"
Giấc Mơ Tiên Tri PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giấc Mơ Tiên Tri PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Giới Thiệu
Tbooks
TBooks – Ứng Dụng Miễn Phí Giúp Bạn Download, Lưu Trữ Ebook và tạo thư viện Ebook riêng mình.
Website: Tbooks.Cloud
List Sách Tbooks: Link
Đây Là Ứng Dụng Miễn Phí Giúp Bạn Lưu Trữ Ebook và tạo thư viện riêng mình, Tbooks Cloud giúp các bạn dùng kindle, Android, Iphone, Windows có thể tải ebook từ internet dẽ dàng, ngoài ra bạn còn có thể tạo một thư viện riêng cho mình trên ứng dụng từ nay cần gì bạn có thể tải về nhanh chóng không cần chép vào máy nặng máy, không còn nổi lo mất ebook vì tất cả ebook lưu trên cloud với 3 bản backup. Ưu điểm TBooks so với App ebook, sách khác thị trường: – Upload file ebook tới 100mb ( lưu ý up file 50mb trở lên hơi lâu vui lòng chờ)
– Tạo thư viện ebook cá nhân, có thể chia sẽ bạn bè.
– Kho data lớn 50.000 ebook nhiều thể loại, có thể nói kho ebook lớn nhất Việt Nam cập nhật thêm mỗi ngày
– Tải trực tiếp click là download ngay không cần chờ đợi, xem PDF trực tiếp trình duyệt
– Giao diện đơn giản chỉ có hiển thị bìa sách và tìm kiếm. – Nhiều định dạng file Azw3/Epub/Pdf/Mobi phù hợp cho tất cả thiết bị
– Giao diện nhiều thiết bị điện thoại, ipad, ngay cả máy đọc sách như kindle luôn nhé, này đảm bảo chỉ Tbooks Cloud mình là thân thiện nhất theo mình biết. -Sử dụng cloud server riêng, tự mình setup chứa ebook
-Tự động backup dữ liệu mỗi ngày tránh sự cố mất data -Có ứng dụng cho điện thoại Android. Phiên bản web app cho Ios, máy đọc sách kindle
-Tham gia group cộng đồng chia sẽ ebook hay
1.
Căn biệt thự có bức tường gạch cao bao quanh, nhưng trèo đó chẳng tốn mấy sức. Người đàn ông đến đây bằng ô tô. Cái ô tô tải hạng nhẹ hắn vẫn dùng ở nhà. Chỉ cần leo lên thùng xe là có thể dễ bề đặt chân lên tường. Rồi hắn cứ thế đột nhập vào bên trong mà không hề mảy may do dự.
Biệt thự bề thế nằm lọt trong khuôn viên rộng thênh thang. Hắn không tường tận về cách bố trí phòng ốc nơi đây, chỉ biết mỗi vị trí khuê phòng của Remi. Thế nhưng, bấy nhiêu đó là đủ với hắn.
Đèn đóm trong biệt thự đã tắt hết. Duy chỉ còn ngọn đèn đêm leo lét chiếu sáng cho mảnh vườn. Người đàn ông di chuyển, cố tránh ánh sáng hắt hiu đó. Hắn đến phía nam của căn biệt thự. Ở đằng này cũng có sân vườn. Thảm cỏ trải ra trên nền đất, lưới tập golf được bố trí ở góc vườn. Xem ra chủ nhân biệt thự này thích chơi golf. Chủ nhân ở đây, tức là cha của Remi.
Kho chứa đồ được bố trí như thể gắn chặt vào tường. Nhà kho này khá cao. Dư sức nhét ván trượt tuyết vào bên trong.
Người đàn ông đứng bên cạnh nhà kho, ngước mắt lên nhìn biệt thự. Ngay trên kia có một cái ban công. Lên được ban công đó thì hắn có thể gặp Remi rồi.
Hắn bám hai tay lên mái nhà kho, dùng kỹ thuật đu xà nhấc người lên. Tiếp đó, hắn đặt bàn chân xuống, trèo lên nóc. Tiếng kim loại kẽo kẹt vang lên nhưng không quá lớn. Khi hắn đứng trên nóc nhà kho, ban công đã nằm ngay trước mắt. Trái tim hắn ngân lên rộn ràng. Giờ này, Remi đang làm gì bên kia cánh cửa đó?
Hắn nắm lan can của ban công, treo người như con khỉ, sau đó đặt chân lên giá đỡ của máng nước, rồi trèo vào ban công. Hắn từng
kinh qua môn thể dục dụng cụ. Kinh nghiệm từ vài năm trước đã giúp ích cho hắn lần này.
Hắn quay mặt nhìn về phía căn phòng đó. Rèm trong phòng được đóng kín bưng.
Người đàn ông đặt tay lên cánh cửa trượt. Chỉ đẩy nhẹ sang bên, cửa đã mau chóng mở ra. Hắn liền thở phào nhẹ nhõm. Remi, quả nhiên nàng đang đợi mình.
Hắn đẩy cánh cửa ra một khoảng cỡ vài chục phân, rồi cởi giày, kế đó băng qua tấm rèm cửa, đặt chân vào trong căn phòng. Cái cảm giác chạm chân lên tấm thảm truyền đến cơ thể hắn qua đôi tất. Chỉ thế thôi đã làm hắn xúc động khôn nguôi. Cuối cùng thì hắn cũng tới được khuê phòng của Remi.
Hắn nhìn quanh một lượt. Áng chừng căn phòng rộng khoảng [1]. Trong bóng tối nhá nhem, hắn trông thấy vài món đồ
mười chiếu
như giá sách, bàn viết, đàn piano dạng đứng. Tiếp đó, ánh mắt hắn chạm tới cái giường lớn. Trên giường, người con gái hắn ngày đêm mơ tưởng đang say giấc nồng trong chăn ấm nệm êm.
Không được rồi, hắn nghĩ.
Nàng có đang ngủ thật hay không? Nói không chừng nàng đã phát hiện ra mình tới đây rồi cũng nên. Cũng có khi nàng phát hiện ra rồi nên mới giả vờ ngủ.
Hắn bước một bước, rồi hai bước, đến bên chiếc giường. Một mùi tựa hương hoa thoang thoảng bay trong không trung. Hắn say sưa ngắm nhìn nàng. Dâng trào trong lòng cảm giác mình đang ở ngay bên cạnh một sự tồn tại cao quý.
Remi đang nhắm mắt. Nàng thật diễm lệ biết bao. Hắn cảm nhận rõ vẻ diễm lệ đó ngay cả trong bóng tối.
Hắn thấy tim mình run rẩy.
Hắn vươn cánh tay phải, định chạm vào má nàng. Hắn tin rằng hành động đó sẽ khởi đầu mọi chuyện. Nàng sẽ thức giấc, nhìn hắn, và nở nụ cười rạng rỡ với hắn. Anh à, em biết là anh sẽ đến mà.
Ngay khi những ngón tay toan chạm vào má nàng, hắn chợt cảm thấy không khí đang chuyển động. Hắn liền ngoái lại đằng sau. Cửa đã mở ra, ai đó đang đứng ở cửa.
“Tránh xa khỏi Remi ngay!” Một giọng nói gay gắt vang lên. Trên tay người đó cầm một món đồ. Nòng súng dài, đen bóng lọt vào tầm mắt hắn.
Hắn hốt hoảng rời khỏi giường. Hắn thấy đối phương giơ súng lên.
Hắn lao ra ngoài ban công, hướng về phía nhà kho mà nhảy. Tiếng súng vang lên gần như cùng lúc hắn nhảy xuống, sau lưng hắn, cửa kính vỡ tan tành.
Ngập trong những mảnh kính vỡ, hắn gào thét trong tâm khảm. Remi ơi, tại sao lại như vậy?
2.
Kusanagi Shunpei ngậm điếu thuốc trong miệng, châm lửa bằng diêm. Vừa toan quẳng tàn diêm vào trong gạt tàn, trông thấy một điếu thuốc mới sém khoảng một phân gác trên đó, anh liền khựng tay lại. Anh sực nhớ ra mình vừa đặt nó ở đó độ một phút trước thôi. Ngồi bên cạnh, Makita cười khúc khích.
“Anh Kusanagi, trông anh mệt mỏi quá.”
Kusanagi dụi điếu thuốc dở vào gạt tàn.
“Người ngợm thì không mệt mỏi lắm. Nhưng mà, biết nói sao nhỉ, tôi chẳng thiết làm gì cả. Lòng tôi chỉ thấy băn khoăn, rốt cuộc tôi đang làm gì, những việc tôi làm có chút ý nghĩa gì hay không?”
“Nếu là chuyện đó thì em cũng giống anh thôi.” Makita nghiêng nghiêng cốc cà phê. “Nhưng dù sao đó cũng là một phần của công việc.”
“Hay lắm. Cậu tốt bụng thật. Tôi thì không thốt ra được câu đó.” “Thế ạ?”
“Tôi bảo chuyện này hay lắm.” Kusanagi ghé sát mặt Makita. “Cậu có lòng tốt là bởi làm cảnh sát chưa được bao lâu. Theo đuổi cái nghề này lâu, con người ta sẽ càng lúc càng vỡ vụn. Cứ nhìn đội trưởng của chúng ta thì biết.”
Makita bật cười. “Vậy anh Kusanagi cũng vỡ vụn kha khá rồi ạ?”
“Ờ, vỡ nát rồi đấy. Nếu không sớm được điều chuyển đến nơi khác, tôi sẽ không thể hòa nhập cộng đồng nữa đâu.”
Vừa hay nhân viên phục vụ đi qua, Kusanagi gọi thêm cốc nước nữa. Nét mặt cô ta thấp thoáng vẻ hoài nghi. Có lẽ vì thấy anh toàn gọi nước mà không động đến giọt cà phê nào.
Chừng nào cà phê còn trong cốc, thì dù nấn ná bao lâu cũng sẽ không bị tống cổ khỏi quán, anh tính toán như vậy. Tùy vào người lát nữa sẽ đến đây, tính toán đó có thể sẽ cần thiết.
“Ơ, phải người đó không ạ?” Makita chỉ tay ra cửa quán cà phê và nói.
Một người đàn ông mặc áo polo vừa bước vào bên trong quán. Anh ta kẹp chiếc cặp dưới nách. Mới hai mươi bảy cái xuân xanh mà trông anh ta đã toát lên vẻ chững chạc, phải chăng vì kiểu tóc rẽ ngôi lệch bảy ba đó?
Người đàn ông ngó quanh một lượt bên trong quán cà phê, rồi dừng mắt ở bàn của Kusanagi. Bởi ngoài họ ra, chẳng có vị khách nào nom giống một bộ đôi cảnh sát cả. Khách khứa tại đây không dẫn theo gia đình thì cũng là đôi lứa hẹn hò hoặc đám học sinh phổ thông túm năm tụm ba.
“Anh Nakamoto phải không?” Kusanagi cất tiếng hỏi người đàn ông đang bước lại gần chỗ họ.
“Vâng,” người đàn ông gật đầu. Chắc biết đối phương là cảnh sát nên anh ta mới tỏ ra căng thẳng đến vậy.
“Tôi là Kusanagi, người đã gọi điện cho anh. Vị này là đồng nghiệp của tôi, cảnh sát Makita. Thành thật xin lỗi vì làm phiền anh vào ngày nghỉ.” Kusanagi đứng lên, vừa cúi đầu vừa cáo lỗi. Hôm nay là thứ Bảy.
“Không sao, tiện tôi cũng có công chuyện cần ra ngoài.” Nakamoto nói vậy rồi ngồi xuống ghế. Thấy nhân viên phục vụ đến, anh ta gọi cà phê.
“Anh có tập tành chơi golf không?”
Gương mặt Nakamoto lộ vẻ sửng sốt trước câu hỏi của Kusanagi. “Sao anh biết?”
“Nhìn tay trái của anh. Tay phải sạm lại vì cháy nắng, mà tay trái hầu như không cháy tẹo nào. Nên tôi đoán anh chơi ra trò đây.”
“Do cái tay này à? Đến cô em gái còn chê cười tôi là thật mất mặt.” Nakamoto giấu tay trái xuống dưới bàn, nặn ra nụ cười ngượng nghịu. Có lẽ cảm giác căng thẳng trong anh ta đã vơi đi đáng kể.
“Anh có kể với người thân chuyện gặp chúng tôi không?”
“Không đâu. Hơi đâu đi kể chuyện đứa bạn cùng lớp từ đời thuở nào phạm tội, và mình vì vụ đó mà đi gặp cảnh sát để cho họ lo nghĩ không đâu.”
“Nói cũng đúng,” Kusanagi gật đầu. “Như đã trao đổi qua điện thoại, chúng tôi đảm bảo không có việc gì gây phiền toái cho anh cả. Chỉ cần anh cho chúng tôi xem thứ đó là đủ rồi.”
“Vâng, tôi hiểu mà, nên đã cẩn thận đem tới đây.” Nakamoto đặt cặp lên đầu gối, đoạn lấy một cuốn sổ lưu bút từ trong cặp ra, để lên trên bàn. “Mời anh xem. Chỗ tôi dán giấy nhớ đó.”
“Cảm ơn anh. Tôi xin phép.” Kusanagi cầm cuốn sổ lên.
Đó là một cuốn sổ cũ kỹ, với bìa cứng họa tiết kẻ ca rô. Tuy có chút hứng thú với những trang khác, nhưng Kusanagi vẫn lật trang dán giấy nhớ màu vàng ra xem trước tiên.
“Ồ,” anh bất giác buông lời cảm thán. “Bức tranh đẹp quá.”
“Cậu ta vẽ đẹp lắm.” Nakamoto nói.
Trên trang giấy họa con búp bê bằng bút chì màu.
Là búp bê bé gái, mái tóc màu hạt dẻ, đôi mắt xanh biêng biếc, trông như người ngoại quốc. Trên người búp bê diện bộ váy liền thân màu đỏ, gấu váy màu trắng bay bay. Chân xỏ giày cũng màu đỏ, tất màu trắng.
Bên cạnh con búp bê ghi dòng chữ Lên cấp hai cũng mong cậu giúp đỡ tớ nhé! Sakamoto Nobuhiko bằng bút dạ. Nhưng điều thu hút sự chú ý của Kusanagi hơn cả là hình vẽ ô tình yêu nhỏ xinh ở góc trang giấy. Bên dưới chiếc ô, hai cái tên Sakamoto Nobuhiko và Morisaki Remi viết cạnh nhau.
“Có đây này, không chệch đi đâu được.” Kusanagi mở hẳn cuốn sổ lưu bút ra, đặt lên bàn, rồi chỉ tay vào hình vẽ chiếc ô đó. “Chỗ này này.”
“Đúng thật.” Nakamoto đáp lại bằng một điệu cười phức tạp.
“Anh Nakamoto cũng không hỏi được chủ nhân cái tên này là ai nhỉ.”
“Cậu ta bảo đó là người yêu tương lai. Dù ai gặng hỏi thế nào, Sakamoto cũng chỉ trả lời có thế. Xung quanh chẳng có đứa con gái nào tên như vậy cả, với lại vốn dĩ chưa ai từng nghe nói đến cái họ Morisaki đó bao giờ. Thế nên, tôi suy diễn rằng cậu ta tự nghĩ ra cái tên đó.”
“Anh chắc chắn hình này được vẽ lúc anh học lớp sáu chứ?”
“Vâng. Cả lớp viết tặng tôi lưu bút kỷ niệm hồi sắp sửa tốt nghiệp mà.”
“Số phận cuốn sổ này sau đó thế nào?”
“Thì nằm phủ bụi trong thùng carton ở tủ âm tường. Lúc tìm nó, tôi tiện tay dọn dẹp lại cái tủ luôn.”
Người phục vụ đã bưng cà phê tới. Nakamoto nhấp từng ngụm cà phê đen thật ngon lành.
“Anh Nakamoto chỉ chơi thân với nghi phạm Sakamoto mỗi dạo đó thôi à?”
“Làm gì đến mức thân thiết. Chỉ học cùng nhau hồi hai năm cuối tiểu học thôi. Đến cấp hai thì chưa một lần chung lớp. Lên cấp ba lại mỗi đứa một trường, từ sau khi tốt nghiệp cấp hai chúng tôi còn chưa gặp lại nhau lần nào.”
“Vậy trong ký ức hai năm học chung, anh thấy anh ta là đứa trẻ thế nào?”
“Tôi không nhớ lắm đâu. Lạ một điều là tôi chỉ nhớ như in chuyện người yêu tương lai của cậu ta thôi. Nói đơn giản thì cậu ta khác người. Chẳng mấy khi chơi với bạn bè, tôi có gặp cậu ta ở nơi nào khác ngoài trường học đâu.”
“Kiểu như bị bắt nạt hay tự kỷ à?”
“Ai mà biết.” Nakamoto cười khổ. “Có lẽ thời nay người ta gọi như vậy, nhưng hồi ấy chúng tôi nào biết đến khái niệm đó.”
Nói có lý, anh chỉ biết nhận xét thế.
Kusanagi quay sang nhìn Makita, đánh mắt ra hiệu xem cậu còn câu hỏi gì nữa không. Cậu đàn em lắc đầu, dùng ánh mắt để đáp lại: Em biết hỏi gì trong tình huống này đây.
“Xin hỏi.” Nakamoto cất lời. “Tôi có đọc trên báo, chuyện đó là thật à? Sakamoto đã đột nhập vào tư gia của gia đình Morisaki, và cô con gái của gia đình đó tên là…”
“Gượm đã!” Kusanagi giơ bàn tay lên, ngăn anh ta nói tiếp. “Tôi biết anh có nhiều thắc mắc. Nhưng về nguyên tắc, chúng tôi không được phép tiết lộ việc điều tra cho đến khi vụ án kết thúc.”
“À, có nguyên tắc đó à?” Nakamoto gãi đầu.
“Chúng tôi giữ thứ này được chứ?” Gấp cuốn sổ lưu bút lại, Kusanagi hỏi.
“Vâng, anh cứ tự nhiên.”
“Mong anh thứ lỗi. Sau khi kiểm tra xong xuôi, chúng tôi sẽ gửi lại anh ngay.”
“Không sao. Các anh cứ giữ đi. Đó cũng không phải món đồ gì quan trọng.” Nakamoto nói, rồi lại nhấm nháp cà phê.
Ra khỏi quán, Kusanagi đưa cho Makita cuốn sổ.
“Cậu cầm cái này, quay lại phòng điều tra trước. Từ nhà bố mẹ Sakamoto, chúng ta cũng thu được sách vở và ghi chép của hắn hồi nhỏ đúng không? Hãy đối chiếu bút tích trong đó với cuốn sổ này. Chậc, mà chẳng cần tôi dặn thì ai đó cũng hạ lệnh cho cậu thôi.”
“Anh Kusanagi đi đâu bây giờ à?”
“Tôi tạt qua chỗ này một chút.”
“Tạt đi đâu ạ? Đội trưởng lại cằn nhằn cho mà xem.” Makita cười toe toét.
“Cứ bảo là tôi đến chỗ Galileo. Nói thế thì ông ta không cằn nhằn đâu.”
“À, chỗ thầy Yukawa.” Makita gật đầu với vẻ đồng tình. “Em hiểu rồi.”
“Thế nào tôi chẳng bị cười vào mặt vì mù tịt khoa học. Ngán đến tận cổ rồi.”
“Chuyển lời giúp rằng em gửi gắm hy vọng vào thầy ấy nhé!” Makita nói rồi cuốc bộ về phía nhà ga.
3.
Vụ việc xảy ra một tuần trước. Sở cảnh sát Tokyo nhận được tin báo về vụ gây tai nạn rồi bỏ trốn tại Setagaya. Tuy nhiên, sau khi điều tra kỹ càng, họ nhận định đó không phải tai nạn giao thông đơn thuần. Bởi ngay trước khi gây tai nạn, hung thủ đã đột nhập vào căn biệt thự cách hiện trường tai nạn vài phút đi bộ.
Ấy là tư gia của gia đình Morisaki. Một nhà ba người sinh sống tại đó. Chủ hộ là Morisaki Toshio, giám đốc một công ty buôn bán hàng hóa nhập khẩu, người vợ Yumiko, và cô con gái độc nhất Remi hiện đang theo học trường nữ sinh. Nhưng vào đêm xảy ra vụ việc, Morisaki Toshio đang ở Singapore vì vướng bận công việc.
Theo lời khai của Yumiko, tầm hai giờ sáng, một tiếng động nào đó khiến chị ta choàng tỉnh giấc. Dỏng tai lên nghe ngóng, chị ta cảm giác có người ở ban công.
Ban công này nối liền ba căn phòng ở tầng hai. Phòng của Remi cách phòng ngủ của vợ chồng họ một phòng.
Nghe thấy tiếng mở cửa trượt, chị ta đoán ai đó đang đột nhập vào phòng con gái mình. Do đó, chị ta không do dự, đưa tay xuống gầm giường.
Ở đó giấu một khẩu súng săn.
Khẩu súng thuộc sở hữu của Morisaki Toshio. Thời đại học, anh ta sinh hoạt trong câu lạc bộ bắn súng, đến khi ra trường rồi vẫn tận hưởng việc săn bắn như một thú vui.
Đương nhiên là họ không kè kè khẩu súng dưới gầm giường quanh năm suốt tháng. Vợ chồng ấy duy trì thói quen đặt nó ở đó mỗi bận Toshio đi công tác dài ngày. Có vẻ Yumiko đã được chồng
chỉ dạy cho cách sử dụng súng cơ bản để tự vệ trong những tình huống bất trắc. Và chị ta đã răm rắp làm theo lời căn dặn của chồng.
Chị ta cầm súng lao vào phòng Remi đúng lúc một người đàn ông đang đứng bên cạnh giường, toan làm gì đó với con gái mình. Yumiko lập tức hét lên. Tiếng thét của chị ta khiến hắn hốt hoảng, vội tìm đường thoát thân. Yumiko đã kéo cò súng, nhưng là sau khi người đàn ông nhảy khỏi ban công.
Hắn đến bằng ô tô tải hạng nhẹ. Hắn lao xe vút đi, trên đường tẩu thoát thì tông vào một cư dân sống gần đó.
Hung thủ nhanh chóng bị tóm gọn. Đó là một người đàn ông hai mươi bảy tuổi, tên Sakamoto Nobuhiko, trú tại quận Koto. Hắn phụ việc trong cửa hàng thi công đồ điện của gia đình. Chiếc xe tải hạng nhẹ là phương tiện kinh doanh của cửa hàng.
Trong vòng hai tháng trở lại đây, Sakamoto luôn lẽo đẽo bám theo Remi. Thế nên, khi cảnh sát hỏi có nhận thấy điều gì khác thường không, Remi lập tức nói ra tên hắn. Địa chỉ nhà Sakamoto cũng nhanh chóng sáng tỏ. Hắn đã gửi hết lá thư này đến lá thư khác cho Remi, trên mỗi phong thư đều viết địa chỉ rõ ràng. Trong vô vàn lá thư bị quẳng đi, lá thư duy nhất còn sót lại quả là món quà cho tổ điều tra.
Điều tra viên tức tốc tới nhà Sakamoto. Lúc đó hắn ru rú trong phòng, chẳng chịu ra. Khi điều tra viên hỏi hắn có phải đã chuẩn bị sẵn tâm lý bị bắt, thì hắn liền ngoan ngoãn thừa nhận hành vi phạm tội.
Quả là một vụ án đơn giản, ở thời điểm đó, ai cũng nghĩ vậy.
Xe ô tô của Kusanagi lăn bánh qua cánh cổng đại học Teito sau khi anh chia tay Makita khoảng nửa tiếng đồng hồ. Anh tấp xe vào chỗ trong cùng của bãi đỗ xe, rồi đi vào bên trong khu học xá
nhuốm màu thời gian. Đó là học xá của bộ môn Vật lý, khoa Khoa học tự nhiên. Phòng nghiên cứu số mười ba tọa lạc ở tầng ba.
Kusanagi leo cầu thang, khi bước lại gần căn phòng đó, anh nghe thấy giọng nói như tiếng hiệu lệnh từ đâu vọng tới. Giọng đó đang nói “Hây dô, hây dô!” thì phải. Lại còn vọng ra từ phòng nghiên cứu số mười ba.
Kusanagi nghiêng đầu, gõ cửa. Nhưng chẳng có ai đáp lại. Nói đúng hơn, tiếng gõ cửa đã bị giọng nói kia át đi.
Anh bèn mở cửa ra. Một cảnh tượng khó tin hiện ra trước mắt. Tất tần tật bàn ghế được kê sát vào tường, ở khoảng trống chính giữa căn phòng, một đám sinh viên đang chơi kéo co. Họ chia làm hai đội, gộp lại cỡ chừng hơn hai chục người.
Yukawa Manabu ở ngay đằng trước. Anh khoác áo blouse trắng, ngồi trên ghế gấp, chăm chú quan sát đám sinh viên.
Trước con mắt chứng kiến của Kusanagi, đội bên phải đã giành chiến thắng. Ai nấy trông đều mệt nhoài, có người còn thở hổn hển.
Kusanagi vỗ vào vai Yukawa. Vị phó giáo sư trẻ quay người lại, cười toe toét. “Chào!”
“Cậu đang làm gì vậy?”
“Cậu nhìn thì biết. Đang kéo co.”
“Cái đó tôi biết rồi, nhưng để làm gì?”
“Một thí nghiệm vật lý đơn giản, có tên ‘cách kéo co bất bại’. Được rồi.” Yukawa vừa vỗ tay bồm bộp vừa đứng dậy. “Khách khứa đông đủ rồi, chúng ta đọ sức thêm một ván nữa nhé! Mọi người đứng vào hàng rồi cầm dây lên!”
Hả, lại nữa ư, đám sinh viên miệng cằn nhằn, nhưng tay vẫn cầm dây đứng vào vị trí.
Yukawa quay mặt về phía Kusanagi. “Mất công đến đây rồi thì tội gì không chơi. Cậu đoán giúp tôi xem đội nào sẽ thắng.”
“Hả, khó thế!”
“Cứ phán đoán bằng trực giác và kinh nghiệm của cậu đi!”
“Ờ.” Kusanagi quan sát hai đội, ngầm so sánh. Tạng người hai bên hầu như tương đồng. Dù vậy, nhớ tới kết quả ban nãy, anh liền chỉ tay vào đội bên phải. “Vậy, tôi chọn đội này.”
“OK, vậy nếu đội này thắng, tôi sẽ mời mọi người nước ép. Ngược lại, nếu họ thua, cậu phải mời đội kia nước ép.”
“Ờ, được đấy.”
“Cậu có lời khuyên nào dành cho họ không?”
“Lời khuyên ư?”
“Ờ. Ví dụ như giạng chân rộng ra, hay là ngả người về phía sau chẳng hạn.”
“À, phải rồi.” Kusanagi nhìn đám sinh viên rồi ngẫm nghĩ. Anh nhớ lại lời dặn dò của giáo viên chủ nhiệm trong ngày hội thao xưa, khi anh thi môn kéo co. “Việc quan trọng đầu tiên chắc là hạ thấp hông.”
“Ồ, vậy ra cậu khuyên họ hạ thấp hông à?” Yukawa khoanh tay trước ngực, nói với vẻ trầm trồ.
“Đúng vậy. Chủ yếu là hạ thấp hông xuống, và đứng thật chắc. Vì đứng thẳng thì không kéo mạnh được.”
“Ra vậy. Phiền cậu làm mẫu cho mọi người xem nhé! Để còn biết hạ đến mức nào.”
“Đến mức nào ư, ờ thì, càng thấp càng tốt.”
Kusanagi hạ hông thấp đến mức chạm cả sàn, rồi tạo dáng như đang kéo co.
“Đã hiểu chưa hả, các cô cậu sinh viên? Giờ các em hãy làm tư thế giống của cậu ta đi! Đừng có phí phạm lời khuyên đấy! Nào, hạ hông xuống, và cầm dây lên!”
Mấy vận động viên đội bên phải cười khổ, răm rắp làm theo lời của Yukawa. Chẳng rõ tại sao, họ trông có vẻ ỉu xìu.
“Thế lời khuyên cho đội còn lại là gì?” Yukawa hỏi.
“Không có gì cả. Cứ làm gì tùy thích.”
“Thế thì cứ làm tư thế ngược với tư thế của đội kia đi!” Yukawa lệnh cho đội bên trái nâng hông cao lên một chút. Trong mắt Kusanagi, tư thế đó không chắc chắn gì cả. Thế này thì thắng thua rõ mười mươi rồi, anh mở cờ trong bụng.
“Nào, vậy cuộc thi bắt đầu. Hai đội vào vị trí! Chuẩn bị… một, hai, ba, bắt đầu!”
Trận đấu bắt đầu với tiếng hô của Yukawa. Hai đội đều ra sức kéo sợi dây. Nhưng bất ngờ làm sao, đội bên phải lập tức bị lôi xềnh xệch về đằng trước.
“Hạ hông thấp xuống, hạ xuống nữa đi!” Kusanagi lớn tiếng ra lệnh.
Nhưng anh có la hét bao nhiêu cũng tốn công vô ích, đội bên phải bị hạ gục dễ dàng.
Yukawa quay đầu lại, mỉm cười. “Đừng có quên tiền nước ép đấy!”
“Chắc lại do cậu xúi bẩy chứ gì? Nên họ mới cố tình thua.” “Cậu nghĩ thế à?”
“Không phải sao?”
“Thế tôi hỏi cậu một câu nhé, sao cậu nghĩ nên hạ thấp hông?” “Thì bởi tư thế đó ổn định hơn. Ổn định và dễ đứng chắc.” Nhưng Yukawa lắc đầu.
“Ngược lại thì có. Khi kéo co, nâng hông cao sẽ giúp cậu đứng chắc chắn hơn.”
“Làm gì có chuyện đó.”
“Thử nghĩ mà xem, khi kéo một vật ở chỗ thấp, chân sẽ giẫm xuống đất mạnh hơn khi kéo ở chỗ cao đúng không? Nói một cách chuyên môn thì là lực pháp tuyến tăng lên. Kết quả là lực ma sát đạt cực đại. Tức là giúp ta đứng chắc. Nếu tư thế của đối thủ không thay đổi, thì chúng tôi chỉ cần nâng cao người là cầm chắc phần thắng rồi. Cậu hiểu chưa hả,” Yukawa nói.
Kusanagi nghiền ngẫm lại lời giải thích đó trong đầu. Nhưng chỉ thấy một cơn đau đầu lâm râm ập tới. Anh lắc đầu nguầy nguậy. “Tôi không định tham gia hội thao nữa đâu.”
Yukawa cười không thành tiếng. Anh đập bộp một cái vào vai Kusanagi, rồi nhìn đám sinh viên.
“Các em thu dọn phòng ốc giúp tôi nhé! Tôi và cậu ta đi đàm đạo vật lý một chút.”
4.
“Có lẽ vụ này không hóc búa đến vậy. Hung thủ đã sa lưới, và thành khẩn khai nhận tội trạng. Tang chứng vật chứng đầy đủ. Tóm lại những manh mối cần cho việc phá án đều đã được thu thập đâu vào đấy.” Tựa lưng vào lưới sắt trên sân thượng, Kusanagi nói.
“Tốt quá rồi còn gì? Mấy khi gặp được chuyện tốt như thế đâu? Từ tận đáy lòng, cậu nên cảm thấy vui mừng với vận may này mới phải.”
Nói đoạn Yukawa vung vợt vụt quả bóng dùng trong môn quần
vợt mềm
[2] nằm lăn lóc ở góc sân vào bức tường. Không hổ danh
con át chủ bài của câu lạc bộ cầu lông, anh phô diễn kỹ năng điệu nghệ như đã quá quen với việc cầm vợt. Quả bóng đập vào vị trí gần như tương đương trên bức tường.
“Chỉ là, tôi cứ lăn tăn mãi một chuyện.” Kusanagi nói. “Chuyện gì vậy?”
“Động cơ gây án của hung thủ.”
“Động cơ ư?” Yukawa ngừng vung vợt. Quả bóng bật ngược lại tường rồi cứ thế lăn lông lốc. “Tôi không hiểu. Tại sao động cơ lại có vấn đề? Mục đích của hung thủ là thỏa mãn dục vọng với người con gái hắn thầm thương trộm nhớ. Thế là được rồi còn gì?”
“Cậu nói không sai, nhưng vấn đề là tại sao hung thủ nhắm đến cô gái đó. Mà trước hết, cô ta tên là Morisaki Remi nhé.”
“Tôi chẳng hứng thú với tên cô ta.”
“Không đâu, trong vụ án này, cái tên vô cùng quan trọng. Có vẻ trong vòng hai tháng trở lại đây, hung thủ Sakamoto Nobuhiko luôn lảng vảng bám theo Morisaki Remi, và hành động này bắt nguồn từ tên của cô ta.”
“Có khi nào cô ta trùng họ trùng tên với người phụ nữ đã từ chối tình cảm của hắn ngày trước?”
“Gần đúng rồi đấy, chỉ lệch một chút thôi. Hung thủ Sakamoto Nobuhiko khai thế này: Vận mệnh gắn kết tôi và cô ấy. Từ mười bảy năm trước, vận mệnh đã an bài.”
Yukawa há hốc miệng, bật cười trước câu nói của Kusanagi.
“Chẳng phải hồi xưa người ta hay dùng mấy lời đó để tán tỉnh nhau à? Những gã luôn lải nhải rằng ‘vận mệnh gắn kết anh và em, chúng ta không thể chống lại vận mệnh’ ấy. Thời buổi này rồi, còn có kẻ bô bô mấy câu cổ lỗ sĩ đó ư?”
“Đến chúng tôi thoạt đầu cũng cười nhạo hắn. Nhưng nghe những gì hắn khai nhận, dần dần chúng tôi không cười nổi nữa.” Kusanagi rút một bức ảnh từ trong túi áo khoác ra, đoạn đẩy về phía Yukawa.
“Cái gì đây?” Yukawa chau mày. “Một đoạn trong bài tập làm văn thì phải.”
“Sakamoto viết lúc học lớp bốn đấy. Bài văn có tựa đề ‘Giấc mơ của em.’ Trong đó viết hắn mơ thấy ý trung nhân tương lai của mình. Và tên của cô gái đó là Morisaki Remi. Cậu nhìn cho kỹ bức ảnh đi! Cái tên Morisaki được viết bằng chữ cứng đúng không?”
“Ờ đọc ra thế thật.” Yukawa gật đầu, nói. Nụ cười trên mặt anh đã tắt lịm.
“Tôi hỏi người thân của hắn rồi. Họ khẳng định lời hắn nói là thật. Có vẻ từ thuở nhỏ, Sakamoto luôn miệng bảo một ngày nào đó hắn sẽ nên duyên với người con gái tên Morisaki Remi. Ngoài bài văn này ra, rất nhiều đồ đạc khác còn sót lại ở nhà hắn đã chứng thực cho điều đó. Ban nãy tôi vừa gặp bạn học hồi tiểu học của hắn, xem ra lời hắn nói không có phần nào dối trá.”
Kusanagi cũng kể chuyện cuốn sổ lưu bút. Yukawa vẫn cầm vợt, khoanh tay trước ngực.
“Hai mươi bảy tuổi đầu còn ôm mộng tình si thì đúng là chuyện lạ. Đã vậy còn gặp được cô gái giống tên người trong mơ à?”
“Trời xui đất khiến thế nào hắn lại biết đến cô nữ sinh Morisaki Remi ở ngoài đời thực. Kể từ đó, tình hình nằm ngoài tầm kiểm soát. Hết gọi điện thoại, đến gửi thư, rồi rình mò đợi cô ta đi học hay tan trường. Morisaki Remi sợ khiếp vía, đến nỗi dạo gần đây không dám bước chân ra khỏi cửa.”
“Chính là cái loại chuyên bám đuôi người ta ấy à?”
“Hạng người đó chẳng ý thức được mình bị người ta ghét cay ghét đắng thế nào, nên mới gây ra bao chuyện tồi tệ. Sakamoto còn tuyên bố rằng Remi vẫn nhỏ dại, nên hắn sẽ tự mình bảo vệ Remi cho đến khi cô ta trưởng thành.”
Chà chà, Yukawa lắc đầu. “Một sự trùng hợp gieo rắc bất hạnh cho cả hai bên.”
“Vấn đề ở đó đấy. Mà này, cậu nghĩ có sự trùng hợp như vậy à?”
“Ý cậu là việc gặp được người con gái có cái tên mình đã mơ thấy hồi nhỏ sau mười bảy năm ư?”
“Đương nhiên là như vậy.”
“Thế thì đúng đấy.” Yukawa nói tỉnh bơ. “Vì chuyện xảy ra thật mà, nên đành chấp nhận thôi.”
“Nhưng cô nàng này tên là Morisaki Remi. Nếu là cái tên cỡ như Yamamoto Yoshiko thì còn bảo là trùng hợp được, chứ Morisaki Remi thì có khả năng không?”
“Thế nếu không phải trùng hợp thì là gì?”
“Tôi không biết. Nên mới điên cái đầu đây.”
“Này, lẽ nào cậu kêu tôi giải đáp bí ẩn đó?”
“Chính là cái ‘lẽ nào’ đó đấy.” Kusanagi đặt tay lên vai Yukawa, nhìn anh bằng ánh mắt chân thành hết mức. “Cảnh sát bọn tôi kém mấy chuyện kiểu này lắm. Xin cậu đấy. Hãy cho chúng tôi mượn kiến thức và trí tuệ của cậu đi.”
“Tôi thì giỏi chắc?”
“Thế không phải cậu từng phá giải bí ẩn hồn lìa khỏi xác sao? Giữ nguyên phong độ đó là được.”
“Đó là hiện tượng vật lý. Còn vụ này là bí ẩn tâm lý. Không phải chuyên môn của tôi.”
“Chẳng lẽ cậu tin vào giấc mơ tiên tri hay giấc mơ trở thành hiện thực à? Chẳng giống cậu chút nào.”
“Tôi không bảo mình tin mấy thứ đó. Tôi chỉ nói đó đơn thuần là một sự trùng hợp.”
“Trùng hợp gì mà quá mức thế.”
“Thì sao? Trùng hợp thì có gì không ổn à?”
“Chẳng có gì không ổn cả, nhưng trùng hợp hay không lại là vấn đề lớn.”
“Ý cậu là sao?”
“Đầu tiên, các phương tiện truyền thông đại chúng sẽ nhảy vào xâu xé vụ này. Nào là giấc mơ báo hiệu, rồi thì luân hồi, chắc chắn nó sẽ trở thành miếng mồi ngon cho sở thích hóng hớt chuyện kỳ bí vớ vẩn của công chúng. Thú thực với cậu, họ đã đánh hơi ra rồi. Dạo gần đây trên ti vi cũng đưa tin rồi đó.”
“Tôi mong chờ được xem đấy.” Yukawa nói, vẻ mặt chẳng lấy gì làm vui vẻ.
“Thứ hai, vụ án sẽ bị đưa ra xét xử. Với tình hình này, tôi dám chắc luật sư sẽ té nước theo mưa, bào chữa rằng hung thủ bị rối loạn tâm thần.”
“Chứ còn gì nữa.” Yukawa gật gù. “Tôi mà là luật sư thì cũng làm vậy. Vả lại, nghe những gì cậu kể, tôi thấy đầu óc hắn đúng là không bình thường.”
“Nhưng nếu có kẻ giở thủ đoạn nào đó thì sao? Nếu chỉ đơn thuần là rối loạn tâm thần thì không thể giải thích hợp lý mọi chuyện.”
“Thủ đoạn?”
“Thế nên tôi muốn cậu nghĩ giúp theo chiều hướng đó.”
Yukawa cười khổ trước lời van nài của Kusanagi. Anh xoay dọc cái vợt, làm một cú đập bóng, rồi nhìn Kusanagi với vẻ mặt như đã nghĩ ra điều gì đó.
“Nếu không phải trùng hợp thì là tất nhiên. Có nghĩa người đàn ông Sakamoto ấy biết cái tên Morisaki Remi từ mười bảy năm trước
là bởi hắn đã gặp cô ta lúc đó.”
“Cảnh sát bọn tôi cũng tính đến khả năng đó rồi. Nhưng đó là chuyện không tưởng. Morisaki Remi giờ mới mười sáu tuổi đầu. Khi ấy cô ta còn chưa có mặt trên cõi đời này. Quan trọng hơn, giữa Sakamoto và gia đình Morisaki không có mối liên hệ nào cả. Lúc mười tuổi ranh thì Sakamoto có công có việc gì để mà phải đến Setagaya chứ?”
“Nếu không phải khả năng đó thì tôi cũng chịu.” Yukawa giơ hai tay đang cầm vợt lên.
“Đến cậu còn nói thế thì tôi biết phải làm sao.” Kusanagi vò đầu bứt tai. “Chẳng nhẽ là trùng hợp thật ư? Hay hắn ta bị hoang tưởng mà thôi? Cho nên mới ảo tưởng cả chuyện thư mời nữa.”
“Thư mời là sao? Cậu đang nói gì vậy?”
“Sakamoto khai rằng đêm đó hắn được Morisaki Remi mời đến. Hắn nhận được bức thư đại ý cô ta sẽ đợi ở phòng riêng, bảo hắn đến đó. Đương nhiên là Remi phủ nhận chuyện này.”
“Hừm…”
Yukawa bước lại gần lưới thép, đứng lặng nhìn cảnh sắc phía xa xăm. Đương nhiên, trông anh như đang ngắm cảnh vậy thôi, chứ ắt hẳn trong đầu đang ngổn ngang trăm ngàn suy tư.
Chẳng mấy chốc, anh quay đầu lại nhìn Kusanagi. “Trước hết, cậu cho tôi xem cuốn sổ lưu bút đó được không?”
“Tôi sẽ gọi xin phép đội trưởng.” Kusanagi nói.
5.
Đóng cuốn sổ lại, Yukawa buông một tiếng thở dài thườn thượt. Anh đưa tay phải chống cằm, ngón trỏ bàn tay trái gõ boong boong lên mặt bàn họp. Trước mặt anh bày la liệt sách vở, bài tập làm văn, sổ tay của Sakamoto. Quyển nào quyển nấy đều viết ít nhất một lần cái tên Những tài liệu liên quan đến “giấc mơ tiên tri” của Sakamoto Nobuhiko được lưu trữ trong một căn phòng của đồn cảnh sát Setagaya. Chỉ có Kusanagi và Makita bước chân vào căn phòng này. Những điều tra viên khác đinh ninh vụ án đã được giải quyết xong xuôi, vốn dĩ từ đầu họ đã chẳng mặn mà gì với giấc mơ tiên tri. Đó cũng là lý do mà dân thường như Yukawa dễ dàng vào được đây chẳng tốn công sức.
“Cậu nghĩ thế nào?” Kusanagi hỏi thử.
“Kỳ lạ thật.” Yukawa đáp. “Tôi chỉ biết nói là kỳ lạ thôi.” “Rốt cuộc vẫn là trùng hợp à?”
“Không, tôi nghĩ khác. Xem xong chỗ tài liệu này, tôi thấy khả năng trùng hợp không nhiều. Chuyện có kẻ nặng lòng đến vậy với một người trong tưởng tượng đã đủ hy hữu rồi, lại còn việc ở ngoài đời thực có người trùng họ trùng tên với người trong giấc mơ nữa, làm gì có sự trùng hợp đến mức đó.”
“Nhưng cậu cũng có giải thích được đâu?”
“Hiện tại thì thế.” Yukawa nhìn những tài liệu trên bàn thêm lượt nữa. “Tôi hỏi cậu câu này, cái tên Morisaki Remi từ đâu mà có?”
“Thì đã bảo là Sakamoto mơ thấy rồi mà.”
“Ý tôi không phải vậy, tôi hỏi cái người trong đời thực cơ. Người đặt tên Remi là ông bố à?”
“Không, là bà mẹ.”
“Cậu chắc chứ?”
“Chắc chắn đấy. Thú thực là sau khi nghe Sakamoto kể về giấc mơ tiên tri, tôi đã tức tốc đến nhà Morisaki, hỏi han họ đôi điều. Chuyện về nguồn gốc cái tên, tôi cũng hỏi vào lúc đó.”
Lúc Kusanagi đến tư gia nhà Morisaki, người chồng Toshio đang ở nhà. Nghe nói vừa hay tin vụ án, anh ta đã ba chân bốn cẳng về nước. Toshio nổi trận lôi đình, từ đầu tới cuối gào tướng lên, nằng nặc đòi xử tử hung thủ. Kusanagi thuật lại chuyện giấc mơ tiên tri của Sakamoto cho vợ chồng họ và Remi nghe, rồi hỏi xem họ có biết manh mối gì không.
Toshio mặt đỏ tía tai, đương nhiên là kiên quyết phủ nhận.
“Mơ với chả mộng, đời nào có chuyện ngu xuẩn như thế. Lại còn mơ được nên duyên với Remi ư? Đũa mốc mà định chòi mâm son à? Hắn muốn gỡ gạc tí tình tiết giảm nhẹ nên mới thốt ra mấy lời ngớ ngẩn đó thôi. Tên con bé trong sách vở ngày xưa ư? Tin thế quái nào được. Biết Remi rồi mới viết vào thì có.”
Rõ ràng giả thiết của Toshio không thể hình thành. Việc Sakamoto thật sự biết đến cái tên Morisaki Remi từ mười bảy năm trước đã được vô số sự thật khách quan chứng minh. Cuốn sổ lưu bút của hắn cũng là một trong số đó.
Kusanagi đã hỏi vợ chồng Morisaki rằng ai là người đặt tên cho Remi và đặt như thế nào. Yumiko trả lời thế này.
“Lúc nằm trên giường của bệnh viện tôi mới nghĩ ra cái tên đó. Tôi cứ ngỡ đứa bé trong bụng là con trai, nên không chuẩn bị sẵn
tên con gái.”
Yumiko là người phụ nữ vóc dáng mảnh mai, gương mặt mang đậm nét Nhật. Phong thái lẫn lời ăn tiếng nói đều tao nhã, toát lên vẻ yếu mềm. Thật khó tưởng tượng bộ dạng của chị ta lúc giương súng lên bắn.
“Khi đặt tên cho con, chị có tham khảo tài liệu nào không? Ví dụ sách hướng dẫn đặt tên con chẳng hạn?”
Yumiko lắc đầu trước câu hỏi của Kusanagi.
“Tôi chẳng xem mấy thứ đó đâu. Tôi chỉ cầu mong con bé lớn khôn thành người lễ độ, nên mới đặt tên cho nó là Remi.”
“Vậy chị có hỏi ý kiến ai không?”
“Không, chồng tôi bảo để tôi tự quyết.”
“Cái tên hay đúng không? Remi. Tôi ưng ý lắm.” Toshio đắc ý nói.
Kusanagi hỏi ý kiến Remi sau cùng. Cô ta có gương mặt sắc nét, trái ngược với mẹ. Đôi mắt to tròn báo hiệu một nhan sắc yêu kiều trong tương lai.
“Cháu chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì hết. Nói chung, cháu chỉ thấy kinh tởm thôi. May lúc ấy cháu đang ngủ li bì đấy, chỉ tưởng tượng đến việc mở mắt ra thấy tên đàn ông đó ở bên cạnh, cháu đã nổi hết cả gai ốc lên rồi.” Đúng là cô ta sợ chết khiếp, người khẽ run lẩy bẩy. Yumiko phải nắm chặt bàn tay đang run rẩy của con gái.
“Hắn tông chết người trên đường chạy trốn đúng không? Cứ tử hình quách đi cho rồi.” Toshio đay nghiến.
–~
“Hừm, cô ta ngủ trong quá trình xảy ra vụ án à?” Yukawa hỏi khi Kusanagi vừa dứt lời.
“Người mẹ nổ súng khiến cửa kính bị vỡ. Tiếng ồn đó làm Remi thức giấc. Có vẻ cô ta không hay biết chuyện gì đã xảy ra.”
Yukawa khoanh tay trước ngực, vẻ mặt như đang đắm chìm trong suy tư. Đúng lúc đó Makita bước vào. Anh bưng một cái khay, trên đó để ba cốc cà phê.
“Tình hình sao rồi ạ?” Makita tủm tỉm hỏi.
“Thần thông quảng đại như thầy Galileo đây mà cũng giơ tay xin hàng vụ này.” Kusanagi lấy hai cốc cà phê, một cho Yukawa.
“Cho tôi xem thư mời được không?” Yukawa hỏi. “Bức thư Remi gửi hung thủ ấy.”
“À, tôi không giữ bản gốc, bản photo thì có đây.” Kusanagi rút một quyển tài liệu từ trong đống giấy tờ chất lộn xộn, đặt trước mặt Yukawa, rồi mở ra. “Của cậu đây.”
“Viết bằng máy đánh chữ à?”
“Sakamoto khai bức thư được gửi qua đường bưu điện trước hôm xảy ra vụ án một ngày. Đúng là hắn vẫn còn giữ phong bì, trên tem thư có đóng dấu bưu cục, chữ ở cột tên người gửi và người nhận được đánh máy. Nhưng chẳng có gì chứng minh Morisaki Remi đã gửi bức thư đó cả. Hay là Sakamoto tự viết, rồi bỏ vào hòm thư gửi cho mình nhỉ, hoặc một kẻ thứ ba nào đó biết hắn tơ tưởng đến Remi nên bày trò trêu chọc?”
“Bày trò trêu chọc thì tôi còn hiểu được, chứ hắn có lý do gì để tự gửi thư cho mình?”
“Tôi biết đâu được đấy. Nếu là hắn ta thì thừa sức làm mấy việc lạ đời kiểu đó.”
Yukawa hơi nghiêng đầu, lia mắt xuống hàng chữ trên bức thư Bức thư có nội dung như sau.
Gửi anh Sakamoto Nobuhiko.
Cảm ơn anh đã luôn lặng thầm dõi theo em. Vậy mà em chẳng thể đáp lại tình cảm của anh, em thấy khổ tâm lắm.
Chỉ một lần thôi, em muốn đàng hoàng đối mặt với anh. Nhưng em không ra ngoài gặp anh được. Anh hãy đến phòng em đi! Đêm mai, em sẽ mở sẵn của phòng đợi anh. Anh chỉ cần trèo lên mái nhà kho là dễ dàng vào được phòng em.
Anh hãy âm thầm lẻn vào trong nhé! Bố em đi vắng, chỉ có mẹ ở nhà thôi. Remi.
Yukawa ngẩng mặt lên.
“Sakamoto khai hắn đặt trọn niềm tin vào bức thư này, nên mới lẻn vào căn phòng đó à?”
“Đúng vậy. Khờ hết chỗ nói.”
Yukawa chẳng đáp lại gì, chỉ lẳng lặng uống cà phê trong cốc giấy. Đôi mắt phía sau cặp kính nhìn chằm chằm vào một điểm trong không trung.
Tiếp đó đôi mắt ấy nhìn về phía Kusanagi. “Cậu bảo ở quận Koto nhỉ?”
“Cái gì cơ?”
“Nhà của Sakamoto. Lần trước cậu bảo nhà hắn ở quận Koto nhỉ?”
“Ờ, vậy thì sao?”
“Được rồi!” Yukawa đứng dậy. “Chúng ta tạt qua đó một chút xem sao!”
“Hả, đến nhà Sakamoto ư? Ngay bây giờ?”
“Dù sao ngồi đây phiền não thì cũng chẳng có đáp án. Muốn có đáp án, phải lần ngược về thời thơ ấu của hắn để tìm đúng không?” Yukawa nói rồi nhìn mặt Kusanagi. “Hay là cậu không thể cho tay mơ như tôi gặp gỡ gia đình của nghi phạm? Nếu vậy thì tôi xin phép về đây. Tôi cũng bận trăm công nghìn việc.”
Từ những kinh nghiệm bao lâu nay, Kusanagi biết người đàn ông trước mặt chỉ thốt ra câu này khi đã nắm trong tay manh mối nào đó. Anh gật đầu, “Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ lựa lời nói với cấp trên,” rồi nhìn sang Makita. “Nhờ cậu lái xe ô tô của tôi đến trước đồn nhé!”
6.
“Một ngày nọ vào năm 1914, một vị linh mục ở bán đảo Balkan mơ một giấc chiêm bao. Trong mơ ông thấy một lá thư viền màu đen đặt trên cái bàn trong thư phòng mình.” Ngồi trên ghế phụ, Yukawa bắt đầu kể. Bọn họ đang trên đường đến nhà Sakamoto. “Bức thư do thái tử của đế quốc Áo-Hung gửi đến, trong thư nói rằng thái tử và vợ đã trở thành nạn nhân của tội ác chính trị ở Sarajevo. Ngày hôm sau, linh mục nghe tin vợ chồng thái tử đã bị ám sát ở Sarajevo thật.”
Ở ghế sau, Makita ồ lên thán phục.
“Chuyện thật đấy à?”
“Người ta bảo vậy. Tôi thì không rõ nội dung sâu xa thế nào. Tóm lại, từ thời xa xưa những giai thoại về giấc mơ tiên tri đã nhiều đến mức ngao ngán. Phần nhiều trong số đó có lẽ là trùng hợp. Nhưng trong số ấy, cũng không ít giai thoại khó có thể coi là trùng hợp. Và hầu hết những giai thoại đó đều có thể được giải thích rõ ràng. Ví dụ, câu chuyện của vị linh mục trên diễn giải theo cách này được không? Trong cảnh thế sự rối ren, vị linh mục thấp thỏm lo âu cho sự an nguy của vợ chồng thái tử. Nỗi sợ về cái chết của họ lẩn khuất ở một ngóc ngách nào đó trong tâm trí ông ta. Và rồi, nỗi sợ trong tiềm thức đó đã xuất hiện dưới dạng giấc mơ.”
“À, nếu giải thích kiểu đó thì cũng thấy thuyết phục đấy chứ.”
“Ý cậu là phải có một nguyên do đặc biệt nào đó thì Sakamoto mới mơ thấy cái tên Morisaki Remi à?” Kusanagi hỏi.
“Đúng vậy.”
“Nhưng biết được điều đó thì có tác dụng gì?”
“Sẽ giải quyết được vụ án chăng?” Yukawa nói. “Tôi đồ rằng vụ án sẽ được giải quyết theo một hướng hoàn toàn khác với bây giờ.”
“Cậu có ý gì?”
“Mà thôi, từ từ mới hay.” Yukawa nhếch một bên gò má, nở nụ cười ẩn ý.
Nhà Sakamoto nằm quay mặt ra trục đường chính – đường Kasaibashi. Ngôi nhà có ba tầng, tầng một được trưng dụng làm văn phòng kết hợp nhà kho. Đương nhiên, giờ cửa cuốn bên ngoài nhà đang đóng im im.
“Thật sự chúng tôi cũng không biết sao thằng bé lại nói nhăng nói cuội như thế nữa. Thấy nó chẳng làm phiền đến ai, tôi trộm nghĩ thà thế còn hơn bị đứa con gái trời ơi đất hỡi nào bắt mất hồn vía, nào ngờ chuyện lại ra nông nỗi này. Tôi không biết nói sao cho phải.”
Mẹ của Sakamoto, bà Tomiko vừa chấm khăn tay lên mắt vừa nức nở. Trong một góc của văn phòng, nhóm Kusanagi ngồi đối diện với bà ta. Bố của Sakamoto đổ bệnh ngay sau vụ án, rồi cứ thế nằm liệt giường. Chị gái của Sakamoto là Kanako phải về nhà để đỡ đần bố mẹ.
“Nghe nói con trai ông bà bắt đầu nhắc đến cái tên Morisaki Remi lúc học lớp bốn. Khi đó anh ta có gì lạ không?” Yukawa đặt câu hỏi. Anh giới thiệu với mẹ và chị gái của Sakamoto rằng mình là giảng viên đại học, chuyên nghiên cứu về các hiện tượng kỳ bí.
“Xem nào… tôi nghĩ là không.” Người mẹ nghiêng đầu.
“Bà có thấy cái tên Morisaki quen không? Như là tên của người nào đó sống ở gần đây chẳng hạn?”
“Tôi chưa nghe nói đến cái tên đó bao giờ. Khách hàng nhà tôi cũng không có người nào như thế, hàng xóm láng giềng lại càng
không. Vì vậy việc thằng bé Nobuhiko nghĩ ra cái tên đó, đến bản thân tôi còn thấy lạ.”
“Hồi đó con trai bà hay chơi ở những chỗ như thế nào? Bà có nhớ anh ta thường la cà quán xá nào hoặc lảng vảng ở nhà ai không?”
Dù Yukawa có hỏi câu nào, Tomiko cũng chỉ nhăn mặt và lắc đầu. Có lẽ trạng thái tinh thần không cho phép bà ta nhớ ra, chứ cũng chẳng phải đã quên béng mất mấy chuyện đó.
“Bà có đồ vật nào giúp chúng tôi hiểu thêm về con trai bà hồi đó không? Nhật ký hay là album ảnh cũng được.”
Ngồi nghe câu chuyện ở cách đó một quãng, Kanako đáp thay: “Album ảnh thì có đấy ạ.”
“Cho tôi xem được không?”
“Vâng. Phiền anh chờ một chút.”
Kanako bước lên cầu thang.
Tomiko đặt khăn tay lên đầu gối, cẩn thận gập lại, cái khăn đã ướt sũng nước mắt.
“Xin hỏi, tội của Nobuhiko nghiêm trọng đến mức nào ạ?” Bà ta hỏi trong khi mặt vẫn cúi gằm.
“Chuyện đó chúng tôi chưa biết.” Kusanagi đáp. “Phải chi anh ta chỉ lẻn vào nhà người ta thì đã đành, đằng này còn gây tai nạn rồi bỏ trốn nữa.”
“Trời ơi,” Tomiko buông một tiếng thở dài tuyệt vọng. “Sao thằng bé ấy lại làm ra chuyện tày trời như thế chứ? Nó vốn là đứa hiền lành.”
Người nhà hung thủ nào chẳng nói thế, câu nói lên đến miệng, Kusanagi lại nuốt vào trong.
Kanako quay lại. Cô ta cầm một cuốn album ảnh có bìa màu xanh lam trên tay. “Của anh đây.”
Yukawa nhận lấy cuốn album, để lên đầu gối rồi mở ra. Ở bên cạnh, Kusanagi cũng nhòm sang. Trang đầu tiên là bức ảnh chụp một bé trai trần truồng ngồi trên ghế.
“Ảnh hồi lớp bốn chỗ nào nhỉ?” Vừa sột soạt lật giở trang giấy, Yukawa vừa lẩm bẩm.
“Có ghi chú thời gian chụp ảnh đấy ạ.” Kanako nói.
Đúng là đôi chỗ có ghi những dòng chữ kiểu như Nobuhiko – lễ tốt nghiệp mẫu giáo. Yukawa giở trang đề Nobuhiko –lớp bốn ra. Ở đó dán vài tấm hình chụp vào ngày hội thao hay buổi dã ngoại.
“Chẳng thấy bức nào hữu ích nhỉ.” Kusanagi nói.
“Ờ,” Yukawa gật đầu, vẻ mặt ủ rũ.
“Người hiểu nhất về con người anh ta hồi đó có phải là bạn bè không?” Kusanagi hết nhìn Tomiko lại nhìn Kanako rồi đặt câu hỏi.
“Vâng… Nhưng hình như từ xưa thằng bé đã không có bạn bè nào thân thiết.” Tomiko nói.
“Vậy à?”
“Vâng. Nó là đứa thích chơi một mình.”
Đúng là có cảm giác đó, Kusanagi gật gù đồng tình. Đúng lúc ấy, Yukawa huých vào sườn Kusanagi. “Này, cậu nhìn cái này đi!”
“Gì vậy?”
“Bức ảnh này.” Yukawa chỉ tay vào một bức ảnh. Bên cạnh ghi dòng chữ Nobuhiko – lớp hai.
“Lớp hai mà.”
“Biết rồi, cứ nhìn cho kỹ đi!”
Kusanagi hướng mắt vào bức ảnh. Ảnh chụp Nobuhiko bé bỏng đứng bên vệ đường. Thấy thứ hắn ôm trên tay, Kusanagi trợn tròn mắt. “Ơ, thứ này.”
“Cậu nhớ ra chưa?”
“Nhớ ra rồi. Là con búp bê đó.”
Chắc chắn đây là con búp bê được vẽ trong cuốn sổ lưu bút. Hóa ra là đồ chơi của Sakamoto Nobuhiko à?
Dù vậy con trai mà chơi búp bê thì lạ quá.
“Con búp bê này có phải vật kỷ niệm gì không?” Yukawa hỏi mẹ con Sakamoto.
“À, nếu tôi không nhầm thì,” có vẻ Kanako vẫn còn nhớ, “lúc nhỏ Nobuhiko đem về nhà, bảo là được người ta cho. Mẹ cũng nhớ phải không ạ?”
“Có chuyện đó à?” Tomiko hình như đã quên béng mất. “Hai người còn giữ nó không?” Yukawa hỏi.
“Không, không còn đâu.” Kanako quả quyết. “Mẹ tôi quẳng vào thùng rác rồi. Mẹ bảo nó xui xẻo.”
“Mẹ nói thế à?”
“Cô nói xui xẻo nghĩa là sao?” Yukawa dồn dập hỏi.
“Có một bé gái sống gần đây bị ô tô tông chết. Cô bé từng nâng niu con búp bê lắm. Nobuhiko kể nó hay chơi cùng cô bé đó trong công viên, nên bố cô bé đã tặng nó con búp bê.”
“À,” Tomiko gật gù. “Con nhắc mẹ mới nhớ, đúng là có chuyện đó thật.”
“Cô có biết tên của bé gái đó không?”
Kanako lắc đầu. “Tôi chẳng nhớ đâu. Có khi từ đầu nó đã không kể.”
Yukawa gật đầu, nghĩ ngợi gì đó giây lát. Trong đầu anh đang ngổn ngang những suy nghĩ gì, Kusanagi không tài nào đoán được. Rất nhanh sau đó, anh ngẩng đầu lên.
“Cảm ơn hai người. Thông tin hữu ích lắm.” Anh nói với hai mẹ con họ, rồi hối thúc Kusanagi, “Chúng ta đi thôi!”
“Muốn tìm chủ sở hữu của con búp bê quá.” Quay lại xe, Yukawa nói. “Có cách nào tìm được không nhỉ?”
“Việc đó cũng không phải không có cách. Chỉ cần tra cứu những ghi chép về tai nạn giao thông trong quá khứ là ra thôi. Nhưng rốt cuộc chuyện là thế nào? Mong cậu cho tôi một lời giải thích rõ ràng.”
“Tôi chưa dám khẳng định chắc chắn, nhưng tôi nghĩ nhiều khả năng con búp bê đó liên quan đến giấc mơ tiên tri của Sakamoto.”
“Kiểu như hồn ma của bé gái đã qua đời trú ngụ trong con búp bê à?” Từ đằng sau, Makita nói xen vào.
Yukawa gật đầu mà chẳng cười lấy một tiếng, bình thường anh luôn gạt đi mấy chuyện kiểu này.
“Ừ nhỉ. Cũng có khả năng đó.”
“Này, nói năng nghiêm túc đi!”
“Dĩ nhiên tôi đang rất nghiêm túc.”
“Chúng tôi sẽ không vào cuộc nếu không biết lý do. Để tra cứu ghi chép về tai nạn giao thông, tôi phải đưa ra lời giải thích hợp lý cho các sếp.”
Nghe Kusanagi nói vậy, Yukawa hít một hơi thật sâu, mắt vẫn nhìn thẳng phía trước.
“Nếu vậy tôi không làm khó cậu nữa. Tôi thì thế nào chẳng được. Có giải được bí ẩn của giấc mơ tiên tri hay không cũng chẳng sao.”
“Cậu đang dọa tôi đấy à?”
“Oan cho tôi quá. Chỉ là ở giai đoạn này thì tôi đây cũng không dám khẳng định điều gì.”
Kusanagi thở dài ảo não. Nếu người đàn ông này rút lui ở đây, anh sẽ không có cách nào xoay xở.
“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ tìm cách.”
“Điều tra cả ông bố nữa nhé.”
“Bố ư?”
“Người cho Sakamoto Nobuhiko con búp bê là bố của cô bé bị tai nạn còn gì?”
“Ừ nhỉ.”
Kusanagi phóng xe đi. Nếu anh báo cáo rằng hồn ma của bé gái đã nhập vào con búp bê thì vẻ mặt các sếp sẽ thế nào đây? Hình dung chuyện đó trong đầu, anh thấy sợ nhưng cũng vô cùng háo hức.
Hai hôm sau, Kusanagi gọi điện cho Yukawa. “Biết được chủ sở hữu của con búp bê rồi.”
“Tôi cũng muốn khen cậu làm tốt lắm, nhưng nghĩ lại thì đó là công việc của các cậu mà.”
“Công việc đó không dễ xơi đâu nhé. Phải lao tâm khổ tứ tìm cách giải thích cho mấy sếp to, ghi chép tai nạn thì toàn từ thời xa lơ xa lắc, tìm hiểu thôi cũng phờ phạc cả người.”
“Mọi sự đều vì bản thân cậu thôi. Thế, kết quả ra sao?” “Nói chung là suy luận trật lất rồi.”
“Hử, trật thế nào?”
“Bé gái đó tên là Sakurai Mako. Không phải Morisaki, cũng không phải Remi.”
“Vậy à? Thật đáng tiếc.” Yukawa thủng thẳng nói.
“Hình như cậu không tiếc cho lắm.”
“Tôi chủ trương không kỳ vọng vào những thứ vô căn cứ. Nhân tiện, cậu có điều tra ông bố không?”
“Sơ sơ thôi. Hồi xảy ra tai nạn, anh ta sống gần nhà Sakamoto. Giờ hình như đã chuyển đến nơi khác. Anh ta làm công việc thiết kế.”
“Nhà thiết kế? Quần áo ư?”
“Không, có vẻ là thiết kế tranh minh họa và bìa sách.” “Nếu vậy, anh ta làm việc tại nhà nhỉ?”
“À, tôi không biết cặn kẽ đến mức đó. Thế có chuyện gì à?”
Nhưng Yukawa không trả lời. Ở đầu dây bên kia, hình như anh đang miên man nghĩ ngợi.
“Này, Yukawa!” Kusanagi sốt ruột gọi.
“Càng lúc tôi càng thấy rõ.” Cuối cùng Yukawa cũng lên tiếng. “Thấy là thấy cái gì?”
“Đường nét của vụ án. Có một việc cảnh sát Kusanagi cần làm ngay sau đây.”
“Việc gì vậy?”
“Điều tra những chuyện ở thời điểm xảy ra tai nạn. Ông bố của bé gái đó có lối sống như thế nào? Hãy dùng hết khả năng của cậu để tra rõ. Thế nào cái tên Morisaki Remi cũng xuất hiện.”
Hết yêu cầu này đến yêu cầu khác, Kusanagi không hiểu đâu vào với đâu cả.
“Cậu một vừa hai phải thôi! Đừng có ôm khư khư một mình như thế, nếu đã lờ mờ đoán ra chân tướng vụ án rồi thì nói tôi nghe xem nào! Lời này tôi thay mặt lực lượng cảnh sát để nói đấy.”
Đoán cậu ta đã nổi khùng lên rồi, Yukawa cười khúc khích.
“Thi thoảng nghe giọng điệu hống hách đó của cậu cũng vui tai. Tôi hiểu rồi. Vậy kiếm chỗ nào nói chuyện cho đàng hoàng nhé! Nghe tôi nói xong, cậu quyết định có điều tra hay không cũng chưa muộn.” Anh lấy lại giọng điệu nghiêm túc. “Nếu tôi suy luận đúng, thì bố cục vụ án sẽ đảo ngược hoàn toàn.”
“Làm gì mà văn vẻ thế. Chuyện khiến người ta kinh ngạc đến mức đó sao?”
“Tôi nghĩ cậu sẽ bị một phen kinh ngạc đấy. Dù ít dù nhiều.” Anh thốt ra một câu bông đùa, nhưng giọng điệu lại vô cùng nghiêm trọng.
Mấy chục phút sau đó, Kusanagi gặp Yukawa trong một quán cà phê gần trường đại học Teito. Bên một chiếc bàn nằm trong cùng của quán, nhà vật lý trình bày suy luận của mình cho viên cảnh sát nghe.
Đúng là một câu chuyện khiến người ta sửng sốt.
7.
Kusanagi đứng trước cánh cổng đúng lúc cửa chính mở ra, Morisaki Yumiko bước ra từ sảnh. Vừa trông thấy viên cảnh sát, gương mặt chị ta đã lộ vẻ bối rối. Kusanagi cúi đầu chào.
Yumiko vừa dáo dác ngó xung quanh, vừa đi về phía cổng. “Có chuyện gì ạ?”
“Tôi có đôi điều muốn hỏi chị. Chẳng hay chị định ra ngoài à?” “Vâng, tôi đang định đi mua sắm.”
“Nếu không vội, chị có thể dành cho tôi chút thời gian không?”
“Hả?” Yumiko tỏ vẻ lưỡng lự, nhưng cuối cùng cũng nở nụ cười và gật đầu. “Tôi hiểu rồi. Mời anh vào trong nhà. Mong anh thứ lỗi cho, nhà cửa bừa bộn lắm.”
Tôi xin phép, Kusanagi cúi đầu, băng qua cổng.
Dù Yumiko bảo nhà cửa bừa bộn, nhưng căn phòng khách bày bộ sofa bọc da lại gọn gàng ngăn nắp quá đỗi. Tất thảy đồ đạc được xếp đặt ở đúng nơi đúng chỗ, những món đồ trang trí cao cấp cũng được trang hoàng ở nơi tương xứng như thể tuyên bố vị thế của chúng trong căn nhà này.
Ông chủ nhà này hẳn nhiều lời lắm đây, Kusanagi hình dung. Morisaki Toshio là kiểu người đó.
“Chị cứ kệ tôi,” Kusanagi tỏ ý khách sáo, nhưng Yumiko vẫn đem hồng trà và bánh quy ra để thiết đãi. Có lẽ chị ta sẽ thấy bứt rứt không yên nếu không tiếp đón chu toàn bất kể vị khách nào.
Kusanagi nhấp một ngụm trà. Mùi vị chẳng giống loại trà nào anh từng uống trong đời. Hương thơm độc đáo vô ngần. Phải chăng đây là loại trà chỉ dành cho những người lắm tiền nhiều của thưởng thức.
“Trà ngon quá chị ạ,” anh thật lòng khen ngợi.
“Xin hỏi, chuyện anh muốn hỏi tôi là chuyện gì ạ?”
Kusanagi ngồi lại cho ngay ngắn, rồi đặt tách trà lên bàn. Anh nhủ thầm vậy là không được uống trà này nữa rồi.
“Lần trước tôi từng nói với chị nhà của Sakamoto Nobuhiko ở Kiba, quận Koto nhỉ.”
“Vâng.”
“Lúc ấy tôi hỏi chị đã đến khu đó bao giờ chưa. Vì Sakamoto nhắc đến tên con gái chị từ lúc nhỏ, nên tôi đoán giữa gia đình chị và Sakamoto có mối liên hệ nào đó. Nhưng chị nói chắc như đinh đóng cột rằng mình chưa từng đến đó. Đúng không?”
Yumiko vẫn lặng thinh, khẽ gật đầu. Nỗi bất an in hằn trong đôi mắt chị ta.
“Chị này!” Kusanagi nhìn xoáy sâu vào mắt đối phương. “Đến nước này rồi chị vẫn cãi chày cãi cối được à?”
“Anh muốn nói gì?”
“Vậy chị có nhớ cái tên này không?” Kusanagi chậm rãi lấy cuốn sổ tay, rồi mở ra. Nhưng thật ra anh chẳng cần làm thế. Bởi cái tên viết trong đó đã khắc sâu vào tâm trí anh rồi. Anh nói: “Sakurai Tsutomu.”
Trong một khoảnh khắc, mắt Yumiko trợn trừng lên. Mặt mày chị ta nhợt nhạt như thể máu trong cơ thể đã bị rút cạn.
“Chị biết phải không?” Kusanagi lặp lại câu hỏi.
“Không.” Chị ta lắc đầu. “Tôi không biết người đó.”
Kusanagi gật đầu. Anh thừa biết chị ta sẽ không dễ dàng thừa nhận chuyện này.
“Anh Sakurai hiện đang điều hành một công ty thiết kế ở Chiba. Anh ta vẫn lẻ bóng một mình.”
“Anh đang lảm nhảm cái gì vậy? Tôi đã bảo là không biết người đó rồi còn gì.”
“Anh Sakurai,” Kusanagi nói tiếp, “đã thừa nhận có quan hệ với chị.”
Yumiko ngừng cử động như cỗ máy bị hết pin. Đôi mắt nhìn chăm chăm vào thinh không bắt đầu vằn lên những tia máu.
“Khoảng hai mươi năm về trước, một nhà thiết kế nọ sống tại tòa chung cư cách cửa hàng thi công điện của gia đình Sakamoto chừng năm phút đi bộ. Đó là anh Sakurai Tsutomu. Người vợ qua đời vì bệnh tật bỏ lại anh ta gà trống nuôi con. Có một người phụ nữ đều đặn hằng tuần đến nhà bố con họ. Người phụ nữ ấy là chị.” Kusanagi nói liền một mạch. Phải rung cây dọa khỉ để chị ta biết anh đã điều tra hết nhẽ rồi.
Thực ra, Sakurai Tsutomu không thừa nhận mọi chuyện ngay. Ban đầu anh ta cũng mồm năm miệng mười, nhất quyết bảo không nhớ cái tên Morisaki. Bộ dạng mắt la mày lét của anh ta khi chối đây đẩy khiến Kusanagi vững tin suy luận của bọn họ là đúng.
Thái độ của Sakurai chỉ dao động khi Kusanagi nêu ra mối liên hệ giữa anh ta với Morisaki Yumiko. Anh nắm được trước đây anh ta có thời gian giảng dạy tại một trường văn hóa ở Ikebukuro, và Morisaki Yumiko là một trong số học sinh ở đó. Học sinh theo học khóa thiết kế sách này lẻ tẻ được vài mống, và trong vỏn vẹn nửa năm, khóa học đã bị hủy bỏ. Thêm nữa, không ít lần chỉ có Morisaki Yumiko một mình đến lớp. Không có lý nào Sakurai quên chị ta.
Gò má Yumiko méo xệch. Có lẽ chị ta đang cố nặn ra nụ cười.
“Tại sao?” Chị ta nói. “Sao đến giờ phút này còn nhắc lại chuyện ấy? Chuyện từ đời tám hoánh nào rồi.”
“Vì có liên quan mật thiết tới vụ án này. Hẳn chị là người hiểu rõ nhất việc đó.”
“Tôi chẳng hiểu gì hết.”
“Chị còn nhớ cô bé Sakurai Mako chứ? Đó là con gái của anh Sakurai. Chẳng phải cô bé rất quấn quýt chị sao? Tôi nghe nói cô bé lúc nào cũng ôm khư khư con búp bê chị tặng”
Nghe đến từ “búp bê”, biểu cảm trước sau như một của Yumiko đã đổi khác. Hệt như bao sức lực trong người đều bay biến hết. Kusanagi có cảm giác chị ta đã buông xuôi.
“Bé Mako đã đặt tên cho con búp bê đó. Chị cũng biết phải không? Đúng vậy, chính là cái tên Remi. Chưa hết, cô bé nghĩ búp bê cần có họ nữa. Nhưng không phải họ Sakurai. Bởi đối với bé Mako, Remi là con của cô tốt bụng, hằng tuần đến chơi với mình. Và cứ thế Morisaki Remi đã trở thành tên của con búp bê.”
Yumiko gục hẳn đầu về đằng trước. Đôi vai chị ta khẽ rung lên.
“Chuyện bé Mako gặp tai nạn giao thông và qua đời, chị vẫn còn nhớ chứ? Đằng đẵng bao nhiêu năm trời sau đó, chị vẫn qua lại với
anh Sakurai. Nhưng kết cục hai người chia lìa đôi ngả có phải bởi chị đã hoài thai?”
Yumiko không trả lời. Kusanagi nhận định im lặng là đồng tình.
“Chẳng bao lâu sau, chị hạ sinh một bé gái. Tôi không rõ đứa bé là con của chồng chị hay con của anh Sakurai. Nhưng mấu chốt ở đây là cái tên chị đặt cho đứa bé. Remi. Đúng vậy, chị dùng tên con búp bê để đặt cho con gái mình.”
Cổ họng khô khốc, nhưng Kusanagi không động vào tách trà, mà nói tiếp.
“Tôi không biết tâm tư của chị ra sao khi đặt cho con mình cái tên đó. Có thể chị vương vấn tình cũ, hoặc chỉ đơn giản thấy tên đó hay hay. Tóm lại, cùng với cái tên của con búp bê mẹ mình đặt cho, Morisaki Remi đã khỏe mạnh lớn lên trong mười sáu năm qua. Trong khoảng thời gian đó, chị chưa một lần tái ngộ anh Sakurai. Hẳn chị yên trí rằng việc vụng trộm trong quá khứ đã được che giấu kín kẽ. Nhưng đâu ai biết trước chữ ngờ, đang yên đang lành thì một người đàn ông ất ơ xuất hiện trước mắt chị. Đó là Sakamoto Nobuhiko.”
Yumiko vẫn chìm trong yên lặng. Tư thế ngồi không thay đổi. Có vẻ chị ta đã hạ quyết tâm nghe anh nói hết mọi chuyện xem thế nào đã.
“Nghe Remi kể địa chỉ nhà Sakamoto, rồi việc hắn ta một mực cho rằng mình biết cái tên Morisaki Remi từ mười mấy năm trước, hẳn chị đã chột dạ. Trực giác mách bảo chị kẻ này chắc chắn có mối quan hệ nào đó với bố con anh Sakurai. Và trực giác của chị đã đúng.”
Kusanagi kể về mối liên quan giữa Sakamoto và con búp bê của Sakurai Mako. Hình như đây là lần đầu tiên chị ta nghe nói đến chuyện này, trên gương mặt chị ta hiện lên vẻ kinh ngạc xen lẫn tuyệt vọng.
“Chẳng khó để hình dung Sakurai Mako đã nói cho Sakamoto nghe tên con búp bê. Nhưng mẹ Sakamoto đã vứt con búp bê đó đi rồi. Sakamoto bấy giờ chắc phải chịu cú sốc nặng nề, nhưng đứa bé còn non nớt đã nhanh chóng cho chuyện này vào quên lãng. Và rồi một ngày nọ của hai năm sau, hắn đột nhiên nhớ ra riêng cái tên của con búp bê thôi. Morisaki Remi, tôi nghĩ cái tên này có lẽ đã lay động tâm can hắn. Kết quả là hắn tin người con gái với cái tên như vậy tồn tại trên đời này, hắn và cô ta được một sợi dây tơ hồng vô hình gắn kết. Không lâu sau, hắn đặt chữ Hán cho cái tên. Chữ Hán hắn nghĩ ra trùng với tên con gái chị cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Nghe đến tên Morisaki Remi, hẳn nhiều người sẽ liên tưởng đến chữ Hán tương tự.” Kusanagi tiếp tục. “Đương nhiên chị không biết nội tình này, nhưng chị vẫn nhận thức rõ sự tồn tại của Sakamoto sẽ khiến mình gặp nguy hiểm. Nếu để mặc hắn tự tung tự tác, chẳng chóng thì chày chuyện vụng trộm năm xưa của chị sẽ bị phanh phui. À không, có lẽ điều chị lo sợ nhất là Remi thực chất là giọt máu của ai.”
“Remi là,” Yumiko vẫn cúi gằm mặt, nói như rên rỉ, “là con của chồng tôi.”
Kusanagi thở dài. Đến nước này rồi thì tranh luận chuyện đó phỏng có ích gì.
“Vì thế, điều chị trăn trở là làm sao để trừ khử Sakamoto một cách hợp pháp. Và một ý nghĩ nảy ra trong đầu chị, đó là giết người do phòng vệ chính đáng. Chị sẽ dụ Sakamoto vào tròng, nhằm đúng lúc hắn lẻn vào phòng con gái mình rồi bắn chết. Chị tuyệt nhiên không bị người đời chê trách, theo luật phòng chống trộm cắp, nhiều khả năng chị còn không bị xét tội. Một kế hoạch hoàn hảo. Chỉ tính sai ở điểm viên đạn đã không găm trúng người Sakamoto.”
Đến đây, cuối cùng Yumiko đã ngẩng mặt lên. Chị ta lắc đầu. Nhưng động tác đó trông thật yếu ớt.
“Không phải, làm gì có chuyện đó… tôi chẳng lên kế hoạch gì hết.”
“Chúng tôi đã có đầy đủ chứng cứ.” Kusanagi trưng ra nét mặt bình thản. “Sau khi phân tích kỹ bức thư dẫn dụ Sakamoto, chúng tôi đã xác minh được dòng máy đánh chữ, và loại giấy, cũng tìm thấy máy đánh chữ tương tự trong lớp dạy nấu ăn mà chị theo học. Nghe nói giảng viên thi thoảng sử dụng nó để viết công thức món ăn. Có nhân chứng khai rằng gần đây thấy chị sử dụng cái máy đó. Cũng nói thật cho chị biết, hôm qua các thanh tra đồng nghiệp của tôi đã dành cả nửa ngày để tìm ruy băng mực của máy. Kết quả là nội dung bức thư vẫn còn nguyên vẹn trên ruy băng.”
Trên cương vị của mình, những điều phải nói anh đã nói hết. Việc còn lại chỉ là chờ câu trả lời của Yumiko.
Đôi mắt đỏ ngầu của Yumiko bắt đầu ứa lệ. Nước mắt trào ra, loáng một cái đã ướt đẫm hàng mi. Chị ta không buồn lau hàng nước mắt đó. “Anh có thể chuyển lời với chồng tôi rằng Remi là con của anh ấy không?”
Kusanagi không đáp. Anh đặt câu hỏi thay cho câu trả lời. “Phiền chị đến đồn cảnh sát một chuyến được không?”
Vâng, chị ta lí nhí đáp.
Một chiếc ô tô đỗ trước nhà Morisaki. Trên xe, Makita và hai cảnh sát nữa túc trực sẵn. Kusanagi đã liên lạc trước, bảo họ đợi. Anh bàn giao Yumiko cho họ.
“Tôi sẽ quay về đội sau.” Kusanagi nói với Makita. Makita gật đầu, phóng xe vút đi. Ngồi ở ghế sau, đôi mắt Yumiko vẫn chăm chú dõi về đằng trước.
Kusanagi đi bộ ngược lại hướng xe lao đi. Chiếc Skyline đang đỗ cách đó tầm hai mươi mét. Yukawa đã kịp đánh một giấc ngon lành
trên cái ghế phụ ngả ra sau. Kusanagi vừa lên xe thì Yukawa choàng tỉnh. “Có vẻ đã xong hết rồi hả?”
“Ừ. Một công việc đáng ghét.”
“Thế nên lương lậu của cậu mới cao chót vót.”
“Quan trọng hơn,” Kusanagi quay mặt sang ghế phụ. “Lần này cũng là cậu giải vây giúp tôi. Cảm ơn cậu nhé!”
“Tôi chỉ muốn thỏa mãn thói ưa tìm tòi của mình thôi. Khỏi cần cậu cảm ơn.”
“Nhưng nếu không nghe suy luận đó của cậu, thì chúng tôi đã không nghi ngờ chị ta.”
Anh bỗng nhớ lại mình đã sửng sốt thế nào khi nghe suy luận của Yukawa. “Mẹ của Morisaki Remi rất khả nghi,” đó là lời đầu tiên cậu ta thốt ra. Cậu ta nói tình huống của vụ án là căn cứ thứ nhất.
“Mới chỉ lờ mờ cảm nhận có người đột nhập mà người mẹ đã cầm súng lao vào phòng con gái, kể cũng lạ. Vả lại, nếu tiếng động mà người kia gây ra lớn đến mức đó, hẳn Remi phải phát hiện trước tiên. Nhưng trong thực tế cô ta cứ ngủ mê mệt, hung thủ đến bên giường mình còn không biết. Chỉ có người mẹ cảm nhận nguy hiểm, hùng hổ vác cả súng đến. Phải chăng hành động này có vấn đề?”
Rồi Yukawa trình bày một suy luận táo bạo. Rằng vụ án này phải chăng là một âm mưu.
“Giả sử mục đích của người mẹ là dàn dựng vụ án như phòng vệ chính đáng để giết chết Sakamoto, thì động cơ của chị ta là gì? Tôi cho rằng có liên quan đến giấc mơ tiên tri. Liệu trong giấc mơ đó có ẩn giấu điều gì bất lợi cho chị ta không? Giả sử mười bảy năm về trước, thời điểm Sakamoto nằm mơ, giữa hắn và Morisaki Yumiko có mối liên hệ nào đó. Để hình thành mối liên hệ với hắn lúc nhỏ, chị ta
phải lảng vảng quanh khu nhà hắn. Vả lại cần thường xuyên như cơm bữa. Chị ta muốn che giấu điều đó. Tại sao nhỉ? Nếu một bà nội trợ phải che giấu việc mình đến một nơi nào đó, thì lý do sẽ gói gọn lại.”
Ngoại tình, Kusanagi và Makita lập tức nảy số trong đầu.
“Có lẽ nên suy luận rằng nhân tình của Morisaki Yumiko là một người ở gần Sakamoto thuở nhỏ. Dù vậy, cơ hội để một đứa trẻ tiểu học thân thiết với một người đàn ông trưởng thành không nhiều lắm. Nếu nhân tình đó là bố của người bạn chơi cùng thì hợp lý hơn.”
Thế là Yukawa đề nghị điều tra đời tư của người bố khi đó.
“Vụ án lạ lùng nhỉ.” Kusanagi vừa cắm chìa khóa vào ổ, vừa chiêm nghiệm. “Sakamoto đến giờ vẫn chưa biết tại sao mình mơ thấy cái tên Morisaki Remi đâu. Cũng chẳng nhận ra kỷ niệm về một con búp bê đã thao túng cuộc đời hắn.”
“Con người ai mà chẳng bị thứ gì đó thao túng.” Yukawa nói rồi ngáp một hơi dài.
“Có quán này, Blue Moutain ngon lắm.”
“Gần đây không?”
“Ở Todoroki.”
“Hay đấy.”
Kusanagi nổ máy.
Chương 2
NHÌN THẤY MA
1.
Nagai Kiyomi chờ đợi, trên mình khoác bộ com-lê màu vàng. Tông màu rực rỡ khiến người ta liên tưởng đến quả chanh. Kiyomi thích màu này lắm. Nhờ nàng chưng diện như vậy, nên dù quán cà phê khá lớn lại chật cứng khách khứa, Hosoya Tadao vẫn tức khắc tìm thấy nàng.
“Anh xin lỗi, xin lỗi em. Anh vừa định về thì trưởng phòng tự dưng sai làm mấy việc kỳ cục.” Hosoya vừa vung vẩy bàn tay lên xuống trước mặt, vừa ngồi xuống ghế đối diện với Kiyomi. Hắn hẹn gặp nàng lúc bảy giờ, nhưng tới muộn gần hai mươi phút.
Kiyomi bực bội ra mặt. Đôi môi méo xệch kia đang kể lể nỗi bực đó.
“Anh mà muộn thêm năm phút nữa là em bỏ về rồi đấy!”
“Thế nên anh đã xin lỗi rồi còn gì. À, cho tôi cà phê!” Hosoya nói với nữ phục vụ đến nhận gọi món.
Mình lần nào đến muộn nửa tiếng đồng hồ cũng thản nhiên như không, người ta thi thoảng muộn có vài phút đã bày đặt giận dỗi, hắn nghĩ trong lòng vậy thôi chứ dại gì mà nói thành lời. Thốt ra câu đó thì Kiyomi đùng đùng bỏ về là cái chắc.
“Ôi, em đói cồn cả ruột rồi.”
“Anh hiểu rồi. Hôm nay em thích ăn gì anh mời, đừng giận anh nữa nhé!”
“Ăn gì cũng được ư? Có thật không?” Biểu cảm trên gương mặt Kiyomi đã thay đổi đôi chút.
“Ừ, thật mà.”
“Vậy thì, có chỗ này em luôn muốn đến thử xem sao.” Kiyomi mở cái túi Gucci, lấy ra mẩu báo trông như cắt từ tạp chí. Đó là bài giới thiệu một nhà hàng Pháp nổi tiếng. Nghe đâu nhà hàng đó nổi danh vì giá cả đắt đỏ, chứ chẳng phải vì món ăn ngon lành. Trong khoảnh khắc, mọi thứ xung quanh tối sầm lại, hắn nào có rủng rỉnh tiền bạc gì cho cam. Nhưng lại chẳng nỡ để Kiyomi mất hứng thêm nữa.
“Anh hiểu rồi. Nhưng có vẻ cần đặt chỗ trước.”
“Giờ anh gọi điện thoại là được mà?”
“Em nói phải.”
Hosoya cầm mẩu báo đứng dậy, đi ra ngoài, bấm điện thoại di động gọi đến nhà hàng kia. Hắn chỉ mong họ bảo hôm nay hết chỗ rồi, nhưng thời buổi này hàng quán nào chẳng buôn bán ế ẩm, thành thử hắn dễ dàng đặt được bàn.
Khi hắn quay lại, thông báo tình hình, Kiyomi cười tủm tỉm, đôi mắt long lanh.
“Vất vả cho anh quá!”
Dường như nàng đã tươi tỉnh trở lại. Hắn vừa ngắm nhìn nụ cười như của con yêu tinh nhỏ ấy, vừa nhâm nhi cốc cà phê đen được bưng tới. Lòng thầm nghĩ nụ cười đó đã đánh trúng điểm yếu của kẻ si tình.
Ăn uống xong xuôi, Kiyomi liên tục để ý giờ giấc. Hosoya cũng bất giác nhìn đồng hồ theo. Đã hơn mười giờ tối.
“Em bận việc gì à?” Hosoya hỏi.
“Vâng. Xin lỗi anh, em phải về bây giờ đây.”
“Em bảo phải chuẩn bị đồ đạc để đi du lịch nhỉ?”
“Vâng. Ngày mai xuất phát rồi, mà em chưa chuẩn bị gì hết.” Kiyomi lè lưỡi ra.
“Em đi Singapore nhỉ?”
“Vâng.”
“Lẽ nào đi cùng ứng cử viên sáng giá cho chức bạn trai?”
“Ngốc vừa thôi. Làm gì có chuyện đó. Em đi du lịch mua sắm cùng mấy cô bạn đại học.” Sau khi cười nói vậy, Kiyomi đột nhiên nhíu mày ủ rũ. “Tối nay lại có điện thoại gọi đến cho mà xem. Em chắc chắn đấy.”
Hosoya hiểu ngay tức thì hàm ý trong câu nói của nàng. “Cậu ta gọi ư?”
“Chắc vậy ạ. Hôm nào quán đóng cửa, là y rằng anh ta gọi đến.” “Cậu ta đúng là một lòng một dạ với em nhỉ.”
“Em đang rối tinh rối mù lên đây. Mà lạnh nhạt hờ hững quá cũng không xong.”
Hosoya thở dài não nề.
“Cũng đến lúc em phải nói thẳng ra rồi. Làm vậy là để tốt cho cậu ta.
“Chuyện đó em hiểu, nhưng cứ khó mở lời thế nào ấy. Hay em nói tên anh ra được không?”
“Thì chỉ còn nước đó. Dù sao cũng là sự thật, cây kim nằm trong bọc có ngày sẽ lòi ra thôi.”
“Khó nói thật.” Kiyomi nhăn mặt.
“Em ngại thì để anh nói thay nhé!”
Khuôn mặt nàng thoáng lộ vẻ bất ngờ trước đề nghị của Hosoya. Nàng trầm tư giây lát, rồi khẽ gật đầu.
“Ừ nhỉ. Anh sẽ cứu em một bàn thua trông thấy.”
“Anh sẽ nói chuyện với cậu ta sớm thôi.”
“Liệu tình bạn của hai người có rạn nứt không đấy?” Kiyomi hỏi với nụ cười toe toét trên môi. Hắn cảm tưởng nàng hỏi vậy vì lòng hiếu kỳ thôi thúc, chứ không phải quan tâm lo lắng gì cho cái thân hắn.
“Chậc, đến lúc ấy hẵng hay.” Hosoya nói.
Rời khỏi nhà hàng, hai người đi ra đường cái để đón taxi. Đúng lúc một chiếc xe trống ngang qua, Hosoya định giơ tay lên vẫy, song Kiyomi ngăn lại “À, anh đợi em một chút!”
Nàng lôi cái máy ảnh nhỏ trong túi ra. Rồi hơi khom lưng, lia ống kính vào cột điện bên cạnh. Ở đó có một con mèo con lông vệt lốm đốm, có vẻ là mèo hoang. Nàng ấn nút chụp ba lần. Đèn flash lóe sáng mỗi lần nàng bấm nút chụp.
“Em vẫn luôn mang máy ảnh đi muôn nơi nhỉ.” Hosoya nói.
“Vâng. Tại vì, làm sao em biết cơ hội bấm máy sẽ tới vào lúc nào.” Vừa phân trần, nàng vừa cất máy ảnh vào trong túi.
Ngay trong buổi hẹn đầu tiên, Hosoya đã nghe nàng kể về thú vui chụp ảnh mà gần đây nàng trót say mê. Thực ra lúc đó nàng còn khoe với hắn vài tác phẩm của mình. Tay nghề chụp của nàng cũng khá, nhưng phong cách chụp quá đơn điệu. Hosoya liên tưởng tới
những bức ảnh được bấm nháy liên tục trong buổi chụp hình thời trang. Chí ít, hắn không cho rằng những bức ảnh này sẽ có ngày biến giấc mơ mở triển lãm cá nhân của nàng thành hiện thực.
“Em cứ tùy tiện bạ đâu chụp đấy như thế, đã bao giờ chụp phải thứ gì kỳ lạ chưa?” Hosoya hỏi sau khi lên taxi. Căn hộ của Kiyomi ở Koenji. Đưa nàng về đó rồi, Hosoya mới về nhà mình ở Nerima, hắn hay đi theo lộ trình này.
“Thứ kỳ lạ là sao ạ?”
“Ví dụ như, xem nào, ảnh tâm linh chẳng hạn.”
“À!” Kiyomi há hốc mồm, gật đầu. “Có dăm ba lần em trót chụp được ảnh phong cách đó.”
“Hả? Thật không?”
“Ảnh mang phong cách đó thôi ạ. Như cái bóng màu trắng, mờ ảo này. Nhưng em không rõ có phải là ảnh tâm linh thật không nữa.”
“Nếu mà thật thì khéo phải làm lễ thanh tẩy đấy.”
“Em chịu. Cũng chẳng quan trọng!” Dứt lời, nàng tinh quái nhìn Hosoya. “Thật ra có một lần em đã cố tình chụp đấy.”
“Bằng cách nào?”
“Thì đến nơi người ta đồn là ma sẽ hiện ra nếu chụp ảnh vào buổi tối. Em đi có một mình, nên sợ chết đi được.”
“Thế em chụp rồi à?”
“Vâng”
“Kết quả ra sao?”
“Chỉ chụp được ảnh mang phong cách đó thôi, nhưng còn tùy vào cách nhìn nữa.”
“Hả?”
“Lần tới em sẽ cho anh xem. Nhưng bức ảnh đó không có gì đặc biệt đâu.”
“Ừ, anh muốn xem lắm.” Hosoya nói vậy rồi nuốt nước bọt. Hắn phát cuồng với mấy chuyện kiểu này.
“Nhưng mà,” Kiyomi liếm môi, “khi đó, em lỡ chụp được một bức kinh khủng hơn ngàn vạn lần.”
“Hả? Ảnh thế nào?”
“Vâng, em không nói cho anh nghe được, nhưng đó là bức ảnh may mắn của em.
“Ảnh gì vậy? Anh tò mò quá.”
“Xin lỗi anh. Em nói linh tinh thôi. Anh đừng để bụng. Mà quan trọng hơn…”
Kiyomi lái sang chuyện khác. Nàng trông có vẻ hối hận vì lỡ kể chuyện bức ảnh may mắn.
Hosoya gật đầu hùa theo, nhưng sự hiếu kỳ về bức ảnh đó không ngừng thôi thúc hắn.
Đưa nàng về nhà rồi, ngồi trong xe taxi, hắn lôi điện thoại ra. Tiếp đó, hắn bật màn hình gọi tắt, trên đó hiện số điện thoại được lưu tên Kosugi Hirofumi.
Kosugi là bạn chí cốt của Hosoya từ thời đại học. Hai người học hai khoa khác nhau, nhưng cùng sinh hoạt trong câu lạc bộ bóng
bầu dục. Thấm thoắt đã mười năm trôi qua kể từ khi tốt nghiệp, nhưng đến giờ tình cảm vẫn khăng khít, đến độ một tháng họ phải gặp nhau một lần mới được.
Chừng một tháng trước, Kosugi gọi cho hắn, rủ làm một chầu nhậu sau giờ tan sở. Cậu ta bảo tìm thấy một quán mới. Hosoya không khỏi kinh ngạc. Bởi hiếm hoi lắm cậu ta mới khơi ra ý tưởng kiểu này.
Quán đó nằm ở Shinbashi. Khách khứa toàn những người trẻ trung phơi phới, đem lại bầu không khí vui tươi. Nhìn thấy vài tiếp viên nữ đang tiếp đón khách, Hosoya càng thêm sửng sốt. Kosugi vốn dở tệ trong khoản trò chuyện với phái nữ. Việc cậu ta đặt chân đến chốn này chẳng khác nào sấm động giữa trời quang.
Nagai Kiyomi làm việc tại đó. Vừa thấy mặt Kosugi, nàng liền đi về phía họ, ngồi xuống ghế đối diện. Nàng không quá xinh đẹp mỹ miều, nhưng có nét ngây thơ lại quyến rũ lạ thường. Khi ấy nàng cũng diện quần áo màu vàng. Từ giây phút đầu tiên gặp gỡ, Hosoya đã trúng tiếng sét ái tình. Nhưng nhìn bộ dạng của Kosugi, hắn đã đoán được lý do cậu ta đến đây. Việc cậu ta chết mê chết mệt Kiyomi đã rõ như ban ngày. Một người cứ gặp gái là cạy miệng không nói như cậu ta lại đang chật vật thu hút sự chú ý của người đẹp.
Ra khỏi quán, Hosoya gặng hỏi sự tình. Kosugi thừa nhận ngay tức khắc. Còn bộc bạch rằng muốn qua lại với nàng bằng mọi giá.
“Nhưng chuyện tình cảm chẳng tiến triển như ý nguyện của tớ gì cả. Theo cậu tớ phải dùng cách gì để chinh phục được một người phụ nữ như thế đây?” Kosugi vừa gãi mái tóc ngắn cụt lủn vừa hỏi.
Đến giờ phút này Hosoya vẫn ân hận, đáng lẽ lúc đó hắn nên nói thẳng vào mặt cậu ta, rằng kiểu phụ nữ đó không hợp với cậu đâu, cậu nên buông tay thì hơn. Nếu hắn làm vậy, có lẽ chuyện đã đơn
giản hơn nhiều. Nhưng hắn chẳng dám mở lời, chỉ động viên, “Ờ, thì chỉ có cách cố gắng để người ta biết được tình cảm của mình thôi.”
Mặt khác, sau lưng Kosugi, Hosoya bí mật tiếp cận Kiyomi. Năm lần bảy lượt một mình đến quán nàng làm, không lâu sau thì mời nàng đi chơi. Nàng ngã vào lòng hắn nhanh đến ngỡ ngàng.
“Từ lần đầu gặp mặt, em đã nghĩ chúng ta có chung tần số.” Đó là lời nàng thốt ra sau khi hai người lần đầu đến khách sạn.
Đương nhiên Kosugi chẳng hề phát hiện ra mối quan hệ của hai người. Đã thế, gần đây cậu ta còn gọi điện hồ hỏi khoe với Hosoya: “Có vẻ cuối cùng tớ đã nắm giữ được trái tim người đẹp.” Nhưng theo lời Kiyomi thì: “Chẳng có gì khác trước. Anh ta chỉ là một khách hàng bình thường.” Ngày tháng vùn vụt trôi, hắn dặn lòng phải sớm giãi bày sự tình.
Đã đến lúc phải đặt dấu chấm hết cho mọi chuyện rồi.
Hosoya ấn nút gọi trên điện thoại di động. Tiếng chuông vang lên hai lần, điện thoại được kết nối.
“Vâng, a lô.” Hắn nghe thấy giọng đàn ông. Nhưng rõ ràng không phải giọng của Kosugi.
“A lô, xin hỏi đó có phải nhà của Kosugi không?”
“Vâng, đây là nhà của Kosugi… À, có phải Hosoya không?”
Từ giọng nói và ngữ điệu, Hosoya cũng đoán được đầu dây bên kia là ai.
“Gì vậy, Yamashita à? Cậu làm gì ở đó thế?”
“Kosugi nhờ tớ trông nhà hộ. Nhưng chẳng có việc gì để làm, nên tớ đang chán đây. Cậu gọi đúng lúc lắm. Hay cậu cũng đến đây đi!
Giờ đang ở phương trời nào thế?”
“Đang trên taxi chạy xuôi về hướng bắc trên đường vành đai số bảy đây.”
“Thế thì mạnh dạn xoay vô lăng của bác tài sang bên trái đi! Tớ đợi cậu đó. Rượu đầy ăm ắp, tối nay cứ phải nhậu thâu đêm cho thỏa, lâu lắm mới có dịp này.” Yamashita cứ thế tuôn ra một tràng rồi cúp máy, chẳng phần cho hắn nói câu nào.
Đành vậy, hay đến góp vui nhỉ, Hosoya cất điện thoại vào trong túi áo khoác, rồi nói, “Xin lỗi bác tài, tôi muốn đổi điểm đến. Phiền bác chở tôi đến Kugayama.”
Kosugi sống trong một căn nhà liền kề cũ kỹ, nó cùng với căn kế bên tạo thành dạng nhà song lập. Nhà xây hai tầng, có kết cấu [3]. Kosugi hay khoe nhờ có mảnh vườn tươm tất mà cậu ta có
2LDK
thể tận hưởng cảm giác như sống ở nhà biệt lập.
Trong căn nhà đó Yamashita đang nhâm nhi bia chờ hắn đến. Yamashita cũng là cậu bạn hắn kết giao từ hồi ở câu lạc bộ bóng bầu dục. Công ty thiết kế cậu ta từng làm việc phá sản vào năm ngoái, giờ cậu ta đang kiếm công ăn việc làm.
“Kosugi ra ngoài từ lúc chập tối. Cậu ấy bảo phỏng vấn xong sẽ đến Osaka bằng ô tô. Nghe nói ngày mai phải đi thu thập tư liệu từ sáng sớm tinh mơ. Phóng viên thể thao mà vất vả quá nhỉ.” Từ ngữ Yamashita nói díu hết vào nhau.
Là người văn hay chữ tốt, sau khi tốt nghiệp đại học, Kosugi không đi tìm việc mà vừa làm thêm trong một công ty xuất bản, vừa bắt đầu công việc viết lách tự do. Đương nhiên ban đầu cậu ta trầy trật lắm mới có việc để làm, nhưng hiện giờ những bài báo cậu ta chấp bút đã lọt vào mắt xanh của vài tạp chí, tòa báo. Theo lời
Yamashita, Kosugi đi thu thập tư liệu ở một câu lạc bộ bóng đá thiếu niên nào đó mãi tận Osaka.
Hắn trông thấy một con mèo ở góc phòng. Giống mèo Ba Tư lông trắng muốt. Hắn chưa nghe cậu ta kể chuyện nuôi mèo bao giờ.
“Mèo của người quen đấy, hình như gửi cậu ấy nuôi hộ từ tuần trước. Hôm nay cậu ấy phải đi thu thập tư liệu gấp, nên mới nhờ tớ trông nhà cho. Mà trông nhà gì chứ, đến đây chăm mèo thì đúng hơn là trông nhà.”
“Ra vậy.”
“Tớ cứ lo sốt vó vì từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ đã chăm mèo bao giờ đâu, nhưng hóa ra cũng không phải công to việc lớn gì. Con mèo ngoan lắm, lại được chủ dạy dỗ đến nơi đến chốn nên biết đi vệ sinh đúng chỗ.”
“Công xá trông nhà được bao nhiêu thế?”
“Một ngày năm nghìn yên, bao chi phí cần thiết. Mà chỉ việc quanh quẩn một chỗ thôi, nên tớ nào dám than vãn lấy một lời. Cái ngữ vô công rồi nghề như tớ đây, có việc để làm là mừng rớt nước mắt rồi,” Yamashita nói vẻ tự trách rồi cười xòa.
Sau đó hai người vừa hàn huyên chuyện cũ, vừa nốc như nước lã hết bia đến rượu whisky, rượu Nhật. Trông nhà mà cũng có đãi ngộ riêng, đồ trong tủ lạnh muốn đánh chén bao nhiêu tùy thích, lại có thể uống cả rượu nữa. Bia chai cỡ lớn xếp chật cứng tủ lạnh, whisky chưa khui nắp và rượu Nhật để mỗi loại một chai.
Chắc do nốc rượu vô tội vạ, nên mới quá nửa đêm Yamashita đã bắt đầu gà gật, đến gần một giờ sáng thì ngáp ngắn ngáp dài. Có lay gọi thế nào cũng không buồn dậy.
Đúng là hết thuốc chữa với gã này.
Hosoya đắp cái chăn ở bên cạnh lên người cậu ta, rồi đứng dậy. Hắn định lên phòng trên tầng hai đánh một giấc. Hắn đặt một bàn chân lên bậc cầu thang, ấn công tắc trên tường. Căn phòng lập tức chìm vào bóng tối thăm thẳm.
Sự tối tăm này vượt quá dự liệu của hắn, hơi men trong người khiến cơ thể hắn chao đảo trong phút chốc. Hắn loạng choạng, cứ thế khuỵu xuống sàn.
Chết dở. Không ngờ lại say mèm như thế này.
Hắn xoa xoa mặt, cố đứng lên.
Đúng lúc ấy.
Hắn thấy ai đó đứng ngay bên ngoài ô cửa sổ trông ra mảnh vườn. Người đó đang nhìn chằm chằm vào trong này.
Hắn giật nẩy mình. Nhưng khoảnh khắc tiếp theo, một nỗi kinh ngạc khác lại bủa vây hắn.
Dù bị ngăn cách bởi tấm rèm đăng ten, hắn vẫn nhìn ra Kiyomi đứng đó. Bộ com-lê màu vàng chanh ấy, hắn mới thấy vài tiếng đồng hồ trước thôi. Ánh sáng nhạt nhòa bên ngoài rọi vào khiến bộ đồ nổi lên trong bóng tối.
Hosoya chạy về phía sảnh. Nhưng mắt hắn chưa kịp quen với bóng tối, lại chuếnh choáng say, nên cơ thể va vào hết chỗ này đến chỗ khác. Mở toang cửa, hắn lao ra ngoài trên đôi chân trần.
“Kiyomi,” hắn gọi.
Nhưng chẳng thấy tiếng nàng đáp lại. Vẫn trên đôi chân trần, Hosoya chạy về phía cửa sổ. Ở đây cũng không thấy bóng dáng nàng đâu.
Chuyện gì thế này, lòng hắn chấn động, tâm trí rối bời. Kiyomi không đời nào đến đây. Nàng tránh Kosugi như tránh tà.
Cảm giác nhộn nhạo dần lan tỏa trong lồng ngực hắn. Hắn lấy điện thoại, thử gọi đến nhà nàng trước. Nhưng chẳng có ai nhấc máy. Tiếp theo hắn gọi vào điện thoại di động của nàng. Kết quả vẫn vậy.
Hosoya nghĩ ngợi giây lát, lần này hắn gọi đến một số điện thoại khác. Đó là số của người phụ nữ tên Oda Fujiko. Cô ta là bạn thân của Kiyomi, hai người sống cùng một tòa chung cư, làm cùng một quán. Hắn xin số cô trong lần cả bọn đi hát karaoke trước đó.
“A lô!” Giọng Fujiko vang lên.
“A lô, Fujiko à? Là tôi, Hosoya đây.”
“À vâng. Có chuyện gì mà anh gọi đêm hôm khuya khoắt thế?”
“Tôi sẽ giải thích lý do sau. Xin lỗi, cô có thể đến căn hộ của Kiyomi giúp tôi không?”
“Căn hộ của Kiyomi? Bây giờ ư? Tại sao?”
“Đã bảo tôi sẽ giải thích sau mà. Tóm lại cô đến đó luôn giúp tôi đi!” Hosoya hướng vào điện thoại, gào tướng lên.
2.
“Bị Hosoya Tadao hối thúc, Oda Fujiko ra khỏi nhà khi chưa kịp hiểu sự tình. Căn hộ của cô ta ở tầng ba, còn căn của Kiyomi ở tầng năm. Nếu lúc đó cô ta đi thang máy thì chuyện đã khác, nhưng cô ta lại chọn leo cầu thang lên tận tầng năm.”
Mới nói đến đó, Kusanagi đã ngừng lại, nhìn Yukawa. Yukawa đang ngồi trên ghế giũa móng tay, hai chân gác trên bàn.
Như thường lệ, anh đang có mặt ở phòng nghiên cứu số mười ba khoa bộ môn Vật lý, Khoa học tự nhiên trường đại học Teito. Đang trong giờ lên lớp nên chẳng có bóng sinh viên nào ở đây cả.
“Này, cậu có nghe không đấy?”
“Đang dỏng tai lên nghe đây. Cậu nói tiếp đi! Leo cầu thang rồi sao nữa?”
“Oda Fujiko thấy một người đàn ông hớt hải lao từ tầng bốn xuống tầng ba, rồi tầng hai. Hắn để tóc húi cua, mặc áo bu dông màu xám. Gương mặt nghiêng của hắn nhìn rất quen. Cô ta nhận ra hắn là khách quen của quán ở Shinbashi. Nhưng hắn không nhận ra cô ta, có lẽ bởi đang cuống cuồng chạy trốn. Fujiko mang theo mối hoài nghi đến căn hộ của Nagai Kiyomi. Cô ta ấn chuông nhưng không thấy ai trả lời, bèn thử vặn tay nắm cửa, thì thấy cửa không khóa.”
“Rồi cô ta phát hiện ra thi thể à?”
“Cô ta thấy Nagai Kiyomi nằm sõng soài trong nhà tắm. Nên lập tức gọi điện báo cảnh sát.”
“Trưởng phòng Tuần tra Kusanagi lừng danh thiên hạ và đồng đội đã xuất đầu lộ diện ở khúc này nhỉ.”
Yukawa cười khúc khích.
“Thì đúng thế, nhưng tiếc thay chúng tôi chẳng có mấy đất diễn. Hộc tốc chạy đến nơi thì hung thủ đã hai năm rõ mười, việc bắt giữ hắn chỉ còn là vấn đề thời gian.”
“Hung thủ chính là người đàn ông mà Oda Fujiko trông thấy à?”
Kusanagi gật đầu thay cho câu trả lời, đoạn nhìn xuống quyển sổ tay.
“Phóng viên thể thao Kosugi Hirofumi. Như tôi nói ban nãy, hắn là bạn thân của Hosoya, và đang theo đuổi Kiyomi. Tên của Kosugi lọt vào tầm ngắm điều tra lúc hắn đang ở trên đường cao tốc Tomei. Đương nhiên, bắt hắn chẳng phải chuyện gì khó nhọc. Chúng tôi nắm được hắn sẽ tới đâu rồi, nên chỉ cử điều tra viên đến Osaka là xong chuyện.”
“Thế Kosugi thừa nhận hành vi phạm tội rồi à?”
“Ban đầu hình như cũng chối bay chối biến đấy. Chỉ đến khi chúng tôi bóng gió chuyện có nhân chứng thì hắn mới ngoan ngoãn nhận tội.”
“Từ ấn tượng mà nói, tôi không cảm thấy hung thủ lên kế hoạch từ trước.”
“Cậu nói đúng. Đây là một vụ giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động điển hình.”
Đêm đó, Kosugi đến trước căn hộ của Nagai Kiyomi, mòn mỏi đợi cô ta. Gần hai giờ sáng cô ta mới vác mặt về nhà.
Kosugi bảo muốn nói chuyện đàng hoàng trong nhà, ban đầu cô ta nhất quyết không chịu. Sau đó chắc nghĩ dùng dằng như thế cũng không phải cách hay, nên cuối cùng mới để hắn vào.
Kosugi tha thiết bày tỏ nỗi lòng, rằng hắn muốn qua lại với cô ta. Không phải vui chơi qua đường, mà là hẹn hò yêu đương để xây đắp tổ ấm.
Nhưng Kiyomi phũ phàng từ chối. Có vẻ cô ta đã nói như tát nước vào mặt hắn, rằng “tôi chẳng thấy anh hấp dẫn ở chỗ nào.”
Dù vậy Kosugi vẫn không lùi bước. “Xin em hẹn hò với anh một thời gian ngắn thôi cũng được, anh sẽ cố gắng để em thấy sự hấp dẫn của anh,” hắn còn quỵ lụy đến mức đó.
Đến đây Nagai Kiyomi liền quay ngoắt thái độ. Có lẽ trước đó cô ta nể hắn là khách hàng, nhưng lúc này sức chịu đựng của cô ta đã đến giới hạn.
“Bớt đùa cợt đi! Tôi mà phải yêu hạng cù lần như anh à? Vì anh là khách hàng nên tôi mới phải thon thót nói cười thôi. Đừng có được đằng chân lân đằng đầu.”
Kosugi bảo cô ta tới tấp phun ra những lời xé nát lòng tự tôn của hắn. Khóe miệng cô ta còn nhếch lên một nụ cười nhạt. Khoảnh khắc nhìn thấy thế, một tiếng động nào đó vang lên, rồi vỡ vụn trong con người hắn.
“Lúc định thần lại thì hắn đã bóp cổ cô ta.”
“Đúng là hành vi phạm tội điển hình. Hay nên gọi là vụ giết người điển hình đây?” Vẻ mặt Yukawa bỗng trở nên nghiêm túc.
“Thế à?”
“Chẳng thế thì gì? Đa phần những vụ giết người trong thực tế không được lên kế hoạch thấu đáo như trong tiểu thuyết. Sau một hồi lời qua tiếng lại, hung thủ nổi khùng lên, sát hại nạn nhân, kịch bản này phải chiếm quá nửa. Giết người là chuyện hệ trọng, khi một người bình thường ra tay, tinh thần họ phải ở trong trạng thái kích động một cách bất thường như bị mất trí hay bốc đồng, đúng không?”
“Ừ, đúng là chuyện đó hay xảy ra.” Kusanagi cọ tay vào mũi.
“Vậy cậu có mục đích gì mà kể lể dông dài mãi thế? Tôi chẳng thấy có vấn đề gì cả.”
Kusanagi sửng sốt nhìn lại gương mặt dửng dưng của Yukawa.
“Này này, có chú tâm nghe tôi nói không đấy? Nghe đây, vụ án bị phát hiện do Hosoya nhìn thấy hình bóng Nagai Kiyomi. Vào khoảng một giờ sáng. Và thực tế lúc đó Kiyomi đã bỏ mạng dưới tay Kosugi rồi. Cậu nghĩ sao về chuyện này?”
“Thế thì sao?”
“Cậu không thấy lạ à?”
“Ờ,” Yukawa khoanh tay trước ngực, thả chân xuống dưới bàn. Anh cứ thế xoay tít cái ghế sang hai bên. “Tôi nghĩ đó là một sự trùng hợp ghê gớm.” Anh ngừng xoay ghế, rồi nói bằng giọng điệu hờ hững.
“Trùng hợp ư? Trùng hợp thế nào?”
“Anh Hosoya đó ngà ngà say. Gọi là nửa tỉnh nửa mê cũng được. Trong trạng thái đó anh ta sẽ ngủ gà ngủ gật và nằm mơ thấy người yêu. Khi sực tỉnh, anh ta gọi điện cho cô ta, và trùng hợp là án mạng đã xảy ra ở nhà đó.”
“Sếp tôi cũng có cùng ý kiến với cậu. Ông ấy bảo Hosoya nằm mơ hoặc gặp ảo giác.”
“Ha ha,” Yukawa cười lớn. “Lúc nào chẳng vậy, tôi luôn tâm đầu ý hợp với sếp cậu.”
“Nhưng Hosoya khăng khăng mình không mơ mộng gì hết.”
“Ờ, ngoài sếp cậu ra, những người khác tin vào lời nói đó à? Linh động như thế thì tiền đồ trong ngành rộng mở phải biết.”
Kusanagi nhếch môi, gãi má sột soạt.
“Có gì buồn cười đâu. Cứ đà này, bản báo cáo sẽ biến thành câu chuyện kỳ bí mất. Nói có thể cậu không tin, nhưng trong đám điều tra viên, còn có kẻ bảo rằng hồn ma của nạn nhân tìm đến Hosoya để báo mộng cho anh ta.”
“Thế thì càng vui. Trong công việc cũng cần sự hài hước chứ.”
“Cậu không thật lòng nghĩ thế phải không? Thôi cậu thử sức với bí ẩn này giúp tôi nhé!”
“Bí ẩn cơ đấy. Chắc gì đã là bí ẩn.”
Yukawa đứng dậy, đi về phía cửa sổ. Ánh nắng xuân lọt qua khe rèm, làm cái áo trắng anh mặc sáng bùng lên chói cả mắt.
“Dù Hosoya tỉnh táo đi chăng nữa thì khả năng anh ta gặp ảo giác cũng rất lớn. À không, nói là ảo giác thì đao to búa lớn quá. Nói là nhìn nhầm hoặc ảo tưởng thì đúng hơn.”
“Thế anh ta nhìn nhầm với cái gì?”
“Chuyện nhìn nhầm cái khăn bay trong gió thành hồn ma từ ngày xửa ngày xưa đã có rồi. Hosoya mới hẹn hò với người yêu xong, nên
hình bóng cô ta vẫn chưa phai mờ trong tâm trí. Thêm nữa, trong bóng tối nhập nhoạng, anh ta ngã dúi dụi nên chưa kịp hoàn hồn. Vừa ngẩng mặt lên, nhìn ra cửa sổ thì thấy thứ gì đó. Nếu đầu óc tỉnh táo, chắc anh ta có thể bình tĩnh nhìn ra chân tướng rồi. Ví dụ chỉ là thứ gì đó phản chiếu trên kính của sổ thôi. Tuy nhiên trạng thái tinh thần của anh ta lúc đó không bình thường. Không thể phủ nhận khả năng anh ta nhìn thứ phản chiếu trên tấm kính thành hình bóng người yêu đúng không?”
“Và tình cờ lúc đó người yêu anh ta bị bóp cổ chết ư?” “Thì đã bảo là trùng hợp ghê gớm mà.” Yukawa nói. Kusanagi buông một tiếng thở dài ảo não.
“Rốt cuộc chỉ có thể giải thích theo cách đó thôi sao?” “Cậu bức xúc gì à?”
“Bức xúc thì có làm được gì đâu. Không thế thì chẳng lẽ đây là trò đùa của hồn ma?”
“Trên đời này những trùng hợp kiểu đó thi thoảng vẫn xảy ra với xác suất cực kỳ thấp. Tôi cho rằng không cần miễn cưỡng giải thích chúng.” Yukawa sải bước băng qua căn phòng, lại gần bồn rửa tay. “Nhân tiện, làm cốc cà phê nhé!”
“Hôm nay thì thôi.” Chắc lại cà phê hòa tan chứ gì, anh nuốt câu này vào bụng. “Nhưng nếu cánh truyền thông đánh hơi ra vụ này, chắc lại nháo nhào như vỡ chợ cho mà xem. Họ hay bị dắt mũi bởi mấy chuyện kỳ bí. Cậu thấy thế cũng được hay sao?”
“Biết làm sao được. Tự do tín ngưỡng mà.”
“Đành báo cáo với sếp như thế vậy.” Kusanagi nhìn đồng hồ rồi đứng dậy.
“Còn chuyện gì nữa không?” Yukawa vừa bắc cái ấm đã đổ đầy nước lên bếp vừa hỏi.
“Chuyện gì là sao?”
“Thắc mắc về vụ án đó. Xem ra vụ này hết sức đơn giản.”
“Ờ, nói về điểm khác thường thì chỉ có mỗi chuyện hồn ma đó thôi. Với lại, còn một chuyện cần lưu tâm nữa là nạn nhân đang ôm một đống nợ.”
“Nợ nần ư?”
“Chúng tôi chưa nắm được con số chính xác, nhưng tối thiểu cũng phải bốn, năm triệu yên. Cô ta vay nợ tứ tung thì phải. Thế mà tôi nhìn nhà cửa lại thấy có vẻ ăn trắng mặc trơn lắm. Không chừng còn mắc bệnh nghiện hàng hiệu.”
“Nạn nhân nợ nần à?” Yukawa lẩm bẩm rồi hỏi. “Thế nguyên nhân tử vong có gì lạ không?”
“Không có. Trên cổ tay có vết thương nông, nhưng có vẻ không liên quan đến vụ án.”
“Cổ tay có vết thương ư?” Yukawa đang cho bột cà phê hòa tan vào cốc bỗng dừng tay, quay đầu lại. “Tay nào? Vết thương ra sao?”
“Cổ tay trái thì phải. À không, thật ra cũng không phải vết thương nghiêm trọng. Nên chỉ dán băng cá nhân thôi.”
Nghe đến đây Yukawa liền im bặt, anh nghĩ ngợi mông lung gì đó một lúc lâu, trên tay vẫn cầm cái thìa. Chẳng bao lâu sau, từ ấm đun nước phát ra tiếng xèo xèo, hơi nước bốc nghi ngút.
“Nước sôi rồi kìa.” Kusanagi tắt bếp ga.
Yukawa chỉ cái thìa về phía Kusanagi.
“Cậu có cái tật xấu thật. Chuyện quan trọng nhất lại toàn nói sau cùng. Cậu mà nói sớm thì tôi đã có đáp án khác rồi.”
“Gì vậy, vết thương ở cổ tay thì có vấn đề gì?”
“Có lẽ.” Anh vung cái thìa lên trên xuống dưới, rồi lại sang trái sang phải, như vẩy đũa nhạc trưởng. “Nào, cậu dẫn tôi tới đó nhé! Căn hộ có ma ấy.”
3.
Kusanagi đưa cho Yukawa đôi găng tay màu trắng khi cả hai đứng trước căn nhà liền kề của Kosugi.
“Sếp tôi đã đồng ý cho cậu vào căn nhà này. Ông ấy cũng mong sẽ nhận được lời giải thích hợp lý. Với lại, chắc không có vấn đề gì đâu, nhưng trước khi động chạm đồ đạc bên trong, cậu đeo cái này vào giúp tôi.”
Yukawa gật đầu, xỏ luôn găng tay.
“Không để lại vân tay là việc quan trọng đấy chứ. Cậu bảo chẳng có vấn đề gì, nhưng tôi thì nghĩ khác. Có khi các cậu phải lục soát lại căn nhà này đấy.”
“Tôi nghĩ chuyện hồn ma đó về cơ bản chẳng liên quan đến vụ án này.”
“Có liên quan hay không giờ chúng ta sẽ cùng làm cho ra nhẽ. Nào, vào thôi!” Yukawa hối thúc.
Kusanagi mới đến căn nhà này một lần sau khi Kosugi bị bắt. Mục đích là để thu thập lời khai của Yamashita Tsunehiko lúc anh ta trông nhà. Lời kể của Yamashita trùng khớp với nội dung Kosugi khai nhận.
Khi đó, trong nhà la liệt chai bia, vỏ đồ ăn vặt vương vãi, nhưng có vẻ anh ta đã dọn dẹp trước khi rời đi, nên hôm nay căn nhà nom gọn gàng sạch sẽ hơn hẳn. Nghe nói con mèo Ba Tư trắng đã được trả về cho chủ.
“Giống nhà của đàn ông góa vợ nhỉ.” Yukawa phát biểu cảm tưởng khi đảo mắt nhìn quanh căn nhà đơn điệu, chẳng có lấy một
món đồ trang trí.
“Theo những gì tôi nghe được từ Yamashita và Hosoya, đúng là chẳng có bóng hồng nào trong cuộc đời Kosugi. Họ bảo bao nhiêu năm qua, hắn chưa có nổi một mảnh tình vắt vai. Hắn chỉ có thể khua môi múa mép với phụ nữ nếu họ là vận động viên. Vả lại, đề tài chỉ xoay quanh các trận đấu thôi.”
“Hàng hiếm đây. Trong câu lạc bộ thể thao hồi xưa cũng chẳng đào đâu ra gã nào như vậy.” Yukawa cười khổ. Ngày trước anh và Kusanagi cùng sinh hoạt trong câu lạc bộ cầu lông.
“Thế nên Hosoya mới bảo không ngờ hắn lại điên đảo vì tiếp viên quán rượu. Mà thật ra, vì cả đời hắn chẳng có tí kinh nghiệm tình trường nào, nên một khi đã ngộ nhận, sẽ đem cả tính mạng ra mà đặt cược. Chậc, tôi cũng đồng tình với ý kiến của anh ta.”
“Cơ duyên Kosugi gặp gỡ nạn nhân là từ lần hắn đến quán rượu đó à?”
“Thấy Kosugi bảo vậy. Hắn nổi hứng bước vào đó thôi. Thế nên càng tin sái cổ cuộc gặp gỡ đó là do định mệnh sắp đặt.”
“Định mệnh sắp đặt à?” Yukawa vừa khẽ lắc đầu, vừa bước chân vào trong nhà. Ánh mắt anh dừng ở dàn âm thanh đặt trên tủ trước tiên. “Bộ dàn xịn ghê. Thấy bảo loại này là sản phẩm mới, vừa có mặt trên thị trường năm ngoái. Trông đơn giản vậy thôi, nhưng có thể tái hiện xuất sắc âm thanh đấy.” Vừa dứt lời, Yukawa ấn nút bật, rồi ấn nút phát lại CD. Lắng nghe khúc nhạc du dương phát ra từ loa, Yukawa tròn mắt ngạc nhiên. “Bất ngờ thật. Đây là bài Công chúa ngủ trong rừng. Chẳng hợp với dân thể thao tẹo nào.”
“Chuyện đó cậu để tâm làm gì, mau mau xắn tay phá giải bí ẩn hồn ma giúp tôi đi!”
“Chậc, đi đâu mà vội mà vàng.” Yukawa nở nụ cười nhạt, quan sát cái chạn bát ở trong bếp.
Nói thực tình, Kusanagi chẳng rõ tại sao Yukawa lại đột nhiên để tâm đến lời khai của nhân chứng về hồn ma. Có vẻ chuyện này liên quan đến vết thương trên cổ tay của nạn nhân, nhưng anh chưa tìm ra mối liên quan đó.
Song từ những kinh nghiệm bấy lâu nay, Kusanagi đúc kết được một điều, vào những lúc thế này không nên vạ miệng hỏi lung tung.
Sau khi xem hết một lượt tầng một, hai người lên tầng hai. Trên này có một phòng sáu chiếu và một phòng bốn chiếu rưỡi. Phòng bốn chiếu rưỡi được dùng làm phòng ngủ thì phải, bên trong chỉ kê độc một cái tủ nhỏ có ngăn kéo. Trong đó cất chăn đệm đã cũ mèm. Còn căn phòng kiểu tây sáu chiếu là phòng làm việc. Giá sách kê xung quanh kệ máy tính, bàn ghế. Vài quyển tài liệu xếp thành hàng ngăn nắp trên giá. Quyển nào quyển nấy dán đề can ghi những dòng chữ như Bóng chày chuyên nghiệp 1, hay Bóng bầu dục đại học, Điền kinh ở gáy. Cũng có cả tài liệu về những môn thể thao khác như Trượt băng nghệ thuật hay Đấu kiếm.
“Không có cầu lông nhỉ. Toàn những môn thể thao ít tiếng tăm.” Yukawa nói.
“Quan trọng hơn, nấn ná ở đây tìm hiểu mấy thứ này thì có tác dụng gì? Hosoya nhìn thấy ma ở tầng một mà, cậu mau xuống đó làm thí nghiệm đi chứ.”
Kusanagi vừa dứt lời, Yukawa đã tròn xoe đôi mắt sau cặp kính nhìn anh.
“Ồ, thí nghiệm cơ đấy. Thí nghiệm gì nhỉ?”
“Tôi chịu, thí nghiệm về ảo giác chăng, chẳng phải cậu đến đây để làm điều đó à?”
“Tuyệt vời! Một người phản ứng cực đoan với vật lý như cậu mà nói được câu này sao?” Yukawa vỗ bồm bộp vào lưng Kusanagi, rồi ra khỏi phòng, xuống cầu thang. Kusanagi đuổi theo sau với cảm giác bị giễu cợt.
Khi anh quay lại phòng khách ở tầng một, Yukawa đã đứng ở đó, mắt nhìn về phía cửa sổ.
“Cách có vài mét thôi à? Từ khoảng cách này liệu có trông gà hóa cuốc được không nhỉ? Cái anh Hosoya đó có thị lực tốt chứ?”
“Tôi xác nhận rồi. Hai mắt không đeo kính là 0,7.”
“0,7 à?” Yukawa lẩm bẩm.
Khúc nhạc cổ điển vẫn trầm bổng vang lên từ dàn âm thanh. Kusanagi vặn nút âm lượng sang bên trái một chút cho tiếng nhỏ đi. Tạp âm lập tức lọt ra từ loa.
Yukawa nhìn anh.
“Điếc tai quá, để tôi vặn nhỏ âm lượng xuống một chút.” Kusanagi nói.
Nhưng chẳng thèm nghe lời anh nói, Yukawa đi về phía dàn âm thanh, tự tay vặn nút âm lượng. Mỗi lần vặn, tạp âm tạch tạch lại xuất hiện.
“Kusanagi, cậu có ảnh của Kosugi không?”
“Có, nhưng tôi không cầm theo.”
“Vậy ngoại hình Kosugi trông thế nào? Qua lời cậu kể, tôi hình dung hắn ta không phải dạng chải chuốt quần là áo lượt.”
“Đúng vậy. Nói thẳng ra là dạng cục mịch.”
“Kiểu tóc thì sao?”
“Tóc húi cua chẳng có gì đặc biệt.”
“À.” Yukawa bắt đầu gật gù. Sau đó khóe miệng anh giãn ra tạo thành một nụ cười không rõ nghĩa.
“Gì vậy, có chuyện gì sao?” Kusanagi hỏi.
Yukawa ngó nghiêng căn phòng lần nữa, bộ dạng như đang mưu tính gì đó. Lát sau, anh nhìn lại dàn âm thanh, rồi gật đầu một cái thật mạnh.
“Kusanagi, vụ án này có lẽ phải điều tra lại từ vạch xuất phát.”
“Cậu nói sao?” Kusanagi trọn trừng mắt. “Hung thủ thật sự là kẻ khác à?”
“Không, hung thủ vẫn là kẻ đó. Nhưng có khả năng bản chất của vụ án sẽ thay đổi hoàn toàn.”
“Bản chất ư?”
“Ở thời điểm hiện tại, vụ án được coi là giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động. Nhưng có thật thế không?”
“Nếu không phải vậy thì là giết người có kế hoạch à? Chả có nhẽ.” Kusanagi bật cười. “Làm gì có kế hoạch giết người nào sơ sài như vậy. Vả lại mọi manh mối đều chỉ ra vụ này không được tính toán trước.”
“Ban nãy tôi có nói với cậu thế này. Cho dù Hosoya gặp ảo giác gì đi chăng nữa, thì vụ giết người xảy ra vào đúng thời điểm đó là trùng hợp ghê gớm. Khi sự trùng hợp như vậy xảy ra, cần nghĩ xem liệu đó có phải tất nhiên không, ấy là kiến thức cơ bản trong giới khoa học. Tức là, cần giả định rằng chuyện hồn ma xuất hiện lẫn vụ
giết người xảy ra vào thời điểm đó đều được dự tính từ đầu. Nghĩ theo hướng này, tôi nhận ra có nhiều điểm hợp lý hơn.” Yukawa quả quyết. Anh quan sát mọi việc dưới con mắt tinh tường của nhà khoa học.
“Họp lý ư?”
“Nghe cậu kể, tôi thấy có vài chỗ còn mập mờ lắm. Thứ nhất là việc nạn nhân cho Kosugi vào nhà. Khó mà nghĩ rằng một người phụ nữ trẻ độc thân lại dễ dàng để người đàn ông mà cô ta không ưa vào nhà mình, cho dù hắn ta có nài nỉ đến đâu. Tôi cho rằng Kosugi đã dùng vũ lực.”
“Hắn mà làm thế thì nạn nhân phải kêu lên chứ.”
“Có lẽ cô ta chưa kịp làm điều đó. Kosugi là vận động viên bóng bầu dục đúng không? Hắn mà ra tay thật thì thừa sức bịt miệng nạn nhân, giật lấy chìa khóa, đàng hoàng đi vào trong nhà. Ít ra còn nhanh hơn là thuyết phục cô ta đồng ý. Dùng vũ lực không xong thì cũng có cách dùng chloroform nữa.” Nói đến đây, Yukawa gật đầu lia lịa, có vẻ anh tự thấy thán phục với những suy luận của mình. “Đúng rồi. Dùng chloroform là được. Nếu vậy sẽ xâu chuỗi được với vết thương trên cổ tay.”
“Tôi không hiểu. Vết thương trên cổ tay thì sao?”
“Đó chính là điểm mập mờ thứ hai. Trong sinh hoạt thường ngày, liệu có ai sơ sẩy cắt vào cổ tay mình không? Vậy chẳng lẽ cô ta tự sát bất thành à? Nhưng qua lời kể của cậu, tôi hình dung Nagai Kiyomi không phải dạng người bi lụy đó.”
“Rồi sao?”
“Suy luận rằng vết thương đó do hung thủ Kosugi gây ra thì hợp lý hơn. Hắn ta đã dày công tính toán để dựng hiện trường giả như tự sát. Nếu hắn sử dụng chloroform ngay khi xông vào nhà, nạn
nhân sẽ bất tỉnh nhân sự, nên hắn có thể mặc sức ra tay mà không sợ nạn nhân chống cự.”
“Nhưng thực tế nạn nhân bị siết cổ chết mà.”
“Liệu hắn có tính toán sai không? Ví dụ không cắt được mạch máu chẳng hạn. Nghe nói cắt tay tự sát thật cũng khó lắm chứ chẳng chơi.”
“Chuyện thật đấy. Nhiều người cứ la oai oái lên là tôi cắt cổ tay rồi, nhưng thực chất chỉ cắt vào lớp da trên bề mặt thôi. Đó không phải dạng vết thương trí mạng.”
“Trong lúc hắn thực hiện hành vi thì nạn nhân tỉnh dậy. Thế là hắn cuống lên bóp cổ cô ta. Cậu thấy suy luận này thế nào?”
“Ôi,” Kusanagi rên lên. “Nếu vậy không ít thì nhiều, hiện trường phải vương lại vết máu chứ.”
“Chắc chắn Kosugi đã lau dọn sạch sẽ rồi. Cảnh sát các cậu cho rằng vụ này là siết cổ chết, nên không giám định vết máu đúng không?”
“Chuyện đó thì…” có lẽ thế thật, Kusanagi thầm nghĩ.
“Trên đây là căn cứ của giả thuyết giết người có kế hoạch. Chắc cậu cũng tự hiểu lý do Kosugi không nói sự thật là bởi hắn tính toán dù có bị bắt đi chăng nữa, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động tội sẽ nhẹ hơn đúng không?”
Về điểm này anh có thể đồng tình. Nếu là giết người có kế hoạch, tội sẽ nặng gấp bội.
“Nếu vậy, việc hồn ma xuất hiện không phải là trùng hợp à?” “Đúng thế.” Yukawa nói với vẻ bình thản.
“Nhưng do hồn ma đó mà tội ác bị phát giác.”
“Vậy mới nói,” Yukawa nói. “Mọi chuyện không tiến triển theo kế hoạch của hung thủ.”
“Nghĩa là sao? Cậu giải thích rõ xem nào!”
“Khi nào làm sáng tỏ nội tình của vụ giết người này, cậu sẽ tự khắc hiểu ra. Đầu tiên, các cậu cần suy nghĩ về động cơ của hung thủ. Để rắp tâm lên kế hoạch giết người, cần phải có một động cơ tương đối lớn.”
“Không phải chúng tôi chưa điều tra chuyện đó. Nhưng giữa Kosugi và Nagai Kiyomi có dây mơ rễ má gì đâu, ngoài mối quan hệ giữa tiếp viên quán rượu với khách hàng hay người trong mộng với kẻ trồng cây si.”
“Cậu dám khẳng định không bỏ sót thứ gì không?” Yukawa nói. Gương mặt tươi cười kia phun ra những lời gay gắt. “Cậu bảo nạn nhân nợ nần chồng chất còn gì. Liệu có nên điều tra thêm chuyện đó không? Rồi cả chuyện con mèo và trông nhà hộ nữa.”
“Con mèo và trông nhà hộ? Là sao?”
“Đêm xảy ra vụ án, Kosugi đang giữ con mèo đúng không? Vì vậy khi đi thu thập tư liệu gấp, hắn mới phải thuê người trông nhà. Chẳng phải nên điều tra lại lần nữa xem chuyện đó có thật sự trùng hợp hay không à?”
“Ý cậu là chuyện đó cũng là kế hoạch của Kosugi?”
“Nếu chuyện ma quỷ mà hắn còn lập được kế hoạch, thì có thể lắm chứ.” Nói rồi Yukawa giơ ngón giữa, chỉnh lại vị trí cặp kính. “À không, tôi dám chắc hắn đã làm thế.”
4.
“À, nếu là bức ảnh đó thì cô ấy cũng cho tôi xem rồi.” Oda Fujiko nói, cô ta ngồi trên ghế trước quầy bar, bắt tréo đôi chân thon thả lộ ra dưới chiếc váy ngắn. Ngón tay kẹp điếu thuốc lá để móng dài, sơn màu vàng chói.
Kusanagi đã đến quán club Tatoo ở Shinbashi. Nagai Kiyomi làm việc tại đây. Giờ mới sáu giờ bốn mươi phút tối nên quán chưa có khách.
“Cô có nhớ bức ảnh đó trông thế nào không?”
“Nhớ chứ. Một bức ảnh rùng rợn. Cô ấy bảo chụp bên cạnh nghĩa trang Tama mà. Ảnh chụp một cái cây hình thù kỳ dị, và một thứ tựa như làn khói trắng cạnh cái cây. Kiyomi bảo không phải ma quỷ gì đâu, nên tôi chẳng nói được gì nữa.”
“Nghĩa trang Tama nhỉ… Cô có xem thêm bức ảnh nào nữa không?”
“Mỗi bức đó thôi. Cô ấy cũng chụp thêm vài bức nữa, nhưng bảo đó không phải ảnh tâm linh.”
“Lúc đó cô ta có kể thêm về bức ảnh hay ho nào nữa không, ngoài ảnh tâm linh ra?”
Fujiko nghiêng đầu, ngẫm nghĩ giây lát rồi lắc đầu. “Tôi không nghe chuyện nào kiểu vậy cả.”
“Vậy à. Thế, chuyện đó là từ lúc nào nhỉ?”
“Kiyomi cho tôi xem ảnh lúc nào ư? Hay là cô ấy chụp ảnh lúc nào?”
"""