scrambled Egg” đã quá quen thuộc. Thực ra xung quanh bài hát này có khá nhiều giai thoại. Một trong những giai thoại về “Yesterday” Paul sau khi viết xong phần nhạc đã bỏ ra một tháng trời để hỏi những người trong nghề rằng có ai đó đã nghe bài này bao giờ chưa vì theo Paul, bài hát này quen thuộc với anh tới mức, anh nghĩ rằng mình nghe nó ở đâu đó rồi và nhớ lại chứ không phải tự sáng tác. Sau khi chắc chắn là mình không đạo nhạc của ai, Paul mới bắt đầu sáng tác lời. Phải mất thêm một tháng nữa lời bài hát mới hoàn thành khi Paul và Jane Asher đang nghỉ mát ở Lisbon, Bồ Đào Nha. Trong thời gian đóng phim “Help!” Paul thường ngồi hàng giờ bên cây piano trong phòng thu và ngâm nga “Scrambled eggs, oh you’ve got such lovely legs” khiến cho đạo diễn Dick Lester phát bực. Ông bảo Paul nếu không viết tiếp được thì bỏ đi chứ cứ ngâm nga kiểu này, ông sẽ cho mang cây piano ra khỏi trường quay. Mặc dù luôn được đánh giá là một ca khúc có ca từ đẹp, không ai có thể chắc chắn rằng bài hát này nói về cái gì. Bài hát mang một nét đẹp mơ hồ và trừu tượng, man mác nỗi buồn hoài cổ chứ không cụ thể như các bài hát trước của Beatles. Nó đánh dấu bước phát triển về mặt tư duy trong sáng tác của Beatles và chính vì điều này, “Yesterday” mở đường cho Beatles tấn công thị trường âm nhạc của người nghe nhạc nghiêm túc (Adult Contemporary Music). Một giai thoại ít được người biết đến về ca khúc này có liên quan tới tính “thù dai” của Paul. Iris Carweld, bạn gái cũ của Paul, người được xem là nguồn cảm hứng của “I Saw Her Standing There” nhớ lại rằng cô và Paul chia tay nhau tháng 3 năm 1963 vì Paul không cho cô nuôi chó. Sau này Paul hối hận và gọi điện thoại cho Iris để làm lành. Tuy nhiên, bà Violet, mẹ của Iris trả lời điện thoại bảo rằng con gái mình không muốn tiếp tục quen với một người “không có linh hồn” như Paul. Ngày 1/8/1965, bà Violet nhận được một cú điện thoại, người ở đầu dây bên kia không ai khác hơn là Paul McCartney. Bằng giọng đắc thắng, Paul nói: “hãy mở đài lên mà nghe “Yesterday” rồi xem bà còn có thể bảo tôi là người không có linh hồn nữa không?” Một chuyện khá thú vị nữa về “Yesterday” là năm 2003, một nhà báo Liverpool tên Spencer Leigh phát hiện ra rằng phần lời của bài hát này khá giống với lời của bài “Answer Me” của Nat King Cole năm 1953, trong đó có đoạn: “Yesterday I believed that love was here to stay/ Won’t you tell me that I’ve gone astray” Văn phòng đại diện của Paul bác bỏ lời suy đoán này, bảo rằng hai bài chẳng có gì liên quan với nhau cả. Rubber Soul Nhiều nhà phê bình âm nhạc xem Rubber Soul như một trong những album hay nhất và “chín” nhất về mặt tài năng của Beatles nhất là khi nhóm phải làm việc với một thời khóa biểu vô cùng khắc nghiệt để cho ra đời album vào dịp Giáng Sinh năm 1965. Bắt đầu thu âm ngày 12/10/65, John và Paul chỉ có khoảng 4 bài hát trong khi đòi hỏi lần này là phải có trên 10 bài và không được cover lại những bài hit khác. Trong thời gian 4 tuần, hai tay sáng tác chính phải vừa thu âm vừa sáng tác để kịp thời hạn, và cũng do vì gấp rút như thế nên George Harrison mới có cơ hội đóng góp 2 bài trong tổng số 12 bài của album. Trong thời gian thu âm album này, mâu thuẫn giữa John và George với Paul ngày càng căng thẳng. Lí do chính là Paul trở nên “lộng hành” nắm quyền lãnh đạo. Anh thường bắt nhóm bỏ ra hàng giờ để sửa theo đúng ý của mình. Rất nhiều lần Paul đã thu lại phần solo guitar của George vì không vừa ý. Bên cạnh cây bass, Paul luôn mang theo cây guitar để sẵn sàng tranh phần thu của John và George. Điều này làm George cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. John cũng rất bất mãn vì đôi lúc Paul thay ông George Martin chỉ đạo việc mix và sắp xếp ca khúc theo ý của mình. Với thiết bị thu âm hiện đại nhất thời bấy giờ là máy thu âm bốn line, các thành viên của Beatles có thể thu riêng rẽ phần của mình rồi mix lại với nhau. Phần lớn các track của John và George đều được Paul tự tiện sửa theo ý mình. Cái tựa đề “Rubber Soul” cũng là do Paul đặt. Được phát hành năm tháng 12 năm 1965, album lên thẳng hạng nhất bảng xếp hạng Giáng Sinh ở cả Anh lẫn Mỹ. Đây là album đầu tiên của Beatles được phát hành với âm thanh mono và stereo. Day Tripper (Lennon 8/ McCartney 2) UK chart 1/ US chart 5 McCartney: bass, hát chính Lennon: rhythm, tambourine, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums John viết bài này dưới áp lực của việc thị trường lên cơn khát một single mới của Beatles vào mùa Giáng Sinh. Theo John, cách anh xây dựng bài hát này cũng giống như bài “I Feel Fine” với đoạn riff guitar làm nền. Về nội dung, “Day Tripper” úp mở về chuyện nhóm Beatles đã dùng chất kích thích LSD và ám chỉ về tình dục. Câu “She’s a big teaser” lúc đầu được viết là “She’s prick teaser” nhưng khi thu âm phải đổi lại để tránh scandal vì những vấn đề tình dục đối với thời bấy giờ vẫn là một điều cấm kị trong các ca khúc. We Can Work It Out (McCartney 7/ Lennon 3) US Chart 1 McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic guitar, harmonium, hát bè Harrison: tambourine Starr: drums Nhiều người cho rằng bài hát này nói về những xung đột giữa Paul và John trong nhóm Beatles, nhưng thật ra, bài hát này nói về mối quan hệ giữa Paul và Jane Asher. Khi nhóm Beatles chuẩn bị thu âm album “Rubber Soul”, Jane Asher quyết định tham gia công ty điện ảnh Bristol Old Vic Company và theo công ty này đến miền tây của nước Anh quay phim. Điều này khiến Paul suy sụp vì anh không muốn Jane tiếp tục sự nghiệp diễn viên. Nhưng là một cô gái có cá tính mạnh, Jane quyết định theo đuổi con đường đã chọn hơn là núp sau cái bóng của Paul để rồi được biết đến như “người tình của một tay Beatles”. Trong bài hát này, Paul mặc dù xuống nước năn nỉ nhưng vẫn không nhượng bộ. Anh muốn Jane đặt mình vào vị trí của Paul để nhận ra những việc cô làm là sai trái. Đoạn điệp khúc ở giữa “Life is very short, and there’s no time for fussing and fighting my friend” là của John. Phát biểu về ca khúc này, John nói:” Paul luôn tỏ ra lạc quan ngay khi căng thẳng nhất còn tôi thì dễ mất kiên nhẫn, cuộc đời đối với tôi lúc nào cũng quá ngắn” Đoạn này lúc đầu được chơi theo nhịp 4/4 nhưng George đã đề nghị chuyển sang ¾ để nghe có vẻ gấp gáp hơn. Drive My Car (McCartney 7/ Lennon 3) McCartney: bass, piano, hát chính Lennon: tambourine, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Paul gặp khó khăn trong khi viết ca khúc này và khó khăn đó đã được John giải quyết. Lúc đầu, Paul viết “I can give you diamond rings, I can give you everything” nhưng John chê là không sáng tạo. Anh gợi ý sao không viết một cái gì đó cụ thể và rõ ràng hơn như là “drive my car” chẳng hạn. Bài hát phần nào phản ánh mối quan hệ giữa Paul và Jane và tham vọng “wanna be a star” của Jane. Đây cũng là ca khúc đầu tiên Beatles chơi slide guitar phần solo. Norwegian Wood (Lennon 8/ McCartney 2) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic, hát chính Harrison: sitar Starr: tambourine Trong thời gian sống chung với Cynthia, John có vô số mối quan hệ “ngoài luồng” với hàng trăm người đẹp khác nhau và Cynthia mặc dù biết rõ về những mối quan hệ đó vẫn phải giả ngơ cho yên chuyện. John viết “Norwegian Wood” khi đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ với vợ năm 1965 như một lời thú tội với Cynthia về việc lăng nhăng của mình. Tuy nhiên người con gái trong bài hát này vẫn là một ẩn số. Có người cho đó là Maureen Cleave, kí giả và nhân tình của John. Người thì quả quyết rằng đó là nữ diễn viên Eleanor Bron, người cùng đóng phim “Help!” với Beatles. Còn có người thì cho rằng nàng thơ trong bài hát này là nữ ca sĩ nhạc folk nổi tiếng Joan Baez của Mỹ, người từng là bạn đồng hành của Bob Dylan. John khá láu cá khi đổ thừa rằng mình là người bị dụ dỗ chứ không phải là kẻ dụ dỗ (I once had a girl or should I say, she once had me) và kết quả là mình bị bỏ rơi (when I awoke I was alone this bird has flown). Từ một kẻ đáng trách John biến mình thành nạn nhân. Lúc đầu John gọi bài hát này là “This Bird Has Flown” và kết thúc ở chỗ chàng trai bị bỏ rơi. Nhưng Paul đề nghị viết thêm đoạn anh chàng điên tiết đốt những vật dụng bằng gỗ Na Uy trong nhà của cô gái để hả giận (so I lit the fire, isn’t it good, Norwegian wood) Dĩ nhiên trò đùa tinh quái này lập tức được John hưởng ứng. Cái tên Norwegian wood là sản phẩm của Paul vì nội thất trong phòng khách của Peter Asher được làm toàn bằng thứ gỗ này. Tuy nhiên theo Peter Shotton, một người bạn thân của nhóm Beatles, việc đốt bàn ghế để sưởi ấm là một thói quen của John lúc còn học tại trường Mỹ Thuật Liverpool. Căn hộ của John trọ nhỏ đến mức nếu có người đến chơi thì khách hoặc chủ phải ngủ trong bồn tắm. Việc này cũng được nhắc đến trong bài hát. Bài hát cũng còn được biết đến nhiều với tiếng sitar của George Harrison, lần đầu tiên một thứ nhạc cụ phương đông được đưa vào thu âm trong nhạc pop phương Tây. Lúc đầu George đã định bỏ cuộc vì chơi sitar quá khó, nhưng John thách thức George khiến anh quyết tâm chơi bằng được sau nhiều giờ thu không thành công. Sau này lời của “Norwegian Wood” được đưa vào tuyển tập thơ Anh Quốc như một bài thơ hay đương đại. You Won’t See Me (McCartney 10) McCartney: bass, piano, hát chính Lennon: tambourine, hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Mal Evans: Hammond organ Bài này là một bài hát nữa của Paul nói về việc mâu thuẫn với Jane Asher. Trong thời gian Jane Asher đóng vở kịch Great Expectation tại Theatre Royal, Bristol, Paul thường gọi điện cho cô nhưng Jane không tiếp điện thoại. Nhiều lần như thế khiến chàng Paul lạc quan trở nên cáu giận và dọa rằng khi cô về thì sẽ không còn gặp anh nữa. Bài hát chịu ảnh hưởng của “It’s the Same Old Song” của nhóm the Four Tops, một nhóm soul Motown. Nowhere Man (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Với chủ đề tương tự như “Help!” đây là tự sự khá chân thành của John Lennon về bản thân mình. Mặc dù có tất cả nhưng không có gì làm thỏa mãn được John, anh vẫn là một “nowhere man” sống trong “nowhere land” với những kế hoạch chẳng đi tới đâu. John thú nhận với người viết tiểu sử của mình là Hunter Davies rằng khi viết Nowhere Man, anh muốn buông xuôi tất cả vì quá mệt mỏi sau 5 giờ đánh vật với các ý tưởng sáng tác không thành công. Đây là bài hát đầu tiên của Beatles không nói về tình yêu. Think For Yourself (Harrison 10) McCartney: fuzz bass, hát bè Lennon: tambourine, hát bè Harrison: hát chính, lead guitar Starr: drums, maracas Sáng tác của George khá hằn học về những lời nói dối. George không nhớ rằng mình viết bài hát này cho ai, nhưng chắc chắn không phải cho cô vợ mới đính hôn Pattie Boyd vì lúc đấy tình cảm của hai người còn rất mãnh liệt. Điều thú vị về ca khúc này là Paul đã thử dùng bộ phận fuzz distortion của guitar cho cây bass Rickenbacker của mình để tạo âm thanh rất đặc biệt ở đầu một đoạn. The Word (Lennon 6/ McCartney 4) McCartney: bass, piano, hát chính Lennon: rhythm guitar, hát chính Harrison: lead guitar, hát chính Starr: drums, maracas George Marin: harmonium Khi Beatles viết bài này, phong trào hippie bắt đầu trở thành một hiện tượng của thập niên 60. Mọi người bắt đầu nói về tình yêu, về hòa bình và về ma túy. “The Word” được xem như là thông điệp đầu tiên của Beatles với thế giới hippie. Nó còn được xem như bước chuyển tiếp giữa những bản tình ca kiểu cổ như “She Loves You” với những bài hát mang tính kêu gọi về một tình yêu theo nghĩa rộng kiểu “All You Need Is Love”. Michelle (McCartney 65/ Lennon 35) McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic guitar, hát bè Harrison: acoustic guitar, hát bè Starr: drums Nhạc của bài này được Paul viết từ những năm Beatles còn ở Liverpool mà cảm hứng chính có lẽ những buổi tiệc theo kiểu Pháp của Austin Michell, thầy giáo mỹ thuật của John tổ chức. Đầu những năm 60, Liverpool chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi văn hóa Pháp. Sinh viên mỹ thuật Liverpool ăn mặc theo kiểu Pháp, đội beret, để râu theo kiểu Pháp và cầm baton. Đôi khi họ lại hát một số bài hát mang âm hưởng Pháp với giọng giả Pháp. Paul viết “Michelle” như một bài hát “nhái” kiểu Pháp thời đó. Tuy nhiên, John thích giai điệu bài này và đề nghị Paul viết lời một cách nghiêm túc. Phần tiếng Pháp của bài hát được Jan Vaughan, vợ của Ivan Vaughan, lúc bấy giờ là một giáo viên dạy tiếng Pháp viết. (Ivan là người giới thiệu Paul với John năm 1957). Đoạn giữa “I love you” được John viết với chữ “love” ngân dài bắt chước theo bài “I Put a Spell on You” của Nina Simone. Riêng Paul rất tự hào với phần đệm guitar thùng độc đáo theo phong cách Chet Atkins trong bài “Trambone” năm 1961 và hợp âm “khó” F7#9 học được từ Jim Gretty, một chủ hiệu đàn ở Liverpool. What Goes On (Lennon 6/McCartney 2/Starr 2) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm guitar, hát bè Harrison: lead guitar Starr: drums, hát chính Được viết từ năm 1963 và là 1 trong 4 bài được Beatles chơi cho ông George Martin khi gặp mặt. Tuy nhiên ông Martin không thích bài này nên nó bị bỏ quên tới năm 1965. Paul và Ringo lôi nó ra để thêm thắt chút ít phần điệp khúc và để cho Ringo hát chính. Khi được hỏi về đóng góp của mình cho ca khúc này, Ringo bảo “tôi thêm vào được khoảng 5 chữ!” Girl (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic, hát chính Harrison: hát bè Starr: drums John mơ về một cô gái thông minh, sắc sảo, nhưng cũng khá lạnh lùng và tàn nhẫn. Đó là mẫu người mà John mong muốn khi anh đã chán ngấy cô vợ ngoan ngoãn ở nhà và hàng tá các cô gái hâm mộ chỉ biết dâng hiến vô điều kiện. Có lẽ vì vậy mà sau này John mới mê mẫn Yoko Ono vì cô khá giống với cô gái trong ca khúc này. Đây có lẽ là ca khúc được John nói đến nhiều nhất trong các cuộc phỏng vấn thời hậu Beatles. Trong bài hát, John châm biếm giáo điều Cơ Đốc giáo về việc khuyên tín đồ phải chịu nhẫn nhịn và đau khổ trong cuộc sống để được hưởng thanh bình trên thiên đàng (that the man must break his back to earn his day of leisure, does she still believe it when he’s dead). Chỉ 4 tháng sau bài hát này ra đời, John lại tiếp tục chọc giận tín đồ thiên chúa giáo với cuộc phỏng vấn “Beatles nổi tiếng hơn Chúa Cứu thế”. Phần guitar chơi mô phỏng theo tiếng đàn bouzouki của dân nhạc Hi Lạp chịu ảnh hưởng từ lối chơi của Marcello Minerbi trong bài “Zobra’s Dance”. Còn phần hát nền “tit tit tit tit” nhái theo bài “You’re So Good to Me” của Beach Boys I’m Looking Through You (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: acoustic guitar, hát bè Harrison: lead guitar, tambourine Starr: drums, Hammond organ Mặc dù đây là ca khúc của Paul, nó có vẻ khá cay đắng và có cái gì đó rất giống những ca khúc của John. Vẫn bị ám ảnh bởi việc ra đi của Jane Asher, Paul bắt đầu tán tỉnh những cô gái khác để thế chỗ nhưng anh nhận ra mình vẫn còn yêu Jane rất nhiều. Paul tiết lộ với Hunter Davies rằng anh biết mình là người ích kỉ nhưng không thể thừa nhận điều đó vì sợ mất mặt vì thế anh phải tìm cách đổ thừa rằng Jane là người thay đổi để trút bớt gánh nặng trong lòng. In My Life (Lennon 6,5/ McCartney 3,5) McCartney: bass, hát bè Lennon: hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums George Martin: piano John viết lời bài này dưới dạng một bài thơ năm 1964 mang đầy tính hoài niệm và tự sự. Trong thời gian còn ở Beatles, John ít khi nào chịu để lộ con người thật giàu tình cảm của mình. Anh luôn tìm cách che giấu nó bằng cái vẻ bên ngoài nổi loạn khó gần để tránh bị xem như ủy mị, yếu đuối. “In My Life” là một dip hiếm hoi để John bộc lộ những tình cảm thật của mình. Mặc dù đi khắp thế giới, John vẫn yêu mến quê hương Liverpool của mình. Anh luôn giữ những kỉ vật thời thơ ấu và trong năm 1974, John đã viết thư nhờ dì Mimi tìm cho anh chiếc cà vạt đồng phục của trường Quarry Bank để gửi sang New York cho John. Bài hát này có nhiều điểm tương đồng về mặt cảm xúc với bài thơ “The Old Familiar Faces” của nhà thơ lãng mạn thế kỉ 18 của Anh là Charles Lamb. Phần solo piano theo phong cách baroque là đóng góp của George Martin để tôn thêm vẻ đẹp của bài hát. Nó được thu âm với nhịp chậm sau đó chơi ngược lại với tốc độ nhanh gấp đôi để tạo hiệu ứng đặt biệt. John rất thích đóng góp này của George Martin, anh gọi đó là “một tác phẩm nghệ thuật thật sự” Bản thảo của bài hát này được Elliot Minz, người mà Yoko mướn để thống kê tài sản của John sau khi anh bị ám sát, tìm được trong một cuốn sổ to, trong đó John lưu giữ nhiều bản thảo của các ca khúc. George rất thích ca khúc này, anh đã hát lại nó trong buổi diễn năm 1974 của mình với câu “In my life, I love you more” được đổi thành “I love God more” khiến các fan của Lennon không vừa ý. Wait (Lennon 5/ McCartney 5) McCartney: bass, hát chính Lennon: tambourine, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums Paul viết bài hát này khi quay bộ phim Help! ở Bahamas, tuy nhiên bài hát này không được đưa vào bộ phim hay album Help!. Nếu album Rubber Soul mà không thiếu một bài, chắc có lẽ nó cũng sẽ bị rơi vào quên lãng. Cả John và Paul đều không thích bài này vì nó quá tầm thường. Đây cũng là bài hát ít được biết đến nhất của Beatles. If I Needed Someone (Harrison 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: tambourine, hát bè Harrison: lead guitar, hát chính Starr: drums George Martin: harmonium George viết bài này dành cho Pattie Boyd trong thời kì trăng mật của đôi trai tài gái sắc này. Khi nhân viên chịu trách nhiệm về báo chí của Beatles là Derek Taylor chuẩn bị sang Los Angeles để làm việc với nhóm the Byrds, George đã nhờ nhắn lời với nhóm Byrds rằng “If I Needed Someone” chịu ảnh hưởng từ hai ca khúc “The Bells of Rhymney” và “She Don’t Care About Time” của nhóm Byrds. Run For Your Life (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums George Martin: tambourine John lấy câu mở đầu “I’d rather see you dead little girl than to be with another man” từ bài hit năm 1955 của Elvis Presley “Baby, Let’s Play House”. Tuy nhiên, trong bài “Let’s Play House” câu này có ý nghĩa khá trìu mến thể hiện cảm xúc sâu đậm của chàng trai đối với cô gái. Nhưng khi qua miệng John, nó trở nên một lời đe dọa khá đáng sợ. John công nhận rằng mình là một người ác độc (wicked guy) với tính ghen bẩm sinh (I was born with a jealous mind) và nếu người con gái mà anh yêu để anh bắt gặp với người con trai khác thì đó là sự kết thúc (that’s the end). Sau này John luôn bảo đây là một trong những ca khúc dở nhất mà anh đã từng viết do áp lực của việc phải cho ra đời các bài hát mới liên tục. Revolver Sau những chuyến lưu diễn mệt nhoài và những giao kèo sản xuất các album theo kiểu vắt kiệt sức để đáp ứng cơn khát của thị trường, Beatles cuối cùng cũng có được vài tháng nghỉ ngơi năm 1966 trước khi cho ra đời album được đánh giá là hay nhất trong lịch sử nhạc rock “Revolver”. Album đánh dấu sự thăng hoa toàn diện về mặt âm nhạc của Beatles. Ca từ của các bài hát trở nên sâu sắc và phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống hơn chứ không chỉ là những bản tình ca sôi nổi nhưng đơn điệu. Trong khi John thiên về những cảm xúc cá nhân như trong “I’m Only Sleeping” hay “She Said, She Said” và những cảm giác siêu thực, kết quả của những lần thử LSD như trong “Tomorrow Never Knows” thì Paul bắt đầu quan tâm đến cuộc sống những người chung quanh với những “Eleanor Rigby” và “Paperback Writer” đầy cảm thông. George trong album này thực sự chứng tỏ được tài năng của mình bằng ca khúc mỉa mai “Taxman” nhắm và chế độ thuế khóa nặng nề ở Anh và ca khúc mang đậm màu sắc Ấn Độ “Love You To”. Về mặt kĩ thuật âm thanh, nhóm đã vượt qua sự giới hạn của công thức guitar và trống để đưa vào âm nhạc những thứ âm thanh chưa từng được giới thiệu trong nhạc pop như tabla, sitar, và dàn kèn đồng. Với sự giúp đỡ của ông George Martin cùng với sự phát triển của kĩ thuật thu âm, Beatles bắt đầu thử nghiệm và tạo ra những hiệu ứng âm thanh khá “cách mạng” như hiệu ứng backward trong Rain hay hiệu ứng tiếng tàu ngầm trong “Yellow Submarine”. Mặc dù mang đầy tính thử nghiệm, Relvover vẫn đảm bảo được sức hấp dẫn của nó với những bài ballad chuẩn mực như “Here, There, and Everywhere” hay “For No One”. “Relvover” đặt dấu chấm hết cho thời kì “đầu nấm” với những ca khúc dễ nghe kiểu “She Loves You” hay “I Wanna Hold Your Hand” và mở đầu kỉ nguyên hippie của nhóm Beatles với các sáng tác có giá trị cao cả về mặt lượng và chất. Bìa đĩa của album này cũng là cả một câu chuyện thú vị. Theo Pete Shotton, bạn thân của John thì anh cùng với John và Paul nảy ra ý định làm bìa đĩa bằng cách cắt những tấm ảnh Beatles chụp từ các tờ báo rồi dán nó lại với nhau trên một tấm bìa cứng. Sau đó, Klaus Voorman được giao nhiệm vụ vẽ các hình của tứ quái theo phong cách siêu thực để nối các ảnh dán lại với nhau. Lúc đầu nhóm định gọi album là Abracadabra nhưng bỏ ý định đó vì đã có album mang tên như vậy xuất hiện trên thị trường. Những cái tên như Beatles on Safari (ý tưởng của Paul sau những chuyến du lịch ở Nam Phi), Freewheeling Beatles (ảnh hưởng của Bob Dylan), Magical Circles (ý tưởng của John từ những lần phê LSD) và Bubble and Squeak đều bị loại để cuối cùng cái tên Revolver được chọn làm tên của album. Album được phát hành vài ngày trước khi Beatles bắt đầu tour diễn cuối cùng của mình. Không có bài hát nào trong album được nhóm chơi lại trong chuyến lưu diễn, đơn giản vì với guitar và trống, nhóm không thể nào thể hiện lại các kĩ thuật phức tạp khi thu âm. Đó cũng là một trong những lí do Beatles ngừng lưu diễn hẳn. Ở Anh, album được phát hành ngày 5/8/66 và đứng nhất bảng xếp hạng trong vòng 7 tuần liên tiếp. Trong khi đó ở Mỹ, “Revolver” được phát hành ngày 8/8 với ba bài của John “I’m Only Sleeping,” “And Your Bird Can Sing” và “Doctor Robert” bị cắt ra và ghép vào album “Yesterday and Today.” Đây cũng là lần cuối cùng album của Beatles ở Mỹ bị cắt xén với mục đích thương mại như vậy. Album ở Mỹ lên hạng nhất vào ngày 9/10 và trụ lại đó sáu tuần. Mặc dù bỏ khá nhiều công sức vào album, nhóm Beatles có vẻ khá hoài nghi về sự thành công của nó. Khi đang lưu diễn ở Đức, Paul đã mua album và nghe nó cùng với John và George. Sau khi nghe xong, Paul bỗng dưng có ý định thu hồi lại tất cả các album đã phát hành vì theo anh, album này không giống với những gì nhóm đã từng làm trước đây. Mọi người phải vất vả thuyết phục Paul rằng mọi việc đều ổn và album được giới phê bình lẫn người hâm mộ đón nhận khá nồng nhiệt, Paul mới bỏ ý định dừng phát hành nó. Paperback Writer (McCartney 8/ Lennon 2) UK Chart 2/ US Chart 1 McCartney: Rickenbacker bas, hát chính Lennon: rhythm guitar, hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Paul lấy cảm hứng sáng tác bài này trong thời gian giúp một người bạn sắp xếp lại hiệu sách Indica Bookstore. Đặt mình vào vị trí của một nhà văn viết tiểu thuyết, Paul viết bài hát này dưới dạng một lá thư thuyết phục nhà xuất bản cho ra đời tiểu thuyết của mình. Cũng có giả thuyết cho rằng Paul viết bài này khi một người thân trong gia đình khuyến khích anh viết một hit single không phải về tình yêu. Trong lúc giải lao sau một đợt thu âm tại phòng thu, nhìn thấy Ringo say mê đọc cuốn tiểu thuyết bỏ túi mới mua, Paul quyết định viết bài hát về “Paperback Writer”. Lần đầu tiên, tiếng guitar bass được sử dụng làm tiếng lead với âm lượng khá lớn và “dơ”. Để tạo ra hiệu ứng này, kĩ sư phòng thu Ken Townshend đã đặt loa bass đối diện với loa chính để lợi dụng tần số rung động của loa chính khuếch âm tiếng bass. Mặc dù tạo được hiệu ứng mới, Ken Towshend đã bị ban giám đốc của studio Abbey Road quở trách do không tuân theo nguyên tắc bố trí âm thanh. Về hiệu quả tạo ra bởi tiếng bass của Paul, John nói đùa rằng: “Paul định bắt chước tôi sử dụng hiệu ứng của guitar trong Day Tripper cho bass. “Paperback Writer” là con của “Day Tripper”. Một điều thú vị về bài hát này nữa là bài hát đồng dao của Pháp “Frere Jacques” được sử dụng làm nền. Có giả thuyết cho rằng Beatles đã sử dụng một dàn đồng ca trẻ em để hát phần này, trong khi các giả thuyết khác cho rằng đó là giọng của John, Paul, và George. Rain (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon” rhythm, hát chính Harrison: lead, hát bè Starr: drums, tambourine John viết bài này để khẳng định triết lí “nắng hay mưa là chuyện tự nhiên của trời đất, còn thích hay không đó là chuyện của con người.” Qua đó, John cũng muốn ám chỉ đến sự riêng tư của mình bị bới móc trên các phương tiện truyền thông để người đời mổ xẻ bàn tán. John thu nháp bản này rồi mang về nhà nghe lại. Trong lúc đang phê cần sa, John vô ý xếp cuộn băng gốc theo chiều ngược lại và thế là bài hát được chơi ngược. Cảm thấy thú vị với phát kiến mới này, John đã yêu cầu ông George Martin chen một đoạn băng chơi ngược vào bài hát. Ông Martin đã cắt câu “When the rain comes, they run and hide their head” và nối nó vào băng thu âm chính thức theo chiều ngược lại. Từ đó, kĩ thuật sử dụng “backward loops” để thu âm được nhóm khai thác triệt để trong các album sau. Một sáng kiến nữa được sử dụng trong bài hát này là sau khi thu âm bài “Tomorrow Never Knows”, ông Martin cảm thấy nếu thu phần nhạc đệm với tốc độ thật nhanh sau đó chơi lại với tốc độ chậm sẽ hay hơn là thu bằng tốc độ bình thường. Ông đã đề nghị nhóm chơi phần nhạc đệm của bài Rain nhanh gấp đôi, sau đó hạ xuống tốc độ cần thiết. Trước đây, ông đã sử dụng kĩ thuật này với chiều ngược lại, chơi đoạn solo piano của bài “In My Life” với tốc độ chậm rồi tăng nó lên cho đúng nhịp của bài. Taxman (Harrison 9/ Lennon 1) McCartney: bass, hát bè, lead guitar Lennon: tambourine, hát bè Harrison: lead guitar, hát chính Starr: drums Với “Taxman”, George Harrison là người đầu tiên lên tiếng với chế độ thuế đánh vào nghệ sĩ rất nặng ở Anh. Cứ mỗi một bảng Anh, nghệ sĩ phải nộp thuế đến 96 xu. Do không phải là sáng tác chính như John và Paul, George và Ringo mất đi khoản thu nhập đáng kể từ tiền bản quyền ca khúc. Do vậy mặc dù ở trên đỉnh cao của danh tiếng, trên thực tế, thu nhập của George và Ringo thấp hơn nhiều so với John và Paul. Điều này khiến cho George rất chi li về tiền bạc. Anh cảm thấy mình bị bóc lột công sức lao động qua việc đóng thuế. Trong bài hát George mai mỉa: “Nếu anh đi ra đường người ta sẽ đánh thuế con đường anh đi, nếu anh ngồi trên ghế, chỗ ngồi của anh cũng bị đánh thuế, ngay cả nhiệt độ cũng bị đánh thuế.” Thủ tướng Anh Edward Heath và Harold Wilson được nhắc đến trong bài hát và trở thành những chính trị gia đầu tiên xuất hiện trong các bài hát của Beatles. Sau này Lennon rất bực tức khi trong cuốn tự truyện “I Me Mine”, George đã lờ đi không nhắc tới sự đóng góp của John với “Taxman”. Eleanor Rigby (McCartney 8/ Lennon 2) UK Chart 1/ US Chart 11 McCartney: hát chính Lennon: hát bè Harrison: hát bè Phần nhạc đệm được chơi bởi dàn nhạc dây gồm 4 violins, 4 violas và 2 cellos Paul viết phần nhạc bài này theo kiểu “Yesterday”, có nghĩa là có nhạc trước còn phần lời phải sau một thời gian mới được viết. Cái tên Eleanor Rigby được kết hợp từ tên của Eleanor Bron, nữ diễn viên cùng đóng phim Help! với Beatles và cửa hàng rượu mang tên Rigby & Events mà Paul tình cờ thấy được trong một lần dạo phố với Jane Asher. Lúc đầu, tên nhân vật chính trong bài hát là Miss Daisy Hawkins, nhưng Paul cảm thấy cái tên này không được tự nhiên cho lắm. Vì thế anh đổi lại thành Eleanor Rigby cho tự nhiên hơn. Một điều trùng hợp khá lí thú là vào thập kỉ 80, người ta tìm thấy tại nghĩa trang St Peter của hạt Woolton, Liverpool nơi John và Paul lần đầu tiên gặp nhau có một ngôi mộ mang tên Eleanor Rigby được chôn năm 1939. Có lẽ Paul đã từng biết đến ngôi mộ này lúc còn ở Liverpool nhưng không nhớ và câu chuyện hư cấu về Eleanor Rigby trong bài hát một cách vô thức có liên quan đến ngôi mộ của Eleanor Rigby người thật tại Liverpool. Về tác quyền, đây là một ca khúc gây nhiều tranh cãi. John bảo rằng Paul chỉ viết lời đầu, còn phần lời còn lại, kể cả phần điệp khúc là do mình viết. Điều này làm Paul rất tức giận vì theo anh, John chỉ đóng góp được vài từ trong bài này. Tuy nhiên theo Pete Shotton, người chứng kiến sự ra đời của bài này thì tất cả các tay Beatles đều có đóng góp nhất định, cụ thể là George góp câu: “Ah, look at all the lonely people!” Ringo đề nghị câu: “Father McKenzie, darning his sock in the night”. Cái tên Father McKenzie là do Shotton đề nghị Paul tìm trong danh bạ điện thoại để thay thế Father McCartney, còn đóng góp của John thì không rõ ràng lắm. John chê đoạn cuối là “cải lương” nhưng không có ý kiến nào xây dựng cụ thể. Sau này, lời của ca khúc được các trường đại học ở Anh và Mỹ sử dụng để giảng dạy trong chương trình văn học hiện đại Anh. I’m Only Sleeping (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Ca khúc này được sáng tác trong thời gian nhóm Beatles ngừng lưu diễn hẳn. Các thành viên có thời gian để mà tập trung thu âm và hưởng thụ cuộc sống bình yên mà trong thời gian đỉnh cao của cơn Beatlemania họ đã không được hưởng thụ. Lúc này John vừa mua được một căn biệt thự rất đẹp ở Kenwood và anh gần như dành trọn thời gian của mình ở đây. Bản thảo của “I’m Only Sleeping” được John viết trên bì thư của sở Bưu chính gửi đến nhắc nhở về món tiền 12 pound và 3 shiling John còn nợ thuê bao điện thoại với cái tựa đề đầu tiên là “I’m Sleeping” và hai câu mở đầu: “Try to sleep again, got to get to sleep”. Khoảng thời gian thu âm 1966 là khoảng thời gian John bắt đầu chán cuộc sống của một Beatles. Anh thường rút lui để tìm sự yên tĩnh để cho Paul dần dần tiến lên nắm lấy quyền lãnh đạo nhóm. Trong cuộc phỏng vấn cho tờ báo Everning Standard (bài phỏng vấn gây scandal khi John phát biểu Beatles nổi tiếng hơn cả Jesus và Cơ Đốc giáo), người phỏng vấn Maureen Cleave đã gọi John là “người lười nhất nước Anh”. Chẳng ẳ những không phật lòng, John còn khẳng định rằng mình rất lười: “Ngoài việc xem TV, nói chuyện, viết ca khúc và…làm tình, tôi chỉ nằm suốt ngày, chẳng làm gì cả.” Lần này đến lượt George Harrison thử nghiệm với kĩ thuật backward bằng cách yêu cầu ông Martin chơi ngược đoạn solo của mình để tạo nên hiệu ứng uể oải, mệt mỏi. Love You To (Harrison 10) Harrison: vocal, guitar, sitar Anil Bhagwat: tabla George tự hào khoe tài chơi sitar và phong cách âm nhạc Ấn Độ huyền bí trong bài hát này, kết quả của thời gian tầm sư học đạo với nghệ sĩ sitar trứ danh Ravi Shankar, Cái tên “Love You to” được chọn một cách ngẫu nhiên vì George không tìm được cái tên nào thích hợp đặt cho nó. Anh gọi nó là “Granny Smiths” theo tên một giống táo trước khi đổi thành “Love You to”. Không có tay Beatles nào tham gia thu ca khúc này với George. Here, There and Everywhere (McCartney 10) McCartney: acoustic guitar, hát chính Lennon: hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums Một trong những bài hát đẹp nhất về ca từ lẫn giai điệu của Beatles nói chung và của Paul nói riêng. Paul viết bài này bên hồ bơi của nhà John ở Kentwood. Paul đến khi John còn ngủ, trong lúc chờ đợi, anh đã viết ca khúc này với sự ảnh hưởng của ca khúc “God Only Knows” của Beach Boys và giọng ca của Marianne Faithful trong đầu. Sau này, John trả lời phỏng vấn đã gọi bài này là một trong những bài hát mình yêu thích nhất. Yellow Submarine (McCartney 8/ Lennon 2) US Chart 2 McCartney: acoustic guitar, hát bè Lennon: acoustic guitar; hát bè Harrison: tambourine, hát bè Starr: drums, hát chính Dàn nhạc đệm: kèn đồng Tham gia hát phụ họa gồm: Mal Evans, Neil Aspinall, George Martin, Geoff Emerick, Pattie Harrison và các nhân viên phòng thu. Trái với suy nghĩ của nhiều người, đây là đứa con tinh thần của Paul chứ không phải của John. Khi làm album “Revolver”, nhóm Beatles vô tình phá vỡ qui luật bất thành văn của các ca khúc là: dài không quá ba phút, giai điệu và ca từ dễ thuộc và nhất thiết phải viết về tình yêu trai gái. Tuy nhiên, tài năng sáng tác của John và Paul không chấp nhận bị qui luật đó bó buộc, từ sau Revolver, cặp sáng tác này viết về bất cứ những gì họ thích. “Yellow Submarine” là một bài hát như thế, một bài hát cho thiếu nhi, gợi nhớ đến những kỉ niệm và trí tưởng tượng phong phú của trẻ thơ. Rủi thay, bài hát ra đời khi nhóm Beatles dính líu đến ma túy nên bài hát bị liên tưởng đến những cảm giác siêu thực mà ma túy mang lại. Có người còn đoán già đoán non rằng “Yellow Submarine” là tiếng lóng chỉ loại thuốc kích thích Nembutan hình con nhộng màu vàng mà Paul hay sử dụng. Vì đây là bài hát theo kiểu vui là chính nên Ringo được phân công hát chính. Một điều khá thú vị là để tạo ra hiệu ứng như tàu ngầm đi dưới nước, John và George đã dùng ống hút thổi bong bóng vào li nước và sục tay vào một bể nước. Còn tiếng người nói qua hệ thống liên lạc trên tàu ngầm được John và Paul nói qua một cái li giấy. She Said, She Said (Lennon 10) McCartney: bass, Lennon: acoustic guitar, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums Năm 1965, nhóm Beatles trong chuyến lưu diễn ở Los Angeles đã thuê một ngôi biệt thự to ở số 2580 Benedict Canyon để nghỉ ngơi và dĩ nhiên là…hút hít. Nhiều người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Mỹ được mời đến nơi đây cùng với Beatles trong đó có vợ chồng của diễn viên Peter Fonda và Jane Fonda. Theo lời kể của Don Short, phóng viên tờ Daily Mirror thì tất cả mọi người có mặt ngày hôm đó đều phê LSD, ngoại trừ Paul. Khi George nói với Peter Fonda về cảm giác gần chết khi lần đầu tiên thử LSD, Pete bắt đầu lải nhải về kỉ niệm của mình năm 10 tuổi khi vô ý tự bắn vào bụng. Pete hứng chí kể tiếp rằng tim mình ngừng đập thế nào, bị mất bao nhiêu máu và trải qua giải phẫu ra sao để chừng tỏ với mọi người rằng mình mới là người hiểu được cảm giác cận kề cái chết. John vô tình đi ngang qua và nghe được câu chuyện. Dưới tác dụng của LSD, John cảm thấy bực dọc vô cớ vì giống như bị Pete dạy khôn. John giận dữ nói với Peter Fonda rằng: “You’re making me feel like I’ve never been born/ Who put all this shit in your head?” Cơn giận vô lí đó ám ảnh John suốt cả tuần lễ cho đến khi anh quyết định viết nó thành bài hát. Lúc đầu John đặt tựa bài hát là “He Said. He Said” với lời lẽ thô bạo và trực tiếp nhắm vào Peter Fonda: “I said, who put all this crap in your head? I know what it’s like to be mad. And it’s making me feel like my trousers are torn” Nhưng sau này khi nghĩ lại, để tránh phiền phức về kiện tụng có thể xảy ra, John đổi thành She Said, She Said với lời lẽ nhẹ nhàng hơn. Pete Fonda sau khi nghe bài này biết ngay John ám chỉ mình nhưng không làm lớn chuyện cũng như nói cho những người khác biết. Good Day Sunshine (McCartney 10) McCartney: bass, lead vocal Lennon: hát bè Harrison: hát bè Starr: drums George Martin: piano. Paul viết bài hát này tại nhà riêng của John trong một ngày nắng đẹp hiếm hoi của nước Anh với sự ảnh hưởng của ca khúc “Daydream” của nhóm folk rock Mỹ Lovin’ Spoonful. Nhóm Spoonful kết thân với nhóm Beatles trong tour diễn của Beatles tại Mỹ năm 1965. Sau buổi diễn ở Shea Stadium, John Sebastian đã ra sau sân khấu để chúc mừng nhóm Beatles. Điều khá thú vị là John Sebastian có ngoại hình khá giống John Lennon nên hai tay John thường gọi đùa nhau là anh em song sinh. And Your Bird Can Sing (Lennon 10) McCartney: bass, hát bè Lennon: rhythm guitar, hát chính Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums, tambourine Từ năm 1965 trở đi, Paul dành nhiều thời gian để mở rộng kiến thức của mình để nhanh chóng hòa nhập vào giới tiểu tư sản ở London, trong khi John, George, và Ringo vẫn hài lòng với xuất thân “working class” của mình. Paul không bỏ lỡ một cơ hội nào đến tham dự những vở kịch cổ điển, opera hay tham gia vào các buổi triển lãm nghệ thuật dành cho giới thượng lưu cũng như du lịch vòng quanh thế giới. John cảm thấy “ngứa mắt” trước thói trưởng giả của Paul nên viết bài này để châm chọc. Trong bài hát, John viết “You said you’ve seen seven wonders, and your bird can sing, but you can’t see me” ám chỉ việc Paul ngày càng tự cách li mình với các tay Beatles khác. Tuy nhiên Paul phủ nhận bài hát này nói về mình. Sau này, khi trả lời phỏng vấn báo Playboy, John gọi bài hát này là một bài hát tệ nhất của mình. For No One (McCartney 10) McCartney: bass, piano, hát chính Starr: drums, tambourine Alan Civil: French horn Paul viết bài này trong kì nghỉ trượt tuyết với Jane Asher tại Thụy Sĩ với tựa đề “Why did I die?” Tất cả công việc sáng tác và thu âm chỉ diễn ra trong một ngày, sau đó Paul gửi bài hát về để thêm phần trống và kèn vào. Mãi đến năm 1984, Paul mới chơi lại bài hát này trong bộ phim “Give My Regards to Broad Street”. Bài hát phản ánh tâm trạng bất an của Paul trong mối quan hệ của Jane Asher vì không như Cynthia và Pattie, Jane không chịu làm cái bóng của Paul mà nhất định theo đuổi sự nghiệp diễn viên của mình. Điều này khiến Paul cảm thấy khó mà giữ được mối quan hệ giữa hai người. Doctor Robert (Lennon 7,5/ McCartney 2,5) McCartney: bass, hát bè Lennon: harmonium, maracas, hát chính Harrison: lead guitar Starr: drums Nhân vật bác sĩ Robert trong bài hát này lúc đầu được nhiều người cho rằng đó là Charles Robert, phụ tá của họa sĩ lập dị Andy Warhol, người chuyên lo về việc hút hít cho ông này. Tuy nhiên, sau này mọi người mới phát hiện ra Charles Roberts là một nhân vật tưởng tượng không có thực. Kì thực, ông bác sĩ Robert trong bài hát của John là bác sĩ người Đức mang tên Robert Freymann, người chuyên cung cấp chất amphetamine cho giới nghệ sĩ như một thứ thuốc an thần. Cho đến năm 1967, chất amphetamine vẫn được cho là hợp pháp tại Mỹ. I Want to Tell You (Harrison 10) McCartney: bass, piano, hát bè Lennon: tambourine, hát bè Harrison: lead guitar, hát chính Starr: drums George viết bài này như để giải tỏa những khó khăn không thể nói bằng lời. Trên thực tế, có lẽ luôn là người trầm lặng nhất và bị chèn ép bởi cái bóng của hai ông khổng lồ Lennon và McCartney, George luôn cảm thấy rằng tiếng nói của mình không có trọng lượng. Lúc viết bài hát này, George không nghĩ rằng nó sẽ được đưa vào album nên chỉ gọi nó bằng cái tên “Laxton’s Superb” theo tên một giống táo, sau đó gọi là “I Don’t Know”. Cái tựa “I Want to Tell You” là do ông Martin đề xuất. Got to Get You Into My Life (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: tambourine Harrison: lead guitar Starr: drums George Martin: organ Eddy Thorton, Ian Hamer, Les Colon: trumpet Alan Branscombe, Peter Comb: tenor sax Paul viết bài này theo phong cách Motown của nhóm Supreme. Đây cũng là bài hát đầu tiên nhóm Beatles thu âm với dàn kèn đồng. John thích ca khúc này vì theo anh đây là một bài có ca từ đẹp. Tuy nhiên John cho rằng Paul viết bài hát này về ma túy dưới dạng một bản tình ca. Ca từ “another kind of mind” ám chỉ đến việc sử dụng ma túy. Năm 1967, Paul đã thú nhận trên truyền hình về việc sử dụng chất kích thích khiến nhiều fan tức giận và thất vọng. Tomorrow Never Knows (Lennon 10) McCartney: bass, Lennon: tambourine, hát chính Harrison: tambourine, sitar Starr: drums George Martin: piano Đây là ca khúc “điên” nhất của Beatles cho tới thời điểm này. Mặc dù là track cuối cùng của album, đây lại là ca khúc được viết đầu tiên và thu âm đầu tiên. Cảm hứng của bài hát này được lấy từ cuốn sách Psychedelic Experience của Timothy Leary viết năm 1964, dịch lại từ cuốn kinh Book of the Dead của Phật giáo Tây Tạng. The Psychedelic Experience là cách giải thích thiên về ảo giác do ma túy đem lại của cuốn Book of the Dead. John thích cuốn sách này và lập tức viết ca khúc “The Void” dựa vào những triết lí trong sách. Tựa đề “Tomorrow Never Knows” là ý tưởng của Ringo. Khi thu âm ca khúc này, mỗi Beatles được giao nhiệm vụ tạo ra những âm thanh ngẫu nhiên trên những băng gốc rồi mang những băng này đến giao cho Paul sắp xếp chúng với nhau trên chiếc máy thu âm hiệu Grundig. Paul để cho các băng gốc này chạy với tốc độ nhanh qua một đầu tẩy của bút chì và lợi dụng sự ma sát đó gọt bớt đi những tạp âm. Về phần hát, John muốn giọng hát của mình phải nghe như tiếng tụng kinh của các nhà sư Tây Tạng vọng từ trên núi cao xuống. George Martin đã dùng loa xoay Leslie để tạo ra hiệu ứng mà John đòi hỏi. Penny Lane (McCartney 8/ Lennon 2) UK Chart 2/ US Chart 1 McCartney: bass, Arco String bass, Mellotrone, hát chính Lennon: piano, hát bè Harrison: conga drum. Firebell Starr; drums George Martin: piano David Mason: piccolo trumpet Philip Jones: trumpet Theo Paul, Penny Lane là tên của một bùng binh của thành phố Liverpool nơi có một tiệm hớt tóc mà lúc nhỏ John, Paul và George đã từng được người chủ tiệm người gốc Ý Bioletti cắt tóc cho. Tuy nhiên trên thực tế, ở Liverpool chỉ có con đường mang tên Penny Lane và một khu vực mua sắm với cái tên không chính thức là Penny Lane. Những thứ như bùng binh, ngân hàng, tiệm hớt tóc và trạm cứu hỏa đều không nằm trên con đường mang tên Penny Lane mà nằm rải rác trong khu vực Penny Lane, chủ yếu trên đường Allerton. “Penny Lane” là ca khúc gợi nhớ những kỉ niệm thời thơ ấu của Paul McCartney tại Liverpool. Paul có cảm hứng sáng tác ca khúc này sau khi đọc bài thơ “Fern Hill”, một bài thơ với những hồi ức tuổi thơ của nhà thơ Mỹ Dylan Thomas. Penny từ âm nhạc đến hình tượng mang một nét Anh rất đặc trưng. Đây là lần đầu tiên một địa phương của Anh với phong cảnh được mô tả trong nhạc rock thay vì những “Chicago” hay “Kansas city” hay “New Orleans” của Mỹ. Điều này chứng tỏ rằng, nhạc rock Anh bắt đầu có vị trí cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngang ngửa với nhạc rock Mỹ chứ không chỉ đứng ở vị trí thứ hai nữa. Điều nghịch lí là mặc dù bài hát đứng hạng nhất ở Mỹ, ở Anh nó chỉ xếp hạng thứ 2. Đây là đĩa đơn đầu tiên của Beatles từ “Please Please Me” không lọt vào hạng nhất bảng xếp hạng ở Anh. Trong bài hát, Paul sử dụng hai cụm từ tiếng lóng khá tục của thành phố Liverpool là “finger pie” và “the fireman keeps his fire engine clean”. Do sự nổi tiếng của bài hát, khu Penny Lane ở Liverpool đã trở thành khu du lịch hút khách vào bậc nhất. Tấm biển tên đường Penny Lane cũ đã bị ai đó gỡ mất để làm kỉ niệm. Chính quyền thành phố phải thay vào đấy một tấm biển mới gắn vào tường ở xa tầm với của các du khách để tránh bị mất cắp. Tiệm hớt tóc xưa đã trở thành một beauty salon với hình của nhóm Beatles dán ở cửa ra vào. Bùng binh xe bus được sửa chữa và biến thành quán rượu mang tên Sgt Pepper’s Bistro. Một tiệm rượu nữa mang tên Penny Lane thu hút khách du lịch với lời bài hát được viết trên cửa sổ. Được phát hành dưới dạng đĩa đơn cùng với ca khúc cũng nổi tiếng không kém “Strawberry Fields Forever” của Lennon, “Penny Lane” khiến kẻ đã trót yêu hình ảnh “comple, đầu nấm” và những ca khúc đơn giản như “She Loves You” hay “Love Me Do”, bị shock nặng. Việc Beatles tuyên bố ngừng lưu diễn vĩnh viễn đã khiến họ cảm thấy hụt hẫng. Giờ đây với những ca khúc phức tạp và đầy tính triết lí cùng với hình ảnh những chàng trai Beatles râu ria rậm rạp lại càng khiến cho các cô các cậu thiếu niên thấy rằng mình bị phản bội. Tuy nhiên đối với những người hâm mộ thực sự và giới phê bình, đĩa đơn này được hoan nghênh như một bước trưởng thành thực sự về mặt nội dung lẫn nghệ thuật của nhóm Beatles. Thoát khỏi được cái vỏ bọc hiền lành dễ thương nhưng đầy tính thương mại và những cuộc lưu diễn dường như bất tận, tứ quái Beatles đã được sáng tạo theo đúng tài năng thiên phú của mình. “Penny Lane/ SFF” mở đầu cho cuộc cách mạng thử nghiệm trong âm nhạc với tất cả cùng c ý tưởng điên rồ nhất của những năm cuối thập niên 60 với thể loại psychedelic và progressive/art rock. Strawberry Fields Forever (Lennon 10) US Chart 8 McCartney: bass, bongos, piano, Mellotron, Lennon: lead guitar, harpsichord, hát chính Harrison: lead guitar, tympani Starr: drums Mal Evans: tambourine Philip Jones: alto trumpet Session musicians: 2 cellos, 2 horns Sau khi ngừng đi tour, các tay Beatles dành một khoảng thời gian ngắn để nghỉ ngơi và “giải độc”. John bay sang Tây Ban Nha để tham gia vào bộ phim “How I Won the War” trong vòng sáu tuần lễ. Tại đây, anh đã sáng tác “Strawberry Fields Forever”, ca khúc được xem như là cột mốc của thể loại psychedelic rock và là một trong những ca khúc hay nhất của Beatles. Strawberry Field trên thực tế là trại mồ côi của tổ chức tôn giáo từ thiện Salvation Army trên đường Beaconsfield, Woolton, cách ngôi nhà của dì Mimi chỉ khoảng 5 phút đi bộ. Thuở nhỏ, John và các bạn như Pete Shotton và Ivan Vaughan hay đến chơi đùa. Về mặt nội dung, “SFF” là những hồi tưởng về những kỉ niệm thời thơ ấu của John Lennon đan xen với triết lí cuộc sống theo kiểu rất “John”. Anh cảm thấy áp lực nặng nề trong cái vỏ bọc của một người nổi tiếng trong một thế giới đầy nghi kị và hiểu lầm. John cảm thấy mình không được sống thật như chính bản thân mình muốn sống để rồi mơ ước được cùng với người mình yêu đi về những cánh đồng dâu, một miền đất hoang đường cổ tích nhưng lại là một miền đất không có những lo toan bề bộn. Ca từ và âm nhạc của “SFF” đã thể hiện được độ chín về mặt tư tưởng của John Lennon, mở màn cho những sáng tác mang tầm vóc thiên tài khác. Khi trở về Anh, John trình bày ca khúc này với nhà sản xuất George Martin và các con bọ khác bằng guitar thùng. Ngay lập tức, mọi người đều nhận ra đây là một ca khúc thực sự tuyệt vời. Với John Lennon chơi guitar thùng và hát chính, Paul McCartney chơi mellotron, George Harrison chơi slide guitar và Ringo chơi trống, nhóm đã hoàn thành phiên bản đầu tiên của “SFF” ngay trong chiều hôm ấy và mọi người đều cảm thấy mãn nguyện trước thành quả của mình. Nhưng khi chưa kịp đưa ca khúc ra phát hành, John bất chợt lại đổi ý vì anh cảm thấy chưa vừa lòng với bản thu âm này. Anh muốn hát phần điệp khúc trước khi vào lời chính. Anh mang ý nghĩ của mình nói với Paul và kì lạ thay chính McCartney cũng trăn trở với “SFF”. Anh bỏ ra hàng tuần đánh vật với nhạc cụ Mellotron để tạo ra khúc intro hoàn hảo cho bài hát. Thế là phiên bản thứ hai hoàn hảo hơn được thu âm ngày 28/11/1966 dưới sự chỉ đạo nghệ thuật của George Martin với phần intro bằng tiếng sáo giả của nhạc cụ Mellotron và phần điệp khúc mở đầu bài hát. Nhưng chỉ trong vòng một tuần, Lennon lại tìm George Martin để xin thu âm lại ca khúc. Là một nhạc sĩ viết nhạc theo cảm tính chưa từng được đào tạo một cách chính qui, John Lennon có nhiều ý tưởng độc đáo nhưng anh không biết diễn đạt thế nào bằng giấy trắng mực đen để có thể biến ý tưởng thành hiện thực. Rất may cho John và cho cả nhóm Beatles vì George Martin không những là một nhà sản xuất giàu kinh nghiệm, được đào tạo bài bản mà còn là một người biết lắng nghe và ủng hộ những ý tưởng mới. Chính ông là người đã biến nhiều ý tưởng tưởng chừng như điên rồ của John, Paul và George thành những bản thu âm chuẩn mực cho các nghệ sĩ đàn em noi theo. Lần này ý tưởng thu âm của John làm cho mọi người khá kinh ngạc. Anh muốn sử dụng dàn nhạc khí dây và kèn đồng để thu âm để tăng độ dày cho ca khúc. Được Martin chấp thuận dễ dàng, George Harrison được nước “mè nheo” đòi đưa nhạc cụ swordmandel của Ấn Độ vào ca khúc. Việc thu âm ca khúc ngày càng trở nên phức tạp và tốn kém hơn. Phiên bản hoàn chỉnh thứ ba của “SFF” hoàn thành vào ngày 21/12/1966 với đầy đủ guitar, Mellotron, dàn nhạc dây, kèn đồng, sáo và swordmandel, gần một tháng sau khi ca khúc được John giới thiệu với mọi người. Lần đầu tiên trong lịch sử nhạc rock, một ca khúc được thu âm lâu và có nhiều thay đổi đến như vậy được biết đến. Nhưng rồi cả phiên bản này cũng không làm vui lòng chàng Lennon khó tính. Anh nói với George Martin rằng mình vừa thích cả phiên bản “sạch sẽ” lẫn phiên bản mới và đề nghị George tìm cách nối hai phiên bản lại với nhau. George giải thích rằng hai phiên bản được thu âm với hai tone nhạc khác nhau và tốc độ cũng khác nhau nên việc nối chúng lại là một việc không đơn giản. Không chịu thua, John năn nỉ George tìm cách nâng tốc độ của phiên bản 1 và giảm tốc độ của phiên bản 2 xuống cho đến khi chúng cùng tốc độ và đổi về cùng một tone. Thay vì bực mình vì bị yêu sách quá nhiều, George Martin một lần nữa chấp nhận yêu cầu của John. Và đó là bản thu âm mà các fan hâm mộ đã được thưởng thức, một ca khúc được thu âm phức tạp nhất tính tới thời điểm đó. Sgt Pepper’s Lonely Hearts Club Band Năm 1967 là một năm quan trọng trong lịch sử của âm nhạc đương đại. Nó đánh dấu sự toàn cầu hóa của chủ nghĩa hippie và cái được gọi là “mùa hè của tình yêu”. Ở Mỹ, khi các nhóm acid rock như Doors, Jefferson Airplane, Grateful Dead bắt đầu cho ra đời những album mang tính thử nghiệm với ảnh hưởng của ma túy ngày càng rõ rệt thì ở Anh, Beatles là nhóm đầu tiên khơi mào cho loại âm nhạc đầy tính sáng tạo. Nếu như “Revolver” đánh dấu sự bứt phá của nhóm ở mức ban đầu thì Sgt Pepper năm 1967 làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận của mọi người về khái niệm album. Cho đến những năm giữa thập niên 60, thành công của một ban nhạc còn dựa vào sự phổ biến của đĩa single. Thông thường, nếu một nhóm nhạc có đĩa single bán chạy và có tên trên bảng xếp hạng thì hãng đĩa sẽ góp nhặt khoảng mười bài hát vô thưởng vô phạt nào đó để cho nhóm nhạc đó thu âm rồi dồn cả mớ hổ lốn ấy vào một album. Và một single ăn khách cho tới thời điểm đó phải thỏa mãn ba yêu cầu nhất định: không được dài quá ba phút, có nội dung về tình yêu và quan trọng là phải dễ thuộc. Nếu so sánh công thức của một single ăn khách lúc đấy với các bài hát kiểu UPH, DT hiện nay của ta thì quả thật không khác nhau bao xa. Nhưng Beatles là một nhóm hoàn toàn không chịu để khả năng sáng tạo tuyệt vời của mình bị trói buộc bằng những qui định mang đầy tính thương mại như vậy. Với single “Penny Lane/ Strawberry Fields Forever” nhóm làm các fan hâm mộ cũ sửng sốt thậm chí quay lưng. Nhưng bù lại, Beatles mở rộng tầm ảnh hưởng của mình đến những đối tượng trước đây chỉ xem nhóm như là một nhóm nhạc pop bình thường. Khi “Sgt Pepper” ra đời, bỗng nhiên mọi bài hát trong album đều có giá trị ngang nhau, và các bài hát trong đĩa single không xuất hiện trong album như một chiêu thức câu khách. Điều đó có nghĩa là người nghe nhạc mua album để thưởng thức những ca khúc hoàn toàn mới chứ không phải mua album vì đĩa đơn trích từ album đó ra đạt được thành công. Với 105 giờ thu âm cùng với những điều kiện thu âm hiện đại nhất, nhóm có cơ hội vươn tới những giới hạn thiên tài và điên rồ nhất của sáng tạo. Nhiều người vẫn cho rằng “Sgt. Pepper” là concept album đầu tiên của nhạc rock, thật ra điều này không chính xác lắm. SP chưa bao giờ là một concept album theo đúng nghĩa của từ này mặc dù nó được dự định làm theo hướng đấy. Giữa các bài hát trong album không có mối liên kết như các bài hát trong một concept album thực sự ngoại trừ ca khúc chủ đề “Sgt. Pepper’s Lonely Heart Club Band” và phần reprise của nó. Tuy nhiên, có một điều không thể chối cãi được là mỗi ca khúc trong album đều có một vẻ đẹp nhất định và được đầu tư khá kĩ lưỡng về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Trong suốt cả album, không có bài hát nào chỉ đơn thuần nói về tình yêu trai gái bình thường. Một điều quan trọng hơn nữa là SP khuyến khích các nhóm nhạc và nghệ sĩ Anh viết và hát về những gì xung quanh mình, về cuộc sống của những người Anh chứ không phải hát lại hoặc bắt chước theo người Mỹ. Có thể nói không ngoa rằng, từ sau SP, British pop mới thực sự được sinh ra với những nhóm nhạc Anh như Kinks, Bee Gees, Traffic, những nhóm nhạc theo gót Beatles đưa văn hóa Anh vào âm nhạc của mình. Về mặt hình ảnh, nhóm Beatles đã thay đổi hình tượng của mình bằng cách để tóc dài và ria mép từ khi làm album Revolver, tuy nhiên, họ vẫn chưa thực sự dám giới thiệu hình ảnh mới của mình với công chúng cho đến khi single “Penny Lane/ Strawberry Fields Forever”. Điều này giải thích tại sao Beatles lại chọn giải pháp cắt dán những hình ảnh của nhóm trên báo từ những năm trước để làm bìa cho album “Revolver”. Sự thay đổi về mặt nghệ thuật cũng như hình ảnh bên ngoài đối với Beatles là một thắng lợi lớn, nhưng đối với ông Brian Epstein, đó là một trong những bất lợi. Với vai trò là một người quản lí, lợi nhuận chính mà ông Epstein thu được là từ những show diễn live của nhóm. Việc Beatles quyết định ngừng lưu diễn vĩnh viễn là một đòn khá nặng giáng vào vai trò dẫn dắt và quan trọng hơn là chén cơm của ông Epstein. Giờ đây, các con bọ trút bỏ luôn cái vỏ bên ngoài “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” để khoác vào cái lớp vỏ già dặn hơn là hoàn toàn đi ngược lại qui luật của thị trường. Ông Brian có thể không quan tâm đến sự phát triển về mặt âm nhạc của nhóm vì điều đó không có lợi gì cho ông một khi Beatles thay đổi hình tượng và ngừng lưu diễn. Ngược lại, nhóm Beatles cũng không cần quan tâm đến cái gọi là lợi nhuận thị trường của thời kì đầu nấm với những chuyến lưu diễn và họp báo bất tận. Điều quan trọng nhất đối với Beatles trong thời điểm đó là chứng tỏ được năng lực sáng tạo thật sự của mình. Từ bỏ vai trò những ngôi sao nhạc pop, tứ quái bắt đầu gánh vác sứ mạng nặng nề hơn, sứ mạng của những nhà tiên tri, những người lãnh đạo về văn hóa (hay đúng hơn là của phong trào phản văn hoá) của giới trẻ trong thập niên 60. Với tầm vóc vĩ đại của album, tất nhiên bìa đĩa cũng là một chuyện đáng phải bàn đến. Ý tưởng về bìa đĩa của SP là do Paul đề xướng với ý nghĩa là “mọi người” tập hợp xung quanh tâm điểm là tứ quái trong hình tượng mới Sgt. Pepper’s Lonely Hearts Club Band. Và dĩ nhiên, “mọi người ở đây” không phải là bất cứ ai mà là những người nổi tiếng, trong đó có cả nhóm Beatles cũ. Bìa đĩa thể hiện tham vọng của nhóm Beatles vượt lên tất cả những đỉnh cao về mặt văn hóa, chính trị, nghệ thuật của thời đại. Mỗi thành viên của Beatles được hỏi ý kiến về việc chọn lựa những gương mặt muốn đưa lên bìa đĩa. George muốn sử dụng những hình ảnh các thầy tu Ấn Độ, Ringo thì không hứng thú lắm với chuyện này nên để việc chọn lựa cho John và Paul đảm nhiệm. Trong số những gương mặt mà John chọn có chúa Jesus, thánh Gandhi của Ấn Độ và nhà độc tài Hitler. Với scandal Beatles nổi tiếng hơn chúa Jesus năm trước, hãng EMI không dại gì mà đưa hình ảnh chúa Jesus lên bìa đĩa một lần nữa. Hình của Hitler cũng bị loại do không muốn chọc giận người Do Thái mà gần nhất là ông Brian Epstein. Cuối cùng cả hình của Gandhi cũng bị loại vào giờ chót thay vào đó là hình của nữ diễn viên Diana Dors vì hãng sợ làm phật lòng cộng đồng người Ấn. Người khổ nhất trong vấn đề này không ai khác hơn là ông Epstein. Là đại diện của nhóm về mặt pháp lí, ông Epstein phải liên hệ với hầu hết những người có mặt trên bìa đĩa để xin phép họ cho sử dụng hình ảnh của mình trong vòng thời gian một tuần. Nhiều người tỏ ra dễ chịu nhưng cũng có nhiều ngôi sao không cảm thấy thoải mái trong việc sử dụng hình ảnh của mình trên đĩa của Beatles. Shirley Temple đòi phải cho nghe album trước khi cho phép sử dụng hình của mình còn Marlon Brando thì lúc đầu cực lực phản đối. Cho đến ngày chụp bìa đĩa vẫn có hơn một nửa số nhân vật chưa được xin phép. Do quá căng thẳng vì sợ bị thưa kiện, trong chuyến bay từ New York về London, ông Epstein đã đánh điện về cho trợ lí của mình rằng nếu ông có mệnh hệ nào do tai nạn máy bay thì album phải được phát hành với bìa giấy màu nâu đơn giản để tránh phiền phức về mặt pháp luật. Pete Blake, người chịu trách nhiệm thiết kế bìa đĩa phải mất hai tuần để sắp xếp các nhân vật cho hợp lí. Nhóm Beatles xuất hiện với bộ quân phục kiểu Victorian sặc sỡ và thay vì cầm những cây guitar quen thuộc, nhóm lại ôm những cây kèn như một ban quân nhạc. Mặt trống Ludwig với logo Beatles nổi tiếng được thay thế bằng mặt trống kẻ tên Sgt. Pepper’s Lonely Hearts Club Band. Các nhân vật đứng cùng hàng với Beatles là tượng sáp được mượn từ bảo tàng Madam Tussaud, còn lại tất cả đều được làm bằng bìa cứng. Không chỉ dừng ở đó, bên trong đĩa là cuốn booklet với tên của tất cả các nhân vật ngoài bìa đĩa được đánh số thứ tự cẩn thận theo trình tự sắp xếp, một postcard, hai cầu vai và huân chương cùng với ria mép của Sgt. Pepper và một bức hình nổi của nhóm Beatles có thể cắt ra, (những thứ này không có trong booklet của đĩa CD). Và quan trọng hơn hết là lần đầu tiên trong lịch sử nhạc pop, tất cả lời của các ca khúc được in trong booklet kèm theo album. Như vậy với khẩu hiệu “a splendid time is guaranteed for all,” và một album được đầu tư cẩn thận đến từng chi tiết nhỏ nhất, SP ngay từ khi chưa phát hành đã đảm bảo một thành công rực rỡ. Thật vậy, khi được phát hành ngày 1/6/67 ở Anh, album đã leo thẳng lên hạng nhất bảng xếp hạng và bán được 250.000 bản ngay trong tuần đầu tiên. Ở Mỹ, thắng lợi của album còn kinh khủng hơn. Ngay từ lúc trước phát hành, album đã được đặt hàng trước 1 triệu bản và trong vòng ba tháng đầu tiên, doanh số bán ra đã vượt con số 2,5 triệu bản. Album đã đứng nhất Billboard suốt 15 tuần liên tiếp. Tuy nhiên, tình cảm của từng con bọ đối với album này hoàn toàn trái ngược nhau. Bắt đầu từ album này, Paul bứt phá lên giành vị trí đầu tàu, ý tưởng của album cũng là của Paul, phần lớn các sáng tác trong album cũng là của Paul nên việc Paul hoàn toàn thỏa mãn với đứa con tinh thần của mình cũng là điều dễ hiểu. John, mặc dù không có nhiều đất diễn như Paul vẫn coi thời gian nhóm làm album này là thời gian hạnh phúc nhất trong đời mình. Trong khi đó George và Ringo cảm thấy mình bị phân biệt đối xử nhất là Ringo. Anh có cảm giác mình chỉ là một kẻ đánh thuê vì phần lớn các ca khúc được thu âm với dàn nhạc giao hưởng hoặc dàn kèn đồng. Cho đến nay, SP vẫn là album ít được yêu thích nhất của Ringo thời kì Beatles. Sgt. Pepper’s Lonely Hearts Club Band (and reprise) (McCartney 10) McCartney: bass, hát chính Lennon: lead guitar, hát bè Harrison: lead guitar, hát bè Starr: drums George Martin: organ Session musicians: kèn đồng Phần reprise: McCartney: bass, hát chính Lennon: lead guitar, maracas, hát chính Harrison: lead guitar,hát chính Starr: drums Paul có ý tưởng về một ban nhạc Beatles trá hình dưới một cái tên và hình ảnh khác khi bay từ Nairobi về London. Là một Beatles, các thành viên của nhóm mất đi cái quyền tự do cá nhân khi đi lại. Mỗi lần đi du lịch, các thành viên của nhóm thường phải mang tóc và râu giả để mọi người không để ý đến sự hiện diện của mình. Theo cách nghĩ của Paul, bằng cách cải trang thành một ban nhạc khác, nhóm Beatles có thể tự giải phóng mình ra khỏi sự ràng buộc về mặt sáng tạo. Cái tên Sgt. Pepper’s Lonely Hearts Club Band là do tay roadie Mal Evans nghĩ ra. Có hai giả """