"Gánh Gánh Gồng Gồng PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gánh Gánh Gồng Gồng PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Gánh Gánh Gồng Gồng gánh gánh... gồng gồng XUÂN PHƯỢNG Gánh gánh gồng gồng Gánh sông gánh núi Gánh củi gánh cành Ta chạy cho nhanh Về xây nhà bếp Nấu nồi cơm nếp Chia ra năm phần ...Gánh gánh gồng gồng. Đồng dao Việt Nam gánh gánh... gồng gồng. XUÂN PHƯỢNG hồi ký (In lần thứ tám) NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Năm 2001, quyển ÁO DÀI - hồi ký viết bằng tiếng Pháp - đã được Nhà xuất bản Plon in ấn và phát hành tại Paris. Sách đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Ba Lan. Đã mười chín năm qua với bao cuộc đổi thay. Đã đến lúc viết lại đời mình bằng tiếng Việt như một món quà tinh thần gởi đến những người thân mến quanh tôi. mở đầu Con đò Huế của buổi sáng hôm ấy đã đưa tôi ra xa, xa mãi cái bến đò Chợ Mai của tuổi trẻ. Một ngày tháng 6 năm 1945. Mờ sáng hôm ấy, rặng tre ven đường từ nhà bà ngoại tôi dẫn đến bến đò Chợ Mai* còn đẫm hơi sương. Cậu tôi dắt chiếc xe đạp đi trước, tôi ôm một bọc nhỏ quần áo chạy theo sau. Hai cậu cháu đã quyết định trốn gia đình đi theo tổ chức Học sinh cứu quốc Huế hoạt động chống Pháp... Chiếc đò nhỏ chuẩn bị đưa chúng tôi lên chiến khu vừa cập bến. Đang lần theo con đường mòn dẫn xuống bờ sông, cậu bỗng dừng lại: “Con giữ xe đạp, cậu về lấy chiếc bơm xe để quên ở bậc thềm”. Cậu vội vã chạy ngược về. Tôi ôm chiếc xe đạp, co ro trong chiếc áo dài trắng mỏng. Chỉ chừng một phút sau, bỗng vang lên tiếng súng. Lính Pháp đóng ở khu Võ Miếu cách đấy khoảng hai cây số bất ngờ mở trận càn. Những chớp đỏ loang loáng phụt lên. Tôi vứt vội chiếc xe đạp, lao xuống bến và nhảy lên đò. Con thuyền gấp gáp rời bến. Tôi chỉ kịp ngoái lại nhìn chiếc xe đạp nằm chỏng chơ và mờ xa dần hình ảnh cái quán nhỏ của dì Trợ tôi lúc bấy giờ vẫn chưa lên đèn. Năm ấy, tôi vừa mười sáu tuổi. Tôi theo kháng chiến, xa gia đình thân yêu. Mùa Đông năm 1949, một bì thơ chằng chịt dấu chuyển tiếp, một lá thơ rách bươm đã từ quê Huế, không biết bằng phép màu nào và nhờ lòng tốt của những ai, đã đến tay tôi giữa rừng già Tuyên Quang. Trong ngôi nhà ẩn giữa rừng sâu, mấy cây củi sưởi đang cháy rực, tôi ngồi ôm đứa con đầu lòng vừa được hai tháng, nước mắt chảy ròng ròng. Con đò Huế của buổi sáng hôm ấy đã đưa tôi ra xa, xa mãi cái bến đò Chợ Mai của tuổi trẻ. Sau chuyến cậu Tích lỡ đò lên chiến khu năm ấy, ông bà ngoại tôi đã thu xếp cho cậu qua Pháp học để trốn lính. Cậu ở lại Paris, trở thành nhà báo và đã lập gia đình. Đứa em gái con cô con cậu của tôi được cậu đặt tên: Xuân Phượng... Cậu ơi! Nửa thế kỷ sau tôi mới được biết ba tôi đã từ trần năm 1981 tại San Diego. Em trai thứ hai là đại tá Không quân của quân đội Cộng hòa tại Đà Nẵng, đã cùng gia đình vội vã rời Sài Gòn chỉ ba ngày trước khi tôi - lúc bấy giờ là một phóng viên chiến trường - cùng đồng nghiệp vào quay phim Dinh Độc Lập sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Năm 1989, tôi gặp lại mẹ mình ở sân bay Charles de Gaulle Paris. Bà không nhận ra tôi. Bốn mươi bốn năm xa nhau, còn gì! Về phần mình, sau chín năm ở liên khu 4: Thanh Hóa, Vinh, Cầu Giát và chiến khu Việt Bắc: Khe Khao, Bắc Cạn, Chợ Mới, Tuyên Quang, An Toàn Khu, gia đình nhỏ của tôi trở về Hà Nội sau Điện Biên Phủ. Chồng tôi là sĩ quan pháo binh, người Huế, đã tham gia trận đánh trên đồi A1. Sau 1954, anh chuyển ngành và là giáo sư Chủ nhiệm Bộ môn Thủy khí Động lực học trường Đại học Bách Khoa cho đến lúc nghỉ hưu. Từ chiến khu Việt Bắc đến lúc về Hà Nội, tôi đã trải qua nhiều nghề: vào ngành quân y, sang làm quân giới thuộc ban chế tạo thuốc nổ, làm phiên dịch tiếng Pháp, làm báo rồi trở thành phóng viên chiến trường. Năm 1989 về hưu và năm 1991 tôi mở một phòng tranh tại thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay. Tháng 7 năm 1989, tôi gặp mẹ mình và các em tại sân bay Charles de Gaulle Paris. Gia đình đã bay từ Mỹ sang thăm vì tôi chưa có thị thực vào Mỹ. Chúng tôi cười cười khóc khóc trong niềm vui đoàn viên. Trong một bữa cơm trưa, bỗng mẹ tôi chống đũa nhìn tôi: “Con ơi, sao con theo họ làm chi, để gia đình ly tán, phải rời quê cha đất tổ con ơi!”. Tiếng kêu thảng thốt tự đáy lòng của một người già ly hương làm mọi người chết lặng. Từ khi gặp lại nhau, chúng tôi chủ ý không đả động đến vấn đề tế nhị này mà chỉ nhắc về những kỷ niệm của thời Đà Lạt ấu thơ. Tôi không trả lời mẹ ngay hôm ấy, nhưng cũng từ đấy nảy ra ý định phải kể lại đời mình. Tôi mong muốn gia đình thương yêu hiểu rõ thêm những gì tôi đã trải qua. Và cũng vì những người trẻ chưa hề biết đến chiến tranh, tôi quyết định viết lại ĐỜI TÔI. đà lạt những năm 1930 Hàng chục cây hồng mai cổ thụ nằm dọc theo khuôn viên nhà trường. Gần Tết, theo từng cơn gió lạnh, hồng mai trải một thảm hoa ngát thơm ngập lối đi. Năm 1929, ba tôi được bổ nhiệm làm Thanh tra Học chính kiêm Hiệu trưởng trường tiểu học duy nhất lúc bấy giờ ở Đà Lạt. Chúng tôi sống trong một ngôi nhà nằm sau khuôn viên nhà trường. Hai gốc mimosa hướng thẳng vào phòng ngủ. Vào mùa hoa nở, những cánh hoa mong manh màu vàng nhạt tinh khiết đêm đêm tỏa hương. Hàng chục cây hồng mai cổ thụ nằm dọc theo khuôn viên nhà trường. Gần Tết, theo từng cơn gió lạnh, hồng mai trải một thảm hoa ngát thơm ngập lối đi. Vài ngày một lần, mấy chị em tôi ra vườn và đem về những bó hoa hồng, hoa cẩm chướng, hoa violet, hoa cẩm tú cầu cùng những giỏ dâu tây chín mọng còn đẫm sương. Mỗi chủ nhật, ba má tôi cùng bạn bè Đà Lạt cho cả lũ chúng tôi đi trèo thác Camly, vào rừng hái nấm. Buổi tối hôm trước, bác bếp đã chuẩn bị đủ món để trưa hôm sau cả nhà ăn trưa giữa rừng, rồi tắm suối, rồi cưỡi ngựa... Tối tối, khi thành phố lên đèn, mấy chị em tôi khoác vai nhau đi về phía cầu Ông Đạo ngắm hồ Xuân Hương. Lúc nào trên tay cũng có những trái bắp nướng nóng hổi rưới bơ và nước mắm. Những kỷ niệm mà đến nửa thế kỷ sau, khi tôi sang San Diego gặp lại các em, chúng tôi vẫn còn nghẹn ngào nhắc đến. Nhưng ông nội tôi, quê Phan Rí, gốc Chàm, là quan triều đình Huế, lại rất ghét Đà Lạt, thành phố của tụi “mũi lõ mắt xanh”. Mỗi lần ông bà từ Phan Rí lên chơi, cả nhà tôi phải thay đổi nhịp sống. Mẹ tôi cất vội những bộ váy áo thường ngày của tôi. Các em tôi cũng không được mặc quần ngắn, áo sơ mi. Tất cả đều phải diện những bộ bà ba được xếp ngay ngắn trong tủ và cũng chỉ được dùng những ngày ông bà lên chơi Đà Lạt. Bà nội tôi còn đáng sợ hơn. Tôi chỉ nhớ bà rất hay cáu giận, hay chửi mẹ tôi. Mỗi buổi sáng mẹ tôi bưng nước vào hầu, bà nội ăn trầu xong, súc miệng và bắt đầu lên giọng: “Cái xứ gì mà chỉ biết ăn chơi, chỉ biết nhởn nhơ cười cười nói nói, con cái thì ăn mặc hở hang, đùa nghịch như quỷ sứ...” v.v... và v.v... Tiếng bà khe khé rất khó nghe và cứ thế nói hàng giờ không nghỉ. Bọn tôi sợ lắm, vội núp vào các khe cửa. Có lần em Phát lấy một tàu lá chuối, rọc hết lá, khía vào thân thành từng khác một rồi kéo dựng đứng lên. Tôi còn nhớ dáng của Phát đứng cong cong, chăm chú nghe bà chửi. Khi bà mệt, nghỉ một chút súc miệng là cậu ta lấy tay gạt những nấc thân chuối lạch tạch, lạch tạch theo kiểu bắn súng liên thanh. Bọn tôi bụm miệng cười. Ngày ông bà nội về lại Phan Rí là ngày hội của mọi người. Mẹ tôi cho cả nhà kể cả bác bếp, người làm vườn, người chuyên ủi quần áo cho ba tôi, các người trông nom chúng tôi... được đi xem một chầu xinê tại rạp Đà Lạt. Sau đó còn cho đi uống sữa đậu nành nóng và ăn bắp nướng. Ông bà ngoại tôi thì trái lại. Mỗi lần ông bà lên, chúng tôi vui hơn hội. Bà ngoại đem mít vườn, thơm vườn, nhãn vườn. Ông ngoại cho phép chúng tôi sờ chòm râu bạc đẹp như ông tiên. Và trong bếp thơm lừng mùi cá bống kho tiêu, mùi nem nướng mà bà ngoại dạy cho bác bếp làm. Tuổi thơ Đà Lạt đẹp đẽ khó quên cứ thế trôi qua. cậu hiển Một hôm, mẹ tôi gọi cả nhà lại, cho đóng tất cả các cổng và cửa ra vào. Ba tôi nghiêm nghị ngồi vào bàn. Mẹ tôi dặn: “Hôm nay cậu Hiển lên ở với nhà mình. Tất cả không ai được nói với người ngoài là có cậu ở đây. Ma tà* mà biết và bắt cậu thì tụi bây chết hết”. Tôi hoảng hồn nhìn người cậu lần đầu tiên được biết tên biết mặt. Cậu gầy gò, tóc hơi xoăn, mắt rất to, đứng im lặng ở một góc nhà. Tôi chạy theo anh Đương, người hầu thân cận của ba, anh thì thào: “Cậu Hiển hoạt động chống Tây ở tận Sài Gòn, mật thám nó lùng bắt nên cậu chạy trốn lên đây đấy”. Tôi chỉ biết có vậy và vài ngày sau cũng không gặp cậu nữa. Tôi quên luôn chuyện ấy. Cho đến kỳ nghỉ hè năm tôi mười ba tuổi. Ba tôi có một sở café ở Laba, cách Đà Lạt chừng chín mươi cây số. Những dịp nghỉ hè, chúng tôi được về Laba, tha hồ lội suối, bắt cá, đào măng, cưỡi ngựa và không phải dính đến sách vở. Tôi gặp lại cậu Hiển ở đấy. Cậu cho biết là ba tôi đã đưa cậu vào đây. Cậu hiền lành, ít nói và rất chiều tôi. Một hôm, sau một buổi đi câu, cậu dắt tôi băng qua suối, đến một túp lều. Lều tối om, lờ mờ bóng một người đang tựa lưng vào vách nứa. Anh ta cố đứng dậy chào. Cậu tôi đưa một bọc cơm nắm, anh ta vồ lấy nhai ngon lành. Cậu chỉ vào một bàn chân sưng phù đầy máu mủ hôi thối: “Anh này làm culi ở Sở. Trong khi đào đất, không may bị cuốc vào chân, không thuốc men và bị đuổi về”. Tôi choáng váng: “Làm sao bây giờ hả cậu?” - “Con lén về lấy cái túi cấp cứu ở trong tủ rồi ta tính”. Tôi đi như chạy về nhà, lén mở tủ lấy túi thuốc và giấu vội dưới gầm giường. Sáng hôm sau và nhiều ngày sau đó, cậu cháu tôi săn sóc vết thương cho anh ta. Dần dần vết thương thành sẹo, anh đi đứng được và lại xin vào làm trong sở café. Có lần thấy anh, tôi chạy lại gần. Anh nháy mắt nhìn tôi mỉm cười, tôi vui mừng hết cỡ. Buổi tối trước khi rời Laba, cậu Hiển ghé tai tôi: “Ba má con thuê người Mọi ở đây giá rẻ mạt mà lại bỏ mặc kệ họ sống chết ra sao không cần biết. Như vậy gọi là bóc lột đó, con ạ”. Tôi mới mười ba tuổi đầu, hoàn toàn sống trong vòng tay của ba má, nào đã hiểu gì đâu. những trường học đầu tiên Tôi mới lên sáu tuổi, ba tôi đã bắt vào lớp Đồng Ấu của Trường tiểu học Đà Lạt. Tính tình ông nghiêm khắc, cả tỉnh đều biết. Sân trường đang ồn ào hơn phiên chợ với mấy trăm học sinh, chỉ cần ba tôi cất tiếng: “Các trò!” là sân trường im phăng phắc ngay, lớp nào xếp hàng vào lớp nấy. Uy tín ông lớn đến nỗi các bạn bè và bà con từ Cầu Đất, Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết đều đưa con gởi nhà chúng tôi để đi học. Tất cả mười tám người. Nhà tôi lúc nào cũng có một ông thầy giáo tại gia chuyên theo dõi việc học hành và hạnh kiểm của chúng tôi. Có việc gì sai trái, thầy Tần ghi vào một quyển sổ mà thầy hay cười cười huơ lên dọa chúng tôi: “Sổ Nam Tào đây. Các trò coi chừng!”. Mỗi sáng chủ nhật đầu tháng, quyển Nam Tào được giở ra. Trong phòng học, chúng tôi xếp hàng, tay khoanh lại, đầu cúi xuống. Trò nào lười học, bỏ đi chơi trong giờ tự học, cãi nhau to tiếng trên bàn ăn... đều được thầy ghi chép không sót một chi tiết. Tôi còn nhớ cảnh ba tôi ngồi giữa nhà, mắt nhìn thẳng, anh Đương hầu bên cạnh, tay cầm chiếc roi mây to tướng màu ngà. Ba tôi xướng tên một tội đồ, chỉ cần nói: “Nằm xuống” là anh nào anh nấy mặt xanh rờn, lẩy bẩy leo lên chiếc phản nằm úp mặt. Ba tôi hỏi: “Tội của trò đáng đánh mấy roi?” . “Dạ hai roi”. Ba tôi đưa mắt nhìn anh Đương. Anh thẳng tay vút hai cái, kẻ tội đồ nhảy dựng lên, run rẩy xoa đít nhưng không được khóc, lổm nhổm bò dậy, quay lại vái ba tôi: “Thưa thầy, từ nay con không dám nữa”. Sổ Nam Tào tiếp tục được giở ra, lại một tên khác lập cập leo lên chịu trận. Tôi cũng đã phải leo lên leo xuống tấm phản ấy vài lần. Những buổi trừng phạt khiếp đảm ấy, má tôi đứng nhìn sau cửa sổ, chỉ lắc đầu thở dài. Nhờ vậy tuy nhà có đến trên hai chục trẻ nghịch hơn quỷ sứ mà giờ ăn, giờ nghỉ, giờ đánh ping pong, đánh bi-a, giờ tự học, đâu vào đấy. Thầy Tần rất mê đánh ping pong, nhưng đánh rất kém. Vô địch bóng bàn hồi ấy là Mão, con một ông sếp ga ở Nha Trang, cũng trọ học tại nhà tôi. Hôm nào Mão cao hứng vụt cho thầy Tần đỡ bóng tối tăm mặt mũi, thua ngay vào hiệp hai là sổ Nam Tào ghi ngay: “Mão nói chuyện trong giờ tự học”. Tôi thì cho thầy Tần thua vào hiệp ba trong tiếng cổ vũ khoái trá của “đội quân nhà ông Đốc”. Lập tức: “Phượng đi lang thang ngoài đường”. Chúng tôi cáu lắm. Sau, Xuân Ba, em tôi, tìm được ra một kế: “Đành chịu nhục để cho thầy thắng ping pong. Chả sẽ không hành hạ tụi mình nữa đâu”. Y như rằng, sổ Nam Tào trở nên thưa thớt danh sách những kẻ tội đồ. Trường tiểu học Đà Lạt những năm 1930 - 1940 nổi tiếng về học sinh học giỏi, có giáo dục. Không biết ông đốc Cán có đóng góp gì trong việc duy trì kỷ luật thép trong trường này không? Tôi còn một anh bạn học cùng lớp, học giỏi hơn tôi, anh Phạm Khắc Lãm. Sau này anh là Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam cho đến lúc về hưu. Không hiểu anh còn nhớ hình ảnh của ông đốc Cán không? Tôi tốt nghiệp Trường tiểu học Đà Lạt, được má tôi đưa đến hiệu cô Suzanne cho uốn tóc, niềm mơ ước của tất cả các cô bé Đà Lạt thời ấy. Một buổi sáng, má tôi diện cho tôi bộ váy áo đẹp nhất được may đo tại hiệu “Les Ciseaux d'Or” (“Những cây Kéo Vàng”) và ba tôi chở một mình tôi lên xe hơi, hướng đến thác Camly. Tôi phơi phới ngồi trong chiếc xe hơi nhà duy nhất của Đà Lạt thời ấy, quần áo mới, lại được đi chơi một mình với ba. Nào ngờ, ông không vào thác Cam Ly mà đưa tôi đến một ngôi trường rộng mênh mông nằm giữa một khu rừng thông biệt lập. Từ sân trường, một bà nữ tu áo dài đen trùm đến chân, một chiếc khăn hai màu đen trắng trùm từ trán phủ đến nửa lưng, tươi cười đón cha con tôi. Chúng tôi cùng đi xuống lưng chừng đồi, vào một lớp học nằm giữa những hàng thông cổ thụ. Một bà nữ tu khác đang ngồi trong lớp. Ba tôi chào hai bà nữ tu, quay lại dặn tôi: “Gắng học cho giỏi” rồi gấp gáp đi thẳng đến chỗ đậu xe. Bà giáo dắt tay tôi vào ngồi hàng ghế đầu. Tôi nhìn quanh. Toàn những nữ sinh Pháp trạc tuổi tôi. Bà đọc một bài chính tả. Trình độ tiếng Pháp của tôi lúc bấy giờ chỉ loanh quanh vài chữ ngô nghê. Bà này đọc quá nhanh, cứ ríu rít như chim, thật không hiểu bà ấy đọc cái gì. Nhưng tôi vẫn cúi xuống, nghe gì viết nấy, mồ hôi tay rịn cả trang giấy. Chiều hôm ấy, ba tôi đến đón, tôi khóc thảm thiết trong xe: “Lạy ba, ba đừng cho con đi học trường Pháp!”. Ba tôi im lặng và lái xe đến cửa hàng xe đạp của bác Cam ở đầu chợ Đà Lạt: “Con học giỏi, ba má cho con một chiếc xe đạp. Con ngồi lên cái nào là ba mua cho cái ấy”. Tôi tưởng mình nằm mơ. Chao ôi! Một chiếc xe đạp của riêng mình! Tôi nhảy tót lên một chiếc màu vàng chói, nhãn hiệu Saint - Étienne. Chiếc xe đạp được chở về nhà, các em tôi ùa ra. Thầy Tần cũng chạy đến: “Hắn có biết đi xe đạp đâu mà mua!”. Má tôi đáp ngay: “Tôi nhờ thầy tập cho hắn”. Sáng hôm sau, ba tôi lại đưa tôi đến trường. Được xe đạp sướng mê nên tôi quên việc phải khóc để xin ba không đi học. Đến lớp, bà giáo trả vở chính tả. Đến tên tôi, bà mở vở và giơ cao lên trước cả lớp: “Đời tôi chưa bao giờ được cười nhiều như thế này. Em viết một thứ tiếng không ai có thể hiểu nổi”. Tôi mở vở. Một con zero to tướng màu đỏ, với những dấu hỏi, những chấm than chằng chịt đè lên mỗi chữ viết của tôi. Cả lớp cười ồ lên. Tôi đứng trên người, không khóc nổi. Buổi học đầu tiên trong ngôi trường dạy bằng tiếng Pháp đã xảy ra như thế. Thầy Tần tích cực tập cho tôi đi xe đạp. Mất mấy buổi đầu trầy đầu gối, toác móng chân, tôi thành thạo đạp xe ngày ngày ba cây số đến trường. Sau này, bà giáo nữ tu kể lại lý lịch ngôi trường: “Bà Nguyễn Hữu Thị Lan, con gái một điền chủ giàu có ở Đà Lạt, đã học tại trường Couvent Des Oiseaux (Nữ Tu Viện Của Những Loài Chim) ở Paris. Khi về nước, trở thành Nam Phương Hoàng Hậu, vì yêu thích cách giáo dục của trường này, bà tình nguyện hiến 12 hecta đất đồi thông cổ thụ ở ngay gần thác Cam Ly để mở một ngôi trường tương tự. Các giáo viên đều là các nữ tu bề trên, trình độ học vấn từ tú tài đến tiến sĩ ở Paris. Trường chỉ dành cho nữ sinh, đại đa số là con em các quan chức, các chủ đồn điền Pháp đang làm việc tại Việt Nam. Hoàng tử Bảo Long và ba công chúa đều theo học trường này. Trong ba trăm học sinh, có khoảng hai mươi nữ sinh là con em các gia đình có thế lực ở Việt Nam, Campuchia và Lào”. Tôi cũng chỉ lao đao vất vả vào năm học đầu tiên. Sang năm thứ hai, khi ba tôi cho vào ở nội trú, tôi đã không gặp bất cứ khó khăn nào khi trao đổi, cãi lộn, giành ăn hay lên lớp trả bài. Vào một sáng thứ hai đầu tuần, cũng như thường lệ, tôi và cô bạn thân Juliette R. đứng cạnh nhau trong lễ chào hai cờ Pháp và Annam. Lá cờ Annam vừa kéo lên, bỗng Juliette chạy vụt ra, hai chân giẫm đạp lên bóng lá cờ và hét: “Sale Annam! Sale Annam!” (Đồ Annam bẩn thỉu! Đồ Annam bẩn thỉu!). Tôi như bị choáng, nhói ngực, thở gấp. Sao dám đạp vào lá cờ của nước tôi? Sao các bà giáo không can thiệp gì cả? Ngay hôm ấy, tôi xin đổi bàn khác, cố tình tránh mặt Juliette. Cô ta mấy lần tìm gặp, ngạc nhiên về sự tuyệt giao của tôi: “Tôi ghét mấy thằng bồi chứ có làm gì để bạn phật ý đâu? Bạn đâu phải là loại người Annam đó”. Tôi không biết cãi lại, chỉ tức đến nghẹn họng, chảy nước mắt. Chủ nhật, tôi về nhà méc với ba, không ngờ ông mắng lại tôi: “Đừng nhiều chuyện! Nó có nói gì đến con đâu mà giận?”. Thêm vào đấy, lời cậu Hiển nói với tôi dạo ở Laba: “Gia đình con sống không biết nghĩ đến người khác” làm tôi lờ mờ nhận thấy rằng cuộc sống của mình, của gia đình mình không êm đềm, nhẹ nhàng và vô tư như mình tưởng. Năm 1942, do bất đồng với viên công sứ Pháp ở Đà Lạt, ba tôi bị chuyển từ Đà Lạt về quê hương Phan Rí, một nơi khô cằn, quanh năm khí hậu nóng bức. Dù được thăng chức lên làm Huấn Đạo miền Trung, ba tôi không bao giờ khuây khỏa được việc thuyên chuyển này. Cả gia đình cùng về Phan Rí, riêng tôi phải ở lại Đà Lạt học tiếp. Ba tôi gởi tôi vào nhà cô giáo Lệ, một cô giáo ở trường tiểu học Đà Lạt. Ngày ngày, tôi lại đạp xe đến trường. Xa cha mẹ, xa các em... vĩnh biệt tuổi thơ Một sáng tháng 3 năm 1945. Kim Chi là bạn học và là cháu của cô Lệ, đang cùng tôi bắc ghế với lên giàn su su trĩu quả, đọt su su bò ngang dọc tươi mọng. Bỗng từ ngọn đồi sau nhà, lố nhố một đám người đầu trọc, quần áo màu vàng xỉn, mũ lưỡi trai phất phơ mấy miếng vải che gáy, lưỡi lê dài kéo rẹt rẹt trên đường. Lính Nhật đến! Lính Nhật đến! Mấy năm nay nghe phong thanh là quân Nhật tràn vào Đông Dương. Mãi đến hôm nay, lần đầu mới thấy chúng. Chỉ ngay hôm sau là tiếng xì xà xì xồ, những con ngựa thở phì phò, những khuôn mặt hung tợn lạnh lùng, những thanh kiếm dài kéo lê của chúng đã đầy đường phố vốn rất yên tĩnh của Đà Lạt. Một tuần sau, trường Nữ Tu Viện Của Những Loài Chim (hay được gọi là trường Bồ Câu Trắng) nhận lệnh bắt buộc phải đóng cửa. Cứ tưởng rằng sau năm mươi năm xa trường Bồ Câu Trắng bạn bè thuở ấy sẽ mãi mãi không bao giờ gặp lại nhau. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thay đổi mỗi cuộc đời, tất cả đã tứ tán bốn phương. Nhưng lại có những điều không thể ngờ. Năm 2004, kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, một phóng viên Đài truyền hình quốc gia Pháp sang phỏng vấn tôi. Người của Sở Ngoại vụ đi theo cho biết phóng viên này rất có uy tín tại Pháp. Tôi kể lại thời gian làm báo Công Tác Thóc Gạo phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Trò chuyện qua lại rất vui, không khí cởi mở. Anh hỏi: “Sao bà nói tiếng Pháp chuẩn thể?”. Chúng tôi lại tán tào lao về thời kỳ tôi học tại trường Tu Viện Của Những Loài Chim, khi ba tôi vứt tôi một mình giữa một rừng người Pháp để cho con chim Phượng vừa khóc vừa tự minh mò mẫm bay. Không hiểu có một linh tinh nào đó, tôi nhắc đến một người bạn tôi tuyệt giao, bạn Juliette R., và một người bạn tôi rất yêu mến, bạn Madeleine J.. Không biết hiện nay Madeleine đang ở đâu. Bỗng nhiên Laurent B. (tên anh phóng viên) tái mặt: “Madeleine? Madeleine?” _ “Vâng. Bạn Madeleine J. có mái tóc dài rất đẹp. Là bạn cùng khu nội trú, giường chúng tôi nằm gần nhau nên hay tán chuyện lắm”. Laurent đứng phắt dậy: “Trời ơi! Không thể tin nổi. Madeleine J. là mẹ tôi!”. Hai chúng tôi sững sờ nhìn nhau, không nói nổi câu gì. Ba tuần lễ sau đó, có tiếng gõ cửa phòng tranh. Laurent bước vào, theo sau là bạn Madeleine thời học sinh của tôi. Hai chúng tôi ôm nhau. Biết nhau năm 14 tuổi, năm nay mỗi người đều đến tuổi xấp xỉ 80! Tóc mỗi người đã bạc trắng nhưng tôi nhận ra ngay nụ cười của bạn tôi ngày xưa. Laurent làm hộ vệ đưa hai bà mẹ lên Đà Lạt thăm ngôi trường xưa. Phía sau nhà nguyện, các nữ tu có vài phòng nhỏ cho khách lưu trú. Mỗi phòng khoảng mười mét vuông, trang bị tối giản như một phòng của nhà tu kín. Buổi sáng có bánh mì bơ, mứt, cà phê, thực đơn hệt như thời học sinh năm 1945. Chúng tôi thực sự trở về với tuổi học trò, thơ thẩn bên nhau quanh mấy gốc thông cổ thụ. Laurent thật hiếu thảo, săn sóc chúng tôi từng bước một. Đầu năm 2005, tôi tổ chức triển lãm tranh tại Paris. Madeleine cùng chồng đã lái xe trên tám trăm cây số đến Paris và cùng hai vợ chồng Laurent đến với tôi. Rồi tôi đến nhà Laurent cùng vui những bữa cơm gia đình. Từ đây tôi có một gia đình thứ hai tại Pháp. Năm 2018, tôi tổ chức triển lãm tranh tại thành phố Tours. Anh Pierre, chồng Madeleine quá lớn tuổi, không đi được. Madeleine cũng vào tuổi 89 như tôi, đã đến cùng một chị bạn. Chúng tôi lại ríu rít chuyện trò, lại cứ nhìn nhau mà cười trong hạnh phúc. Xin gởi các bạn vài tấm ảnh về một tình bạn gần một thế kỷ này giữa hai người của hai quốc tịch khác nhau. từ phan rí về huế Vì dang dở nên nhớ da diết con đường nhỏ rợp bóng hoa phượng chạy giữa hai trường Đồng Khánh và Khải Định, “con đường chim sẻ” của hai đứa. Nhớ hồ Tịnh Tâm sen trắng ngát thơm, nhớ chùa Thiên Mụ rì rào tiếng thông reo, phía dưới là con sông Hương lăn tăn nước một màu xanh ngọc... Huế của thời trẻ... Ba tôi sai người hỏa tốc lên Đà Lạt đưa tôi về Phan Rí. Ở đây, không còn trường học, ngày ngày học nấu ăn với bác bếp, học may vá thêu thùa với má tôi. Thật lòng tôi không thích kiểu sống này nhưng đành nghe theo. Cho đến một hôm má tôi nhận được một lá thư từ Huế. Dì Phan Tây báo tin là các trường Khải Định và Đồng Khánh đã mở lại, dạy bằng tiếng Việt đến cấp tú tài. Dì sẵn sàng cho tôi ở trọ. Tôi hồi hộp đợi chờ. Vài ngày sau, ba má tôi đưa tôi đến chào một bà cố nào đó để xin phép cho tôi rời Phan Rí. Tôi nghe nói bà đã trên trăm tuổi, gọi là Bà Chúa, là Trưởng Tộc. Tôi theo ba má bước vào một ngôi nhà to, rộng, cửa đóng kín mít. Một bà vận áo vàng, khăn vàng đang dựa lưng vào một chồng gối xếp. Tất cả chúng tôi quỳ xuống lạy, sau đó là tiếng xì xào tôi không nghe rõ câu nào. Tháng 4 năm 1945, tôi rời Phan Thiết đi tàu hỏa ra Huế. Con đường dài hơn tám trăm kilômét, tôi được ba má mua cho vé có giường nằm. Chỉ có má tôi đưa tôi ra sân ga, cầm tay mãi không rời. Chưa bao giờ đi xa một mình, tôi bật khóc. Tàu dừng ở tất cả các ga xép. Nơi nào lính Nhật cũng đi thành từng đàn, lăm lăm nhìn vào các toa, lưỡi lê rút khỏi bao sáng nhoáng. Tôi đến ga Huế, nhốn nháo cảnh người đưa đón, dượng Phan Tây nhanh chóng tìm được tôi đang đứng ngơ ngác ở cửa lên xuống của toa xe. Dượng là đốc công của Nhà máy đèn Huế, nhà máy S.I.P.E.A. Nhà dượng nằm trong một con hẻm đường An Cựu, gần cầu Kho Rèn, sát nhà máy Đèn. Lần đầu tiên tôi sống trong một xóm lao động. Nhà rộng ba gian, lợp mái tranh, không có phòng tắm riêng. Một cái lu thật to đầy nước với hai cái gáo dừa và cứ thế lần lượt cả gia đình thay nhau tắm sáng, chiều. Dì tôi dạy cách nấu xôi đậu xanh, xôi đậu đen, làm muối mè, làm tôm kho rim và cách nắm cơm thật mịn trong mo cau... Vì phải ở lại trường vào buổi trưa nên tự mình phải lo liệu bữa cơm đem theo. Cứ cách hai tuần tôi ra bến sông An Cựu tự giặt lấy quần áo, chăn màn. Cuộc sống thay đổi quá nhanh. Có những đêm chợt tỉnh giấc, tiếng rao văng vắng cuối xóm: “Ai chè đậu xanh đậu ván, bánh tráng chè kê khô...ông?”. Sáng hôm sau tôi hỏi dượng Phan Tây: “Sao đêm họ không ngủ mà đi rao cái gì vậy?”. Dượng tôi lắc đầu: “Con lớn rồi mà chẳng biết cái gì cả. Đây không phải là Đà Lạt của các con đâu. Họ phải đi kiếm ăn đấy, con ơi”. Trong những tháng đầu học tại trường Khải Định với chương trình bậc trung học dạy bằng tiếng Việt, tôi khá lúng túng, nhất là với môn Toán và Văn. Nhưng không phải chỉ học sinh mới gặp khó khăn. Thầy B. dạy môn Văn lớp tôi có lần giảng về Kiều, đang say sưa tả nhân vật Từ Hải, thầy bỗng ngập ngừng: “Từ Hải là một... là một… là một... Chevalier!”. Hôm sau đến tiết Văn, thầy ôn tồn: “Xin lỗi, hôm qua tôi không tìm được chữ”. Rồi cao giọng: “Từ Hải là một Hiệp Sĩ!”. Hay thầy H. dạy Toán, có lần lên bảng viết một công thức về đại số dài dằng dặc rồi chứng minh bằng tiếng Pháp lưu loát. Cho tới khi tiếng chuông báo tan giờ học thầy mới dừng lại: “Ồ, xin lỗi. Tiết sau tôi sẽ giảng lại bằng tiếng Việt”. Nhưng cũng chỉ vài tháng sau đó, thầy trò chúng tôi bớt hẳn vấp váp. xếp bút nghiên Từ khi Nhật tràn vào, không khí lớp học thay đổi hẳn. Một số thầy mà chúng tôi kính trọng không đến trường nữa. Chúng tôi không thiết học hành và tôi gia nhập đoàn Học sinh Cứu Quốc trường Khải Định. Các lớp học từ nay ít tiếng giảng bài nhưng luôn luôn vang dội lời ca: “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu. Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân...” hay “bao năm ròng rên xiết lầm than...” hay “Bao chiến sĩ anh hùng, lạnh lùng vung gươm ra sa trường” của các nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao. Thỉnh thoảng lại có một cuộc chia tay. Một bạn đứng lên: “Xin tạm biệt các bạn, ngày mai tôi lên chiến khu..”. Năm 2001, trong một buổi nói chuyện ở Texas về quyển hồi ký ÁO DÀI, một nhà báo Mỹ hỏi tôi: “Bà sinh ra trong một gia đình thân Pháp, ông cụ thân sinh ra bà là người làm cho chính quyền Pháp, bà học trường Pháp. Tại sao bà lại đi theo Việt Minh?”. Tôi muốn kể lại cái không khí hào hùng, náo nức, của hàng chục vạn người từ các huyện, xã, thôn, rầm rập kéo về thành phố Huế mừng vui đón chào chính quyền mới. Cũng như họ, những học sinh vào tuổi mười sáu, mười bảy chúng tôi sẵn sàng rời bỏ gia đình, đồng lòng muốn đuổi quân xâm lược. Nguyện vọng của chúng tôi lúc bấy giờ chỉ có bảy chữ “Giành lại độc lập cho đất nước”. Lúc ấy, dượng tôi mới cho biết mình là cán bộ Việt Minh, lâu nay bí mật hoạt động chống Pháp, chống Nhật. Dượng giao cho tôi những lá cờ Việt Minh nhỏ, dặn đưa đến một địa điểm ở chợ Bến Ngự. Tôi cho các lá cờ, dần dần sau đó là dây điện, là truyền đơn, vào cặp đi học, rồi bình tĩnh đi qua cầu Kho Rèn, trước mặt những tên lính Nhật đang bồng súng, hằm hằm xét người qua lại. Nghe lời dượng, tôi nâng chiếc nón lá, khẽ cười, cúi đầu chào chúng. Có tên mỉm cười lại. Cô nữ sinh áo trắng là tôi bình tĩnh đi qua. Hàng chục lần như vậy, tôi làm nhiệm vụ đầy đủ với dượng tôi và tự hào quá đỗi về sự đóng góp của mình. Có hơi hồi hộp nhưng khi dượng tôi dặn: “Nếu Nhật nó bắt con lại thì con vứt ngay cái cặp xuống sông”. Tôi tin cậy vào dượng nên không hề do dự tí nào. Năm 2018, tức là bảy mươi ba năm sau, tôi mời anh Phan Giếp, là bạn học trên tôi hai lớp, cùng đi sang Pháp nhân một cuộc triển lãm tranh Việt Nam tại Paris. Trước kia, anh là thủ lĩnh Đoàn Học sinh Cứu Quốc trường Khải Định. Trong một buổi ngồi cà phê tại một quán vỉa hè Paris, anh Giếp kể cho tôi nghe thêm về thời học sinh rừng rực khí thế ấy: “Lúc bấy giờ, anh cùng các anh Hoàng Triều, Duy Tùng, Lê Khánh Căn, Nguyễn Tăng Hích, Nguyễn Văn Sanh và Nguyễn Hữu Chỉnh cùng ở trong ban Chỉ đạo Đoàn Học sinh Cứu Quốc trường Khải Định. Chủ trương lúc bấy giờ là khơi dậy lòng yêu nước chống xâm lược Pháp trong giới học sinh sinh viên bằng các hình thức ca nhạc, kịch; quyên tiền góp gạo để cứu đói cho nạn đói khủng khiếp miền Bắc năm 1945; vận động tổng tuyển cử để bầu đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa v.V... (Thảo nào, vào đầu năm 1946, tôi và sáu bạn cùng lớp được cho phép nhảy lên một chiếc xe chạy khắp thành phố, hét vang qua loa pin: “Hãy bầu cho Dực, Phiệt! Hãy bầu cho Dực, Phiệt!”. Mà nào chúng tôi có biết Dực, Phiệt là ai và ý nghĩa của việc này là gì. Mãi lâu sau này, tôi mới biết đó là bác Trần Hữu Dực và bác Tôn Quang Phiệt). Anh Giếp còn nói thêm: “Đặc biệt là cậu Lê Khánh Căn của Đoàn Học sinh Cứu Quốc trường Khải Định mình đã tự ra ứng cử. Khánh Căn không đủ số phiếu được vào đại biểu Quốc hội khóa Một nhưng từ đấy mang tên là Các Căn, cháu ông Các Mác!”. rung động đầu đời Cùng lao vào những hoạt động sôi nổi ấy, anh N. Đ. Nam, học trên tôi hai lớp, và tôi, chúng tôi bắt đầu chú ý đến nhau. Trong mỗi buổi họp, chỉ bắt gặp một cái nhìn của anh là tôi cảm thấy ấm áp lạ kỳ. Một đêm, đi tập kịch về quá khuya, anh Nam tiến tôi về đến tận chân cầu Kho Rèn. Đang nói cười, bỗng nhiên anh im lặng, nắm chặt tay tôi. Hai chúng tôi nhìn nhau rất lâu, tôi bồi hồi với cái cảm giác ngọt ngào ngây ngất của mối tình đầu tuổi học trò. Vai tháng sau, mẹ anh Nam, bác Lê, đã vào Huế gặp má tôi, bàn chuyện hai đứa và chờ ngày chúng tôi ra trường sẽ tính tiếp. Ba anh Nam và ba tôi đều là nhà giáo, tưởng chừng như không có gì chia lìa được chúng tôi. Đầu năm 1946, anh Nam báo tin: “Gia đình con một, thầy mẹ anh không muốn cho anh thoát ly gia đình. Anh sẽ về Nghi Lộc”. Từ đấy vắng anh. Tôi tiếp tục đi theo Đoàn Tuyên truyền Kháng chiến, tiếp tục chọn con đường thoát ly gia đình. Thế rồi chiến tranh ập đến, chiến tranh chia cắt chúng tôi. Gặp lại nhau sau này tại Hà Nội, ai cũng đã có gia đình riêng. Con trai anh là con nuôi tôi. Cháu đã trở thành một nhà quay phim truyện xuất sắc. Năm 1988, anh bị bạo bệnh. Ngày hấp hối, anh nắm tay tôi: “Anh đi trước”. Đôi khi tôi nghĩ lẩn thẩn: “Không biết nếu thành vợ chồng, sau nhiều năm chung sống, tình sẽ còn đẹp không?”. Vì dang dở nên nhớ da diết con đường nhỏ rợp bóng hoa phượng chạy giữa hai trường Đồng Khánh và Khải Định, “con đường chim sẻ” của hai đứa. Nhớ hồ Tịnh Tâm sen trắng ngát thơm, nhớ chùa Thiên Mụ rì rào tiếng thông reo, phía dưới là con sông Hương lăn tăn nước một màu xanh ngọc... Huế của thời trẻ... Tháng 12 năm 1946, chúng tôi rời ngôi nhà An Cựu và được phó đoàn Nguyễn Tăng Hích (tức Trần Hoàn) di chuyển đến một ngôi nhà tranh nằm phía trên đồi Nam Giao. Chúng tôi trở thành Đoàn Tuyên truyền Kháng chiến chống Pháp Mặt trận Huế (khu C). Một đêm, đang ngủ thì có người lay tôi dậy. Má tôi đã tìm đến tận đây. Dưới ánh đèn tù mù, má tôi nắm chặt tay tôi khóc: “Chao ôi, sao con sống khổ cực thế này! Về nhà đi con. Về vườn bà ngoại mà ở con ơi!”. Tôi thương má quá chừng, cũng khóc theo. Nhưng trở về, sống cuộc đời tĩnh lặng êm đềm trong lúc này sao? Hai mẹ con ôm chặt lấy nhau. Tờ mờ sáng hôm sau, má tôi gạt nước mắt, từ từ bước lên chiếc xe kéo rời dốc Nam Giao. Dù rất thương mẹ thương em, tôi đã chọn con đường tự nguyện đi vào hoạt động chống xâm lược Pháp. Cuộc chia tay ấy không ngờ kéo dài đến năm 1989, tức là phải bốn mươi ba năm sau tôi mới được mà tôi ôm vào lòng. Mà cuộc gặp gỡ này không xảy ra ở gần đài Nam Giao, Huế, mà lại ở sân bay Charles de Gaulle, Paris. Còn má tôi, người luôn luôn nhắc đến giấc mơ trở về làng Nham Biểu, nếm mấy mùi thanh trà ở biển thì không bao giờ có thể trở lại vườn xưa nữa... Nhưng đó là những câu chuyện sau này. đoàn tuyên truyền mặt trận khu C Vào nhà anh Nam ư? Mặc dầu trong lòng rất muốn gặp nhưng tôi lắc đầu. Đêm giao thừa, trên mười anh em chúng tôi ngủ giữa trời lạnh, gối đầu lên đường ray xe lửa, những viên sỏi giữa đường ray chích vào lưng. Nhưng dù sao cũng còn hơn là gặp lại người mình yêu thương trong một hoàn cảnh như thế này. Khuya ngày 20 tháng 12 năm 1946, chúng tôi được lệnh bí mật rời ngôi nhà Nam Giao. Trần Hoàn tập họp mười hai anh chị em trong đoàn: “Đêm nay chúng ta bước vào cuộc chiến đấu đối mặt với quân xâm lược Pháp. Thành phố Huế đã biến thành Mặt trận Huế”. Một buổi tối, chúng tôi nhận lệnh đột nhập vào trường Kỹ thuật Thực hành Huế. Bên trong dãy hàng rào bao quanh trường, có năm khu nhà riêng biệt nằm rải rác. Quân Pháp đã chiếm ba nhà. Bốn ngày qua, bộ đội ta đã đột nhập vào hai căn nằm sát hàng rào. Chúng tôi có nhiệm vụ đưa lệnh của Bộ chỉ huy Mặt trận Huế cho phép bộ đội rút khỏi các vị trí trên. Năm chúng tôi bò xuống ven sông An Cựu, mỗi người buộc ngang lưng một bi đông nước, một nắm cơm và bông băng, thuốc đỏ. Sau khi bơi qua sông, vượt qua kè, chúng tôi chạy lên đường cái nằm ép mình sát hàng rào. Chờ chúng bắn xong một loạt, Lê Khắc Tình, một bạn học cùng lớp và tôi nắm tay nhau hô thầm “một, hai, ba” rồi cùng nhảy lên hàng rào. Bỗng Tình khựng người lại rồi đổ sập xuống, thân người vắt qua hàng rào. Bò được vào trường, tôi liều gõ cửa ngôi nhà thứ nhất. Có tiếng rên khẽ: “Nước! Nước! Khát quá!”. Cánh cửa hé mở, một mùi hôi thối xông ra. Ba chiến sĩ bị thương, mấy ngày nay không thuốc men, không thức ăn, nước uống. Tôi nhai vội miếng cơm nắm cho thật nhão, cố đút vào mồm các anh, cho họ uống nước, xé vội khăn quàng và buộc qua loa các vết thương. Các bạn trai trong đoàn liều chết đưa ba chiến sĩ bị thương vượt hàng rào, lao xuống sông Bến Ngự và tất cả thoát về căn cứ an toàn. Tôi ngoái lại nhìn xác Tình vẫn nằm gục trên hàng rào. Không có cách nào đưa Tình ra được. Quá nguy hiểm. Năm mươi lăm năm sau, tôi đưa Lê Khắc Thìn, em trai của Lê Khắc Tình đến thăm lại trường Kỹ thuật Thực hành Huế. Chúng tôi đặt mấy bông sen trắng cạnh hàng rào của trường. Năm ấy, Lê Khắc Tình mười sáu tuổi. Chúng tôi được giao viết những truyền đơn bằng tiếng Pháp, giải thích về cuộc kháng chiến và hô hào binh lính Pháp hãy đứng về phía ta. Quá hăng hái, tôi làm cả một bài thơ dài viết bằng mực tím đậm đặc. Sau đó, nấu nước rau câu, đổ lên một mâm đồng và phơi sương suốt đêm. Sáng hôm sau, tôi lấy bài thơ gốc ra in trên mâm rau câu đã đông đặc. Những dòng chữ viết bằng mực tím đã in đậm nét trên mặt mâm. Từ bản gốc, tôi in thêm ra khoảng mười lăm truyền đơn khác. Chúng tôi ra chợ Bến Ngự, ngồi vào quầy với những người bán rau và lén nhét truyền đơn vào các túi mua hàng của lính Pháp. Nếu không ra chợ thì ở nhà tập kịch do Trần Hoàn, Lê Khánh Căn, Nguyễn Hữu Chỉnh viết, Hoàng Thi Thơ làm nhạc v.v... Nội dung xoay quanh vấn đề đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập. Không còn nhớ là ai đã nấu nướng cho chúng tôi ăn mà ngày hai bữa, chúng tôi có hai nắm cơm vắt và một chai nước. Ai cũng hăng hái, tận tình. Ngôi nhà nhỏ, mái tranh nằm khuất dưới hai gốc thông trên sườn đồi, không lúc nào dứt tiếng đàn, tiếng ngâm thơ, tiếng cười nói... Hoàng Thi Thơ chơi banjo rất hay và đêm nào cũng chơi rất khuya. Bà con ở chợ Bến Ngự ủng hộ Việt Minh nên sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi. Có một lính Pháp đóng ở đồn Mang Cá hay ra chợ mua rau củ. Nhìn thấy một anh lính có vẻ hiền lành, tôi lén nhét truyền đơn vào đống rau xanh, khoai tây của anh ta. Hai ngày sau, người lính ấy trở lại và mỉm cười với tôi. Tôi sợ quá, ngồi im lặng. Ngày sau anh ta trở lại, hỏi thẳng: “Truyền đơn đâu?”. Chúng tôi lắc đầu ra dấu không hiểu tiếng Pháp. Nguyễn Hữu Chỉnh nhận xét: “Chúng nó đặt bẫy chúng mày đấy”. Qua vài ngày, không thấy động tĩnh gì, Chỉnh phân công chúng tôi ra chợ. Anh lính nọ trở lại, nói anh thích tôi. Anh cũng muốn trở về Pháp lắm. Tôi sợ run cả người, biến khỏi chợ và không bao giờ gặp lại. Thời gian này, bộ quần áo lụa vân màu ngà đã được xếp lại, thay vào là chiếc quần đen và áo sơ mi màu nâu. Điều làm tôi bứt rứt là không thể gội đầu như trước. Hương bồ kết lẫn với vỏ bưởi và lá sả thơm ngào ngạt đã bay xa... Tại thành phố Huế, quân Pháp đóng khu Nam sông Hương, khách sạn Morin, ga Huế, trường Providence, kiểm soát nhà Đèn và Ngân hàng Huế. Gần năm mươi ngày cùng với các Đoàn Tuyên truyền Mặt trận Huế khu A và khu B, chúng tôi đã cầm cự chúng bằng các phương tiện thô sơ của mình. Ngày mùng 6 tháng 12, bọn Pháp ồ ạt tấn công các vị trí đóng quân của ta. Một quả đạn đã rơi sát bậc thềm nhà chúng tôi đang tá túc. Sau một tiếng rít dài, một ánh sáng xanh vụt đến rồi im bặt. Chúng tôi chạy ùa ra, quả đạn không nổ, đầu đạn cắm xuống đất. Tháng Giêng năm 1947, mặt trận Huế vỡ trước sự tấn công ồ ạt của ba ngàn lính Pháp. Chúng tôi nhận lệnh lên đường ra Nghệ An. Quân Pháp kiểm soát hoàn toàn đường số 1, chúng tôi phải đi xuyên rừng trong đêm. Một vài bạn trong đoàn bỏ hàng ngũ trở về Huế. Đoàn Tuyên truyền Mặt trận khu C chỉ còn lại hơn mười người. Con đường đi bộ ba trăm cây số dài vô tận. Vì quá mệt nên dần dần chúng tôi vứt lại những gì mang theo người, đến cả cây bút chì cũng thấy nặng. Khi đi qua những cồn cát, chúng tôi đào một cái hố và chôn tất cả những tấm ảnh, vật kỷ niệm nhỏ của gia đình mang từ Huế đi. Nguyễn Hữu Chỉnh vừa lấp cát vừa nói: “Đây là ngôi mộ của quá khứ chúng ta” và ứng khẩu đọc một bài văn tế tiễn biệt. Chúng tôi vừa khóc vừa cười. Có lúc vừa đi vừa ngủ, lúc choàng tỉnh dậy thấy mình đã ở giữa một con suối. Chỉ cần một lệnh báo động nhỏ là chúng tôi đã cấp tốc “tàng hình” trong những bụi cây. Mỗi người được cấp một bộ quân phục. Cuộc “trường chinh” bằng đôi chân trần bắt đầu hành hạ tôi. Tôi đau đến nỗi nhiều lúc vừa đi vừa thét lên. Hơn nửa thế kỷ qua, mỗi khi nhắc đến chuyến đi ấy, cảm giác đau rợn người vẫn còn nguyên. Năm 1946 - 1947 đối với tôi là năm kỷ niệm những trận đau cùng cực của đôi chân trần đạp lên đá nhọn. Thất thểu đến được Vinh, chúng tôi kinh ngạc quá chừng. Khác với Huế đang gồng mình trong chiến đấu, thành phố Vinh vẫn còn điện và các cửa hiệu, hàng ăn tấp nập người qua lại. Từ đấy, chúng tôi chính thức trở thành Đoàn Tuyên truyền Kháng chiến Trung bộ và Liên khu Bốn, dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều). Nhiệm vụ là tự biên tự diễn những vở kịch với nội dung giải thích về cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp, hô hào toàn dân đóng góp lương thực để nuôi quân. Có nhiều làng hưởng ứng và tận tình giúp đỡ. Có nơi khác khóa cổng làng không tiếp. Chúng tôi tự dựng sân khấu, tự xoay xở y phục bằng cách mượn của bà con và hóa trang bằng than đen, bằng thuốc đỏ, bằng râu giả. Đêm nào sân kho hay bãi trống cũng đầy chật người. Thỉnh thoảng ông Hải Triều và người em là anh Hải Châu lại thưởng cho chúng tôi một nồi cháo gà hay một thùng nước dừa uống thoải mái. Có một vở kịch tôi đóng vai người con gái và anh Tăng Hích (tức Trần Hoàn) đóng vai người bố. Do vội vã nên ngay khi đang diễn, bộ râu dán bằng bông gòn của Tăng Hích rơi xuống một nửa. Người xem cười rộ lên, tôi cũng nhịn không nổi, phá lên cười. Tôi ứng khẩu: “Thầy ơi, mẹ con gọi thầy vào”. Tăng Hích nhảy bổ vào hậu trường. Anh Đào Mộng Long dán vội bộ râu mới. Tăng Hích lại bước ra, tay cầm quạt, phe phẩy bộ râu trắng như tuyết, bà con vỗ tay hoan nghênh rầm trời! Đoàn đi diễn hết làng này sang làng khác trong hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, không biết bao nhiêu lần chịu cảnh “màn trời chiếu đất”. Khi thiếu nước không thể tẩy trang, chúng tôi cứ để mặt y nguyên như trên sân khấu mà ngủ. Có lần thức giấc dậy, nhìn mặt mày của bạn mình, lòng nổi lên một sự xót xa khó tả. Chúng tôi còn rất trẻ, luôn luôn đói ăn. Mỗi ngày hai nắm cơm, một chai nước, thật chẳng thấm vào đâu. Hành hạ nhất là lúc bà con mang bánh trái còn nóng hổi ra mời mua, chúng tôi không có một đồng xu dính túi nên chỉ cảm ơn và quay đi. Ra Vinh được vài tuần, ông Hải Triều ghép vào đoàn mười mấy bác thổi kèn hơi. Các bác này tình nguyện theo kháng chiến. Trước khi Huế trở thành mặt trận, cứ mỗi buổi chiều chủ nhật, hay trong những ngày lễ lớn, ngay bên bờ sông Hương, các bác đã đem lại cho Huế những phút bay bổng tuyệt vời với “Dòng sông Danube xanh”, “Viennese Carnival” hay “Little Doves” của Johann Strauss... Thời kỳ thơ mộng ấy, tuổi trẻ Huế những năm 1940 chắc không ai có thể quên. Các bác đã rời Huế, đem vợ con theo kháng chiến nhưng vẫn giữ những thói quen của những nhạc công kèn hơi thời Pháp. Bác Minh, được vợ nuông chiều nhất. Trong khi chúng tôi ăn bốc, ngồi xổm dưới đất thì bác Minh gái đã vả những mảnh vải lại để may thành một chiếc khăn bàn, trải phẳng phiu mỗi khi bác Minh ngồi ăn trưa. Gom góp được ít tiền, chúng tôi đưa cho bác gái, nhờ bác nấu thêm những phần cơm trưa. “Có chừng này thôi à? Chỉ đủ hai suất thôi đó”. Chúng tôi tám đứa đều ăn rất khỏe nhưng cũng phải chịu. Nồi cơm cháy của bác ngày nào cũng bị chúng tôi cạo không còn một hột. Nhưng chẳng bao lâu, đoàn kèn hơi giải tán dần. Bác Minh đến gặp trưởng đoàn xin ở lại làng này để mở cửa hàng ăn. Trưởng đoàn nổi cáu: “Lại muốn có lương à? Tiền là cái gì? Muốn cứu nước đừng nghĩ nhiều đến tiền. Các bác đòi hỏi quá, chẳng hiểu tí gì cả”. Bác Minh thở dài: “Chính các anh còn trẻ quá mới không hiểu được tí gì”. Rồi bác Ngưu, người thổi kèn saxophone dừng lại mở quán ăn tại một làng khác. Rồi một bác khác, bác Lập rời bỏ đoàn. Rốt cuộc chỉ còn lại nhóm người của Đoàn Tuyên truyền Mặt trận Huế khu C cũ ở lại với nhau. Nhưng không phải chỉ những bác lớn tuổi mới rời đoàn. Tôi có một bạn học Huế rất xinh đẹp, bạn H.Tr., đặc biệt đôi mắt đen láy và nụ cười mê đắm. Bạn là nữ sinh trường Đồng Khánh, con quan, nhà giàu, đặc biệt là đàn guitar rất hay, đã làm rung động bao chàng trai xứ Huế. Khi đoàn chúng tôi đến Vinh, thì H.Tr. đang ở trong một đoàn văn nghệ khác của tướng Nguyễn Sơn. Một buổi chiều, H.Tr. rủ tôi đến một ngôi miếu có gốc cây thị trăm năm, nơi mà hai chúng tôi hay gặp gỡ chuyện trò khi không muốn có mặt những bạn bè khác. H.Tr. bảo: “Đêm nay chúng mình thức với nhau, ngày mai biết đâu không còn gặp lại”, và Tr. vừa đàn vừa hát. Viết những dòng này, tôi tính chúng tôi đã xa nhau trên bảy mươi năm, vậy mà cái đêm trời đầy sao ấy, cảnh hai đứa ngôi với nhau trong ngôi miếu hoang tịch, tiếng hát tiếng đàn vẫn còn lại trong tâm tưởng một người già như tôi. Trăng rọi vào thềm đất, chiếu vào hai chúng tôi. Tôi thiếp đi trong tiếng đàn. Khi tỉnh dậy, trên tay tôi có mảnh giấy: “Không thể ở lại được. Mình đi đây. Ph. ở lại, gắng chịu đựng phong ba bão táp. Thương nhớ bạn mãi. H.Tr.”. Bạn tôi bỏ khu 4 vào Huế bằng cách nào tôi không biết. Giới văn nghệ khu 4 xáo động về sự ra đi của H.Tr. Anh Ng., Giám đốc công an khu 4 gặp tôi, hỏi đi hỏi lại: “Sao em biết H.Tr nó đi mà không báo cho các anh?”. Khi tôi nói tôi không hề biết, anh Ng. lại vặn tôi: “Vô lý! Thế em có biết đường dây nào đưa Tr. đi không?”. Tôi không biết gì cả nên tất nhiên tôi không thể cung cấp một tin tức mỏng manh nào. Hơn nửa thế kỷ sau, chúng tôi lại có tin tức của nhau. H.Tr. đã sang Mỹ, lấy bút danh là M.Đ.H.Tr. Bạn gởi cho tôi mấy quyển sách với lời đề tựa: “Gởi Ph. thân yêu, để nhớ mãi đêm trăng sáng ở miếu hoang. Mãi mãi là bạn của nhau”. Bạn tôi đã lập gia đình, là một nhà văn rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Tôi may mắn có được những tình bạn lâu bền. Mãi mãi còn lại tiếng đàn và ảnh trăng đêm nào... Lệnh ban ra: Phải làm vườn không nhà trống, phá hủy đường xá để ngăn bước tiến của quân Pháp. Phong trào “Tiêu thổ kháng chiến” lan ra khắp vùng. Ở Vinh, tôi đã tận mắt thấy một bác trung niên cầm búa giáng xuống bức tường ngôi nhà mình. Một hàng dài con cái, họ hàng bắt đầu đập toang phía trước khu biệt thự. Bà vợ đứng bên cạnh sụt sùi khóc. Cả thành phố Vinh trở nên hoang tàn, trơ trụi. Đêm 29 Tết năm ấy, đoàn chúng tôi đến gần ga Quán Hành, rất gần nhà anh Nam. Tiếng pháo giao thừa lác đác nổ. Anh Nam đã trở về hoạt động trong Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc Nghi Lộc từ mấy tháng trước. Trần Hoàn bảo tôi: “Đêm nay chưa biết ngủ ở đâu, hay tụi mình vào nhà Nam đi”. Tôi nhìn lại đoàn mình. Quần áo lếch tha lếch thếch, nét mặt phờ phạc vì mệt mỏi và đói ăn, phông màn sân khấu, loa, đèn, v.v... kết thành một búi to tướng... Vào nhà anh Nam ư? Mặc dầu trong lòng rất muốn gặp nhưng tôi lắc đầu. Đêm giao thừa, trên mười anh em chúng tôi ngủ giữa trời lạnh, gối đầu lên đường ray xe lửa, những viên sỏi giữa đường ray chích vào lưng. Nhưng dù sao cũng còn hơn là gặp lại người mình yêu thương trong một hoàn cảnh như thế này. Lang thang thế nào đó, chúng tôi đến làng Bạch Ngọc, gần huyện Đô Lương. Đang dò dẫm tìm nơi ở tạm, tôi thấy một căn nhà trên có treo bảng chữ: Quân Y vụ Liên khu Bốn. quân y vụ liên khu bốn “Anh còn bổn phận làm con, em ạ”. Chúng tôi trao đổi với nhau đến lúc mặt trời ửng hồng chiếu lên con đê. Tôi bắt đầu hiểu tình yêu đau khổ là như thế nào. Đau đơn đến nỗi không bước chân đi được. Vì tình hình sức khỏe bắt đầu sút kém qua gần một năm đi lang thang, tôi đã muốn rời đoàn tìm việc làm ở một nơi nào cố định hơn. Tình cờ gặp Hảo Thư, một bạn học thời Huế, hai đứa chúng tôi bàn nhau, và đánh liều đến gặp ông Giám đốc Quân Y Vụ. Tiếp chúng tôi là một người bệ vệ, trán hói, mặt to, đôi mắt lồi, trông hơi sợ. Ông là bác sĩ H.V.B. Sau khi chúng tôi trình bày nguyện vọng, bác sĩ H.V.B gật gù, giọng Nam Bộ: “Tôi sẽ đi gặp trưởng đoàn Tuyên truyền”. Ngay trưa hôm ấy, một cuộc trao đổi chớp nhoáng đã diễn ra. Bác sĩ H.V.B: “Hai cô này có nguyện vọng vào làm việc tại Quân Y Vụ Liên khu Bốn. Chúng tôi đang rất thiếu nhân lực, và cả hai đều có chuyên môn”. Trần Hoàn, phó đoàn: “Không được, không thể được, đoàn chúng tôi chỉ có vài nữ”, và cáu giận bỏ đi. Sáng hôm sau, Hoàn gặp chúng tôi, lạnh lùng: “Nếu muốn bỏ đoàn thì hãy bỏ lập tức đi!”. Nhanh như chớp, chúng tôi cuốn vội quần áo. Buổi giã từ lạnh nhạt. Tôi khổ tâm nghĩ rằng mình đã phản bội anh em. Với nhiệm vụ tiếp đón những thương binh từ mặt trận về, Quân Y Vụ là một nhà tranh vách đất, chạy dài những chiếc giường tre nằm san sát bên nhau. Bác sĩ H.V.B lên tiếng: “Chào các cô!”. Lâu lắm rồi không có ai chào chúng tôi như vậy. “Bắt đầu từ hôm nay các cô sẽ được chuyển vào bộ phận hành chính quản trị của Quân Y Vụ”. Có nghĩa là chúng tôi không được trực tiếp săn sóc thương binh mà việc chính là trông nom sổ sách người nhập viện, số lượng thuốc và cách phân phối thuốc v.v... Một công việc hoàn toàn về sổ sách giấy tờ nhưng dù sao cũng còn hơn kiếp sống lang thang mà sức khỏe tôi không thể chịu nổi nữa. Chúng tôi ngủ tại nhà dân, sáng sáng đến Quân Y Vụ làm. Tôi được cấp một quyển sổ to tướng, trong đó ghi tên người bị thương, số hiệu, nơi bị thương, tình trạng bị thương, được đánh số từ 1 đến 8 tùy theo vết thương nặng nhẹ. Có trường hợp tử vong thì gạch tên bằng bút chì đỏ. Do tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, sổ Liệt Kê của tôi chi chít những nét gạch đỏ. Nếu gia đình tử sĩ ở xa quá, xác phải chôn tại nghĩa địa của làng. Cũng có những gia đình lặn lội đến xin xác con về. Những buổi nhận xác là những cảnh đớn đau. Những thương binh lành vết thương được giao về ở trong nhà dân. Nhiều mối tình giữa con gái chủ nhà và anh lính trẻ đã diễn ra. Tôi biết vài trường hợp tuyệt vời như thế. Chỉ có thể nói với các bạn rằng, những đêm trăng sáng ở Bạch Ngọc với những bụi hoa nhài trắng muốt như sữa, hương thơm lan tỏa, muốn đi dạo chơi phải nhớ đằng hắng thật to hoặc giả vờ họ để tránh gặp những cảnh anh chị ôm ấp nhau trong đêm... Có khi chúng tôi được phái đến những bệnh viện khác trong liên khu để kiểm kê. Lại có dịp gặp bạn bè đồng lứa đồng tuổi cũng từ trường Khải Định, Đồng Khánh Huế ra đi. Một đêm, Hảo Thư và tôi phải đến một bệnh viện ở phía bên kia sông Bạch Ngọc. Đêm đã khuya, gặp một quán dọc đường, chúng tôi mở liếp che. Quán trợ trọi, chỉ có những thanh tre ghép đôi làm ghế. Hai chúng tôi nằm chênh vênh trên hai thanh tre, phân công nhau đứa ngủ, đứa thức. Nhìn Hảo Thư nằm trằn trọc bỗng nghĩ đến lúc mình nằm trên giường nệm, khăn trải giường trắng tinh không một vết gợn, với chiếc gối bằng lông ngỗng... Thư cũng con nhà hoàng tộc, cũng đã rời bỏ tất cả để đi kháng chiến. Có nhiều lần, trở về quá khuya, dân Bạch Ngọc đã khóa hàng rào chống Pháp quanh làng, hai đứa phải ngủ ngồi ngoài bến sông. Nếu cả gan gọi cửa thì rất sợ hoặc sẽ bị du kích bắn tỉa trong đêm tối, hoặc sợ chó Bạch Ngọc rất dữ, lúc nào cũng sẵn sàng lao ra cắn. Một ngày nọ, chúng tôi phải theo bác sĩ H.V.B đi làm việc ở một trạm quân y khá xa. Những nét gạch đỏ báo hiệu số lượng tử vong ngày у càng nhiều tại trạm quân y này. Khoảng bốn giờ chiều ngày làm việc thứ hai, bác sĩ H.V.B quyết định trở về Bạch Ngọc. Thư nói: “Thưa bác sĩ, bây giờ trễ quá rồi. Tám giờ tối nay không đến kịp Bạch Ngọc trước giờ đóng cổng làng đâu”. Người chèo đò cũng đồng tình. Nhưng lệnh trên không được cãi, chúng tôi phải xuống đò, rời bến. Đò chật chội, gồm gia đình con cái người lái đò và ba chúng tôi. Khi đến Bạch Ngọc, trời đã tối đen. Đành phải ngủ đò. Bỗng tôi giật mình, một bàn tay đang sờ soạng trên ngực tôi. Tiếng bác sĩ H.V.B thì thào: “Em ngoan, để cho anh!”. Hơi thở ông nồng nặc mùi rượu. Tôi đập mạnh vào tay ông ta và cố thoát vùng dậy. Thư cũng tỉnh giấc: “Mi đừng hét to, mất mặt lão ấy là tụi mình chết”. Ông ta có vẻ chững lại, nhưng chỉ vài phút sau lại mon men đến gần. Tôi hét lên: “Thà chết còn hơn” và nhảy ùm xuống sông. Thư cũng nhảy theo. Rất may là sông Bạch Ngọc nước cũng lặng, người lái đò giơ mái chèo để chúng tôi bám vào. Tôi bíu lấy và hét lên: “Ông bác sĩ phải ngồi ở phía bên kia đò thì tôi mới lên”. Sau tai nạn ấy, vì nhảy xuống sông vào đêm nên tôi bị cảm lạnh, đau nhức cả người. Tôi suy yếu, không bước nổi, phải nằm bẹp ở nhà dân. Và lại thấy một cảnh khó quên. Con gái người chủ nhà, hai mươi tuổi, chú rể mười ba tuổi. Làng này có gia đình bán con gái và cô dâu sẽ thành người ở của gia đình chồng. Ngoài sân, tiếng thét khủng khiếp rú lên. Bốn người đang buộc cô gái vào hai thanh tre, tay chân trói chặt, mái tóc dài quét đất. Bố mẹ cô gái tựa cửa đứng nhìn cảnh con mình bị xóc lên chiếc đòn gánh. Đoàn đón dâu hấp tấp chạy theo ra khỏi cổng. Chú rể bé tí ti, đen nhẻm, mũi thò lò chạy theo cùng vài người lớn. Hảo Thư và tôi vẫn tiếp tục làm việc tại bệnh viện nhưng không khí lạnh nhạt đi rất nhiều. Ông B. không giở trò gì nhưng mỗi lần gặp tôi, đôi mắt lồi cứ nhìn chăm chăm làm tôi lạnh cả người. Tôi được báo tin là sẽ có một cuộc họp lớn của Đoàn Thanh Niên Khu 4 tại làng Hậu Hiền, cách Bạch Ngọc khoảng hai chục cây số. Chúng tôi được mời dự họp. Khi có giấy báo, Thư và tôi lên gặp bác sĩ B. để xin phép: “Cho phép cô Thư đi, còn cô Phượng ở nhà vì vô kỷ luật”. Tôi biết là sau vụ nhảy sông, ông ấy rất thù tôi. Tôi được tin là anh Nam cũng sẽ đến dự cuộc họp này. Tôi đã không gặp anh từ một năm nay. Gặp anh lần này, tôi đã có một bộ quân phục, một chiếc sơ mi lụa đàng hoàng. Bất kể lời cấm, tôi liều đi họp ở Hậu Hiền. Hơn hai trăm đoàn viên thanh niên toàn khu 4 đã đến đây. Những người bạn cũ tình cờ gặp lại nhau, những người bạn mới vui mừng quen biết nhau. Tôi gặp lại anh Nam, vẫn khỏe mạnh và dí dỏm như xưa. Nhưng cảm thấy hình như có một sự thay đổi nào đó trong cách nhìn của anh. Ngày đầu tiên, chúng tôi không có thì giờ để nói chuyện với nhau. Đến ngày thứ hai, vào lúc nghỉ giải lao, anh đến gần tôi: “Phượng ơi, anh muốn tối nay chúng ta gặp nhau. Anh có chuyện muốn nói với Phượng”. Tối hôm ấy chúng tôi ngồi trên bờ đê Hậu Hiền. “Em biết anh là con một. Nếu anh đi theo kháng chiến thì em phải ở nhà chăm lo cho thầy mẹ. Anh không thể bỏ mặc được. Nếu em đồng ý, anh sẽ thưa với mẹ anh ra Bạch Ngọc đón em về”. - “Em rất tiếc, không thể được. Em không thể trở về nhà anh ngay lúc này”. Anh Nam nói rất khẽ: “Nếu như vậy anh phải đồng ý kết hôn với một người khác do bố mẹ anh đã lựa”. Tôi như sét đánh ngang tai: “Thế còn chúng ta?” - “Anh còn bổn phận làm con, em ạ”. Chúng tôi trao đổi với nhau đến lúc mặt trời ửng hồng chiếu lên con đê. Tôi bắt đầu hiểu tình yêu đau khổ là như thế nào. Đau đớn đến nỗi không bước chân đi được. Hảo Thư khuyên tôi:“Thiếu chi đứa mê mi, kệ hắn!”. Khi đi Hậu Hiền, tôi như được tiếp thêm đôi cánh, lúc về hai chân nặng nề lê từng bước. Lại thêm canh cánh nỗi lo bị trừng phạt của tay bác sĩ đang trù dập mình. Tôi đã đoán không sai. Vừa bước vào phòng, những tia mắt ái ngại của bạn bè dõi theo. Thấy tôi, ông B. trợn mắt: “Vào xà lim!” rồi xốc mạnh tay tôi kéo vào một cái chuồng trâu gần đấy. Chuồng hội thối nồng nặc, tôi lùi lại. Tiếng hét: “Cho cô biết vô kỷ luật là bị trừng phạt như thế nào! Tôi đã cấm đi tại sao cô dám cãi lời?”. Ông ta đẩy mạnh tôi vào giữa chuồng và cài then lại. Có tiếng bóp mạnh ống khóa. Nằm chỏng chơ trên nền đất đầy phân trâu, có một chiếc chiếu và một chén nước. Quá mệt, tôi thiếp đi. Có tiếng thì thào: “Cố lên Phượng! Tụi mình sẽ gắng thuyết phục lão ấy”. Phan Đình Lượng, bạn học cũ, đã lén đem đến cho tôi hai củ khoai nướng. “Không, Lượng không cần nói với lão. Tôi muốn chết ở đây”. Mấy ngày liền không được tắm rửa, phải đại tiểu tiện trong một góc chuồng trâu, tôi thấy mình đã trở thành một con thú. Nhưng khi ông B. đến hỏi tôi: “Cô đã hối hận chưa?” - “Tôi không có sai lầm gì mà hối hận” - “Tôi đã cấm cô đi rồi mà” - “Tại sao bác sĩ cho phép Thư đi mà tôi lại không? Không công bằng”. Ông B. hạ giọng: “Cô xin lỗi tôi đi, rồi tôi tha”. Tôi hét lên: “Thà cắt lưỡi tôi còn hơn”. Người con gái hiền lành và ngây thơ thuở trước đã chết rồi. Khi ông ta đóng sập cánh cửa, tôi gào khóc thảm thiết vì phẫn uất. Ngày hôm sau ông lại đến: “Xin lỗi đi và tôi thả cô ra” - “Thà chết còn hơn”. Từ lúc đó, tôi cảm thấy ông ta bắt đầu sợ tôi. Bộ quân phục, thái độ hống hách, quyền thế, đã không làm tôi lùi bước. Tôi bắt đầu tuyệt thực, đổ thức ăn ra đất, quyết chết cho xong. Đến ngày thứ tư, Lượng đến rất sớm: “Bạn ngồi lên đi” - “Hãy để tôi yên!”. Lượng tiếp tục: “Lão đã ra lệnh thả bạn rồi” và nhẹ nhàng nâng tôi lên. Người tôi hôi thối, mái tóc dài rũ rượi, nồng nặc mùi phân trâu. Tôi tắm rất lâu ở sông Bạch Ngọc nhưng tóc vẫn có mùi nước tiểu. Mượn cây kéo của bác thợ may ở bến sông, chiều hôm ấy tôi bắt đầu cắt mớ tóc dài mà tôi yêu thương giữ gìn suốt những năm qua. Thả những lọn tóc dài xuống sông, tóc để lại những vệt đen giữa làn nước trong vắt. Khi đi trả chiếc kéo, nhìn vào gương, một khuôn mặt lạ lẫm nào đó đang nhìn lại tôi, đầu tròn xoe, tóc ngắn cũn cỡn, đôi mắt sáng trên khuôn mặt gầy guộc. Tôi bật cười. Bây giờ chỉ còn cần tìm một việc làm mới, bỏ nơi này mà đi. Một lần nữa số phận tôi lại chuyển đi một hướng khác. Một hôm, tôi gặp Trịnh Bá Hữu, bạn học cùng lớp với anh Nam, quê ở Nghệ An. Hữu đến bệnh viện thăm tôi. Hữu hỏi: “Ở đây không được tốt lắm à?” - “Không. Tôi ghét chỗ này lắm nhưng không biết đi đâu”. - “Hiện nay Bộ Quốc phòng đang kêu gọi những học sinh biết tiếng Pháp tập trung về Bộ để học làm thuốc nổ, Phượng có đi không?” - “Làm thuốc nổ là làm gì?” - “Tôi cũng không biết”. Rồi Hữu kể là khoảng hai chục bạn học khác đã ghi danh rồi. Tôi quyết định rất nhanh: “Tôi sẽ đi với Hữu” - “Tốt quá, mai đi nhé!” - “Mai đi!”. Hữu có mang theo những tờ đơn tình nguyện của Bộ Quốc phòng, Hảo Thư và tôi ghi ngay vào đơn. Hai bạn học cũ cùng ở Quân Y Vụ Liên khu 4 cũng ghi theo chúng tôi. Sáng hôm sau, chúng tôi đến gặp bác sĩ H.V.B, ông đỏ mặt tía tai hét lên: “Kẻ nào dám đến đây rủ rê nhân viên của tôi?”. Hữu bình tĩnh: “Chúng tôi là bạn học cùng trường, biết tiếng Pháp thông thạo. Bộ Quốc phòng nghĩ rằng những bạn này sẽ đóng góp được nhiều”. H.V.B dịu giọng: “Để tôi suy nghĩ đã”. Ông ra lệnh cho mọi người rời khỏi phòng và giữ tôi lại. Cửa phòng vừa khép, bỗng ông ta quỳ sụp xuống, níu tay tôi: “Em ơi đừng đi! Anh muốn kết hôn với em. Em sẽ có một cuộc sống đầy đủ. Anh hành hạ em bởi vì anh quá ghen. Vì anh biết rằng chồng chưa cưới của em có đến cuộc họp Thanh Niên ấy”. Ông ta lắp bắp, vừa nói vừa áp sát vào tôi. Với tay chộp một khúc tre gần đấy, tôi nện một phát vào đầu ông ta. Ông ta loạng choạng, tôi mở cửa thoát thân. chế tạo thuốc nổ “Trời ơi, tiếng gõ ám hiệu của anh Nam khi chúng tôi kín đáo muốn gặp nhau ở Huế?”. Tôi giật cánh cửa ra. Anh Nam đứng đấy, bên cạnh là chiếc xe đạp, mặt mày hốc hác. Tôi trân trân nhìn anh, không còn hiểu việc gì đã xảy ra. Tháng 8 năm 1947, chúng tôi về đầu quân tại “Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Yên Sơn chi nhánh Liên khu 4” thuộc “Nha Nghiên cứu Kỹ thuật Bộ Quốc phòng Việt Bắc”, gọi tắt là NCKT Yên Sơn. Những mái nhà tranh đều xây ven sông. Một nhà dành cho nữ, thực ra là chỉ có hai chúng tôi, một nhà dành cho nam, một nhà dành cho các anh lãnh đạo và kỹ sư. Những nhà khác dùng làm phòng Nghiên cứu, phòng Bào chế. Nói là phòng Bào chế cho oai nhưng thực tế chỉ có một cái bàn tre lớn và vài cái ống nghiệm. Người lãnh đạo chúng tôi là anh Thúy Liễu, một cử nhân vật lý, người điềm đạm, cực kỳ thông minh. Hàng ngày chúng tôi quây quần quanh một chiếc bàn tre, anh Liễu từ tốn mở những quyển sách Chimie et Explosifs (Hóa học và Chất nổ) của Berthollet và Howard, và bắt đầu giảng. Bốn mươi người chúng tôi được chia ra nhiều nhóm để pha chế fulminate, một chất nổ cực nhạy dùng để kích hoạt ngòi nổ. Những lời chỉ dẫn thật ngắn gọn. Như đọc một quyển sách tập nấu ăn, tôi học tỉ mỉ cách pha chế. Ngay trang đầu, đã có hai dòng chữ: “Hai gramme fulminate = một mạng sống”, nói một cách khác nếu để hai gramme fulminate nổ lên là toi đi một sinh mạng! Trong mỗi phòng rộng khoảng 20 mét vuông, chúng tôi ngồi trên một bục gỗ cao cao, trước mặt là một cái bàn tre lớn. Sát ngay bàn là một hầm sâu khoảng một mét rưỡi. Nếu thấy một tia chớp lóe lên phải lập tức gạt cả bàn xuống hầm và chạy thoát ra ngoài. Chất fulminate sắp hình thành sau các phản ứng hóa học sẽ thoát lên những làn khói trắng đục. Hết làn khói trắng, một loại bột màu xám nhạt đọng lại trong bình. Dùng một chiếc lông ngỗng, chúng tôi nhẹ nhàng đảo bột cho đến khi khô hẳn. Đồng thời, phải rất chú ý đến tiếng máy bay Pháp luôn rè rè do thám trên trời. Những ngày đầu tôi vừa làm vừa run. Nhưng sau khi tổ fulminate đã chuyển được hai kilô thuốc nổ lên Cục Quân giới thì cuộc sống lại đi vào nề nếp. Tiếng kẻng gọi chúng tôi dậy lúc 6 giờ. Ra sông tắm, tập thể dục tập thể. Bữa ăn sáng thường là xôi với muối mè, mỗi người một chén. Ăn rất nhanh rồi người nào người nấy lại “chui” vào “Phòng Bào chế” của mình. Ngoài giờ làm việc, chúng tôi kéo nhau ra sông Lô. Ở bến đò có gia đình anh Lịch. Khi thấy anh Lịch treo một cái sào phất phơ một túm vải, chúng tôi biết là gia đình đã câu được cá và muốn bán. Không còn nhớ là vợ anh Lịch đẹp hay con gái anh Lịch đẹp mà mấy chàng trai ở chỗ chúng tôi cứ như bị hớp hồn. Mỗi chiều, đầu thấm nước chải bóng, áo quần phẳng phiu, dép cao su tề chỉnh, mấy anh chàng chậm rãi, điệu đàng, phớn phở rảo bước xuống bến sông. Mỗi tuần vào ba buổi tối, chúng tôi đi dạy bình dân học vụ cho những gia đình trong làng. Tôi nhớ hình ảnh một gian nhà tranh, ánh đèn dầu lập lòe, các em bé ngồi xếp bằng dưới đất, mắt chăm chú nhìn lên các cô thầy giáo của Nha. Bố mẹ các cháu cũng tề tựu xung quanh những đêm học, có người còn lẩm bẩm đọc theo. Nha NCKT Yên Sơn còn hợp tác với một Viện Bào chế đóng gần đấy. Bác Uyển, giám đốc Viện là một dược sĩ giàu có ở Huế, đã tình nguyện đi theo kháng chiến với hai cô con gái. Khối anh ở Nha mê tít hai cô gái Huế xinh đẹp, trẻ trung, dịu dàng kia, nhưng bác Uyển gái giữ chặt hai tiểu thư lắm, rất khó gần. Và như một điều tất nhiên, chúng tôi lại viết kịch, lại tự biên tự diễn, khán giả là đông đảo bà con các làng lân cận. Ánh sáng chỉ soi vừa đủ sân khấu và sẵn sàng tắt phụt ngay nếu có tiếng máy bay. Có lần, đèn thiếu dầu, sân khấu tù mù. Có tiếng hét dưới sân khấu: “Ai ra diễn đó? Cho coi cái mặt nào!”. Thế là ngọn đèn dầu được dí sát vào mặt diễn viên. Tiếng vỗ tay hoan hô vang dậy. Những buổi chiều, chúng tôi tổ chức đá banh, đánh bóng chuyền, thi bơi có thưởng... Ngày chỉ một bát cơm, một bát xôi, vài củ khoai nhưng không có điều gì làm chúng tôi bận tâm. Xung quanh vùng Liên khu 4 có vài xưởng chế tạo hoặc sản xuất vũ khí nên đã có những cuộc viếng thăm nhau của gia đình quân giới thật đầm ấm. Nhưng dù đã hết sức thận trọng, một tai nạn đã xảy ra. Sáng hôm ấy, Phan Thanh Nam và tôi đến phiên sấy khô một lượng lớn bột fulminate vừa mới kết tủa xong. Đến 8 giờ sáng, tôi dặn Nam đổ fulminate còn ẩm ra bàn, chuẩn bị sẵn lông ngỗng để đảo thuốc. Vừa rời khỏi phòng, tôi định đi lấy hai chén xôi ăn sáng của hai đứa. Chưa kịp vào bếp, một tiếng nổ vang dội làm mọi người chạy ùa ra. Mái tranh của phòng fulminate bùng cháy. Như một cây đuốc sống, Nam lảo đảo chạy ra ngoài rồi ngã gục xuống. Lấy chăn, chiếu, vải trùm lên người Nam, chúng tôi cố gắng dập tắt lửa. Cả thân người Nam cháy đen, may mắn sao nhờ có đôi kính cận không lúc nào rời nên fulminate chỉ bám chặt vào hai mắt kính dày đặc, xám xịt. Tôi vứt mắt kính của Nam ra. Chiếc đò của chị Lịch được huy động ngay để đưa Nam đi bệnh viện Tràng Xảo. Trên chiếc đò, suốt đêm Nam rên la quằn quại đau đớn. Chúng tôi quạt cho Nam không rời tay. May mắn thay là sự săn sóc tuyệt vời của các bác sĩ thời ấy cùng với sức trai trẻ và nghị lực của mình, hai tháng sau Nam trở về với chúng tôi, lành lặn. Từ bến đò Yên Sơn bước lên, anh chàng Nam hồng hào, da không một vết sẹo, giơ bàn tay phải lên vẫy vẫy. Mọi người ùa ra. Hai cô con gái xinh đẹp của dược sĩ Uyển là những người đầu tiên đón người hùng trở về. Sau hòa bình, chúng tôi gặp nhau. Nam không tiếp tục ở ngành Quân giới và đã trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng. Ca khúc “Lá cờ Tháng Tám”, “Tung bay là tung bay, cờ đỏ sao vàng” của anh được cả nước cùng hát. Cứ tưởng rằng cuộc sống êm đềm xen lẫn với hiểm nguy tại Yên Sơn là nơi tôi dừng chân nhưng sao Thiên Di của đời tôi chưa cho phép. Đầu năm 1948, anh Hoàng Đình Phu, giám đốc Nha Nghiên cứu Kỹ thuật (NCKT) Bộ Quốc phòng đến thăm chi nhánh Yên Sơn. Cùng đi với anh là người vợ mới cưới, chị Lê, một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, xinh đẹp, hiền lành mà anh mới đón từ quê chị ở Hà Tĩnh. Sáng hôm sau, anh Liễu gọi bốn nam thanh niên và tôi và ra lệnh chuẩn bị ra cơ quan NCKT Việt Bắc. Chúng tôi chẳng kịp có thì giờ để tạm biệt bạn bè. Tám người chèo thuyền - tất cả đều là bộ đội cải trang như dân đánh cá, bắt đầu ngược sông Lỗ. Nơi nào dòng nước chảy xiết, chúng tôi lại lên bộ và đi dọc sông. Hễ có tiếng máy bay là lập tức tản ra núp hai bên vệ đường. Có khi phải nằm phục tại chỗ cả một ngày liền. Sau khi rời sông Lô, chúng tôi đi bộ đến Đầm Hồng. Ở đấy có một đầu tàu xe lửa chạy bằng than và vài toa xe trước kia đã dùng để chở quặng thiếc. Chúng tôi leo lên các toa, reo mừng ầm ĩ khi xe lửa bắt đầu chạy. Tôn Thất Hiền gào lên: “Thoải mái quá!”. Đầu tàu xình xịch chạy khoảng vài chục cây số thì dừng hẳn lại vì thiếu chất đốt. Chúng tôi tỏa ra khắp rừng tìm đủ loại, củi khô, lau khô, tre khô và đút ào từng đống vào lò. Cái đầu tàu lại ì ạch chạy tiếp những cây số còn lại. Dọc đường, nhiều em bé bán quà vặt chạy theo mời chúng tôi. Anh Phu cho mỗi đứa một tấm mía, ngọt ngon đến tận bây giờ. Ba mươi sáu cây số sau, đến Bản Thi. Con tàu phì phò trở lại Đầm Hồng. Chúng tôi bắt đầu leo núi. Dốc dựng đứng, cỏ tranh cao vượt đầu người. Những mỏm đá sắc nhọn có thể đâm thủng đôi dép cao su trường chinh. Bỗng nhiên lộ ra một lối mòn rộng hơn, cây cỏ xung quanh bị đè bẹp dí. Tất cả chúng tôi rời vách núi đá, chạy ùa vào. Nhưng chỉ vài bước, một mùi thối kinh khủng xông lên. Dưới đất, vô số xương động vật nằm rải rác. Một người hét lên: “Hang cọp! Hang cọp! Trốn ngay!”. Chúng tôi ù té chạy lui về con đường mòn đầy đá nhọn. Sau này nghe kể lại, các anh chị ở Khe Khao mừng cho chúng tôi mãi. Thật hú vía... Tháng 3 năm 1948, chúng tôi đến đỉnh núi Khe Khao. Trước kia là một mỏ thiếc do người Pháp khai thác, còn trong những năm ấy Khe Khao đã trở thành trung tâm nghiên cứu về vũ khí của Bộ Quốc phòng. Vết tích của mỏ thiếc để lại là ba ngôi nhà chính ở liền nhau và vài ngôi nhà khác rải rác trên đỉnh núi. Tất cả được xây bằng gạch, mái lợp ngói hay lợp đá phiến đen. Lâu lắm rồi mới được ngủ lại trong một ngôi nhà bằng gạch. Nền được lát gạch nung nhưng lạnh quá nên chúng tôi phải làm những chiếc giường bằng tre đặt trên những chiếc bục cao. Nha NCKT có khoảng năm chục anh chị em. Khoảng ba chục kỹ sư và sinh viên thuộc Đại học Đông Dương ở Hà Nội trước kia, những học sinh như chúng tôi và một số công nhân là thợ mỏ ở Khe Khao cũ. Chúng tôi làm việc trực tiếp dưới quyền các anh Trần Đại Nghĩa, Phạm Đồng Điện, Bùi Minh Tiêu, Nguyễn Đức Thừa, Nguyễn Trinh Tiếp, Tôn Thất Hoàng. Việc sản xuất fulminate tiến hành thuận lợi hơn, không quá hồi hộp lo âu như hồi ở Yên Sơn. Ban ngày ở Khe Khao trời xanh, mây trắng, suối nước hùng vĩ, su su mọc đây giàn. Nhưng đêm ở Khe Khao lại là chuyện khác. Khi gió nổi lên, sấm chớp xẻ ngang dọc bầu trời, tiếng sấm nổ như tiếng đại bác. Tôi trùm chăn kín mít. Bên ngoài vẳng tiếng í ới gọi nhau ra xem cảnh sét đánh chớp nhòa. Trên đỉnh Khe Khao có mỏ thiếc, nên những cảnh kinh hoàng ấy vẫn thỉnh thoảng xảy ra. Nằm cheo leo trên đỉnh núi nên việc tiếp tế vô cùng khó khăn. Thêm vào đấy, cọp đã quen ăn thịt gia súc hay lảng vảng gần đấy. Đặc sản núi rừng Khe Khao là rau “tàu bay”, một loại rau mọc ngút ngàn khắp sườn núi. Nghe đồn là ăn vào thì mất máu nhưng chúng tôi còn trẻ nên khi những đọt su su chưa kịp mọc tiếp thì nhà ăn xanh rờn những đĩa rau tàu bay luộc. Mọi người đều thấy khỏe mạnh như thường. Tôi gặp lại dượng Phan Tây của tôi tại Nha NCKT. Dượng là chính trị viên của Nha. Rất nghiêm túc, dượng cố tỏ ra không ưu tiên đặc biệt gì cho cháu gái mình. Vài tháng sau dượng hỏi tôi: “Con muốn vào Đảng không? Dượng sẽ là người giới thiệu cho con” - “Con sợ Đảng lắm”. Dượng hỏi: “Tại sao?”. Tôi kể lại cho dượng nghe về cái ấn tượng khi đảng viên bác sĩ H.V.B giương đôi mắt ốc nhồi, mặt đỏ gay lắp bắp nói với tôi vài câu... Dượng nhún vai: “Sao con dại thế?” rồi bỏ đi. Sau khi người Pháp đóng cửa mỏ, những anh em thợ còn ở lại Khe Khao xin làm việc tại Nha. Con cái họ đều không biết chữ. Mỗi đêm chúng tôi phân công nhau đi dạy chữ cho các em, tình nghĩa gắn bó như ruột thịt. Viết lại những dòng này, những kỷ niệm đẹp về tình nghĩa con người đối với nhau ùa về. Hy vọng có một ngày nào đó những anh chị em trong NCKT Khe Khao hay các cháu thế hệ sau, khi đọc những dòng hồi ký này sẽ không bao giờ quên nhau... Tôi nhớ một bài hát mà Hồ Thanh Kha, Vũ Mão và tôi đã đồng ca: “Bao giờ xa cách nhớ nhau nhé. Bao giờ anh trở về Trên đỉnh núi xa xôi này!” Đây nghĩa tình, rất nhiều năm sau Vũ Mão và các con đã lên thăm lại Khe Khao, có cả Hồ Thanh Kha cùng đi. Riêng tôi, đành chịu vì sức khỏe không cho phép. Mỗi lần gặp nhau là mỗi lần thấy ấm áp trong lòng. Kỷ luật sống ở Nha rất nề nếp. 5 giờ sáng là giường chiếu phải xếp gọn gàng. Chỉ cần một lệnh báo động nhỏ là phải nhanh chóng thu xếp và sẵn sàng chờ lệnh. Phần lớn máy móc được giấu kín trong các hang đá xung quanh. Những con đường mòn đi đến hang đều được ngụy trang bằng lan rừng. Mỗi tuần thường có một hai lần thực tập báo động. Chỉ khoảng 5 phút sau ai nấy đều vào vị trí của mình. Những sách và tài liệu viết bằng tiếng Pháp về hóa chất, về thuốc nổ v.v... mỗi người đều phải chép lại và chỉ dùng bản sao viết tay của mình. Những tài liệu gốc quý hiếm đều được đóng thùng, giấu cẩn thận trong hang. Tôi may mắn tìm được một quyển tự điển tiếng Pháp Larousse, bìa đã rách tả tơi. Chắc là chủ mỏ thiếc vứt lại. Mỗi tối tôi đọc một trang rồi dần dần học thuộc lòng trang ấy, nhất là những Trang Vàng viết về những danh nhân nổi tiếng thế giới. Nhờ vậy, khi hỏi tôi là tướng Napoleon sinh năm nào hay thi sĩ Baudelaire có những bài thơ hay nào v.v... tôi trả lời trôi chảy. Có người ngạc nhiên về sự “thông thái” này! Rừng Khe Khao có rất nhiều bưởi dại cam dại. Múi thì chua và đắng không ăn được nhưng hạt thì rất có ích. Chỉ cần phơi khô và xâu vào một que tre là có một cái đèn ánh sáng xanh, chỉ tội là cứ lập lòe và khói tỏa đen sì. Anh Phu quyết định làm một tờ báo tường lấy tên “Đùng” và giao cho tôi phần thúc giục anh em viết bài, sắp xếp các bài và phải ra đều đặn mỗi tháng một số. Kết quả không ngờ là báo được anh em tham gia nhiệt tình. Ngoài những bài dài nghiêm túc thỉnh thoảng lại xen vào mấy chữ: “Ngày 15 tháng này tôi đi Tuyên Quang, ai mua gì thì gởi. Ký tên Dương”. Chi chít ở phía dưới là: “Mua cho tôi 1 cái lược. Ký tên Thu”. Hay: “Tìm cho tớ một cô gái Tuyên Quang thật đẹp. Ký tên X”. Tôi thì ghi: “Tìm mua dùm tôi một cái gýõng soi” v.v... và v.v... Ngày tờ báo “Đùng” được treo trước cửa nhà ăn bao giờ cũng là một ngày vui. Tôi còn nhớ anh Nho, một sinh viên trường Y ở Hà Nội trước 1945, nay làm ở phòng Xạ thuật. Hễ thấy bóng tôi là anh ấy bỏ đi. Anh cười khì khì: “Tôi thấy em đến là sợ”. Tôi vẫn tiếp tục mè nheo bài viết báo với anh. Rồi đến một sáng nọ anh ấy cười cười giơ cho tôi một trang giấy đầy chữ: “Đây nhé. Đăng ngay đi!”. Tôi mở tờ giấy ra. Nho viết: “Hãy hút thuốc lá JOB hay là không hút thuốc! Hãy hút thuốc lá JOB hay là không hút thuốc! Hãy hút thuốc lá JOB hay là không hút thuốc!...” Cứ thế 35 hàng chữ đặc cả trang giấy trắng. Tôi chạy đi tìm anh, anh lủi mất. Mục đích của tờ báo là phản ảnh đời sống và sinh hoạt của anh chị em trong Nha. Nhiều tin ngắn rất được chào đón: “Sáng nay đồng chí Khải bắn được một con nai”. Chi chít ở phía dưới là những dòng: “Hoan hô Khải, bao giờ thì thịt?” hay “Làm tái lăn hay ninh nhừ?”. Mê nhất là chuyện các anh được về Tuyên Quang tức là được “hạ sơn” kể về những quán cà phê, những quán ăn. Nổi bật nhất có quán “Cô Hạ” mà ai đến Tuyên Quang đều phải ghé vào. Anh Bùi Minh Tiêu viết: “Vừa bước vào, cô Hạ đã vuốt vai tôi, khiếp, lạnh toát cả người. Rồi em dắt tôi vào gian trong, chỉ lên một cái áo len đang treo trên tường. Nàng nhanh nhảu hạ xuống, tự tay mình mặc cho tôi. Vuốt vuốt cái áo len, Hạ ta vừa cười vừa khen: “Đẹp! Đẹp!”. Thế là anh Tiêu đi đứt hai tháng sinh hoạt phí. Chỉ chừng hai giờ đồng hồ sau, dưới bài báo đã có hàng chục câu bình luận: “Dại cho chết!”, “Phí cả tiền!”, “Sau đó có gặp lại không?”. Tiếc là những tờ báo “Đùng” ấy đã lạc mất trong kháng chiến. Chủ nhật nào nước suối Khe Khao mát lạnh, trong vắt cũng bị vẩn đục, đen ngòm vì quần áo dính thuốc súng, dính diêm tiêu. Chúng tôi nhảy xuống dòng nước lạnh cóng 12 độ, tắm rửa thỏa thích, phớt lờ tiếng máy bay thỉnh thoảng rè rè lượn trên đầu. Chủ nhật cũng đem lại cho chúng tôi một thú vui khác. Đầu tháng trong túi có một ít tiền sinh hoạt phí là náo nức kéo nhau lũ lượt xuống 7 cây số đường dốc. Bát phở chua của ông Tàu bụng phệ ở Đầm Hồng đang chờ chúng tôi. Đến chiều, leo dốc trở về thì bụng đã đói meo. Có một kỷ niệm khó quên với các anh bên Bộ Quốc phòng. Ba anh cưỡi ba con ngựa lên thăm Nha. Chúng tôi đốt lửa trại, ca hát, ngâm thơ thật rôm rả. Chuyện trò thâu đêm. Ba anh quyết định ngủ lại Khe Khao. Sáng hôm sau, khi ra cửa hang, đến nơi buộc mấy con ngựa thì hai con đã bị cọp về trong đêm, mỗi con chỉ còn lại một nửa thân. Con ngựa lùn hơn nằm xệp xuống, run lẩy bẩy. Đút cỏ vào miệng, ngựa vẫn run và tối hôm ấy nó chết. Báo “Đùng” có dịp để đưa tin tức nóng hổi. Anh Thái, một tay săn thú nổi tiếng bày mưu kế: “Lấy một cái đùi ngựa đặt trước hang và núp trong hang chờ cọp đến”. Bốn người núp trong hang với hai cây súng và sáu viên đạn. Có tiếng nổ trong đêm. Tờ mờ sáng, gặp bốn chàng đi săn cọp tiu nghỉu trở về. Trong khi họ ngủ thiếp đi, con cọp đã vô mất cái đùi ngựa to tướng! Còn lại thịt của một con ngựa rưỡi, anh Phạm Đồng Điện bảo tôi: “Em nấu ăn giỏi lắm. Hãy làm thật ngon món thịt ngựa này đi nhé”. Nhưng thịt con ngựa già này càng đun càng cứng, không ai nhai nổi. Người địa phương Khe Khao bày cách: “Lóc thịt ra từng miếng rồi treo hong khói trên bếp”. Món thịt ngựa khô này lại dễ ăn hơn và sau đó chỉ để dành để đãi khách. Mùa Đông năm 1948, Khe Khao rét dữ dội. Buổi sáng mây phủ mờ lối đi, cách nhau vài mét là mịt mùng. Để bớt cóng, các tiên ông tiên bà chỉ còn một cách: rủ nhau chạy nhiều vòng xung quanh nhà và hái lá rừng đun nước nóng để uống. Hết gạo, chúng tôi đi tìm củ mài và ăn rất nhiều su su luộc, một loại quả mọc chi chít nặng trĩu giàn. Trời về chiều mây lại ùn ùn kéo về, càng lạnh buốt. Những đàn muỗi rừng bắt đầu bay vào nhà tấn công. Chúng tôi đốt lửa hun khói, mặt người nào người nấy lấm tấm đỏ như bị châm kim. Thời gian này, tôi có dịp hiểu thêm về anh Tôn Thất Hoàng. Anh đã làm tôi chú ý vì con người đàng hoàng nghiêm túc và tôi cảm thấy có một sự săn sóc kín đáo của anh đối với tôi khi tôi được phân công làm những công việc nguy hiểm như làm mìn nổ chậm, mìn hẹn giờ hay sấy thuốc nổ. Anh hơn tôi bảy tuổi, học đến năm thứ ba khoa Vật lý tại trường Đại học Khoa học Hà Nội. Năm 1945 anh trở lại Huế và gia nhập trường Thanh niên Tiền tuyến. Anh sinh ra trong một gia đình hoàng tộc, ông cụ là thượng thư triều đình Huế. Cùng với một em trai và một em gái, ba người rời bỏ mọi tiện nghi trong ngôi biệt thự rất sang trọng bên bờ sông Hương và cùng tham gia kháng chiến. Một buổi sáng nọ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng vợ, chị Bích Hà, lên thăm Nha và làm việc hai ngày. Thấy điều kiện ăn ở của chúng tôi, anh Giáp lắc đầu trầm ngâm. Chỉ khoảng vài tháng sau, Nha NCKT nhận được lệnh của Bộ Quốc phòng cho chúng tôi rời Khe Khao về Tuyên Quang. Vào tháng 9 năm 1948, chúng tôi cấp tốc rời Khe Khao để về Đồng Chiêm thuộc Tuyên Quang. Ở đấy điều kiện sống đã dễ dàng hơn. Chúng tôi có đất và tự trồng khoai sắn. Thuyền bè đi lại tấp nập trên sông Lô cung cấp cho chúng tôi nguồn tiếp tế dồi dào. Nha NCKT phát triển rộng ra. Người tình nguyện từ các nơi đổ về. Các phòng chuyên môn cũng được thành lập. Chúng tôi đã có một máy phát điện chạy bằng than. Có điện có cảm giác như được hồi sinh. Máy bay Pháp cũng ít bay do thám. Rừng Tuyên Quang có rất nhiều cây dứa dại. Một người dân Cao Lan bày tôi chặt các thân cây lớn, kéo lê ra bờ sông ngâm nước hàng tháng liền. Thịt thân cây rã ra còn lại chằng chịt những thở sợi. Sau khi phơi khô, nối lại thành cuộn, tôi bắt đầu đan những chiếc áo ấm và đem bán cho bà con Cao Lan để đổi lại mía, bắp và bột sắn. Với khả năng đan lát và làm bánh học từ thời ở trường Bồ Câu Trắng, tôi làm những chiếc bánh bông lan, bà con ăn ai cũng khen. Cái khổ nhất vẫn là vấn đề thiếu muối. Buổi sáng tỉnh dậy mở mắt không nổi vì hai mí mắt sưng phù. Cả ngày người cứ vật vờ lảo đảo. Muối để dành ưu tiên cho quân đội. Là cơ quan nghiên cứu, chúng tôi mỗi ngày được phát mỗi người ba viên muối mỏ xám ngoét, mặn chát. Mỗi buổi sáng chỉ đặt lên lưỡi một lần cho cảm thấy mùi mặn. Sau đó lấy giấy gói lại để nhấm nháp vào những buổi sau. Buổi ăn trưa thường là một nắm cơm với măng chua và thỉnh thoảng có thêm cá nếu ai đi câu được. Chúng tôi còn dựng những gian nhà “Hạnh Phúc” để dành cho các chị từ vùng Pháp tạm chiếm đóng vượt đường xa lên thăm chồng. Tối nào đi qua những gian phòng ấy chúng tôi cũng huýt sáo âm ĩ hoặc vỗ tay náo động cả vùng. Cửa lớn cửa sổ của những gian phòng “hạnh phúc” lập tức đóng sập xuống, không ai dám thò đầu ra. Một ngày nọ, anh Lưu, làm ở ban Cơ khí, muốn gởi ảnh cho vợ mình, hiện ở vùng tạm chiếm. Không biết anh tìm đâu ra một cái máy ảnh và hỏi: “Tụi bây có đứa nào biết chụp ảnh không?”. Tôi bỗng cao hứng: “Đưa đây em chụp cho”. Anh Lưu đứng dưới một bụi tre um tùm, tay chống nạnh, chân dạng ra, đầu đội mũ chào mào trông rất oai vệ. Tôi giơ máy ảnh lên rồi liều chụp đại một cái. Đến khi đem ảnh rửa từ thị xã Tuyên Quang về thì chỉ thấy ảnh anh Lưu từ thắt lưng trở xuống. Tôi trốn biệt không dám nhìn mặt anh. Sau này, chị Lưu lên thăm, anh đưa ảnh cho chị ấy xem. Một lần gặp tôi ở nhà ăn, chị nhìn đăm đăm vào tôi rồi liếc mắt nhìn anh Lưu, tủm tỉm cười. Phòng ngủ của chúng tôi là một mái nhà tranh, phía dưới là nhà ăn với hơn chục bàn tre nhỏ. Chúng tôi nằm trên một sàn thay giường làm bằng những thanh nứa to bản, đập giập. Nam ở phía bên trái, nữ ở bên phải, ngăn cách nhau bằng một tấm liếp. Mỗi tối chuyện trò, chọc phá nhau, hát hò cho nhau nghe qua tấm vách ngăn, náo động cả xung quanh. Sống gần gũi như vậy, nguy hiểm luôn luôn gần kề, nhưng tình bạn giữa chúng tôi vô cùng thân thiết, trong sáng, hết lòng vì nhau. Một tình cảm quý báu mà chúng tôi giữ đến tận bây giờ. Vài chục năm sau, về Hà Nội, vợ chồng tôi hay tổ chức những cuộc họp mặt NCKT vào ngày mùng 2 Tết. Tôi mượn nhà trẻ của khu tập thể 1 Lê Phụng Hiểu. Một gian phòng rộng rãi, bàn ghế sẵn sàng, nền lát gạch hoa, cửa kính, cửa chớp đầy đủ. Chúng tôi đều cố gắng có mặt. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, chuyện trò tíu tít. Mấy bà vợ đi theo nhận xét: “Mấy ông bà này hồi xưa mà không yêu nhau, thật là lạ. Chẳng tin”. Ngày 4 tháng 2 năm 1949, hai bạn Phan Thượng Trí và Trần Duy Lượng đang cùng tôi nhồi thuốc nổ vào lựu đạn. Lượng là em bác sĩ Trần Duy Hưng, người đã săn sóc sức khỏe cho Bác Hồ trong những năm ở chiến khu. Lượng tính hiền lành, ít nói, hay nhỏ nhẹ tâm sự về thời ở Hà Nội, khi bác sĩ Trần Duy Hưng có một phòng mạch riêng rất nổi tiếng. Trí và tôi cùng làm việc trong phòng Hóa chất của anh Phạm Đồng Điện, củ khoai, củ sắn đều chia nhau. Anh Điện gọi tôi về phòng Hóa chất. Tôi vừa quay lưng đi, một tiếng nổ chát chúa xé tai. Trí và Lượng nằm vật hai bên, máu me đầy người. Lượng nằm, mắt nhắm, máu khắp người. Trí run rẩy đưa lên một cánh tay đã mất hẳn bàn tay, máu trào ra. Chúng tôi xúm lại, người băng bỏ vết thương, người chuẩn bị đò để đưa đi bệnh viện. Bỗng có mấy giọt máu từ trên cao nhỏ xuống, tôi nhìn lên. Ba ngón tay của Trí còn dính vào một sợi dây điện, xanh tái và nhầy nhụa máu. Tôi ngất đi. Khi tỉnh dậy, thấy anh Hoàng đứng bên cạnh. Anh đưa cho tôi một ly nước. Tôi run rẩy, không nói nên lời. Rồi nước mắt cứ thế tuôn ra, nghẹn ngào, tức tưởi, đau đớn. Anh vuốt nhẹ mái tóc tôi, cúi xuống thầm thì: “Nín đi em! Nín đi em!”. Và tôi ngủ thiếp đi trong vòng tay anh. Tai nạn kinh hoàng này làm anh Hoàng và tôi thêm gần nhau. Tôi cần một bờ vai để nương tựa, để giúp tôi can đảm sống giữa những nguy hiểm đang rình rập xung quanh. Anh Hoàng Đình Phu là người chủ hôn. Chị Lê, vợ anh Phu, cho tôi mượn một cái áo dài màu xanh nhạt thay cho bộ quần áo nhàu nát hằng ngày. Anh Hoàng diện một bộ quân phục màu xanh đậm. Ngày 28 tháng 2 năm 1949, hội trường rộng rãi, lợp mái tranh, tường đất là nơi chúng tôi tổ chức lễ cưới. Tin chúng tôi kết hôn lan ra rất nhanh. Ở trên Bộ Quốc phòng, anh Tạ Quang Bửu, anh Trần Đại Nghĩa, anh Phan Hàm, anh Nguyễn Thương, anh Cao Văn Khánh và một số bạn khác gởi cho chúng tôi một bì thơ chúc mừng kèm 45 đồng do các anh đóng góp. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình lại giàu có đến thế, kể từ lúc thoát ly gia đình đi kháng chiến. Anh Phu cho giết một con trâu. Liên hoan tưng bừng. Tôi vô cùng hạnh phúc trong gia đình lớn của anh em bạn bè. Nhân dịp này, anh em trong Nha NCKT đã dựng cho chúng tôi một mái nhà tranh nằm sát sân đánh bóng chuyền. Trước cửa là một cây leo rừng có hoa trắng muốt. Hoa thả từng chùm chi chít. Hương thơm nhè nhẹ. Hai tháng sau, Lượng và Trí cũng từ bệnh viện trở về. Lượng còn xanh xao nhưng các vết thương đã lành. Trí cụt một bàn tay, may mắn là vết thương đã thành sẹo. Một hôm, anh Hoàng đưa về Nha một người ngoại quốc cao, gầy và giới thiệu với chúng tôi: “Xin giới thiệu anh Seigfried Wenzel, là một kỹ sư ngành Hàng không Đức, trước ở trong đội lính Lê dương. Anh đã tình nguyện làm việc cho Ban Nghiên cứu Không quân”. Ban Nghiên cứu Không quân lúc ấy chỉ vỏn vẹn có vài người do anh Hà Đổng làm giám đốc. Anh Wenzel trở thành người trợ thủ rất đắc lực và lấy tên là Nguyễn Đức Việt. Người vợ của anh da trắng nõn, mắt bồ câu, má hồng, có nụ cười rất tươi. Ai gặp hai vợ chồng anh giữa núi rừng Việt Bắc đều bảo nhau: “Cái lão Đức này tốt số!”. Nhà của chị Hà Đổng sát vách nhà chúng tôi. Nhà anh chị Đức Việt cách đấy không xa. Mỗi lần đến thăm, thấy anh đảm đương mọi việc nặng nhọc nhất ở nhà: bổ củi, vào rừng vác thân cây về sưởi, lợp lại mái nhà, dựng một chái bếp v.V... Anh Hà Đổng kể lại: “Vốn liếng đầu tiên của không quân là từ hai chiếc máy bay De Havilland Tiger Moth và chiếc Morane - Saulnier MS-343 thuộc sở hữu riêng của cố vấn Vĩnh Thụy tặng cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cuối năm 1945. Máy bay được tháo cánh chở bằng tàu hỏa từ Huế ra Hà Nội và chuyển về sân bay Tông tạm cất giữ. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay tiếp tục được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (Tuyên Quang). Trong quá trình vận chuyển, bị máy bay Pháp phát hiện và bắn phá, nên cả hai chiếc máy bay đều bị hư hỏng ít nhiều. Tuy nhiên, do không có điều kiện bảo dưỡng nên sau chuyến bay thực tập đầu tiên tại Ban Nghiên cứu Không quân, cả hai đều hư hỏng và chỉ được sử dụng làm buồng tập lái dưới mặt đất và mô hình học tập cho các học viên”. Sau này, tôi biết thêm tin tức gia đình anh Đức Việt: Anh chị có ba con gái, cháu nào cũng xinh đẹp. Sau 1954, anh được phép trở về Đức. Ngày chia tay, anh nói: “Xin tạm biệt. Tôi sẽ trở lại đón gia đình. Không bao giờ quên những năm nghĩa tình ở Đồng Chiêm”. Anh đã phải chờ 15 năm nữa. Năm 1969, mọi thủ tục đã hoàn thành. Anh đã có thể trở về đón vợ con. Chúng tôi đều náo nức đón chờ nhưng chỉ vài ngày trước khi trở lại, anh đã từ trần sau một tai nạn máy bay ở Đức. Tôi nghe không chính xác lắm là hình như cháu Hoa, cháu đầu lòng của anh chị đã qua Đức và thắp hương trên mộ người cha. Đồng Chiêm cũng để lại cho tôi hai kỷ niệm khó quên. Kỷ niệm thứ nhất: Chiều hôm ấy tôi về sớm vì bị ốm nghén cháu đầu lòng. Đang nằm nghỉ, bỗng có tiếng đập vào vách nửa, cứ ba nhịp, dừng, rồi hai nhịp, dừng, rồi ba nhịp. Tôi ngồi phắt dậy: “Trời ơi, tiếng gõ ám hiệu của anh Nam khi chúng tôi kín đáo muốn gặp nhau ở Huế!”. Tôi giật cánh cửa ra. Anh Nam đứng đấy, bên cạnh là chiếc xe đạp, mặt mày hốc hác. Tôi trân trân nhìn anh, không còn hiểu việc gì đã xảy ra. Chúng tôi ngồi dưới gốc cây có hoa trắng trước thềm. Anh Nam từ Nghệ An được tin rằng tôi đã lấy chồng. Anh không tin và đã đi bộ, đi xe đạp, đi thuyền để vượt gần 500 cây số lên Tuyên Quang tìm tôi. Tôi chỉ biết khóc. Giữa lúc đấy, anh Hoàng đi làm về. Vì trước kia anh biết chuyện giữa anh Nam và tôi và cũng đã nhiều lần khuyên bảo tôi. Nên khi anh Nam đến, anh tiếp đãi rất đàng hoàng, tử tế. Anh Nam và tôi chuyện trò cho đến tận tờ mờ sáng hôm sau. Anh trao cho tôi một bi đồng đựng mật ong và bảo: “Mẹ bảo anh gởi cho em vì biết em rất thích mật ong”. Tôi chỉ biết khóc, nghẹn ngào không nói nổi câu gì. Tôi tiễn anh Nam ra tận cổng rừng rồi nhìn mãi cho đến khi anh rẽ sang bên trái, bước xuống bến đò sông Lô. Anh Hoàng chờ tôi trước cửa nhà. Tôi thầm biết ơn anh rất thấu hiểu và độ lượng. Kỷ niệm thứ hai: Một sáng mùa đông, hoa trắng rụng đầy thềm. Tôi cầm chổi định ra quét sân, thì thấy một cậu bé nằm co quắp bên gốc cây. Quần áo màu xanh lá cây vấy bùn, rách rưới, da tái, hai mắt nhắm nghiền, thoi thóp thở. Tôi bế xốc em vào nhà, cho em uống nước đường và nước cháo lỏng. Ba ngày sau em vẫn sốt liên miên. Khi tỉnh lại em kể: “Em tên là Thám, trong đội Thiếu sinh quân, đang hành quân từ Tuyên Quang lên Bắc Cạn. Vì đi trong đêm và bị sốt cao nên em rớt lại dọc đường mà không ai biết”. Sự tình cờ đã đưa em Thám đến với gia đình chúng tôi. Dạo ấy tôi nuôi rất nhiều gà, không có chuồng, gà thả hoang trong rừng. Tối tối lại leo cây ngủ. Rất may là loại gà này thương chủ nên toàn đẻ ở các bụi cây. Mỗi sáng tôi đi nhặt cũng được vài chục trứng, có thêm chất tươi cải thiện cho bếp tập thể của Nha. Chính nguồn chất bổ này đã vực em Thám khỏe lại rất nhanh. Rồi đến ngày em từ giã chúng tôi về đội Thiếu sinh quân. Câu chuyện này xảy ra từ năm 1949. Mãi đến năm 1969 mới có hồi kết. Lúc bấy giờ tôi ở trong khu tập thể Bộ Tài chính số 1 Lê Phụng Hiểu, Hà Nội. Vừa đi làm về tôi nhận được một giấy báo ra lĩnh quà từ Liên Xô gởi về. Giấy báo sơ sài mấy dòng chữ: “Chị Phương, 1 Lê Phụng Hiểu, quà từ Liên Xô”. Tôi không quen biết ai ở Liên Xô, làm sao có quà gởi về được nên cũng để tờ giấy lại và quên luôn. Mười ngày sau, lại có một giấy báo thứ hai. Chị Ninh, người hàng xóm tốt bụng, khuyên tôi: “Thì chị cứ ra bưu điện xem sao. Mất gì đâu”. Bưu điện giao cho tôi một cái hộp to tướng và bắt tôi ký nhận. Tôi bảo: “Trong khu tập thể này rất nhiều người tên Phương. Tôi tên là Phượng, chắc là nhầm lẫn gì đấy”, và không ký. Mấy chục ngày sau, lại có một giấy báo thứ ba, ghi rõ: “Chị Phượng, năm 48-49 ở Đồng Chiêm, Tuyên Quang”. Đích thị là tôi rồi. Khi mở thùng quà ra, ngạc nhiên biết bao khi thấy một cái quạt tai voi to tướng! Hồi ấy, quạt tai voi là một món quà cực kỳ quý báu mà tôi không dám mơ tưởng. Cánh quạt bằng cao su, tốc độ quay rất nhanh và rất mát, giá khá cao, không dành riêng cho những gia đình có thu nhập khiêm tốn như chúng tôi. Một lá thư nhỏ đính kèm: “Chị Phượng thương mến của em. Từ bao năm nay em tìm chị. Tưởng chừng không thể nào gặp lại được nhau. Ai ngờ vừa rồi em gặp anh Kinh, là cháu ruột anh Hoàng, qua học tại Mạc Tư Khoa, mới được biết tin tức của anh chị và các cháu. Em biết là bên nhà rất cần loại quạt này nên xin gởi biếu anh chị một cái. Hẹn ngày gặp nhau tại Hà Nội. Em Thám”. Câu chuyện này kết cũng rất có hậu: Cái quạt tai voi đã giúp cho tôi đêm đêm đỡ phải quạt bằng tay cho các con những đêm Hà Nội nóng bức. Thám gặp lại chúng tôi. Chàng sĩ quan cấp tá vạm vỡ, quân phục chỉnh tề, ôm chặt tôi vào lòng. Tình chị em chúng tôi gắn bó đến tận bây giờ. Em hiện nay đã lên cấp tướng, vẫn đều đặn hàng năm quà cáp cho anh chị và các cháu. sinh con đầu lòng Sau những cơn rặn khủng khiếp thì nghe bác ấy thốt lên: “Cái đầu nó đây rồi. Gắng lên con”. Tiếng khóc oe oe vang lên giữa sông. Đứa con đầu lòng của tôi ! Tối 13 tháng 12 năm 1949. Anh Hoàng từ Bộ Tổng Tham Mưu được phép về thăm nhà trước lúc chuẩn bị sang Trung Quốc công tác gấp. Trời mưa tầm tã, anh phải bơi qua ba con suối, nước đang ào ào dâng lên. Trong gian nhà nhỏ lạnh buốt, khói củi sưởi tỏa lên mù mịt, tôi khóc. Không biết từ nay mình sẽ sống ra sao khi vắng anh. Anh im lặng, ngắm nhìn ngọn lửa. Đêm sau, tôi đang ngủ bỗng thấy đau bụng dữ dội. Tôi lay anh dậy: “Có lẽ em chuyển bụng mất rồi”. Anh Hoàng ôm tôi: “Em gắng lên, để sáng mai rồi ta lo liệu”. Tôi vâng lời anh nằm im. Cho đến 3 giờ sáng, cơn đau tiếp tục dữ dội, tôi chịu không nổi nữa, khóc to lên. Chị Hà Đổng ở gian nhà bên cạnh chạy vội qua: “Anh Hoàng ơi, phải đưa gấp chị Phượng đi bệnh viện, chị sắp sinh rồi”. Chúng tôi luống cuống, cả hai vợ chồng không biết phải làm sao. Chị Hà Đổng băng đồi chạy qua các nhà xung quanh đánh thức mọi người. Rất nhanh sau đó, tôi được đặt lên một cái võng, có luồn một đòn tre. Anh Phú và anh Cơ mỗi người khiêng một đầu đòn gánh. Có thêm hai anh cùng đi theo tiếp sức. Anh Hoàng đi đầu, tay cầm đuốc, tay cầm dao để phạt cây rừng. Tôi nằm lắc lư trong võng, bụng co thắt dữ dội, nước ối đã bắt đầu vỡ. Tôi tưởng mình sắp chết. Mở mắt nhìn thấy một bầu trời đom đóm lập lòe lẫn trong tiếng côn trùng. Tôi nghiến răng, không dám rên. Anh Hoàng: “Gắng lên, em ơi!”. Bảy cây số xuyên rừng rồi cũng qua. Bến đò sông Lô hiện ra, vắng vẻ, tối mịt, hoang vu. Mấy anh em thay nhau gọi đò. Tôi lại lên những cơn đau bụng khủng khiếp. Bỗng một ánh đèn từ xa lập lòe trên sông. Rồi rất lâu, rất lâu sau đó, một con đò nhỏ cập bến. Tiếng người đàn ông: “Ai gọi đò?”. Các anh khiêng tôi xuống bến. Anh Hoàng cầm tay tôi: “Thôi em cố gắng, anh phải đi ngay sáng nay mất rồi”. Tôi thất thanh: “Em ở một mình sao?”. Anh thở dài, rồi nhảy vọt lên bờ. Một mình tôi nằm lại trên một con đò rách nát với hai vợ chồng người chèo đò đã lớn tuổi. Con đò ngược sông Lô, chậm chạp xuyên màn đêm. Khoảng chừng một tiếng sau, tôi lại lên cơn đau. Năm ấy, hai mươi tuổi đầu, đẻ con so, xung quanh không có ai. Tôi muốn chết. Tôi bò đến sát mạn thuyền và chuẩn bị nhảy xuống sông. Một tay vừa chạm làn nước lạnh buốt bỗng một cái đạp mạnh làm bụng tôi nhói lên. Tôi bừng tỉnh: “Mình chết nhưng đứa con có tội tình gì?”. Tôi lại bò vào trong khoang. Bác đò gái đã ở đấy: “Khổ thân cháu tôi, sinh đẻ đơn côi như thế này”. Sau những cơn rặn khủng khiếp thì nghe bác ấy thốt lên: “Cái đầu nó đây rồi. Gắng lên con”. Tiếng khóc oe oe vang lên giữa sông. Đứa con đầu lòng của tôi! Bác lái đò bẻ một mảnh nứa trên mui đò và cắt rốn cho con tôi. Tờ mờ sáng hôm sau, đò cập bến Tràng Xảo. Tôi được đặt lên băng ca cùng đứa con. Anh Hoàng và tôi đặt tên cháu là Nguyễn Phước và sau này cháu lấy bí danh là Sông Lô. Sau này chúng tôi đã rất nhiều lần đi dọc sông Lô tìm kiếm hai vợ chồng người lái đò đêm ấy. Không thể nào tìm được. Chỉ còn sông Lô mãi mãi một dòng xanh... Một con đò của cơ quan đã đón tôi trở về. Bà con người Cao Lan gần đấy rất quý trẻ em, đã đem bắp, khoai, sắn treo vào liếp cửa nhà tôi. Họ gọi con tôi là thằng Tu Ma (Con chó con). Có anh trong Nha nói đùa: “Bà này học trường Pháp có khác. Con trai đặt tên là Thomas”. Mỗi ngày đi làm, tôi đặt cháu vào trong một cái cũi bằng tre. Khoảng hai tiếng sau trở về và cho cháu bú. Sống trong điều kiện khắc nghiệt, thiếu thốn đủ bề nhưng rất may là Tu Ma của tôi mạnh khỏe, không khóc quá nhiều nên mẹ cũng yên tâm. Gay go nhất là sáng sớm hay chiều muộn, phải đem tã lót ra bờ sông Lô để giặt. Dòng nước lạnh buốt, hai tay tôi tê cóng. Bỏ tã xuống sông, tã trôi đi không sao chộp lại được. Anh Hoàng phải lấy chiếc chăn của mình cắt ra làm nhiều mảnh để cho con dùng. Đành ngủ thiếu chăn giữa mùa đông Việt Bắc. Tôi dần dần mất sữa vì thiếu ăn. Theo gương bà con địa phương, tôi ra phía sau rừng tìm một mảnh đất trồng rau, bắp, sắn. Sau giờ làm việc, tôi chặt bốn cây nứa thật to, nhét ở đầu bốn cái bùi nhùi bằng dầu hỏa và đặt xung quanh mảnh đất, đề phòng cọp đến. Mặt trời lặn rất nhanh, tôi đốt bùi nhùi lên, địu Phước sau lưng và bắt đầu cuốc đất, gieo hạt... Có đêm mải làm, sương xuống ướt cả đầu con và cái địu. Nhưng Phước chịu đựng khổ cực rất khá, mập mạp, ít khóc và rất được các cô chú trong Nha cưng chiều. Khi Phước lên ba tuổi, không chịu nằm cũi nữa, tôi đem cháu theo. Lúc bấy giờ cơ quan cũng có vài chị em cùng cảnh con mọn như tôi. Chúng tôi lấy những sợi dây rừng dài và mềm, buộc từ bàn làm việc đến chân của các cháu, cứ thế các cháu lê la bò quanh. Hết giờ làm, bố mẹ gỡ dây bế về. Bà con Cao Lan đi nương ghé qua nhìn, cứ lắc đầu cười: “Nhiều Tu Ma quá!”. Vào mùa trồng thuốc lá, tôi cũng bắt chước bà con trồng hai vạt. Lá thuốc đến độ chín, phơi vài nắng lên màu vàng ủng. Sau khi buộc lại thành từng túm một, những chủ nhật tôi theo chân bà con dân tộc đem bán dọc đường. Tôi ngồi bên đường, câm lặng, quần áo rách rưới, tay chân nứt nẻ, đầu tóc rối bù, nét mặt xanh xao, chờ người qua lại. Sắn trồng trên đồi củ khá to, nhiều bột. Đục lỗ chỗ một miếng sắt, tôi mài sắn, lọc lấy nước, bỏ bã phơi thành bột sắn trắng tinh. Nhờ biết nấu ăn từ thuở nhỏ, tôi làm bánh bột lọc, chè sắn, bánh khoai v.v... để bán cho bà con quanh làng. Con tôi cũng sống tạm đủ. Sống trong rừng, điều kiện vệ sinh kém, Phước luôn kêu đau bụng. Nghe tin ở bên kia sông có ông thầy giỏi chữa bệnh giun, tôi địu con đi gần hai mươi cây số tìm thầy. Ông thầy lang khá lớn tuổi, đầu vấn khăn màu chàm, bên cạnh có một con chó nhỏ. Ông bốc cho con tôi một liều thuốc gồm có những hạt nhỏ nhỏ màu đen. Tôi nghiền ra cho cháu uống. Vài ngày sau, cháu đi ra rất nhiều giun, bụng xẹp hẳn lại. Tôi đến tạ ơn, thầy dặn tôi về tìm thịt cóc cho cháu ăn. Đêm đêm lại đốt đuốc đi bắt cóc ở các ruộng. Nhờ anh em trong Nha làm giúp thịt cóc, tôi lấy mấy cái đùi băm nhỏ và chiên lên làm chả để các chú và cháu cùng ăn. Ai cũng thích. Con tôi lớn lên trông thấy. Khi cần chạy vào hang tránh những trận càn của Pháp, tôi cõng con và nói: “Gắng lên con ơi! Thế nào cũng có những ngày tốt đẹp hơn”. Con tôi hiểu được tấm lòng của mẹ, cháu rất ít khóc và ngủ say trên lưng tôi. Năm 1951, chồng tôi được cử sang Cục Pháo binh. Anh Hoàng muốn đưa cả gia đình về theo. Ở Nha NCKT các anh cũng đồng ý. Có con mọn, nghề thuốc nổ quá nguy hiểm. Dù không muốn rời xa tập thể thân yêu này, tôi cũng nghe theo. Anh em trong Nha tổ chức một buổi liên hoan nhỏ, lòng tôi thắt lại, buồn nhớ. Cục Pháo binh cách cơ quan Nha NCKT khoảng 12 cây số, ở làng Đèo Vai. Cuộc sống khác rất nhiều so với Đồng Chiêm. Vì phải ngày đêm nghiên cứu về pháo hạng nặng nên anh Hoàng có rất ít thì giờ ở với chúng tôi. Hai mẹ con lại ở với nhau trên một góc nhà sàn của một gia đình dân tộc Cao Lan. Dưới sàn nhà, suốt đêm tiếng lục xục của lợn, trâu, bò, gà cùng mùi phân xông lên nồng nặc. Không đêm nào có thể yên giấc. Cọp Đèo Vai hay về rình mồi trước nhà sàn. Tôi phải cưa vài ống nứa làm bộ đi tiểu cho cháu trong đêm. Tôi về phòng Nghiên cứu, tính toán các đường bay của đạn đại bác. Nhận việc này tôi không thích thú lắm. Đêm nào cũng mất ngủ vì muỗi đốt, con khóc, phải quạt cả đêm trong mùi hôi thối của phân súc vật. Cũng may là trong nhà lúc nào cũng có một bếp lửa nên có thể nấu nhờ một nồi cơm hay một nồi cháo. Ngoài ra, tôi còn trồng thêm được mấy cây ớt, lấy lá, cho muối vào nấu một bát canh cho con. Tôi chỉ còn nặng 34 cân, lúc nào cũng chóng mặt, thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu máu. Rất nhớ Đồng Chiêm. Khoảng một tuần sau đó, anh Hoàng báo tin là sẽ đi dự một đợt tập huấn dài ngày cho sĩ quan cao cấp tại Nam Ninh (Trung Quốc). Tôi không biết phải đi đâu. Ở Đèo Vai thì quá khổ, tôi sợ không kham nổi, con mình mới hai tuổi. Về lại Nha NCKT thì công việc quá nguy hiểm cho những người có con mọn. Anh Hoàng chỉ cho tôi một phương án cuối cùng: hay là về Tuyên Quang ở cùng gia đình em gái anh, nay là vợ một cán bộ cao cấp trong ngành Tài chính. Em gái anh cũng rời nhà theo kháng chiến, là bạn học thời Huế của tôi. Chắc cuộc sống sẽ ổn định hơn, dễ chịu hơn. Tôi không còn cách nào, nên viết đơn xin phép rời quân đội về Tuyên Quang. Các anh trong phòng Nghiên cứu khuyên tôi: “Chị đã ở trong quân đội lâu rồi, ra ngoài làm công chức chắc sẽ không dễ dàng đâu. Ngoài đời phức tạp hơn nhiều, chị ạ. Chị nên suy nghĩ lại. Cháu Phước đã có chúng tôi lo thêm, chị đừng ngại. Để anh yên tâm đi công tác”. Anh Hoàng không chịu biện pháp này và tôi chỉ biết nghe lời anh. về với em chồng “Chị ở đây với cháu. Chị H. đang tắm, chưa gặp chị được”. Cuộc đón tiếp lạnh lùng, khô khan làm tôi muốn ngất xiu. Chú Lộc thấy tình cảnh như vậy vội vã xin trở lại Đèo Vai. Tôi tiễn Lộc đi, câm lặng, nước mắt lã chã. Chưa kịp bàn bạc thêm, ba ngày sau anh Hoàng nhận lệnh cùng đoàn Pháo binh phải cấp tốc đi Nam Ninh. Một mình tôi lo việc đưa con mới được hơn hai tuổi đi bộ 120 cây số đến chỗ em gái anh. Một sáng tháng 5 năm 1951, tôi địu Phước lên vai và gánh một gánh: phía trước là một cái thúng đựng xoong nồi và quần áo, phía sau là chai lọ, mắm muối và mấy quả trứng gà. Các anh chị trong Cục Pháo binh tặng tôi một đôi dép cao su đen kèm cái kẹp rút dây, cho Phước một cái mền và cử em Lộc đi theo giúp đỡ tôi. Rừng Tuyên Quang phải qua những rừng nứa, nhung nhúc dưới thảm lá là hàng vạn con vắt đói ăn. Chỉ cần vài giọt mưa là chúng ngóc đầu tìm mồi. Có lúc chạy vội, cảm thấy lá nửa lùng nhùng dưới chân. Cứ dừng lại bất kỳ phút nào là phải vuốt chân cho vắt rơi xuống, máu chảy thành dòng. Tôi nhét bông vào tai cho Phước. Rừng sâu chằng chịt dây rừng, Lộc phải phạt cây rẽ lối, gắng tìm bằng được một quán bỏ hoang bên đường để nghỉ. May mắn hơn khi tìm được một nóc nhà sàn. Bà con tử tế cho chúng tôi sưởi ấm, cho ăn tối và sáng hôm sau còn cho thêm mỗi người một nắm xôi. Tôi rùng mình cảm thấy mình bị bỏ rơi tứ bề và kinh hoàng nghĩ phải chăng mình đã quyết định sai lầm. Rồi chúng tôi cũng lê chân đến được cây số 7, gần thị xã Tuyên Quang, nơi gia đình em chồng tôi trú ngụ. Trời vừa hửng sáng, tôi đứng trước một ngôi nhà trước sân trồng đầy hoa. Gỗ mạnh vào cửa, không có tiếng trả lời. Tôi lại gõ lần thứ hai. Vẫn không ai. Tôi gục xuống trước cổng. Bỗng có tiếng người: “Ai đó?”. Tiếng của em gái anh Hoàng. Tôi mừng quá: “Phượng đây, H. ơi”. Giọng trả lời dài ra: “Biết rồi. Gõ cửa gì mà mạnh thế!”. Tôi ngẩn cả người. Sao lại thế này? Rất lâu sau đó, có tiếng rút then cửa gỗ. Hai cô gái mở cửa, nhìn tôi. Hai em đỡ tôi vào, tháo địu, bế cháu Phước và đưa vào một gian phòng nhỏ tối tăm ở sát bên một chuồng gà. Một em tên là Được bảo tôi: “Chị ở đây với cháu. Chị H. đang tắm, chưa gặp chị được”. Cuộc đón tiếp lạnh lùng, khô khan làm tôi muốn ngất xỉu. Chú Lộc thấy tình cảnh như vậy vội vã xin trở lại Đèo Vai. Tôi tiễn Lộc đi, câm lặng, nước mắt lã chã. Nơi ở dành cho hai mẹ con tôi là một cái kho chứa cuốc, xẻng, sọt tre và đồ dùng linh tinh. Tất cả xếp vào một góc. Ở giữa là một chiếc giường tre với hai cái ghế. Thoang thoảng mùi phân gà bốc lên, cay nồng. Tôi thiếp đi, ôm chặt con. Mãi trưa hôm sau mới dắt Phước lên nhà trên chào hai cô chú. Họ rất ít nói, nhìn tôi, không một nụ cười. Tôi liêu xiêu bước qua chiếc sân rộng. Thật không hiểu vì sao mình lại đến đây. Sau lưng nhà có rất nhiều khu đất đã được đào xới cẩn thận. Tôi mới đến, chưa có việc làm nên hàng ngày lấy cuốc xẻng ra vườn, lúi húi trồng rau, trồng sắn. Có lần đang làm, tôi mệt quá, gục xuống, khạc một ít máu. Em rể tôi dừng xới đất, cúi xuống nhìn chăm chăm, giọng Hà Tĩnh nằng nặng: “Này, đừng có mà giả đò. Ai cũng phải làm thì mới có ăn”. Tôi đã tự bảo hãy chôn chặt những chuyện này đi để lòng mình được thanh thản. Vả lại, khi tôi thoát được cảnh ăn nhờ ở đậu thì tình hình khá hơn rất nhiều. Em chồng tử tế hơn, em rể công bằng hơn. Tôi thương yêu và quý mến các cháu, con của em chồng tôi và luôn là Má và Cha của các cháu. Nhưng tôi đã nghẹn ngào, cay đắng khi viết đến những dòng này. Không quên nổi. Để cho nhẹ lòng, và cũng chỉ muốn nhắc lại một lần cuối cùng, tôi đành phải kể một vài việc. Việc thứ nhất: Tôi đang cặm cụi cuốc ở ngoài vườn bỗng có tiếng hét: “Chị vào đây!”. Chưa kịp rửa tay chân, tôi chạy vội vào. Trong phòng có cả em Được và em Hợi. Em chồng tôi đưa mắt sắc sảo, liếc nhìn cả ba chúng tôi. Lúc còn là bạn học ở Huế, em là hoa khôi của trường Đồng Khánh, dáng người thon thả, khuôn mặt trái xoan, mũi cao và đặc biệt là đôi mắt to tròn, hiền dịu, nhìn thật mê đắm. Nhưng bây giờ là một đôi mắt vô cùng ghê rợn, giọng nói rít lên: “Ai ăn cắp cây vàng tôi để trong túi này?”. Tôi chưa hề biết cái túi nên bình thản trả lời: “Mình không biết”. Cả hai em kia cũng lắc đầu. Chưa bao giờ hiểu giá trị của một cây vàng nên tôi nói thêm: “H. xem lại có để ở đâu không?”. Câu đáp lại như một nhát dao: “Thôi, đừng có già mồm! Ở đời này muốn để phước cho con cái thì...” và giọng nói rít lên ác độc, đanh đá, “đói cho sạch, rách cho thơm nhenhe..é...é...é...”. Tôi ôm lấy Phước, gục xuống. Phước sợ quá, khóc thét lên. Cánh cửa đóng sập lại. Từ đó, đến giờ cơm, Được hay Hợi bới cho tôi một chén cơm, một ít thức ăn và bảo tôi ăn riêng. Tôi đau khổ vật vã và đành câm lặng. Vài tuần sau, bỗng em chồng tôi cất tiếng hỏi: “Mai em cho cả nhà ra Tuyên Quang ăn phở, chị và cháu đi luôn”. Thấy Phước mừng rỡ quá, tôi nem nép đi theo. Em chồng tôi tỏ ra rất độ lượng, cho hai mẹ con một bát phở to và lại nói nói cười cười. Tối hôm đó, em Hợi thì thào: “Cái túi của chị H. bị rách, cây vàng nằm lẫn sau miếng vải lót. Khi đem giặt túi, lộn trái lại, mới thấy chỗ rách và cây vàng”. Kỷ niệm đớn đau này là một bài học nhớ đời. Việc thứ hai: Nhờ được học thêu thùa đan lát từ trường Bồ Câu Trắng Đà Lạt nên khi ở Tuyên Quang, tôi tìm mua những búp sợi và đan những chiếc áo rét, những đôi tất cho trẻ sơ sinh. Đến những gia đình người Cao Lan tôi đổi những thứ ấy thành khoai, sắn, mía cho Phước ăn thêm. Có lần, chị chủ nhà lấy hai đôi tất nhỏ cho đứa con và đổi lại một con vịt nhỏ bằng nắm tay, còn nguyên lông tơ. Tôi vui mừng đem về cho Phước chơi. Con tôi lúc ấy mới lên hai tuổi và đồ chơi duy nhất là mấy khúc tre khô nối lại, kéo trên đất. Phước rất mừng và ngày ngày thơ thẩn với chú vịt con. Sau khi rửa chén bát, tôi lọc lấy thức ăn dư thừa, Phước đổ vào một máng tre và cho vịt rỉa. Cháu không rời con vịt. Một hôm tôi đi làm về, Phước đón tôi, nước mắt chảy và chỉ tay vào sân. Tôi thấy một đống lông vịt nằm ngay sát chuồng gà. Em Hợi cho biết, chị H. vừa bắt phải giết con vịt nấu cháo vì nó cứ kêu cạp cạp, đuổi dọa lú gà suốt ngày. Hợi nói thêm: “Con vịt mau lớn như thế cũng nhờ vào cơm thừa của nhà này”. Lúc ấy, vì sợ con bị đuổi ra ngoài vườn, tôi hèn nhát không dám nói một lời nào. Bảy mươi năm qua, nhắc lại vẫn thấy cay đắng trong lòng. Té ra mình vẫn còn sân si, chưa quên được. Rồi những đêm khóc thầm bên bếp lửa cũng may mắn được chấm dứt. Đã khuya, có tiếng gõ cửa. Em Được chạy vào báo: “Chị ơi, có anh bộ đội tìm chị”. Tôi chạy vội ra. Anh Trần Kỳ Doanh, một bạn thân cùng đơn vị Pháo binh với hai vợ chồng tôi ở Đèo Vai, đang đứng trước cổng. Anh nhìn tôi ngờ ngợ. Chắc là mình thảm thương lắm. Anh Doanh thốt lên: “Trời ơi, chị Phượng. Sao lại như thế này? Tôi vừa ở Nam Ninh về, có đem thư và quà của anh Hoàng cho chị và cháu”. Anh bước vào nhà, nhìn căn phòng thảm hại, chỏng chơ chiếc giường của hai mẹ con tôi. Tôi nức nở nói vài câu không đầu không đuôi. Bỗng anh Doanh đứng vụt dậy, rút khẩu súng ngắn, chạy băng qua cái sân rộng đầy hoa và dùng báng súng gõ dồn dập vào cửa phòng của vợ chồng em H. Thường ngày, anh Doanh được tiếng là hiền lành và nho nhã, tối hôm ấy, anh gào lên: “Sao lại để hai mẹ con chị Phượng ăn ở như thế này? Tôi đề nghị ông bà sáng mai phải thay đổi ngay. Nếu không làm được, tôi sẽ đưa chị ấy và cháu trở lại Đèo Vai”. Căn phòng vẫn đóng kín mít, không một câu trả lời. Nhưng như có phép màu, ngay sáng hôm sau, hai em Được và Hội đã dắt mẹ con tôi qua khu tập thể của Bộ Tài chính ở cách đấy khoảng hai cây số. Anh Doanh ở lại Tuyên Quang và chỉ trở lại Đèo Vai khi tôi có công việc làm mới. Những nghĩa tình này của bạn bè thật là: “Sống để dạ, chết mang đi”. Tôi giấu kỹ việc mình khổ sở ở nhà em chồng. Đến cơ quan, ai cũng nể trọng vì là chị dâu của ông giám đốc. Phòng Tổ chức hỏi tôi: - Chị có chuyên môn gì? Tôi trả lời: “Tôi biết làm văn phòng quân y, biết pha chế thuốc nổ, và nghiên cứu về đường đi của đạn đại bác”. - Những cái này chúng tôi không cần đến. Chị còn biết chuyên môn gì không? - À, tôi biết làm báo hồi ở Quân Giới. - Thế thì tốt rồi. Chị sẽ về công tác tại tờ báo Công Tác Thóc Gạo của cơ quan Bộ. làm báo “công tác thóc gạo” Trong Bảo tàng Cách mạng, tờ Công Tác Thóc Gạo thuở nào được cất giữ trân trọng trong những hộp kính. Tôi nhìn màu giấy nâu nâu, vài cọng rơm vẫn còn thấy rõ, chữ in thì nhòe nhoẹt, rất khó đọc. Nhưng đối với chúng tôi, tờ báo quá thiêng liêng. Đó là công sức của không biết bao nhiêu người. Tòa soạn báo Công Tác Thóc Gạo có mười hai người. Bảo đề cập các vấn đề: mỗi năm thu hoạch bao nhiêu thóc, các kho thóc được giữ gìn ra sao, chất lượng gạo như thế nào v.v... Dầu sao đây cũng là một bước thay đổi nên tôi nhận lời về tòa soạn ngay. Mỗi sáng, tôi bế con đến phòng làm việc. Sáu chị em ngồi một bàn dài. Vẫn là thói quen cũ, ai có con mọn đều buộc một cái dây rừng dài từ bàn làm việc đến chân các cháu để tha hồ cho các cháu lê la quanh đấy. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì con có bạn cùng chơi và các bạn rất quý tôi. Rồi cũng qua nhanh cái cảm giác tủi nhục, đớn đau của những đêm dài thức trắng, tay quạt cho con, cố xua bằng được cái mùi cứt gà hôi tanh rất dai dẳng trong cái nhà kho thay phòng ngủ ấy. Đêm ngủ yên giấc hơn. Gặp hai vợ chồng em tôi, tôi đã có thể nhìn thẳng. Quả là hết hận thù, lòng mình nhẹ nhàng đi rất nhiều. Vì công việc phải làm ngoài cơ quan, tôi được cấp một chiếc xe đạp Trung Quốc Phượng Hoàng, có thanh ngang, vô cùng nặng và yên xe rất cao. Mỗi lần đạp, tôi phải nhướn bên này, nhướn bên kia nhưng khó khăn ấy chẳng là gì. Mặc cho những con đường bị đào nham nhở, mặc cho những cầu tre bắc qua suối cứ chông chênh theo bước đi, hàng tháng tôi đi kiểm tra, ghi chép tình trạng của hết kho thóc này sang kho khác, tình hình nộp thuế nông nghiệp của từng vùng v.v... Những nơi làm tốt đều được biểu dương rất kịp thời lên báo Công Tác Thóc Gạo và được phát hành rộng rãi. Mỗi chuyến đi như thế, trong sổ tay tôi dày đặc danh sách các thứ mà bạn bè nhờ mua: thức ăn, quà vặt, thuốc đánh răng, vài thước vải đen may quần... Các bạn ở nhà chăm sóc cho Phước khi mẹ đi vắng. Cuộc sống khá dần lên, tôi mạnh khỏe trở lại. Khoảng 20 ngày một lần, tôi đến nhà in, thường là ở trong các hang đá được ngụy trang rất kỹ. Xưởng in này mùa hè vừa oi bức vừa ẩm ướt, mùa đông gió lùa cắt da. Khoảng ba chục anh chị, trước kia vốn là công nhân các nhà máy in ở Hà Nội, đã tình nguyện lên đây. Người nào người nấy phù thũng, xanh xao, vàng vọt vì sốt rét và đói ăn. Gạo nhà nước cấp vừa ẩm, vừa mục, vừa hôi, nấu xong phải để cho bay hơi mới trệu trạo nuốt được vài miếng. Cùng hoàn cảnh nên lúc gặp nhau, ai cũng tay bắt mặt mừng, chuyện trò rôm rả, cười nói vang cả vách núi. Nhờ có chiếc xe đạp, mỗi lần đến tôi đèo thêm bắp non, sắn củ, lá cây rừng để nấu nước uống. Hôm nào may mắn xin được một bao thuốc lá mang đến thì hôm ấy nấu nước lá rừng, nướng sắn, luộc bắp và phi phèo thuốc lá đến tận đêm khuya. Những bài báo được xếp lên khuôn với những dòng chữ bằng chì. Hôm nào còn mực in thì hai ngày sau sẽ có báo. Nếu hết mực, phải có người mạo hiểm về Hà Nội để mua. Thiếu giấy in, lại phải chờ dài ngày hơn. Tôi ra ngoài hang, cùng cuốc đất trồng rau với anh chị em. Tờ Công Tác Thóc Gạo lúc đầu có bốn trang, sau lên sáu trang rồi mười hai trang. Giấy một màu vàng ố, sờ hơi nhám, mỗi lần in 100 số. Mỗi địa phương được phân phối 5 số, sau đó báo được chép lại bằng tay để đưa đến mỗi kho thóc. Vì bảo mật và an toàn, nhà in không lưu lại trong hang một bản nào cả. Vào mùa mưa lũ, con suối trở thành những dòng nước hung hãn, đục ngầu. Những chiếc cầu mong manh bị đập vỡ tan. Không biết bao nhiêu lần tôi đành lại trở về hang, co ro ngồi ôm những tập báo và tìm mọi cách để có một ít thức ăn. Trên đường về, tôi phân phối báo đến các trạm. Những trạm này sẽ lo việc chuyển báo đến các kho thóc. Chúng tôi cho vào lưu trữ hai tờ, một tờ gởi lên Bộ Tài chính. Trong Bảo tàng Cách mạng, tờ Công Tác Thóc Gạo thuở nào được cất giữ trân trọng trong những hộp kính. Tôi nhìn màu giấy nâu nâu, vài cọng rơm vẫn còn thấy rô, chữ in thi nhòe nhoẹt, rất khó đọc. Nhưng đối với chúng tôi, tờ báo quả thiêng liêng. Đó là công sức của không biết bao nhiêu người. Trong những năm 1952- 1953, tất cả các vấn đề liên quan đến thóc gạo là vô cùng quan trọng. Vì chính những kho gạo ấy sẽ là nguồn tiếp tế lương thực cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Mỗi tháng một lần, mỗi người phải đi lấy 15 kilô gạo tại một kho cách cơ quan chừng tám cây số. Chủ nhật đầu tháng, khoảng hai chục anh chị em chúng tôi, ăn mặc như bà con người Cao Lan, đòn gánh và hai chiếc gùi sẵn sàng trên vai. Rời khỏi cơ quan, chúng tôi chia thành nhóm hai ba người và giữ im lặng. Nhìn bề ngoài không khác gì bà con dân tộc đi chợ. Khi trở về, đôi vai đau buốt vì những gùi gạo nặng trịch và đành ngoảnh mặt làm lơ với những hàng """