"
Gangster - Đặc Sản Hoa Kỳ PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Gangster - Đặc Sản Hoa Kỳ PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
THÔNG TIN EBOOK
Tên sách
GANGSTER- ĐẶC SẢN HOA KỲ
(Tự thuật của Luciano, người cầm đầu tổ chức gangster ở Mỹ qua hai cuộc đại chiến)
Tác giả
MARTIN GOSCH & RICHARD HAMMER
Dịch giả
Nguyễn Huy Phức
Thể loại
Tự Truyện
Phát hành
Nhã Nam
Nhà Xuất Bản
NXB Công An Nhân Dân
Ebook
2020 kindlekobovn Số hóa & Phiên âm: tudonald78 Sửa bìa: kingchibi
—★—
Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG
LỜI NÓI ĐẦU
Đ
ầu năm 1961, Charles “Lucky” Luciano đã đi đến một quyết định. Ông đã 63 tuổi và hơn nửa cuộc đời đã dành cho tội ác. Suốt phần lớn thời gian đó, ông là chúa tể của “thế giới ngầm” có tổ chức ở Hoa Kỳ; kể cả trong 15 năm đi đày biệt xứ ở Italy, ông vẫn tiếp tục điều khiển tổ chức này. Nhưng đến đầu năm 1961, vị trí của ông bắt đầu lung lay. Sức khỏe của ông bắt đầu suy sụp. Ông vừa qua một cơn đau tim nặng. Và bây giờ, chính tính mạng của ông cũng đang bị đe doạ bởi chính những người từng là bạn bè và đồng đảng của ông ở Mỹ.
Quyết định của Luciano có thể không bất ngờ lắm bởi vì ông cho rằng trong quá khứ, người ta đã mô tả ông nhiều nhưng có phần không đúng sự thật, thậm chí lại xuyên tạc rất nhiều. Và ông muốn rằng một khi ông chết đi, không thể để tồn tại chỉ những hình ảnh sai lệch đó. Ông muốn rằng, một ngày nào đó, người ta sẽ được biết hết sự thật, về cuộc đời của mình, về những tham vọng, về thủ đoạn để đạt những tham vọng đó, về những tội ác của ông ta và về tất cả những người mà ông đã biết và có quan hệ. Tất nhiên, ông muốn rằng sự thật này không nên công bố ngay mà phải chờ đến khi thời gian đủ trở thành một bức tường ngăn chặn mọi hậu quả đối với bản thân ông, cũng như đối với phần lớn bạn bè có dính líu đến cuộc đời tội ác của ông.
Có thể nói đây là quyết định của một người ở trong một tâm trạng tuyệt vọng. Nhiều tháng trước đây Charles đã để hết tâm sức của mình nhằm thực hiện một đề nghị xây dựng một bộ phim về những năm cuối cuộc đời của mình. Trước đây, rất nhiều nhà đạo diễn điện ảnh đã nhiều lần đề nghị
xây dựng một bộ phim như thế này, nhưng đây là lần đầu tiên Charles đồng ý, chẳng những cho phép mà đã tham gia xây dựng. Ngày 18 tháng 2, Charles đã đọc xong và thông qua kịch bản. Ông cũng đã hứa nhiệt tình cộng tác để làm bộ phim này. Ông sẽ nhận 10 vạn đô-la và ngoài ra còn một tỷ lệ phần trăm lợi nhuận của bộ phim. Charles đã nhận hai bản sao kịch bản; ông giữ một bản cho diễn viên điện ảnh ở Hollywood mà ông chọn để thể hiện nhân vật là bản thân mình trong bộ phim.
Nhưng chỉ một vài ngày sau, Charles nhận được những tin tức không hay, Tommy Eboli, đại diện các quyền lợi của Vito Genovese, và đã từng bị giam ở nhà tù Liên bang về tội buôn thuốc phiện lậu, đã đến Naples mang theo những mệnh lệnh từ New York. Các thủ lĩnh của “thế giới ngầm" ở Mỹ đã ra lệnh không được hoàn thành bộ phim.
Luciano đành phải phục tùng, ông gọi điện thoại cho Martin Gosch, một tác giả của cuốn sách này đồng thời cũng là đồng tác giả của kịch bản và đồng đạo diễn của bộ phim đang chuẩn bị xây dựng, ông yêu cầu Martin Gosch từ London về ngay Italy, Luciano nói với Gosch: “Anh có thể ghé qua đây được không? Tôi có chuyện cần nói với anh".
Martin Gosch biết rằng chắc có chuyện gì quan trọng đã xảy ra và anh ta cũng có linh cảm rằng câu chuyện làm phim có thể đổ vỡ. Martin Gosch hỏi: “Có chuyện gì rắc rối trong bộ phim phải không?”. Luciano: “Không, ồ, không, không. Không có gì rắc rối cả. Mọi việc đều tốt đẹp, nhưng tôi cần gặp anh ngay. Tôi sẽ nói anh rõ mọi chuyện khi anh đến đây”.
Đêm 26 tháng 2 năm 1961, Gosch đến Rome và gặp Luciano ở khách sạn Quirinale nhưng hai người không ở lại đây. Luciano xách hành lý của Gosch bỏ lên xe, lái về sân bay. Suốt dọc đường họ không nói một câu. Ở sân bay, hai người vào một tiệm ăn, Luciano gọi món Spaghetti. Còn Gosch
chỉ uống trà và ngồi nhìn Luciano ăn một cách thong thả và ngon lành. Nửa chừng, Luciano ngước mắt:
- Này Marty, có thể thôi chuyện làm phim được không? Gosch đã chờ đợi câu hỏi này, nhưng anh vẫn cảm thấy bị dội.
- Quỷ tha ma bắt, tại sao lại thôi? Tôi không thể hiểu được và tôi không thể trả lời anh được!
- Này Marty! Có điều tôi không thể nói với anh được. Nhưng tôi nghĩ rằng, chúng ta phải ngừng việc làm phim!
Luciano nói một cách thong thả, không hề thoáng một chút xúc động và chính điều đó càng làm cho Gosch hoảng:
- Charles này! Tôi tưởng rằng anh là người tôn trọng lời hứa nhất ở trên đời này. Tôi đã bao lần nghe người ta nói “Charles Lucky hứa điều này, Charles Lucky nói điều kia, Charles đảm bảo thế nọ”. Anh luôn luôn tự hào là biết giữ lời hứa và bây giờ chính anh lại thất hứa với tôi trong khi người ta nói với tôi rằng, anh đã nói với mọi người là anh rất yêu mến tôi. Tại sao hôm qua, qua điện thoại, anh đã nói với tôi là chẳng có chuyện gì thay đổi cả? Anh đã nói dối tôi, anh Charles ạ.
Một lát sau, Luciano mới trả lời:
- Marty, tôi sẽ cho anh đọc cái này. Tôi muốn chứng thực rằng, anh là người mà tôi tin cậy và tôi đang phải làm một việc hoàn toàn trái ý muốn của tôi.
Nói xong, Luciano rút trong túi áo ra một tấm giấy và đưa cho Marty. Trên tờ giấy có dòng chữ “Charles thân mến, vì những lý do mà anh biết rất rõ,chúng tôi đã quyết định rằng, bộ phim mà anh đang định làm là một việc không tốt trong lúc này. Ông chủ nhỏ sẽ rất bực mình nếu như anh cứ tiếp tục làm bộ phim đó. Cho nên tốt hơn hết là anh thôi ngay”. Bức thư không có chữ ký.
Gosch hỏi:
- Ai đưa cho anh tờ giấy này?
- Một chàng trai từ New York đến cách đây một tuần.
Qua những điều mà Gosch đã tìm hiểu được sau mấy tháng gần gũi Luciano, anh ta hiểu rằng “ông chủ nhỏ” là ai. Đó chính là Meyer Lansky. Marty Gosch tự hỏi: Tại sao Meyer Lansky lại chống việc làm phim về cuộc đời của Luciano? Có Chúa chứng giám, nếu hắn được đọc từng chữ trong kịch bản, hắn sẽ không tìm thấy một dòng nào có liên quan đến hắn, dù chỉ rất gián tiếp.
- Tôi không nói là hắn chống việc làm phim. Tôi chỉ nói rằng, một số người sẽ chết. Thứ nhất, họ sẽ giết tôi và sau đó đến lượt anh. Và có thể một số người khác nữa. Tôi biết họ rất rõ, họ là những người “dám chơi”.
- Theo ý anh, có nghĩa là, nếu tôi cứ làm bộ phim thì tính mệnh anh sẽ bị đe doạ chăng?
- Này Marty, về điều này, tôi có thể nói với anh và tôi không cần phải suy nghĩ nhiều. Tôi biết họ rất rõ. Thậm chí, tôi coi như tôi đã chết rồi. Và có thể cả anh nữa, cũng vậy.
Nói xong Luciano ngừng một lát rồi tiếp:
- Này Marty, anh có muốn viết về toàn bộ cuộc đời của tôi không? Câu chuyện quá đột ngột, Gốt chưa kịp trả lời thì Luciano tiếp: - Đó là điều tôi mong muốn. Ba ngày hôm nay, tôi đã suy nghĩ nhiều về
vấn đề này. Tôi thấy rằng, tôi cần có một người nào đó biết rõ sự thật về tôi. Tôi cần một người biết rõ cuộc đời tôi.
Gosch và Luciano đã từng cộng tác với nhau để làm một bộ phim và bộ phim này thực ra là một bộ phim hư cấu. Gosch chưa bao giờ có tham vọng biết nhiều hơn nữa về cuộc đời của tay trùm gangsterbị đày ải này. Nhưng Luciano vẫn nằn nì:
- Thế đấy, Marty ạ! Tôi muốn anh làm việc đó cho tôi.
- Tai sao lại tôi?
- Bởi vì, như tôi đã nói, anh là người duy nhất tôi có thể tin cậy. - Tại sao anh không chọn Pat Eboli hay là một người nào đó gần gũi với anh hơn?
- Nhưng họ không phải là người viết văn.
- Nghĩa là anh muốn tôi viết tiểu sử của anh?
- Vâng. Nhưng với một điều kiện.
- Charles, anh cứ vờn tôi mãi.
- Không, tôi thề với anh, tôi không đùa đâu. Điều kiện đó như thế này. Tôi sẽ nói với anh tất cả. Tôi sẽ không giấu một điều gì. Nhưng anh phải hứa với tôi, anh sẽ không công bố những điều tôi sẽ kể với anh, dù chỉ là một phần, sau hơn 10 năm nữa. Tôi muốn nói, anh chỉ được công bố quyển sách này 10 năm sau khi tôi chết.
- Ô, cứ nói tiếp đi. Ngoài việc cứ 5 phút anh lại tống một mớ thuốc vào miệng, tôi thấy sức khỏe của anh còn tốt lắm. Anh lại đang rất chú trọng chữa bệnh tim, tôi có thể đánh cuộc với anh, anh còn sống dai hơn tôi! Luciano lắc đầu:
- Không phải như vậy đâu. Nếu anh có đầy đủ tài liệu cuộc đời của tôi, thì đây sẽ là món tiền lớn cho anh và cho vợ anh. Tôi nghĩ rằng, anh sẽ làm điều tôi nói. Anh có thể chưa trả lời tôi ngay, nhưng tôi muốn rằng anh sẽ nhận lời tôi.
- Charles, như thế tôi sẽ trở thành Boswell của anh...
- Nó là thằng nào?
Gosch giải thích.
1 của tôi. Tôi chính thức nhận anh làm việc cho tôi. Tôi chỉ còn có một điều kiện nữa thôi. Anh không được công bố bất cứ một tài liệu nào tôi kể cho anh, một khi Tommy Lucchese còn sống, dù cho nó quá thời hạn một năm. Hắn ta là một người bạn tốt và tôi không muốn làm hại hắn.
- Charles ạ, tôi thấy anh đang giận dữ. Một chàng trai nào đó đưa cho anh một bức thư. Họ muốn chặn đứng việc làm phim. Họ ngừng việc cung cấp tiền cho anh và họ đe dọa anh. Lúc này anh thề thốt đủ điều, nhưng sáng mai có thể anh thay đổi ý kiến.
Luciano lắc đầu:
- Không đúng như vậy. Tôi đã suy nghĩ kỹ và tôi đã quyết định hành động như vậy.
Ngay chiều hôm đó, trong hiệu ăn ở sân bay Rome, hai người đã đi đến thoả thuận. Suốt mười tháng sau đó, Luciano đã kể cho Marty Gosch từng chi tiết về cuộc đời của mình. Và Gosch ở bên cạnh Charles khi ông này qua đời.
2 ở Mỹ. Có những đoạn người ta cảm thấy sự phẫn nộ, giận dữ, trâng tráo, thậm chí đáng kinh tởm. Nhưng đó là cách nhìn và cách nghĩ của Luciano. Đồng thời đây cũng là lịch sử một tổ chức mà Charles Lucky Luciano là kẻ tổ chức và chỉ huy.
PHẦN MỘT
GỐC GÁC
1897 - 1927
1
“N
ói là tôi không nhớ gì về Lercara Friddi thì không đúng lắm. Tôi từ đây ra đi năm 1906, khi mới lên chín tuổi. Và mặc dù suốt ba mươi chín năm liền sau đó tôi không hề trở lại nơi này, nhưng khi tôi ra tù và bị đày trở lại đây, nơi được coi là làng quê của tôi, thì chỉ trong vài phút, tất cả những ký ức xa xưa đã sống lại. Vẫn cái mùi hôi thối của những mỏ diêm sinh ở bên ngoài làng nơi cha tôi ngày xưa thường đi làm. Vẫn cái đám bụi màu xám xịt bao phủ lên tất cả; và tôi còn nhớ rõ lớp bụi này đã thấm sâu vào quần áo của chúng tôi đến mức các bà mẹ không thể nào giặt sạch. Vẫn cái mùi vị ngày xưa, mùi vị của một cuộc sống không có đồng xu dính túi, mùi vị của một cuộc sống suốt đời ăn không đủ no”.
Chính ở cái làng nghèo mọc trên sườn đồi với những con đường đá lởm chởm của đảo Sicily này, ngày 24 - 11 - 1897, Charles “Lucky” Luciano, tên thánh là Salvatore Lucania, đã ra đời. Đó là người con thứ ba, và là người con trai thứ của Antonio Lucania và bà Rosalie Capporelli. Ngay từ khi mới lọt lòng, chú bé đã trở thành con cưng của bà mẹ, thay thế cho người anh là Giuseppe và chị Francesca. Và sau đó, đứa em trai Bartolo và cô em gái Concetta cũng không thể giành được vị trí này.
“Từ khi tôi sinh ra đến khi lớn lên, có thể nói bố tôi không bao giờ ngừng nói về việc di cư qua Mỹ. Trong gia đình tôi có một cuốn lịch của một công ty tàu biển ở Palermo, là nơi mà người ta xuống tàu đi Mỹ. Bố tôi năm nào cũng treo một quyển lịch mới trên tường và mẹ tôi cứ mỗi lần
đi qua trước quyển lịch, thường dừng lại ngắm nó. Có những lúc chúng tôi ăn không đủ no bởi vì bố tôi kiếm được đồng nào thì ông vội bỏ vào một cái lọ và cất kỹ dưới nệm. Cái này đã trở thành một cái ngân hàng riêng và tháng tháng mẹ tôi lại dốc ra đếm đi đếm lại nhiều lần. Chúng tôi chưa biết đến bao giờ mới đủ tiền đi Palermo và xuống tàu.
Mùa xuân năm 1906, lọ tiền vẫn chưa đầy. Bố tôi sung sướng như ngạt thở khi nghĩ rằng gia đình tôi có thể mua vé đi chuyến tàu vào tháng tư. Ở Lercara Friddi, chúng tôi có một người bà con bên mẹ tên là Rotolo. Ông ta có nhà cho thuê nên có tiền. Bố tôi vì sĩ diện không dám hỏi vay tiền. Vì vậy, mẹ tôi phải lén đến thăm ông ta, vay một số tiền đủ để mua vé tàu. Mãi hơn một năm sau, khi chúng tôi đã qua Mỹ, bố tôi mới biết chuyện này. Thế là ông ra sức dành dụm trong 2 năm liền mới đủ tiền trả món nợ đó”.
Tháng 4 - 1906, trên một con tàu biển già cỗi, ọp ẹp, Antonio Lucania đã đưa cả gia đình nghèo nàn, rách rưới, nôn mửa vì không chịu được sóng biển, lên đương tới một thế giới mới với nhiều ảo tưởng. Họ đã rời bỏ Lercara Friddi, một nơi yên tĩnh, dân cư thưa thớt nhưng quen thuộc; nơi đó cùng chung một ngôn ngữ và mọi người đều nghèo khổ. Họ đã đến một nơi mới. Ở đây, người ta phải giành giật với nhau từng khoảng không khí để thở; ở đây, người ta sống chen chúc trên một khoảng không gian chật hẹp đến mức đi bộ trên vỉa hè hầu như phải xô đẩy nhau; ở đây các đường phố và các vỉa hè không phải lát bằng vàng như người ta tưởng, mà lại tráng xi măng hoặc lát đá; ở đây đêm không tối và sao thì mờ, người ta cảm giác như sống giữa ban ngày, ngập trong thứ ánh sáng nhân tạo; ở đây tiếng ồn ào inh tai và mọi người cũng như mọi việc đều lạ lùng và dữ tợn.
Antonio Lucania và gia đình đã chọn khu phố - phía đông New York, gần đại lộ 14, nằm cạnh bờ sông. Ngôi nhà của họ nằm trong một thung
lũng nhỏ hẹp, bẩn thỉu và tối tăm, cũng giống như những ngôi nhà khác vùng lân cận. Dân phố ở đây không phải tất cả đều là người Sicily với những đức tính thân mật, hồ hởi và hay giúp người khác. Ở đây còn có những người từ Naples, Calabria và những người Ý khác ở lục địa, với những phong tục và giọng nói lạ kỳ và khó hiểu. Còn có cả những người Ai-xơ-len khó hiểu, hay gây gổ và nghiện rượu. Nhưng ít nhất, tất cả đều theo đạo Thiên chúa. Lại còn có cả những người Do Thái kỳ cục, bủn xỉn và theo tà đạo mà Nhà thờ vẫn luôn luôn căn dặn mọi con chiên cần phải xa lánh.
Chẳng bao lâu, Antonio Lucania vỡ nhẽ là ông ta đã đánh đổi cuộc sống nghèo nàn ở Lercara Friddi để lấy không phải một thế giới mới của toàn những người giàu, mà là một nơi còn nghèo khổ hơn. Ông ta và gia đình sống thật chật vật, thậm chí còn tệ hơn khi cả ở Sicily. Họ thấy lúng túng vì không nói được thử tiếng của thế giới mới này, vì không làm thế nào để thích ứng với bao phong tục và những thứ khác ở đây. Họ không có một chút hiểu biết gì về đường phố và những người láng giềng nơi họ ở. Họ không được chuẩn bị để thích ứng với cái xã hội và kinh tế của nơi này. Antonio Lucania trở thành một người làm công. Người ta trả cho ông một số tiền nhiều đến mức mà ở Sicily ông không hề dám mơ tưởng, nhưng ở cái đất Hoa Kỳ này thì chỉ đủ cho gia đình ông sống một cuộc sống hết sức túng thiếu. Nhưng ông ta không bao giờ nghĩ đến trở về Sicily. Ông ta đã chọn cuộc sống mới ở Mỹ và chấp nhận cuộc sống đó với hy vọng con cái ông sẽ khấm khá hơn. Ông làm đơn xin nhập quốc tịch và được chấp nhận. Thế là vợ ông cùng năm đứa con trở thành công dân của Hợp Chủng Quốc.
“Đối với mẹ và bố tôi, điều tốt đẹp nhất là các trường học. Học không phải trả tiền. Ở Lercara Friddi chỉ có những trường công giáo và người ta
phải trả tiền mới được đi học”. Thế là năm người con của gia đình Lucania nhanh chóng đổi những tên Ý của mình thành tên Mỹ: Giuseppe trở thành Joseph, Francesca trở thành Fannie, Bartolo trở thành Bart và em gái út của anh là Concetta trở thành Connie. “Còn tôi? Tôi là một ngoại lệ, bởi vì nếu người ta cắt ngắn tên Ý của tôi đi như vậy tôi sẽ trở thành Sal...! Đ. m. đó là một tên đàn bà mà tôi không thể chấp nhận. Chúng tôi vào học ở trường công số 10”. Salvatore đã chín tuổi, nghĩa là lớn tuổi nhất lớp, vì vậy phải ngồi ở hạng cuối. Các thầy giáo hầu như không biết đến cậu ta, mãi cho đến lúc cậu ta bập bẹ nói được bằng tiếng Anh. Đó là tình cảnh chung của hầu hết các gia đình di cư. Một số thích ứng tương đối nhanh, do khao khát muốn được học và mở rộng hiểu biết. Một số khác thì hầu như trở thành ngớ ngẩn. Số còn lại trong đó có Salvatore thì cưỡng lại đến cuối cùng-và hướng về đường phố “Hầu hết học trò cùng lớp tôi đều là những thằng nhóc con, nhưng chúng nó nói được tiếng Anh. Còn tôi thì một chữ cũng không biết. Có thể đó là lý do khiến tôi tìm mọi cách bỏ trường để về với đường phố”, vì ở đó có rất nhiều người nói tiếng Ý vùng Sicily. Họ hiểu tôi nói gì và tôi cũng hiểu họ muốn gì. Tiếng Anh của tôi, tôi đã học trên đường phố. Đó là điều làm tôi hối tiếc suốt cả đời. Tôi nói tiếng Anh bất chấp văn phạm, tôi không biết nhiều từ đẹp và tôi nói tiếng Anh với giọng New York đặc sệt”.
Trong suốt năm năm học ở trường công số 10 và sau đó trường công số 40 từ lúc lên chín đến mười bốn tuổi, Salvatore Lucania vẫn luẩn quẩn trong sự dốt nát, ương bướng và trong mặc cảm về tuổi tác cũng như tầm vóc của mình. Cậu ta nhìn với đôi mắt ganh tị những bạn bè nhỏ hơn và trẻ hơn mình, đặc biệt là các cậu bé Do Thái (ở gia đình và ở nhà thờ, cậu ta thường được căn dặn tránh xa những ảnh hưởng xấu của bọn Do Thái này). Salvatore va đầu vào những kiến thức và những bài học mà cậu ta
chẳng hiểu tí gì. Vì nó cứ biến đi đâu mất chứ không đọng lại tí nào trong óc của cậu. Tuy nhiên cứ nhìn những bạn bè, cậu ta cũng học được một chút gì đó và suốt đời bạn bè đã giúp cậu vượt qua những do dự cũng như những tính toán đối với gia đình, nhà thờ. Khác hầu hết những đồng đảng người Sicily và người Ý, sau này, chút ít kiến thức mà cậu ta học được trong năm năm trên ghế nhà trường đã giúp cậu ta kết bạn với nhữhg người có trí óc khôn ngoan và là những chiến hữu tuyệt vời.
3 về 4. Tất nhiên họ muốn nói đếnWashington, Lincoln và đến cả nước. Nhưng đối với chúng tôi, đoàn kết, liên hiệp có nghĩa là phải làm cái gì đấy để người ta có thể nhận được vài đồng bạc lương và bớt được một vài giờ làm việc, là một dịp tổ chức nhau lại để có sức mạnh. Tôi đã sử dụng những tư tưởng này trong những năm 20, cùng với Lepke và Tommy Lucchese, khi tôi bắt đầu tìm cách tổ chức lại thế giới ngầm. Sau này, khi các báo chí gọi tôi là trùm sỏ gangster ở New York, tôi thường tự hỏi, không hiểu các ông giáo của tôi ngày xưa có biết rằng chính họ dạy cho tôi những nguyên lý về liên hiệp mà tôi đã sử dụng để hình thành các tổ chức của tôi không?”.
Ở lớp học, Lucania luôn luôn gặp những chuyện rầy rà. Có lẽ cậu ta ít khi có mặt ở trường. Cậu thường xuyên trốn học và chỉ có mặt ở lớp đúng vào những lúc thật có lợi cho cậu. Cậu ta sớm thấy ra rằng một số học trò người Ai-xơ-len và Ý lớn tuổi và to xác hơn thường hay trêu chọc và hành hạ các chú bé người Do Thái trên đường từ trường về nhà. Các chú bé Do Thái đáng thương này thường bị đánh đập và trấn lột. Lucania đã nghĩ ra cách kiếm lợi. Cậu đã bắt các nạn nhân Do Thái thuê che chở với giá một hai xu một ngày. Với giá đó, các chú bé Do Thái có thể hàng ngày từ nhà
đến trường và trở về một cách an toàn. Cậu bé Lucania tuy không phải là người khổng lồ nhưng đủ sức khỏe và gan góc để thực hiện lời hứa che chở của cậu ta.
Như vậy, cậu ta sẽ học được những bài học về cuộc đời ngay trên đường phố. Ở cái thế giới này, cậu ta có thể làm tiền bằng đủ mọi cách. Cậu ta sớm nhận ra rằng, có những người rất nhiều tiền và có những người không một đồng xu dính túi. Cậu ta quyết định trở thành người có tiền. Cậu ta đã từng chạy việc vặt như đi mua kem, bán bánh ngọt cho bất cứ ai thuê cậu. Rồi cậu lại khám phá ra rằng có nhiều cách làm tiền dễ hơn.
Nhưng cậu ta vẫn cần sống trong thế giới chật hẹp dưới sự kiểm soát chặt chẽ của người bố theo phong tục Sicily. Thường thường những chuyên phe của cậu bé được nối tiếp bằng những trận đòn của ông bố. Bà mẹ khóc hết nước mắt để thuyết phục cậu bé học hết chương trình ở trường và cậu đã hứa. Khi cậu lên 14 tuổi, sau khi học xong lớp 5, nhận các giấy tờ chứng nhận tuổi lao động, cậu ta coi như đã giữ trọn lời hứa với mẹ. Nhưng cậu ta vẫn tiếp tục trốn học, và ngày 25 - 6 - 1911, hội đồng giáo dục nhà trường đã quyết định đưa cậu bé bướng bỉnh này vào trường trẻ con hư ở Brooklyn. Cậu đã ở đó bốn tháng.
“Thoạt nhìn thấy nhà trường, tôi đã thấy rợn óc. Lẽ ra, đây phải là nơi người ta dạy chúng tôi trốn học là điều xấu. Nhưng họ đã làm như thế nào? Họ chỉ đá đít chúng tôi. Một thằng bé vào đây chỉ học được một điều: làm thế nào để ăn cắp giỏi hơn, móc túi như thế nào giỏi hơn. Bốn tháng sau, khi tôi rời nơi này, tôi đã qua một trường học thực sự. Tôi căm thù Brooklyn. Mãi về sau, khi tôi đã trở thành người điều khiển ở khu Mahattan, tôi vẫn tìm mọi cách để tránh xa vùng Brooklyn và để mặc cho bọn đàn em ở đấy muốn làm gì thì làm, tôi không hề can thiệp”.
Bố cậu đã chờ sẵn ở cổng trường và đưa cậu về nhà. “Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được đường về, vì Brooklyn đối với chúng tôi như một đất nước xa lạ. Chúng tôi đi lạc đường và mãi tận đêm mới về tới nhà. Trong suốt hơn hai tiếng đi đường bố tôi chỉ nói đi nói lại một điều: hoặc trở về trường tiếp tục học, hoặc đi kiếm việc làm. Tôi thì chẳng lòng dạ nào trở lại trường học nữa.
Việc làm duy nhất có thể tìm ra thời đó là nhận những việc vặt, nhưng cũng chẳng dễ dàng gì. Ở khu tôi ở, có không biết bao nhiêu là thiếu niên cùng tuổi với tôi, là con của những gia đình di cư. Chúng cũng phải bỏ học, rời ghế nhà trường mà không được học đến nơi đến chốn. Chúng sẵn sàng làm bất cứ việc gì và luôn luôn mơ ước trở thành giàu có nhờ một dịp may nào đó mà làm được một cú lớn. Bố tôi thường xuyên nói với tôi rằng, khu chúng tôi ở ngày càng tồi tệ, có những băng gồm những thanh thiếu niên cùng tuổi với tôi chuyên đi trộm cướp các cửa hiệu, giật túi xách các bà già. Ông nói: bọn trẻ ở đây lớn lên sẽ thành trộm cướp hết.
Khi quan sát trong vùng, tôi thấy bọn trẻ chúng tôi không phải là những tên trộm cướp duy nhất. Xung quanh chúng tôi đều là trộm cướp và nhiều người trong bọn họ có khả năng trở thành những kẻ có quyền thế như chủ đất, chủ hiệu, nhà chính khách và ít nhất là cảnh sát. Tất cả bọn họ đều đã ăn cắp một cái gì đó của người nào đó. Có những kẻ giàu có đi những chiếc xe bóng nhoáng, với những bộ râu, vểnh lên kiêu hãnh. Chúng tôi thường chế giễu chúng, nhưng bố mẹ chúng tôi sợ chúng đến chết khiếp. Chúng tôi chỉ biết một điều là chúng rất giàu. Giàu có là điều quan trọng nhất bởi vì đã giàu muốn gì cũng được. Có một lần, có người bà con ở Lercara Friddi gửi biếu chúng tôi một đùi giăm-bông kiểu Sicily to tướng. Chúng tôi rất phấn khởi vì đây là lần đầu tiên nhận được quà của quê hương. Bố tôi lấy đùi giăm-bông ra và xé giấy gói. Một đùi giăm-bông
tuyệt đẹp! Chúng tôi định ăn ngay nhưng anh tôi bảo cần treo lên một thời gian để cho nó cứng lại.
Ngày hôm sau, chúng tôi vừa ăn cơm tối xong thì tên Moliari gõ cửa và bước vào. Hôm ấy là ngày thứ ba. Hắn đến để đòi lãi nợ một đô-la. Moliari là một tên chuyên cho vay lấy lãi. Hắn béo phệ và con nợ của hắn phần lớn là người Sicily. Bố tôi có vay hắn một số tiền để sắm cho chị và em gái tôi một cái giường mới và đã ba, bốn tháng nay không trả được nợ. Thế là Moliari cùng hai tay khác đến khuân mất chiếc giường. Khi nhìn thấy cái đùi giăm-bông treo lủng lẳng trên bếp, thằng chó đẻ ấy lập tức cầm lấy và thản nhiên mang đi. Ra đến cửa hắn quay lại nói với mẹ tôi: “Tôi lấy cái này nhé. Và chắc rằng bà không muốn hai cô gái của bà phải ngủ dưới sàn nhà”. Tôi quyết chí trả thù. Hai tháng sau, chúng tôi lẻn vào nhà hắn xoáy 400 đô-la. Đó là đùi giăm-bông giá đắt nhất mà thằng chó đẻ ấy đã phải mua”.
Ở ngoài đường phố, Lucania bắt đầu nhìn bạn bè với thái độ kẻ cả. Anh ta đã từng trải trong nghề, đã trở thành đầu sỏ của một băng. Vị trí của anh khá vững vàng nhờ những bài học về tội ác mà anh đã học được trong bốn tháng ở Brooklyn và bây giờ anh đem ra dạy cho bè đảng. Băng của Lucania khoảng độ một chục thanh niên con những gia đình Sicilydi cư. Chúng chia nhau đi lang thang khắp cả khu Đông. Hiếm có một cửa hiệu hoặc một khách đi đường đơn lẻ nào thoát khỏi chúng hoặc các băng khác cướp giật. Nhưng cướp giật và có tiền là một chuyện, tiêu số tiền đó cho êm thấm là chuyện khác, Lucania và bạn bè vẫn tiếp tục sống chung với gia đình nghĩa là luôn luôn có con mắt giám sát. Bố mẹ chúng phải làm việc quần quật suốt ngày, hầu như kiệt sức khi về đến nhà, mà mỗi tuần chỉ kiếm được vài đô-la không đủ cho gia đình ăn đủ no, mặc đủ ấm. Chúng biết lương thực và quần áo đắt đỏ như thế nào. Cần phải kiếm ra đủ tiền
mới có thể sắm sửa được. Với số tiền ít ỏi mà chúng kiếm được qua những công việc vặt, sắm thêm đồ đạc để dùng cho bản thân và giúp đỡ gia đình thì chỉ tỏ gây nghi ngờ. Hơn nữa, có thể đem đến những trận đòn của những ông bố mà tiếng nói là luật pháp trong gia đình, không thể tha thứ bất cứ một hành vi trái đạo lý nào.
Để tránh tình trạng đó, Lucania vạch ra một kế hoạch mới trên cơ sở những điều anh đã học được của các thầy giáo ở trường. Đó là bài học về “đoàn kết”. Đoàn kết nghĩa là chia sẻ công việc để lấy lợi nhuận. Như vậy số tiền chúng kiếm được bỏ vào một quỹ chung để chia đều cho cả băng. Mỗi đứa có cách riêng giấu món tiền đó. Đứa nào cũng muốn sắm áo quần mới bởi vì đó là phần thưởng của các hoạt động thành công. Nhưng những bộ quần áo mới đã gây ra bao chuyện rắc rối trong gia đình. Vì vậy Lucania quyết định phải sắm áo quần từ từ để gia đình và cảnh sát khỏi nghi ngờ. Khi có đứa nào cần sắm một đôi giày, đôi tất mới, hoặc bất cứ một thứ gì mới, thì cả băng họp lại và bỏ phiếu.
“Tôi đề ra một quy tắc: mỗi một người trong băng đều phải kiếm một việc làm công khai để làm tấm màn che cho việc chúng mua sắm đồ đạc mới. Tôi cho phép hai tên người Ai-xơ-len tham gia vào băng chúng tôi bởi vì chúng có việc làm và hơn nữa chúng là những chiến hữu tốt. Một đứa tóc đỏ tên là Wille Mulvaney có bố là cảnh sát ở Bronx. Một lần Wille muốn sắm một cái quần mới, vì cho đến bây giờ hắn vẫn mặc quần cộc vì còn quá bé. Chúng tôi phải họp lại và đề nghị của Willie không được chấp nhận. Ấy thế mà Wille vẫn tự ý đi mua quần và mặc về nhà. Ông bố cảnh sát của hắn có một quyển sổ ghi tỉ mỉ từng đồng xu con mình lĩnh được. Ông ta nhận ngay ra rằng Wille đã không ăn cắp cái quần mới mà lại mua nó và trả tiền đàng hoàng. Thế là mọi việc rõ ràng. Băng của tôi hồi đó có khoảng mười bốn người và tất cả chúng tôi đều bị gọi lên đồn cảnh sát
đường số 14. Cảnh tượng giống như ở rạp xiếc. Bố, mẹ, bà con tranh nhau giải thích cho viên đồn trưởng rằng chúng tôi là những đứa trẻ ngoan và chúng tôi không hề làm điều gì. Ông đánh tôi một bạt tai như trời giáng ngay giữa đồn cảnh sát”.
Chẳng bao lâu khu phố của Lucania đã trở thành quá nhỏ bé, quá nghèo nàn và băng cướp của Lucania, cú nào thành công nhất cũng chỉ kiếm được số đô-la ít ỏi. Bắt đầu có sự cạnh tranh vì những đồng đô-la chết tiệt đó. Trong khu phố, ngoài băng của Lucania cũng đã xuất hiện nhiều băng khác. Ngoài ra lại có những chi nhánh của những hội kín như Mafia, Camorrav.v... nhập từ Ý sang, không chế số người cũ và bòn rút của họ đến cùng kiệt.
Thế là Salvatore Lucania bắt đầu hướng hoạt động của mình ra xa hơn, về phía phố lớn. Về phía Bắc vùng Manhattan, là khu Đông Harlem, một khu dành riêng cho những người Ý và Sicily di cư. Nhưng ở đó cũng đã có quá nhiều băng cướp làm chủ. Hơn nữa, khu Đông Harlem xa lạ quá và cũng chẳng lớn gì hơn khu phố anh đang ở. Phần còn lại của đảo Manhattan thì chưa có ai với tới mà lại có đầy những nhà giàu kếch xù. Thế là Lucania bắt đầu chú ý đến đường phố 14. Anh điều tra tỉ mỉ tên tuổi, tài sản của người dân ở đó. Anh mơ ước có một ngày nào đó tất cả các gia tài kếch xù đó sẽ vào tay mình. Anh sẽ kiểm soát tất cả và biến khu phố đó thành vương quốc của mình.
Tất nhiên không phải chỉ một mình Lucania chú ý đến khu phố này mà đó cũng là mục tiêu của nhiều băng cướp khác ở khu Đông và Đông Harlem. Thế là chúng từ hai đầu tiến vào Manhattan. Một cuộc xung đột giữa các băng cướp này hầu như không tránh khỏi. Tuy nhiên đã không có những xô xát lớn xảy ra, bởi vì khu vực này quá rộng và thừa chỗ cho tất cả các băng cướp hoạt động.
Chính ở đây Lucania đã gặp những bạn bè mới, đồng đảng mới. “Chuyện xảy ra trong một rạp chiếu bóng ở Times Square. Tôi nhớ hình như trong rạp chiếu bóng tên là Victoria. Là đêm thứ bảy, tôi và bạn bè đi xem phim. Chúng tôi rất mê xem phim bởi vì những bộ phim câm hồi đó có phụ đề bằng tiếng Anh và điều đó giúp tôi học tiếng Anh. Tất nhiên chúng tôi thường mua vé ở trên gác. Vé trên gác rẻ tiền hơn. Hơn nữa từ trên gác chúng tôi có thể ném đủ thứ xuống đầu người xem. Đêm đó chúng tôi đã bị chủ rạp đuổi ra đường cùng với một số thanh niên ngồi ở gác bên kia. Một gã trong bọn chúng, người lớn hơn tôi một chút, là đầu đảng của một băng ở phố 104. Chúng tôi làm quen với nhau và tôi biết được hắn ta không phải người Sicily mà là người Calabrian, thuộc vùng Cozenso. Hắn tên là Francesco Castiglia. Về sau hắn trở nên nổi tiếng dưới cái tên Mỹ Franck Costello. Lúc đầu nói chuyện với hắn, tôi chẳng nghe ra gì cả. Tôi phải ghé tai vào miệng hắn mới nghe được vì giọng hắn cứ khàn khàn như bị cảm lạnh. Rất nhiều thanh niên Ý di cư qua Mỹ cũng nói cái giọng khàn khàn như vậy. Các bà mẹ của họ rất thương con và biểu hiện của tình thương đó là đưa con đi mổ a-mi-đan và cạo xoang mũi. Thường thường các bác sĩ không phải là loại giỏi, tay cầm dao mổ không được chính xác. Thế là lũ trẻ suốt đời như có một cái gì tắc trong cổ. Frank là một trong những trường hợp đó”.
Cho đến trước khi gặp Castiglia, Lucania vẫn thường nghĩ rằng bí quyết thành công của người Do Thái là sự thông minh. Nhưng ở Castiglia anh đã tìm thấy một người Ý sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, cũng có ước mơ về tương lai như Lucania. Tất cả những đức tính đó kết hợp với cái vẻ bề ngoài lịch sự và một sức khỏe mà ai cũng nhận thấy ngay. Castiglia đi đâu cũng giắt súng trong người. Hắn đã nổi tiếng về tính hung
dữ. Hai người đã nhanh chóng trở thành bạn thân. Tình bạn đó được kéo dài cho đến cuối đời của Luciano.
Mặc dầu bản năng của Lucania thiên về những hoạt động tội ác và bạn bè của anh hồi đó cũng đã 15, 16 tuổi cả, nhưng chúng cần có một việc làm hợp pháp bởi vì chúng vẫn tiếp tục sống với gia đình. Lucania làm hết việc này đến việc khác. Năm 1914, khi 17 tuổi, anh làm công cho hãng mũ Goodman ở đựờng 24 Đông. Công việc hàng ngày của anh là đem mũ đi giao cho khách hàng và các cửa hiệu trong thành phố. Mỗi tuần anh nhận sáu đô-la, cao hơn mức lương bình thường hồi đó 1 đô-la. “Thật khó mà giải thích giá trị của một đô-la này. Năm 1914, một đô-la đáng giá như cả một gia tài. Đối với bạn bè, thì 1 đô-la này cũng làm uy tín tôi nâng lên mà tôi cảm thấy mình là nhân vật quan trọng”.
Goodman đã trả thêm cho Lucania 1 đô-la ngoại lệ này bởi vì ông ta có cảm tình ngay với anh giống như nhiều người khác có tiếp xúc với anh sau này. Ngoài ra ông bố cũng còn hy vọng và tin chắc rằng con mình sẽ được hoàn lương. Cũng còn một khía cạnh khác là, khi thích và cần, anh có thể làm bất cứ việc gì. Chính khía cạnh này làm cho bà mẹ Goodman cũng như hàng trăm con người khác quen anh suốt cuộc đời đã không nhìn thấy hoặc coi nhẹ mặt lưu manh trong con người anh. Họ chỉ thấy vẻ bề ngoài của một con người nhiệt tình, cởi mở. Đối với họ, anh có thể tìm mọi cách làm vừa lòng, tỏ ra là đáng tin cậy, khao khát muôn hiểu biết, muốn làm việc.
Đó là những đức tính mà Goodman đã nhận ra và tin chắc có thể phát triển trong con người Lucania. Vì vậy chẳng những ông ta trả thêm cho Lucania 1 đô-la, mà sau giờ làm việc, ông ta hay đưa anh về nhà mình. Có lần ông đã mời anh ta nghỉ cả buổi chiều thứ sáu để cùng ông mừng lễ thánh Sabbat. Với Goodman, Lucania đã biết một lối sống khác, lối sống
của người Do Thái trung lưu mà anh ghen tị và ước ao. Căn nhà của Goodman ở West Forties khá rộng, được bày biện theo đúng mốt của thời kỳ trước Đại chiến lần thứ nhất, với những chiếc ghế bành lót nệm, những chiếc đi-văng phủ vải hoa, những bộ bàn ghế bằng gỗ quý đen bóng. Suốt đời Lucania vẫn còn nhớ những tấm vải lót tay, những tấm khăn trải bàn sang trọng. Anh cầm từng thứ lên xem, sờ mó, ngắm nghía rồi lại để vào chỗ cũ. Anh càng khẳng định tất cả những thứ đó đồng nghĩa với giàu sang.
Đồng thời anh cũng bắt đầu hiểu một khía cạnh khác trong cuộc sống của những người Do Thái mà từ trước đến này anh không hề nghĩ tới: đó là khía cạnh tôn giáo. Những đêm thứ sáu mà Goodman đưa anh về nhà, anh đã thấy người Do Thái tổ chức lễ Sabbat như thế nào. Anh đã say sưa nhìn Goodman, mặt phủ một chiếc màn, vai khoác chiếc áo lễ, trịnh trọng chủ tọa bữa cơm trong gia đình như thế nào. Bà Goodman đốt những ngọn nến lên, trong khi ông Goodman cầu nguyện, và bữa cơm bắt đầu. Gà bỏ lò, xúp gà, miến xào, xúp miến...toàn là những món ăn truyền thống của người Do Thái. Thoạt đầu anh tưởng rằng buổi lễ với các thức ăn sẽ rất hoang dại như người ta đã nhồi nhét vào đầu anh từ tấm bé. Trái lại anh đã tìm thấy một gia đình hạnh phúc và đoàn tụ. Anh được ăn thức ăn khá quen thuộc. Người Do Thái cũng ăn mì ống spa-get-ti, tất nhiên loại to hơn, không cay bằng và không sốt cà chua như món spaghetti Ý. Người Do Thái cũng thích bánh nhân thịt, tất nhiên khác loại bánh nhân thịt mà mẹ anh vẫn làm. Người Do Thái gọi là bánh “Krepnach”. Anh bắt đầu hiểu rằng người Do Thái cũng chẳng có gì khác những loại người mà anh biết. Từ đó về sau anh thường xuyên ăn những món đặc sản Do Thái, và đó là một trong những thứ mà anh nhớ nhất trong thời gian bị đầy qua Ý.
Những tình cảm tốt đẹp của anh đối với Goodman cũng như sự tin cậy của Goodman cũng không làm cho Lucania từ bỏ con đường đã chọn, mặc dầu anh ta vẫn chưa thành công trên con đường này. Những hoạt động của anh và bè đảng cũng chưa đem lại cho anh số tiền nhiều hơn sáu đô-la hàng tuần làm việc cho Goodman. Một số đồng đảng bị bắt và bị tù. Frank Castiglia, người bạn mới ở Đông Harlem, cũng đã bị bắt năm 1915 vì mang súng trái phép và bị kết án một năm tù. Viên quan toà nói với y: “Anh đã nổi tiếng là một tay súng và trong trường hợp này anh đã bị bắt quả tang. Cuộc đời anh chỉ có thể là cuộc đời của một tay súng”. (Castiglia ngồi tù 10 tháng và từ đó y tìm mọi cách để không cần đến súng. Suốt 40 năm sau, y không hề bị bắt quả tang về một hành động tội ác nào). Còn Lucania thì may mắn hơn, chưa từng bị bắt lần nào mặc dù càng ngày anh càng đáng khả nghi. Việc anh thường xuyên vắng nhà suốt đêm, cũng như các thứ anh thường có, bản thân anh ngày càng tin chắc rằng anh sẽ làm ra tiền và đạt đến quyền lực như vẫn mong ước. Lẽ tất nhiên phải liều vì mối nguy cơ ngày càng nhiều và lớn hơn.
Có một thời gian, anh theo dõi và quan sát George Scanlon khi lão này lảng vảng ở trong vùng. Anh không chú ý đến Scanlon. Hắn lại một chiếc xe hơi to tướng và hắn đỗ xe bất cứ nơi nào hắn muốn, ngay cả trên vỉa hè. Chẳng ai gây chuyện với hắn. Hắn ăn mặc sang trọng và ngón tay mập ú của hắn đeo một chiếc nhẫn kim cương đắt tiền. Ấy thế mà chẳng ai dám bắt cóc George Scanlon. Hắn luôn luôn cảm thấy an toàn vì đi đâu cũng có cả bầy cảnh sát, đi theo. Có thể hắn cũng là người của cảnh sát. Sau này người ta mới biết Scanlon mới bắt đầu làm nghề này cách đây không lâu lắm. Bởi vì chỉ mới cách đây chừng mười năm, Quốc hội Mỹ mới bắt đầu thí nghiệm những biện pháp nhằm ngăn cấm việc nghiện ma tuý. Đạo luật về ma tuý và thực phẩm mới được thông qua năm 1906, và đạo luật
Harrison năm 1914 đã đưa ra một số biện pháp nghiêm ngặt hơn một chút. Mặc dầu hậu quả nghiêm trọng nhất của những biện pháp này đã có một số tác dụng không lường trước. Đã mấy chục năm nay người Mỹ quen chữa hàng ngàn thứ bệnh, cả bệnh thật và bệnh tưởng bằng những bài thuốc của thổ dân da đỏ và hàng trăm loại thuốc khác bán hợp pháp trên thị trường. Nếu như các loại thuốc này đã không có tác dụng chữa bệnh chút nào thì cũng đã có một tác dụng kỳ lạ: hầu hết những loại thuốc này đều chứa thuốc phiện cô-ca-in. Hàng ngàn người đã trở thành nghiện ngập. Bây giờ, luật pháp lại nghiêm cấm ma tuý, thế là những người nghiện buộc phải tìm mua thuốc đó một cách bất hợp pháp và phải trả giá cao chưa từng có. Người ta đua nhau tìm mọi cách để cung cấp cho nhu cầu về ma túy, không những cho bọn lưu manh và gái điếm, không những cho những tay nghiện ngập mà mọi người đều biết, mà cả cho những bà nội trợ thiếu thuốc mỗi khi lên cơn nghiện.
Scanlon đã hành nghề một cách công khai. Hắn không hề tỏ ra ra sợ hãi cảnh sát, vì cảnh sát đã được hắn lót tiền để che chở cho hắn, Lucania bắt đầu tự hỏi làm thế nào để tiếp xúc với Scanlon. Có thể Scanlon sẽ nhận anh và anh có cơ hội làm ra tiền nhiều. Cơ hội đó đã đến. Một buổi sáng, khi Lucania đã 18 tuổi, trên đường từ nhà đến hiệu của Goodman, anh ta bỗng thấy chiếc xe ô tô của Scanlon đỗ ngay trước nhà. Anh ta vội chạy vào nhà, vơ một nắm giẻ rách, chạy trở ra đường, và cứ thế lau xe. Vài phút sau, Scanlon xuất hiện. Hắn đứng nhìn cho đến khi Lucania lau xong xe. Hắn chìa cho anh ta một đồng 25 xu.
Lucania không nhận tiền: “Ấy, ông cứ giữ lấy. Tôi chỉ cần nói chuyện với ông vài phút”. Anh ta nói là muốn làm việc với Scanlon. Scanlon hỏi: “Anh làm được những việc gì?”.
Lucania trả lời, anh ta đang làm người giao hàng cho hãng mũ: “Nếu tôi giao mũ thì tôi cũng có thể giao những thứ khác”. Scanlon hứa là tuần sau đó sẽ thử xem anh ta có thể làm được việc không.
Liền mấy tháng sau đó, Lucania vừa giao hàng cho Goodman vừa giao hàng cho Scanlon. Anh ta giấu ma túy vào trong những chiếc hộp để mũ mà anh ta phải giao cho khách. Cứ mỗi buổi sáng anh ta giao khoảng một chục chiếc mũ cho khách hàng của Goodman. Trên đường đi, anh ta dừng lại để giao ma túy cho các khách hàng của Scanlon. Tiền công hàng tuần vẫn chưa được định rõ, chỉ biết là mỗi lần anh ta nhận cả nắm đô-la khoảng từ 10 đến 20 đồng. Chỉ độ vài tuần, trong túi anh ta có hàng trăm đô-la. Việc làm với Goodman phải hàng bốn tháng cũng chưa mong có món tiền như vậy.
Rõ ràng là một việc làm dễ dàng mà đưa lại nhiều tiền. Nhưng việc này đã không được lâu dài. Một tên trong đồng đảng của anh ta ganh tị vì thấy anh nhiều tiền, đã bắn tin cho cảnh sát. Cảnh sát bắt đầu theo dõi anh chặt chẽ.
Một ngày tháng 6 năm 1916, anh vừa ra khỏi nhà một khách hàng thì bị bắt. Trong một hộp mũ của hãng Goodman, cảnh sát đã tìm thấy một nửa lạng bạch phiến.
Ngày 26 tháng 6 năm 1916, anh bị toà án New York kết tội mang ma túy trái phép trong người...mặc dầu Goodman hết sức bào chữa cho anh. Bà mẹ thì khóc hết nước mắt. Nhưng Lucania vẫn bị kết án một năm tù ở trại giam Hampton. Suốt cả thời kỳ xử án, ông bố không thèm đến toà một lần nào.
Sáu tháng sau, Lucania được trả tự do, sau khi ký vào tờ cam đoan. Từ đó cho đến 20 năm sau, anh ta không hề bị kết tội một lần nào nữa. Trong
thời gian đó anh ta trở thành kẻ cầm đầu nổi tiếng của “thế giới tội ác” có tổ chức của Mỹ.
2
L
ucania ra khỏi trại giam Hamptonđúng vào lễ Noel. Từ đó, cái tên Ý Salvatore đã đổi thành cái tên Mỹ Charles hoặc Charlie Lucania. Khi ra khỏi trại, anh ta có một số tiền cất giấu từ trưốc. Một số tiền không đáng kể. Anh đã quyết định không theo lời khuyên của Goodman, cũng không nghe lệnh của bố muốn anh ta phải kiếm việc làm và trở thành một công dân lương thiện cần cù. “Tôi chỉ nghĩ có một điều là từ nay quyết không để bị bắt một lần nữa”. Đối với cả gia đình, viêc Charles bị bắt và bị giam là một sự nhục nhã. Ông bố càng ngày càng thấy mối nghi ngờ của mình đối với đứa con được khẳng định, ông coi tương lai của đứa con như thế là hết. Còn bà mẹ thì, giống như bao bà mẹ khác đối với đứa con cưng của mình, sầu não, nhưng rồi cũng tha thứ. Tuy vậy, suốt thời gian anh ở trong trại giam, gia đình đã đối xử với anh như là anh đã chết. Mặc dù anh viết thư về nhà nhiều lần, không một ai vào trại thăm anh.
Chỉ có Goodman đã đến trại thăm anh, không phải chỉ một, mà nhiều lần. Goodman cũng đã bị khá nhiều chuyện rắc rối, bị theo dõi sau khi Lucania bị bắt quả tang giấu ma túy trong những hộp mũ mang nhãn hiệu của ông. Mặc dù ông ta được minh oan, nhưng vẫn là một kinh nghiệm đau đớn với một con người không còn trẻ và khỏe nữa. Đã có lần Goodman hỏi Charles: “Tại sao anh lại đối xử với tôi như vậy? Tôi đối xử tốt với anh, tôi coi anh như con và anh đã trả ơn tôi như thế à?”.
Về sau Luciano nhớ lại hồi đó đã có lần anh bật khóc khi nghe Goodman nói. Suốt đời chẳng mấy lần anh khóc. Anh rất có cảm tình với con người đó vì ông đã giúp đỡ anh, đã hé mở cho anh thấy một thế giới mà trước đây anh chưa hề biết, đã đến thăm anh ở trại giam khi chính gia đình anh đã từ bỏ anh và ông ta đã đối xử với anh như một người cha. Cuối cùng anh đã trả lời ông ta: “Bởi vì tôi muốn có tiền”.
Goodman nói: “Nhưng tiền không phải là tất cả trên cuộc đời này”. - “Nhưng khi người ta không có tiền thì tiền là tất cả”.
- “Nếu anh cần tiền thì tại sao anh không đến gặp tôi?”
- “Dù tôi có đến tìm ông, ông cũng chẳng cho. Tôi cần một chiếc áo mới”.
- “Chiếc áo tôi đang mặc rất mới. Nhưng tại sao anh lại cần một chiếc áo mới? Vấn đề quan trọng là ở chỗ, ta phải làm việc mới có tiền mua áo mới. Này Sal ạ”...
- “Đừng gọi tôi là Sal. Từ nay tên tôi là Charlie”.
Đối với anh, Sal là tên của đàn bà. Trong những ngày đầu anh mới vào trại giam Hampton, người ta gọi anh là Sallie. Anh tin chắc rằng cái tên có vẻ đàn bà ấy đã làm cho một số tên đồng tính luyến ái bám lấy anh ta. Anh ta đã nhiều lần chống cự kịch liệt. Cái tên Charlie có vẻ đàn ông hơn, vì vậy từ đây tên anh là Charlie.
- “Thế cũng được, Goodman nói. Từ nay tôi sẽ gọi anh là Charlie. Tôi đang tìm cách để người ta thả anh ra, nhưng anh phải hứa với tôi là ở đây người ta bảo anh làm việc gì thì anh phải cố mà làm cho tốt”.
Thế là Goodman bắt đầu vận động, viết thư, xin gặp các nhà chức trách để chạy chọt cho Charlie Lucania và hứa sẽ nhận anh trở lại làm việc ở xưởng mũ của ông. Goodman đã phải chạy chọt hàng sáu tháng trời mới có kết quả.
Trong sáu tháng đó, Lucania đã giữ lời hứa đối với Goodman và đã trở thành một trại viên gương mẫu. Suốt đời anh vẫn tự hào là người luôn luôn giữ lời hứa, mỗi lời hứa của anh cũng giá trị như một bản hợp đồng, thậm chí còn giá trị hơn, mặc dầu không bao giờ anh ký một thứ giấy tờ gì có thể gây rắc rối cho anh. “Tôi lau sàn nhà, lau tường, lau chuồng xí, đi đổ bô. Ở trong trại những người coi tù kiểm soát rất chặt chẽ. Chúng tôi được phân những việc làm tồi tệ nhất. Hầu như không có ngày nào tôi không được nhận vài chiếc dùi cui cao su vào lưng. Tôi có một cái chổi, một mớ giẻ rách, một cái bàn chải cứng và một lại chất nước dùng để lau sàn. Tôi phải bò ra sàn để lau, lau suốt ngày và khi đứng dậy, hai đầu gối của tôi trầy da và toé máu. Suốt đời những vết thương ở hai đầu gối tôi không khỏi. Có một đôi lần, tôi lấy giẻ bọc đầu gối nhưng bọn cai tù trông thấy, thế là tôi bị những trận đòn nên thân. Đêm nào cũng vậy, tôi mệt quá, không thể nào ăn được. Hơn nữa, dù có đói bụng cũng không thể nào nuốt nổi những thứ khủng khiếp mà họ cho chúng tôi ăn.
Nhưng đối với tôi, điều tệ hại nhất trong sáu tháng ấy là tôi chẳng bao giò được yên thân một mình. Bất cứ tôi làm gì cũng có hàng trăm đôi mắt nhìn chằm chằm vào tôi. Thậm chí cả khi tôi đi đại tiện”.
Luciano rất thích nói chuyện phim. Suốt cả cuộc đời anh thường xuyên đi xem phim. Anh thấy mình ở trong phim và thường hay liên hệ với cuộc đời của mình. “Có lần tôi xem bộ phim tên là Oliver Twist, phim dựa vào quyển sách do người Anh mang cái tên là Charles Dickens viết. Anh chàng thanh niên trong bộ phim làm tôi nghĩ đến bản thân mình, bởi vì suốt bộ phim cậu bé khôn khổ thường xuyên bị đánh đập giống như họ đã đánh đập tôi hồi ở trại Hampton”.
Vào đêm Noel 1916, Charles Lucania được trả lại tự do có điều kiện. Anh phải cam đoan sẽ hạn chế sự đi lại và trở về sống với gia đình.
Khi bước vào nhà tù, anh ta gầy gò, nhỏ bé; khi ra khỏi nơi đây, anh đã lớn hẳn lên. Nhìn thấy anh, bà mẹ òa khóc và dọn cho anh một bữa ăn thật thịnh soạn. “Cả nhà, ngay cả anh chị tôi cũng tìm mọi cách thúc giục tôi “cải tạo”, trở lại làm việc với Goodman. Tôi biết mọi người trong gia đình cảm thấy hổ thẹn vì tôi mỗi khi họ gặp những người đồng hương Sicily, và mọi người gọi tôi là “thằng hư hỏng”. Hình như việc tôi đổi tên thành Charles như một tội giết người. Bà mẹ tôi nói: nhiều người trong dòng họ tôi mang tên Salvatore, đó là một cái tên đáng tự hào mà tôi không được quyền làm nhơ bẩn. Bà vẫn tiếp tục gọi tôi là Sal. Còn bố tôi, cứ mỗi lần tôi bắt chuyện với ông, ông chỉ nhổ nước bọt đánh toẹt xuống sàn nhà rồi lẳng lặng bỏ đi”.
Hồi đó, anh đã 19 tuổi, không còn là một đứa bé nữa. Anh đã trở thành một người lớn. Anh đã định hướng đi cho cuộc đời mình. “Tôi đã bắt đầu nhận ra rằng lời hứa của tôi đối với Goodman chỉ biến tôi thành một người bỏ đi trong xã hội, làm việc vất vả như một tên nô lệ chỉ vì một vài đồng bạc, chẳng khác gì bao nhiêu con người bỏ đi khác. Tôi đã quyết chí thà chết còn hơn cam chịu số phận như vậy”.
Anh đã không trở thành một người bỏ đi. Anh đã trở thành một thủ lĩnh có uy tín, bởi vì đã từng ở tù. Trong tù anh đã học được thủ thuật cần thiết cho những hành động quy mô và thành công hơn. Chẳng bao lâu những tay gangster cỡ lớn ở khu Little Italy bắt đầu chú ý đến anh; ngỏ ý muốn mời anh tham gia vào băng của mình. Cũng có những lần, anh cùng đi hành nghề với họ, nhưng mối quan hệ giữa anh và họ không chặt chẽ lắm. Anh chưa bao giờ tự coi mình là thành viên của bất cứ băng nào. Anh tự coi mình là một thủ lĩnh chứ không phải là một kẻ theo lệnh của người khác.
Trong khi đó, ông bố của Charles Lucania ngày càng nghi ngờ con mình. Ông ta cố tìm cho ra bằng chứng. Khoảng đầu năm 1917, có lần ông
tình cờ lục lọi những đồ đạc của Charles và tìm thấy một cái thắt lưng có cái khoá bằng vàng đắt tiền. Ông lặng lẽ không nói gì với con. Suốt sáng hôm sau, ông đi khắp xóm và cuối cùng, cách nhà ông bốn khối nhà, ông đã tìm ra một cửa hiệu kim hoàn vừa mới bị mất trộm. Trong những đồ vật kẻ trộm lấy đi, có cái khoá thắt lưng bằng vàng mà ông tìm thấy trong va-li của con.
Đêm hôm đó, ông gí cái khoá thắt lưng vào mặt Charles và hỏi: “Mày ăn trộm cái khoá thắt lưng bằng vàng này để làm gì? Có phải đây là cái quan trọng nhất đời mày hay sao?”.
Charles trả lời: “Con thích thì con lấy”.
Ông bố ném chiếc khoá thắt lưng vào mặt Charles. Một bên má bật máu, chảy ròng ròng xuống. “Tôi tưởng tôi sẽ đánh trả lại bố tôi. Nhưng tôi đã không làm điều đó. Không bao giờ một người Sicily lại đánh bố mình”. Charles với tay lấy một chiếc khăn ở bếp và tìm cách dịt cho cầm máu trong khi ông bố tiếp tục hét vào mặt anh: “Mày không phải là con tao. Mày chỉ là thằng ăn cắp. Từ nay không được ở trong nhà tao nữa. Cút ngay”.
Đúng lúc đó, bà mẹ bước vào phòng. Charles nhìn mẹ và nói: “Tạm biệt mẹ, con đi đây!”. Bà mẹ hiểu ngay lập tức chuyện gì đã xảy ra. Bà đấm thùm thụp vào lưng chồng: “Không, ông không được làm điều đó. Ông không thể đuổi thằng Sal của tôi ra đường”. Nhưng ông bố không nhân nhượng.
Thế là đêm đó, Charles Lucania phải hoàn toàn tự lập. Anh đến khu West Twenties ngủ nhờ một tay bạn cùng băng tên là Frankie Coppola. Cứ mỗi tuần, họ phải trả ba đô-la để thuê một gian phòng nhỏ với một cái bếp ga, một cái gường đôi, và một chiếc bàn tròn. Áo quần thì móc vào đinh đóng trên tường. Còn tất cả các đồ vật khác, xếp vào một giá gỗ sáu
ngăn. “Lúc đầu căn phòng đó với chúng tôi như một toà lâu đài, bởi vì đây là lần đầu tiên chúng tôi không sống với gia đình. Điều quan trọng nhất đối với chúng tôi là chúng tôi không còn phải giấu giếm như ở nhà nữa. Frankie và tôi dọn một góc phòng để bạn bè đến nghỉ. Có nhiều đêm, chúng tôi ở ngoài đường đến tận khuya, có những đứa không dám về nhà”.
Cái cảnh sống tự do dó chỉ kéo dài được vài tuần. Bọn con gái được Lucania dẫn về phòng mình đã bắt đầu nói đến chuyện cưới xin. “Tôi không phải là cái loại người muốn dính vào những chuyện như vậy. Đời tôi còn bao nhiêu chuyện phải làm. Tôi thấy được điều đó sau một vụ trộm do băng tôi tiến hành ở Battery. Một cậu ở trong băng tên là Wille Cioppi phát hiện ra một cái kho ở gần một chợ cá. Đây là một cái kho cá nục là thứ cá mà người Ý thích nhất. Chúng tôi định xoáy một mẻ. Nếu như thành công, thì ít ra cũng được hai tờ nghìn đô-la. Nhưng Wille đã điều tra không tỉ mỉ. Hắn không biết rằng các tối thứ bảy, số người gác kho tăng lên gấp đôi. Thế là Frankie Coppola bị đòn. Còn chúng tôi chạy thoát. Đây là lần đầu tiên Frankie bị bắt cho nên người ta đã thả hắn ra với điều kiện hắn phải về sống với gia đình và trở lại trường học. Frankie đã làm đúng như vậy. Nhờ đó, hắn đã học được cách tính toán cho sau này”.
Bây giờ thì Lucania hoàn toàn tự lập. Điều đó cũng chẳng dễ dàng gì. “Tình hình ngày càng tồi tệ. Tôi đứng đầu một băng gồm những chàng trai thật là cừ, nhưng công việc lại ít ỏi. Thế là chúng tôi không một đồng xu dính túi”. Anh phải tìm cách xoay xở. Mọi liên hệ với gia đình vẫn chưa hoàn toàn bị cắt đứt. Thỉnh thoảng, anh lại về nhà, ăn nhờ một vài bữa cơm. Lần nào có ông bố ở nhà, bầu không khí thật là nặng nề. Bà mẹ thì tuần nào cũng đến thăm anh ít nhất là một lần. Lần nào bà cũng không quên mang đến một nồi mì spaghetti nấu xốt. Bà nói với con trai: “Mẹ biết con trai mẹ chỉ thích ăn mì spaghetti”. Lucania cũng có một cái bếp ga nấu
được spaghetti nhưng trước khi nấu phải bỏ vào một đồng xu, bếp mới hoạt động. Không phải khi nào Lucania cũng có sẵn xu trong túi để sử dụng cái bếp kỳ quái này. Dù cho bếp có hoạt động, cũng chưa hết vấn đề. Vì chiếc bếp ga chỉ có một ngọn cho nên nấu xong nước xốt thì mì đã nguội tanh. Luộc lại được mì thì xốt lại nguội. “Sau đó bà láng giềng Petracci cho tôi nấu nhờ bếp của bà. Thỉnh thoảng bà lại đi vắng, đúng vào lúc tôi chẳng còn đồng xu nào, thế là đành nhịn đói”.
Còn bà mẹ thì không phải chỉ đem cho mì spaghetti. Bà cụ còn tìm mọi cách thuyết phục Lucania trở lại nhà trường kiếm một chút học vấn cần thiết cho công việc lương thiện sau này. Lucania hỏi lại mẹ: “Nhưng ở nhà trường họ có thể dạy con cái gì?”. Tuy nhiên, cuối cùng anh đã nhân nhượng. Anh không muốn trở lại trường học, vì vậy, anh nhận lời trở lại làm việc cho Goodman.
Suốt cả thời gian qua, Goodman đã cố hết sức đến thuyết phục Lucania cùng với gia đình để anh ta trở lại làm một việc lương thiện. Khoảng đầu năm 1917, cố gắng của Goodman có vẻ đã thành công! Ông đến nhà Lucania và báo tin cho ông bố, bà mẹ là Charles đã hứa tuần sau sẽ trở lại làm việc, ông bố cũng tin là Lucania có hứa với Goodman như vậy, nhưng ông không tin con mình sẽ giữ lời hứa. Một buổi tối sau mấy tuần vắng mặt, Charles trở về nhà. Anh mặc một bộ áo quần mới, một đôi giày mới, đầu đội một chiếc mũ rất hợp thời trang. Chiếc áo sơ-mi của anh may bằng thứ lụa đắt tiền. Khi cả gia đình quây quần ở phòng ăn. Lucania đang say sưa thưởng thức món ăn mà anh thích nhất, thì ông bố cứ chằm chằm ngắm bộ áo quần của Lucania. Charles nói với bố là anh ta vừa nhận lương, và đã sắm bộ cánh này. Anh còn nói rõ, anh đã trở lại làm việc với Goodman mấy tuần nay. Thế là lộ tẩy, Goodman vừa mới ra khỏi nhà. Ông bố lại có thêm một bằng chứng là ông đã hành động đúng khi tống cổ đứa
con hư này ra khỏi nhà. Ông gọi Charles là thằng dối trá; ông đắc thắng kể lại tỉ mỉ câu chuyện của Goodman vừa đến thăm gia đình. Bà mẹ khóc nấc lên. Charles quay về phía bà và nói: “Giê-su- ma, Giê-su-ma! Mẹ hãy câm miệng đi”.
Đốì vối gia đình tôi, tôi đã phạm một sai lầm không thể tha thứ được. Đó là việc tôi đã gọi tên Giê-su-ma trong một lời thề độc. Nhưng điều tệ hại hơn nữa là tôi đã bảo mẹ tôi “câm miệng đi”. Bố tôi từ từ đứng dậy, đôi mắt lim dim, ông chồm người qua bàn và đấm một quả vào mặt tôi. Tôi chưa kịp hoàn hồn thì ông ném luôn cả đĩa thức ăn vào người tôi. Thế là thức ăn, thịt, mì, nước xốt, pho-mát, chảy giàn giụa từ đầu đến chân tôi. Bộ cánh mới toanh của tôi thế là đi tong. Trong nhà không ai nói một lời. Bố tôi đứng sững chằm chằm nhìn tôi. Bà mẹ vẫn nức nở. Các anh chị tôi quay mặt đi nơi khác. Tôi đứng dậy và đi ra khỏi nhà. Cả một thời gian dài, tôi không trở về nhà nữa. Mãi về sau, thỉnh thoảng tôi có về nhà khi bố tôi vắng mặt. Bộ cánh của tôi mặc hôm đó không bao giờ giặt sạch được mùi dầu ô-liu”.
3
C
uối năm 1917, Charles Lucania tiếp tục sống một mình trong căn phòng nhỏ. Cho đến bây giờ, anh cũng chưa kiếm được nhiều tiền hơn so với việc làm lương thiện chỗ Goodman. Muốn phất tay nghề trộm cắp, không phải là dễ. Thường thường băng của anh chỉ kiếm được một vài đô la, và chỉ bọn tiêu thụ của gian là vớ bỏ. Hàng xóm cũng đã bắt dầu chú ý đến anh và đồng đảng. Bất cứ anh xuất hiện nơi nào là người ta hềt sức đề phòng.
Tuy nhiên, anh vẫn tự an ủi mình, là kế hoạch của anh sẽ có ngày thực hiện, chỉ còn là vấn đề thời gian. Anh cũng chưa mất lòng tin đối với tương lai của mình. Frank Castiglia đã ra tù, hai người đã liên lạc với nhau. Ít lâu sau, anh lại thu nạp được hai thanh niên Do Thái mà anh đã quen biết từ hồi còn ở chung với gia đình. Một cậu tên là Maier Suchowljansky, sinh năm 1902 ở Grodno nước Nga. Anh ta đến New York năm 1911, lúc mới lên chín tuổi, cùng với gia đình người chị và đứa em trai tên là Jake. Ở trường học tên anh được Mỹ hoá trở thành Meyer Lansky. Anh tỏ ra rất ham học và khá xuất sắc về toán, ở ngoài đường phố, Meyer Lansky cũng tỏ ra rất ham hiểu biết. Mặc dầu tầm vóc nhỏ bé, anh tỏ ra không sợ đánh nhau và anh đánh nhau cũng cừ; vì vậy, chẳng bao lâu, Lansky đã trở thành nổi tiếng và luôn luôn đánh lộn. Do gia đình không đủ tiền cho anh tiếp tục đi học, Lansky đã rời ghế nhà trường sau khi học xong lớp 8 và tiếp tục đi học việc ở xưởng cơ khí. Anh đã tỏ ra thông minh và khéo tay. Về sau, bạn
bè vẫn coi anh là một tiềm năng về máy móc. Chỉ có Charles Lucania có thể so sánh với anh. Cũng như Lucania, Lansky là một chàng trai đầy tham vọng và không từ một hành động tàn bạo nào để đạt tham vọng đó.
Bất cứ Lansky đi đâu, cũng có một chú bé kém anh bốn tuổi luôn luôn đi sát anh như hình với bóng. Chú bé Benjamin Siegelsinh ra ở nước Mỹ nhưng gia đình chú ta từ Kiev đến vài năm trước khi chú ta ra đời. Ngay từ khi còn nhỏ Siegel đã có dáng người cao cao, đẹp trai, đi đứng nhanh nhẹn, được mọi người có cảm tình. Chính Lucania đã từng nói, mọi người đều yêu mến Benny. Mặc dầu ít tuổi Benny cũng đã làm mọi người kiêng nể. So với Lansky, Benny không khôn ngoan bằng, nhưng anh đã tỏ ra không biết sợ là gì. Anh sẵn sàng làm bất cứ việc gì dù nguy hiểm đến đâu để chứng minh là mình chẳng thưa kém ai. Hễ có một đám đánh nhau, chính Benny là người đầu tiên xông vào đấm đá. Benny luôn là người đầu tiên lẻn vào các cửa hiệu và là người cuối cùng rút lui khi có vụ trộm. Trong khi một số người khác ngại không dám giắt súng theo người thì Benny đi đâu cũng mang theo súng như thằng khùng và bạn bè thường gọi anh là “thằng khùng” (Về sau, trừ những bạn thân như Lansky và Lucania, còn những người khác không ai gọi anh như vậy, chỉ gọi là Ben hoặc Ben-ni mà thôi).
“Tôi đã biết Lanskyvà Benny từ lâu, khi tôi chưa bỏ gia đình, khi tôi còn bắt bọn trẻ con Do Thái trả tiền thuê bảo vệ. Tôi còn nhó, có lần tôi đã nói với Lansky trả tiền cho tôi. Hồi đó tôi cao hơn Lansky một đầu. Hắn ngẩng mắt lên nhìn thẳng vào mắt tôi và nói: “Đ. m. mày!” tôi bật cười, vỗ vỗ vào vai hắn và nói: “Ô kê, tao sẽ bảo vệ mày mà không lấy tiền”. Hắn quay ngoắt đi: “Bảo vệ cái đít ông đây này, ông đếch cần”. Tôi hiểu ra ngay là hắn không cần ai bảo vệ. Cùng với Benny Siegel, Meyer Lansky là một trong những tay cừ khôi nhất mà tôi đã gặp trong đời, và điều này, ngay cả
Albert Anastasia hay bất cứ một tay anh chị nào cùng vùng Brooklyn cũng phải thừa nhận”.
Lucania và Lansky đã gắn bó với nhau. Không những họ cùng có những tham vọng chung, cùng gan góc như nhau, mà còn có lý do nữa: cả hai đều biết cách làm chủ tình cảm của mình. Những đức tính này cũng đã đưa Costello đến với họ. “Chúng tôi giống như những nhà phân tích trong phòng thí nghiệm. Chúng tôi không bao giờ quyết định điều gì nếu chưa có đủ thời gian để suy nghĩ kỹ về nó. Siegel thì trái lại. Chúng tôi cho đó là điều tốt, vì anh ta sẽ là người thực hiện tốt nhất”. Lucania không hề bị vướng mắc gì về việc Lansky và Siegel đều là dân Do Thái, mặc dù các bè bạn người Ý và Sicilythì nhiều ý kiến về chuyện này. Cả hai người có nhiều điểm làm anh mến. Họ cũng có những tham vọng, những ham muốn giống như anh mặc dù về tín ngưỡng, họ khác.
Việc hình thành bộ tứ này sẽ có tác động quyết định đối với bộ mặt của “công đoàn tội ác”, làm cho nó từ những hoạt động rời rạc và cầu may, trở thành một mối đe doạ, có quy mô và chiều sâu mới đối với đời sống xã hội nước Mỹ sau này. Đứng đầu bộ tứ là Charles Lucania (mười năm sau anh đổi thành Charles Luciano). Khỏe mạnh tinh khôn, một người tổ chức và một thủ lĩnh bẩm sinh luôn luôn bình tĩnh, ranh mãnh và thông minh như một con rắn. Bên cạnh anh là Frank Castiglia (sau này đổi thành Frank Costello) dịu dàng, khỏe mạnh, tinh ranh, đa nghi. Và Mayer Lansky, cứng rắn, khôn ngoan, cẩn trọng, lại thích giấu mình; nhiều người chịu sự tác động và chỉ huy của anh mà không biết anh là thủ lĩnh. Bạn bè thường coi anh như một thiên tài. Cuối cùng là Benjamin Siegel “thằng khùng”, người cao, đẹp trai, dịu dàng, khỏe mạnh, tàn nhẫn, táo bạo. Tóm lại, bốn tên sát nhân và cả bốn người đều có những ý đồ và ước mơ cho tương lai của mình. Luciano có lần nói: “Bốn chúng tôi là một ê-kíp tuyệt vời chưa từng
có. Chúng tôi hiểu rõ công việc của chúng tôi hơn bất cứ ai. Chúng tôi giống như bốn kỵ sĩ của Đức Bà, chỉ có điều là trong bốn kỵ sĩ này có hai tên Do Thái”.
Castiglia bắt đầu có cái tên mới trong một vụ trộm mà bộ tứ cùng nhau tiến hành. “Chúng tôi chuẩn bị đột nhập vào một nhà kho ở bờ sông. Benny đi đầu và hạ thủ người gác đêm. Khi chúng tôi chuẩn bị rút lui thì Mayer phản đối. Hắn nói hhư thế này: Tại sao bọn Do Thái chúng tôi luôn luôn phải đi đầu và hứng chịu mọi nguy hiểm? Trong chúng ta có hai người Ý, tại sao các anh lại không dám làm vậy?”...
- Anh nói cái gì vậy? Hai người Ý à? Anh nhầm rồi, chỉ có một thôi. “Lansky sững sờ nhìn tôi” Sao? Tôi bật cười và chỉ vào Frank: “Anh ta là người Ai-xơ-len. Anh biết đấy tên anh ta là Frank Costello”. Từ đó, Costello trở thành tên của anh ta. Tôi kể lại chuyện này cho bạn bè và họ cũng bắt đầu gọi Costello: “Này, anh chàng Ai-xơ-len”, về sau khi chúng tôi bắt đầu dính vào chuyện chính trị ở New York, cái việc chúng tôi có một thanh niên Ý mang cái tên Ai-xơ-len Costello là có lợi”.
Bộ tứ làm ăn ngày càng phát đạt. Họ đã biết rút những kinh nghiệm thất bại, và các vụ trộm, vụ cướp chuẩn bị chu đáo hơn, với quy mô ngày càng lớn hơn. Tiền làm ra ngày càng nhiều, băng của họ ngày càng đông hơn, phạm vi hoạt, động ngày càng rộng hơn: “Chúng tôi có nhiều tiền đến mức việc cất giấu trở thành khó khăn. Nhiều đến mức Lansky nổi tiếng là người giỏi tính toán thế mà nhiều lần đếm không xuể. Chúng tôi nghĩ cách mở một tài khoản ở ngân hàng, ở gần đấy có một ngân hàng nhỏ, hình như tên là United States thì phải. Một ông chủ của Lansky có quen một trong những ông chủ của ngân hàng này. Thế là Lansky được phân công đến dò la xem thử nơi đó có đáng cho chúng tôi gửi tiền hay không. Anh ta đã lảng vảng ở ngân hàng và anh ta phắt hiện ra rằng ở đấy chỉ có một người gác
già cố đế. Như vậy, khoảng hai tuần sau đó, đáng lẽ đem tiền đến gửi ngân hàng thì chúng tôi cuỗm một mẻ tám ngàn đô-la của ngân hàng này. Mayer nói: “Ngân hàng này không đáng cho chúng ta gửi tiền”.
Chẳng bao lâu lại xuất hiện một tình thế khó khăn mới. Không phải họ có vấn đề gì với cảnh sát, bởi vì họ tin rằng, không bao giờ cảnh sắt tóm cổ được họ. Mùa xuân năm 1917, nước Mỹ tham chiến. Siegel và Lansky chưa đến tuổi động viên. Costello thì được miễn vì viêm họng, còn Charles Lucania đến tuổi 20, khỏe mạnh, một đối tượng lý tưởng trong quân đội Mỹ.
Nhưng anh ta lại không có ý định đi đánh nhau, bởi vì điều đó làm mọi kế hoạch của anh ta hỏng bét!
“Không phải là tôi sợ chiến tranh hoặc sợ chết. Nhưng tôi biết rằng, nếu tôi qua châu Âu đánh nhau, thì đến khi tôi trở về, mọi việc sẽ hỏng bét. Chiến tranh ở châu Âu đã nổ ra không đúng lúc. Chúng tôi đang làm ăn khấm khá và băng của tôi cần tôi ở nhà hơn là chú Sam gọi tôi đi chiến đấu. Vì vậy, tôi cần nghĩ ra một cách để trốn động viên.”
Siegel nói đùa: “Chỉ một cách làm cho chú Sam chịu để cho Charles ở nhà là chúng ta phải kiếm cho hắn một đại tướng Pershing”. Mọi người thích thú với câu nói đùa của Siegel. Chính anh ta đã nghĩ ra cách để tôi thoát quân dịch. Hồi đó, Siegel chỉ mới 15 tuổi, nhưng chú bé đã lõi đời hơn tất cả chúng tôi cộng lại. Cậu ta nói: Chỉ có cách duy nhất giữ Charles ở lại là cho anh ta “vỡ ông khói”. Bạn bè tán thành ý kiến đó.
“Tôi sửng sốt nhìn họ. Hình như họ đã hóa dại. Tôi nói với họ, kế ấy không xong. Nhưng Frank Costello đảm bảo với tôi là anh ta có quen một bác sĩ có thể chăm sóc và chữa cho tôi đến khi bệnh chấm dứt. Còn Lansky, nhà toán học thiên tài của chúng tôi, thì đánh cuộc là chiến tranh sẽ không
kéo dài một năm. Thế là với ba phiếu thuận, một phiếu chống, ý kiến của Siegel được thông qua.
“Vấn đề còn lại là bây giờ làm thế nào để vỡ ống khói. Vì thứ này không thể mua hoặc lấy trộm ở một cửa hiệu được. Vài ngày sau đó, Siegel đẩy cửa bước vào phòng của tôi và nói: “Mọi việc đã thu xếp ổn thỏa”. Hắn quen một người bạn tên là Herbie Shapiro vừa mới vỡ ống khói, sau khi ngủ với một cô gái tên là Nora, ở nhà chứa Jenny nằm giữa đường 16 và Đại lộ số 2.
5
Thế là từ bây giờ, anh không còn phải lo ngại về chiến tranh nữa. Từ nay, nếu anh có chết vì một làn đạn nào đấy thì điều đó chỉ có thể diễn ra trên các đường phố New York. Lucania và băng của mình nhanh chóng mở rộng hoạt động trong những năm chiến tranh. Họ kiếm ra vô khối tiền. Tháng 11 năm 1918, khi ký hòa ước, họ đã trở thành một băng có hơn 20 người, phạm vi hoạt động bao trùm cả một vùng rộng lớn, từ khu Manhattan, nơi Lucania; Lansky và Siegel đã lớn lên và đang chung sống, cho đến khu Đông Harlem lãnh địa của Frank Costello và lan xuống cả dưới phố Giữa. Họ thường tấn công các ngân hàng nhỏ, kho hàng, cửa hiệu, nghĩa là bất cứ nơi nào có tiền và có hàng hoá tốt có thể bán lại được cho bọn tiêu thụ của gian. Siegel luôn luôn đi đầu, là người hứng chịu mọi nguy hiểm. Siegel thường được phái đi trinh sát và anh thích lảng vảng ở các cửa hiệu kim hoàn. Anh giả vờ mua tìm quà tặng mẹ và thế là anh biết rõ trong cửa hiệu có thứ gì, cất ở đâu; hệ thông bảo vệ thế nào. Nhờ đó, các vụ trộm thường được diễn ra trót lọt.
Ở những khu Ghettos (khu dành riêng cho từng loại người - n.d.) thì mục tiêu tấn công thường là những tay cho vay lãi hoặc cầm đồ. Thỉnh thoảng cũng có một số người bị đánh đập tàn nhẫn. Sau này Lucania nói: “Họ có lỗi là đã giữ quá nhiều tiền, hoặc dám chống cự lại”. Một mục tiêu khác là nhân viên các hãng bảo hiểm thu tiền ở khu dành riêng cho người Do Thái. Có lần Lucania thừa nhận riêng số tiền lấy được của những người này cũng đã lên hơn một triệu đô-la. Bây giờ thì số tiền họ thu được đã vượt xa những nhu cầu hàng ngày của họ. Họ bắt đầu nghĩ đến cách sử dụng số tiền còn lại để kiếm lời. Họ bắt đầu hùn vốn vào một số áp phe chắc ăn. Và cũng từ đó, bắt đầu hình thành hệ thông gá bạc dần dần bao trùm cả nước Mỹ. Qua những kinh doanh mới này, họ đã học được những bài học quan trọng: Có một số những hoạt động bất hợp pháp, công chúng chẳng những không phản đối mà lại khuyến khích. Trong một số hoạt động bất hợp pháp, họ có thể mua được sự che chở của cảnh sát và các quan chức nhà nước để bảo đảm cho hoạt động của họ liên tục và có lãi. Triển vọng của nghề gá bạc là không có giới hạn, những chỗ sòng bạc có thể đang dần ngồi lên vị trí có quyền lực trong xã hội. Họ chỉ cần lấy tấm gương củaArnold Rothstein, một tay triệu phú xuất than từ gá bạc, và là một chính khách có thế lực, để chứng minh chân lý đó.
“Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng tôi đã biết là đồng tiền có thế lực đối với nhiều người và sẽ có thể mua họ. Vấn đề là ở chỗ ai đứng ra mua và mua bao nhiêu tiền? Hơn nữa, chúng tôi đã thấy mọi người xung quanh chúng tôi, từ những viên cảnh sát bình thường đến những đại úy chỉ huy cảnh sát, từ những viên chức nhỏ đến những nhà chính khách cao cấp đều đã qua tay chúng tôi. Chính Frank Costello là người, đã mở đầu chủ trương mua thế lực và sự che chở này. Tuy còn trẻ, nhưng Frank đã chững chạc như một người đứng tuổi. Với cái tên nửa Ý nửa Ai-xơ-len mà chúng tôi đã đặt cho
anh, đã có thể bắt mối được với bất cứ giới nào. Chúng tôi cũng đã bắt đầu có một nhà băng riêng. Đây không phải là một nhà băng thực sự như kiểu người ta thường hiểu. Chúng tôi gọi nó là nhà băng mua bán tiền. Vốn ban đầu là 5 ngàn đô-la và Costello được toàn quyền sử dụng nó thế nào cho có lợi nhất. Chỉ trong mười năm, số vốn của nhà băng riêng này đã lên tới mấy triệu đô-la. Costello đã bắt đầu, với những món tiền nhỏ, mua sự che chở của cảnh sát và các viên chức ở các quận mà băng chúng tôi hoạt động. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng giúp cho các viên chức nhỏ một số tiền để họ có thể thắng trong các cuộc tuyển cử”.
6 đã giành được một thắng lợi và thế là từ nay ở toàn nước Mỹ không ai được công khai uống rượu.
Tuy nhiên, không phải vì vậy mà hàng triệu người Mỹ chịu bỏ rượu! Chỉ có điều khác, là từ nay họ phải tìm một nơi nào đây, một phòng khách, một cửa hiệu kín đáo, để thỏa mãn cơn nghiện của mình. Những năm 20, sẽ là những năm của một thời kỳ mới trong sự nghiệp của Lucky Luciano.
4
M
ột ngày cuối năm 1920, một số khách lạ tụ tập nhau trong một hiệu ăn ở đường Mulberry thuộc khu Little Italy. Họ toàn là người gốc Ý và Sicily, còn rất trẻ. Lý do cuộc hội họp là để uống rượu chúc mừng một vị khách vốn sinh trưởng ở New York nhưng đã “làm nên” ở Chicago. Sau hơn một năm vắng mặt. Alphonse Capone trở về thăm New York. Chuyến đi này vừa để chứng minh là anh ta đã thành công ở Chicago, đồng thời để nói với bạn bè rằng, họ có có thể nhờ và anh khi cần. Khi rời New York, Al Capone chỉ thuộc loại đàn em, tuy anh ta cũng đã nổi tiếng là tính khí hung dữ, có những quả đấm đáng sợ và một khẩu súng mà anh ta sẵ sàng bóp cò. Anh ta đã gây ra hai vụ án mạng. Còn nạn nhân thứ ba đã bị đánh đập một cách tàn nhẫn ở Brooklyn và sau đó chết ở bệnh viện.
“Capone trẻ hơn tôi ba, bốn tuổi, tràn đầy sức khỏe, tính tình táo bạo và đôi mắt rất sác. Anh ta dã đôi lần cộng tác với tôi. Khi qua các mối mánh của tôi, tôi biết được cảnh sát đang theo sát anh ta, tỏi bèn nhắn tin cho anh ta. Chúng tôi gặp nhau trong một hiệu ăn ở đường 14. Hiệu ăn này của bà cô của Benny Siegel. Khi Capone bước vào phòng, anh ôm lấy tôi và nói: ‘‘Chào ông anh họ Charles của tôi, mọi việc tốt dẹp cả chứ...”. Tất nhiên tôi không hề có họ hàng gì với anh, nhưng anh cứ gọi tôi là ông anh họ. Tôi nói: ‘‘Tôi sẽ giải thích cho anh hiểu mọi việc; anh không còn ở đây được nữa đâu, anh phải chuồn ngay”.
“Mắt anh xệ xuống và toàn thân anh run lên. Đây là lần đầu tiên và duy nhất tôi thấy anh tỏ ra sợ hãi. Có thể là vì chỉ mới trong vài tiếng đồng hồ, tôi là người thứ hai nói với anh điều đó. Người đầu tiên khuyên anh chuồn là Frankie Yale (tên khai sinh là Francisco Uale), đã từng là ông chủ của “Công đoàn Sicily”). Al Capone đã từng làm vệ sĩ cho Frankie tại một trong nhiều hiệu nhảy của hắn. Tôi nói với Al: “Đừng lo, mọi việc đã thu xếp đâu vào đấy. Tôi đã liên lạc với Johnny Torrio ở Chicago và Johnny sẵn sàng nhận anh”.. Tôi đưa cho anh 2.000 đô-la và bảo anh đi thẳng đến nhà ga lớn mua vé chuồn khỏi New York. Hai ngày nữa, khi đến Chicago, anh có thể may sắm thỏa thích và an toàn. Capone xúc động đến mức bật khóc. Anh ôm chầm lấy tôi và hôn vào môi tôi theo phong tục Sicily mà là người Neapolitan. Tôi chẳng thích anh ta hôn tôi như vậy. Nhưng tôi làm sao được. Về sau tôi biết được rằng, Frankie Yale cũng đã liên lạc với Torrio về chuyện Al. Yale cũng đã quen Torrio từ lâu, hai người đã từng cộng tác với nhau ở Brooklyn trước khi Torrio đi Chicago. Thế là cùng một lúc, cả tôi và Frankie đều lo lắng thu xếp mọi việc cho Al và Al có những hai người đỡ đầu”.
Ở Chicago, Capone đã trở thành cánh tay phải của Torrio (thường được gọi với cái bí danh “Johnny đáng sợ” hoặc “con chó điên”). Torrio cũng là loại người thấy được rằng, nếu chúng tôi được tổ chức lại thì đạo luật cấm rượu sẽ mở cho chúng tôi những cơ hội làm ăn to. Tuy nhiên, khi Capone đến Chicago thì những kế hoạch của Torrio đang vấp phải một trở lực lớn. Đó là Big Jim Colosimo, người cầm đầu của giới trộm cướp ở Levee, một quận của thành phố lớn thứ hai nước Mỹ này. Mặc dầu Torrio cũng như người phụ tá và cô em dâu của hắn hết sức khuyên nhủ, Colosimo vẫn thỏa mãn với quyền lực hiện có, y chẳng hề quan tâm đến chuyện buôn lậu
rượu mạnh và không nhìn thấy tương lai. Y chỉ miễn cưỡng cho phép Torrio buôn lậu rượu mạnh ở quy mô nhỏ mà thôi.
Nhưng Torrio thì thấy rất rõ cái cơ hội làm giàu to lớn mà đạo luật cấm rượu đã mở ra cho bất cứ ai khôn ngoan và táo gan một chút. Torrio không phải là người chịu để kẻ khác cản đường, và y cũng không thể chịu làm người thứ hai. Mặc dầu bề ngoài Torrio luôn luôn tỏ ra là một người lịch sự, dịu dàng, ghét dùng bạo lực, nhưng y đã giải quyết sự chống đối cũng như sự mù quáng của Colosimo một cách bất ngờ. Với cái giá 10.000 đô la, y đã đưa người bạn cũ của mình là Frankie Yale đến Chicago, và ngày 11 - 5 - 1920, Yale đã hạ thủ Colosimo với một viên đạn vào đầu. Đám ma của Colosimo đã được tổ chức rất linh đình. Có thể coi như một kiểu mẫu của các đám tang vào thời đó. Khi Colosimo đã mồ yên mả đẹp, Johnny Torrio mặc nhiên trở thành ông chủ. Al Capone trở thành phó tướng. Từ đó, rượu mạnh và tiền cuồn cuộn chảy vào két như một dòng suối vô tận không bao giờ cạn. Bây giờ, sau một năm vắng mặt, Capone trở về thăm New York. Y mặc một bộ cánh rất sang, tay đeo một chiếc nhẫn kim cương, miệng ngậm một điếu xì gà to tướng. Y đi đứng, ăn nói một cách bệ vệ, phù hợp với uy quyền của y. Capone ngồi ở đầu bàn tiệc trong hiệu ăn đường Mulberry. Y uống toàn những thứ rượu vang đắt tiền nhập cảng từ Ý. Y chạm cốc với mọi người và mọi người cũng tìm đến chạm cốc với y. Cho đến tối thì phòng tiệc mờ mịt khói thuốc. Khách dự tiệc đã bắt đầu ngà ngà say. Al Capone nâng cao cốc rượu của mình, hướng về phía Charles và hét to: “Xin nâng cốc chúc Charles, ông anh họ của tôi! Charles nhất định sẽ trở thành vua rượu mạnh ở New York!”.
Capone trở về Chicago để thực hiện những kết hoạch của anh ta nhằm ngồi lên ghế thủ lĩnh của giới buôn lậu rượu mạnh và trộm cướp của thành phố này. Còn Charles Lucania thì ở lại New York tiếp tục lập mưu kế để
biến lời tiên tri của Al Capone thành hiện thực. Nếu anh làm được điều này thì chắc chắn anh sẽ làm lu mờ cả Al Capone và bất cứ kẻ nào khác. Bởi vì Chicago chỉ là thành phố lớn thứ hai của nước Mỹ. Còn New York mới là thành phố lớn nhất và mọi sự kiện quan trọng nhất đều diễn ra ở đây. Kẻ nào làm thủ lĩnh ở New York thì sẽ làm chủ cả nước Mỹ! Nhưng cái vương miện đó cứ trơn tuột, bởi vì còn nhiều kẻ khác, những kẻ đứng tuổi hơn và nhiều kinh nghiệm hơn, cũng nhăm nhe đoạt lấy với một quyết tâm không kém gì Lucania.
Lúc bấy giờ, Lucania và đồng đảng của mình chỉ vừa mới lớn lên: Charles mới 22 tuổi, Lansky chưa đến 20, Siegel vẫn còn vị thành niên; chỉ có Costello là tròn 25 tuổi. Họ có những ước mơ và tham vọng lớn nhưng hiểu biết và kinh nghiệm của họ còn quá mỏng manh.
Họ không phải là những người chịu để mất thời cơ. Chẳng bao lâu họ thu nạp thêm được một chàng trai cũng đầy tham vọng và sau này tỏ ra rất có ích. Tên anh ta là Giuseppe Antonio Doto. Anh sinh năm 1902 ở thành phố nhỏ gần Naples. Được vài năm thì gia đình đưa anh sang Mỹ (Bố anh quên khuấy việc nhập quốc tịch Mỹ và vì vậy nhiều năm sau anh vẫn mang cái họ Doto). Lúc bấy giờ anh đã 18 tuổi, đã trở thành một tay trộm thành thạo dưới một cái tên mới là Joseph A. Adonis, nhưng bạn bè thì quen gọi tắt là Joe A. Luciano nhận xét:
“Tôi luôn luôn coi Joe như một đứa em nhỏ. Tôi thường hay trêu anh. Anh có cái tật thỉnh thoảng lại soi gương và chải tóc. Có lần tôi hỏi anh: “Có phải anh tưởng mình là Rudolph Valentino phải không? Anh quay lại nhìn tôi và mãi sau mới trả lời một cách nghiêm trang: “Thằng ấy chỉ là một kẻ vô công rồi nghề”.
Adonis đã tham gia vào băng của Lucania. Một buổi chiều cuối năm 1920, anh gọi điện thoại cho Lucania, và hai người đã gặp nhau trong một
hiệu kem ở Little Italy. Cả hai người rất thích ăn kem. Chúng tôi ăn những cốc kem to tướng và Joe nói với tôi: “Anh Charles ạ, tôi biết là chúng ta chưa hề cộng tác với nhau. Và tôi cũng chưa hề xin xỏ ai một ơn huệ nào, nhưng bây giờ tôi cần một vạn đô-la để mua một chuyến Whiskey ở Philadelphia. Lãi tôi sẽ chia đôi với anh”.
Đêm hôm trước, Adonis đã gặp gỡ Franke Genaro - một cựu vô địch quyền Anh ở Philadelphia. Anh cũng đã gặp Max “Boo-Boo” Hoff, và Max giới thiệu anh với Irving Wexler, một trùm buôn lậu rượu mạnh dưới biệt hiệu Gordon. Adonis lên tàu trở về New York, thì Gordon đã hứa bán cho y một chuyến xe chở 100 thùng rượu nguyên chất. Nhưng Adonis không đủ tiền và phải hỏi vay Lucania 10.000 đô-la. “Tôi ôm lấy vai Adonis và bảo anh ta cứ giữ lấy tiền của mình mà làm việc khác còn tôi sẽ chi toàn bộ số tiền cần thiết. Tất nhiên anh sẽ được chia lãi. Tôi lập tức bàn với Costello, Lansky và Siegel, chúng tôi quyết định chi 35.000 đô-la cho chuyến áp-phe này. Sáng hôm sau, Adonis và tôi phóng xe đi Philadelphia. Đây là một chiếc xe tôi mới tậu, hiệu Marmon”. Từ New York đi Philadelphia, chỉ có 90 dặm, nhưng đường rất lầy lội, cứ khoảng 10 dặm lại phải đi vòng. Chưa được nửa đường, Lucania quyết định quay lại New York để sáng hôm sau đi xe lửa về Philadelphia.
“Đây là lần đầu tiên tôi bước vào một toa xe lửa. Các bàn ăn đều phủ những tấm khăn trắng như tuyết. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn sáng với thịt bò băm bên trên có một quả trứng rán. Joe cứ nhìn tôi, tưởng như tôi phát điên. Anh ta ăn sáng với món ăn Ý, còn tôi lại gọi thêm hai đĩa thịt băm với trứng nữa. Về sau, có lần tôi kể lại với mẹ tôi về bữa ăn sáng này, bà nhìn tôi với đôi mắt giống như Joe. Cả Joe và mẹ tôi suốt đời không hề biết ăn theo kiểu Mỹ chính cống như thế này.”
Adonis và Lucania đang ăn thì có hai người bước đến ngồi vào một chiếc bàn dành sẵn cho họ, đầy ụ những thức ăn sang trọng. Lucania không rời mắt khỏi những người này. Họ có vẻ là chủ nhà băng, chắc là ví tiền đầy ắp. Người ăn làm cho Lucania chú ý và anh cảm thấy rằng vị trí xã hội của anh còn quá kém cỏi và anh lại càng quyết tâm để có một ngày nào đó, có thể đối xử ngang hàng với hai người khách kia. “Họ có vẻ rất lịch sự, hào nhoáng, và tôi tự nhủ tôi cũng phải trở thành như họ. Đồng thời tôi bỗng nhớ ra rằng, lúc đó tôi và Joe đều có giắt súng trong người. Riêng tôi còn có 35.000 đô-la trong túi để mua khoản rượu mạnh ở Philadelphia và chính hai lão kia sẽ là những khách hàng của tôi”.
Chiều hôm đó, Lucania gặp Gordon và từ đó, anh và đồng đảng chính thức bước vào nghề buôn lậu rượu mạnh. Trong lĩnh vực kinh doanh mới này, họ tận dụng những bài học mà họ đã tích được, họ áp dụng những phương pháp cứng rắn, một kỷ luật thật nghiêm khắc và một chiến thuật chớp nhoáng. Nạn nhân của họ không còn là những con người cụ thể nữa. Họ thu được những số lợi nhuận kếch xù so với thời kỳ hoat động của họ nhằm vào nạn nhân vô tội. Công việc bây giờ cũng bớt vất vả hơn và mối nguy hiểm ít hơn. Bây giờ nạn nhân của họ không còn là những công dân lương thiện mà vì vậy những người đại diện của pháp luật cũng dễ nhắm mắt làm ngơ nhất là trong những trường hợp các nhà chức trách này được chia một phần lợi nhuận. Chúng tôi có thể mua sự che chở này ở bất cứ cấp nào. Trong vòng một năm, chúng tôi đã mua những nhà chức trách trong toàn khu Manhattan, từ Broadway cho đến Harlem, từ Hudson cho đến Jersy.”
Trong nhiều năm sau đó, những số tiền lớn đã được sử dụng để bảo đảm cho những chuyến áp-phe được trôi chảy nhờ sự che chở hoặc làm ngơ của các nhà chức trách. Với chuyến hối lộ đầu tiên ỏ Philadelphia,
chúng tôi đã bắt đầu làm ăn to và đồng thời chúng tôi leo cao. Tất nhiên, chúng tôi cũng phải chi tiền để lót tay cho cảnh sát và các chính khách để họ bảo đảm an toàn cho những người làm việc cho chúng tôi”.
“Lạy Chúa, anh hãy nghe tôi. Anh hãy nói là anh muốn học những điều mới mẻ. Thì đây, tôi muốn giải thích cho anh một điều vô cùng quan trọng. Cái ông viết cuốh sách này đã nói đến một hiện tượng mà ông ta gọi là “quy luật cung cầu”. Chúng ta hoàn toàn có thể ứng dụng điều này. Giả sử có nhiều người muốn mua một thứ gì đấy, nhưng không mua được, mà anh lại có thể cung cấp cho họ thứ hàng đó, thì anh tha hồ mà vơ tiền. Nói một cách khác, đó là điều mà tôi muốn áp dụng vào công việc buôn lậu rượu mạnh của chúng ta. Chúng ta phải mua thật nhiều, loại rượu thật ngon, nguyên chất, mua ngay ngoài tàu rồi bán nó với giá cao cho bất cứ tay nào không đủ nghị lực để từ biệt ma men”. Khái niệm đơn giản về kinh tế đó đã nhanh chóng mang cái tên “Quy tắc Lansky”. Quy tắc đó chi phối mọi hoạt động của Công đoàn tội ác sau này.
Nhưng hiểu và thừa nhận một nguyên lý kinh tế cơ bản là một chuyện, còn việc ứng dụng nó cho có hiệu quả thì đòi hỏi phải có những quyết định phức tạp. Họ đã phải quyết định gấp khi Gordon hứa bán cho họ 3.000 thùng rượu loại hảo hạng đúng loại Scotch nguyên chất. Tương lai của họ tùy thuộc ở chỗ họ có được một quyết định đúng. Họ có thể tiêu thụ nhanh và thu lãi nhiều bằng cách pha Whiskey nguyên chất rất thấp. Họ có thể nhanh chóng bán hết số rượu ấy để thu lợi nhuận lớn bởi vì khách hàng đang cần rất nhiều rượu. Nếu họ chọn con đường này thì họ sẽ phải trả giá, họ sẽ trở thành những loại người chuyên bán những thứ rượu rẻ tiền cho một loại khách hàng thuộc những tầng lớp dưới của xã hội. Hoặc sẽ trở thành người chuyên cung cấp rượu mạnh cho những khách hàng thuộc tầng lớp khá giả ở Manhattan, phần lớn khách hàng thuộc loại thượng lưu.
Họ sẽ tự tạo cho mình uy tín của những nhà buôn có hạng và khách hàng sẽ tự mình tìm đến họ. Điều quan trọng là ở chỗ đó: khách hàng lắm tiền. Đối với những người có tham vọng leo cao như họ thì không có cách lựa chọn nào khác.
Thế là họ bắt đầu cung cấp loại rượu mạnh hảo hạng cho giới thượng lưu ở New York. Và họ cũng bắt đầu mở rộng phạm vi ra một số nơi khác. Bởi vì họ biết rằng chừng nào đạo luật cấm rượu còn có hiệu lực thì họ còn bán được rượu Whiskey và tha hồ làm giàu. Các nhà sản xuất cũng bắt đầu kết thân với họ và thường xuyên mời đi chè chén ở các khách sạn sang nhất. Chúng mời họ đi xem hát và luôn luôn dành những ghế hàng đầu. Chúng hết sức chiều chuộng để mong được những tấm ngân phiếu với những số tiền lớn. Nếu các vị khách cần giải trí, lập tức có các cô gái đẹp xuất hiện. Nếu khách thuộc giới nữ, thì lập tức có các anh chàng đĩ đực đến phục vụ.
Điều họ quan tâm nhất là tìm mua cho được loai Scotch hảo hạng. Lucania và đồng đảng ngày càng trở nên những nhân vật quan trọng trong giới buôn lậu rượu mạnh. Nhưng công việc cũng ngày càng phức tạp hơn. Để giải quyết vấn đề, ngày càng nhiều những người cầm đầu phải dành nhiều thòi giờ để điều hành những công việc quan trọng nhất. Costello, ngoài việc cộng tác chặt chẽ với băng của Lucania, đã hùn vốn với Big Bill Dwyer, người Ai-xơ-len, được coi là vua buôn lậu rượu mạnh. Ngoài ra, Costello lại còn mở những nhà gá bạc riêng ở Đông Harlem và nhiều nơi khác. Y tiếp tục mở rộng quan hệ với các giới viên chức để đảm bảo an toàn cho y và bạn bè. Lansky và Siegel thì lập một nhóm riêng chuyên trách việc chuyên chở. Đối với họ, không có việc gì là quá nguy hiểm, quá phức tạp và quá khó khăn. Họ chặn cướp những chuyên xe chở rượu của những băng khác và đồng thời họ cũng là lực lượng bảo vệ các chuyến vận
chuyển, đề phòng các băng khác chặn cướp. Vai trò của họ thay đổi tùy hoàn cảnh cụ thể hoặc theo yêu cầu của Lucania. Joe Adonis thì đương đầu với cả một màng lưới ăn trộm hoạt động khắp vùng Brooklyn và Manhattan, lan ra cả New Jersey (nơi sau này anh ta tậu hẳn một ngôi nhà cho vợ và gia đình). Còn Charles Lucania, ngoài trách nhiệm giám sát và điều hành chung, đã dành thì giờ và tâm sức để tuyển dụng thêm những tay trợ thủ mới đáng tin cậy, cũng như tìm thêm bạn đồng minh.
Ở khu Little Italy, Lucania đã tìm ra một tay anh chị trẻ tuổi, sau này đã nhanh chóng trở thành một trong những trợ thủ chính. Anh ta người thấp nhưng lực lưỡng. Khuôn mặt tròn, tươi cười, nhưng tính tình lại rất tàn bạo và luôn luôn sẵn sàng bóp cò súng. Tên anh ta là Vito Genovese: “Tôi chưa bao giờ thấy mến y. Nhưng dù cho đáng giá một nửa Mayor thôi, thì tôi cũng đã tìm được một tay khá đắc lực. Y sống ở một khu người Sicily, ở đó mọi người đều biết nhau rất rõ và những người không phải gốc Sicily rất bị coi thường. Vito lại sinh ra gần Naples nhưng với hai quả đấm của mình, y đã làm cho người ta phải kiêng nể. Tôi chẳng yêu thích gì y nhưng việc đó không ngăn trở việc sử dụng y. Tôi nghĩ rằng y là một người trung thực. Thật là một sai lầm. Mãi về sau này, tôi mới nhận ra sai lầm đó”.
Thông qua Joe Adonis, Lucania thu nạp được Francesco Chiccio Scalise người gốc Sicily, ngụ tại Brooklyn, sau này được gọi tên là Frank “Cheech”, khi anh ta trở thành nổi tiếng. Frank là một đầu mối liên lạc quý báu với giới anh chị ở Brooklyn. Scalise giới thiệu Carlo Gambino. Năm 1921, Charles tiên đoán sẽ có một ngày Gambino sẽ trở thành thủ lĩnh của toàn nước Mỹ. Cũng ở Brooklyn, Lucania thu nạp được một tay anh chị khác tuy mới từ Ý đến nhưng đã bị giam ở nhà tù Sicily về tội giết người. Anh ta được thả vì không đủ bằng chứng. Tên anh ta là Albert Anastasia. Tên thật của anh ta là Anastasio nhưng anh ta đã thay đổi đi một tí để giữ
danh dự cho gia đình bà con khi anh ta bắt đầu có vấn đề rắc rối với pháp luật. Ngay từ buổi gặp mặt đầu tiên, Albert đã trở thành một trợ thủ hoàn toàn trung thành với Lucania và Charles cũng rất mến anh ta. Anastasia là một thanh niên lực lưỡng, tính tình nóng nẩy. Hắn có thể giết người trong một cơn nóng giận và cũng có thể giết người một cách lạnh lùng khi chấp hành mệnh lệnh. Chính vì vậy mà hắn trở thành người chuyên trách bảo đảm việc chấp hành kỷ luật và thi hành các bản án nội bộ do tổ chức đề ra.
Đội ngũ của họ không phải chỉ có người gốc Ý. Thông qua Lansky, Lucania bắt mối với một người Do Thái đang nổi lên như một nhân vật có quyền lực trong tổ chức. Louis Buchalter đã gặp Lucania và chiến hữu của anh trong phòng riêng tại khách sạn Claridge. “Tôi ngắm kỹ hắn, một cái mặt to bè bè, một cái đầu to, và hai cánh tay thật khỏe. Tôi biết ngay đây là một tay anh chị chỉ thích dùng sức mạnh, còn trí óc thì không làm việc bao nhiêu. Tôi bắt chuyện với hắn. Vừa mới mở miệng nói “Này Louis” thì hắn đã cắt ngang lời tôi và nói: “Anh có thể gọi tôi là Lepke”. Tôi nhìn hắn và bật cười, cái tên gì mà kỳ quái vậy? Hắn giải thích là hồi nhỏ mẹ hắn thường gọi hắn bằng một cái tên Do Thái là Lepkele. Từ đó, chúng tôi gọi hắn là Lepke”.
Mặc dù Lucania chẳng tin tưởng chút nào vào sự thông minh của Lepke, nhưng anh rất thích tính táo bạo gan góc và những tham vọng của hắn. Hơn nữa, Lepke là một chìa khóa để mở rộng hoạt động vào các phố hàng vải. Tuy không thông minh, nhưng Lepke cũng đủ khôn ngoan để lắng nghe những ý kiến có lợi. Lucania, Lansky và những người khác thường bàn bạc với Lepke về các hoạt động của hắn ở các phố hàng vải. Ở đây bằng những chai a-xít, những vụ nổ mìn, những vụ hoả hoạn và những vụ tống tiền, hắn đã thuyết phục các chủ hiệu chịu trả tiền cho hắn để hắn “bảo đảm an toàn” cho! Nhưng hắn ta không biết điều hành các hoạt động
này một cách có kế hoạch. Họ đã góp ý kiến cho hắn, bước đầu tập trung “bán” sự che chở cho những cửa hiệu dễ bị tấn công, và từ đó mở rộng ra các mục tiêu lớn hơn. Và như vậy, cái áp-phe này sẽ trở thành một hoạt động có tổ chức bao trùm cả khu phố hàng vải. Tất nhiên, các phương pháp “thuyết phục” khách hàng vẫn là những phương pháp cũ. Lepke chấp nhận kế hoạch của Lucania và hắn trở thành thành viên của tổ chức do Lucania điều khiển. Còn Lucania và bè đảng có thêm một chân đứng để mở rộng việc buôn lậu rượu vào khu hàng vải: cũng bằng cách đó, họ dần dần xâm nhập vào toàn bộ thị trường New York.
Frank Costello cũng giới thiệu một người Do Thái khác tên là Arthur Flegenheimer, nổi tiếng dưới cái biệt hiệu Dutch Schultz. Hắn có cả một vương quốc buôn lậu riêng ở Bronx. Lucania gặp hắn ở khách sạn Claridge. “Khi Frank giới thiệu tên thì Vito Genovese nói to: “Cái trò quỷ gì vậy? Sao lại giới thiệu một thằng Hà Lan?”. Benny và Mayor chưa kịp phản ứng thì Frank Costello đã xông đến trước mặt Vito và nói với hắn với giọng sắc lạnh: “Thưa ngài Don Vitone! Chắc ngài không quên ngài là loại người như thế nào”.
“Tôi nhớ rõ là mỗi lần người ta bịt mồm Vito thì người ta gọi y là Don Vitone một cách chế giễu. Còn Vích-tô thì không bao giờ tha thứ Frank Costello về cái tội đã công khai nhắc nhở hắn trước mặt mọi người là hắn không phải là người gốc Sicily. Cái thằng Vito thâm hiểm này, đã thù thì thù rất dai và rất kiên nhẫn. Hắn đã chờ đợi 35 năm để có thời cơ bắn vỡ sọ Frank Costello”.
Mặc dù Vito Genovese phản đối. Lucania và Schultz vẫn liên minh với nhau, và mối liên minh của họ tồn tại mãi cho đến sau này, khi đạo luật cấm rượu được bãi bỏ. Mặc dù Genovese ghét người Do Thái, Lucania vẫn tìm thêm một đồng minh Do Thái mới, đó là Abner “Longie” Zwillman,
một ngôi sao đang lên trong giới buôn lậu và trộm cướp ở Bắc New Jersey. Còn Zwillman thì giới thiệu thêm Willie Moretti. Zwillman là một người trầm tính, ăn nói nhẹ nhàng, ham học, thích đọc sách và là một người được kính nể. Trong những năm cuối đời của mình, Zwillman đã có cả một thiên tình sử với nữ diễn viên điện ảnh Jean Harlow. Moretti đã nổi tiếng ở New Jersey và dã dính vào nhiều vụ án mạng. Cũng giống như Al Capone, hắn là loại ngang bướng và sống rất trụy lạc. Cũng vì vậy mà hắn bị giang mai nặng. Trong giới anh chị, nhiều người đã nói cần thủ tiêu hắn đi. Ngoài ra lại còn một người Do Thái nữa đã có ảnh hưởng và có vai trò lớn trong tổ chức Lucania. Tên y là Arnold Rothstein, con một gia đình Do Thái giàu có. Từ lúc còn ít tuổi, Rothstein đã đánh bạc và mắc nợ. Đã có dư luận rằng y là kẻ đứng đằng sau vụ tai tiếng Black Sox năm 1919. Không những ham mê cờ bạc mà y còn rất thích đi du lịch và y đã đánh bạc suốt trong những chuyến bay vượt Đại Tây Dương, trên những chiếc máy bay sang trọng. Ít lâu sau khi đạo luật cấm rượu mạnh được ban hành, Rothstein chuyển qua nghề buôn lậu và chính y là người đã đưa Gordon vào nghề. “Arnold là một chàng trai thật là tinh ma. Ai cũng biết rằng ở Scotland đang gặp khó khăn và người ta cần tiền. Thế là Rothstein ký một loạt hợp đồng lập ra những kho rượu khổng lồ. Y tiếp xúc với Gordon để bàn cách tiêu thụ số vàng nước đó với điều kiện là tôi phải là khách hàng đầu tiên. Tất nhiên là tôi mua toàn bộ số rượu đó”.
Rothstein còn có một đức tính rất hấp dẫn đối với Lucania. “Y dạy tôi cách ăn mặc thế nào cho hợp gu, dạy tôi cách sử dụng thìa, nĩa khi ăn tiệc, biết cách mở cửa, kéo ghế cho phụ nữ ngồi. Nếu Arnold còn sống lâu hơn chút nữa thì chãc chăn tôi sẽ trở thành con người lịch thiệp hơn nhiều vì y là một ông thầy rất giỏi về môn này.”
Về phía tôi, tôi cũng giúp Rothstein rất nhiều. Tôi thường ủng hộ y trong khi chơi bài poker. Hai chúng tôi được khá nhiều tiền nhưng y tiêu tiền nhanh đến mức tôi tưởng như chóng mặt mặc dù tôi cũng là loại tiêu tiền nhanh. Y thường hay vay tiền tôi. Y nợ tôi khá nhiều. Ngày 4 - 11 - 1928, Rothstein bị bắn chết trong một căn phòng của khách sạn Công viên trung tâm ở Manhattan. Điều duy nhất tôi biết về chuyện này là y đã ăn gian trong một vụ đánh cuộc, có tin đồn như vậy. Tất nhiên cảnh sát có gọi tôi lên. Và họ đã tìm mọi cách để khai thác tôi. Nhưng tôi xin thề là tôi không biết ai đã giết Rothstein”.
Tổ chức ngày càng phát triển. Ngày càng nhiều khách hàng đòi mua loại rượu hảo hạng. Công việc kinh doanh ngày càng phất to. Việc cung cấp loại Whiskey hảo hạng trở thành một yêu cầu cấp bách. Phần lớn số rượu này họ mua ở Canada, của một người tên là Samuel Bronfman sau này sẽ trở thành ông chủ của công tuy Seagram, một trong những công dân giàu nhất Canada và chuyên làm những việc từ thiện. Nhưng theo đánh giá của Luciano thì số rượu Whiskey mà Samuel buôn lậu qua biên giới Canada có thể đổ đầy hai cái hồ như hồ Erie. Vấn đề là ở chỗ làm thế nào chở được số rượu đó qua biên giới Canada bằng ô tô?”. Một số hàng khá lớn đã bị các băng khác chặn cướp và thế là chúng tôi mất cả rượu lẫn xe. Hồi đó, riêng số xe bị hỏng hoặc bị mất cũng đến hàng trăm chiếc”. Tuy nhiên, số Whiskey mua được từ Canada và Scotland vẫn chưa đủ để thoả mãn yêu cầu ngày càng tăng ở trong nước. Chẳng bao lâu, Lucania và bạn bè đã nghĩ ra một kế mới. Họ nhận thấy rằng nếu rượu được đóng vào những chai kiểu giống nhau, mang những cái nhãn giống nhau, có chất lượng cao và vị rượu không thay đổi nhiều lắm thì khách hàng vẫn mua như thường, họ bất cần số rượu đó được chế tạo và đóng chai ở đâu. Như vậy, nếu như có thể tìm ra số rượu ở gần, và có thể đảm bảo được chất
lượng rượu, thì công việc làm ăn phất hơn. “Tôi chợt nhớ đến mối quan hệ của tôi ở Philadelphia. Ở đấy có rất nhiều công ty nấu rượu cồn nguyên chất. Tất nhiên không phải là Whiskey. Nhưng với loại rượu cồn đó, nếu pha vào một tỷ lệ Whiskey hảo hạng thì có thể làm ra một thứ Whiskey loại ngon mà phần lớn các tay nghiện rượu vẫn đinh ninh là thứ thiệt. Các nhà máy rượu cồn này hoạt động hợp pháp, đạo luật cấm rượu vẫn cho phép họ sản xuất một số cồn nhất định. Tuy việc uống rượu mạnh có chất cồn đã bị cấm trong toàn quốc nhưng người ta vẫn có thể uống rượu cồn đến say mềm với ly do y tế. Người ta vẫn có thể mua rượu cồn mỗi khi có đơn bác sĩ. Vì cần có rượu cồn cho nên chính phủ phải cấp giấy phép sản xuất cho một số công ty ở Philadelphia. Những công ty này lập tức trở thành mục tiêu xâm nhập của giới buôn lậu. Các ông chủ công tuy thường tỏ ra ngoan ngoãn hoặc là vì bị đe dọa, hoặc vì họ thấy rằng nhờ hợp tác với giới buôn lậu chính họ cũng phất to. Chính ở các nhà máy này, rượu cồn được pha màu và biến thành những chai Scotch, Whiskey Canada hoặc rượu mạnh Mỹ với chất lượng không sút kém tí nào”.
Tình bạn và sự hợp tác giữa Lucania và Gordon ngày càng phát triển và cả hai trở thành giàu có. Điều quan trọng là trên lĩnh vực này, họ không hề bị sự cạnh tranh của bất cứ ai. “Tôi chưa bao giờ gặp khó khăn gì với Gordon từ ngày chúng tôi kết bạn với nhau. Chúng tôi bắt tay nhau, chỉ trong nửa tiếng đồng hồ, mọi việc giải quyết, từ giá cả cho đến chia nhau lợi nhuận”. Từ đó, Lucania và bạn bè của anh mua rượu mạnh của Gordon, họ thu xếp để số rượu này được pha chế, đóng chai, dãn nhãn hiệu ngay trong các nhà máy của Gordon ở Philadelphia, New Jersey. Số rượu này được tiêu thụ suốt dọc vùng bờ biển phía Đông nước Mỹ.
“Loại rượu Scotch là loại bán chạy nhất. Trước khi ban hành luật cấm rượu mạnh, các hãng rượu Scotch bán sản phẩm của mình theo giá 17 đô-la
một hòm (12 chai), trao tại bến Glasgow. Từ ngày đạo luật được ban hành, yêu cầu về rượu Scotch ở Mỹ tăng nhanh, các nhà sản xuất rượu biết rõ chúng tôi là loại chuyên buôn lậu và là một lũ gangster, nhưng họ không quan tâm đến điều đó. Họ vẫn bán rượu cho chúng tôi nhưng họ chỉ trao rượu ở bên ngoài giới hạn ba dặm của hải phận Mỹ. Còn chúng tôi, kể cả Rothstein, phải thuê tàu chở lấy rượu Scotch vào bờ. Chúng tôi thuê những tàu chở nhanh để giảm bớt mối nguy hiểm”. Hồi đó, loại Scotch nguyên chất bán lại cho bọn buôn lậu với giá 2,2 đô-la một chai 1/5 lít. Một số tay nghiện loại giàu mua tới giá 30 đô-la 1 chai 1/5 lít. Ngoài những nhà máy pha rượu của Gordon, Lucania và bè đảng cũng lập những nhà máy riêng của mình. Nhờ đó, cứ mỗi hòm rượu nguyên chất, Lucania thu được hàng ngàn dô-la. Giá vốn của một hòm rượu là 25 đô-la. “Tất nhiên không phải chuyến buôn nào cũng trót lọt nhưng chúng tôi chấp nhận mọi nguy hiểm coi đó như một canh bạc có được nhưng cũng có mất. Khoảng cách 3 dặm của hải phận ấy lại đẩy những cảnh sát liên bang và những băng cướp trang bị bằng những tàu chạy nhanh chỉ chực chúng tôi sơ hở là xông vào phỗng tay trên. Vào cái thời ấy, người ta có thể mất mạng dễ dàng chỉ vì một chai Scotch. Và tất nhiên chúng tôi đã nhiều lần bị cảnh sát Liên bang bắt giữ, hoặc các băng khác chặn cướp mất những chuyến xe, thậm chí cả những đoàn xe chở đầy rượu Scotch”.
Việc mua và dự trữ Scot cũng như Whiskey cũng chưa đủ thoả mãn nhu cầu. Ngay cả việc kiểm soát các nhà máy làm cồn cũng chưa đủ, họ còn phải lập ra những xưởng để làm rượu Scotch giả giống như thật. Họ cần có đủ chai lọ và thế là hoạt động của họ lan qua cả ngành công nghiệp thuỷ tinh. Họ cần có những nhãn hiệu thật giống nhãn hiệu chính cống của các hãng Johnnie Walker, Haig & Haig, Dewar... và thế là họ chen vào công nghiệp in. Họ sắm những máy in màu cực lớn và trở thành những khách
tiêu thụ giấy và mực. Chai lọ cần có kho để chứa, cho nên họ trở thành những nhà kinh doanh bất động sản. Hàng hóa bao bì đóng gói xong, cần được chuyên chở đi, và thế là họ trở thành chủ các công ty vận tải đường bộ.
Quả thật là lúc đầu không một ai trong bọn họ có thể ngờ rằng công việc làm ăn của họ mở rộng đến thế. Lúc đó họ tụ tập thành nhóm nhỏ do Lucania cầm đầu, và bây giờ họ đã tạo ra cả “đế quốc” bất hợp pháp, có thể so sánh với bất cứ một “đế quốc” hợp pháp nào khác. “Kể từ ngày tôi và bạn bè hợp tác với nhau trong lĩnh vực buôn lậu Whiskey, cho đến nay, chúng tôi đã tạo ra một cơ đồ lớn hơn cả cơ đồ của Henry Ford. Chúng tôi kiểm soát nhiều nhà máy, nhiều kho hàng, đủ các loại xưởng. Chúng tôi có cả một hệ thống vận tải và đội ngũ lái xe tay lái giỏi mà tay súng cũng cừ. Chúng tôi có những người quản lý như Lansky với đôi mắt sắc như mắt diều hâu, và một lô những kế toán viên với những trí nhớ tuyệt vời, bởi vì hầu hết những số liệu của chúng tôi không bao giờ ghi lên giấy. Chúng tôi có những chuyên viên về xuất nhập khẩu. Chúng tôi có cả một đội ngũ luật sư thường trực suốt ngày đêm. Có người vẫn thường khuyên tôi rằng, nếu tôi dùng trí tuệ của tôi vào một ngành kinh doanh hợp pháp thì chắc chắn tôi sẽ thành công lớn. Nhưng có điều là tôi không thể nào thích thú bằng công việc tôi làm”.
5
K
hoảng năm 1923, Charles Lucania, một chàng trai mới 26 tuổi, sinh ra ở nước ngoài, con một gia đình nghèo xơ xác, nói chưa sõi ngôn ngữ của xứ sở mới và chủ yếu là tự học, đã trở thành người đứng đầu một cơ đồ vượt xa ước mơ ban đầu của anh. Anh hầu như đã thực hiện điều tiên tri của Al Capone. Mặc dù anh chưa chính thức trở thành vua của giới anh chị ở New York nhưng anh đã tiến sát đến chiếc “ngai vàng”. Quây quần quanh anh có không biết bao bạn bè, đồng minh mà trong đó có nhiều người là thủ lĩnh của một vùng nhưng họ đã thừa nhận anh là thủ lĩnh.
7 quê hương của họ. Hoạt động của họ ít khi vượt ra khỏi phạm vi Little Italy.
Đối với nhiều người Mỹ thì số này không đáng chú ý. Họ bị coi thường bởi những cách ăn mặc, dáng điệu, giọng nói còn đặc sệt tính cách người Ý. So sánh với lứa tuổi trẻ như Charles, bè bạn và đồng minh của anh, thì những ông già này chỉ là những hình dáng mờ nhạt mà phần lớn những người dân New York chỉ biết đến qua tin đồn.
“Khi Torrio bắn chết Big Jim Colosimo ở Chicago, tôi và Frank tưởng rằng điều đó có lợi cho chúng tôi. Chúng tôi tính toán rằng việc đó sẽ là dấu hiệu cho các lão già ở New York biết rằng có bọn trẻ chúng tôi đang ngoi lên. Nhưng chúng tôi đã phạm một sai lầm hết sức nguy hiểm vì chưa biết lường sức mình. Hồi đó, Maranzano và những lão khác có quyền lực
thực sự chúa tể. Họ kiểm soát tất cả mọi thứ ở Little Italy. Họ khống chế cả thị trường, kiểm soát giá cả từ những hàng thiết yếu cho đến hàng xa xỉ trong đời sống của những người Ý di cư, từ dầu ô-liu, pho-mát, vé xổ số cho đến loại cờ bạc. Một ông bạn hàng xóm của tôi tên là Forzano cứ mỗi tuần một lần có mời bạn bè đến chơi bài tây trong bếp. Ấy thế mà hàng tuần hắn phải nộp cho các lão già một đô-la”.
Khi đạo luật cấm rượu mạnh ban hành, giới thủ lĩnh già này cũng thấy được ngay cơ hội làm án mới. Họ cũng đã tổ chức một hệ thống buôn lậu riêng đặt trong các gia đình Ý. Họ chuyên cung cấp rượu cho giới nghiện rượu thuộc lớp nghèo, về sau, họ cũng bắt đầu mở rộng phạm vi và cũng bắt đầu có tham vọng kiểm soát thị trường buôn lậu rượu mạnh ở Mỹ.
Để thực hiện tham vọng đó, họ tìm cách loại bỏ mọi hình thức cạnh tranh và cách duy nhất là phải không chế các đối thủ. Salvatore Maranzano, một trong những người muôn trở thành ông chủ của tổ chức Mafia, đã tiếp xúc với Lucania. “Tôi đã linh cảm rằng thế nào cũng có ngày lão già tìm đến tôi. Tôi cũng đã có ý định từ chối bất cứ một đề nghị nào của lão. Khi lão ta đến nước Mỹ sau chiến tranh, thì tôi cũng vừa mới bắt đầu sự nghiệp của mình. Lão già đi khắp nơi trong vùng, ba hoa đủ điều, làm như lão là một vị giáo hoàng đến cứu vớt linh hồn cho dân di cư người Ý đầy tội lỗi. Maranzano là một lão có học thức. Lão ta biết năm thứ tiếng và một kiến thức văn hoá khá rộng. Còn tôi thì chẳng học hành được bao nhiêu. Cứ mỗi lần tiếp xúc với hắn, tôi cảm thấy bực mình vì thấy mình thua kém nhiều quá. Tất nhiên, cũng có đôi lần lão giúp tôi”. Cuộc tiếp xúc giữa hai người đã diễn ra tại một căn phòng của một hiệu ăn nhỏ tên là Palermo, ở cuối đường Minetta khu Little Italy. “Khi tôi bước vào phòng thì Maranzano mở rộng đôi tay đón tôi, trông lão đúng như một vị giáo hoàng đón con chiên trở về. Lão ôm lấy tôi và nói rằng lão cũng mang tên
Salvatore như tôi. Lão gọi tôi là “Caesar”. Lão nói một tràng Latin về Julius Caesar. Quỷ tha ma bắt lão. Nếu quả thật lão muốn nói điều gì tốt lành đối với tôi thì có quỷ sứ mới biết tại sao lão không nói bằng tiếng Anh. Tôi nói thẳng điều đó với lão. Lão bật lên cười hô hố. Tôi không bao giờ quên câu trả lời của lão: “Con trai của bố" ạ! Bố vẫn cầu nguyện cho con đấy. Con chắc chắn sẽ làm nên”. Tôi chỉ muốn nhổ toẹt vào mặt lão.
Lão nói tiếp: “Tôi biết chú mày thích được gọi là Charles. Nhưng ta sẽ gọi chú là Salvatore. Thế nào, cái tên của ta không xứng đáng với chú sao? Cái tên ấy, có gì làm chú mình hổ thẹn?”.
Tôi định trả lời và giải thích cho lão rõ tại sao tôi không thích người ta gọi là Sal. Lão đã chìa cái tay phải ra, trên bàn tay béo mập của lão có một cái nhẫn kim cương, khắc hai chữ S. M. Lão huyên thuyên nói với tôi những gì tôi cũng chẳng rõ. Có thể lão khuyên tôi đừng đổi tên và cũng có thể lão ra lệnh cho tôi hôn chiếc nhẫn quỷ quái ấy: Tôi lấy làm lạ là không hiểu tại sao tôi hết sức bực mình. Ấy thế mà lão cứ tiếp tục ba hoa, nào là từ lâu lão đã theo dõi hoạt động của tôi; rằng lão có ấn tượng tốt về tôi, rằng lão khen tôi là dũng cảm, giàu óc tưởng tượng. Cuối cùng, lão nói, lão không thích các bè bạn của tôi.
Tôi trả lời: “Thưa ngài Salvatore, điều đó không tốt. Ngài đang xúc phạm đến những người bạn của tôi. Điều đó chẳng hay ho gì”. Maranzano rút lui và nói với Lucania là sẽ nói chuyện đó về sau. Còn trước mắt, lão có một việc: “Thời thế đang thay đổi, đang mở ra thời cơ cho bất cứ ai muốn nắm lấy thời cơ đó. Nhưng cần phải biết tập hợp nhau lại. Biết liên kết với những cái gì có sức mạnh hơn và nhiều kinh nghiệm hơn. Chú hãy gia nhập tổ chức của ta. Ta hứa chú sẽ phất to. Ta sẽ làm cho chú thành nổi tiếng. Hãy tin ta, con trai của bố ạ”.
Maranzano bảo Lucania hãy suy nghĩ trước khi quyết định. Trước khi Lucania ra khỏi phòng, Maranzano quay người và mang đến một chai rượu vang đỏ. “Tôi đứng nhìn lão ngửi ngửi chai rượu, nhấp một tí, thè lưỡi liếm quanh mép như một người thưởng thức chất rượuc. Rồi lão ra hiệu cho người đem đến 2 chiếc cốc. Maranzano nói với tôi: “Này chàng trai trẻ của tôi, ta hãy nâng cốc chúc nhau sức khỏe đồng thời để đánh dấu tình bạn của chúng ta. Đây là loại rượu vang ngon nhất. Nào, Charles, ta chúc chú sống lâu”. Cái kiểu ăn nói của lão ta luôn luôn như vậy đấy. Còn tôi thì cáu tiết lắm rồi. Lão nâng cốc. Tôi cũng nâng cốc và chúng tôi chúc nhau đủ thứ. nào là sống lâu, nào là sức khỏe. Tôi uống một hơi cạn số rượu. Rượu chua loét. Mặc dầu lão văn hoá cao và thông thạo năm thứ tiếng nhưng lão ta chẳng biết tí gì về rượu cả. Người ta có rót cho lão nước đái hoặc là dấm thì lão vẫn nốc ngon lành và tưởng đó là loại rượu vang đỏ từ Sicily gửi sang”.
Sau cuộc gặp mặt, Lucania về khách sạn Claridge. Người lái xe hỏi anh: “Có chuyện gì xảy ra?”. “Chẳng có gì cả, lão ta không thích người Do Thái và lão đéo biết một tí gì về rượu hết”.
“Ngày hôm sau, tôi giao cho Gino, người lái xe của tôi, mang một bức thư đến đường Minetta. Trong bức thư tôi “thành thật cám ơn ngài Salvatore về đề nghị của ông nhưng chưa đến lúc tôi chấp nhận đề nghị đó”. Cùng với bức thư, tôi gửi tặng lão một hòm rượu Scotch hảo hạng hiệu King Ransom đã 12 tuổi. Tôi biết là lão sẽ rất thích thú khi nhấm món hàng này, bởi vì nó có nghĩa như một thứ triều cống dâng cho vị vua. Hòm rượu Scotch nguyên chất này làm tôi mất béng 2.000 đô-la. Nhưng đó là một việc đáng làm. Vì ít nhất nó cũng chứng tỏ cho lão già biết là lão cũng chẳng hơn gì tôi”.
8 khác hồi bấy giờ, chỉ gồm toàn người Sicily, chủ yếu là những người quê ở Castellammare. Ngay cả những người gốc Naples và những người gốc ở địa phương khác ở Ý cũng đều bị gạt bỏ không cho nhập bọn. Nếu như Lucania liên kết với Maranzano, điều đó có nghĩa là anh ta phải cắt mọi quan hệ với những chiến hữu thân thiết cũ người Do Thái như Lansky, Siegel, Lepke và Rothstein mà Maranzano khinh miệt, kể cả những mối quan hệ với Costello, Genovese và Adonis, vì những người này tuy gốc Ý nhưng không phải người Sicily. Lucania không hề có ý định bỏ rơi những chiến hữu cỡ như vậy.
“Điều quan trọng là lúc bấy giờ người ta đã biết đến tôi và bắt đầu kính nể tôi. Tôi rất khoái điều này vì vậy chẳng có lý do gì để từ bỏ họ về với Maranzano. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng không cần có Maranzano, tôi cũng vẫn phất to”.
Những năm sau đó, dự kiến của Lucania đã thành sự thật. Anh đã liên tiếp vớ những món bẫm trong nghề buôn lậu rượu mạnh. Khu vực ảnh hưởng của anh mở rộng, đặc biệt từ vùng sông Hudson đến New Jersey. “Phải trừ Brooklyn ra. Đối với tôi, tôi coi Brooklyn như một xứ sở xa lạ và tôi để mặc vùng này cho hai ông bạn của tôi là Adonis và Scalise. Qua hai người này tôi thường xuyên nắm tình hình ở đó”. Cùng với Costello, Adonis và Scalise, Lucania hùn vốn vào những tiệm nhảy ở vùng Sawdust và Palisades. Anh cung cấp rượu cho những tiệm nhảy nào, đồng thời đó cũng là sòng bạc.
Lúc bấy giờ anh đã tập hợp thêm được nhiều đồng minh và nhờ đó anh đã có đủ lực lượng để chống trả với bất cứ thử thách nào. Anh biết rằng, anh tin tưởng hoàn toàn ở Zwillman và Moretti để bổ sung lực lượng
cho băng của Bug và Meyer Gang. Ngoài ra anh cần có những tay súng của Albert Anastasia, Dutch Schultz và lepke.
Anh cũng đã trở thành một nhân vật được chú ý. Rượu của anh thuộc loại ngon nhất và khách hàng của anh cũng thuộc loại giàu có và quyền thế nhất, hầu như tất cả những cây rượu ở vùng Manhattan đều dùng Whiskey của anh: Bất cứ cuộc hội hè nào, một bàn tiệc nào ở Park Avenue cũng đều uống rượu của anh. Ngay cả những tòa lâu đài và những biệt thự sang trọng ở Westchester Country và Long Island cũng đều là nơi tiêu thụ rượu của anh.
Điều anh thích nhất là một số khách hàng đã tìm cách làm thân với anh. Anh bắt đầu thích chơi khúc côn cầu tại một số câu lạc bộ sang trọng ở ngoại ô. Tất nhiên các quầy rượu của các câu lạc bộ này cũng bày toàn thứ rựợu của anh. Cảnh sát và các quan chức địa phương cũng đối xử với anh lễ phép hơn, nhất là những người thường xuyên nhận tiền của Costello. Người ta bắt đầu tâng bốc và chiều chuộng anh. Anh khám phá ra rằng cứ có tiền thì anh có thể mua bất cứ ai và làm bất cứ việc gì.
Một số gia đình thượng lưu bắt đầu mở cửa đón anh và anh là vị khách được người ta chú ý nhất. ‘‘Một trong những khách hàng sộp của tôi là một gã thuộc dòng họ Whitney, nổi tiếng trong thị trường chứng khoán. Anh ta là một cầu thủ bóng nước. Anh ta mời tôi đến ngôi biệt thự của anh ở Long Island, để xem anh ta chơi bóng nước và đồng thời cung cấp rượu cho bữa tiệc tôi hôm đó ở nhà anh ta. Mọi cô gái có mặt hôm đó đều quây lấy tôi và hỏi tôi: đã chặn cướp các đoàn xe chở rượu như thế nào? Thỉnh thoảng chúng tôi bắn nhau với cảnh sát Liên bang thế nào? Họ hỏi tôi đủ mọi chuyện đại loại như vậy. Họ nghe tôi kể chuyện một cách say sưa, mắt tròn xoe, làm như tôi là một ngôi sao màn bạc, đại loại như tài tử Douglas Fairbanks nổi tiếng hồi đó.
9
Charles Lucania đã ngoi lên một vị trí cao và quan trọng. Anh ăn mặc sang trọng, giao thiệp với những người lương thiện (và cả một số không được lương thiện lắm, sẵn sàng nhận tiền và làm việc cho anh). Anh xuất hiện nhiều ở những nơi công cộng, tươi cười, lịch thiệp và ăn nói nhẹ nhàng. Anh đã học được khá nhiều ở Rothstein. Bây giờ nhìn bên ngoài anh đã trở thành một con người của giới thượng lưu.
Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Còn bên trong anh là thủ lĩnh của một băng lớn. Nhưng anh không phải là thủ lĩnh ngồi ở ghế bành chỉ tay năm ngón. Trong những chuyến áp phe, anh vẫn thường giắt súng trong người, các vụ chặn cướp các đoàn xe chuyến rượu ít khi diễn ra một cách hòa bình, nhất là khi họ chặn cướp những chuyên rượu hảo hạng đáng giá hàng trăm đô la. Các vụ chặn cướp này nhằm hai mục đích: Một là, có rượu để bán cho khách hàng. Hai là làm suy yếu sức cạnh tranh của đối phương. Phần lớn các cuộc chặn cướp thường có đọ súng, có đổ máu và có người chết. “Nếu anh hỏi tôi có tự tay giết chết ai không, điều đó tuỳ cách anh nhìn vấn đề. Nếu như giết người có nghĩa tự tay tôi bóp cò súng để bắn vào người nào đó, thì câu trả lời của tôi là không. Chưa hề có một ai chết vì một viên đạn do tôi bắn. Tôi thường tìm cách cho một số người nào đó những trận đòn nhừ tử nhưng tôi không trực tiếp giết họ. Hơn nữa, nếu anh hiểu luật pháp, thì một người khuyên hoặc ra lệnh cho kẻ khác giết người thì tội người đó cũng nặng như người bóp cò súng. Vì vậy, tôi không dại gì làm điều đó”.
Lucania ngày càng tự tin cho rằng mình là vô địch. Anh hiểu rằng anh có thể ngẫu nhiên bị bắt hoặc bị gọi đến một đồn cảnh sát gần đấy. Cảnh sát có thể hỏi cung anh khi có một vụ cướp hoặc giết người xảy ra hoặc thậm chí khi có một vài viên chức muốn tự quảng cáo là mình đóng góp
tích cực cho cuộc đấu tranh chống tình trạng tội ác trên đường phố của New York. Nhưng các cuộc hỏi cung này chỉ là hình thức và người ta thường không giữ anh lâu. Bởi vì nói cho cùng không có lời nào buộc tội và tố cáo anh cả. Mỗi lần anh được thả ra, đều kèm theo lồi xin lỗi của cảnh sát, vì đã gây phiền hà cho anh.
Nói cho cùng, đó là công của Costello và cái ngân hàng của anh ta. Có nhiều lần anh bị bắt giữ chỉ vì một lý do rất đơn giản là viên chỉ huy cảnh sát của khu vực muốn có dịp nói chuyện riêng với anh để đòi thêm tiền. Chỉ trừ có một trường hợp xảy ra vào đêm Noel 1922. Đêm hôm trước, một chuyến tàu chở rượu đã cập bến. Lucania đã đến bờ biển Jersey để chỉ huy việc bốc dỡ. Trên đường trở về New York, anh dừng lại để nói chuyện với Willie Moretti, nhận 25.000 đô-la mà Moretti và Zwillman nợ anh: “Tôi gặp Willie đi chiều hôm đó ở ngoại ô thị trấn Jersey. Trên xe của tôi chất đầy quà tôi mua về cho gia đình. Tôi đã hứa với anh tôi sẽ trở về nhà khoảng 4 giờ. Mẹ tôi đã chuẩn bị bữa cơm đặc biệt đón tôi và bà cũng muốn khoe tài nấu nướng theo kiểu Mỹ của bà. Nếu tôi làm bà thất vọng, bà sẽ buồn và ông bố tôi có thể giết chết tôi ngay”.
Khi Lucania và Moretti mới bước ra đường thì đã có hai cảnh sát của bang New Jersey chờ sẵn. “Trong người tôi còn cả khẩu súng mà tôi mang theo đêm qua. Thế là họ bắt chúng tôi về trụ sở cảnh sát bang New York. Trong phòng có một gã ăn mặc giống như một ông tướng. Hắn đứng dậy vồn vã bắt tay Willie. Hoá ra hắn là người của Willie. Hắn nói với Willie: “Tôi rất lấy làm tiếc là phải lập biên bản vì anh cùng đi với một người mang súng trái phép”. Moretti trả lời: “Được thôi”. Còn tôi thì cười với viên cảnh sát: “Thưa trung uý, tôi rất hân hạnh được biết anh là bạn của Moretti”. Thế là hắn trừng mắt nhìn tôi và nói: Nhưng tôi không phải là bạn
của anh, ngay đêm qua anh đã cho lên bờ của bang tôi một số rượu rất lớn.”
“Tôi biết ngay tôi phải làm gì rồi. Hoặc là tôi phải mua một người bạn mới, hoặc là tôi phải nằm lại ở đây suốt đêm. Lúc đó đã gần 4 giờ, tôi tưởng như đã nghe tiếng ông bố tôi chửi rầm lên ở nhà. Thế là lão trung úy lập biên bản. Tôi đã rút cho hắn 10 tờ nghìn, lấy trong số tiền Willie vừa trả cho tôi. Thế là mọi việc êm đẹp”. Lucania đến nhà vào khoảng 7 giờ. “Cả nhà không ai nói một tiếng nào. Mọi người đều nhìn về phía bố tôi. Còn ông, nhìn về phía bàn tiệc đã nguội lạnh. Tôi đứng sững giữa buồng, hai tay ôm một đống tướng những món quà Noel. Tôi bực mình ném mọi thứ xuống sàn nhà và nói: “Có đủ quà cho tất cả mọi người đấy”. Tôi giúi vào tay Bác, em trai tôi, một phong bì tiền và nói với nó: “Hãy đưa cho bố khi nào bố hết giận”. Nói xong tôi quay gót và đi thẳng. Suốt 6 tháng liền sau đó, tôi với bố tôi không hề nói với nhau một lời nào”.
Vào khoảng năm 1923, Lucania đã bắt đầu quá tin vào thế lực của mình và bắt đầu coi thường pháp luật. “Tôi đã làm một việc mà trước đó tôi chưa từng làm cũng như sau này không hề tái phạm. Tôi đã có cơ man nào là tiền, tiền do buôn lậu rượu, tiền nhớ gá bạc, tiền của các đàn em nạp. Ấy thế mà tôi vẫn còn tham muốn kiếm tiền nhiều tiền hơn. Thế là tôi tự dẫn mình vào bẫy như một thằng ngốc.
Tháng 6 năm 1923, Vito Genovese, đưa một người đến gặp tôi. Tên anh ta là Charles Lagaipa. Người ta thường gọi hắn là Charles mũi to và cứ mỗi lần hắn mua rượu là hắn cứ đưa rượu lên mũi hít hít như một con chó. Tôi nói với Vito là anh ta đừng nói chuyện với tôi nữa vì tôi không muốn dính vào chuyện buôn lậu thuốc phiện. Chỉ một lần tôi đã cạch đến già”. Nhưng Genovese đảm bảo cho Lucania là không cho chuyện gì đáng lo cả. Lagaipa cần 20.000 đô-la để mua một số thuốc phiện. Và số tiền đó sẽ trở thành
150.000 đô-la. Nếu Lucania chịu bỏ vốn, thì anh ta sẽ được hưởng 60% số lãi. Công việc xem ra như ngon ơ. Số thuốc phiện đã đóng hòm sẵn và Genovese còn nói: “Nếu cần thì anh cứ bảo Joe Adonis kiểm tra xem có đúng như tôi nói không”.
Lucania đồng ý. Và hậu quả của sai lầm này đến ngay sau đó. Ngày 5- 6-1923, anh bị bắt quả tang ở đường số 14 với hai túi đầy bạch phiến nguyên chất. “Hôm ấy, tôi qụả là điên rồ. Đáng lẽ tôi cử một cậu nào đấy trong số 50 đàn em của tôi, thì tôi lại quyết định tự mình đến nhận số hàng”.
Tất cả các mối liên hệ của Lucaniavà Costello trong số cảnh sát và toà án đều tỏ ra bất lực. Phòng Nha phiến không phải là nơi dễ hối lộ. “Trong đời, tội đã có lần dính đến thuốc phiện. Bây giờ, tôi cũng đã thành nổi tiếng. Và hình như cảnh sát Liên bang từ lâu đã chú ý đến tôi. Tôi đã tìm đủ cách để gỡ. Tôi đã hứa đủ mọi thứ nhưng họ cũng chẳng thèm để ý đến tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi, mọi việc đang tốt đẹp bỗng có thể hỏng bét”. Khi mọi cố gắng để hối lộ đều thất bại, Lucania nảy ra một ý mới. Điều này có thể làm anh ta mất đứt ít nhất 75.000 đô-la, nghĩa là toàn bộ số lãi của chuyến thuốc phiện lậu này. Thậm chí còn hơn nữa. “Nếu tôi không hối lộ được họ thì chỉ còn tôi phải làm việc gì đây để họ có thể nhân nhượng cho tôi. Khi họ đưa tôi đến đồn cảnh sát, tôi đã đề nghị và họ cho phép tôi gọi điện thoại. Tôi không gọi cho luật sư của tôi mà gọi cho thằng Bart em tôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Sicily. Tôi dặn Bart đến một nơi nào đấy ở Little Italy và chuyển một cái hòm nào đó đến một nơi nào đó mà không cần nhìn xem trong hòm có gì”.
Khoảng một giờ sau, cảnh sát bắt đầu thẩm vấn Lucania. Cho đến chiều, khi anh ta chắc chắn là Bartolo đã thực hiện xong những điều anh dặn, Lucania bỗng nhiên nói với những người thẩm vấn là anh muốn
thương lượng với họ một việc. Nếu họ đồng ý không truy tố anh, thì anh sẽ dẫn họ đến một nơi có cất giấu một thùng đầy bạch phiến nguyên chất. Đây là một đề nghị quá bở đến với phòng Nha phiến. Mặc dầu Lucania không phải khai ra một người nào và không một ai sẽ bị bắt, nhưng phòng Nha phiến có thể bắt được một món bẫm, đồng thời họ có thể tung tin là Lucania đã trở thành người phản thùng. Thế là họ đồng ý. Lucania bảo họ đến một nơi ở đường Mulberry, ở chỗ đó họ sẽ tìm thấy một hòm đựng hàng trăm gói bạch phiến. Trong khi Lucania ngồi chờ ở nhà giam thì các nhân viên phòng Nha phiến phóng xe đến Little Italy và đã tìm ra hòm thuốc phiện mà Lucania đã chỉ. Anh khỏi bị truy tố và được thả tự do. Bài học đó quả thật là quá đắt. Anh mất cả vốn lẫn lãi. Còn Lagaipa thì vớ được món bẫm. “Mãi về sau, tôi mới biết rằng bọn họ chỉ mới đưa cho tôi một nửa số hàng thôi, Còn một nửa kia, họ đã bán chót lọt, và họ đã kiếm được ít nhất 50 nghìn đô-la lãi với số vốn mà tôi đã bỏ ra. Nhưng điều tệ hại nhất là từ đó, tôi bị coi là một tên buôn thuốc phiện lậu, thậm chí là người cầm đầu. Tôi đã cố gắng hết sức, nhưng không thể nào xoá được cái nhãn hiệu tệ hại này. Sau này, mặc dầu nhiều người trong băng của tôi có đề nghị tôi tham gia buôn thuốc phiện lậu nhưng không bao giờ tôi chấp nhận sau lần dại dột đó”.
6
T
uy Lucania thoát khỏi án tù dài hạn về tội buôn thuốc phiện lậu nhưng đối với anh, đó là bài học nhớ đời. Anh không còn quá tin vào sức mạnh cũng như quyền lực vô hạn của mình mặc dầu bạn bè khắp nơi chúc mừng và khen ngợi anh đã tỏ ra khôn khéo để khỏi phải lãnh án.
Nhưng việc anh bị bắt đã được công bố và tôi thấy hổ thẹn không dám giáp mặt những bạn bè mà tôi vừa làm quen trong giới thượng lưu. Tôi nặn óc nghĩ cách để có thể nối lại mối quan hệ với những người này một cách đàng hoàng. Hơn nữa, suốt cả mùa hè tôi thường xuyên bị cảnh sát kiểm tra và hàng ngày tôi phải đến khám bệnh ở nhà một bác sĩ thần kinh vì đó là một trong những điều kiện mà tôi phải chấp nhận để tôi khỏi bị truy tố. Tôi không muốn đi đâu, ngay cả việc bán rượu ở đại lộ Park Avenue hoặc tiếp xúc với bạn bè. Tôi sống như một tu sĩ.
Một hôm, Julie Bache ở phô Wall Street gọi điện thoại cho tôi. Tôi vốn là người cung cấp rượu cho ông ta và tất cả bạn bè của ông. Tôi biết ông rất mến tôi. Bache chỉ hỏi có một câu: “Lucania, có thật là anh dính líu sâu vào chuyện buôn bán thuốc phiện phải không?”. Tôi trả lời ông ta: “Chỉ một lần dính vào việc buôn thuôc phiện lậu cũng là quá ngốc rồi”, ông ta bảo ông ta tin tôi và mời tôi đến gặp ông ta. Điện thoại của Bache là tín hiệu mở đầu. Ngay ngày hôm đó Adonis cũng gọi điện đến và mời Lucania tối hôm đó cùng đi đến tiệm nhảy Follies, tất nhiên Adonis sẽ trả tiền thuê gái. Thế rồi Meyer Lansky xuất hiện và mời Lucania đi ăn cơm Do Thái ở
khu Đông. Tôi bật cười và nói với Mayer: Anh hãy nói thật với tôi, thật sự anh muốn cái gì?” Lansky đề nghị Lucania bắt đầu áp dụng “quy tắc Lansky” để xoá dần những tiếng xấu và giành lại uy tín đối với mọi người. Anh ta nói “Ngay hôm nay, anh cần phải gây ấn tượng đối với rất nhiều người. Anh có biết cả thành phố này đang chú ý cái gì không?”.
- Có phải anh muốn tôi trở lại...
- Tôi không nói chuyện buôn bán. Tháng sau, sẽ có tổ chức trận đấu quyền Anh và mọi người ai cũng muốn có vé đi xem trận đấu này. Nhưng có được vé đâu phải dễ? Anh có biết anh nên làm gì không?
Đêm 14-9-1923, 82.000 khán giả chen chúc nhau ở Polo Grounds, New York, để chứng kiến nhà vô địch quyền Anh hạng nặng Jack Dempsey đánh bại đối thủ người Argentina Luis Angel Firpo nổi tiếng là “cơn lốc của vùng đồng cỏ Pampas”. Trận đấu chỉ kéo dài 2 hiệp. Ngôi sao sáng thứ ba trong đêm hôm đó chính là Charles Lucania, trùm buôn rượu lậu mà mới đây dư luận xôn xao về vụ dính líu vào việc buôn thuốc phiện lậu. Trong trận đấu hôm ấy, hơn 200 người và khách mời của anh, chiếm cả một khu ghế đắt tiền ở phía đầu.
“Tôi đang nói chuyện với Meyer thì Ben Gimbel ở a Philadelphia gọi điện đến. Bố hắn là một trong những ông chủ của hệ thống cửa hiệu lớn, còn hắn cũng trạc tuổi tôi, là một tay chơi. Hắn thường từ Philadelphia đến New York, và đi đâu cũng có cả một bầy con gái quấn quít lấy hắn. Chúng tôi quen nhau từ đó. Hắn gọi điện thoại hỏi tôi có thể kiếm cho hắn 2 vé đi xem trận đấu Dempsey Firpo không? Hắn cũng như gia đình hắn là những khách hàng quen thuộc của chúng tôi và của Waxey ở Philadelphia. Hắn bắt đầu câu chuyện, hỏi tôi về các tin tức đăng trên báo về vụ thuốc phiện lậu và hắn muốn biết ý kiến tôi về vụ đó như thế nào. Việc con trai của một gia
đình nổi tiếng như hắn gọi điện thoại cho tôi sau những việc đã xảy ra làm tôi rất vui lòng. Tôi đã biếu không hắn 2 vé”.
Nhưng vấn đề trước hết là phải làm thế nào kiếm đủ vé cho bạn bè quen biết? Ngay đêm hôm đó, sau khi rời tiệm nhảy Follies, tôi đến gặp Bill Corum, một phóng viên thể thao nổi tiếng. Tôi nói: “Này Bill, tớ cần một số vé xem trận đấu Dempsey Firpo”. Hắn vừa cười vừa nói với tôi: “Anh nói sao dễ dàng thế”. Tất nhiên tôi cũng biết không phải dễ dàng gì, tôi nói với hắn: “Tôi muốn tất cả vé trong hàng ghế của các anh”. Khi hắn nhận thấy tôi nói nghiêm túc thì hắn đâm hoảng: “Trời, Charles, anh muốn tôi lấy hết vé các phóng viên của 20 tờ báo có thế lực? Anh có biết chuyện gì sẽ xảy ra không, và họ sẽ ngồi ở đâu?”. Tôi trả lời: “Ngồi đằng sau tôi, ở khu thứ hai, Còn tôi muốn 180 vé ở 5 hàng đầu. Anh có thể làm được việc này không? Bao nhiêu tiền cũng được. Anh phải chạy cho tôi số vé đó. “Tôi không biết Bill đã xoay xở thế nào, chỉ biết hai hôm sau, hắn trao cho tôi đủ số vé ở những hàng ghế tôi cần. Tôi phải trả 25.000 đô-la nhưng không bao giờ tôi thấy hối tiếc việc này”.
Cùng với Costello, Lansky, Siegel và các bạn bè khác, Lucania tung tin là anh sẽ mời 100 người đi xem trận đấu. “Thế là chỉ trong 24 tiếng đồng hồ tôi trở thành người nổi tiếng nhất nước Mỹ. Và từ khắp nơi, người ta gọi điện thoại cho tôi. Bản danh sách ngày càng dài, bao gồm đủ hạng người, các chủ hãng rượu, các chính khách, viên chức cao cấp cả cảnh sát, và nhiều nhân vật có thế lực khác. Tất cả có khoảng 600 tên. Nếu như mỗi người nhận 2 vé thì cần phải có 1.200 vé.
“Chọn lọc trong danh sách dằng dặc và tách ra cho được 100 tên, tức 200 vé, thật là một việc khó khăn. Rất nhiều người tức giận vì đã loại ra khỏi danh sách nhưng chúng tôi buộc phải chọn những người có lợi nhất. Điều quan tâm thứ hai của Lucania là phải diện như thế nào cho thật xứng
với cái đêm thắng lợi đó. “Thế là hôm sau, tôi cùng với Arnold Rothstein đến cửa hiệu của John Wanamaker. Tôi nói với Arnold là có lẽ tôi nên đến cửa hiệu của ông già Ben Gimbel. Nhưng Arnold bảo tôi, những thứ tôi cần chỉ tìm ra ở cửa hiệu John Wanamaker”.
Ở cửa hiệu, Lucania chọn toàn những thứ sang trọng và mỗi thứ mua liền hai, ba chiếc. Rothstein khuyên anh là đừng mua những thứ may sẵn mà phải sắm toàn những thứ đo may. “Anh phải mặc vừa thật sang trọng vừa thật chững chạc”. Lucania chẳng hiểu gì về ý định của Rothstein cả. Thứ duy nhất Lucania không mua hôm ấy là ca-vát.
“Arnold đã biếu tôi hàng tá ca-vát Pháp mang nhãn hiệu Chavet. Người ta bảo với tôi đó là loại ca-vát sang nhất ở Pháp và cứ mỗi lần đi Paris, hắn thường mua hang trăm ca-vát như vậy. Hắn cũng thường mua lụa may áo sơ-mi, thứ lụa sản xuất ở nơi nào đó ở Pháp tên gọi là Sulka và hắn thường biếu chúng tôi một ít. Chính vì vậy mà tôi bắt đầu có quen mặc áo sơ-mi lụa, các thứ đồ lót bằng lụa.
Đêm đi xem trận đấu, tôi mặc bộ đồ oxford màu xanh sẫm, một chiếc sơ-mi lụa trắng, thắt một cái ca-vát lụa xanh sẫm. Tôi choàng chiếc áo gấm Cavanagh bởi vì hôm đó hơi rét. Tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Rothstein trong cách ăn mặc. Từ đó về sau, tôi thường mặc áo quần màu xanh sẫm và hầu như chỉ có một lần tôi mặc bộ suit màu xanh sáng”.
Lucania ngồi ở ghế số 1 hàng A. Các nhân vật tai to mặt lớn trong giới chính trị, sĩ quan cảnh sát cao cấp, thẩm phán, tài tử điện ảnh, vận động viên thể thao nổi tiếng, tấp nập đến bắt tay, trò chuyện với Charles Lucania và họ giới thiệu vợ, con họ với anh.
“Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy mình thật sự có quyền lực. Tôi đã hằng mơ ước sẽ có một ngày những vị tai to mặt lớn của New York đến chào tôi và cảm ơn tôi về những chiếc vé mà ngay cả bạn bè có thế lực của
họ cũng không kiếm ra được. Quả là một sự kiện lớn, khi Dick Enright, chánh mật thám của thành phố, đã đến bắt tay và hỏi thăm sức khỏe tôi. Cùng đi với ông ta có cả cảnh sát trưởng Bill Lahey. Tại sao lại không? Cả hai đều nằm trong danh sách những người nhận tiền của tôi. Trong danh sách các vị khách của tôi có đủ các loại người có thế lực như: Jimmy Hines và Al Marinelli của khu Tammany Hall; Kenny Sutherland, một nhân vật chính trị của vùng Brooklyn và sau này sẽ trở thành thủ lĩnh đảng Dân chủ ở vùng này: Flo Ziegfeld và Earl Carroll. Về sau, hai tay này nói với tôi là trước đây họ chưa từng quen biết nhau, nhờ tôi mà họ trở thành thân thiết với nhau. Còn Bill Vare, thủ lĩnh đảng Cộng hòa vùng Pennsylvania thì không ngớt lời cảm ơn tôi về hai chiếc vé. Về sau, hắn có phạm sai lầm là đã ra ứng cử thượng nghị sĩ, trong khi tốt hơn hết, là hắn cử người của hắn ra làm việc này. Tất nhiên hắn vẫn trúng cử, nhưng sau đó Thượng nghị viện ở Wasington đã tống cổ hắn ra. Còn Jim Pendergast ở Kansas City thuê hẳn một chuyến xe lửa riêng đến xem trận đấu và khi ngang qua Chicago, ông ta mời các khách của tôi cùng đi.
“Tất nhiên, tôi cũng mời cả những chiến hữu của tôi. Toàn bộ các trùm gangster của vùng Philadelphia đều có mặt. Một số lớn những tay trùm vùng Boston cũng đến dự trong đó có King Solomon là người chuyên chở rượu từ Canada về cho chúng tôi. Tôi cũng đã biếu Al Capone hơn một chục vé nhưng cái thằng ích kỷ này không chịu chia cho Johnny Torrio một vé nào cả. Vì vậy Johnny phải ngồi cùng hàng ghế với tôi còn Al Capone thì lại ngồi ở hàng ghế thứ ba và anh ta hết sức bực mình vì chuyện này. Như vậy 200 chiếc vé của tôi đã được chia cho đủ các hạng người, từ bọn gái điếm đến bọn hoạt động chính trị, từ những tay anh chị ngoài đường phố cho đến các ngài ở phố Delancey. Tôi chủ trương là kết bạn ở khắp nơi.”
Trước khi trận đấu bắt đầu, Salvatore Maranzano đã từ hàng ghế của ông ta đi bộ qua vũ đài để chào Lucania. Hai người thân mật chào nhau, nói chuyện với nhau một cách bình đẳng. Trong khi đó, Dempsey cũng đi tới trong tiếng la ó ầm ĩ, Maranzano ghé tai nói với tôi: “Tôi có một áp-phe muốn bàn với anh”.
- Lại chuyện như vừa rồi chứ gì?
Maranzano lắc đầu:
- Không. Món này bở hơn. Rồi anh sẽ thấy.
- Anh cứ nói đi.
- Được, chúng ta sẽ gặp nhau để bàn.
- Địa điểm?
- Tại cửa hiệu của tôi. Ở đấy dễ chịu lắm nẽu anh đồng ý”. Hai ngày sau, Lucania có Frank Costello đi cùng, đã đến đại bản doanh của Maranzano ở Little Italy gần cầu Brooklyn. Anh cố tình đưa Costello đi theo để thử xem thái độ của Maranzano có gì thay đổi đối với những người “ngoại tộc”, nghĩa là không phải người Sicily không. Maranzano vui vẻ chào đón họ. Hắn quàng vai Charles Lucania và đưa hai người vào phòng trong. Trong câu chuyện Maranzano tỏ ra rất vồn vã. Hắn tuyên bố, hắn rất sung sướng vì Lucania đã nhận lời mời của hắn, lại đưa Costello cùng đến: rằng từ lâu hắn mong muốn được nói chuyện với một chiến hữu ngày càng nổi tiếng, với một người có những mối quan hệ tuyệt vời và một sự tinh tế không ai so sánh được.
Họ nâng cốc chúc sức khỏe nhau và chúc sự thành công của cuộc gặp gỡ. Maranzano mở đầu câu chuyện: “Tình hình hiện nay là chúng ta giẫm chân lên nhau. Chúng ta cạnh tranh nhau trên những thị trường rượu Whiskey chung. Tai hại thay, người của chúng ta bắn giết lẫn nhau. Đó là
điều điên khùng, vừa làm chúng ta mất biết bao tiền vừa cũng mất bao nhiêu chiến hữu tôt. Đã đến lúc cần giải quyết”.
Lucania trả lời: “Maranzano, anh hãy nghe tôi nói. Chắc chắn không phải anh mời tôi đến đây để đọc kinh thánh cho tôi nghe về điều phải, điều trái. Anh hãy nói thật, anh muốn cái gì?”.
Vẫn giữ giọng thân mật, Maranzano nói tiếp: “Tôi muốn anh gia nhập gia đình Maranzano, anh có thể trở thành như con tôi, mà lại là con cưng nữa”. Costello và những người Ý khác sẽ được chấp nhận, còn Lansky và Siegel vì là người Do Thái nên không được chấp thuận. Lucania muốn sử dụng họ sau này thì điều đó không bị ngăn cấm. Tóm lại, Maranzano nói lão sẵn sàng tỏ ra rộng lượng và lão quý tôi như đứa con nhỏ của lão”.
Chỉ một từ ấy thôi cũng đủ khơi dậy tất cả ác cảm từ lâu của Lucania đối với Maranzano, bởi vì chỉ có bố mẹ anh mới nói với anh như vậy hồi anh còn nhỏ. “Còn lão già này có quyền gì mà tự coi mình như bố tôi? Lão đã giở cái trò bố con với tôi. Tôi giận run cả người và tưởng như sẽ bắn chết lão ngay tại chỗ”.
Nhưng Lucania đã giằn mình xuống và tiếp tục nghe Maranzano nói rõ hơn: Charles Lucania có thể trở thành nhân vật thứ hai trong gia đình Maranzano. Maranzano sẽ giao cho anh trông coi toàn bộ công việc trong tương lai, Maranzano sẽ không dính vào việc kinh doanh và Lucania sẽ toàn quyền hành động. Như vậy chỉ một bước, theo lời Maranzano, Charles Lucania sẽ trở thành vua Whiskey ở New York.
Cho đến nay Costello không hề nói một lời, hắn chỉ ngước mắt nhìn Lucania. Lucania gật đầu rồi quay về phía Maranzano: “Nghe anh nói tôi tưởng như chúng ta đang đứng trên đỉnh một ngọn núi của Sicily. Nếu thế, bây giờ chúng ta hãy xuống núi. Anh có muốn như vậy không?”.
Maranzano vẫn tiếp tục nói: “Thanh niên bao giờ cũng vội vàng. Họ muốn cái gì là muốn đạt được ngay, và bao giờ cũng muốn chia tài sản chung một cách bình đẳng. Để bù lại cho Lucania những thiệt hại do việc hợp nhất việc buôn lậu Whiskey. Maranzano đề nghị Lucania sẽ nhận một tỷ lệ phải chăng trong những thu nhập khác của Maranzano như: vé xổ số riêng cho người Ý, các vụ trộm cướp được tổ chức một cách hoàn mỹ và một số nguồn thu nhập khác. Maranzano kể lể: “Chúng tôi có những nguồn thu nhập hợp pháp. Chúng tôi có cổ phần ở Manhattan, ở Flatiron Building, chúng tôi là những nhà nhập khẩu lớn có đủ thực phẩm và dầu ô liu cho anh em người Ý và chúng tôi còn có thể thu nhập to hơn nữa sau khi loại bỏ được mối cạnh tranh ở Bronx”. Một trong những người cạnh tranh với Maranzano là Ciro Terranova, một trùm Mafia, một thời nổi tiếng dưới biệt hiệu “Vua Hướng dương”.
“Lão vừa nói vừa dạo bước quanh phòng. Và khi câu chuyện chấm dứt thì lão quay lại phía chúng tôi tưởng chừng như chờ đợi chúng tôi vỗ tay ca ngợi lão. Tôi tưởng như lão ta vừa đọc xong một bài diễn văn ở Thượng viện La Mã ngày xưa. Tôi hiểu, lời lão nói với tôi chẳng ra cái gì. Frank và tôi ngồi im lặng”.
Khi hiểu ra là Lucania chưa muốn trả lời ngay, Maranzano đề nghị anh hãy suy nghĩ một thời gian và thảo luận kỹ với bạn bè, lão tin rằng đề nghị hào hiệp của lão chắc chắn sẽ được chấp nhận.
“Tôi tự nhủ, tôi không bao giờ muốn ép bạn bè tôi phải cưỡng bức nghe theo tôi”.
Khi trở về khách sạn Claridge, Lucania lập tức họp với Costello, Lansky, Siegel, Adonis và Genovese để hỏi ý kiến họ. Adonis quay về phía Costello và hỏi ý kiến anh ta là người đã chứng kiến cuộc gặp gỡ.
“Frank nói cảm tưởng của anh ta và tôi nhận thấy mọi người đồng tình với anh, trừ Lansky. Tôi hỏi tại sao thì Lansky đáp: “Thối lắm”. Mọi người tỏ ra giận dữ. Frank cũng nổi nóng và nói với Lansky: “Dù cho cái đầu của anh giống như một bàn tính, anh cũng không thể tưởng tượng được chúng ta sẽ làm ăn to như thế nào”. Tôi ngắt lời hắn, nói với mọi người: “Tại sao lại cãi nhau? Các anh đều biết là thiện chí của Maranzano sẽ không kéo dài quá hai ngày. Không cần phải có một bộ óc thông minh cũng có thể hiểu rằng ngay từ phút đầu chúng ta gia nhập gia đình Maranzano thì thằng béo ị, con lợn sề ấy sẽ diệt luôn chúng ta”. Mọi người im lặng. Mãi sau, Genovese mới lên tiếng: “Charles nói đúng, Maranzano không thể nào để cho một chàng trai có bộ óc như Charles sống sót”.
Điều làm cho Maranzano quản ngại không phải là bộ óc của Lucania mà chính là những tham vọng của anh ta. Rõ ràng là Lucania như một ngôi sao đang lên, và quyết tâm lên tận đỉnh cao và sẵn sàng dùng bất cứ thủ đoạn nào để đạt được mục đích đó. Bất cứ ai có khả năng trở thành một trở lực chặn ngang đường sẽ có ngày gặp nguy cơ nghiêm trọng. Nếu như giả thiết của Lucania là đúng đắn, Maranzano quyết định loại trừ anh khi anh còn chưa đủ lông đủ cánh. Và âm mưu này sẽ được thực hiện dễ dàng hơn nếu kiểm soát được Lucania hơn là để anh ta tiếp tục là một lực lượng độc lập được những đồng minh hùng mạnh bao bọc và che chở.
Lucania nói cho bạn bè biết rõ suy nghĩ của anh về Maranzano và để nghị họ quyết định xem ý kiến anh từ chối đề nghị của Maranzano là một y kiến đúng đắn dựa trên những cơ sở vững chắc, hay chỉ là một ý kiến xuất phát từ ác cảm của anh đối với Maranzano? Ý kiến thống nhất là trong trường hợp này tình cảm và thực tế phù hợp với nhau.
"""